TU CHỨNG LIỄU NGHĨA CHƯ BỒ TÁT VẠN HẠNH
THỦ LĂNG NGHIÊM KINH
PHẦN LƯU THÔNG
( Tu theo NHĨ CĂN VIÊN THÔNG hay “NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG”… và trì
CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM để LƯU THÔNG KINH nầy.
Vì KINH nầy PHẬT dạy chúng ta phân biệt được VỌNG TÂM, CHƠN TÂM
và con đường chơn chánh vào CHƠN TÂM THƯỜNG TRỤ không sanh không diệt, đó là
NHĨ CĂN VIÊN THÔNG của bồ-tát QUÁN THẾ ÂM là đệ nhất.
Tuy biết con đường CHƠN THẬT chứng nhập CHƠN TÂM, nhưng trải qua
các địa vị tu chứng gặp phải 50 loại ma chướng cùng với TẬP KHÍ
NHIỀU ĐỜI TRONG 7 LOÀI KHÓ ĐOẠN TRỪ, nếu MÊ MỜ CHƠN TÁNH, tự nghĩ
rằng mình đã CHỨNG THÁNH, THÀNH PHẬT thì sẽ đi vào TÀ MA NGOẠI ĐẠO,
khó CÓ NGÀY quây đầu trở lại theo CON ĐƯỜNG CHƠN THẬT.
Cho nên, PHẬT dạy phải trì CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM, thì không
bị những TẬP KHÍ NHIỀU ĐỜI cùng MA CHƯỚNG đến phá HOẠI CON ĐƯỜNG CHƠN THẬT
THẲNG đến qủa DIỆU GIÁC của Phật.)
7 CHỦNG LOẠI
Phật nói lời ấy rồi, liền khi đó, ông A-nan và cả đại-chúng được
nhờ đức Như-lai khai-thị ý-nghĩa mật-ấn Bát-đát-ra, lại nghe được những tên gọi
liễu-nghĩa của kinh nầy, liền ngộ được Diệu-lý tăng-thượng để tu-tiến vào các
Thánh-vị trong Thiền-na; tâm-niệm rỗng-trống đứng-lặng, ông đoạn-trừ 6 phẩm
phiền-não vi-tế trong tư-hoặc tam-giới.
Ông liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật, chấp tay
cung-kính mà bạch Phật rằng: " Thưa đức Thế-tôn, có uy-đức lớn, phát ra
từ-âm không ngăn-ngại, khéo khai-ngộ những lỗi-lầm sâu-kín nhỏ-nhiệm của
chúng-sinh, khiến cho chúng tôi ngày nay, thân-tâm khoan-khoái, được lợi-ích
lớn. Bạch Thế-tôn, nếu cái chân-tâm diệu-minh trong-sạch nhiệm-mầu, bản-lai
cùng khắp viên-mãn, như thế, cho đến bản-tính chân-như của đất liền, cỏ cây,
các loài máy-động, tức là chân-thể thành Phật của Như-lai. Thể-tính của Phật đã
là chân-thật, làm sao, lại có các đạo địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sinh, tu-la, loài
người và trời. Bạch Thế-tôn, những đạo đó lại là bản-lai tự có, hay là do
tập-khí giả-dối của chúng-sinh sinh-khởi ra?"
"Bạch Thế-tôn, như Tỳ-khưu-ni Bảo-liên-hương giữ
Bồ-tát-giới, lén-lút làm việc dâm-dục, lại nói-càn rằng làm việc dâm-dục không
phải giết người, không phải trộm-cắp, không có nghiệp-báo; phát-ra lời nói ấy
rồi, trước hết nơi nữ-căn sinh ra ngọn lửa-hồng lớn, về sau từng đốt, từng đốt,
bị lửa đốt cháy, sa vào địa ngục Vô-gián.
Như đại-vương Lưu-ly; tỷ-khưu Thiện-tinh; Lưu-ly vì giết họ-hàng
Cù-đàm, Thiện-tinh vì nói-càn tất-cả các pháp đều rỗng-không mà thân sống sa
vào địa-ngục A-tỳ.
Các địa-ngục ấy, lại là có chỗ nhất-định, hay là tự-nhiên khi
các người kia gây nghiệp, thì mỗi người, mỗi người chịu riêng? Xin Phật rủ lòng
đại-từ, khai-ngộ cho kẻ ngây-thơ, khiến cho tất-cả chúng-sinh trì-giới, nghe
nghĩa quyết-định, vui-mừng tôn-trọng kính-cẩn giữ-gìn không phạm".
