Sơ Tổ: Tôn Giả Ma-Ha Ca-Diếp


 

Linh sơn niêm hoa truyền tâm ấn

Phá nhan vi tiếu trực thừa đương

Tổ tổ pháp đăng chiếu sa giới

Tăng tăng huệ mạng mãn đại thiên

Kim sắc đầu đà cà sa tràng

Di Lặc tôn Phật tục thánh điền

Ma-ha Ca Diếp công huân đại

Tận vị lai tế ân vô biên.

 

Linh sơn niêm hoa truyền tâm ấn 

Nở mặt mỉm cười tự đảm đương 

Đèn pháp lan truyền Hằng sa giới 

Huệ mạng tăng già khắp đại thiên 

Cà sa cờ pháp khởi đầu đà 

Di Lặc nối theo gieo ruộng thánh 

Ma-ha Ca-Diếp công lao lớn 

Đến tận vị lai ơn vô biên.  

 

                      Tuyên Hóa Thượng Nhân tác

 


Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp

Đầu Đà Đệ Nhất

Hòa Thượng Tuyên Hóa

(TRÍCH TỪ KINH PHÁP HOA LƯỢC GIẢNG)

 

 

12 HẠNH ĐẦU ĐÀ

 

1. MẶC Y BÁ NẠP

2. CHỈ DÙNG BA BỘ ÁO

3. KHẤT THỰC

4. KHẤT THỰC CÓ THỨ TỰ

5. NGÀY ĂN MỘT BỮA

6. ĂN CÓ TIẾT LƯỢNG

7. QUÁ GIỜ NGỌ KHÔNG UỐNG NƯỚC CÓ CHẤT BỔ

8. Ở NƠI A LAN NHÃ

9. Ở DƯỚI GỐC CÂY

10. Ở NGOÀI TRỜI

11. Ở NGOÀI NGHĨA ĐỊA

12. LƯNG KHÔNG CHẠM ĐẤT

 

 

“Ma Ha Ca Diếp”: Ma Ha, nghĩa là “đại” (lớn); Ma Ha Ca Diếp chính là “Đại Ca Diếp”. Ca Diếp dịch là “ẩm quang”, còn gọi là “quang ba” ; lại còn một tên gọi nữa là “Đại Quy Thị”. Đại Quy Thị là họ của Tôn giả, vì tổ tiên của Tôn giả khi tu đạo, có một con rùa (quy) lớn ngậm một bức họa đến cho tổ tiên của Tôn giả xem, cho nên tổ tiên của Tôn giả mới lấy “Đại Quy Thị” làm họ cho giòng tộc. Nhưng theo người Trung Hoa mà nói thì “quy” luôn là chữ dùng để mắng người; ví như người Trung Hoa nói: “Mày là đồ con rùa”. Đây là câu mắng người. Họ của Tôn giả Đại Ca Diếp là “Đại Quy”, tên là “Tí Đa La”. Tí Đa La là tên của một loại cây, vì cha mẹ Tôn giả khấn cầu dưới cây này mà sinh ra Tôn giả, cho nên lấy tên cây làm tên cho Tôn giả.

Tại sao gọi là “ẩm quang”? Vì trên thân Tôn giả Ca Diếp có ánh sáng có thể che mờ tất cả các ánh sáng khác, giống như uống lấy tất cả các ánh sáng vậy. Tại sao trên thân Tôn giả phát ra ánh sáng? Bàn đến vấn đề này, lại có một công án. Vợ trước đây của Tôn giả chính là Tỳ kheo ni Tử Kim Quang. Vào thời Đức Phật Tỳ Bà Thi, sau khi Đức Phật này diệt độ, có người vì Phật lập tháp, xây chùa, tạo tượng thờ phụng. Nhưng trải qua một thời gian lâu sau, chùa bị hư hoại, tháp cũng đổ nát, không biết ai đó đã đội lên cho tượng Phật một chiếc nón lá để che mưa. Vì sao gọi là “chiếc nón lá”? Vì chiếc nón này dùng lá kết lại mà thành, đội lên đầu có thể che mưa. Vào mùa xuân ở phương Bắc của tôi, những người con gái trong gia đình đều dùng cây cao lương (một loại cây nếp dùng để cất rượu) kết nên loại nón như thế rồi đem ra thành phố bán; đội chiếc nón đó lên giống như che dù vậy, sẽ không còn sợ mưa.

Nhìn tượng Phật được đội lên một chiếc nón như vậy, có một cô gái thấy liền phát khởi tâm từ bi nghĩ rằng: “Mình nhất định phải xây một ngôi chùa cho Phật, Phật ở đây sẽ bị nắng táp mưa sa, tình trạng như vầy làm sao có thể được chứ? Mình nhất định sẽ thếp vàng cho tượng Phật!” Thế là cô gái đi khắp nơi hóa duyên. Cô gái là một người rất nghèo khổ, tiền xin được mỗi ngày, cô đều đem đi mua vàng, trải qua thời gian khoảng mười mấy năm, vàng cô tích lũy được rất nhiều; cô để dành được rất nhiều vàng, lần này có thể đủ để xây chùa và cũng đủ để thếp áo vàng cho Phật.

Cô liền mời một người thợ kim hoàn, nấu vàng chảy ra, rồi thếp lên tượng Phật. người thợ kim hoàn nhìn thấy cô có nhiều vàng như thế, liền hỏi: “Làm sao cô có được nhiều vàng như vậy?” Cô gái trả lời: “Lúc trước, nhìn thấy áo vàng trên thân của tượng Phật này bị tróc ra hết, tôi liền phát tâm đi hóa duyên, trải qua hơn mười mấy năm mới để dành được nhiều vàng như vậy.” Cô vừa nói như thế, người thợ kim hoàn liền phát tâm nói rằng: “Công đức này không chỉ một mình cô làm, tôi cũng có một phần trong đó. Nó là của chung hai người chúng ta!” Kỳ thật người thợ kim hoàn này khi nhìn thấy cô gái phát tâm xây chùa, thếp áo vàng cho tượng Phật, có một tâm hạnh rất tốt, cho nên khởi tâm yêu mến cô gái. Đã sanh tâm yêu mến thì nhất định trước tiên phải lấy lòng cô gái, cho nên anh chàng mới nói công đức này là của hai người làm, chứ không phải chỉ một mình cô gái làm. Tổ sư Ca Diếp chắc chắn là có ý nghĩ như thế!

Thế là tượng Phật đã thếp xong, chùa cũng đã xây dựng hoàn tất, người thợ kim hoàn liền ngỏ lời cầu hôn với cô gái: “Tâm địa của cô thật tốt! Cả đời này tôi chưa từng gặp ai tốt hơn cô! Tôi vốn định sống độc thân suốt đời, hôm nay mới gặp được một người bạn tri âm, tri kỷ như cô, cô có bằng lòng kết hôn với tôi không?” Cô gái nghe xong liền nghĩ: “Ồ! Tâm địa của anh chàng cũng không tệ, mình mời anh ta đến thếp áo vàng cho tượng Phật, anh ta chỉ lấy một nửa tiền công. Tấm lòng của người con trai này thật tốt!” Nghĩ vậy, cô liền bằng lòng, hai người kết hôn với nhau. Kết hôn rồi vẫn không muốn rời, hai người liền phát nguyện đời đời kiếp kiếp đều muốn làm vợ chồng với nhau. Qúy vị thấy không! Loại mãnh lực ái tình này thật là ghê gớm! Hai người kiếp nào sanh ra cũng đều phải làm vợ chồng!

Do nhân duyên thếp áo vàng cho tượng Phật, nên trên thân hai người luôn phát ra ánh sáng màu vàng kim và cũng do vậy mà tên của tôn giả được gọi là “ẩm quang”, nghĩa là có khả năng nuốt hết tất cả các ánh sáng khác. Trong kiếp hiện tại, khi Tôn giả Ca Diếp vừa chào đời, trên thân đã có ánh sáng màu vàng; sau khi lớn lên, cha mẹ của Tôn giả muốn tìm một cô gái tốt cưới cho con trai mình, Tôn giả bảo: “Không thể được! Trên thân con có ánh sáng màu vàng, con nhất định phải tìm một cô gái cũng có ánh sáng màu vàng mới được; nếu không, con thà theo chủ nghĩa độc thân!” Sau đó, quả nhiên tìm thấy được môt cô gái trên thân cũng có ánh sáng màu vàng giống như Tôn giả tại một đất nước khác, hai người liền kết hôn với nhau. Lời ước nguyện quả thật không sai, khi hai người chứng được đạo quả A la hán liền thấy biết được đã từ nhiều kiếp hai người luôn làm vợ chồng của nhau. Nhưng thấy người ta làm vợ chồng với nhau, quý vị không nên hiểu lầm mà nghĩ rằng: “Sau này gặp được một người con trai, mình cũng sẽ cùng với anh ta phát nguyện như thế, là đời đời kiếp kiếp đều làm vợ chồng!” Người ta phát nguyện đời đời kiếp kiếp làm vợ chồng là vì vấn đề tu đạo; đời đời kiếp kiếp đều phải tu đạo, đều phải quy y Tam bảo và xuất gia. Qúy vị không nên phát nguyện đời đời kiếp kiếp cùng làm vợ chồng, vì càng làm càng xa đạo, đến một lúc nào đó sẽ rơi vào địa ngục! nhất định là phải có tu đạo mới được!

Do vậy mà Tôn giả Ca Diếp và vợ đều cùng quy y Phật, đều chứng được Thánh quả, Tôn giả làm vị Tổ sư đầu tiên; vị Tổ đầu tiên chính là Tôn giả Ma Ha Ca Diếp. Qúy vị có muốn nhìn thấy tôn giả Ma Ha Ca Diếp không? Tôn giả Ma Ha Ca Diếp hiện giờ vẫn còn ở trên thế gian, trong núi Kê Túc thuộc tỉnh Vân Nam Trung Hoa, Tôn giả vẫn đang tĩnh tọa, nhập định tại đó, đợi đến sau này khi Phật Di Lặc ra đời thành Phật, Tôn giả sẽ đem y bát của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giao lại cho Phật Di Lặc. Hiện tại Tôn giả vẫn chưa nhập niết bàn, vẫn chưa viên tịch, Tôn giả vẫn còn ở trên thế gian này. Qúy vị khi đến núi Kê Túc lễ bái tôn giả Ma Ha Ca Diếp, nếu ai có tâm thành thì sẽ được diện kiến Tôn giả.

Từ “ẩm quang” này, không phải nói là uống ánh sáng vào bụng, không hề có ý nghĩa này; mà là nói ánh sáng trên thân của Tôn giả có thể nuốt hết tất cả các ánh sáng khác. Ánh sáng này trên thân Tôn giả siêu vượt tất cả các ánh sáng; giống như ánh sáng của ngọn đèn điện 500W, khi tôn giả Ca Diếp đến chỗ này thì ánh sáng 500W kia sẽ không còn sáng nữa, ánh sáng trên thân của Tôn giả mạnh hơn 500W, có thể là 1000W, 2000W, thì sẽ uống được ánh sáng 500W này—không phải là dùng miệng uống, mà là ánh sáng trên thân Tôn giả phát ra vượt trội hơn bất kỳ ánh sáng nào, che mờ tất cả các ánh sáng khác, giống như nuốt các ánh sáng khác vậy. Mỗi người chúng ta đều phải hiểu rõ điểm này, không nên cho rằng tôn giả Ca Diếp không uống nước mà là uống ánh sáng, đây là cái hiểu lệch lạc.

Vị Tôn giả Ca Diếp này có tuổi đời lớn nhất trong số các đệ tử của Phật; tuy lớn như thế, nhưng tuổi càng cao Tôn giả càng minh mẫn, càng mạnh khỏe, làm bất cứ việc gì đều không từ nan. Tôn giả vốn sinh trưởng tại nước Ma Kiệt Đề (Đà), cha mẹ đều là người rất có tiền, sự giàu sang có thể sánh ngang hàng với vua chúa, vua nước Ma Kiệt Đề lại muốn bái Tôn giả làm thầy; nhưng sau khi xuất gia tu đạo theo Phật, Tôn giả nghĩ: Người tu đạo phải “an bần lạc đạo, an bần lạc đạo”, không thể ham tiền, cho nên Tôn giả đem hết tài sản của mình ra bố thí, một thân tu đạo, chuyên tâm thực hành hạnh đầu đà khổ hạnh.

Thế nào gọi là “hạnh đầu đà khổ hạnh”? Tức là ăn cũng không ăn ngon, mặc cũng không mặc đẹp, ở cũng không ở chỗ tốt, tự mình phải kham khổ, nhẫn chịu lao nhọc, không được sợ khó. “Khổ hạnh” có nghĩa là càng khổ càng phải nhẫn thọ, phải kham chịu lao khổ. Tất cả những hưởng thụ của đời người đều không ngoài 3 thứ: y, thực, trụ. “Y” chính là y phục để mặc; “thực” chính là thức ăn để ăn; “trụ” chính là nơi để ở. Tôn giả đối với ba việc này luôn thích kham khổ. Tuổi của Tôn giả tuy lớn như thế, nhưng vẫn thực hành hạnh đầu đà khổ hạnh.

Có một hôm, Đức Phật đang thuyết pháp, Tôn giả đi đến, Phật liền nhường nửa tòa ngồi cho Tôn giả. Tòa ngồi rất lớn, Phật liền chia nửa tòa bảo Tôn giả rằng: ‘Ca Diếp, hãy đến ngồi bên cạnh Như Lai!” Tôn giả cùng ngồi với Phật. Vì sao Phật lại chia nửa tòa ngồi cho Tôn giả Ma Ha Ca Diếp? Vì lúc này tuổi của Tôn giả đã rất lớn, khoảng 140 tuổi. Phật khuyên Tôn giả: “Tuổi của ông đã quá lớn, tinh thần cũng sẽ không được sung mãn lắm; ông nên ăn thêm chút vật ngon, mặc thêm ít đồ tốt, ở phòng tiện nghi hơn một chút, không nên hành hạnh đầu đà nữa! Như vậy thật là vất vả! Tuổi ông đã quá lớn, sợ không kham nổi!” Tuy Phật đã khuyên như thế, Tôn giả cũng không nghe theo, vẫn thực hành theo hạnh đầu đà. Do vẫn thấy Tôn giả hành theo hạnh đầu đà, vẫn sống khổ hạnh, kham chịu nhọc nhằn như thế, nên Phật đã tán thán Tôn giả một cách sâu sắc rằng: “Pháp của Như Lai trụ lâu ở đời, phần lớn có liên quan đến sự thực hành hạnh đầu đà của Tôn giả Ca Diếp. Tôn giả Ca Diếp có thể thực hành hạnh đầu đà như thế, pháp của Như Lai chắc chắn có thể trụ lâu dài trên thế gian!” Cho nên ở trong số đệ tử của Phật, Tổ sư Ca Diếp là “Đầu đà đệ nhất”, đứng đầu về thực hành hạnh đầu đà.

Có một lần, lúc Đức Phật đang thuyết pháp, có một vị Phạm Thiên đem hoa Kim Ba La đến cúng Phật; vị Phạm Thiên này nằm dài trên đất, dùng thân làm tòa ngồi, thỉnh Đức Phật ngồi lên thân mình, thuyết pháp cho chúng sanh nghe. Phật liền ngồi lên mình Phạm Thiên, tay cầm đóa hoa đối trước trăm vạn chúng trời người mỉm miệng cười. Phật vừa mỉm cười, Trưởng lão Ca Diếp cũng mỉm cười theo, cho nên sự kiện này được gọi là “niêm hoa vi tiếu truyền” (truyền pháp bằng cách giơ đóa hoa lên mỉm cười); truyền cái gì? Truyền pháp môn tâm ấn của Phật. Phật bảo: “Như Lai có kho tàng con mắt chánh pháp, diệu tâm niết bàn, vô tướng thực tướng, truyền ngoài ngôn giáo, lấy tâm ấn tâm (chánh pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng, giáo ngoại biệt truyền, dĩ tâm ấn tâm) nay đem giao phó lại cho Tôn giả Ma Ha Ca Diếp.” Như Lai đã truyền pháp cho Ma Ha Ca Diếp, cho nên Tôn giả là Tổ sư đầu tiên tại Ấn Độ.

