Phật Thích-ca Đản-sanh
Ngày Rằm Tháng 4 Âm Lịch
, LẦN THỨ 2648
PHẬT LỊCH 2568
( Tức Ngày 22/5/2024,
DƯƠNG LỊCH )
8 THÁNG 4 hoặc 15 THÁNG 4 ÂM LỊCH
“Định nhật”: Theo
cách tính thông thường trong lịch pháp phương Tây (Ấn Độ), tính toán trong một
tháng thiếu, [thì ngày thông thường trong một tháng đủ] sẽ ứng hợp với ngày nào [trong
tháng thiếu ấy]. Nếu
tháng thiếu thuộc vào bạch nguyệt, ngày Mười Lăm tháng ấy sẽ thuộc vào hắc
nguyệt, chẳng nên dùng. Lại nữa, lịch pháp tính chung chu kỳ vận chuyển của mặt
trời và mặt trăng để tính toán ngày mồng Một mỗi tháng, đều là gồm một tháng
thiếu, một tháng đủ. Do mặt trời và mặt trăng cùng vận hành, lại có sớm hay
trễ, hoặc có lúc trùng nhau, có lúc chẳng trùng. Do vậy, ngày mồng Một sẽ được
ấn định trước hay sau một ngày, ngày Rằm sẽ thuộc ngày mười bốn hay ngày mười
sáu [trong tháng đó]. Đại để, ngày Rằm trong tháng nhằm lúc trăng tròn thì gọi
là ngày Mười Lăm
thuộc bạch nguyệt, khi mặt trăng vừa đúng một nửa như lúc thượng
huyền thì cũng gọi là ngày mồng Tám.
Chỉ dùng cách tính như vậy để suy ra “định nhật”.
Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
ĐỨC PHẬT NHIÊN ĐĂNG THỌ KÝ
Nầy Tu-Bồ-Đề, nơi ý của Ông nghĩ thế nào? – Ở nơi chỗ đức Phật
Nhiên-Đăng thì Như Lai có pháp chi mà được thành Vô-thượng Chánh-đẳng
Chánh-giác chăng?"
"Bạch đức Thế-Tôn! Không, như chỗ con hiểu nghĩa-lý của lời
Phật dạy, thời ở nơi đức Phật Nhiên-Đăng, Đức Thế Tôn đã không có pháp chi mà
được thành Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác cả."
Đức Phật dạy rằng: "Đúng thế! Đúng thế! Nầy Tu-Bồ-Đề! Thiệt
không có pháp chi đức Như-Lai đặng Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác.
Nầy Tu-Bồ-Đề! Nếu còn có pháp nào mà đức Như-Lai được Vô-thượng
Chánh-đẳng Chánh-giác, thời đức Phật Nhiên-Đăng bèn chẳng thọ-ký cho Ta
rằng: "Ông ở đời sau sẽ được thành Phật hiệu là Thích-Ca
Mâu-Ni."
KINH KIM CANG
BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
Ý Nghĩa Cao Cả Trong Sự
Xuất Gia
Tìm Ðạo Của Ðức Phật
Những chiến sĩ chiến
thắng quân địch ở ngoài chiến trường, thường được ca tụng là anh hùng. Càng chiến thắng được
nhiều quân địch càng được hoan hô là anh hùng cái thế. Nhưng những kẻ anh
hùng cái thế ấy, như Nã Phá Luân, Thành Cát Tư Hãn, Xê Ða, liệu có thắng được
chính mình?
Cho nên thắng người đã
khó mà thắng mình lại khó hơn. Ðức Phật đã thắng cả ngoại cảnh lẫn nội tâm, đã
thắng được giặc Ma Vương của Dục Vọng. Ðức Phật thật xứng đáng với danh
hiệu Ðại
Hùng Ðại Lực.
Ngài không phải vì quyền
lời riêng mình mà chiến đấu. Ngài chiến đấu vì tình thương. Mà tình thương ở
đây cũng không phải chỉ nhằm tình thương trong phạm vi hẹp hòi của gia đình:
thương cha mẹ, vợ con, bạn bè. Tình thương ở đây là tình thương chúng sanh, tất cả sự sống trên
cõi đời. Tình
thương ấy nó rộng sâu như trời bể, thiết tha như tình mẹ thương con. Ðức Phật
thật xứng đáng với danh hiệu Đại Từ Ðại Bi.
Vì tình thương ấy, Ngài
đã hoan hỷ lìa bỏ ngôi báu cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, đàn hay múa
đẹp, mùi ngon vị lạ để sống một đời kham khổ, đạm bạc, thiếu thốn, giữa rừng
thiêng nước độc. Một khi mà rời bỏ thứ mà người đời cho là quý báu nói trên, Ngài
không một phút giây nào hối tiếc, muốn quay về để hưởng thụ lại. Bằng cớ là Ma Vương
đã sai con gái mình giả làm nàng Gia Du đến kêu gọi van xin Ngài trở về cung,
mà Ngài không một chút bận tâm thối chuyển. Ngài xứng đáng với danh hiệu
là Ðại
Hỷ Ðại Xả.
Cho nên ngày nay, mỗi khi
xưng tán danh hiệu Ngài, chúng sanh không thể không suy ngẫm cái ý nghĩa sâu
sắc và đúng đắn mà người đời từ xưa đến nay đã tôn xưng Ngài là Ðại Hùng,
Ðại Lực, Ðại Từ, Ðại Bi, Ðại Hỷ, Ðại Xả.
LƯỢC SỬ ÐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI
(từ Giáng sanh đến Thành
đạo)
Sa môn THÍCH THIỆN HOA
NAM MÔ
ÐẠI HÙNG, ÐẠI LỰC, ÐẠI TỪ, ÐẠI BI, ÐẠI HỶ, ÐẠI XẢ
BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
TÁM TƯỚNG
THÀNH ĐẠO
Theo Đại-thừa là:
1. ĐÂU SUẤT GIÁNG THẦN
2. NHẬP THAI
3. TRỤ THAI
4. ĐẢN SANH
5. XUẤT GIA
6. THÀNH ĐẠO
7. CHUYỂN PHÁP LUÂN
8. NHẬP NIẾT BÀN
Trong tám điều nầy, Tiểu-thừa thêm tướng HÀNG
MA mà không lập tướng Trụ-thai, vì cho trụ thai gồm
trong ĐẢN SANH; còn Đại-thừa thì
không lập tướng HÀNG MA , vì biết rõ ma chính là Phật.
1. ĐÂU SUẤT GIÁNG THẦN
Hộ-Minh
Bồ-Tát từ nơi pháp hội của đức Ca-Diếp-Thế-Tôn, giữ gìn cấm giới, phạm hạnh
trong sạch, sau khi mạng chung, chánh niệm sanh lên cõi Đâu-Suất-Đà-thiên.
Sau khi vãng
sanh, Bồ-Tát trụ nơi nội-viện thiên-cung. Các cung điện ở cõi Đâu-Suất ánh sáng
huy hoàng, sự trang nghiêm tốt đẹp vô lượng vô biên. Đó đều do sức công đức oai
thần của Hộ-Minh đại-sĩ mà tự nhiên hóa hiện. Các Đại-Phạm-thiên-vương và hàng
A-tu-la oai đức lớn, đều vân tập nơi cung trời Đâu-Suất, vây quanh Bồ-Tát, thưa
thỉnh pháp âm. Vô lượng chúng-sanh khi sanh lên cõi Đâu-Suất, thấy sự vui ngũ
dục nhiệm mầu, phần nhiều đều mê nhiễm, không nhớ bản nguyện và hạnh tu đời
trước. Bồ-Tát tuy thấy cảnh ngũ dục thắng diệu, song vẫn không mê hoặc, lại nhớ
đến nhân duyên của mình vì dẫn dạy chúng-sanh nên mới ứng hiện nơi cõi nầy. Thọ
mạng của chư thiên cõi Đâu-Suất đến bốn ngàn năm. Bồ-Tát vì hàng chư thiên ấy
thuyết pháp giáo hóa, chỉ rõ pháp tướng, khiến cho đại chúng đều hoan hỷ.
(Kinh
Phật-Bản-Hạnh)
Khi vận kỳ
gần đến, sắp phải giáng sinh thành Phật, Bồ-Tát quán sát năm việc:
1. Căn duyên của chúng-sanh đã thuần thục hay chưa?
2. Đã đến thời kỳ hóa độ chưa?
3. Trong châu Diêm-Phù-Đề, quốc độ nào ở chính giữa?
4. Trong các chủng tộc, tộc tánh nào quí thạnh?
5. Về nhân
duyên quá khứ, ai là bậc chân chánh, đáng làm cha mẹ mình?
Sau khi quán
sát năm việc ấy xong, Ngài biết rõ: Hiện nay các chúng-sanh do mình giáo hóa từ
khi mới phát tâm, thiện căn đã thuần thục. Đã đến thời kỳ những kẻ hữu duyên có
thể lãnh thọ pháp mầu thanh tịnh. Trong cõi Đại-thiên-thế-giới nầy, nước
Ca-Tỳ-La-Vệ ở giữa châu Diêm-Phù-Đề. Trong các chủng tộc, có họ Thích-Ca thuộc
dòng Cam-Giá là quí thạnh nhất. Về nhân duyên quá khứ, Bạch-Tịnh-Vương và
Ma-Gia hoàng-hậu là bậc hiền lương chân chánh, có thể làm cha mẹ mình.
(Kinh
Quá-Khứ-Hiện-Tại-Nhân-Quả)
2. NHẬP THAI
Bấy giờ,
Hộ-Minh Bồ-Tát xem xét con bạch tượng ở cõi trời, thấy nó mạnh mẽ vững vàng như
sư tử chúa; cưỡi tượng vương nầy giáng sinh, tất không còn có sự rối loạn sợ
hãi, tâm được an điềm. Ngài day lại bảo chư thiên rằng: “Các vị nên biết, đã
đến giờ ta giáng sinh. Đây là lần thọ thân sau rốt của ta”.
Khi ấy nơi
thành Ca-Tỳ-La, Ma-Gia hoàng-hậu trong giấc mơ, thấy có một vị Bồ-Tát cưỡi con
bạch tượng sáu ngà, đầu voi ửng sắc đỏ, ngà trang nghiêm bằng vàng, từ hư không
đi xuống, chun vào hông bên hữu của mình.
(Kinh
Phật-Bản-Hạnh)
3. TRỤ THAI
Có những
chúng-sanh, khi nhập thai không thể chánh niệm; hoặc khi nhập thai chánh niệm,
khi trụ thai không thể chánh niệm, hoặc khi nhập thai, trụ thai đều chánh niệm,
khi xuất thai không thể chánh niệm.
Lại các
chúng-sanh khác, khi trụ thai hoặc có lúc ở bên trái, có lúc ở bên mặt, làm cho
người mẹ chịu rất nhiều sự nhọc nhằn đau đớn. Bồ-Tát khi trụ thai thường ở bên
mặt, không di động, không làm tổn đến người mẹ.
Các
chúng-sanh khác, khi trụ thai tất bị nhiễm các thứ không sạch trong thân người
mẹ. Bồ-Tát khi trụ thai, không có sự kinh sợ, không bị nhiễm chất dơ, ví như
bình báu lưu ly được áo trời gói kín, dù đem để chỗ dơ cũng không bị ô nhiễm.
Các
chúng-sanh khác khi trụ thai, người mẹ thường chịu sự nặng nề, nhọc mệt, thân
thể không an. Bồ-Tát khi trụ thai, người mẹ thân không mỏi mệt, khi đi, đứng,
nằm, ngồi, ngủ, nghỉ đều được an vui.
Các
chúng-sanh khác khi trụ thai, người mẹ hoặc làm những tạp hạnh, hoặc dục tâm
hừng thạnh, hoặc thèm các mùi vị, hoặc tham lam bỏn xẻn, hoặc giận hờn độc ác, hoặc
thân thể suy yếu, vàng võ gầy gò. Bồ-Tát khi trụ thai, người mẹ ưa giữ giới
hạnh, không có lòng dục nhiễm, không tham đắm các mùi vị, ưa bố thí, hằng
thương xót không làm tổn hại mọi loài, thân thể mạnh khỏe, dung sắc tươi vui.
Trên đây là
những pháp vị tằng hữu của hàng Bồ-Tát.
(Kinh
Phật-Bản-Hạnh)
4. ĐẢN SANH
Hoàng-hậu
Ma-Gia mang thai đã gần đủ ngày tháng (bấy giờ bà đã 45 tuổi). Khi ấy,
Thiện-Giác trưởng-giả (Anusàkya - A-Nâu-Thích-Ca) sai sứ qua thành Ca-Tỳ-La tâu
với Tịnh-Phạn-Vương, xin y theo cổ tục đem con gái về quê ngoại là xứ Câu-Ly
(Koly - Câu-Lợi) an dưỡng để chờ ngày sanh. Tịnh-Phạn-Vương y lời, sai quan
Hữu-Tư sửa sang con đường từ thành Ca-Tỳ-La đến thành Đề-Bà-Đà-Ha (Devadaha -
Thiên-Tý-thành) cho bằng phẳng, trừ bỏ gai góc, sạn đá, quét dọn sạch sẽ. Vua
lại bảo quan quân thể nữ sắp đặt xe báu, rải hương hoa, tấu các thứ âm nhạc,
đưa Ma-Gia phu-nhân về quê.
Trên quãng
đường về, hoàng-hậu ghé vào vườn Lâm-Tỳ-Ni (Lumbini) để thưởng ngoạn mùa hoa
đang nở. Trong vườn có cây Ba-la-xoa (Sala - Vô-ưu), tàn che rộng rãi, cành rủ
thấp bốn bề, hoa lá chen nhau, sắc xanh tím cùng chói dưới ánh triều dương, lộ
vẻ muôn phần xinh đẹp. Hoa của loại cây nầy có mùi hương thanh nhẹ, bay lan
theo làn gió thoảng, làm cho người thần trí vui tươi. Hoàng-hậu dạo xem khắp
nơi, rồi lần chẫm rãi bước đến cội Vô-ưu, ngước mắt nhìn lên, đưa cánh tay mặt
từ từ vịn cành cây xuống.