Phật bảo ông A-nan: "Hay thay lời hỏi đó, khiến cho các
chúng-sinh không mắc tà-kiến. Nay ông hãy nghe cho chín, tôi sẽ vì ông mà nói.
A-nan, tất-cả chúng-sinh, thật vốn chân-tính thanh-tịnh, nhân
những vọng-kiến, mà có tập-khí hư-vọng sinh ra; vì thế, chia ra có phận-trong
và phận ngoài.
"A-nan, phận-trong, tức là ở trong phận của chúng-sinh.
Nhân các lòng ái-nhiễm phát-khởi ra vọng-tình, tình chứa mãi không thôi, có thể
sinh ra ái-thủy; vậy nên chúng-sinh, tâm nhớ thức-ăn ngon, thì trong miệng nước
chảy ra; tâm nhớ người trước, hoặc thương, hoặc giận, thì trong con mắt lệ
tràn; tham-cầu của báu, thì trong tâm phát-ra ái-diên, cả mình đều trơn-sáng;
tâm dính vào việc dâm-dục, thì hai căn nam nữ tự-nhiên dịch-khí chảy ra. A-nan,
các cái ái đó, tuy khác nhau, nhưng kết-quả chảy nước là đồng; thấm-ướt không
lên được, tự-nhiên theo đó mà sa-đọa, ấy gọi là phận-trong.
A-nan, phận-ngoài, tức là ngoài phận của chúng-sinh. Nhân các
lòng phát-ngưỡng, phát-minh ra những lý-tưởng; tưởng chứa mãi không thôi, có
thể sinh ra những thắng-khí; vậy nên chúng-sinh, tâm giữ cấm-giới, cả mình
nhẹ-nhàng trong-sạch; tâm trì chú-ấn, con mắt ngó hùng-dũng nghiêm-nghị; tâm
muốn sinh lên cõi trời, chiêm-bao thấy bay lên; để tâm nơi cỏi Phật, thánh-cảnh
thầm-hiện ra; thờ vị thiện-tri-thức, tự khinh-rẻ thân-mệnh mình. A-nan, các
tưởng đó tuy khác, nhưng nhẹ-nhàng cất lên thì đồng nhau; cất bay không chìm
xuống, tự-nhiên vượt lên, đó là phận-ngoài.
A-nan, tất-cả thế-gian, sống chết nối nhau, sống thuận theo
tập-quán, chết thì đổi sang dòng khác, khi gần mệnh-chung, chưa hết hơi nóng,
thiện ác một đời đồng-thời liền hiện ra; cái nghịch của chết, cái thuận của
sống, hai tập-khí giao-xen lẫn nhau.
Thuần là tưởng, thì liền bay lên, chắc sinh trên các cõi-trời;
nếu trong tâm bay lên, gồm có phúc-đức trí-tuệ cùng với tịnh-nguyện, thì
tự-nhiên tâm được khai-ngộ, thấy tất-cả tịnh-độ thập phương chư Phật, theo
nguyện mà vãng-sinh.
Tình ít, tưởng nhiều, cất lên không xa, thì làm phi-tiên,
đại-lực quỷ-vương, phi-hành dạ-xoa, địa-hành la-sát, đi khắp bốn cõi-trời,
không bị ngăn-ngại. Nếu có nguyện tốt, tâm tốt, hộ-trì Phật-pháp, hoặc hộ-trì
cấm-giới, theo người trì-giới, hoặc hộ-trì thần-chú, theo người trì-chú, hoặc
hộ-trì thiền-định, giữ yên pháp-nhẫn, thì những hạng đó, chính mình được ở dưới
pháp-tọa Như-lai.
Tình và tưởng cân nhau, không bay lên, không đọa xuống, thì sinh
nơi nhân-gian; tưởng sáng-suốt nên thông-minh, tình u-ám nên ngu-độn.
Tình nhiều, tưởng ít, đi vào các loại hoành-sinh, nặng làm giống
có lông, nhẹ làm giống có cánh.
Bảy phần tình, ba phần tưởng, chìm xuống dưới thủy-luân, sinh
nơi mé hỏa-luân chịu khí-phần của lửa-hồng, thân làm ngạ-quỷ, thường bị
đốt-cháy, vì nước có thể hại mình, nên trải trăm nghìn kiếp, không ăn không
uống.