Thế nào gọi là “Tổ”? Phật đem tất cả phật pháp truyền lại cho đệ tử; người đệ tử được truyền pháp này gọi là Tổ Sư. Chế độ “Tổ” tại Ấn Độ là một đời chỉ truyền cho một người, gọi là truyền đơn, cho nên Phật chỉ truyền cho Ca Diếp, Tổ Ca Diếp lại chỉ truyền cho A Nan làm nhị tổ, nhị tổ A Nan lại truyền cho Thương Na Hòa Tu làm tam tổ, tam tổ Thương Na Hòa Tu lại truyền cho Ưu Ba Cúc Đa làm tứ tổ…; mỗi đời mỗi đời truyền xuống đều là pháp môn tâm ấn tâm này.

Từ Tổ đầu tiên truyền đến Tổ Bồ Đề Đạt Ma thứ 28; Tổ Bồ Đề Đạt Ma lại mang toàn bộ pháp môn tâm ấn của kho tàng con mắt chánh pháp, diệu tâm niết bàn, vô tướng thực tướng, truyền ngoài ngôn giáo đến Trung Hoa truyền cho Thần Quang làm nhị tổ; Nhị tổ Thần Quang lại truyền cho Tam Tổ, cứ thế truyền đến Tứ Tổ, Ngũ Tổ, cho đến Lục Tổ; về sau “hoa khai ngũ diệp” (một hoa nở ra năm cánh—chỉ cho Tổ Bồ Đề Đạt Ma là người Ấn Độ và năm vị Tổ kế là người Trung Hoa) mới chia ra thành năm tông phái lớn là “tông Lâm Tế, tông Tào Động, tông Quy Ngưỡng, tông Vân Môn và tông Pháp Nhãn” và cho đến hôm nay thì Phật pháp đã truyền đến phương Tây. Đây là ý nghĩa tổng quát của “sự truyền thừa giáo pháp từ Đức Phật đến chư Tổ”.

Vừa rồi giảng đến chữ “đầu đà”, thường người ở Trung Hoa gọi đầu đà là “đầu đà tăng”; vậy thì chữ “đầu đà tăng” phải giải thích như thế nào? Không chỉ nói người bình thường, mà một số người có học vấn, nhưng chưa nghiên cứu qua Phật học cũng đều không hiểu được ý nghĩa này, chỉ biết gọi là “đầu đà tăng”. Đầu đà là tiếng Phạn, dịch là “đẩu tẩu” (làm cho phấn chấn); “đẩu tẩu tinh thần” chính là một ngày bảy thời tĩnh tọa của chúng ta, chính là điều tôi thường nói “làm cho tinh thần phấn chấn lên”. Câu “làm cho tinh thần phấn chấn lên” là muốn quý vị không sợ khổ, sợ khó, càng khổ càng tiến tới, càng khổ càng phải làm, giống như Tổ sư Ca Diếp vậy. Qúy vị xem, Tổ sư Ca Diếp đã lớn tuổi như thế mà vẫn thực hành hạnh đầu đà, làm cho tinh thần phấn chấn lên. Ở đây chia hạnh đầu đà ra làm 12 loại:

 

1. MẶC Y BÁ NẠP

 

Thứ nhất, Trước bá nạp y, chính là nói y phục dùng để mặc. Mặc y phục gì? Mặc “nạp y” (y phục vá); trên y phục, trái vá một miếng, phải vá một miếng, vá víu không biết bao nhiêu mà kể, y phục như vậy gọi là “y bá nạp” hay “y phấn tảo”.

Tại sao gọi là “y phấn tảo”? Loại y phục này được tạo thành như thế nào? Đây là y phục mà người bình thường không chịu mặc, vứt nó vào bãi rác; thế là người xuất gia liền đến bãi rác, nhặt lấy những tấm vải rách bị quẳng vào đây, giặt sạch chúng, rồi nối lại với nhau làm thành y phục để mặc, đây gọi là “y phấn tảo”. Mặc loại y phục này có lợi ích gì? Nếu nói về mặt lợi tích cực thì có rất nhiều; nếu nói về mặt lợi tiêu cực cũng không ít. Tại sao nói có rất nhiều mặt lợi tích cực? Qúy vị mặc vào y phục này, bản thân đã không không khởi tâm tham, lại còn diệt trừ được tâm tham của chính mình và cũng sẽ không nói: “Qúy vị xem, tôi mặc bộ y phục này đẹp quá! Đáng giá nhất đây!” không khởi lên tâm kiêu ngạo, chế ngự được tâm tham của mình. Người xung quanh vừa nhìn thấy quý vị: “Ô! Vị tu hành này, mặc y phục rách rưới như thế, không mặc y phục đẹp! đây mới thật sự là người tu đạo, chúng ta nên học theo vị ấy!” Vậy là trừ diệt được tâm tham cho người; vì sức ảnh hưởng này của quý vị cũng sẽ khiến cho các Tỳ kheo khác đều phát khởi tâm đạo. Cho nên đã dừng được tâm tham của mình, lại còn dứt được tâm tham cho người, đây há chẳng phải là lợi ích sao? Quý vị nói xem lợi ích này có hạn lượng không? Cho nên nói lợi ích này rất lớn!

Lại nói đến mặt lợi tiêu cực cũng không ít, mặc lợi tiêu cực đó là gì? Quý vị mặc y phục rách này, bọn thổ phỉ cướp bóc chắc chắn sẽ không cướp đồ của quý vị. Như năm 1948, khi tôi còn ở tại chùa Nam Hoa thì có cướp đến cướp chùa, bọn chúng phá toang cửa tiến vào, bảo tôi đưa chi phiếu ra. Tôi bảo bọn chúng: “Các vị xem tôi mặc đồ như thế này có giống người có tiền không?” Bọn họ nhìn lại y phục tôi mặc—y phục tôi mặc lúc đó không lành lặn giống như y phục tôi mặc bây giờ. Y phục lúc đó chính là bộ đồ tôi mặc khi còn đang thủ hiếu bên cạnh mộ mẹ; sau khi thủ hiếu xong, tôi mặc mãi bộ đồ ấy để kỷ niệm mẹ tôi. Vì bộ đồ đó rách tả tơi, cho nên khi tôi còn ở Đông Bắc, những người đệ tử quy y với tôi đều muốn lắp thêm vào cho tôi một miếng vá vuông lớn; ai quy y với tôi cũng sẽ vá cho tôi một miếng, cho nên bộ đồ vá víu chằng chịt.

Ở chùa Nam Hoa, bọn cướp nhìn thấy tôi mặc chính là bộ đồ vá đó, tôi bảo họ vào phòng: “Trong phòng tôi có bảo vật, các vị hãy vào đó mà lấy!” Nhưng bọn họ lại không vào. Lúc đó, trong phòng tôi quả thật có 2 “bảo vật”—bảo vật sống đấy! Đó là 2 chú Sa di, lúc ấy hãy còn nhỏ. Do mặc đồ như vậy, cho nên bọ cướp sẽ không lấy đồ của quý vị. Lại còn, những người có tiền sẽ tránh quý vị rất xa; lại còn một điểm rất quan trọng là những cô gái cũng sẽ tránh quý vị rất xa. Quý vị tu đạo, luôn mặc bộ đồ như thế, sẽ có một mùi hương “rất thơm”; nhưng “mùi thơm” đó sẽ làm cho những cô gái bình thường cho là mùi thối, cho nên không thể không tránh xa quý vị một chút. Cho nên mặc y phấn tảo có rất nhiều lợi ích như vậy, ở đây tôi chỉ đơn cử một số như thế.

 

 

2. CHỈ DÙNG BA BỘ ÁO

 

Thứ hai, đản tam y. Đản chính là “chỉ có”; chỉ có ba y, không có những vật khác. Nên nói “bên mình không có những vật làm chướng ngại, thì bản thân không sanh khởi phiền não”; Tỳ kheo thực hành hạnh đầu đà, chỉ được phép có ba y. Ba y là:

Tổ y: là y lớn nhất trong ba y, còn gọi là “Đại y”. tiếng Phạn là “Tăng già lê”, dịch là “y 25 điều” (nhị thập ngũ điều y). 25 điều này, mỗi một điều có 4 ô dài một ô ngắn, tính chung có tất cả là 125 ô, đây là biểu hiện cho hình dáng của những thửa ruộng, cho nên còn gọi là “Phước điền y” (y ruộng phước). Khi đi vào cung vua, hoặc thăng tòa thuyết pháp hay ôm bát đi khất thực đều có thể đắp y Tổ này.

Thất y: Y 7 điều, trong mỗi một điều có 2 ô dài một ô ngắn, tổng cộng có 21 ô. Tiếng Phạn là “Uất đa la tăng”, dịch là “Nhập chúng y” (y vào trong chúng). Tại sao gọi là Y vào trong chúng? Tỳ kheo khi lễ bái, tụng kinh, dự trai đàn, nghe thuyết giảng kinh pháp đều phải đắp y này.

Ngũ y: Y năm điều, trong mỗi một điều có một ô dài một ô ngắn, tổng cộng có 10 ô. Tiếng Phạn là “An đà hội”, dịch là “Tác vụ y” (Y làm việc). Tác vụ chính là làm việc, chấp lao phục dịch; ở mọi lúc, mọi nơi đều có thể đắp y Ngũ này.

Tỳ kheo muốn thực hành hạnh đầu đà chỉ nên có ba y này. Cái gọi là “Tam y bát cụ” (ba y, bình bát, tọa cụ), tấm vải dùng trải lễ bái trên điện Phật gọi là “cụ”; chén Tỳ kheo dùng ăn cơm gọi là “bát”. Đây là 2 hạnh có liên quan đến vấn đề mặc y phục trong 12 hạnh đầu đà. Ngoài mặc y phục ra, cái quan trọng hơn, không gì quan trọng bằng ăn cơm—cái con người ta xem trọng nhất là mặc đồ và ăn cơm, ăn cơm lại quan trọng hơn mặc đồ. Cho nên có đến 5 loại hạnh đầu đà có liên quan đến vấn đề ăn uống.

 

 

3. KHẤT THỰC

 

Thứ ba, Khất thực: chính là ôm bát đi xin cơm, còn gọi là “Thường khất thực”. Là mỗi ngày đến giờ thọ trai, bèn đi xin cơm, chứ không tự mình nấu, nên ăn những thức ăn có sẵn—người ta làm xong, quý vị đến đó để xin. Ở các nước Xiêm La (Thái Lan), Miến Điện, Tích Lan, gia chủ làm cơm xong đều chuẩn bị riêng một bát đặt ở bên cạnh; vị tu sĩ nào đến trước thì sẽ khất thực ở đây, gia chủ quỳ trên đất, đội bát cơm chay lên đầu, sau đó trút vào trong bát của vị tu sĩ, tiếp theo khấu đầu 3 cái, biểu hiện cúng dường Tam bảo. Mỗi một gia đình ở các nước Xiêm La, Miến Điện, Tích Lan đều làm như thế để cúng dường Tam bảo.

 

 

4. KHẤT THỰC CÓ THỨ TỰ

 

Thứ tư, Thứ tự khất: là khất thực không được chọn lựa. Giống như trong kinh Lăng Nghiêm nói “ Tức thời Anan, chấp trì ứng khí, ư sở du thành, thứ đệ tuần khất. Tâm trung sơ cầu, tối hậu đàn việt, dĩ vi trai chủ, bất vấn tịnh uế, sát lợi tôn tánh, cập chiên đà la, phương hành đẳng từ, bất trạch vi tiện, phát ý viên thành, nhất thiết chúng sanh, vô lượng công đức.” Anan cầm lấy bình bát, trong lòng nghĩ rằng, ai cúng dường thức ăn cho ta, đó chính là trai chủ tối hậu của ta. Không quan tâm là sạch hay dơ, cũng không để ý là dòng dõi Sát đế lợi nhiều tiền hay giai cấp Chiên đà la nghèo hèn nhất; không hỏi giàu nghèo, không hỏi thí chủ là người có tiền hay không có tiền, cứ như thế khất thực, ban cho tất cả chúng sanh vô lượng công đức. Theo thứ lớp khất thực, tức là không có tâm phân biệt, thực hành bình đẳng, làm cho tất cả chúng sanh đều có cơ hội gieo trồng công đức, không có tâm lựa chọn, đây chính là chí công vô tư vậy.

 

 

5. NGÀY ĂN MỘT BỮA

 

 

Thứ năm, nhật trung nhất thực. Tức là buổi sáng không ăn, buổi tối cũng không ăn, chỉ ăn một lần vào buổi trưa. Ngày ăn một bữa là rất tốt, đáng tiếc là không dễ thực hiện. vì sao vậy? Người ta lấy ăn làm gốc, tất cả mọi người đều muốn ăn thức ăn, đều có ham muốn được ăn thức ăn, đói một chút liền nghĩ đến ăn. Sáng sớm dậy cũng đói, buổi tối cũng đói; cho nên tốt thì rất tốt (所以好是最好), nhưng không dễ gì làm được. Tốt cái gì? Giảm bớt được rất nhiều phiền toái; quý vị bớt ăn hai buổi sẽ giảm bớt được đại tiện, tiểu tiện vài lần. Công đức của “Ngày ăn một bữa” không thể nào kể hết. Tóm lại, quý vị ăn ít một chút sẽ ít phiền toái một chút; ăn quá nhiều, phiền toái sẽ càng nhiều.

Đặc biệt là lúc Tỳ kheo dùng cơm phải có 3 loại niệm và 5 loại quán tưởng. 3 loại niệm này là gì?

Nguyện đoạn nhất thiết ác: nguyện đoạn tận tất cả ác.

Nguyện tu nhất thiết thiện: nguyện làm tất cả điều lành.

Nguyện độ nhất thiết chúng sanh: Nguyện độ tất cả chúng sanh đều được lìa khổ được vui.

Năm loại quán tưởng là gì?


Kế công đa thiểu lượng bỉ lai xứ. Đầu tiên, phải tính xem thức ăn mình sắp ăn cần phải có bao nhiêu người làm mới có thể làm thành? Giống như hạt gạo này, đem gieo xuống đất, lại phải vun bón, tưới tẩm, sau đó gặt về xay—bây giờ dùng máy, còn trước kia phải dùng cối xay để mài—tuốt vỏ nó ra, rồi nấu thành cơm mới có thể ăn. Quý vị tính thử xem phải trải qua bao nhiêu công đoạn mới có thể trở thành hạt gạo như vầy? Cho nên phải nghĩ đến người làm ra nó. Người Trung Hoa thời xưa có những câu nói như vầy: 

Cày ruộng giữa ban trưa, đẫm mồ hôi gieo hạt;
Ai hay cơm trong bát, hạt hạt thấm gian lao.

(Sừ hòa nhật đương ngọ, hãn thích hòa hạ thổ;
Thùy tri bàn trung san, lạp lạp giai tân khổ.)

Ở Trung Hoa xưa kia đều làm ruộng theo cách đó, dùng bừa cuốc đất; ngay lúc khí trời đang nóng bức, mặt trời đứng bóng. Đẫm mồ hôi gieo hạt, mồ hôi của người làm ruộng này nhỏ xuống đất ruộng giống như nước nhỏ giọt tí tách tí tách. Ai hay cơm trong bát, hạt hạt thấm gian lao, mỗi một hạt cơm đều được làm ra từ trong khổ nhọc.

Cho nên chúng ta ở bất kỳ đất nước nào, thuộc bất kỳ dân tộc nào, đối với vật chất được làm ra đều nên tiết kiệm, đều nên quý tiếc, không được tuỳ tiện đạp bỏ những đồ vật còn xài được! nên nghĩ đến nó được tạo ra không phải dễ. Vì sao có những quốc gia trên thế giới hiện nay không có cơm ăn? Vì đồ vật bị lãng phí quá nhiều cho nên không có cơm ăn. Chúng ta là những người tin Phật, đặc biệt phải hết sức cẩn thận, chú ý đối với vấn đề nhân quả, không nên lãng phí bất kỳ vật gì. Những thức ăn thức uống, tiền tài vật chất quý vị có thể dùng được thì dùng, không thể dùng thì cho người khác dùng, không được tùy tiện đạp bỏ. Có câu nói “trong bếp cơm dư thừa, trên đường có người đói”, trong nhà của chúng ta có cơm thừa, trái lại bên ngoài có người bị đói; nên đem cơm thừa cho người không có cơm ăn, không được vứt bỏ. Do vậy khi ăn thức ăn, phải nghĩ đến nó được làm ra không phải dễ.