(Kinh
Phật-Bản-Hạnh)
Khi ấy, ánh
sáng rực rỡ bốn bề, cõi đất rung động sáu cách, Ma-Gia phu-nhân đã đản sanh ra
Bồ-Tát. Bấy giờ, trời Đế-Thích đem hoa sen rải theo lối đi. Bồ-Tát chân đạp hoa
sen, nhẹ đi bảy bước, nhìn khắp bốn phương, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất,
xướng lên rằng: “Đây là thân sau rốt của ta. Trên trời dưới trời, chỉ có Ta là
tôn quí hơn cả”. Lúc đó, trên hư không Long-vương phun hai thứ nước: ấm và mát,
để tắm gội cho Bồ-Tát.
(Tỳ-Nại-Gia-Tạp-Sự)
Tịnh-Phạn-Vương
hay được tin ấy, liền nghiêm chỉnh đốn binh, cùng với quyến thuộc và một ức
người Thích-chủng, đi đến vườn Lâm-Tỳ-Ni. Khi đến nơi, vua thấy Thái-tử tướng
lạ trang nghiêm, vô cùng hoan hỷ!
Bảy hôm sau
ngày sanh nở, hoàng-hậu Ma-Gia ly trần, sanh lên cung trời Đao-Lợi, hưởng phước
tự nhiên, do bởi hoài thai Bồ-Tát công đức rất lớn.
(Kinh
Quá-Khứ-Hiện-Tại-Nhân-Quả)
Thái-tử ở tại
vườn Lâm-Tỳ-Ni đủ bảy ngày, rồi được đưa về thành Ca-Tỳ-La. Vua Tịnh-Phạn đặt
tên cho Thái-tử là Tất-Đạt-Đa (Siddhàrtha - Nghĩa-Thành).
(Kinh
Phương-Quảng-Đại-Trang-Nghiêm)
5. XUẤT GIA
Sau khi du
ngoạn bốn cửa thành trở về, Ưu-Đà-Di thấy Thái-tử hằng trầm tư, sợ Ngài có quan
niệm thoát tục, liền lựa dịp khuyên can: “Đại-vương dạy tôi làm bạn với
Thái-tử, để có sự đắc thất thì khuyên nhủ cùng nhau. Mà đạo bằng hữu kết yếu
lại chỉ có ba điều:
1. Nếu thấy
có lỗi phải khuyên can nhau.
2. Thấy có việc
tốt thì mừng cho nhau.
3. Gặp lúc
nguy khổ, không rời bỏ nhau.
Nay tôi đem
lời thành thật tỏ bày, mong Thái-tử chớ để tâm phiền trách: từ xưa đến nay,
theo thông lệ, các bậc vương giả đều hưởng sự vui ngũ dục trước, rồi mới
xuất-gia. Song đó chỉ là điều phụ, mà thật ra phần chính là: nhiệm vụ đối với
việc trị nước an dân và bổn phận đối với gia đình, chủng tộc. Nay tôi xem ý
Thái-tử dường như không thích con đường ấy, là bởi tại sao?” Thái-tử đáp: “Ta
không bảo rằng thú ngũ dục không vui. Song thử hỏi: Các vị vương giả ấy bây giờ
còn chăng? Và ở đâu? Hay là do say đắm theo dục lạc, gây nhiều nghiệp duyên tội
chướng mà bị đọa lạc rồi? Ta không bảo việc trị nước an dân là không quan
trọng, song địa vị quốc-vương dù không có người nầy, cũng còn lắm kẻ tài đức
khác. Ta cũng không bảo tình nghĩa gia tộc là không thiết yếu, nhưng theo ý ta,
đó là một tình thương và nhiệm vụ trong khuôn khổ nhỏ hẹp, sao bằng tình thương
khắp cả sinh linh, nhiệm vụ cứu độ muôn loài thoát nẻo luân-hồi đau khổ?”
Ưu-Đà-Di đem hết nguồn biện luận để khuyên ngăn, song rốt cuộc rồi cũng đuối
lý.
(Kinh
Quá-Khứ-Hiện-Tại-Nhân-Quả)
Sau khi suy
nghĩ kỹ, muốn thoát khỏi nỗi khổ già, bệnh, chết, duy đường lối tu hành là có
thể hy vọng, Thái-tử đã quyết chí xuất-gia.
Một hôm, thừa
lúc Tịnh-Phạn-Vương vui vẻ, Thái-tử sửa y phục nghiêm chỉnh đến bạch rằng:
“Thưa Phụ-vương! Giàu sang quyền thế, ngày kia sẽ hết; ân tình hội hợp, có lúc
phải chia ly. Xin Phụ-vương cho con xuất-gia tu hành để độ thoát lấy mình, gia
thuộc, và tất cả chúng-sanh”. Vua Tịnh-Phạn nghe nói, cả mình run rẩy, uất ức
nghẹn lời, một viên đá bị chày Kim-cang đập nát thế nào thì tâm trạng buồn khổ,
thất vọng, rã rời của ngài cũng như thế ấy! Vua cầm tay Thái-tử, lặng thinh
giây lâu mới nói được một câu nho nhỏ: “Con nên bỏ ý kiến đó đi, đừng làm cho
cha sầu não!” Thái-tử thấy Phụ-vương bi lệ không cho, bèn lạy chào trở về cung,
âm thầm suy nghĩ phương pháp thoát ly.
Khi biết
Thái-tử có chí xuất trần, vua Tịnh-Phạn cho quân ngày đêm canh giữ hoàng thành
nghiêm nhặt. Ngài lại dặn công-nương Gia-Du-Đà-La và các nội quan trông chừng,
nếu thấy Thái-tử có hành động gì khác thường, phải lập tức cho hay.
Một đêm, sau
cuộc tiệc vui liên tiếp mấy hôm, tất cả đoàn âm nhạc ca vũ trong cung, cho đến
công-nương Gia-Du-Đà-La đều mệt mỏi yên giấc. Riêng Thái-tử nằm trằn trọc không
ngủ, Ngài suy nghĩ: “Ngày tháng chóng qua, tuổi xuân không trở lại, ta phải sớm
thoát ly, không nên dần dà như thế nầy mãi”. Nghĩ đến đó, Ngài bỗng nghe văng
vẳng có tiếng nói: “Những hạnh nguyện đã tu từ vô lượng kiếp đến nay, hiện đã
tới thời kỳ thuần thục. Thái-tử nên mau xuất-gia, mọi việc đã có chúng tôi giúp
đỡ”. Lúc ấy, công-nương Gia-Du-Đà-La bỗng chợt thức giấc, gọi Thái-tử nói với
giọng đầy vẻ sợ hãi: “Thiếp vừa nằm mộng thấy liên tiếp ba điềm: Mặt trăng rơi
xuống đất, gẫy một chiếc răng và rụng cánh tay mặt, không biết đó là triệu
chứng gì?” Thái-tử an ủi: “Việc chiêm bao hư huyễn không thật, nàng hãy yên tâm
nằm nghỉ”.
Đợi
công-nương yên giấc xong, Thái-tử nhẹ bước ra ngoài, gọi kẻ hầu thân tín là
Xa-Nặc (Chana) bảo thắng yên cương con bạch mã Kiền-Trắc đem đến, Xa-Nặc nghe
nói kinh hãi, trong lòng dụ dự, nửa không dám trái lời vua dặn, nửa lại sợ oai
lực Thái-tử, chỉ rơi nước mắt thưa: “Đang lúc giữa đêm, không phải giờ du
ngoạn, cũng không phải vì đem quân ra ngăn giặc, chẳng hay có chuyện chi cấp
thiết mà Đông-cung phải cần đến ngựa?” Thái-tử bảo: “Ta muốn vì tất cả
chúng-sanh hàng phục giặc phiền não, ngươi chớ nên trái ý”. Biết không thể
cưỡng được, Xa-Nặc sắp sửa yên cương, rồi thầy trò vượt ra thành. Do sức chư
thần, nên quân canh gác đều ngủ mê man không hay. Con Kiền-Trắc chạy mau như
gió, vừa lúc bình minh đã đến bờ sông A-Nô-Ma. Thái-tử xuống ngựa, cắt tóc, đem
trân phục nơi thân đổi lấy bộ cà sa của người thợ săn dùng giả trang để bắn thú,
hoàn thành hình tướng sa-môn. Xa-Nặc thấy thế, tỏ vẻ bi ai, quyến luyến!
Thái-tử an ủi: “Ngươi chớ nên thương buồn, vì người đời có hợp tất có tan. Như
khi ta mới sanh ra bảy ngày thì mẫu-hoàng đã mạng bạc. Rất đỗi mẹ con chí
thiết, mà còn có lúc tử biệt vô thường, huống nữa là những tình trường riêng
khác! Thôi ngươi hãy về đem ý ta thuật lại, nói ta có lời xin lỗi cùng
phụ-hoàng, di-mẫu và tạm biệt công-nương”. Nói xong, Thái-tử xây mình chẫm rãi
bước đi; Xa-Nặc đứng lặng lẽ trông theo cho đến khi Ngài khuất bóng.
(Kinh
Quá-Khứ-Hiện-Tại-Nhân-Quả)
Lúc ấy, nhằm
đêm mùng tám tháng hai, Thái-tử được 29 tuổi và đã có con là La-Hầu-La
(Ràhula). (Tỳ-Nại-Gia-Tạp-Sự - theo Kinh Quá-Khứ-Hiện-Tại-Nhân-Quả thì Thái-tử
xuất-gia lúc 19 tuổi; khi ấy công-nương Gia-Du mới có thai).
Vua Tịnh-Phạn
hay con đã xuất-gia, liền cho năm người tôn thân là: Kiều-Trần-Như (Àjnàta -
Kaundinya), A-Thấp-Bà (Asvajit - A-Thuyết-Thị), Bạt-Đề (Bhadrika), Ma-Ha-Nam
(Mahànàma), Thập-Lực-Ca-Diếp (Dasabala Kàsyapa - Bạt-Đà) đi theo Thái-tử để làm
thị-giả.
(Phật-Học-Đại-Cương)
6. THÀNH ĐẠO
Sau khi hỏi
đạo các nơi, không vị nào thuyết minh cho được thỏa mãn, Thái-tử đi lần đến tụ
lạc Ưu-Lâu-Bệ-La (Uruvelà), bên mé sông Ni-Liên-Thiền (Nairanjanà) thuộc miền
Ðông-bắc Ấn-Độ. Kế đó, Ngài vào vùng phụ cận là Khổ-hạnh-lâm, tu chung với hàng
ngoại-đạo tại núi Tượng-Đầu, trong thời gian sáu năm. Mỗi ngày Thái-tử chỉ ăn
một hạt mè, một hạt đậu, thân thể gầy ốm đến đỗi chỉ còn da bọc xương. Trong
sáu năm ấy, Ngài chống đối với các quân ma phiền não như: quân tham dục, quân
ưu sầu, quân đói khát, quân ái nhiễm, quân hôn thụy, quân sợ hãi, quân nghi
hối, quân sân hận, quân bi thương, quân tự cao, quân tà mạng... Trải qua thời
gian dài tinh tấn khổ nhọc như thế mà vẫn không được gì, Thái-tử phát kiến hai
xu hướng sai lầm: cuộc sống quá phóng túng, hoặc trái lại quá khắc khổ, đều
không phải là phương tiện giải thoát. Nhân đó, Ngài xuống sông Ni-Liên-Thiền
tắm gội sạch sẽ, và thọ bát sữa cúng dường của mục nữ Thiện-Sanh (Sujàta -
Tu-Già-Đà).
Sau khi thọ
thực trở lại, khí lực và dung sắc Thái-tử lần lần phục hồi. Năm người thị-giả
thấy thế, tưởng là Ngài đã thối chuyển, liền bỏ đi qua xứ Ba-La-Nại-Tư
(Bàrànasì). Thái-tử một mình đi đến xứ Phật-Đà-Già-Da (Buddhagayà), rải cỏ kiết
tường làm tòa, ngồi kiết già nơi gốc cây Tất-bát-la (Pippala), mặt hướng về
phương Ðông. Trước khi thiền định, Ngài phát thệ rằng: “Nếu không chứng được
đạo Vô-thượng-bồ-đề, thì dù thân nầy có tan nát, ta cũng quyết không rời khỏi
nơi đây”. Phát nguyện xong, Thái-tử yên lặng vào cảnh thiền tư trong vòng 49
ngày.
(Kinh
Phương-Quảng-Đại-Trang-Nghiêm)
Đêm ấy, nhằm
hôm mùng tám tháng chạp, sau khi hàng phục ma quân, Thái-tử ngồi lặng lẽ trong
thiền định.
Vào khoảng
canh hai, Ngài chứng được Túc-mạng-minh, thấy biết nghiệp nhân của mình và tất
cả chúng-sanh nhiều đời về trước, từ việc làm lành làm dữ, cha mẹ quyến thuộc,
giàu sang nghèo hèn, thọ yểu xấu đẹp, cho đến mỗi đời tên họ là gì, đều biết
rành rẽ.
Đến nửa đêm,
Ngài chứng được Thiên-nhãn-minh, thấy rõ ba cõi sáu đường, những cảnh giới hoặc
an vui, hoặc nhơ khổ, chúng-sanh hoặc xinh đẹp, hoặc xấu xa, rõ ràng như nhìn
vào trong gương.
Và đến lúc
sao mai mọc lên, Ngài chứng được Lậu-tận-minh, dứt sạch phiền não, rõ hết đầu
mối nghiệp duyên, tâm thể lặng yên sáng suốt. Bấy giờ ngài đã thành Phật.
Nội dung của
sự giác ngộ chân chánh nầy, có thể giải đáp vấn đề nhân sanh một cách mỹ mãn.
Trước kia Ngài thắc mắc về hai yếu điểm:
1. Già, bệnh,
chết và tất cả sự ràng buộc khổ não của kiếp người do đâu mà có?
2. Làm thế
nào để giải thoát những điều ấy?
Và đây là lời
giải đáp:
1. Do Vô-minh
làm mê mờ bản thể, nên mới có sanh, già, bệnh, chết, lo thương buồn rầu.
2. Muốn được
giải thoát phải có chánh kiến dứt trừ phiền não, trở về bản tánh, tức là phải
tu theo con đường Bát-chánh.
Đây là đạo lý
căn bản của Phật-giáo Nguyên-thủy, khái quát cả pháp môn Tứ-diệu-đế và
Thập-nhị-nhân-duyên.
Thái-tử
Tất-Đạt-Đa thành đạo vào lúc 35 tuổi (có thuyết nói 30 tuổi), thánh hiệu là
Thích-Ca-Mâu-Ni Như-Lai (Sàkyamuni - Năng-Nhân-Tịch-Mặc).