Chín phần tình, một phần tưởng, xuống thấu qua hỏa-luân, và giữa
giao-giới phong-luân và hỏa-luân, nhẹ thì sinh vào Hữu-gián, nặng thì mình vào
Vô-gián, hai thứ địa-ngục.
Thuần là tình, thì chìm-sâu vào ngục A-tỳ; nếu trong tâm
chìm-sâu đó, lại có hủy-báng Đại-thừa, phá cấm-giới của Phật, lừa-dối nói pháp
để tham-cầu tín-thí, lạm-nhận cung-kính hoặc phạm ngũ-nghịch, thập-trọng thì
lại còn sinh vào địa-ngục A-tỳ thập phương.
Theo ác-nghiệp gây ra, tuy tự chuốc lấy quả-báo, nhưng trong
đồng-phận chung, vẫn có chỗ sẵn.
MƯỜI TẬP NHÂN VÀ SÁU GIAO
BÁO
1. THÀNH "ĐỊA NGỤC"
"A-nan, những điều như thế, đều do nghiệp-báo các
chúng-sinh kia, tự chiêu-cảm lấy, như gây mười Tập-nhân, thì chịu sáu Giao-báo.
"Thế nào là mười Tập-nhân?
A-nan, một là, tập-quán dâm-dục, giao-tiếp cùng nhau, phát-sinh
cọ-xát lẫn nhau; cọ-xát mãi không thôi, như thế, nên trong ấy có ngọn lửa-hồng
lớn nổi lên; ví-như, có người lấy hai bàn tay cọ-xát lẫn nhau, thì cảm-giác
nóng hiện ra. Hai cái tập-khí đốt nhau, nên có những việc giường sắt, trụ đồng.
Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập phương nhận-xét việc dâm-dục, đồng gọi là
lửa-dục; Bồ-tát đối với dâm-dục, tránh như hầm-lửa.
Hai, là tập-quán tham-lam, so-đo hơn thiệt, phát-sinh hấp-thụ
lẫn nhau; hấp-thụ ôm-ấp mãi không thôi, như thế, nên chứa hơi-lạnh bên trong
thành giá-cứng, làm cho nẻ-nứt; ví-như, có người hút hơi gió vào, thì có
cảm-xúc lạnh. Hai tập-khí lấn nhau, nên có những sự tra tra, ba ba, la la,
thanh-liên, xích-liên, bạch-liên, hàn-băng, vân vân... Vậy nên, tất-cả các đức
Như-lai thập phương nhận-xét việc tham-cầu quá nhiều, đồng gọi là nước tham;
Bồ-tát đối với lòng tham, tránh như biển-độc.
Ba, là tập-quán ngã-mạn, lấn-lướt lẫn nhau, phát-sinh ỷ-thế với
nhau. Giong-ruổi không thôi, như thế, nên có sự bôn-ba, sôi-nổi, chứa lại thành
nước; ví-như, có người miệng lưỡi tự chép, làm cho nước-bọt chảy ra. Hai
tập-khí chọi nhau, nên có các việc sông huyết, sông tro, cát-nóng, biển-độc,
bắt uống nước đồng-chảy vân vân... Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai mười phương
nhận-xét lòng ngã-mạn, đồng gọi là uống nước si-mê; Bồ-tát đối-với ngã-mạn,
tránh như vực-thẳm lớn.
Bốn, là tập-quán nóng-giận, xung-đột cùng nhau, phát-sinh chống-đối
lẫn nhau; chống-đối mãi không thôi, tâm nổi nóng, phát ra lửa, nấu cái khí
thành kim-thuộc, vì thế, nên có núi dao, đòn sắt, cây gươm, bánh xe gươm, những
búa, những vớt, những thương, những cưa; ví-như, có người bị hàm-oan, thì
sát-khí nổi lên. Hai tập-khí đập nhau, nên có các sự thiến, cắt, chém, chặt,
dùi, đâm, đập, đánh. Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập phương nhận-xét sự
nóng-giận, đồng gọi là dao-gươm bén; Bồ-tát đối với lòng nóng-giận, tránh như
tránh chém-giết.
Năm, là tập-quán giả-dối, dụ-dỗ theo nhau, phát-sinh lôi-kéo lẫn
nhau; dẫn-dắt mãi không thôi, như thế, nên có giây, cây, thòng-lọng, căng-nọc;
ví-như, nước thấm ruộng thì cỏ-cây lớn lên. Hai tập-khí kéo-nhau, nên có các sự
gông, cùm, xiềng, xích, roi, gậy, qua, bổng. Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai
thập phương nhận-xét sự giả-dối, đồng gọi là sàm-tặc; Bồ-tát đối với sự
gian-dối, sợ như beo-sói.