Thổn kỷ đức hạnh, toàn khuyết ứng cúng. Thổn là suy xét, xét nghĩ; xét nghĩ mình có đức hạnh gì mà có thể nhận đồ cúng dường của thí chủ các nơi mang đến? Toàn khuyết là đức hạnh của mình đủ hay không, là toàn hay là khuyết? Nếu như đức hạnh không đủ thì phải nhanh chóng dụng tâm tu đạo.

Phòng tâm ly quá tham đẳng vi tông. Phòng tâm là phải phòng bị tâm này của mình; ly quá là phải xa rời những lỗi lầm. Xa rời những lỗi lầm nào? Xa rời 3 loại lỗi lầm “tham, sân, si”. Khi ăn thức ăn không được tham, không được nói thức ăn này ngon, tôi phải ăn nhiều một chút; thức ăn kia dở, tôi không ăn, trong ăn uống phải bình đẳng, không nên phân biệt mùi vị ngon hay dở.

Chính sự lương dược vi liệu hình khô. Tỳ kheo khi đang dùng cơm thì phải quán tưởng thế nào? Phải nghĩ thức ăn là vị thuốc: vì sao mình phải ăn thức ăn này? Đây chính là phương thuốc thật sự! Nếu mình không dùng phương thuốc này thì thân thể này của mình sẽ khô héo, sẽ không thể tồn tại được.

Vị thành đạo nghiệp, ứng thọ thử thực. Vì sao tôi nên ăn cơm này? Ồ! Vì tôi nghĩ phải dụng công tu đạo, nếu tôi không ăn cơm thì đứng cũng không đứng nổi, ngồi cũng không ngồi vững—có thể ngủ, nhưng đó không phải là cách thức tu đạo; do vì tôi muốn tu đạo cho nên không thể không ăn cơm này.

Tỳ kheo khi dùng cơm đều nên có 3 niệm, 5 quán này. Đây là hạnh “ngày ăn một bữa”, cách này có lợi ích vô cùng!

 

 

6. ĂN CÓ TIẾT LƯỢNG

 

Thứ sáu, Tiết lượng thực. Tiết là “có tiết chế”; lượng là “có số lượng”. Ăn thức ăn không nên nói thức ăn này ngon, dùng xong lại muốn dùng nữa, đó là không có tiết độ. Bất luận là món ăn ngon như thế nào, nếu như mỗi ngày tôi ăn 2 chén cơm thì tôi sẽ nhất định ăn 2 chén; không thể nói thức ăn này không ngon nên chỉ ăn 1 chén, còn thức ăn ngon thì ăn 3 chén, như thế bản thân sẽ không có sự tiết độ. Mỗi một người xuất gia hành hạnh đầu đà, vốn ăn 2 chén có thể no, nhưng bây giờ tôi chỉ ăn 1,5 chén, ăn ít một chút, đây gọi là “ăn uống có tiết độ”.

 

 

7. QUÁ GIỜ NGỌ KHÔNG UỐNG NƯỚC CÓ CHẤT BỔ

 

Thứ bảy, Qúa ngọ bất ẩm tương. Qua sau giờ ngọ không uống nước cơm—ngay cả sữa bò, nước trái cây cũng đều không uống. Nhưng điều này quá khó! Việc làm này là không phải dễ, trà cũng được tính là một loại thức uống (tương), nên ngay cả trà cũng không thể uống. Đây là năm loại hạnh đầu đà có liên quan đến vấn đề ăn uống.

Khi Phật còn tại thế, Tôn giả Ca Diếp là “Đầu đà đệ nhất”; đầu đà có 12 loại, chúng ta đã giảng xong 7 loại. Còn lại 5 loại thuộc về vấn đề ở.

 

 

8. Ở NƠI A LAN NHÃ

 

Thứ tám, Trụ a lan nhã. A lan nhã là tiếng Phạn, dịch là “tịch tĩnh xứ” (nơi vắng lặng ); tịch tĩnh chính là nơi không có sự ồn ào, không có bất kỳ âm thanh nào. Nơi này là ở trong rừng núi, cách thành thị rất xa; gọi đây là “A lan nhã”, còn gọi là “A luyện nhã”, chính là một nơi tu đạo tốt nhất cho hành giả. Ở nơi tịch tĩnh này phải có một địa điểm nhất định.

 

 

9. Ở DƯỚI GỐC CÂY

 

Thứ chín, Thọ hạ túc. Vì sao lại phải ở dưới gốc cây? Vì người tu đạo lấy trời đất làm lều, lấy bốn biển làm nhà, đi đến đâu cũng đều có thể ở. Ở bên dưới cây như vậy, đã có thể tránh mưa, lại còn rất mát, cho nên có thể ở dưới gốc cây. Nhưng dưới mỗi gốc cây không thể ở quá 3 ngày, chỉ có thể ở 2 đêm. Vì sao không thể vượt quá 3 ngày? Vì những Tỳ kheo thật sự tu đạo, phẩm hạnh thanh cao sẽ tránh những nơi nào có duyên, tránh để người nhận ra và đến cúng dường mình, cho nên tại mỗi một nơi chỉ ở 2 đêm rồi đi. Nếu như có người nhận ra, muốn đến cúng dường thì vị ấy đã đi rồi. Đây là vì không cầu bất kỳ sự cúng dường hậu hĩ của người nào, cho nên ở dưới gốc cây.

 

 

10. Ở NGOÀI TRỜI

 


Thứ mười, Lộ địa túc. Ở dưới gốc cây, vẫn có lá cây che chắn gió mưa; còn ở ngoài đồng trống, lúc này thật sự là lấy trời đất làm căn phòng lớn cho mình, cuộc sống như thế vô cùng tự tại. Ngủ ngoài đồng trống, vừa có trăng sáng, vừa có sao soi; cho nên nói: “Lúc trăng treo giữa trời, gió lùa qua mặt nước; một làn hương thanh lạ, cảm nhận được mấy ai.” Khi vầng trăng tỏ rạng giữa trời không, cũng là lúc có một làn gió lướt qua mặt nước, cuộc sống của thiên nhiên như vậy, nhưng rất ít ai có thể lãnh hội được điều mầu nhiệm này.

 

 

11. Ở NGOÀI NGHĨA ĐỊA

 

Thứ mười một, Trủng gian trụ. Trủng chính là “phần mộ” (mồ mả), nghĩa là cùng ngủ chung với người chết. Ngồi trong nghĩa trang làm bạn với những ma quỷ. Tại sao như vậy? Vì ngồi bên cạnh mộ rất thích hợp cho việc “quán vô thường”—biết đời người là vô thường, bất luận sớm tối mau chậm đều sẽ chết; sau khi chết sẽ trở thành một cái gò mả, thân thể bên trong biến thành một đống xương trắng. Ngồi bên cạnh mộ tu đạo có thể giác ngộ được tất cả đều là vô thường, sẽ không phát khởi vô số tâm tham, vô số tâm sân, vô số tâm si và sẽ không bị dính mắc vào bất kỳ vật gì.

 

 

12. LƯNG KHÔNG CHẠM ĐẤT

 

Thứ mười hai, Hiếp bất trước tịch. Hiếp là “xương sườn”. Hiếp bất trước tịch (lưng không dính chiếu) chính là “thường ngồi không nằm”, tức nói vị ấy luôn luôn ngồi. Ở Ấn Độ có một vị tên Hiếp Tôn Giả, suốt đời vị ấy không bao giờ nằm mà chỉ ngồi. thường ngồi không nằm cũng là một trong những hạnh đầu đà. Vì người ta nằm sẽ dễ ngủ, mà đã ngủ thì lại càng muốn ngủ, không chịu dậy dụng công tu hành. Thường ngồi không nằm, vị ấy ngồi ngủ một giấc thì tỉnh lại, sẽ rất dễ dụng công tu hành, tham thiền tĩnh tọa. Cho nên cách thức “thường ngồi không nằm” này rất có lợi cho người tu hành.

Đối với 12 hạnh đầu đà, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp đều có thể hành trì. Có người thực hành hạnh đầu đà, chỉ hành một hạnh; hoặc là chỉ mặc “y phấn tảo”, hoặc là “chỉ có 3 y”, hoặc chỉ thực hành “thường đi khất thực”, hoặc “khất thực theo thứ lớp”, hay chỉ tu “ngày ăn một bữa”, hoặc chỉ tu “tiết độ trong ăn uống”, hoặc “ở tại gò mả”, hoặc “thường ngồi không nằm”. Tôn giả Ma Ha Ca Diếp tuy tuổi đã rất lớn, nhưng đều có thể hành trì như pháp 12 hạnh đầu đà, cho nên Tôn giả mới được tôn xưng là “Đầu đà đệ nhất”.



12 HẠNH ĐẦU ĐÀ

Phật Quang Đại Từ Điển

 

Người tu hạnh đầu đà phải tuân thủ 12 hạnh sau đây:

 

1. Ở A lan nhã: Tránh xa chỗ đông người não nhiệt, chọn nơi yên tĩnh, vắng vẻ.

 

2. Thường hành khất thực: Thường đi xin ăn.

 

3. Thứ đệ khất thực: Theo thứ tự đi từng nhà mà xin, không phân biệt nghèo giầu.

 

4. Thụ nhất thực pháp: Ngày ăn một bữa.

 

5. Tiết lượng thực: Không ăn quá nhiều, chỉ ăn một nắm cơm trong bát.

 

6. Trung hậu bất đắc ẩm tương: Sau bữa ăn chính ngọ, không được uống nước trái cây.

 

7. Trước tệ nạp y: Mặc ca sa chắp vá bằng những mụn giẻ bỏ đi.


8. Đãn tam y: Chỉ giữ 3 tấm áo, không được có thừa.


9. Trủng gian trụ: Ở nơi nghĩa địa.


10. Thụ hạ chỉ: Ngủ nghỉ dưới gốc cây.


11. Lộ địa tọa: Ngồi chỗ đất trống.


12. Đãn tọa bất ngọa: Thường ngồi không nằm.



Hạnh đầu đà có hạnh khó nhứt,

là ngồi luôn không nằm. Hạnh đó khó nhứt.  

 

Còn 11 hạnh trên (tất cả 12 hạnh) nếu cố gắng làm đều có thể làm được, nhưng hạnh đầu đà trong luật không buộc phải làm trọn đời, nghĩa là có thể phát tâm phát nguyện thọ hạnh đầu đà trong một thời gian nào đó rồi xả. Khi nào muốn tu nữa thì thọ lại. Bởi vì những khổ hạnh trong Phật pháp để kềm thúc thân tâm khỏi sự buông lung theo vật dục.



Giảng Sư

Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH


KINH PHẠM VÕNG  pdf

PHẨM BỒ TÁT TÂM ĐỊA

PHẦN DƯỚI


LỜI NÓI ĐẦU


KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI






I. LỜI KHAI GIẢNG

II. PHẦN KHAI KINH

III. PHẦN QUY KÍNH

IV. PHẦN XƯỚNG THỜI GIAN

V. PHẦN KHUYẾN TẤN


PHẦN NGUYÊN VĂN CỦA KINH


I. LÔ XÁ NA PHẬT

II. THÍCH CA MÂU NI PHẬT

III. ĐỨC PHẬT KIẾT BỒ-TÁT GIỚI


IV. MƯỜI GIỚI TRỌNG 



         1.- Giới sát sanh 

        2.- Giới trộm cướp

       3.- Giới dâm

       4.- Giới vọng

        5.- Giới bán rượu

        6.-Giới rao lỗi của tứ chúng

        7.- Giới tự khen mình chê người

        8.- Giới bỏn sẻn thêm mắng đuổi

        9.- Giới giận hờn không nguôi

        10.- Giới hủy-báng Tam-Bảo



 V.  ĐỨC PHẬT KẾT RĂN


VI.   48 ĐIỀU GIỚI KHINH



            1.- Giới không kính thầy bạn

           2.- Giới uống rượu

            3.- Giới ăn thịt

            4.- Giới ăn ngũ-tân

            5.- Giới không dạy người sám tội

            6.- Giới không cúng dường thỉnh Pháp

            7.- Giới không đi nghe Pháp

            8.- Giới có tâm trái bỏ Đại-Thừa

            9.- Giới không khán bịnh

            10.- Giới chứa khí cụ sát-sanh



            11.- Giới đi sứ

            12.- Giới buôn bán phi pháp

            13.- Giới hủy-báng

            14.- Giới phóng hỏa

            15.- Giới dạy giáo-lý ngoài Đại-Thừa

            16.- Giới vì lợi mà giảng pháp lộn lạo

            17.- Giới cậy thế-lực quyên tởi (GÓP)

            18.- Giới không thông hiểu mà làm thầy truyền giới

            19.- Giới lưỡng thiệt ( Lưỡi đôi chiều )

            20.- Giới không phóng-sanh



            21.- Giới đem sân báo sân đem đánh trả đánh

            22.- Giới kiêu mạn không thỉnh Pháp

            23.- Giới khinh ngạo không tận tâm dạy

            24.- Giới không tập học Đại-Thừa

            25.- Giới tri-Chúng vụng về

            26.- Giới riêng thọ lợi dưỡng

            27.- Giới thọ biệt thỉnh

            28.- Giới biệt thỉnh Tăng

            29.- Giới tà mạng nuôi sống

            30.- Giới quản-lý cho Bạch-Y


            31.- Giới không mua chuộc

            32.- Giới tổn hại chúng-sanh

            33.- Giới tà nghiệp giác quán

            34.- Giới tạm bỏ Bồ-Đề tâm

            35.- Giới không phát nguyện

            36.- Giới không phát thệ

            37.- Giới vào chỗ hiểm nạn

           38.- Giới trái thứ tự tôn ty

            39.- Giới không tu phước-huệ



            40.- Giới không bình đẳng truyền giới

            41.- Giới vì lợi làm thầy

            42.- Giới vì người ác giảng giới

            43.- Giới cố mống tâm phạm giới

            44.- Giới không cúng-dường Kinh-Luật

            45.- Giới không giáo hóa chúng-sanh

            46.- Giới thuyết-Pháp không đúng Pháp

            47.- Giới chế hạn phi pháp

            48.- Giới phá diệt Phật-Pháp



VII.          TỔNG KẾT

VIII.        LƯU THÔNG

IX.            KỆ KHEN TẶNG PHÁP GIỚI


X.- PHẦN HỒI-HƯỚNG

 

 Trên Liên-Hoa-Tạng
 Đức Xá-Na Tôn
 Lược giảng Tâm-Địa Pháp-môn này
 Truyền lại chư Thế-Tôn
 Khinh, Trọng phân rành
Tất cả được nhờ ân


Nam-Mô Phạm-Võng Giáo-Chủ Lô-Xá-Na Phật Biến Pháp-giới Tam-Bảo ( 3 lần )

 

KIẾT KINH KỆ

 

 Trời, A-Tu-La, Dạ-Xoa thảy
 Ai đến nghe pháp phải hết lòng
 Ủng-hộ Phật-Pháp cho thường còn
 Mọi người siêng tu lời Phật dạy
 Bao nhiêu thính-giả đến chỗ này
 Hoặc ở cõi đất hoặc trên không
 Nương theo chánh-pháp ngày đêm tu
 Xót thương người đời luôn cứu-hộ
 Cầu cho Thế-giới thường an-ổn
 Pháp-trí vô-biên lợi quần-sanh
 Tất cả tội-nghiệp đều tiêu trừ
 Dứt hẳn quả khổ vào viên-tịch
 Thường dùng giới-hương thoa vóc sáng
 Luôn gìn định-phục mặc che thân
 Hoa mầu trí-giác khắp trang-nghiêm
 Khắp xứ, khắp nơi thường an-lạc.


Nam-Mô Hộ-Pháp Chư-Tôn Bồ-Tát ( 3 lần )

Ma-Ha-Tát 1 lần )


CHUNG


Giảng Sư

Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH 

KINH PHẠM VÕNG  MP3 


1      2      3      4      5      6          8          10



Giới, Định, Huệ thoát Ta-bà 


Tín, Nguyện, Hạnh sanh Cực Lạc



Phật Thuyết

Kinh Phạm Võng Phẩm Bồ Tát Tâm Địa


Đời Dao Tần, Tam tạng Pháp sư Cư Ma La Thập Hán dịch,

Hòa Thượng Thích Trí Tịnh Việt dịch



37.- GIỚI VÀO CHỖ HIỂM NẠN [61]

 

Nếu Phật tử, mỗi năm phải hai kỳ hành đầu đà, mùa Đông mùa Hạ thời ngồi thiền kiết hạ an cư. Thường dùng nhành dương, nước tro, ba y, bát, bình, tọa cụ, tích trượng, hộp lư hương, đãy lượt nước, khăn tay, con dao, đá lửa, cái nhíp, giường dây, kinh luật, tượng Phật, tượng Bồ tát. Khi Phật tử hành đầu đà cùng lúc du phương đi lại trăm dặm ngàn dặm, mười tám món này mang luôn bên mình.