(Phật-Học-Đại-Cương)
7. CHUYỂN PHÁP LUÂN
Bấy giờ Ðức
Thế-Tôn bảo năm người rằng: “Các ông chớ nên xưng Như-Lai là Trưởng-lão mà phải
gọi là Phật, vì Như-Lai đã được Nhất-thiết-trí, đã chứng pháp cam lồ, đã dứt
hết nghiệp hữu lậu, đã vắng lặng tự tại. Hãy đến đây, ta sẽ nói phương pháp tu
hành, khiến cho các ông hiện đời được trí huệ sáng suốt, dứt hết phiền não,
thành tựu phạm hạnh và không còn thọ thân hậu-hữu. Năm người nghe nói đều sanh
lòng vui mừng, chiêm ngưỡng tôn nhan, lặng yên trông chờ diệu pháp.
(Kinh
Phương-Quảng-Đại-Trang-Nghiêm)
Đức Phật nói
tiếp: “Người xuất-gia có hai thứ chướng: Một là đắm theo dục cảnh không cố gắng
thoát ly, đó là không phải là nhân giải thoát. Hai là không chịu suy nghĩ chín
chắn, tự làm khổ thân mình để cầu thoát ly, đó cũng không phải là nhân giải
thoát. Phải lìa hai lỗi thái quá, giữ theo mực trung mà tinh cần tu tập, mới có
thể đến Niết-bàn”. Kế đó Phật lại ba lần chuyển pháp-luân Tứ-Đế (thị-chuyển,
khuyến-chuyển, chứng-chuyển). Bọn ông Kiều-Trần-Như năm người đều chứng quả
A-la-hán, tám muôn na-do-tha chư Thiên ở trên không nghe pháp mầu, đều được
pháp nhãn tịnh.
Lúc ấy năm
người đã thấy đạo tích, liền đảnh lễ nơi chân Phật mà thưa rằng: “Bạch Thế-Tôn!
Hôm nay chúng con muốn xuất-gia tu hành ở trong Phật-pháp”. Đức Phật bảo:
“Thiện lai Tỷ-khưu!” Liền đó, râu tóc năm người đều tự rụng, y phục nơi thân
hóa thành áo cà sa. Bấy giờ thế gian mới có Tam-bảo: Đức Phật là Phật-bảo,
pháp-luân Tứ-đế là Pháp-bảo, năm vị A-la-hán là Tăng bảo.
(Kinh
Quá-Khứ-Hiện-Tại-Nhân-Quả)
Chuyển
pháp-luân là thế nào? Chữ “Pháp” nguyên ngữ là Đạt-ma (Dharma), có nghĩa: pháp
luật, pháp tắc, là chân lý căn bản của muôn sự muôn vật. Chữ “Luân” nguyên ngữ
là Chước-ca-la (Cakra), là môn vũ khí hình như bánh xe của Luân-vương dùng khi
dẹp giặc. Khi bậc Luân-vương có oai đức lớn ra đời, thì trên hư không có bánh
xe ấy xuất hiện; vua dùng bánh xe nầy đem quân binh bay đi đánh chỗ nào, giặc
nơi ấy đều tan rã. Vì thế, cổ thuyết Ấn-Độ thường gọi vị vua lớn chinh phục bốn
phương là Chuyển-pháp-luân-vương. Giáo pháp của Đức Phật nói ra có thể phá tan
điều ác cùng tà thuyết của ngoại-đạo, nay đem ví giáo pháp ấy như bánh xe của
Luân-vương, nên khi Phật thuyết pháp gọi là Chuyển pháp-luân.
(Phật-Học-Đại-Cương)
Đức Phật bảo:
- Các đấng
Như-Lai nói ra điều chi, đều gọi là chuyển pháp-luân. Nầy Thiện-nam-tử! Ví như
luân-bảo của thánh-vương có công dụng: những kẻ chưa hàng phục, đều có thể hàng
phục; những kẻ đã hàng phục, hay khiến cho được an ổn. Pháp của chư Phật nói
cũng như thế, vô lượng phiền não chưa điều phục, đều có thể điều phục; đã điều
phục, hay khiến cho sanh căn lành.
Nầy
Thiện-nam-tử! Ví như luân bảo của thánh-vương hay tiêu diệt tất cả oán tặc;
Như-Lai thuyết pháp cũng lại như thế, hay khiến cho các mối giặc phiền não thảy
đều lặng yên.
Lại nầy
Thiện-nam-tử! Ví như luân bảo của thánh-vương có thể xoay vần, lên xuống;
Như-Lai thuyết pháp cũng lại như thế, hay khiến cho những chúng-sanh ở các cõi
dưới sanh lên nẻo nhơn thiên, cho đến khi thành Phật đạo.
(Kinh
Đại-Bát-Nhã-Niết-Bàn)
Khi ấy,
Thắng-Nghĩa-Sanh Bồ-Tát thưa:
- Bạch
Thế-Tôn! Ban sơ nơi Lộc-dã-uyển, Ngài chỉ vì hạng người xu hướng về
Thanh-Văn-thừa mà chuyển pháp-luân Tứ-đế. Pháp-luân nầy tuy kỳ đặc ít có, song
cũng chưa liễu nghĩa, bởi còn có pháp khác cao thượng, bao quát hơn. Đó là chỗ
mà các nguồn tranh luận có thể len lỏi vào.
Trong kỳ
thuyết pháp thứ hai, Thế-Tôn vì hạng người phát tâm Đại-thừa, nói tất cả pháp
đều không tự tính, không sanh diệt, bản lai là Tự-tính-niết-bàn vắng lặng. Lối
chuyển pháp-luân bằng tướng ẩn mật nầy tuy rất kỳ đặc ít có, song cũng chưa
liễu nghĩa, bởi còn có pháp khác cao thượng, bao quát hơn. Đó là chỗ mà các
nguồn tranh luận có thể len lỏi vào.
Hôm nay,
trong kỳ thuyết pháp thứ ba, Ngài vì hạng người cầu Nhất-thiết-thừa, nói tất cả
pháp đều không sanh diệt, bản lai là thể Tự-tánh-niết-bàn-vô-tự-tánh vắng lặng.
Lối chuyển pháp-luân bằng tướng hiển liễu nầy, thật kỳ đặc ít có bậc nhất, vì
là pháp chân liễu nghĩa, không còn chi cao thượng bao quát hơn. Các nguồn tranh
luận cũng không còn chỗ nào len lỏi vào được.
(Kinh
Giải-Thâm-mật)
8. NHẬP NIẾT BÀN
Khi nghe Ðức Thế-Tôn bảo rằng mình sắp nhập diệt, Diệu-Tràng
Bồ-Tát khởi lòng nghi: “Có hai nhân duyên được sống lâu: không giết hại và bố
thí các thức ăn cho chúng-sanh. Ðức Thích-Ca Thế-Tôn đã tu Thập-thiện trong vô
lượng kiếp, tại sao Ngài chỉ sống có tám mươi tuổi?”
Trong khi Bồ-Tát nghĩ như thế, do oai thần của Phật, tịnh thất
ấy bỗng hiện ra rộng rãi trang nghiêm như cõi Tịnh-độ. Trên hư không, phương
đông có Phật Bất-Động, phương nam có Phật Bảo-Tướng, phương tây có Phật
Vô-Lượng-Thọ, phương bắc có Phật Thiên-Cổ-Âm, ngồi nơi tòa diệu liên hoa, đồng
thuyết kệ rằng:
Có thể biết điểm giọt
Của tất cả biển lớn
Không ai đếm biết được
Thọ lượng của Thích-Ca.
...Có thể biết số bụi
Của tất cả đại địa
Không ai đếm biết được
Thọ lượng của Thích-Ca.
Bốn đức Thế-Tôn lại bảo:
- Nầy Thiện-nam-tử! Chúng-sanh ở cõi Ta-Bà căn lành kém mỏng, có
nhiều sở chấp: nhân, ngã, đoạn, thường... Vì muốn cho họ được lợi ích, mau sanh
chánh giải, nên Phật Thích-Ca-Mâu-Ni thị hiện thọ mạng ngắn ngủi. Thiện-nam-tử!
Đức Như-Lai đây muốn cho chúng-sanh thấy Phật vào Niết-bàn, sanh lòng thương lo
mến tiếc, nghĩ rằng khó còn được gặp, mà đối với chánh-pháp phát tâm siêng năng
đọc tụng thọ trì, vì người giảng giải, không còn hủy báng, nên Ngài thị hiện
thọ mạng ngắn ngủi. Tại sao thế? Nếu chúng-sanh thấy Như-Lai không vào
Niết-bàn, tất không sanh lòng cung kính, không sanh niệm khó gặp, không siêng
năng đọc tụng thọ trì vì người giảng giải; vì lẽ hằng thấy Phật nên ỷ lại xem
thường. Ví như hoa Ưu-đàm được người quí trọng vì lâu năm mới nở một lần, nhân
duyên sớm nhập diệt của Ðức Thích-Ca Như-Lai, ý nghĩa cũng như thế.
(Kinh
Kim-Quang-Minh)
Một hôm, Ðức Thế-Tôn cùng thị-giả A-Nan-Đà ở ngôi giảng đường
tại thành Ba-Tra-Lỵ-Phất (Hoa-Thị-thành). Sau khi đi khất thực trở về dùng ngọ
trai xong, Đức Phật đến ngồi nơi cội cây Cung-chế-để, rồi gọi A-Nan-Đà mà bảo
rằng: “A-Nan! Thành nầy vật sản hoa lệ, cây cối tốt tươi, ao suối trong mát,
hiện tại tuy đơn sơ, nhưng tương lai tất sẽ hưng thạnh. Đây là một kỳ cảnh của
châu Nam-Thiệm-Bộ. Nầy A-Nan! Nếu kẻ nào chứng pháp Tứ-thần-túc, có thể tùy ý
trụ thọ một kiếp cho đến nhiều kiếp. Như-Lai đã chứng pháp Tứ-thần-túc, nên
muốn sống lâu một kiếp hay nhiều kiếp, đều được tự tại”. Phật nói như thế ba
lần, song ngài A-Nan vẫn làm thinh.
Lúc ấy, Thiên-ma Ba-Tuần đến đảnh lễ Phật và thưa rằng: “Bạch
Thế-Tôn! Thời gian trước Ngài đã nói: khi nào trong hàng môn đệ có nhiều kẻ
thông biện đủ khả năng tuyên dương chánh-pháp dẹp phá tà luận thì Ngài sẽ vào
Niết-bàn. Hiện thời những điều kiện ấy đã có đủ, xin Ðức Thế-Tôn nên sớm nhập
diệt”. Đức Phật bảo: “Ngươi hãy gắng chờ ít lâu, ba tháng sau Như-Lai sẽ vào
cảnh Vô-dư-y-đại-niết-bàn”. Thiên-ma Ba-Tuần nghe Phật hứa nhận, sanh lòng vui
mừng, liền ẩn thân trở về thiên giới. Sau khi nói lời ấy, Ðức Thế-Tôn liền nhập
định, thâu ngắn thọ mạng trong vô lượng kiếp chỉ còn lại ba tháng. Lúc đó, đất
đai chấn động, tinh quang rơi rớt khắp bốn phương, thiên cổ trên hư không tự
nhiên kêu lên vang động. Ðức Thế-Tôn xuất định, nói bài kệ rằng:
Tất cả pháp sai biệt
Như-Lai đã diệt trừ
Do đó được định tâm
Như chim bay tự tại.
Sau khi ấy, Đức Phật cùng đồ chúng vượt qua sông Hằng, vào thành
Tỳ-Xá-Ly. Nơi đây, nàng kỹ nữ Yêm-Ma-La dâng cúng khu vườn Nại-Thọ-lâm và được
Phật hóa độ. Bấy giờ đã đến mùa mưa, Ðức Thế-Tôn muốn an-cư ba tháng ở
Trúc-Lâm-thôn (Veluvana), một vùng phụ cận của đô thành. Nhưng gặp năm mất mùa,
e sự cúng dường không được đầy đủ, Phật liền giải tán đại chúng, rồi riêng mình
ở tại đó với thị-giả A-Nan. Trong thời gian tạm trú nơi đây, ngài A-Nan thấy
kim thể không an, biết Phật sắp vào Niết-bàn, liền thưa thỉnh cách thức y chỉ
về sau. Đức Phật bảo: “Ông nên lấy chính mình làm nơi quy-y, lấy pháp làm nơi
quy-y, đừng nương theo ai khác bên ngoài. Hãy tự xét, xem mình tinh tấn hay
giải đãi, dứt trừ sự tham nhiễm lo buồn theo thế gian. Hãy quán thân, thọ, tâm,
pháp, thấu triệt lý bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã, để đối trị bệnh chấp
tịnh, lạc, thường, ngã, theo quan niệm chúng-sanh. Đây là chân lý tự quán của
ta khi thành chánh giác và cũng là căn bản quy-y của người học đạo”.
Mãn ba tháng hạ, Ðức Thế-Tôn đến ở Trùng-Các-giảng-đường tại bản
xứ. Ngài bảo các đệ-tử: “Những giáo pháp ta đã nói khi trước như: Tứ-niệm-trụ,
Tứ-chánh-cần, Tứ-thần-túc, Ngũ-căn, Ngũ-lực, Thất-giác-chi, Bát-thánh-đạo, các
ông nên thường suy nghĩ tu tập, chớ nên biếng trễ. Các ông phải gắng tu tịnh
hạnh, giữ gìn cấm giới để làm phước lợi cho thế gian”. Rồi từ đó, Đức Phật lại
đi về phía Bắc, qua thôn Lộ-Càn-Trà (Bhandagama). Tại nơi đây, Ngài lại khuyên
đồ chúng: “Các ông nên biết, nếu người tu không thông đạt bốn pháp, sẽ hằng bị
đọa vào nẻo luân-hồi. Bốn pháp ấy là gì? Chính là giới, định, huệ và giải
thoát”. Từ thôn Lộ-Càn-Trà, Ðức Thế-Tôn đi vào xứ Ba-Bà (Pàvà). Ở chốn nầy,
Ngài thọ thức ăn nấu bằng nấm chiên đàn của người thợ bạc tên là Thuần-Đà
(Cunda), rồi đi sang thành Câu-Thi-Na-Yết-La đến chỗ hai đôi cây Sa-la bên mé
sông Hi-Liên-Nhã-Bạt-Để (Kim-hà).