 

Đây là hai kỳ hành đầu đà trong mỗi năm: Từ rằm tháng giêng đến rằm tháng ba, và từ rằm tháng tám  đến rằm tháng mười. Trong hai kỳ hành đầu đà, luôn mang theo mình 18 món ấy như chim hai cánh. Nếu đến ngày bố tát, hàng tân học Phật tử, mỗi nửa tháng luôn bố tát, tụng mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh. Lúc tụng giới, nên ở trước tượng Phật và Bồ tát mà tụng. Chỉ có một người bố tát thời một người tụng.

 

Nếu hai người, ba người nhẫn đến trăm nghìn người cũng một người tụng, còn bao nhiêu thời lắng nghe. Người tụng ngồi cao, người nghe ngồi thấp. Mỗi người đều đắp y hoại sắc chín đìều, bảy điều và năm điều. Trong lúc kiết hạ an cư cũng phải mỗi việc đúng theo phép tắc. Lúc đầu đà chớ đi đến chỗ có tai nạn, cõi nước hiểm ác, nhà vua hung bạo, đất đai gập ghềnh, cỏ cây rậm rạp, chỗ có giống sư tử, cọp, sói, cùng lụt, bão, nạn cháy, giặc cướp, đường sá có rắn rít … Tất cả nơi hiểm nạn ấy đều không được đến. Chẳng những lúc hành đầu đà, mà lúc kiết hạ an cư cũng không được vào những chỗ hiểm nạn ấy. Nếu cố ý vào những nơi ấy, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.

 

 

[61] Đầu đà có nghĩa là phủi sạch trần cấu của thân tâm. Trong mười tám món, nhành dương dùng nhăn cho tưa ra để chà răng vì thời ấy không dùng bàn chải. Nước tro dùng như xà bông bây giờ. Ba y: y năm điều, bảy điểu, và đại y (chín điều xấp lên cho đến hai mươi lăm điều). Bình dùng đựng nước. Bát (Bát đa la)dùng đựng cơm và đồ ăn. Lư hương để dâng hương cúng Phật. Đãy lược nước dùng hộ mạng cho sanh linh. Con dao để cạo râu tóc, cắt móng tay. Cái nhíp để nhổ lông mũi. Ba y là y phước điền, đức Phật chế riêng cho Tỳ kheo và Tỳ kheo ni mặc, người chưa thọ giới không nên lạm dụng. Nếu là Thức xoa, Sa di ni thời tự có mạn y, còn hàng tại gia thời chỉ mặc y phục hoại sắc. Những xứ, những nơi hiểm nạn có nhiều  sự cảnh hại thân, chướng đạo, nên cấm đển ở. Trong Giới Kinh (Đại Luật) lại còn cấm những nơi nhiều kiến, nhiều muỗi.


37. GIỚI VÀO CHỖ HIỂM NẠN

 

Nếu là Phật tử mỗi năm hành đầu đà hai kỳ, mùa  đông mùa hạ thời ngồi thiền kiết hạ an cư…

 

Theo luật của Phật thì có kiết hạ và kiết đông. Miền Bắc thì mùa đông giá tuyết, muốn đi đứng cũng khó. Do đó phải kiết đông ở tại một chỗ, cũng như mùa hạ, trời mưa tầm tã. Cho nên mùa đông, mùa hạ ở yên một chỗ mà tấn tu giới định huệ. Trong thời kỳ đó, có hai lần hành đầu đà. Đây nói hành đầu đà chớ không phải đi đầu đà khổ cực. Không phải đi du phương.

 

Thường dùng nhành dương, nước tro, ba y, bình bát, tọa cụ, tích trượng, hộp lư hương, đãy lược nước, khăn tay, con dao, đá lửa, cái nhíp, giường dây, Kinh Luật, tượng Phật, tượng Bồ tát.

 

Tất cả có 18 món. Kinh thì mình thích quyển kinh nào thì đem theo như kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Di Đà chẳng hạn. Còn luật là quyển luật mỗi tháng mình Bố tát đó. Bởi vì hành đầu đà thì không được ở nhà ai, cũng không được vào chùa để nghỉ, nếu thiếu 18 món nầy thì không tiện nên phải đem theo.

 

Nhành dương, ngày xưa không có bàn chải đánh răng nên phải dùng nhành dương để thế cho bàn chải. Nhăn nhành dương cho nó tưa ra, mềm đi rồi đánh răng, đánh răng rồi thì bỏ đi, qua bữa khác lại nhăn một khúc, trong luật gọi rằng nhăn chừng nào cho nó mềm như bông thì cầm cái đó để đánh răng.

 

Bây giờ có bàn chải khỏi cần dùng đến nhành dương nữa. Xưa không có xà bông nên muốn rửa cho sạch phải có nước tro để dùng. Bát đựng đồ ăn, còn bình thì đựng nước. Nên nhớ cho kỹ, chớ gọi đi trì bình là sai. Bát: tức “Bát đa la” dịch là ứng lượng khí. Bát đựng đồ ăn, còn bình đựng nước đó vậy.

 

Tọa cụ: đồ lót ngồi. Tích trượng: cây gậy chống đi những chỗ gập ghềnh hay để ngừa chó… Hộp lư hương: là đến chỗ nào đó đốt hương cúng dường Tam Bảo rồi tụng kinh, ngồi thiền.

 

Đãy lược nước: là dụng cụ hộ sanh. Bởi vì đi như vậy nhiều khi gặp khe suối, rạch để múc nước. Nếu không đãy lược nước thì nước có lăng quăng làm sao dùng được? Khăn tay: để lau. Con dao: để cắt nhành dương hay cắt các vật.

 

Đá lửa: để nhóm lửa hoặc sưởi khi lạnh. Không phải để nấu ăn. Đi hành đầu đà là khất thực. Cái nhíp: để nhổ lông mũi. Giường dây: như bấy giờ dùng vải thiệt mỏng để làm một cái giường, có thể giăng trên cây để nghỉ được.

 

“Khi Phật tử hành đầu đà cùng lúc du phương…”

 

Hành đầu đà với du phương khác nhau. Đi du phương là đi phỏng đạo hay đi giáo hóa. Nhiều khi phải đi đến xứ đó để giáo hóa có bổn phận, hoặc phải đi học thêm ở nơi vị Pháp sư nào đó gọi là du phương. Còn hành đầu đà, tất nhiên phải thực hành hạnh đầu đà. Đầu đà nầy rất khó…

 

“Đi lại trăm dặm nghìn dặm, 18 món nầy luôn mang  theo mình. Đây là hai kỳ hành đầu đà trong mỗi năm: Từ Rằm tháng Giêng đến Rằm tháng Ba và từ Rằm tháng Tám cho đến Rằm tháng Mười”.

 

Chỉ trong mấy tháng đó hành đầu đà, là đi du phương chớ ở một chỗ tu hành đầu đà thì ngoại lệ, lúc nào cũng được.

 

“Trong hai kỳ hành đầu đà, luôn mang theo mình 18 món ấy như chim hai cánh”.

 

Đây đức Phật nói, nếu 18 món nầy mà thiếu thì không thể đi được. Thiếu đồ dùng nơi thân lấy gì hộ trợ thân để hành đạo. Còn đi đến đâu cũng vào nhà hay vào chùa để nhờ thì không phải hành đầu đà rồi. Nên mang theo 18 món nầy như chim hai cánh, nếu thiếu một phần nào cũng không thể bay được.

 

Hạnh đầu đà có hạnh khó nhứt, là ngồi luôn không nằm. Hạnh đó khó nhứt. Còn 11 hạnh trên (tất cả 12 hạnh) nếu cố gắng làm đều có thể làm được, nhưng hạnh đầu đà trong luật không buộc phải làm trọn đời, nghĩa là có thể phát tâm phát nguyện thọ hạnh đầu đà trong một thời gian nào đó rồi xả. Khi nào muốn tu nữa thì thọ lại. Bởi vì những khổ hạnh trong Phật pháp để kềm thúc thân tâm khỏi sự buông lung theo vật dục.

 

Do đó để an tâm và để khuyến tu đạo hạnh, nên tùy theo sự phát tâm chớ không bắt buộc. Hành đầu đà là không được ở một chỗ. Chỉ trong hai kỳ trong mỗi năm. Kỳ nhứt từ Rằm tháng Giêng đến Rằm tháng Ba, đó là tháng khô ráo mát mẻ. Rồi từ Rằm tháng Tám cho đến Rằm tháng Mười, tất nhiên sau mùa mưa rồi, trước mùa đông. Mấy tháng đó chưa đến mùa đông lạnh lẽo.

 

“Nếu đến ngày Bố tát hàng tân học Phật tử, mỗi nửa tháng luôn Bố tát, tụng 10 giới trọng và 48 giới khinh”.

 

Đây là nói đến ngày Bố tát. Hàng Phật tử cứ mỗi nửa tháng đến ngày Bố tát thì phải tụng 10 giới trọng và 48 giới khinh.

 

“Lúc tụng giới nên ở trước tượng Phật và Bồ tát mà tụng. Chỉ có một người Bố tát, thì một người tụng. Nếu hai người ba người nhẫn đến trăm ngàn người, cũng một người tụng còn bao nhiêu người lắng nghe”.

 

Nếu riêng một mình thì mình tụng, còn nếu hai người thì cử một người tụng, còn người kia ngồi nghe, cho đến trăm người cũng vậy. Một người tụng còn bao nhiêu người khác ngồi lắng nghe.

 

“Người tụng ngồi cao, người nghe ngồi thấp”

 

Bất luận vị đó lớn nhỏ, nhưng nếu thay thế trong Đại chúng để tụng giới, thì vị đó phải thỉnh lên ngồi ở trên cao.

 

“Mỗi người đều đắp y hoại sắc chín điều, bảy điều và năm điều”.

 

Đây là nói hàng xuất gia, chớ không phải người tại gia. Có nhiều khi làm việc đó, rồi người tại gia cũng đắp y sai lầm. Nhưng tại gia cũng phải mặc đồ hoại sắc, không phải màu trắng.

 

Trong luật Phật, xưa người tại gia lấy chánh sắc làm màu trắng. Do đó gọi người tại gia là bạch y. Phá hư màu trắng đó gọi là hoại sắc. Hoại sắc hoặc xanh vàng, đỏ, tím, đen, tùy ý hoại. Trong những màu đó tùy ý dùng một màu để pha trắng cho hư.

 

Trong lúc kiết hạ an cư cũng phải mỗi việc đúng theo pháp tắc, nghĩa là không phải kiết hạ an cư rồi không tụng giới, không Bố tát. Kiết hạ an cư thì cũng phải Bố tát kiết giới vậy.

 

“Lúc hành đầu đà chớ đi đến chỗ hiểm nạn (có tai nạn)cõi nước hiểm ác nhà vua hung bạo, đất đai gập ghềnh, cỏ cây rậm rạp, chỗ có giống sư tử, cọp, sói, cùng lụt bão, nạn cháy, giặc cướp, đường sá có rắn rít… Tất cả nơi hiểm nạn ấy đều không được đến. Chẳng những hành đầu đà mà lúc kiết hạ, an cư cũng không được vào những chỗ hiểm nạn ấy. Nếu cố vào những nơi ấy, Phật tử nầy phạm Khinh cấu tội”.

 

Nếu muốn đi đầu đà, thì phải tránh những chỗ hiểm nạn. Lúc kiết hạ, an cư cũng như vậy. Cũng phải kiết hạ an cư yên ổn, chớ không nên vào trong chỗ hiểm nạn. Nếu biết đó là hiểm nạn mà cố vào thì phạm giới thứ 37 nầy.

 

Trên đây nói về việc đầu đà, phải đem những đồ cần dùng. Còn đây chỉ kết tội là đi đầu đà mà vào chỗ hiểm nạn. Biết đó là hiểm, mà cố đi vào nơi đó kiết hạ an cư. Như vậy phạm tội.



13 HẠNH ĐẦU ĐÀ

Thanh Tịnh Đạo Luận

 

1. Hạnh phấn tảo y

2. Hạnh ba y

3. Hạnh khất thực

4. Hạnh khất thực từng nhà

5. Hạnh nhất toạ thực

6. Hạnh ăn bằng bát

7. Hạnh không để dành đồ ăn (không nhận đồ ăn sau khi đã ăn xong)

8. Hạnh ở rừng

9. Hạnh ở gốc cây

10. Hạnh ở giữa trời

11. Hạnh ở nghĩa địa

12. Hạnh nghỉ chỗ nào cũng xong

13. Hạnh ngồi (không nằm)



Thanh Tịnh Đạo Luận

Tác Giả: Bhadantacariya Buddhaghosa

Bản dịch của: Ni sư Trí Hải

 

Chương 2. Hạnh Ðầu Ðà Khổ Hạnh

Mười Ba Khổ Hạnh

(Dhutanga-niddesa)

 

1. Khi một thiền giả theo đuổi con đường giới, vị ấy nên khởi sự thực hành khổ hạnh để kiện toàn các đức đặc biệt ít muốn, biết đủ...nhờ đó giới, như đã mô tả, được thanh tịnh. Vì khi giới của vị ấy đã được thanh lọc khỏi các cấu uế bằng những thứ nước thiểu dục, tri túc, viễn ly, độc cư, ở những trú xứ vắng, tinh cần, ít nhu cầu, thì giới sẽ trở nên hoàn toàn thanh tịnh, vị ấy sẽ thành tựu, tất cả những ước nguyện của mình. Và khi toàn thể con người đã được thanh lọc bằng công đức giới và nguyện và đã an trú trong ba thánh tài đầu tiên, vị ấy bây giờ có thể xứng đáng đạt đến gia tài thứ tư gọi là "sự hân hoan trong tu tập" (A. ii, 27).

Bởi vậy, chúng ta sẽ khởi sự giải thích các khổ hạnh. Mười Ba Khổ Hạnh

 

2. Ðức Thế Tôn đã cho phép thực hành 13 khổ hạnh cho những thiện

nam tử đã từ bỏ những chuyện xác thịt và không kể thân mạng, mong muốn tu tập phù hợp với cứu cánh giải thoát.

 

Mười ba khổ hạnh là:

 

1. Hạnh phấn tảo y

2. Hạnh ba y

3. Hạnh khất thực

4. Hạnh khất thực từng nhà

5. Hạnh nhất toạ thực

6. Hạnh ăn bằng bát

7. Hạnh không để dành đồ ăn (không nhận đồ ăn sau khi đã ăn xong)

8. Hạnh ở rừng

9. Hạnh ở gốc cây

10. Hạnh ở giữa trời

11. Hạnh ở nghĩa địa

12. Hạnh nghỉ chỗ nào cũng xong

13. Hạnh ngồi (không nằm)

 

3.  Sau đây sẽ trình bày về (1) ý nghĩa (2) đặc tính ... (3) thọ giới, chỉ dẫn, cấp bực sự phạm giới và những lợi ích của mỗi hạnh, (4) ba tánh, (5) Phân biệt "người khổ hạnh" người thuyết giảng khổ hạnh", "các pháp tương ưng với khổ hạnh", "các khổ hạnh" và khổ hạnh thích hợp với hạng người nào.

 

4. (1) Trước hết là ý nghĩa

i. Gọi là phấn tảo (pamsukùla -bụi bặm) vì nó được tìm ở những đống rác bên đường, nghĩa địa, đống phân (midden), nó thuộc về đồ bỏ tại các nơi ấy. Hoặc nó đang tiến đến một tình trạng tồi tệ như đồ bỏ(Pamsu viya Kucchita - bhàvamukati) cho nên gọi là phấn tảo y.

ii. Ba y là áo khoác ngoài gồm những miếng vải chắp nối lại, thượng y và hạ y.

 

5.  iii. Sự để rơi (Pàta) những mẩu đồ ăn (pinda) gọi là khất thực, pindapàta. Thu nhặt đồ khất thực từng nhà, gọi là ăn đồ khất thực. Hoặc vị ấy phát hiện thu lượm (patati: nhặt - nghĩa này không có trong tự điển của Hội Pàli Text) những miếng ăn (pinda) nên gọi là người thu nhặt đồ ăn, hay người khất thực (pindapàtin). Sự thực hành này gọi là hạnh khất thực để sống.