Đêm ấy, có người ngoại-đạo là Tu-Bạt-Đà-La (Subhadra) đi đến chỗ
Ðức Thế-Tôn, nghe thuyết pháp và chứng thánh-quả. Đây là vị đệ-tử sau rốt của
Phật. Ðức Thế-Tôn gọi A-Nan và bảo: “Thuở xưa ta làm Chuyển-luân-vương, đã xả
thân sáu lần nơi đây, cho nên nay Như-Lai cũng nhập Niết-bàn tại chỗ nầy”. Ngài
lại bảo đồ chúng: “Các ông đối với Phật, Pháp, Tăng bảo và Tứ-thánh-đế có điều
gì nghi thì nên hỏi, ta sẽ giải đáp cho”. Trong đại chúng vì không nghi vấn nên
không ai hỏi.
Bấy giờ Ðức Thế-Tôn do lòng đại bi, tự cởi áo trên bày kim-thân
ra, và nói: “Nầy Tỷ-khưu! Các ông nên nhìn kỹ thân tướng của Như-Lai, vì chư
Phật cũng như hoa Ưu-đàm-bát-la rất khó gặp gỡ”. Khi sắp nhập diệt, Đức Phật
còn bảo: “Các ông chớ cho rằng mình sẽ mất thầy giảng dạy. Sau khi ta nhập
Niết-bàn, những Pháp (Dharma) và Luật (Vinaya) của ta đã nói là thầy của các
ông. Các pháp đều vô thường, có sanh tất có diệt; các ông hãy tinh tấn chớ nên
biếng trễ. Đây là lời khuyên dạy sau rốt của ta”.
Khi nói xong lời ấy, Ðức Thế-Tôn nhập Tam-muội theo thứ lớp chín
lần thuận, chín lần nghịch, từ Sơ-thiền đến Diệt-tận-định; rồi từ Sơ-thiền ra,
Phật vào Nhị-thiền, Tam-thiền, Tứ-thiền, và niết-bàn ở nơi đó. Lúc ấy, vào
khoảng giữa đêm Rằm tháng hai, Ngài được tám mươi tuổi.
(Đối chiếu
các kinh: Đại-Niết-Bàn, Du-Hành, Trường-A-Hàm)
KINH ÐIỂN ĐẠO PHẬT
Ba Tạng Mười Hai Phần Giáo
Ba Tạng
Kinh-điển đạo Phật chia ra làm ba loại, người ta thường gọi là
Tam-tạng: Kinh, Luật, Luận.
“Kinh” là những pháp về giáo lý, giải, hạnh, do Ðức Như-Lai nói
ra, hoặc hàng Bồ-Tát, Thanh-Văn, Duyên-Giác hay Hóa-nhân nói mà được Phật ấn
chứng. Đạo pháp nầy hợp với chân lý, căn cơ, để cho người học Phật tu hành dứt
trừ phiền não.
“Luật” là những giới luật của Phật chế định, để cho hàng đệ-tử y
theo đó ngăn trừ những phi hạnh, tu tập các pháp lành, thân tâm lần lần được
thanh tịnh.
“Luận” có nghĩa: bàn luận, là những sách do các đệ-tử Phật viết
ra, để phát huy nghĩa lý nhiệm mầu trong kinh luật. Đây là bộ phận triết học
của Phật-giáo, có công năng quyết đoán tánh tướng các pháp, phân biệt lẽ chánh
tà, khiến cho học giả khỏi nhận lầm.
Những điểm đồng và dị của Tam-tạng như thế nào?
Luận Tỳ-Bà-Sa nói:
Chư Phật ra đời đều có ba tạng (Tripitaka): Tu-Đa-La (Sùtra),
Tỳ-Nại-Gia (Vinaya), A-Tỳ-Đạt-Ma (Abhidharma). Ba tạng nầy thật ra không khác
mà khác, hay nói ngược lại. Không khác là tất cả Phật-giáo đều từ nơi một biển
trí mà sanh ra, đều đồng một nhiếp thọ, lực, vô úy, và đều do tâm đại bi phát
khởi. Có khác là Tu-Đa-La y nơi tâm mà luận, Tỳ-Nại-Gia y nơi giới mà luận,
A-Tỳ-Đàm y nơi huệ mà luận. Đây là nói về sở y sai biệt. Lại, Tu-Đa-La do nơi
thứ đệ mà hiển, Tỳ-Nại-Gia do nơi duyên khởi mà hiển, A-Tỳ-Đàm do nơi tướng
tánh mà hiển. Đây là nói về sở hiển sai biệt.
Lại, Tu-Đa-La thuộc về dòng trí lực, Tỳ-Nại-Gia thuộc về dòng
đại bi, A-Tỳ-Đàm thuộc về dòng vô úy. Đây là nói về đẳng lưu sai biệt. Công
năng của Tu-Đa-La là: người chưa trồng căn lành, khiến cho trồng căn lành. Công
năng của Tỳ-Nại-Gia là: người đã trồng căn lành, khiến cho tiếp tục được thành
thục. Công năng của A-Tỳ-Đàm là: người đã chủng căn lành thành thục, khiến cho
được sự giải thoát chân chánh. Đây là nói về sở vi sai biệt. Tu-Đa-La do hàng
thỉ nghiệp mà nói, Tỳ-Nại-Gia do hàng quán tập mà nói, A-Tỳ-Đàm do hàng đã vượt
qua sự tác ý mà nói. Đây là nói về phận vị sai biệt.
Nẻo tiến của Tu-Đa-La là: người chưa vào chánh-pháp, khiến cho
vào chánh-pháp. Nẻo tiến của Tỳ-Nại-Gia là: người đã vào chánh-pháp, khiến cho
thọ trì học xứ. Nẻo tiến của A-Tỳ-Đàm là: người đã thọ kỳ học xứ, khiến cho
thông đạt tánh tướng chân thật của các pháp. Đây nói về tiến thú sai biệt.
Trong Tu-Đa-La cũng có luận về giới và huệ. Trong Tỳ-Nại-Gia
cũng có luận về huệ và tâm. Trong A-Tỳ-Đàm cũng có luận về tâm và giới. Đây là
điểm khác mà không khác của ba tạng.
Sao gọi là “tạng”. Chữ “tạng” (Pitaka) có nghĩa:
trùm chứa. Kinh, Luật, Luận sở dĩ được gọi là tạng, vì nội dung trùm chứa vô
lượng nghĩa lý nhiệm mầu, vì là giáo pháp thuyết minh tạng tánh của Như-Lai.
Trong ba tạng, theo nghĩa hẹp, riêng về giáo pháp của Phật nói
ra hoặc ấn chứng, được gọi là Kinh, còn bao nhiêu thì là Luật hay Luận. Nhưng
ba tạng đều là giáo điển của đạo Phật, đều có liên quan với lời Phật dạy, nên
theo nghĩa rộng, cũng thông gọi là Kinh. Vì thế, nên lại có những danh từ như:
Nhất-thiết-kinh, Đại-tạng-kinh, với ý nghĩa gọi chung cho ba phần giáo điển.
Ngoài ra, những Kinh-điển Đại-thừa còn gọi là Bồ-Tát-tạng,
Kinh-điển Tiểu-thừa gọi là Thanh-Văn-tạng. Cả Đại-thừa, Tiểu-thừa đều có ba
tạng, nghĩa là Kinh, Luật, Luận riêng. Tam-tạng của Đại-thừa, về Kinh như:
Hoa-Nghiêm, Pháp-Hoa, về Luật như: Phạm-Võng, Đại-Thừa-Giới-Kinh, về Luận như
Khởi-Tín, Đại-Trí-Độ. Tam-tạng của Tiểu-thừa, về Kinh như: A-Hàm, Pháp-Cú; về
Luật như: Ngũ-Phần, Thập-Tụng; về Luận như: Câu-Xá, Thành-Thật.
Lại còn có những danh từ như Bí-mật-tạng, Tạp-tạng...., mà nội
dung là: bộ phận mật chú, bộ phận hợp tập những bài thuyết pháp tản mác của Đức
Phật. Nhưng dù là Bồ-Tát-tạng, Thanh-Văn-tạng, Bí-mật-tạng hay Tạp-tạng, đều
không ngoài ý nghĩa ba tạng. Tam-tạng là danh từ thống nhất của giáo
điển đạo Phật, gồm cả Tiểu-thừa lẫn Đại-thừa.
Mười Hai Phần
Giáo
Ba tạng Kinh-điển của đạo Phật, y theo thể tài, được phân chia
thành mười hai bộ loại. Người học Phật thường gọi những bộ loại nầy là “mười
hai phần giáo”:
1. Tu-Đa-La (Sùtra): Danh từ nầy có một lối
gọi là Tô-Ðát-Lãm, Trung-Hoa dịch là Kinh hay Khế-Kinh. Chữ “Khế”
có nghĩa là “hợp”, chữ “Kinh” có nghĩa là “thường”. Pháp giải thoát là pháp chư
Phật trong ba đời vẫn thường nói, và pháp ấy hợp với chân lý, hoặc với nhân
duyên thời tiết cùng căn cơ của chúng-sanh, nên gọi là Khế-Kinh. Kinh cũng gọi
là Trường-Hàng (tản văn, văn xuôi), một lối văn chỉ nói ngay ý nghĩ của mình,
tùy theo nghĩa lý mà đọc ra câu văn dài hay ngắn. Lối văn nầy không cần sửa
soạn lắm như lối văn từ phú.
Luận Du-Già nói: “Kinh là những danh, cú, văn thân, phát huy
nghĩa nhiệm mầu, chân thật, thuần thiện. Kinh hay khiến cho chúng-sanh được
điều lợi ích của giáo nghĩa và dẫn khởi sự tu tập phạm hạnh”.
Kinh Đại-Niết-Bàn nói: “Thiện-nam-tử! Sao gọi là Khế-Kinh? Ấy là
giáo thuyết của Phật từ câu “Như thế, tôi nghe” cho đến câu, “vui mừng phụng
hành”.
2. Kỳ-Dạ (Geya): Danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Ứng-Tụng hay Trùng-Tụng. Đây
là lối kệ văn thuật lại những ý nghĩa của đoạn văn Trường-Hàng nói trên, có khi
nói thêm cho ý nghĩa ấy được đầy đủ. Lối văn nầy thường lấy bốn, năm hoặc bảy,
tám chữ làm một câu, bốn câu làm một bài. Lại có khi một bài gồm nhiều câu, tùy
theo sự diễn ý rộng hay hẹp. Trong pháp hội, Ðức Thế-Tôn thường nói văn
Trùng-Tụng, với dụng ý làm cho thính giả ghi nhớ và có thể tóm tắt lại giáo
nghĩa mà Ngài vừa tuyên thuyết.
3. Thọ-Ký: Thọ-ký cũng gọi là Ký-Biệt. Đây là những đoạn văn mà Đức Phật ghi
nhận cho đệ-tử sau sẽ sanh về đâu, hoặc chừng nào sẽ chứng đạo quả, hoặc tương
lai sẽ xảy ra sự gì tốt hay xấu. Như Đức Phật nói: “A-Dật-Đa! Đời vị lai có vị
quốc-vương tên là Nhương-Khê. Ông sẽ ở nơi thời ấy mà thành Phật, hiệu là
Di-Lặc”.
4. Dà-Đà (Gàthà): Danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Phúng-Tụng hoặc Cô-Khởi.
Phúng-Tụng là làm những bài kệ hoặc hai ba bốn, năm, sáu câu. Nói Cô-Khởi, là
lối văn nầy không thuật lại ý nghĩa đoạn văn Trường-Hàng trên, mà chỉ làm riêng
từng bài kệ thôi.
5. Ưu-Đà-Na (Udàna): Danh từ nầy, Trung-Hoa
dịch là Tự-Thuyết. Đây là những kinh do Phật dùng trí huệ xem xét
căn cơ chúng-sanh, rồi Ngài tự nói pháp, không đợi phải có người thưa thỉnh yêu
cầu.
6. Ni-Đà-Na (Nidàna): Danh từ nầy, Trung-Hoa
dịch là Nhân-Duyên. Đây là những kinh nhân có người thỉnh, hay nhân
có duyên chi Phật mới nói ra, hoặc nói về nhân duyên gặp Phật nghe pháp, những
chỗ có nhân duyên hóa độ, hay nói về duyên khởi của vũ trụ. Thí dụ như thuở xưa
ở nước Xá-Vệ có người dùng lưới bắt chim để chơi. Khi bắt được, anh đem nó nhốt
vào lòng cho ăn lúa uống nước xem cho chán rồi thả. Phật thấy thế, biết rõ nhân
duyên trước sau, khuyên rằng: “Chớ khinh tội nhỏ. Cho là không sao. Giọt nước
tuy ít. Lần đầy chum lớn”.
7. A-Ba-Đà-Na (Avadàna): Danh từ nầy có nghĩa là Thí-Dụ. Pháp của Phật
nói ra rất mầu nhiệm, người căn trí tối chậm khó mà hiểu thấu. Vì thế, khi
giảng dạy Ðức Như-Lai phải dùng những thí dụ cho thính chúng dễ hiểu. Đại khái
như những lời thí dụ trong các Kinh-điển.
8. Y-Đế-Mục-Đa-Dà (Itivrttaka): Danh từ nầy,
Trung-Hoa dịch là Bản-Sự. Đây là những kinh văn Phật nói chỗ tu
nhân của các vị Bồ-Tát, đệ-tử về đời quá khứ, hoặc những ngôn giáo, sự nghĩa
liên quan với đời trước. Thí dụ như đoạn: “Nầy các Tỷ-khưu! Pháp của ta nói hôm
nay gọi là Giới-kinh, đời Phật Câu-Lưu-Tôn gọi là Cam-Lồ-Cổ, đời Phật
Câu-Na-Hàm-Mâu-Ni gọi là Pháp-Cảnh, đời Phật Ca-Diếp gọi là Biệt-Không”.
9. Xa-Đà-Dà (Jàtaka): Danh từ nầy, Trung-Hoa
dịch là Bản-Sanh. Đây là những kinh Phật nói về nhân duyên thọ sanh
của chính Ngài hoặc các đệ-tử trong nhiều đời trước. Như đoạn: “Các ông nên
biết, đời quá khứ khi hành đạo Bồ-Tát, ta đã từng thọ thân hươu, nai, thỏ, gấu,
rồng, Kim-súy-điểu, Túc-tán-vương, Chuyển-luân-vương”.
10. Tỳ-Phật-Lược (Vaipulya): Danh từ nầy,
Trung-Hoa dịch là Phương-Quảng. Đây là những kinh Đại-thừa Phương-Đẳng,
nội dung hàm nghĩa lý cao siêu, rộng rãi như mười phương hư không.
11. A-Tỳ-Đạt-Ma (Adbhuta Dharma): Danh từ nầy,
Trung-Hoa dịch là Vị-Tằng-Hữu hoặc Hy-pháp. Đây là kinh văn
nói về những thần lực, những nghiệp duyên, những công đức tối thắng, lạ lùng,
ít có, mà trí phàm-phu khó tin hiểu. Như kinh Đại-Niết-Bàn nói: “Thế nào là
pháp Vị-Tằng-Hữu? Như Bồ-Tát khi mới sanh ra, không người nâng đỡ mà tự đi bảy
bước, phóng đại quang minh, nhìn khắp mười phương. Như con vượn tay bưng bát
mật cúng dường Như-Lai. Như con chó cổ trắng theo bên Phật nghe thuyết pháp.
Như Thiên-ma Ba-Tuần biến làm con thanh ngưu đi trên những bát bằng sành, khiến
cho các bát va chạm nhau mà không sứt bể. Và cũng như Bồ-Tát khi mới sanh được
đưa vào miếu thờ thiên thần, các thiên tượng đều đứng lên lễ kỉnh”.
12. Ưu-Bà-Đề-Xá (Upadesa): Danh từ nầy có
nghĩa Luận-Nghị. Đây là lối kinh văn có tính cách vấn đáp biện
luận, hoặc phân biệt các tướng mạo, các lẽ chánh tà. Luận Du-Già nói: “Thế nào
là Luận-Nghị? Đây là tất cả đối pháp luận, nghiên cứu nghĩa rộng sâu của
Tô-Đát-Lãm, tuyên dương tông yếu của các kinh”.
Trong mười hai bộ loại trên, chỉ có Tu-Đa-La, Kỳ-Dạ và Dà-Đà là
thể tài chính thức của kinh giáo. Còn chín loại kia, chẳng qua là y theo các sự
kiện sai biệt của pháp điển mà lập ra vậy thôi.
Và mười hai phần giáo nầy, không phải trong kinh nào cũng có đủ
cả. Có thứ kinh chỉ được một hai phần, có thứ kinh gồm đến năm sáu phần chẳng
hạn. Ấy là tùy theo thời tiết, cơ duyên riêng biệt của mỗi thứ kinh, mà có
những sự sai khác hoặc ít hoặc nhiều.
ÐẠI THỪA KIẾT
TẬP
Khi Ðức
Như-Lai còn tại thế, đối với hạng dung thường, Ngài chỉ thuyết pháp một cách
phổ thông bình đẳng, không phân chia là Ðại-thừa, Tiểu-thừa chi cả. Tuy nhiên,
trong lời thuyết pháp của Phật, đôi khi có hàm ẩn giáo lý Ðại-thừa. Chẳng hạn
như trong kinh Tiểu-thừa, chúng ta thấy có danh từ A-Ðà-Na-thức; A-Ðà-Na là
thức thứ tám, thức nầy không phải cảnh giới Thanh-Văn có thể thấu triệt được.
Cho nên khi đọc tới danh từ trên đây, họ chỉ hiểu là thức thứ bảy của ngã chấp
mà thôi. Sự dẫn chứng Ðại-thừa-pháp hàm ẩn trong kinh giáo Tiểu-thừa, quyển
Nhiếp-Ðại-Thừa-Luận có phân tích rành rẽ.
Sở dĩ Ðức
Thế-Tôn không đem giáo nghĩa Ðại-thừa mở rộng giảng cho hạng tiểu căn nghe, vì
sợ họ không hiểu rồi sinh lòng phỉ báng mà mang đọa. Theo trong kinh, chấp nhận
được giáo lý Ðại-thừa, chỉ có ba hạng:
1. Hạng
Ðăng-Địa Bồ-Tát: Bậc Bồ-Tát khi đã chứng pháp-thân, thấy vô số Tịnh-độ, Uế-độ ở
mười phương, được nghe chư Phật mười phương thuyết pháp. Bởi lý do nầy, đối với
Phật-bảo, Bồ-Tát tin chắc có vô lượng chư Phật ở tha phương thế-giới, không như
hàng Thanh-Văn chỉ biết trong phạm vi tam-thiên-giới của cõi Ta-Bà và chỉ tôn
thờ một vị Phật là Ðức Thích-Ca-Mâu-Ni. Ðối với Pháp bảo, Bồ-Tát tin hiểu có vô
lượng pháp môn độ sinh, không như hàng Thanh-Văn chỉ chấp nhận pháp Tứ-đế,
Thập-nhị-nhân-duyên và các tiểu pháp khác. Ðối với Tăng-bảo, Bồ-Tát hiểu rằng
có vô lượng chư Bồ-Tát ở mười phương, không như hàng Thanh-Văn chỉ biết có
Di-Lặc Bồ-Tát sau sẽ thành Phật và các vị A-la-hán như Xá-Lợi-Phất,
Mục-Kiền-Liên...
2. Hạng
Thanh-Văn tin nơi lời của Phật và phát tâm Ðại-thừa: Ðại-thừa tuy
không phải là cảnh giới của hàng Thanh-Văn, nhưng do họ tin lời của Phật mà
chấp nhận. Như trong kinh Pháp-Hoa, Ðức Thế-Tôn bảo: “Xá-Lợi-Phất! Pháp môn nầy
với đạo quả của ông, hãy còn nương nơi ta mà tin hiểu... Bao nhiêu hàng
Thanh-Văn khác, chỉ tùy thuận Như-Lai mà tín thọ, chớ không phải do trí huệ của
chính mình”.
3. Hạng
phàm-phu có chủng tử Ðại-thừa: Ðây là những hạng Ðại-thừa chủng tánh trong năm tánh theo kinh
Phật. Hạng nầy nhiếp luôn cả Sơ-phát-tâm Bồ-Tát và Hiền-vị Bồ-Tát. Tuy chưa
chứng đạo quả nhưng hàng Ðại-thừa chủng tánh do nhiều kiếp về trước đã huân tập
pháp Đại-thừa, nên một khi nghe đến pháp nầy liền tín thọ. Như kinh Kim-Cang,
kinh Vô-Lượng-Thọ đều nói: “Nếu có người nào nghe pháp nầy mà tin thuận, nên
biết kẻ ấy không phải chỉ gieo căn lành nơi một hai Đức Phật, mà đã từ vô lượng
chư Phật về trước rồi”. Lại, Đại-thừa có nhiều pháp môn, nên sự huân tập của
hàng Ðại-thừa chủng tánh cũng có ít nhiều sai biệt. Như cũng đồng Ðại-thừa
chủng tánh mà có kẻ tin pháp Bát-nhã, song không tin pháp Bí-mật, hay tin pháp
Bí-mật nhưng không tin pháp Tịnh-độ, hoặc tất cả đều tin. Còn hạng không có
chủng tánh nầy, dù đọc hết bao nhiêu pháp tạng, kết cuộc sự tin hiểu và lối
giải thích nếu không Tiểu-thừa cũng thế gian, không thế gian cũng ngoại-đạo.
Thật đúng như câu:
“Nhất
đại-tạng-kinh đô khán tận.
Bất tri thùy
thị cá trung nhơn?”
(Một đại-tạng-kinh xem đã hết.
Biết ai là kẻ ở trong đây?).
Trong một đời
giáo hóa, Ðức Thế-Tôn phần nhiều nói giáo pháp thông thường. Tuy nhiên, đối với
hạng đại căn, Ngài lại diễn môn Đại-thừa đặc biệt. Những kỳ thuyết pháp nầy, có
khi Đức Phật nói ở Thiên-cung, Long-cung, hay nơi hải đảo, non cao, hoặc riêng
trong chúng hội có căn cơ kham tin nhận đại pháp. Từ trước đến đây, sở dĩ có
cuộc dẫn giải dài dòng, là để học giả tin pháp Ðại-thừa có thật, nhưng rất khó
tin, nếu không phải là người đã sẵn đại căn. Vì khó tin nên khi Phật nói kinh
Pháp-Hoa ở non Linh-Thứu, đã có 5000 vị Thanh-Văn chứng tứ-đạo-quả, rút lui ra
khỏi pháp hội. Và đã có Đại-thừa pháp, tất nhiên có cuộc kiết-tập giáo nghĩa
nầy.
Căn cứ theo
kinh, cuộc kiết-tập Đại-thừa-giáo đã diễn ra ba lần ở ba nơi:
Lần thứ nhất, như kinh
Bồ-Tát-Xử-Thai nói: Sau khi Ðức Thế-Tôn diệt độ bảy hôm, ngài
Ma-Ha-Ca-Diếp dùng thần thông chiêu tập 500 vị A-la-hán đến Sa-La-Song-Thọ.
Ðồng thời lại có các bậc Ðại A-la-hán ở mười phương vân tập tới bản xứ. Lúc ấy
trong đại hội có tám ức bốn ngàn chúng A-la-hán. Sau khi thỉnh Tôn-giả A-Nan
lên tòa thất bảo, ngài Ðại Ca-Diếp nói: “Pháp tạng của Phật, nhân giả đã thọ trì.
Vậy xin trùng tuyên lại đừng để sót mất một lời một chữ. Về các tạng: Bồ-Tát,
Thanh-Văn, Giới-luật, xin tập hợp mỗi bộ loại cho rành rẽ”.
Khi ấy, giữa
chúng hội, ngài A-Nan trùng tuyên pháp tạng chia thành ba bộ loại: Bồ-Tát,
Thanh-Văn và Giới-luật. Riêng về tạng Bồ-Tát, tôn-giả lại phân ra tám biệt tạng
là: Thai-Hóa, Trung-Ấm, Ðại-Phương-Ðẳng, Giới-Luật, Thập-Trụ-Bồ-Tát, Tạp-Tạng,
Kim-Cang và Phật-Tạng.
Lần thứ hai, như Luận-Trí-Ðộ nói:
Sau khi Phật nhập diệt, các vị Bồ-Tát Văn-Thù, Di-Lặc dùng thần thông đem ngài
A-Nan đến núi Thiết-Vi. Tại nơi đây đã có vô lượng chúng Bồ-Tát, Thanh-Văn cùng
Thiên-long-bát-bộ vân tập. Lúc đó, giữa chúng hội, ngài A-Nan kiết-tập ba tạng
Kinh, Luật, Luận, của Ðại-thừa. Kế đó các Bồ-Tát lại đem ngài đến núi Kỳ-Xà-Quật,
kiết-tập ba tạng Tiểu-thừa.
Lần thứ ba, như Ðại-Nhật-Kinh-Sớ nói:
“Cuộc kiết-tập Bí-mật-tạng chia làm ba bộ phái:
1. Bộ phái
Tự-môn: Bộ nầy do ngài A-Nan kiết-tập gồm hai môn loại: Kim-Cang-giới và
Thai-Tạng-giới.
2. Bộ phái
Sơn-môn: Bộ nầy cũng kiết-tập hai môn loại trên, nhưng Bồ-Tát
Kim-Cang-Thủ làm Chánh-hội-chủ, Tôn-giả A-Nan làm Phó-hội-chủ.
3. Bộ phái
Ðông-tự: Bộ nầy do Kim-Cang-Thủ Bồ-Tát kiết-tập lại Tạp-bộ của hai môn
loại trước.
Tóm lại, hai
kỳ kiết-tập trước gọi chung là Ðại-thừa-kiết-tập, xứ sở là Sa-La-Song-Thọ và Thiết-Vi-Sơn.
Kỳ kiết-tập sau gọi là Bí-mật-kiết-tập, xứ sở chưa được rõ.
TIỂU THỪA VÀ ĐẠI THỪA
Tám Điểm Sai
Biệt Của Hai Phái
1. TÂM LƯỢNG
2. CĂN CƠ
3. NHÂN SANH QUAN
4. VŨ TRỤ QUAN
5. QUAN NIỆM TAM BẢO
7. THỜI GIAN TÁNH
8. QUẢ CHỨNG
Đứng về phương diện lịch sử mà nói, sự đối lập giữa Tiểu-thừa và
Đại-thừa có ba nguyên nhân : Do hoàn cảnh, Do trào lưu tư tưởng, và Do các học giả phát
khởi.
Do hoàn cảnh: Đại-thừa Phật-giáo bộc hưng, một phần do ảnh hưởng của
hoàn cảnh bên ngoài. Xét theo lịch sử, từ đời A-Dục-Vương về sau, quần chúng
miền Bắc-Ấn thường giao thiệp với dân tộc hai xứ Hy-Lạp, Ba-Tư. Những nhà học
Phật ở Bắc-Ấn lúc ấy càng ngày càng đông. Do sự tiếp xúc với ngoại nhân, họ lần
lần chịu ảnh hưởng tư tưởng tôn-giáo của hai xứ đó, nên có nhiều nhà học Phật
chủ trương sùng bái cầu nguyện.
Bởi nguyên nhân nầy, thuyết tha-lực vãng sanh đã sẵn có trong
Kinh-điển Phật-giáo được đề khởi lên. Thời bấy giờ, phong trào cầu vãng sanh về
cõi Đâu-Suất của Di-Lặc Bồ-Tát, cõi Cực-Lạc của Phật A-Di-Đà, cõi Lưu-Ly của
Phật Dược-Sư, cõi Diệu-Hỷ của Phật A-Súc-Bệ rất thịnh hành. Trong đây
chỉ có thuyết vãng sanh Cực-Lạc là được lưu thông hơn cả. Người ta gọi
phong trào nầy là Chủ-tình-đại-thừa-giáo.
Mặt khác, sau Phật diệt độ 500 năm, các phái ngoại-đạo
lần lần phục hưng, lý thuyết của họ càng ngày càng được cải cách thêm
đến mức siêu việt. Song song với phong trào đó, kho tàng Phật-giáo cũng phải
được khai thác triệt để, mới có thể đối phó với ngoại-đạo và giải quyết đầy đủ
mối nghi ngờ của học giả. Vì thế, Đại-thừa Phật-giáo phải ra đời để
thích ứng với thời đại.
Do trào lưu tư tưởng: Khởi nguyên tư tưởng Đại-thừa Phật-giáo lẽ dĩ nhiên đã có
từ khi Ðức Như-Lai còn tại thế. Sau khi Ðức Thế-Tôn diệt độ 100
năm, giáo đoàn đạo Phật chia thành Thượng-Tọa-bộ và Đại-Chúng-bộ, rồi lần lần
phát sanh ra các chi phái. Giáo nghĩa của các bộ phái đó phần nhiều bao hàm cả
đạo lý Đại-thừa. Tư tưởng của học giả cũng biến thiên theo trào lưu, từ đời A-Dục
đến đời Ca-Nị-Sắc-Ca, quan niệm Đại-thừa-giáo càng ngày càng phát hiện thêm rõ
rệt.