 

6.  iv. Hạnh thứ đệ khất: khe hở hay khoảng trống gọi là avakhandana hay dàna. Dời khỏi chỗ trống (apeta: dời khỏi) hoặc không chỗ trống, không hở, là apadàna. Người đi từ nhà này đến nhà khác không chừa một nhà nào khoảng giữa, gọi là sapadànacàrin, tức là hạnh khất thực từng nhà, thứ đệ khất.

7.  v. Ăn một lần mà thôi, đứng lên rồi, không ngồi xuống ăn lại, gọi là hạnh nhất toạ thực (ăn ngày một bữa) vi. Chỉ ăn những gì đã xin được trong bát, không nhận thêm bát thứ hai, gọi là người ăn bằng bát.(pattapindika)

 

8. vii. "khalu" có nghĩa từ chối, không nhận. Ðồ ăn mà vị ấy nhận được sau khi đã ăn xong gọi là tàn thực (pacchàbhatta) người không ăn đồ ăn như thế gọi là Khalupacchàbhattika, không nhận đồ ăn sau khi ăn xong. Nhưng trong luận nói: "Khalu là tên một giống chim khi mổ một trái cây để ăn, mà trái ấy rớt thì thôi ăn. Vị tỷ kheo này cũng vậy.

 

9. viii. Vị ấy quen sống ở rừng nên gọi là hạnh ở rừng.

 

10. ix. Sống dưới gốc cây nên gọi là hạnh ở gốc cây.

x-xi. Ở ngoài trời và ở nghĩa địa, cũng thế.

xii Những gì được phân phối (cho mình) gọi là "như được phân phối" yathà- santhata. Ðây là một từ ngữ chỉ chỗ nghỉ ngơi được phân phối cho vị tỷ kheo. Người nghỉ ở chỗ được phân phối cho mình gọi là một người sử dụng đồ nằm như được phân phối (yathàsanthatika) người theo hạnh này gọi là hạnh nghỉ chỗ nào cũng được.

xiii. Vị ấy có thói quen ngồi mà ngủ, không nằm gọi là hạnh ngủ ngồi.


11. Tất cả những hạnh kể trên gọi là hạnh (anga) của một tỷ kheo theo khổ hạnh (dhuta- đầu đà) bởi vì vị ấy đã rũ bỏ (dhuta) cấu uế bằng cách thọ trì một trong những khổ hạnh ấy. Gọi là "đầu đà" (dhuta) vì nó rũ sạch (niddhunana) chướng ngại, gọi là hạnh (anga) vì nó là con đường (patipatti). Trên đây là trình bày ý nghĩa.

 

12. Tất cả 13 khổ hạnh trên điều có đặc tính là ý nguyện thọ trì. Luận nói: "Người thọ giới là một con người. Cái nhờ đó nó thọ giớiđược là tâm và tâm sở. Chính ý chí trong hành vi thọ giới gọi là hanh đầu đà. Tất cả 13 hạnh đều có công dụng là loại trừ tham dục và hiện tướng của chúng là vô tham. Nguyên nhân gần của chúng là những đức thiểu dục... "

 

13. Trong thời Phật tại thế, tất cả khổ hạnh đều phải được thọ trì trước mặt đức Thế Tôn. Sau khi Ngài nhập Niết bàn, phải thọ trước một vị đại đệ tử của Ngài. Khi không có vị này, phải thọ trước một người đã đoạn tận lậu hoặc, một bậc Bất hoàn, Nhất lai hay Nhập lưu, hoặc một người thông hiểu 3 tạng hoặc 2 tạng hoặc 1 tạng hoặc một người thong hiểu 1 trong 5 bộ Nikàya, 1 luận sư Nikàya. Không có 1 người như vậy thì phải thọ trước 1 vị đang hành 1 khổ hạnh. Nếu không có một vị như vậy thì nên quét dọn sạch sẽ điện thờ rồi ngồi mà thọ giới một cách kính cẩn như đang ở trước mặt đấng Ðạo sư. Như thế, có thể thọ giới đầu đà một mình. Ở đây có thể nhắc lại câu chuyện người anh trong 2 anh em vốn là 2 trưởng lão ở tu viện Cetiyapabbata, để biết thế nào là thiểu dục trong đầu đà hành đạo. Vị này theo khổ hạnh ngủ ngồi một mình mình biết. Một đêm kia, nhân một làn chớp loé, người em trong thấy ngài đang ngồi thẳng trên giường và hỏi: "Bạch đại đức, thế ra ngài theo khổ hạnh ngủ ngồi à?" Vì thiểu dục, không muốn để ai biết khổ hạnh của mình, vị ấy bèn nằm xuống. (Pm. 77) Ðiều này áp dụng cho mọi khổ hạnh.


14. Bây giờ, ta sẽ tiếp tục bàn về sự thọ giới những chỉ dẫn, các cấp bực, sự phá giới, và lợi ích của từng khổ hạnh. Ðầu tiên là hạnh phấn tảo y: nó được thọ trì bằng cách thốt lên một trong hai lời nguyện này: "Tôi từ chối những y do gia chủ cúng "hoặc" tôi nguyện giữ khổ hạnh phẩn tảo y". Ðây là sự thọ giới.

 

15. Một người đã thọ giới này nên mặc một y thuộc một trong những loại sau: vải lấy từ nghĩa đại, từ cửa hàng, từ đường cái, từ hố phân, từ giường trẻ, vải tẩy uế, vải từ chỗ tắm, vải đi về nghĩa địa, vải bị cháy, bị gia súc ăn, bị kiến ăn, bị chuột ăn, vải rách ở biên, rách ở đầu, vải làm cờ, vải bỏ từ điện thờ, y của nhà khổ hạnh, vải từ cuộc lễ, vải do thần thông biến hoá, vải trên xa lộ, vải gió bay, vải do thiên thần bố thí, vải trôi giữa biển, lấy một trong những thứ vải này vị ấy nên xé bỏ những mảnh rách nát, giặt sạch những mảnh lành lặn để làm thành một cái y. Vị ấy có thể dùng nó sau khi xả bỏ áo do thí chủ cúng.

 

16. "Vải từ nghĩa địa" là vải rơi rớt ở nghĩa đại. "Vải từ cửa hàng" là vải rớt trước quán hàng. "Vải từ đường cái" là thứ vải mà những kẻ kiếm công đức thường ném qua cửa sổ xuống đường. "Vải từ hố phân" là vải bỏ thùng rác. "Vải ở giường trẻ" là vải bỏ sau khi lau những bất tịnh của sản phụ. Mẹ của đại thần Tissa lau những bất tịnh bằng một mảnh vải đắt giá, nghĩ rằng những nhà khổ tu mặc phấn tảo y sẽ lượm, và quăng nó trên đường Tàlaveli. Các tỷ kheo lượm vá y.


17. "Vải tẩy tịnh" là vải mà những vị phù thuỷ bắt bệnh nhân dung để tắm rửa từ trên đầu trở xuống rồi vứt đi như vứt một sự xui xẻo "Vải từ chỗ tắm giặt" là những giẻ rách vứt bỏ ở chỗ tắm. "Vải đi về nghĩa địa" là vải bỏ sau khi đến nghĩa địa, trở về tắm rửa. "Vải bị cháy" là vải vì cháy một ít mà người ta vứt đi" "Vải gia súc ăn chuột ăn" ... nghĩa đã rõ. "vải làm cờ": những người xuống tàu ra khơi thường tung lên một cái cờ rồi mới đi. Khi tàu đi khuất, có thể lượm cái cờ này. Lại nữa, khi hai bên quân đội đã đi khuất, có thể lượm cờ đã được tung ra giữa chiến địa.

 

18. "Vải từ điện thờ" là một tấm vải cúng phủ trên tổ kiến. "Vải của nhà khổ tu" là y của tỷ kheo. "Vải từ một cuộc lễ" là vải vứt bỏ ở chỗ làm lễ tấn phong vua. "Vải do thần thông hoá hiện" là tấm y do phép Phật biến hoá lúc ngài nói "Thiện lai tỷ kheo" (Ehibhikkhu). Trong một vài trường hợp lúc Phật còn tại thế, Ngài chứng minh sự xuất gia của một người bằng cách chỉ nói mấy tiếng "lại đây tỷ kheo". Do công đức đời trước của vị ấy, pháp phục tự nhiên xuất hiện một cách mầu nhiệm trên người ông. "Vải từ xa lộ" là vải rơi rớt giữa đường. Nhưng nếu vì sơ ý mà chủ nhân làm rớt, thì phải chờ một lúc mới được phép nhặt lên. "Vải gió bay" là vải theo gió bay 1 đỗi xa mới rớt xuống, được phép lượm nếu không thấy chủ. "Vải do chư thiên cúng" là vải chư thiên cúng cho tỷ kheo như trường hợp tôn giả Anuruddha. "Vải trôi giữa biển" là vải sóng biển đánh tắp vào bờ.


 

19. Một tấm vải được cúng với lời nói "Chúng tôi cũng cho chư tăng", hoặc do người đi xin vải kiếm được, thì không phải vải bỏ. Vải do một tỷ kheo tặng, vải do nhận được trong lễ dâng y do một tỷ kheo tặng lại, vải do thí chủ cúng cho 1 vị ở trú xứ nào đó, đều không phải vải phế thải. Vải bỏ là thứ vải được từ một người cho đã không sở hữu nó với những cách nói trên. Vải do một thí chủ đặt dưới chân tỷ kheo, rồi tỷ kheo này đem cho người lập hạnh mặc phấn tảo bằng cách để vào tay vị ấy, gọi là chỉ thanh tịnh một chiều. Hoặc thí chủ để vào tay một tỷ kheo, tỷ kheo đem đặt dưới chân vị khổ hạnh, cũng gọi là chỉ thanh tịnh một chiều. Vải đặt dưới chân tỷ kheo, tỷ kheo đem đặt dưới chân nhà khổ hạnh, gọi là thanh tịnh hai chiều. Vải mà người cho đã nhận được bằng tay, nhà khổ hạnh cũng nhận bằng tay, thì không phải là hạnh phấn tảo y chặt chẽ. Như vậy, nhà khổ hạnh cần sử dụng y sau khi biết rõ những loại vải.

 

20. Và đây là những cấp bực. Có ba hạng: hạng chặt chẽ, trung bình và thường. Người lượm vải ở nghĩa địa gọi là hạng chặt chẽ. Người lượm vải do một người bỏ ra với ý nghĩ "một tỷ kheo sẽ lượm" gọi là hạng trung bình. Và người lấy vải do môt tỷ kheo cho mình bằng cách đặt dưới chân là hạng thường. Lúc nào người ấy bằng lòng nhận một tấm y từ gia chủ, thì hạnh phấn tảo y của ông bị phá. Ðây là phá giới ở trường hợp này.


21. Và đây là những lợi ích. Vị ấy làm đúng theo hạnh. Tùy thuận, như câu: "Xuất gia bằng cách tùy thuộc vào y phấn tảo" (Vin. I. 58, 96); vị ấy an lập trong thánh tài thứ nhất (A. ii, 27); không có sự đau khổ do phải giữ gìn, vị ấy sống không tùy thuộc vào người khác; không sợ trộm cướp; không có thèm muốn liên hệ đến y phục; đó là một điều kiện thích hợp cho 1 ẩn sĩ; được Thế Tôn tán thán vì "Không giá trị, dễ kiếm, và không lỗi" (A. ii, 26) nó làm cho người ta tin cậy; nó phát sinh những hậu quả ít muốn, biết đủ v.v... Chánh đạo được tu tập; làm tấm gương cho hậu lai.

 

22. Khi nỗ lực đánh bạt đạo quân Tử thần Nhà khổ hạnh quấn y bằng giẻ rách lượm từ đống rác, vẫn sáng chói như tướng sĩ lâm trận mặc giáp sắt. Y phấn tảo này chính đấng Thiên nhân sư cũng mặc từ bỏ hàng Kàsi quý giá cùng những thứ khác Vậy, ai mà không nên mặc Y bằng giẻ lượm từ đống rác? Nhớ lời đã phát nguyện khi ra đi sống kiếp không nhà. Hãy hân hoan mặc y phấn tảo như người ta trang sức xiêm y mỹ lệ. Ðấy là thọ giới, chỉ dẫn, cấp bực, sự phạm giới, và những lợi lạc trong khổ hạnh phấn tảo y.

 

23. Kế tiếp, hạnh ba y. Giới này được thọ trì bằng cách nói: "Tôi không nhận cái y thứ tư" hoặc "tôi giữ giới mặc ba y". Khi một người thọ giới này được vải để làm y, vị ấy có thể giữ nó trong thời gian vì thiếu sức khỏe không thể may y, hoặc chưa tìm ra người giúp, vì thiếu kim... Thì cất giữ vải không có lỗi. Nhưng khi y đã được nhuộm thì không được cất giữ vải. Ðó là khổ hạnh bịp. Ðây là sự chỉ dẫn.

 

24. Về hạnh ba y cũng có ba cấp bậc. Người theo khổ hạnh ba y một cách nghiêm nhặt thì trong lúc nhuộm, trước phải nhuộm hoặc y trong hoặc thượng y, nhuộm cái này xong, quấn nó ngang lưng mà nhuộm cái khác. Xong, vắt nó lên vai mà nhuộm y khoác ngoài bá nạp. Nhưng vị ấy không được quấn y ba nạp quanh thất lưng. Ðây là luật khi ở một trú xứ tại xóm làng, nhưng ở rừng thì có thể nhuộm, giặt cả ba y một lượt nhưng phải ở gần để nếu thấy người thì có thể kéo một tấm mà đắp lên mình. Ðối với người theo cấp bậc trung bình thì có thể dùng một tấm vải vàng để trong phòng nhuộm đắp lên mình trong khi giặt nhuộm. Ðối với người theo cấp bực ba (lỏng lẻo) thì có thể mặc hay khoác y của tỷ kheo trong hoà hợp chúng (nghĩa là, vị nào không bị phạt ...) để giặt nhuộm. Một tấm vải trải giường bỏ không, cũng có thể dùng song không được mang theo. Vị này cũng có thể thỉnh thoảng sử dụng y của tỷ kheo trong hoà hợp chúng. Người theo khổ hạnh ba y còn có thể dung một tấm vải vàng che vai kể như y thứ tư, không được rộng quá một gang, dài quá chiều dài 3 bàn tay. Lúc nào người theo một trong ba cấp bực khổ hạnh ấy tự động nhận một tấm y thứ tư, thì khổ hạnh bị hỏng. Ðây là sự phá giới trong trường hợp này.


25. Khổ hạnh ba y có những lợi lạc như sau. Vị tỷ kheo thọ trì khổ hạnh này xem y phục chỉ như vạt che thân. Vị ấy đi đâu cũng chỉ mang theo ba y như chim mang đôi cánh; kiện toàn các đức tính vật dụng, không tích trữ vải, sống đạm bạc, từ bỏ tánh tham y phục, sống viễn ly, tiết độ ngay cả đối với những gì hợp pháp, phát sinh tính ít muốn biết đủ.

 

26. Không lo sợ tích trữ

Không giữ quá ba y

Bậc trí thưởng thức được

Hương vị của hỉ túc

Du hành không chướng ngại

Như chim bay hư không

Chỉ mang theo hai cánh

Tỷ kheo nên hoan hỉ

Hạnh đạm bạc ba y

 

27. Hạnh khất thực được thọ trì bằng cách thốt lên như sau: "Tôi không nhận đồ ăn để dành (tàn thực)" hoặc: "Tôi thọ trì hạnh khất thực hàng ngày". Người đã thọ giới này không được nhận 14 thứ thực phẩm như sau: bữa ăn cúng cho một số tỷ kheo đặc biệt, bữa ăn do người ta mời, bữa ăn được mời bằng một phiếu ăn, bữa ăn vào ngày lễ trai giới Uposatha (bố tát), bữa ăn cho kẻ lữ hành, bữa ăn cho người bệnh, bữa ăn cho kẻ nuôi bệnh bữa ăn cúng cho một trú xứ nào đó, bữa ăn được bố thí tại một ngôi nhà chính (dhurabhatta principal house?), bữa ăn cúng theo thứ tự. Nếu, thay vì nói "Xin thỉnh đại đức dùng một bữa ăn cúng cho chư tăng" thí chủ lại nói "Chư tăng đang khất thực tại nhà tôi, đại đức có thể đến khất thực tại nhà tôi, đại đức có thể đến khất" thì có thể nhận lời. Những phiếu tăng chúng phát ra không phải về thực phẩm mà về các vật khác (thuốc men v.v...) hoặc một bữa ăn được nấu trong một tu viện, nhà khổ hạnh đều được dùng.