Trên phương diện địa lý, tư tưởng nầy bắt nguồn từ xứ An-Đạt-La
thuộc Nam-Ấn-Độ. Giáo nghĩa nẩy nở đầu tiên là Ma-Ha-Bát-Nhã, phát xuất từ
Đại-Chúng-bộ. Trong kinh Bát-Nhã có đoạn Phật dự ký:
“Sau khi Như-Lai niết-bàn, kinh nầy được truyền về phương nam,
rồi từ đó lưu chuyển đến phương tây và lên phương bắc”.
Lời dự ký nầy đã chứng minh cho Đại-thừa Bát-Nhã xuất phát từ
phương nam. Đại-thừa Phật-giáo ở Bắc-Ấn-Độ phát nguyên từ địa phương nào, sự kê
khảo chưa được chính xác. Nhưng theo ngài Huyền-Trang thì tại xứ Câu-Tát-La
(Kosala), Kinh-điển Đại-thừa rất nhiều, Phật-pháp ở đây cực thịnh và được
truyền bá đi các nơi khác.
Hoặc giả địa phương nầy là chỗ phát nguyện của Đại-thừa
Phật-giáo miền Bắc-Ấn chăng?
Do các học giả phát khởi: Sau khi Phật
diệt độ, một mặt do trào lưu tư tưởng lần lần biến thiên, nên sự đòi hỏi thích
ứng với quan niệm quần chúng càng ngày càng thêm cần thiết.
Mặt khác, giáo nghĩa của ngoại-đạo cũng lần lần được cải tiến,
họ biết rút lấy cái hay của các phái khác trong ấy có cả đạo Phật, để bổ khuyết
thêm cho học thuyết của mình.
Vì thế, lập luận của họ càng ngày thêm vững vàng, trong đó các
phái Thắng-luận, Số-luận, Phệ-Ðàn-Đà luôn luôn bài xích Phật-giáo.
Giữa lúc ấy, phần đông chư Tăng lại thiên về khuynh hướng giải
thoát, bảo thủ lấy truyền thống xưa, nên thanh thế Phật-giáo lần lần thấy sút
kém trước ảnh hưởng của ngoại-đạo.
Để cứu vãn tình thế và thích ứng thời cơ, sau Phật diệt độ 700
năm, hai ngài Mã-Minh, Long-Thọ nối nhau xuất
hiện, trứ tác các bộ như: Đại-Thừa-Khởi-Tín-Luận, Đại-Trang-Nghiêm-Luận-Kinh,
Trí-Độ-Luận, Thập-Trụ-Tỳ-Bà-Sa-Luận, Trung-Quán-Luận để phát huy ý nghĩa
Đại-thừa Phật-giáo.
Kế tiếp sau hai ngài, có các vị như Đề-Bà, La-Hầu-La, Bạt-Đà-La,
Vô-Trước, Thế-Thân cũng cực lực đề xướng đạo lý nầy.
Xét ra, đứng về mặt bao quát, Đại-thừa kiêm cả Tiểu-thừa.
Nhưng Đại-thừa giáo sở sĩ được biệt lập là để đối kháng với quan niệm bảo thủ
và xu hướng tự giải thoát của phần đông chư Tăng thời bấy giờ. Nhưng hoàn cảnh
hoặc trào lưu tư tưởng chỉ là nhân duyên phát khởi, mà thành quả lại do sự
xướng lập của chư đại-đức Mã-Minh, Long-Thọ, Vô-Trước, Thế-Thân. Cho nên người
sau thường gọi các ngài là những nhà cách mạng Phật-giáo.
Vậy, khởi nguyên của Đại-thừa Phật-giáo là bởi ba lý do
trên. Quan niệm phân biệt, khen chê giữa Đại-thừa và Tiểu-thừa sau
nầy, thật ra cũng có. Nhưng sự đối lập giữa hai tập đoàn lớn trong Phật-giáo là
một lẽ tất nhiên của thời đại, mà dù muốn dù không, người ta vẫn không thể
tránh.
Nhưng về phương diện lập thuyết, thì hai phái hoàn toàn khác
nhau từ chỗ phát tâm đến giáo, lý, hạnh, quả. Trong Trí-Độ-Luận, ngài Long-Thọ
nói:
“Phật-pháp đồng một vị, đó là vị giải thoát. Trong vị giải thoát
nầy có hai thứ: một là chỉ vì mình, hai là vì tất cả chúng-sanh. Cho nên, tuy
đồng cầu giải thoát, mà có sự lợi mình và mình người đều lợi khác nhau. Vì thế,
mới có sự sai biệt giữa Tiểu-thừa, Đại-thừa”.
Xem đây thì biết, sự khu phân của hai phái không phải chỉ thuộc
trên nguyên nhân, mà còn trên phương diện chủ thuyết. Căn cứ theo
Nhập-Đại-Thừa-Luận của ngài Kiên-Ý và xét qua chủ trương lập thuyết đôi bên, ta
có thể chia sự sai biệt giữa Tiểu-thừa và Đại-thừa thành tám điểm như sau:
1. Tâm-lượng: Hàng Tiểu-thừa tâm lượng hẹp hòi,
gấp cầu giải thoát mọi sự khổ não trong đường sanh-tử. Họ chỉ biết độ
cho mình hơn là độ cho kẻ khác.
Hàng Đại-thừa tâm lượng rộng rãi, quyết đạt đến lý tưởng tự lợi
lợi tha. Hơn nữa, họ còn lấy việc lợi tha làm chủ đích.
2. Căn-cơ: Tiểu-thừa là hàng căn tánh tối chậm,
chỉ tin hiểu những tiểu pháp như : Tứ-đế, Thập-nhị-nhân-duyên.
Đại-thừa là hạng có thắng giải đại tánh, không thích tiểu pháp
mà ưa thọ trì những đại pháp như: Ngã-pháp-câu-không, Duyên-khởi-như-huyễn.
3. Nhân-sanh-quan: Tiểu-thừa khuynh hướng về
Nhân-sanh-quan vô thường, nhiều khổ não. Vì vậy, họ chủ trương phá tan
Tiểu Ngã, mong sớm chứng vào thể tánh vắng lặng, và lấy đó làm chỗ giải
thoát an vui.
Đại-thừa cũng bắt đầu từ quan niệm ấy, nhưng lại hiểu
rằng các pháp như huyễn, chúng-sanh chính là tự tánh của mình. Cho nên
lập thuyết của họ là phá chấp trên Ngã, Pháp, để khuếch trương Ðại-ngã, không
cần phải lìa đời xa lánh chúng-sanh, mà vẫn được giải thoát tự tại.
4. Vũ-trụ-quan: Tiểu-thừa đối với vạn hữu thì
cuộc hạn trong phạm vi hiện tượng luận sanh diệt, yếu tố để giải thích của họ
duy có 75 pháp. Sự chứng biết của Tiểu-thừa cũng chỉ trong vòng
Tam-thiên-đại-thiên-thế-giới, cho nên họ không tin có Tha-phương
Tịnh-độ.
Đại-thừa thì ngoài hiện tượng sai biệt, còn thuyết minh chân-như
bình đẳng không sanh diệt để đạt đến bản thể luận. Yếu tố để giải thoát vạn hữu
của họ gồm có 100 pháp. Họ tin nhận rằng, ngoài thế-giới nầy còn có vô
số Uế-độ và Tịnh-độ như vi-trần.
Tất cả đều là thể Như-huyễn-tự-tánh thanh-tịnh-tánh.
5. Quan niệm Tam-bảo: Về Phật-bảo, hàng
Tiểu-thừa chỉ chấp nhận Ðức Thích-Ca-Mâu-Ni và chư Phật của cõi Ta-Bà, không
tin có các đấng Như-Lai ở tha phương thế-giới.
Về Pháp-bảo, họ chỉ tín thuận những kinh Tiểu-thừa như A-Hàm,
Pháp-Cú... không tin nhận những kinh Đại-thừa như Hoa-Nghiêm, Pháp-Hoa.
Về Tăng-bảo, họ chỉ hiểu biết các bậc A-la-hán như Xá-Lợi-Phất,
Mục-Kiền-Liên.... không chấp nhận các bậc Bồ-Tát tha phương như:
Phổ-Hiền, Dược-Vương, Nguyệt-Quang, Thế-Chí.
Trái lại, Đại-thừa tin nhận cả tiểu pháp lẫn đại pháp và ngôi
Tam-bảo ở cõi nầy cùng mười phương.
6. Tư-lương-tánh: Trên phương diện tu hành,
hàng Tiểu-thừa thiên về Huệ, y theo Tứ-đế, Thập-nhị-nhân-duyên,
Tam-thập-thất-đạo-phẩm, mục đích để phá trừ ngã chấp, chứng
quả nhân không.
Còn hàng Đại-thừa thì y theo Lục-độ-vạn-hạnh gồm tu phước
huệ, phá cả Ngã-chấp lẫn Pháp-chấp, chứng
quả nhị-không.
7. Thời-gian-tánh: Về Tiểu-thừa, hàng Thanh-Văn
phải tu từ ba đời đến 60 kiếp mới chứng quả A-la-hán; còn hàng
Duyên-Giác phải tu từ bốn đời đến 100 kiếp mới chứng quả Bích-Chi-Phật.
Còn bên Đại-thừa phải dùng ba A-tăng-kỳ-kiếp để
tu sáu độ và 100 kiếp để tu nhân tướng tốt, mới chứng quả Phật.
8. Quả-chứng: Giải thoát của Tiểu-thừa là tiêu
cực. Họ muốn lánh khỏi mọi sự khổ não ở hiện tại mà thể nhập vào cảnh không
tịch. Cho nên mục đích chung cuộc của họ là cầu lấy quả A-la-hán hoặc
Bích-Chi-Phật.
Giải thoát của Đại-thừa là tích cực. Họ hiểu rằng phiền não vốn
không và trong chúng ta có đủ đức tướng, trí huệ của Như-Lai cùng vô lượng công
đức. Vì thế họ lấy địa vị Phật-Ðà làm lý tưởng chung
cuộc. Về chúng-sanh, Đại-thừa quyết độ tất cả đều thành Phật. Về
thế-giới, họ quyết biến cõi uế ác thành cảnh thiện mỹ, trang nghiêm.
Cho nên mục đích của Đại-thừa gồm trong câu:
“Trang nghiêm
Phật-độ, thành tựu chúng-sanh”.
DUNG HỘI CÁC THỪA
Theo Nguyên-thủy Phật-giáo, quả Niết-bàn giải thoát của hàng
Thanh-Văn đồng với Phật, nhưng bậc Thanh-Văn phước trí chưa được đầy đủ bằng
Ðức Thế-Tôn. Theo Đại-thừa Phật-giáo, quả Vô-thượng-bồ-đề của Như-Lai
duy những vị tu theo Bồ-Tát-thừa mới chứng được. Đứng về mặt khách
quan để khảo cứu Kinh-điển của hai phái, ta có thể chia lối thuyết pháp của
Phật ra ba thời kỳ:
Thời kỳ thứ nhất, Ðức Thế-Tôn vì muốn cho hàng đệ-tử lìa khỏi nỗi khổ thân tâm
hiện tại, hưởng sự an vui tịch tịnh, nên Ngài chỉ ngay những phương tiện giải
thoát. Như Đức Phật dạy:
“Thế nầy là Khổ, thế nầy là Tập, thế nầy
là Diệt, thế nầy là Đạo. Như-Lai đã tu tập theo đường
lối ấy, các ông nên thực hành theo. Như-Lai đã đắc quả giải thoát theo đường
lối ấy, các ông nên cố gắng để chứng nhập... Hiện nay sự sống chết của ta đã
dứt, phạm hạnh đã thành lập, việc làm cũng đã xong, không còn thọ thân
đời sau nữa...”
Xuyên qua mấy lời nầy, đạt đáo điểm của Phật cùng với hàng đệ-tử
trong buổi đầu tiên dường như không khác nhau, có thể biểu dương bằng câu:
“Hành đồng
đạo, đắc đồng quả”.
Qua thời kỳ thứ hai, Ðức Thế-Tôn lần lần nói những đạo pháp cao rộng hơn. Như trong
đoạn ngài Văn-Thù trình bày kiến giải với Phật: “Bạch Ðức Thế-Tôn! Tu
Bát-Nhã-Ba-La-Mật là không rời bỏ pháp phàm-phu, không cầu lấy pháp hiền-thánh. Tại
sao thế? Vì người thực hành môn nầy, không thấy có pháp để lấy hoặc bỏ, cũng
không thấy có Niết-bàn đáng ưa, sanh-tử đáng chán. Bởi Niết-bàn cùng sanh-tử,
hành giả còn không thấy có, huống nữa là sự ưa chán ư?”
Đức Phật bảo: “Đúng như thế! Nầy Văn-Thù! Đó là sở hành của các
bậc Bồ-Tát-Ma-Ha-Tát. Cho đến hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác, nói chung là bậc hữu
học, vô học, đều không nên rời pháp ấn nầy mà tu đạo quả”.
Đoạn kinh văn trên đây, chứng minh Ðức Thế-Tôn khuyến dụ
hàng Thanh-Văn đi vào thâm pháp. Ngài còn bảo chính mình đã trải qua
vô lượng kiếp, tu những nhân hạnh tự lợi lợi tha rộng lớn, mới thành tựu ba
mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, mười lực, bốn vô úy, mười tám pháp bất
cộng của quả Vô-thượng-bồ-đề.
Đến thời kỳ thứ ba, Ðức Thế-Tôn dung hòa ba thừa. Đại ý Ngài nói: “Những vị nghe
tu theo pháp Tứ-đế, chứng được đạo quả, gọi là Thanh-Văn thừa. Hạng
căn cơ lanh lợi hơn, tự phát minh hoặc do ngôn giáo của Như-Lai mà tỏ ngộ
Thập-nhị-nhân-duyên, gọi là Ðộc-Giác, hoặc Duyên-Giác thừa. Bậc
thật hành Lục-độ, cầu quả Vô-thượng, gọi là Bồ-Tát thừa.
Nhưng hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác có thể hướng thượng và thành
Phật; hai thừa nầy chỉ là những nấc thang để bước lên Bồ-Tát thừa mà thôi”.