 

28. Giới này cũng có ba bực. Người khổ hạnh cấp một (khắt khe) nhận đồ ăn do người ta đem lại từ phía trước mặt và sau lưng (đi quá rồi thí chủ mới chạy theo cúng), và đưa bát cho thí chủ rồi đứng chờ ngoài cổng. Vị ấy cũng nhận đồ ăn mang lại cúng dường tại nhà ăn nhưng vị ấy không nhận đồ khất thực bằng cách ngồi đợi người ta mang đến. Người khổ hạnh cấp hai thì ăn đồ ngồi đợi mang đến (trong ngày hôm đó) nhưng không ăn đồ người ta hứa mang lại cúng hôm sau. Người theo khổ hạnh cấp ba bằng lòng ăn đồ ăn được hứa mang đến hôm sau, và hôm sau nữa. Cả hai hạng sau đều mất cái thú hưởng một cuộc đời độc lập. Ví dụ có thể có một buổi thuyết pháp về Thánh tài ở một thôn ấp nào đó. Người cấp một bảo hai hạng kia: "Chư hiền, chúng ta hãy đi nghe pháp" Một người bảo: "Bạch đại đức, tôi đã được một thí chủ bảo ngồi đây đợi". Người cấp hai bảo: "bạch đại đức, tôi đã nhận lời mời đồ khất thực ngày mai". Bởi thế cả hai vị này đều mất mát. Còn vị đầu tiên thì cứ khất thực vào buổi sáng, rồi đi thẳng đến chỗ nghe pháp, thưởng thức pháp vị. Lúc một trong ba hạng ấy bằng lòng với một lợi dưỡng ngoài phạm vi nói trên, nghĩa là ăn đồ cúng cho chúng tăng... Thì khổ hạnh bị phá.


29. Hạnh khất thực có những lợi lạc như sau. Vị ấy làm đúng như Luật dạy, "Xuất gia tùy thuộc vào sự nuôi sống bằng khất thực". Vị ấy an lập trong thánh tài thứ hai; sự sống của vị này không lệ thuộc vào kẻ khác, và Thế Tôn đã ca ngợi đồ ăn khất thực là "không giá trị, dễ kiếm và không lỗi" (A ii, 26); sự phóng dật được trừ khử, mạng sống được thanh tịnh, việc thực hành những học pháp thuộc tiểu giới được viên mãn; vị ấy không do một người khác nuôi sống (không nhờ vào, lệ thuộc vào một người nào) vị ấy giúp đỡ mọi người, từ bỏ kiêu mạn, lòng tham vị ngon được chế ngự, không phạm những học giới liên hệ đến ăn. Ðời sống vị ấy phù hợp với những nguyên tắc thiểu dục tri túc ...Tu tập chánh đạo, thương tưởng đến những đời hậu lai.

 

30. Tỷ kheo vui khất thực

Ðời sống không lệ thuộc

Tham dục không chân đứng

Giải thoát như hư không

Tinh cần, không giải đãi

Mạng sống không lỗi lầm

Bởi vậy người có trí

Không khinh thường khất thực.

Vì kinh dạy:

"Nếu tỷ kheo có thể

Tự nuôi bằng khất thực

Sống không tùy thuộc vào

Sự giúp của riêng ai

Không màng đến danh dự

Lợi dưỡng chẳng đoái hoài

Thì đến cả chư thiên

Cũng thêm số phận Người". (Ud. 31)

 

31. Hạnh khất thực từng nhà được thọ trì bằng cách phát nguyện: "Tôi không làm một vòng khất thực tham ăn" hoặc: "tôi theo hạnh khất thực từng nhà". Người tuần tự khất thực này dừng lại ở cổng vào làng, nên biết chắc sẽ không có gì nguy hiểm. Nếu có nguy hiểm tại một con đường hay một làng nào, vị ấy được phép gạt bỏ nơi ấy để đi khất thực chỗ khác. Khi có một cái nhà, một con đường hay một khu làng nơi đó vị ấy thường xuyên không được thứ gì, thì có thể bỏ qua chỗ đó. Nhưng nơi nào có xin được chút đỉnh, thì sau đó không được bỏ qua chỗ ấy. Vị ấy nên đi vào làng sớm, để có thể bỏ ra ngoài những chỗ bất lợi và đi chỗ khác. Nếu có thí chủ cúng thức ăn cho chùa, hoặc đang đi giữa đường, lấy cái bát vị ấy để đặt thức ăn vào, vị ấy được phép nhận. Trên đường đi, không được bỏ qua khu làng nào. Nếu không xin được gì ở đấy hoặc rất ít, thì nên tuần tự khất thực ở các làng kế tiếp.

 

32. Hạnh này cũng có ba bực. Hạng khất thực tuần tự một cách chặt chẽ thì không nhận đồ ăn mang đến từ trước mặt hoặc từ sau lưng, hoặc mang đến cúng tại nhà ăn. Nhưng vị ấy chìa bát tại một cửa nhà; vì trong khổ hạnh này, không ai sánh bằng trưởng lão Ðại Ca Diếp, thế mà Ngài cũng có lần chìa bát như được thuật (trong Ud. 29). Vị theo khổ hạnh cấp hai nhận đồ ăn đem đến từ trước, từ sau lưng, và tại nhà ăn, và vị ấy chìa bát tại một cửa nhà, nhưng không ngồi mà đợi đồ ăn khất thực. Như vậy, vị ấy làm đúng luật của người ăn đồ khất thực một cách chặt chẽ. Người khổ hạnh cấp ba thì ngồi đợi đồ ăn mang đến nội nhật hôm ấy. Khổ hạnh của ba hạng nói trên bị phá khi họ khởi sự làm vòng khất thực tham ăn (bằng cách chỉ đến những nhà bố thí đồ ăn ngon lành). Ðây là sự phạm giới trong khổ hạnh khất thực.

 

33. Những lợi ích như sau. Vị ấy luôn luôn là một người khách lạ tại các nhà như mặt trăng (S. ii, 197); vị ấy từ bỏ sự tham lẫn về những gia đình; có lòng từ mẫn một cách bình đẳng; vị ấy tránh được những nguy hiểm của sư được ủng hộ bởi một gia đình duy nhất, vị ấy không thích thú trong sự mời ăn, không hy vọng đồ ăn được mang đến; đời sống vị ấy thích hợp với hạnh thiểu dục tri túc...

 

34. Tỷ kheo tuần tự khất

Như trăng chiếu ngàn nhà

Nhìn luôn luôn mới mẻ

Không tham, giúp mọi người

Thoát khỏi mối nguy hiểm

Vì lệ thuộc một nhà

Muốn từ bỏ tham dục

Ðể du hành tùy thích

Khi đi mắt nhìn xuống

Trước mặt một tầm cày

Tỷ kheo hãy thận trọng

Từng nhà tuần tự khất.

 

35. Khổ hạnh nhất toạ thực được thọ trì bằng cách lập nguyện theo hạnh nhất toạ thực. Khi người theo khổ hạnh này ngồi xuống trong phòng ăn, thì phải ngồi đúng chỗ dành cho mình. Nếu giáo thọ sư hay y chỉ sư của vị ấy đến trong lúc bữa ăn chưa xong, vị ấy được phép đứng lên để chào. Nhưng Trưởng lão Tam tạng Cìla-abhaya nói: "Vị ấy nên ngồi mà ăn cho xong, hoặc nếu đứng lên thì phải bỏ đồ ăn còn lại". (để khỏi vi phạm khổ hạnh)

 

36. Khổ hạnh này cũng có ba bực. Người theo cấp một (nghiêm nhặt) không được ăn nhiều hơn những gì mình đã lấy một lần vào bát, Nếu có người nang thêm bơ ...Có thể dùng làm thuốc chữa bệnh, chứ không để ăn. Người theo cấp hai có thể nhận thêm, nếu trong bát chưa hết, vì vị này là người" ngừng ăn khi đồ ăn trong bát đã sạch". Người theo cấp ba có thể ăn bao lâu chưa rời chỗ, vị này là người" ngừng ăn theo nước" vì ăn cho đến khi lấy nước để tráng bát hoặc ngừng ăn theo chỗ ngồi, vì vị ấy ăn cho đến khi nào đứng dậy. Khổ hạnh của cả ba hạng này bị phá khi họ ăn hơn một lần. Ðó là sự phá giới trong hạnh nhất toạ thực.


37. Khổ hạnh ấy có những lợi lạc này: vị ấy ít bệnh, ít não, thân thể nhẹ nhàng, có sức khoẻ, có một đời sống hạnh phúc, không vi phạm những học giới về ăn, loại trừ lòng tham vị ngon và sống thiểu dục tri túc.

 

38. Không có bệnh do ăn

Tỳ kheo nhất toạ thực

Khỏi hy vọng vị ngon

Bỏ phế cả đạo nghiệp

Vị ấy được hạnh phúc

Tâm tư thật trong sáng

Thanh tịnh và viễn ly

Hưởng hiện tại lạc trú.

 

39. Hạnh ăn một bát; Ðược thọ trì, với 1 lời nguyện: "Tôi từ chối bát thứ hai" hoặc "Tôi giữ hạnh ăn bằng bát". Khi ăn cháo người theo khổ hạnh này được dùng cà ri để trong 1 cái dĩa, vị ấy được phép hoặc ăn cà ri trước hoặc uống hết nước cháo trong bát rồi bỏ cà ri vào, vì nếu bỏ cà ri vào bát trộn chung với cháo thì sẽ rất khó ăn (lợm). Nhưng nếu đồ ăn không lợm thì phải để vào trong bát mà ăn. Khi lấy đồ ăn, nên lấy vừa phải lượng cần dùng bởi vì vị ấy không được lấy bát thứ hai.


40. Khổ hạnh này cũng có ba bực. Cấp 1 thì trừ mía, không được ném bỏ rác bẩn trong khi ăn hoặc bẻ nhỏ các miếng ăn. Rác bẩn phải được vứt bỏ, đồ ăn phải được bẻ nhỏ trước khi ăn. Người theo cấp 2 được bẻ nhỏ đồ ăn trong khi ăn, vị ấy là "khổ hạnh ăn bằng tay". Cấp 3 gọi là "khổ hạnh ăn bằng bát", bất cứ gì để vào bát, vị ấy đều được phép trong khi ăn, bẻ nhỏ ra (cơm cục...) bằng tay hoặc bằng răng (đường thốt nốt gừng v.v..) Khi 1 trong 3 người nói trên bằng lòng nhận một bát thứ hai thì khổ hạnh của họ bị phá.

 

41. Khổ hạnh này có những lợi lạc sau: lòng tham nhiều vị được trừ

khử, mong cầu thái hoá được từ bỏ, vị ấy thấy rõ mục đích và lượng

thức ăn vừa đủ, không bận tâm mang theo soong chảo, đời sống vị ấy

phù hợp với nguyên tắc thiểu dục tri túc...

 

42. Vị ấy khỏi hoài nghi

Về những thức ăn khác

Nhìn bát ăn trang nghiêm

Dứt sạch lòng tham vị

Hài lòng tính tự nhiên

Chánh ý tâm hoan hỉ

Người khổ hạnh một bát

Ðược tư cách như trên

 

43. Khổ hạnh Không ăn đồ tàn thực (đồ nhận được sau khi đã ăn xong) được thọ trì bằng cách phát nguyện: "Tôi từ chối đồ ăn thêm" hoặc "Tôi thọ giới không ăn tàn thực". Khi vị giữ hạnh này chứng tỏ mình đã ăn đủ thì không được nhận thức ăn để ăn.

 

44. Có ba bực. Ở đây không có gì chứng tỏ vị ấy đã ăn vừa với miếng đầu tiên, song khi đang nuốt miếng ấy mà từ chối, thì có sự chứng tỏ đã ăn đủ. Bởi thế, người theo cấp 1 khi đã chứng tỏ mình ăn vừa đủ thì không thể nhận miếng thứ hai để ăn sau khi nuốt miếng thứ như Người theo khổ hạnh cấp 2 thì cứ vẫn ăn sau khi đã nói thôi. Người theo cấp 3 có thể tiếp tục ăn cho đến khi rời khỏi chỗ. Lúc nào 1 trong 3 người ấy ăn thêm sau khi đã ăn xong thì khổ hạnh bị hỏng. Ðây gọi là phá giới trong trường hợp này.

 

45. Khổ hạnh này có những lợi ích như sau: Vị ấy khỏi lỗi liên hệ đến đồ ăn tàn thực, khỏi bị bội thực, khỏi cất giữ thức ăn, khỏi tìm kiếm thêm đồ ăn. Vị ấy sống đúng theo hạnh thiểu dục tri túc....

 

46. Không ăn đồ tàn thực

Khỏi tìm kiếm nhọc công

Khỏi cất chứa đồ ăn

Và cũng không bội thực

Muốn tránh những lỗi này

Thì nên theo hạnh ấy

Ðược Thế Tôn ca tụng

Vì tăng trưởng hỉ túc

 

47. Hạnh ở rừng được thọ trì với một lời nguyện: "Tôi không ở một trú xứ trong xóm làng" hoặc "Tôi lập hạnh sống ở rừng".

 

48. Người lập nguyện này phải rời bỏ trú xứ trong xóm làng để vào rừng lúc bình minh. "Trú xứ trong làng" có nghĩa là khu làng và phụ cận. "Làng" có thể gồm 1 hay nhiều nóc nhà tranh, có thể được bao quanh bằng tường hay không, có thể có người ở hay không, cũng có thể là một khu trại có người ở trong khoảng hơn 4 tháng. "Phụ cân" của làng là phạm vi một hòn đá rơi xuống do người có tầm vóc trung bình đứng ở cổng làng ném ra, nếu làng có cổng. Theo các Luật sư thì phụ cận là tầm ném đá của một thanh niên luyện cánh tay bằng cách ném đa. Theo luận sư căn cứ vào kinh, thì chỉ là tầm ném đá khi người ta đuổi quạ. Nếu làng không có tường ngăn ranh giới thì "phụ cận của nhà" là tầm nước rơi do một người đàn bà đứng từ cửa nhà ở bìa, bưng đổ hắt ra. Từ điểm nước rơi, tầm ném đá theo cách vừa kể gọi là làng. Từ chỗ này, trong phạm vi ném hòn đá thứ hai, là phủ cận làng.

 

49. "Rừng" theo định nghĩa của Luật là "Trừ làng và phụ cận, tất cả đất còn lại là rừng". (Vin. iii, 46). Theo Luận thì "Ra khỏi" trụ mốc ranh giới làng gọi là rừng". (Vbh. 25l). Nhưng theo kinh, thì đặc điểm của rừng là "Một trú xứ ở rừng là khoảng cách 500 độ dài của cái cung" (Vin.iv, 183). Có nghĩa là phải đo bằng cung của người dạy bắn cung từ cột trụ cổng làng nếu có, hoặc từ một tầm đá ném nếu làng không cổng, cho đến bức tường của trú xứ tự viện ở rừng.

 

50. Nhưng nếu tự viện không có tường thì theo các Luật giải, do bằng cách lấy cái nhà ở đầu tiên làm ranh giới, hoặc lấy nhà ăn, chỗ họp, cây bồ đề, chánh điện làm ranh, dù cách xa nhà ở trong tự viện. Nhưng Luận Trung bộ nói bỏ vùng phụ cận của viện và của làng, khoảng cách phải do là giữa hai tầng đá rơi.

 

51. Ngay cả khi làng ở gần kề, có thể nghe tiếng người từ trong tự viện, tự viện ấy vẫn được xem là trú xứ ở rừng nếu khoảng giữa có những mỏm đá, sông... Ngăn cách không thể đi thẳng đến và độ dài khoảng cách đường thuỷ là 500 cung. Nhưng nếu người nào cố ngăn bít chỗ này chỗ kia trên đường vào làng, làm cho nó dài ra để có thể bảo rằng mình làm đúng luật thì đó là khổ hạnh bịp.

 

52. Nếu y chỉ sư hay giáo thọ sư của hành giả bị bệnh và ở rừng không thể kiếm được những gì cần cho bệnh, thì có thể đưa thầy đến một trú xứ ở làng để săn sóc nhưng phải rời làng đúng lúc để trở lại rừng vào lúc rạng đông. Nếu cơn bệnh gia tăng vào lúc trời gần sáng thì hành giả phải lo cho vị thầy chứ không được bận tâm về sự giữ gìn khổ hạnh của mình.

 

53. Khổ hạnh này cũng có ba bực. Cấp 1, người ấy phải luôn luôn trở về rừng vào lúc bình minh. Cấp 2, có thể cư trú tại 1 khu làng vào bốn tháng mùa mưa. Cấp 3, có thể ở làng luôn cả mùa đông. Nếu trong thời gian đã định, 3 hạng nói trên rời rừng để đi nghe pháp tại một trú xứ ở làng, khổ hạnh của họ không bị hỏng nếu trở lại rừng đúng lúc bình minh. Nhưng nếu giảng sư đã đứng lên mà vị ấy nằm 1 lát rồi ngủ quên khi mặt trời đã mọc, hoặc ở lại cố ý, cho đến khi mặt trời mọc, thì khổ hạnh ở rừng bị phá.

 

54. Và đây là những lợi lạc trong khổ hạnh ở rừng. Một tỷ kheo ở rừng tác ý vào lâm tưởng (xem M. 121) có thể đạt được ngay trong hiện tại định tướng chưa đạt, hoặc duy trì định tướng đã đạt. Bậc Ðạo sư hài lòng về vị ấy, như kinh nói: "Này Nàgita, ta hài lòng về vị tỷ kheo sống ở rừng" (A. iii, 343) Khi sống tại một trú xứ xa vắng, tâm hành giả không bị dao động bởi những sắc pháp không thích đáng ...Vị ấy khỏi những lo âu, từ bỏ bám víu vào đời và thưởng thức lạc thú độc cư. Hạnh đầu đà khác như phấn tảo y... Dễ dàng tu tập đối với vị ấy.

 

55. Ðộc cư nơi xa vắng

Làm cho tâm hân hoan

Ðấng Ðạo sư hài lòng

Vị độc cư rừng thẳm,

Người vui hạnh ở rừng

Lại được hưởng hương vị

Còn hơn cả giá trị

Hạnh phúc của vua trời

Áo giáp y phấn tảo

Tung tăng trong rừng già

Lâm tuyền dễ thực hiện

Bao nhiêu hạnh đầu đà

Tỳ kheo ấy chắc chắn

Làm quần ma kinh hoảng

Bởi thế người có trí

Nên vui hạnh ở rừng.

 

56. Hạnh ở gốc cây: Ðược thọ trì bằng cách thốt lời nguyện: "Tôi từ chối một mái nhà" hoặc "Tôi theo khổ hạnh ở gốc cây" Vị theo khổ hạnh này nên tránh những loại cây như sau: cây gần chỗ biên giới, cây có thờ cúng, cây cao su, cây ăn trái, cây có nhiều dơi, cây có lỗ hổng, cây đứng giữa một tự viện. Vị ấy có thể chọn một gốc cây ở phía ngoài một ngôi chùa. Ðây là chỉ dẫn.

 

57. Khổ hạnh này cũng có ba bực. Cấp 1 không được phép quét dọn sạch sẽ gốc cây đã chọn, mà chỉ có thể dùng chân để hất đi những lá rụng trong khi ở. Người theo cấp 2 có thể nhờ 1 người nào đi ngang quét dọn gốc cây. Cấp 3 có thể sai những chú tiểu trong chùa quét, san bằng đất, rải cát, làm rào quanh gốc cây với một cái cổng vào. Ðến ngày lễ lạc, người ở gốc cây nên ngồi vào một chỗ nào khuất nẻo. Lúc nào một trong ba hạng nói trên có trú xứ dưới một mái che thì khổ hạnh bị phá.


58. Những lợi lạc là, vị ấy làm đúng theo Luật nói: "Xuất gia bằng cách tùy thuộc vào trú xứ gốc cây" (Vin. i, 58) được đức Ðạo sư tán thán, vì "không có giá trị, dễ kiếm và không lỗi" (A. ii, 26); tưởng về vô thường được khơi dậy khi thấy lá cây luôn thay đổi, sự tham chỗ trú và ưa xây cất không có mặt nơi vị ấy, vị ấy sống cộng trú với chư thiên, phù hợp nguyên tắc ít muốn...

 

59. Ðức đạo sư ca tụng

Một trong những tùy thuộc

Chỗ nào bằng gốc cây

Cho người ưa tịch tĩnh?

Ðộc cư dưới gốc cây

Ðược chư thiên hộ vệ

Vị ấy sống chơn tu

Không tham về trú xứ

Nhìn lá cây xanh non

Trở màu đỏ lục vàng

Lần lượt đều rơi rụng

Hết tin ở trường tồn.

Ðức đạo sư phú chúc

Gốc cây nơi vắng vẻ

Không người trí nào chê

Vì dễ quán sinh diệt.

 

60. Hạnh ở ngoài trời: Ðược thọ trì bằng cách thốt lời nguyện: "Tôi từ chối mái nhà và gốc cây" hoặc "Tôi tu hạnh ỏ giữa trời". Người theo hạnh này được phép đi vào nhà Bố tát để nghe pháp hoặc bố tát. Nếu trong khi vị ấy đang ở trong nhà mà trời mưa, vị ấy có thể chờ hết mua rồi đi ra. Vị ấy có thể vào nhà ăn, nhà bếp để làm phận sự hoặc vào dưới một mái che để hỏi những thượng toạ tỳ kheo về một bữa ăn, vào để dạy hay học, để khuân vác đồ đạc từ ngoài. Nếu đang đi mang theo đồ dùng của các thượng toạ mà trời đổ mưa thì được vào một chỗ trú cho nhanh, nhưng nếu không mang gì cả thì phải đi với tốc độ bình thường vào chỗ trú. Luật này cũng áp dụng cho người ở gốc cây. Ðây là chỉ dẫn.

 

61. Có ba cấp bực. Cấp 1 không được ở gần một gốc cây, mỏm đá hay nhà. Phải dùng một tấm y làm lều mà ở giữa trời. Cấp 2 được ở gần một gốc cây, tảng đá, nhà, mà không ở dưới đó. Cấp 3 thì có thể ở dưới một hốc đá không có ống máng (đục để ngăn mưa lọt), dưới lều bằng cành cây, dưới một tấm lều vải được hồ cho cứng và dưới một cái lều của người canh ruộng bỏ không. Lúc họ đi vào dưới một mái nhà hay một gốc cây để ở thì khổ hạnh bị phá. Những vị tụng Tăng chi bộ bảo, khổ hạnh của họ bị phá khi một trong ba hạng cố ý ở dưới một gốc cây... vào lúc mặt trời đã mọc.

 

62. Có những lợi lạc như sau: Khỏi có những chướng ngại do chỗ trú gây ra, trừ được hôn trầm biếng nhác. Hạnh của vị ấy xứng đáng lời ca tụng "như thú rừng, tỳ kheo ấy sống không ràng buộc và không nhà" (S. i,199). Vị ấy thong dong, muốn đi đâu cũng được, sống phù hợp với nguyên tắc ít muốn, biết đủ...


63. Nhờ ở nơi khoảng trống

Tỳ kheo thêm tinh cần

Dễ kiếm, tâm bén nhạy

Như con nai giữa rùng

Hết hôn trầm biếng nhác

Dưới vòm trời đầy sao

Trời trăng làm ánh sáng

Thiền định đem hân hoan

Hương vị độc cư lạc

Vị ấy sẽ tìm được

Khi sống giữa đất trời

Người trí hãy yêu thích

 

64. Hạnh ở nghĩa địa được thọ trì với lời nguyện: "Tôi từ chối chỗ trú không phải nghĩa địa" hoặc "Tôi tập hạnh sống tại nghĩa địa". Người ấy không được ở một nơi chỉ có cái tên là "đất nghĩa trang" vì chỗ nào không có tử thi được đặt thì không phải nghĩa địa. Nhưng khi đã có tử thi đã được đốt ở đấy, thì chỗ ấy trở thành nghĩa địa, dù có bị bỏ phế đã hơn 10 năm.

 

65. Một người sống ở nghĩa địa không được sai làm sẳn những đường đi, lều trại... đặt sẳn bàn ghế giường, nước rửa, nước uống và giảng pháp, vì khổ hạnh là việc trong đại hơn vị ấy phải tinh cần và phải báo cho các bậc trưởng lão hoặc chính quyền địa phương biết để ngăn ngừa sự lôi thôi. Khi đi kinh hành, nên vừa đi vừa nhìn giàn hoả (để thiêu tử thi) với nữa con mắt. Trên đường đi đến nghĩa địa, vị ấy phải tránh những chính lộ và theo con đường mòn. Cần nhận kỹ những sự vật ở đấy vào lúc ban ngày để về đêm, khỏi tưởng ra những hình thù ghê sợ. Ngay cả lúc phi nhân (ma) có đi vất vưởng vừa đi vừa rú lên, vị ấy cũng không được ném vật gì vào những hồn ma ấy. Không được bỏ công việc đi đến nghĩa địa dù chỉ một ngày. Những vị tụng đọc Tăng chi bộ kinh bảo, sau khi trải qua canh giữa tại nghĩa địa, hành giả được phép rời khỏi vào canh cuối. Không được ăn những thứ như bột mè, bánh bao, cá thịt, sữa, dâu... Những thứ ma ưa thích. Không được đi vào những gia đình. Ðây là chỉ dẫn.

 

66. Khổ hạnh này cũng có 3 bực. Cấp 1 phải sống tại những nơi luôn luôn có việc thiêu đốt, tử thi và tang lễ. Cấp 2 được phép sống ở nơi chỉ có 1 trong 3 điều ấy. Cấp 3 có thể sống tại 1 nơi chỉ có những đặc tính của một nghĩa địa như đã nói trên. Khi 1 trong 3 hạng người ấy có trú xứ tại một nơi không phải nghĩa địa thì khổ hạnh bị phá. Những vị tụng đọc Tăng bộ chi thì bảo khổ hạnh bị phá vào ngày nào mà 1 trong 3 hạng ấy không đi đến nghĩa trang.

 

67. Những lợi ích như sau: Hành giả được sự tưởng niệm về cái chết, sống tinh tấn, tưởng bất tịnh luôn hiện tiền, tham dục biến mất vì luôn luôn thấy được thực chất của thân thể. Vị ấy có tỉnh giác cao độ, từ bỏ 3 kiêu mạn, về sự sống, tuổi trẻ và vô bệnh, chinh phục sợ hãi khiếp đảm, phi nhân tôn trọng vị ấy. Vị ấy sống đúng theo hạnh tri túc thiểu dục...

 

68. Hành giả ở nghĩa địa

Ngủ cũng thường tinh tấn

Tử tưởng luôn hiện tiền

Tham dục nào bén mảng

Ý thức đời phù du

Tận trừ mọi kiêu mạn

Với người hướng Niết bàn

Hạnh này nhiều lợi lạc.

 

69. Khổ hạnh nghỉ đâu cũng được thọ trì bằng cách phát nguyện: "Tôi từ bỏ lòng tham đắm sàng toà" hoặc "Tôi giữ hạnh nghỉ đâu cũng được". Người lập hạnh này phải bằng lòng với bất cứ chỗ nghi nào mình có được, khi người phân phối bảo: "Chỗ này thuộc về ông" vị ấy không được bảo người nào dời chỗ.

 

70. Có 3 cấp bực. Cấp 1 không được hỏi thăm về trú xứ dành cho minh, như: "Có xa không?" hoặc "Có quá gần không?" hoặc "Chỗ ấy nóng không?" hoặc "Chỗ ấy lạnh không?" Cấp 2 được phép hỏi nhưng không được đi quan sát trước. Cấp 3 thì được đem quan sát trước và nếu không thích, có thể chọn một chỗ ở khác. Khi lòng tham đối với trú xứ khởi lên trong tâm những vị này, thì khổ hạnh bị hỏng. Ðây là phá giới ở khổ hạnh này.

 

71. Có những lợi lạc như sau vị ấy làm đúng lời khuyên "Vị tỳ kheo nên hỷ túc với những gì mình có được" (Vin. iv, 259), có tâm nghĩ tưởng đến những người đồng phạm hạnh, từ bỏ so đo cao thấp, bỏ tâm thuận nghịch, đóng cái cửa tham muốn, sống theo hạnh thiểu dục tri túc...

 

72. Người ở đâu cũng được

Hài lòng cái mình có

Ngủ nghỉ trong an lạc

Dù trên đệm cỏ khô

Không ham cầu chỗ thấp xấu

Không ghét chỗ thấp xấu

Giúp đỡ bạn đồng tu

Tỳ kheo còn ngơ ngáo

Bởi vậy người có trí

Hỷ túc với sàng toà

Ðây hạnh đáng yêu mến

Ðược Thế Tôn khen ngợi.

 

73. Khổ hạnh ngồi được thọ trì bằng cách phát nguyện: "Tôi sẽ không nằm" hoặc "Tôi giữ hạnh không nằm" Hành giả có thể đứng hoặc đi bất cứ giờ nào trong đêm vì chỉ cấm nằm. Ðây là chỉ dẫn.

 

74. Có 3 cấp bực. Cấp 1 không được dùng 1 chỗ tựa lưng hay dây vải băng ngang người hoặc nịt lưng (phòng khi ngủ bị té). Cấp 2 được dùng bất cứ thứ nào trong 3 loại ấy. Cấp 3 được dùng 1 chỗ tựa, 1 băng vải, 1nịt lưng, 1 gối dựa, 1 "cái 5 chân" và 1 "cái 7 chân". Cái 5 chân là dụng cụ gồm 4 chân và chỗ dựa lưng (ghế tựa). Cái 7 chân là dụng cụ gồm 4 chân, chỗ dựa lưng và 2 bên có chỗ tỳ cánh tay (ghế dựa). Cái 7 chân là dụng cụ gồm 4 chân, chỗ dựa lưng và 2 bên có chỗ ghế như vậy đã được chế cho trưởng lão Pìthàbhaya (Abhaya ngồi ghế). Vị này chứng quả Bất hoàn trước khi viên tịch. Khi 1 trong 3 hạng người ấy nằm thì khổ hạnh của họ bị phá.

 

75. Những lợi ích như sau: xiềng xích trói buộc tâm, như "Vị ấy say mê lạc thú nằm dài, nghỉ ngơi, biếng nhác," bị cắt đứt, dễ chú tâm vào đề mục thiền định, để tinh cần tinh tấn, phát triển hạnh tu.

 

76. Ẩn sĩ ngồi kiết già

Bàn chân trên hai vế

Lưng thẳng ngồi bất động

Làm kinh động ác ma.

Không ưa thú nằm dài

Sa đoạ trong biếng lười

Tùy kheo ngồi an nghỉ

Sáng chói khổ hạnh lâm

Hỷ lạc siêu thế gian

Tuôn phát từ hạnh ấy

Người có trí do vậy

Yêu mến khổ hạnh ngồi.

Trên đây là luận về thọ giới, chỉ dẫn, cấp bực, sự vi phạm và những lợi lạc trong khổ hạnh ngồi.

 

77. Bây giờ, hãy luận về những điểm kế tiếp xem số 3, 4, 5, 6, 7.

 

78. Về phương diện Ba tánh: Tất cả khổ hạnh của hữu học, phàm phu và A-la-hán đều có thiện hay bất định, chứ không khổ hạnh nào bất thiện (bất định là trường hợp A-la-hán). Nhưng nếu có người bảo cũng có khổ hạnh bất thiện vì kinh nói: " Người có ác dục, làm mồi cho dục, trở thành một vị sống ở rừng" (A. iii, 219)...Thì nên trả lời: "Người nào có trú xứ trong rừng thì gọi là người ở rừng, nhưng vị ấy có thể là người có ác dục hay thiểu dục. Nhưng như đã nói (đoạn 11), những khổ hạnh ấy sở dĩ được gọi là đầu đà (dhuta) vì hành giả đã rũ sạch (dhuta) cấu uế bằng cách thọ trì một trong những khổ hạnh ấy. Không ai gọi là khổ hạnh vì người bất thiện có thể hành trì, mà đã bất thiện thì không thể rũ sạch được thứ gì để có thể gọi hạnh của kẻ đó làm là khổ hạnh. Và cái gì bất thiện thì không thể vừa rũ sạch lòng ham (y phục)... Vừa trở thành lối thực hành của đạo. Do đó, có thể bảo, không khổ hanh nào là bất thiện.