Tóm lại, ba thừa chỉ là một, Ðức Như-Lai ra đời không
ngoài mục đích đưa chúng-sanh đến quả Phật, và Ngài cũng chỉ dạy có đạo pháp
Nhất-thừa.
Danh từ Nhất-thừa, trong Kinh-điển của hai phái, Đức Phật cũng
thường nhắc nhở đến. Như kinh Tạp-A-Hàm nói: “Có Nhất-thừa-đạo hay khiến cho
chúng-sanh được thanh tịnh, đưa họ vượt qua sự thương lo buồn khổ, vào pháp
chân-như. Đó là Tứ-niệm-xứ...” Và đoạn:
Ta có pháp Nhất-thừa
Vì chúng-sanh các cõi
Diễn nói chánh-pháp âm
An ủi chúng-sanh khổ
Chư Phật đời quá khứ
Dùng pháp nầy độ sanh
Chư Phật đời vị lai
Cũng diễn Nhất-thừa-pháp
Chư Phật đời hiện tại
Nương đây độ dòng mê
Đưa khỏi bờ sanh tử...
Kinh Pháp-Hoa cũng nói:
Vì thế, Xá-Lợi-Phất
Ta mới lập phương tiện
Nói các pháp diệt khổ
Chỉ bày nẻo Niết-bàn
Nhưng cảnh Niết-bàn nầy
Chưa phải chân diệt độ
Các pháp từ xưa nay
Tự hướng hằng vắng lặng
Phật-tử đã hành đạo
Về sau sẽ thành Phật
Ta dùng sức phương tiện
Mở bày pháp Tam-thừa
Tất cả chư Thế-Tôn
Đều nói Nhất-thừa-đạo
Nay trong đại chúng đây
Phải nên trừ nghi hoặc
Lời chư Phật không khác
Chỉ một, không hai thừa...
Pháp tối diệu bậc nhất
Vì các loại chúng-sanh
Phân biệt nói ba thừa
Kẻ thấp ưa pháp nhỏ
Không tin mình thành Phật
Nên ta dùng phương tiện
Chia ra các đạo quả
Tuy là nói ba thừa
Kỳ thật dạy Bồ-Tát...
Căn cứ mấy đoạn kinh trên, thì từ trước đến sau, Đức
Phật chỉ dạy có Nhất-thừa-pháp, chẳng qua vì tùy trình độ chúng-sanh mà
phương tiện dẫn dụ thế thôi.
Tóm lại, trong một đời giáo hóa, nói rộng ra, tuy Ðức Thế-Tôn
dạy bảo Nhân-thừa, Thiên-thừa, Thanh-Văn-thừa, Duyên-Giác-thừa, Bồ-Tát-thừa,
song không ngoài mục đích để thành tựu Phật-thừa, tức là Nhất-thừa-đạo.
Đối với hạng chưa thể tu theo đường giải thoát, Ngài khuyên dạy
pháp Ngũ-giới, Thập-thiện, để cho họ trồng căn lành, khỏi sa vào ác
đạo, gây nhân duyên đắc độ về sau.
Với hạng có thể bước lên nẻo Niết-bàn, Ngài khai thị pháp Tứ-đế,
Thập-nhị-nhân-duyên, để họ thoát nỗi khổ luân-hồi, hưởng sự vui tịch tịnh,
rồi lần lượt dẫn dụ vào đại pháp.
Với hạng đại căn cơ, Ngài chỉ ngay Bồ-Tát-đạo, khiến
cho họ mau thành tựu quả Phật. Đức từ bi, bình đẳng, trí huệ, phương tiện của
Phật quả thật không lường!
Thế thì dù Tiểu-thừa hay Đại-thừa, đều cùng là con
của Phật, cùng sẽ về một tiêu điểm, người Phật-tử chỉ nên tự xét và tự hướng
lối đi của mình đúng như lời dạy của Ðức Thế-Tôn, chớ không nên cố tâm
chia rẽ.
Phật Học Tinh
Yếu
Hòa Thượng
Thích Thiền Tâm
Ẩn-Tu Ngẫu Vịnh
Như-Ý Giảng giải
TRĂNG in NƯỚC bích LÒNG THIỀN rạng,
GIÓ LỘNG non hồng Ý ĐẠO thanh.
Nương mình tựa án xem NGƯỜI CỔ,
ẨN BÓNG trong gương
ngẫm chuyện đời.
HÒA THƯỢNG TÔN SƯ
Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư Thích Thiền-Tâm,
hiệu Vô-Nhất.
BÀI SỐ 50
Ẩn tu thương nghĩ cánh Nam tông
Tịnh độ cho là pháp viễn vông
Bác phá Đại thừa phi Phật thuyết
Yến Ly đâu biết dấu chim hồng ?
NHƯ Ý: HƯ VÂN Thiền-sư một bậc cao tăng cận đại ở Trung
HOA, khi sang Viếng Phật Giáo ở Thái Lan, đã ngồi nhập Định
luôn 9 ngày đêm liên tiếp, khiến cho Chư-tăng và Phật-tử
nơi xứ này đều LẠ LÙNG RÚNG ĐỘNG.
Thế mà khi trở về nước nhà dự lễ đón mừng trong một
buổi Đại hội, Ngài đã than Phật giáo gọi là Nguyên thủy thuộc
cánh Nam-tông không tin các kinh như: PHÁP HOA, HOA NGHIÊM,
DI ĐÀ, BÁT NHÃN, họ cho Pháp Đại-thừa là không phải của
PHẬT nói lại còn đòi mở cuộc tranh luận RỐI REN, thật ra
chim Én đậu ở Phan Dậu (Cột cờ Phướn) làm sao biết được
dấu vết cao xa của cánh chim Hồng.
Cổ đức đã dạy:
“Dục Đắc Bất Chiêu Vô Gián Nghiệp,
Mạc Báng Như Lai Chánh Pháp Luân.”
( Muốn khỏi bị mang Vô-gián nghiệp,
Đừng khinh Chánh-pháp của Như Lai.)
(CHỨNG ĐẠO
CA)
Từ xưa vì sợ người tu học Phật phạm tội này, cho nên
chư Bồ Tát đã thị hiện bác phá Đại thừa, rồi đọa Địa-ngục ngay
trước mắt, cho quần chúng thấy để ngăn ngừa chư Tăng.
CHÍNH bên Nam Tông Tuy không tin ĐẠI THỪA, nhưng ÍT có duyên
tạo tội này, vì họ ở bên xứ thuộc Tiểu thừa.
RIÊNG chư Tăng-Ni Thiện-Tín ở các nước bắc TÔNG Phật
giáo cần phải DÈ DẶT, vì nơi đây pháp Đại-thừa lan rộng, để
nói thêm chính Ngài Hư-vân một BẬC THAM THIỀN NGỘ ĐẠO cũng tín tịnh độ khuyên
niệm Phật.
Thiên-Thân Bồ Tát
(Bồ tát người xứ Thiên Trúc, khi mới xuất gia học theo pháp Tiểu
thừa, hủy báng kinh điển Đại thừa. Sau Ngài nhờ anh là Vô Trước nhiều phen chỉ
dẫn, mới hối ngộ sự lỗi lầm, muốn tự cắt lưỡi. Vô Trước Bồ tát bảo:
"Xưa em dùng lưỡi hủy báng Đại thừa, nay phải dùng lưỡi mà
tán dương pháp ấy để chuộc tội. Việc sửa lỗi hãy còn chưa muộn, nếu cắt lưỡi
đi, nào có ích gì?"
Vâng lời anh, Ngài Thiên Thân từ đó đem hết tâm tư, tạo ra hơn
100 bộ luận Đại thừa. Trong ấy có luận Vãng Sanh, phát huy rõ ràng sự trang
nghiêm lợi ích của cõi Tịnh độ. Người niệm Phật nên chú ý đến luận này.)
Vô Lượng Thọ Kinh Luận nói: "Nếu tu ngũ niệm môn thành tựu,
kết quả sẽ được vãng sanh về Cực lạc, thấy Phật A Di Đà. Ngũ niệm môn là gì?
1) Lễ
bái môn
2) Tán
thán môn
3) Phát
nguyện môn
4) Quán
sát môn
5) Hồi
hướng môn.
Lễ bái là thế nào?
Ấy là dùng thân lễ Đức Phật A Di Đà, tỏ ý cung kính, cầu Phật nhiếp
thọ.
Tán thán môn là thế nào?
Đây là dùng miệng khen ngợi sắc thân, danh nghĩa, ánh sáng, trí
huệ của Đức Như Lai kia, muốn tu hành như thật cho được tương ưng.
Phát Nguyện môn là thế nào?
Ấy là một lòng chuyên niệm vào nơi chánh định, nguyện sanh về
Cực lạc.
Quán sát là thế nào?
Đây là dùng chánh niệm quán sát công đức trang nghiêm của cõi
Cực lạc, công đức trang nghiêm của Phật A Di Đà, và công đức trang nghiêm của
chư Bồ tát, và Thánh chúng.
Hồi hướng là thế nào?
Ấy là tâm từ bi không bỏ những chúng sanh khổ não, nguyện đem
căn lành công đức của mình, hồi hướng cầu cho tất cả loài hữu tình đều được
sanh về Cực lạc.
Tiết 9.- Bồ Đề Tâm Với Môn Tịnh Độ
Phật pháp theo sự tùy hóa, thông thường có hai cấp bậc là
Tiểu Thừa và Đại Thừa. Tiểu Thừa nói những pháp thấp nhỏ, trọng tâm hướng về
mục tiêu gấp cầu liễu sanh tử cho chính mình, và chỉ đi đến quả vị A La
Hán hoặc Duyên Giác.
Đại Thừa nói các pháp rộng lớn, hướng về hoằng nguyện độ thoát
tất cả chúng sanh, và đi đến quả vị Toàn Giác của Như Lai. Pháp môn
Niệm Phật thuộc về Đại Thừa, nên chẳng những đi về chiều hướng tự độ mà còn
kiêm cả độ tha.
Đạo Phật du nhập vào Trung Hoa, trải qua sự hoằng dương của chư
vị Tổ Sư, kết quả lập thành mười tông. Trong đó có hai tông thuộc về Tiểu Thừa
là Thành Thật Tông và Câu Xá Tông. Nhưng căn tánh của người Trung Hoa không hợp
với pháp Tiểu Thừa, nên không bao lâu hai tông này đều bị tàn tạ. Còn tám tông
kia thì thuộc về Đại Thừa, gồm có Thiên Thai Tông, Hiền Thủ Tông, Tam Luận
Tông, Pháp Tướng Tông, Luật Tông, Thiền Tông, Mật Tông và Tịnh Độ Tông.
Môn hoằng dương của Tịnh Độ Tông là pháp Niệm Phật. Nếu pháp môn
này chỉ giảng thuyết về sự tự độ, thì e cho đã bị tiêu mòn như hai tông Tiểu
Thừa kia từ lâu rồi. Nước Việt Nam ta là một bán đảo thuộc miền duyên hải, dân
tánh có chiều hướng hoạt động suy tư rộng, nên phần lớn thích hợp với Đại Thừa.
Nên từ xưa đến nay, tại đất nước này, Thiền Tông và Tịnh Độ đã chiếm phần ưu
thắng.
Luận về pháp, những pháp nào đi đến Phật quả cứu cánh,
giảng thuyết rộng về giới ngoại và sự lợi tha, đó là pháp Đại Thừa. Trái
lại, chính là pháp Tiểu Thừa. Nhưng điểm chủ yếu để phân định Tiểu Thừa hay Đại
Thừa, là thuộc về tâm chớ không phải pháp. Nếu dùng pháp Tiểu Thừa
hoằng hóa làm phương tiện để dẫn đến Phật quả thì đó chính Đại Thừa. Chẳng thế,
khi đức Như Lai giảng dạy về Tiểu Thừa giáo, Ngài cũng là hạng Tiểu Thừa hay
sao?
Vì lẽ ấy cho nên người niệm Phật cần phải chú trọng về chỗ phát
tâm, tức là phát Vô Thượng Bồ Đề tâm. Môn Niệm Phật đã thuộc về pháp Đại Thừa
nếu hành giả tu theo môn này lại phát đại Bồ Đề tâm nữa, thì tâm và pháp đều
được toàn vẹn, sẽ đi đến quả Viên Giác kiêm cả tự lợi lợi tha.
Nếu phát tâm nhơn thiên thừa mà niệm Phật, thì môn Niệm
Phật thành pháp nhơn thiên. Người niệm Phật mà phát tâm như thế, chỉ hưởng
được sự sang quý ở cõi người cõi trời, khi phước báo hết, lại chịu luân hồi sa
đọa.
Nếu phát tâm Tiểu Thừa mà niệm Phật, thì môn Niệm Phật thành
pháp Tiểu Thừa. Người niệm Phật mà phát tâm này, thì chỉ được quả giác thấp kém
không viên mãn của Thanh Văn, Duyên Giác, lại còn phạm lỗi nhỏ hẹp thiếu lòng
từ bi, duy biết lo giải thoát cho mình, không đoái đến bao nhiêu chúng sanh đau
khổ khác.
Cho nên niệm Phật cần phải phát Vô Thượng Bồ Đề tâm. Lời
tục thường nói: "Sai một ly, đi ngàn dặm." Người niệm Phật tu hành
đối với điểm phát tâm có chính xác cùng không, há chẳng phải là một điều đáng
chú ý lắm ư?
BÀI KỆ THỨ 62
"Các ông hãy cố gắng đến thành ấy tạm nghỉ sẽ hết nhọc
mệt!".
Ðoàn người vui mừng tiến tới hóa thành, cho rằng mình đã đến
nơi, đã được chỗ an ổn. Khi đạo sư thấy họ đã nghỉ ngơi xong, liền diệt mất hóa
thành và bảo:
"Vừa rồi là hóa thành không phải cảnh thật. Ta vì thấy các
ông mỏi mệt bỏ dở công khó muốn lui trở về, nên thương xót phương tiện hóa hiện
ra. Nay đã sắp gần tới bảo sở các ông nên cố gắng gia công tiến bước..."
Như A-tu-la thì có thiên A-tu-la, nhơn A-tu-la, quỉ A- tu-la,
súc A–tu-la. Tiên thì có thiên tiên, quỉ tiên cho đến súc tiên, chẳng hạn như
hồ tiên cho đến long tiên v.v... Nếu phối hợp với các thừa, thì năm trăm do
tuần là sự trải vượt qua năm thừa gồm: Nhơn thừa, Thiên thừa, Thanh Văn thừa,
Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa.
Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát còn kể trong giai đoạn hiểm nguy,
vì nếu không nhờ sức Phật gia bị, tất bị u trệ, khó nỗi tiến lên Phật quả.
Nhưng đây là luận rộng thêm đó thôi, thật ra đường hiểm năm trăm do tuần chỉ
cho Ngũ Thú thì thiết cận hơn.
Tổng kết đại ý, đức Thế Tôn muốn nói trong giáo pháp của Ngài,
chỉ duy một Phật Thừa, không có sự chia riêng hai thừa như Tiểu Thừa và Ðại
Thừa, hoặc ba thừa như Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát Thừa. Những thừa
trên đều toàn giả lập, quả vị Thanh Văn, Duyên Giác, chỉ là Hóa Thành huyễn tạm
mà thôi.
Ðúng ra Ta Bà và Cực Lạc đều là huyễn cảnh, nhưng Ta Bà có vô
lượng khổ nạn chướng duyên, Cực Lạc đủ vô lượng duyên lành tiến đạo. Bởi thế
chư Phật đều khuyên nên cầu vãng sanh để dễ tiến tu, không còn thuộc giới phàm
phu đầy đủ nghiệp lực mà cho Cực Lạc là Hóa Thành, cam ở cảnh Ta Bà vô lượng
chướng duyên hiểm nạn, rất khó được giải thoát, đó là Bảo Sở đấy ư?
Thật là lầm lạc và đáng buồn cười lắm vậy!
Tóm lại một câu niệm Phật có công năng mầu nhiệm san bằng tất cả
hiểm nạn trên đường tu, đưa hành giả tiến mau về Bảo Sở, nên Triệt Ngộ thiền sư
mới tỏ bày khen ngợi!
Tiết 11.- Những Huấn Thị Về Bồ Đề Tâm
Về Bồ Đề tâm, trong nội điển có thuyết minh rất nhiều, nay chỉ
xin trích lục ít đoạn nơi Kinh Hoa Nghiêm để chư vị đồng tu thể nhận:
Này thiện nam tử! Bậc Bồ Tát phát lòng Vô Thượng Bồ Đề là: khởi
lòng đại bi cứu độ tất cả chúng sanh. Khởi lòng cúng dường chư Phật, cứu cánh
thừa sự. Khởi lòng khắp cầu chánh pháp, tất cả không sẻn tiếc. Khởi lòng thú
hướng rộng lớn, cầu Nhứt Thiết Trí. Khởi lòng đại từ vô lượng, khắp nhiếp tất
cả chúng sanh.
Khởi lòng không bỏ rơi các loài hữu tình mặc áo giáp kiên thệ để
cầu Bát Nhã Ba La Mật. Khởi lòng không siểm dối, vì cầu được trí như thật. Khởi
lòng thật hành y như lời nói, để tu đạo Bồ Tát. Khởi lòng không dối với chư
Phật, vì gìn giữ thệ nguyện lớn của tất cả Như Lai. Khởi lòng nguyện cầu Nhứt
Thiết Trí, cùng tận kiếp vị lai giáo hóa chúng sanh không dừng nghỉ. Bồ Tát dùng
những công đức Bồ Đề tâm nhiều như số bụi nhỏ của cõi Phật như thế, nên được
sanh vào nhà Như Lai.
Này thiện nam tử! Như người học bắn, trước phải tập thế đứng,
sau mới học đến cách bắn. Cũng thế, Bồ Tát muốn học đạo Nhứt Thiết Trí của Như
Lai, trước phải an trụ nơi Bồ Đề tâm, rồi sau mới tu hành tất cả Phật pháp.
Thiện nam tử! Ví như vương tử tuy hãy còn thơ ấu, song tất cả
đại thần đều phải kính lễ. Cũng thế, Bồ Tát tuy mới phát Bồ Đề tâm tu Bồ Tát
hạnh, song tất cả bậc kỳ cựu hàng Nhị Thừa đều phải kính trọng nể vì.
Thiện nam tử! Như thái tử tuy đối với quần thần chưa được tự
tại, song đã đủ tướng trạng của vua, các bầy tôi không thể sánh bằng, bởi nhờ
chỗ xuất sanh tôn quý. Cũng thế Bồ Tát tuy đối với tất cả nghiệp phiền não chưa
được tự tại, song đã đầy đủ tướng trạng Bồ Đề, hàng Nhị Thừa không thể sánh
bằng, bởi nhờ chủng tánh đứng vào bậc nhứt.
Thiện nam tử! Như người máy bằng gỗ, nếu không có mấu chốt thì
các thân phần rời rạc chẳng thể hoạt động. Cũng thế, Bồ Tát nếu thiếu Bồ Đề
tâm, thì các hạnh đều phân tán, không thể thành tựu tất cả Phật pháp.
Thiện nam tử! Như chất kim cương tất cả vật không thể phá hoại,
trái lại có thể phá hoại tất cả vật, song thể tánh của nó vẫn không tổn giảm.
Bồ Đề tâm của Bồ Tát cũng thế, khắp ba đời trong vô số kiếp, giáo hóa chúng
sanh, tu các khổ hạnh, việc hàng Nhị Thừa không thể làm đều làm được, song kết
cuộc vẫn chẳng chán mỏi, giảm hư...
Phổ Hiền Bồ Tát bảo: - Thiện nam tử! Bồ Tát vì điều phục giáo hóa tất cả chúng sanh
nên phát Bồ Đề tâm. Vì trừ diệt khổ tụ cho tất cả chúng sanh, nên phát Bồ Đề
tâm. Vì đem cho tất cả chúng sanh sự an vui đầy đủ, nên phát Bồ Đề tâm. Vì dứt
trừ sự ngu tối cho tất cả chúng sanh, nên phát Bồ Đề tâm. Vì đem lại Phật trí
cho tất cả chúng sanh, nên phát Bồ Đề tâm. Vì cung kính cúng dường tất cả chư
Phật, nên phát Bồ Đề tâm.
Vì tùy thuận lời dạy Như Lai khiến chư Phật hoan hỷ, nên phát Bồ
Đề tâm. Vì muốn thấy sắc thân tướng hảo của tất cả chư Phật, nên phát Bồ Đề
tâm. Vì muốn vào trí huệ rộng lớn của tất cả chư Phật, nên phát Bồ Đề tâm. Vì
muốn hiển hiện các đức: lực, vô úy của chư Phật, nên phát Bồ Đề tâm.
Như thế, trong Kinh Hoa Nghiêm đức Thế Tôn và chư Bồ Tát đã
thuyết minh rộng rãi về công đức của Bồ Đề tâm, trên đây chỉ lược trích một vài
yếu điểm. Kinh văn cũng có nói:
"Cửa yếu vào đạo, trước phải phát tâm.
Việc yếu tu hành, trước nên lập nguyện."
Nếu không phát tâm rộng lớn, không lập nguyện bền chắc, thì dù
trải qua vô lượng kiếp, vẫn y nhiên ở trong nẻo luân hồi; dù có tu hành cũng
khó tinh tấn và chỉ luống công khổ nhọc. Do đó nên biết: muốn học Phật đạo,
quyết phải phát Bồ Đề tâm không thể trì huỡn.
Bởi thế khi xưa Tỉnh Am đại sư đã soạn ra Phát Bồ Đề Tâm Văn để
khuyến khích tứ chúng. Trong ấy, Ngài theo các tâm nguyện mà trình bày sự phát
tâm thành tám cách: TÀ, CHÁNH, CHÂN, NGỤY, ĐẠI, TIỂU, THIÊN,
VIÊN. Xin tóm đại lược như sau:
1. Có những người tu không tham cứu tự tâm, chỉ biết theo bên
ngoài, hoặc cầu danh lợi, đắm cảnh vui hiện tại, hay mong quả phước tương lai
mà phát lòng Bồ Đề. Phát tâm như thế gọi là Tà.
2. Như chẳng cầu danh lợi, không tham cảnh vui cùng mong quả
phước, chỉ vì thoát vòng sanh tử, lợi mình lợi sanh mà cầu đạo Bồ Đề. Phát
tâm như thế gọi là Chánh.
3. Mỗi niệm trên vì cầu Phật đạo, dưới vì độ chúng sanh, nhìn
đường Bồ Đề dài xa mà không khiếp, thấy loài hữu tình khó độ nhưng chẳng sờn.
Tâm bền vững như lên núi quyết đến đảnh, như leo tháp quyết đến chót. Phát
tâm như thế gọi là Chân (thật).
4. Có tội lỗi không sám hối chừa cải, ngoài dường trong sạch,
trong thật nhớp nhơ, trước tinh tấn sau biếng lười. Dù có tâm tốt nhưng còn xen
lẫn lợi danh, có pháp lành song bị tội lỗi làm ô nhiễm. Phát tâm mà còn
những điều này, gọi là Ngụy (dối).
5. Cõi chúng sanh hết, nguyện mới hết; đạo Bồ Đề thành, nguyện
mới thành. Phát tâm như thế gọi là Đại.
6. Xem tam giới như tù ngục, sanh tử như oan gia; chỉ mong mình
mau giải thoát, chẳng muốn độ người. Phát tâm theo quan niệm này, gọi là Tiểu.
7. Thấy chúng sanh và Phật đạo ở ngoài tự tánh, rồi nguyện độ
nguyện thành, đường công hạnh chẳng quên, sự thấy hiểu không dứt. Phát tâm như
thế gọi là Thiên (lệch).
8. Biết chúng sanh và Phật đạo đều là tự tánh, nên nguyện độ
nguyện thành, tu công đức không thấy mình có tu, độ chúng sanh không thấy có
chúng sanh được độ. Phát tâm như thế gọi là Viên (tròn).
Trong tám cách như trên, Tà, Ngụy, Thiên, Tiểu nên bỏ, Chân, Chánh,
Viên, Đại nên theo. Được như thế mới gọi là phát Bồ Đề tâm đúng cách.
Trong văn, Tỉnh Am đại sư lại khuyên đại chúng nên nghĩ đến mười
nhân duyên để phát tâm. Mười duyên ấy là: Vì nghĩ đến ơn Phật, vì công ơn cha
mẹ, vì nhớ ơn sư trưởng, vì tưởng ơn tín thí, vì biết ơn chúng sanh, vì lo khổ
sanh tử, tôn trọng tánh linh, vì sám trừ nghiệp chướng, vì hộ trì chánh pháp,
vì cầu sanh Tịnh Độ. Nơi điều cầu Tịnh Độ, Ngài dẫn một lời Kinh A Di Đà và
bảo: "Kinh Văn nói:
“Không thể dùng chút ít căn lành phước đức nhân duyên được sanh
về nước kia. Thế thì biết, phải có nhiều căn lành phước đức mới được vãng sanh
Cực Lạc.
Nhưng nhiều căn lành không chi hơn phát Bồ Đề
tâm, nhiều phước đức không chi hơn trì danh hiệu. Nhiếp tâm
niệm Phật giây phút hơn bố thí nhiều năm, chân thật phát lòng Bồ Đề hơn tu hành
nhiều kiếp. Giữ chắc hai nhân duyên này, quyết định được sanh Cực Lạc."
Qua những lời dạy của Phật, Bồ Tát, Tổ Sư ở trên, ta thấy phát
Bồ Đề tâm là điều rất quan yếu trên đường hành đạo.
Niệm Phật Phải Phát Lòng Bồ Đề
NAM MÔ NGÀI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT MA HA TÁT
Hiệp-Chưởng Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Bốn
Nhất tâm cung kính thiên trung thiên
Chúng sinh ái niệm các chân hư
Chủng nhân kết quả cầu chư kỷ
Lễ thượng vãng lai đạo bất thiên.
Tất Rị Tất Rị [44]
Án --bát nạp mạng, nhá
lăng hất rị.
(108 lần)
MUỐN LÀM PHẬT THÌ “NIỆM PHẬT”
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo
Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ TỊNH)
KHAI THỊ “
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM”
(của HT. THÍCH THIỀN TÂM)
Đức Phật nói: “Lành thay! A-Nan, các ông nên biết tất cả
chúng sinh từ vô thỉ đến nay chịu sanh tử tương tục do vì không nhận ra “CHƠN
TÂM THƯỜNG TRỤ”, thể tánh vốn trong sạch sáng suốt, mà nhận lầm các vọng
tưởng. Các vọng tưởng này vốn chẳng chân thật, thế nên bị luân
chuyển.”
Nay ông muốn thấu rõ quả vị vô thượng bồ-đề và phát minh chân
tánh, ông phải dùng trực tâm đáp ngay lời Như Lai hỏi. Mười phương Như Lai ra
khỏi sinh tử, đều nhờ trực tâm. Do tâm và lời nói đều ngay thẳng như thế, đến
khoảng thời gian trước, sau, và thời kỳ trung gian tuyệt nhiên không có lời
nói quanh-co.
A-Nan, nay tôi hỏi ông: “Ngay khi ông vừa mới phát tâm là do ông
thích 32 tướng tốt của Như Lai, Vậy ông lấy gì để thấy và ông ưa thích cái
gì? A-Nan thưa: “Bạch Thế Tôn! Sự yêu thích như thế là do TÂM và MẮT
của con. Do mắt thấy tướng thù thắng của Như Lai nên tâm ưa thích và phát
tâm nguyện xả bỏ sinh tử.”
Đức Phật bảo A-Nan: “Như ông nói, thật chỗ yêu thích là do tâm
và mắt. Nếu ông không biết tâm và mắt ở đâu thì
không thể nào hàng phục được trần lao.”
Ví như quốc vương, khi có giặc đến xâm chiến nước mình, muốn
phát binh đi trừ dẹp, thì cần phải biết giặc ở nơi đâu.
Lỗi lầm là ở tâm và mắt khiến ông bị lưu chuyển. Nay tôi hỏi
ông, riêng TÂM và mắt nay ở chỗ nào?
(KINH LĂNG NGHIÊM)
Mỗi câu tràng hạt (THỦ NHÃN) Phật là tâm
Phật rõ là tâm, uổng chạy tìm!
Bể Phật dung hòa tâm với cảnh
Trời tâm bình đẳng Phật cùng sanh
Bỏ tâm theo Phật còn mơ mộng
Chấp Phật là tâm chẳng trọn lành.
Tâm, Phật nguyên lai đều giả huyễn
Phật, tâm đồng diệt đến viên thành.
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-DI.
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Comments
Post a Comment