 

79. Những người cho rằng khổ hạnh là ở ngoài ba tánh (không thuộc thiện hay bất thiện hay bất định), thì không có khổ hạnh kể về ý nghĩa *. (ám chỉ những vị ở Abhayagiri tại Anuràdhapura. Họ cho rằng khổ hạnh là một khái niệm chỉ có danh tướng (nàma-pamatti), mà như vậy thì cũng không thể có nghĩa rũ sạch cấu uế hay khả tính về sự thọ trì, vì theo ý nghĩa tối hậu, chúng phi hữu, vì khái niệm tà phi hữu). Do rũ sạch cái gì, mà một cái vốn phi hữu có thể được gọi là khổ hạnh? Vậy mà vẫn có câu "Bắt đầu thọ trì những khổ hạnh" (Vin. iii, 15) do đó thành mâu thuẫn. Cho nên thuyết này (cho rằng khổ hạn không ở trong ba tánh) không thể chấp nhận.


80. Kế tiếp, có sự phân biệt giữa ý nghĩa "người tu khổ hạnh", "người nói về khổ hạnh", "các pháp khổ hạnh", "các khổ hạnh", và hạng người nào cần thực hành khổ hạnh.

 

81. Người tu khổ hạnh là người đã rũ sạch cấu uế. Người giảng nói về khổ hạnh: có người tu khổ hạnh mà không giảng về khổ hạnh, có người giảng về khổ hạnh mà không phải là người tu khổ hạnh, có người không giảng cũng không tu, có người vừa giảng vừa tu.

 

82. Một người đã rũ sạch những cấu uế nào một khổ hạnh, nhưng không khuyên dạy kẻ khác thực hành khổ hạnh, là hạng thứ nhất, như trưởng lão Bakkula (Bạc câu la). Người bản thân chưa tẩy sạch những cấu uế, mà chỉ khuyên dạy kẻ khác tu khổ hạnh, là như trưởng lão Upananda. Người không tu khổ hạnh cũng không dạy khổ hạnh, như đại đức Làludàyin. Người vừa tu khổ hạnh vừa dạy tu khổ hạnh, như bậc tướng quân Chánh pháp là tôn giả Xá Lợi Phất.

 

83. Những pháp khổ hạnh: là 5 pháp câu hữu với khổ hạnh: ít muốn, biết đủ, viễn ly, độc cư, và cái có được nhờ các thiện pháp ấy.

 

84. Ít muốn và biết đủ là vô tham. Ðộc cư và viễn ly là: viễn ly thuộc về vô tham, độc cư thuộc vô si: "Cái có được nhờ các thiên pháp ấy", là trí, cái trí nhờ đó một người thực hành khổ hạnh, và kiên trì trong các đức tính khổ hạnh (idamatthità: imenhi ku saladhammehiatthi: idam[1]athi). Ở đây, nhờ vô tham mà một người rũ bỏ tâm tham đối với những vật bị người rũ bỏ tâm tham đối với những vật bị cấm chỉ. Nhờ vô si, vị ấy rũ bỏ cái mặt nạ lừa dối khoác ở ngoài những vật ấy để che lấp sự nguy hiểm của chúng. Và nhờ vô tham, vị ấy rũ bỏ đam mê khoái lạc giác quan khi sử dụng những vật dụng hợp pháp. Nhờ vô si, vị ấy rũ bỏ sự say mê khổ hạnh khi thực hành khổ hạnh.

 

85. Những khổ hạnh là 13 hạnh đầu đà nói trên.

 

86. Hạng người nào trên tu khổ hạnh: Khổ hạnh thích hợp cho những cho những người nhiều tham và si. Vì sao? Vì việc tu khổ hạnh vừa là một tiến trình khó khăn, (xem Chương 20, đoạn 117), vừa là một sự trú trong viễn ly: do khó tiến, mà tham giảm thiểu; do tinh cần trong viễn ly, si giảm thiểu. Hoặc hạnh ở rừng và ở gốc cây thích hợp cho người nhiều sân, vì sân giảm thiểu nơi một người ở những nơi không vướng vào xung đột.

 

87.  Theo nhóm và riêng biệt: Theo nhóm, thì những khổ hạnh chỉ gồm có tám: ba chính và năm lẻ. Ba chính, là Khất từng nhà, nhất toạ thực, và ở ngoài trời. Hạnh khất thực từng nhà bao gồm trong hạnh nhất toạ thực. Và một người đã ở ngoài trời thì cần gì phải thọ giới ở gốc cây, hay giới nghỉ chỗ não cũng được? Bởi vậy, chỉ có ba khổ hạnh chính này, cùng với năm khổ hạnh riêng biệt là ở rừng, mặc y phấn tảo, hạnh ba y, hạnh ngồi và hạnh ở nghĩa địa làm thành tám khổ hạnh mà thôi.

 

88. Lại nữa, chúng gồm bốn, hai liên hệ y phục, năm liên hệ thực phẩm, năm liên hệ trú xứ, và 1 liên hệ đến sự tinh cần (khổ hạnh ngồi). Lại nữa, các khổ hạnh rút lại chỉ gồm hai: 12 hạnh thuộc về trú sự, và một về tinh cần. Và gồm hai, xét theo cái gì nên tu tập cái gì không nên. Khi một người tu khổ hạnh thấy đề tài quán tưởng của mình được tiến bộ, thì nên tu khổ hạnh, nhưng nếu không tiến bộ mà còn thối, thì không nên tu. Khi vị ấy thấy dù khổ hạnh hay không thiền quán vẫn tiến bộ, thì nên tu khổ hạnh vì lòng thương tưởng đến hậu lai. Và khi vị ấy thấy, dù tu khổ hạnh hay không, đề tài thiền quán vẫn không tiến bộ, thì vị ấy vẫn nên tu khổ hạnh, để tạo một thói quen tốt cho tương lại. Do đó, mà nói tất cả khổ hạnh chỉ gồm hai thứ.

 

89. Và tất cả khổ hạnh đều thuộc một loại, là tư tâm sở. Vì chỉ có một khổ hạnh, đó là cái ý chí, chí nguyện thọ trì. Sớ giải nói: "Chính tư tâm sở gọi là khổ hạnh".

 

90. Riêng biệt, thì có 13 khổ hạnh cho tỷ kheo, 8 cho tỷ kheo ni, 12 cho sa di, 7 cho sa di ni và tịnh nữ, 2 cho nam, nữ cư sĩ. Như vậy tất cả 42.

 

91. Nếu có một nghĩa địa ở khoảng trống phù hợp với khổ hạnh ở rừng, thì một tỷ kheo có thể đồng lúc thực hiện cả 13 khổ hanh. Nhưng 2 khổ hạnh ở rừng và không ăn tán thực thì Luật cấm các tỷ kheo ni thực hành. Và cũng khó cho những vị này thực hành 3 khổ hạnh ở giữa trời, ở gốc cây và ở nghĩa địa, vì tỷ kheo ni không được ở 1 mình không có bạn ở chung, mà thực khó tìm được 1 người đồng một khuynh hướng thích nơi như vậy và cho dù có 1 người thì hành giả cũng không thoát khỏi tinh trạng phải sống chung với 1 người khác. Bởi thế, việc tu khổ hạnh của họ không đi đến đâu. Do vậy, khổ hạnh dành cho tỷ kheo ni rút lại còn 8, vì một số khổ hạnh không thể áp dụng cho nữ.

 

92. Từ khổ hạnh ba y, 12 khổ hạnh kia dành cho sa di, 7 khổ hạnh (8 khổ hạnh dành cho sa-di ni và tịnh nữ). Hai khổ hạnh hợp nhất toạ thực và ăn bằng bát là đặc biệt thích hợp cho nam nữ cư sĩ. Với cách ấy, có hai loại khổ hạnh.

 

93. Ðến đây chấm dứt luận về những khổ hạnh được thọ trì để viên mãn các đức đặc biệt (ít muốn, biết đủ, v.v...) nhờ đó phát sinh thanh tịnh giới, như được tả trong thanh tịnh giới, như được tả trong thanh tịnh đạo, đạo lộ được chỉ rõ trong bài kệ "Người trú giới có trí..." dưới ba đề mục Giới, Ðịnh và Tuệ. Chương 2 này được soạn để làm hoan hỷ những người lành.




Cần Phá Lối Chấp Nhị Biên

 

Những mối nghi về Tịnh Độ theo loại trên hãy còn nhiều. Đó do bởi người học Phật còn lối chấp hai bên, chưa dung hóa được giữa tánh tướng, có không, sự lý. Vì thế nên mới dùng tánh phá tướng, đem lý bác sự, lấy không bài có, và ngược lại, để gây thành những tranh chấp nghi vấn phân vân. Họ không ngờ sự lý tương tức, nghĩa là sự tức lý, lý tức sự, nếu phân chia ra mà nhận định thiên lệch, thì sự không thành chân sự, lý chẳng phải chân lý; cả đến tánh tướng, có không, và các pháp nhị biên khác cũng như vậy. Vì thế trong Kinh Duy Ma Cật mới nói đến Bất Nhị pháp môn, nghĩa là pháp môn Không Hai, để phá trừ lối chấp hai bên đó. Không Hai là dung hóa tất cả để nhập vào tánh thể, chớ chẳng phải một. Đây mới thật là chân cảnh của duy tâm. Ngoài ra, sự lập pháp riêng về hữu môn hay không môn, cũng còn ở trong vòng phương tiện quyền hóa mà thôi.

 

Kinh nói: "Chán bỏ công đức hữu vi là nghiệp ma. Tham trước công đức vô vi cũng là nghiệp ma." Cổ đức cũng bảo: "Pháp hữu vi tuy huyễn, phế bỏ tất đạo nghiệp không thành. Pháp vô vi tuy chân, chấp lấy thì huệ tánh chẳng rộng." Những lời này chứng minh rõ, trên đường tu, sự lý không thể rời nhau.

Luận Trung Quán lại nói: "Vì chúng sanh thông thường chấp trệ nơi hình thức nên kinh giáo mới dùng lý Không để phá trừ. Nếu vừa lìa bịnh chấp có, lại rơi vào bịnh chấp không, tất chẳng còn thuốc gì chữa khỏi." Bởi lý Bát Nhã Không nghe cao siêu mầu nhiệm, nên hàng trí thức khi xem đến những loại kinh này, phần nhiều hay vương vào chứng bịnh "nói lý", việc gì cũng lý thuyết hóa, khinh thường những người hành trì theo sự tướng, gây thành lỗi ngã mạn, tự kiêu. Miệng họ tuy nói không, nhưng hành vi lại ở trong có, chính hợp với câu:

 

Đầu mồm nói suốt trăm phần diệu.
Dưới gót không ly một điểm trần!

Khi xưa, các bậc đại tri thức cũng thường dùng lý không để trừ bịnh chấp có, nhưng chỗ tu chúng cùng sự khai hóa của những vị ấy đúng tư cách và hợp cơ nghi, mới đem lại lợi ích. Chẳng hạn như câu chuyện sau đây:

Có một vị thiền sư tu hành rất tinh tấn, ban đêm chẳng ngủ và thường ngồi mãi không nằm. Nhưng đã lâu năm dụng công, sư vẫn chưa chứng ngộ. Trong chùa có chú Sa Di chẳng biết từ đâu đến, xin nhập chúng. Ông này thường biếng trễ thậm chí nhiều phen tiếng chuông công phu khuya nổi lên, vẫn nằm lỳ mãi không ngồi dậy. Thiền sư biết được, gọi đến quở rằng: "Sao đã vào chùa tu mà còn lười biếng cứ nằm mãi như thế? Chú không nghe trong Luật dạy: Nghe chuông mà vẫn nằm không ngồi dậy, tương lai sẽ đọa làm thân rắn hay sao?" Sa Di đáp: "Thầy bảo tôi thường nằm sẽ thành con rắn; còn thầy chấp cứ ngồi mãi cũng thành con cóc, chớ có chứng ngộ được chi?" Sa Di nói xong liền ẩn mất, nhưng vị thiền sư đã tỏ ngộ. Thì ra Sa Di này là một bậc đắc đạo, hiện thân đến khai hóa cho thiền sư.

Ngoài ra, còn câu chuyện Đơn Hà Thiên Nhiên hòa thượng cỡi lên cổ Phật và chẻ đốt tượng Phật gỗ để phá quan niệm chấp Phật. Sư Pháp Đạt vì ỷ mình đã tụng ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa, nên lạy đầu không chấm đất, bị đức Lục Tổ quở, để phá quan niệm chấp pháp, chấp công đức. Ngài Bắc Tháp sau khi chứng được Đại Tự Tại Tam Muội, viết danh hiệu Văn Thù, Phổ Hiền lên chiếc khố để phá quan niệm chấp Thánh Tăng.

Thuở xưa các bậc đại tri thức, mức tu chứng đã cao, biết tùy cơ nghi mà hóa đạo, lại những hành giả trong thời ấy có nhiều bậc thượng căn, nên sự giảng về lý "không" thường có lợi. Đời nay người trung, hạ căn nhiều, cách giảng hóa nên dung hòa sự-lý, tánh-tướng, mới không gây nghi ngờ và làm thối đạo tâm của người học Phật. Nếu đa số người chưa thể một bước đi thẳng vào cảnh chân không mà bác bỏ hình thức, tất sẽ diễn thành tai nạn "chưa được lên bờ đã vội phá bỏ chiếc bè", làm sao tránh khỏi cảnh đắm chìm? Lại còn một điều nên để ý, nếu nói lý không mà mình chưa được không, hoặc chưa có đôi phần tư cách nào trên sự tu, tất chẳng thể cảm hóa người, chỉ thành cuộc tranh chấp hơn thua vô ích. Trước đây, bút giả đã có lần chứng kiến cảnh tượng ấy: Một đại đức thông hiểu giáo lý ở ngụ nơi chùa nọ dạy kinh. Vị sư trụ trì đã lớn tuổi, siêng tụng niệm nhưng chấp theo cách thức xưa, thấy đại đức lối sống tự do có vẻ tân thời, ý không ưa thích, liền bảo: "Thầy khuyên dạy đạo mà ngày tối không thấy tụng một quyển kinh, niệm một câu Phật, như vậy làm sao nêu mô phạm tu hành cho đại chúng?" Vị đại đức đáp: "Cách tu có nhiều lối, phải chạy theo hình thức như thầy, tối ngày tụng niệm, mới gọi là tu sao?

Kinh Kim Cang nói:

Nhược dĩ sắc kiến ngã.
Dĩ âm thanh cầu ngã,
Thị nhơn hành tà đạo.
Bất năng kiến Như Lai!

 

Chớ đức Lục Tổ khi xưa đâu có tụng kinh niệm Phật gì, mà Ngài cũng đắc đạo, làm Tổ được vậy?"

Sư trụ trì đuối lý, đành lặng yên. Xét ra, sư trụ trì có lỗi chấp nê hình thức; vị đại đức tuy nói lý cao, song thật ra cũng chẳng tham thiền, tịnh niệm chi nên đã không cảnh giác nổi mà còn gây thêm sự bực bội cho sư.

Trong hai lối chấp có và không, sự chấp không rất nguy hại. Kinh Lăng Già cùng Mật Nghiêm đều bảo: "Thà chấp có như non Tu, chớ chấp không như hạt cải". Chấp có, ý nói hằng kiêng nhân quả, sợ tội phước, lo giữ giới, tụng niệm, làm lành, tuy bị hình thức bó buộc không tự tại giải thoát, nhưng gây được công đức và thiện căn. Còn chấp không, mình đã chưa chứng được Chân Không, lại chẳng chịu theo hình thức, siêng tu công đức, tất sẽ luân hồi sa đọa.

Bút giả tự xét mình, nghiệp chướng nhiều, căn tánh kém, vẫn không muốn lạm bàn đến đạo lý cao siêu, sợ e hạnh chẳng xứng lời, trở thành vọng ngữ. Nhưng với lòng thành muốn cho người dứt nghi ngờ sanh tín tâm niệm Phật, nên bất đắc dĩ phải thổ lộ ít nhiều. Hằng ví mình như người bại chân ngồi ở ngã ba đường, tuy không tự đi được, song cũng cố gắng chỉ nhắc hành khách tránh nẻo hiểm nguy, theo lối đi rộng bằng an ổn. Còn sự biện luận để phân biệt phải quấy kém hơn, tuyệt nhiên lòng không nghĩ đến!


NIỆM PHẬT THẬP YẾU

Comments

Popular posts from this blog