Sáu, là tập-quán lừa-gạt, lừa-dối với nhau, phát-sinh phỉnh-gạt
lẫn nhau; phỉnh-gạt mãi không thôi, phát-tâm gây điều gian-dối; như thế, nên có
bụi, đất, đại-tiện, tiểu-tiện, các đồ nhơ-nhớp không sạch; như bụi theo gió,
không thấy lẫn nhau. Hai tập-khí dìm nhau, nên có những sự chìm-đắm, nhảy, ném,
bay, rơi, trôi-lăn. Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập phương nhận-xét sự
lừa-gạt, đồng gọi là cướp-giết; Bồ-tát đối với sự lừa-gạt, như giẫm rắn-độc.
Bảy, là tập-quán thù-oán, hiềm-khích lẫn nhau, phát-sinh ôm-ấp
lòng giận, như thế, nên có quăng đá, ném gạch, hộp nhốt, xe cũi, bình-đựng,
đãy-bọc, như người hiểm-độc ôm-ấp điều dữ. Hai tập-khí nuốt nhau, nên có những
sự ném, quăng, nắm, bắt, đánh, bắn, gieo, ôm. Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai
thập phương nhận-xét sự thù-oán, gọi là quỷ Vi-hại; Bồ-tát đối với sự thù-oán,
như uống ruợu-độc.
Tám, là tập-quán ác-kiến, tranh-cãi với nhau, như ngã-kiến,
kiến-thủ, giới-cấm-thủ và các nghiệp tà-ngộ, phát-sinh chống-trái lẫn nhau; như
thế, nên có quan-lại chứng-thực, nắm-giữ giấy-tờ, đông như người đi đường, qua
lại gặp nhau. Hai tập-khí giao nhau, nên có các sự khám-hỏi, mưu-mẹo, khảo-tấn,
đòi-hỏi, gạn-xét, cứu-tra cho rõ và những đồng-tử thiện-ác, tay cầm sổ-sách,
biện-bạch cãi-vã. Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập phương nhận-xét ác-kiến,
đồng gọi là kiến-khanh; Bồ-tát đối với những thiên-chấp hư-vọng, như đứng bên
hố-độc.
Chín, là tập-quán vu-vạ, làm hại cho nhau, phát-sinh sự vu-báng,
như thế, nên có hợp-sơn, hợp-thạch, cối-nghiền, cối-xay; ví-như, kẻ sàm-tặc,
áp-bức vu-oan người lương-thiện. Hai tập-khí bài xích lẫn nhau, nên có các sự
áp-giải, đè-đập, ép-huyết, tuốt-mình. Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập
phương, nhận-xét sự vu-vạ, đồng gọi là sàm-hổ; Bồ-tát đối với sự vu-vạ, như bị
sấm-sét.
Mười, là tập-quán kiện-thưa, cãi-vã lẫn nhau, phát-sinh sự
che-đậy; như thế, nên có gương soi, đuốc chiếu, như giữa ban ngày, không giấu
bóng được. Hai tập-khí phô-bày lẫn nhau, nên có ác-hữu, nghiệp kính, hỏa-châu
phơi-bày nghiệp xưa đối-nghiệm các việc. Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập
phương nhận-xét sự che-đậy, gọi là giặc-ngầm; Bồ-tát đối với sự che-đậy, như
đội núi cao, lội trong biển lớn.
"Thế nào là sáu Giao-báo?
A-nan, tất-cả chúng-sinh, sáu thức gây nghiệp, nên ác-báo
chuốc-lấy, đều từ sáu căn mà ra."
"Các ác-báo từ sáu căn ra như thế nào?
Một, là giao-báo về thấy, chiêu-cảm ác-quả. Khi nghiệp-thấy ấy
giao-báo, thì lúc lâm-chung, trước hết thấy lửa-hồng đầy khắp 10 phương;
thần-thức người chết bay rơi theo khói vào ngục Vô-gián, phát ra hai tướng: Một
là thấy sáng, thì khắp thấy nhiều thứ vật-dữ, sinh ra khiếp-sợ vô-cùng; hai là
thấy tối, lặng vậy không thấy gì sinh ra hoảng-hốt vô-hạn. Lửa thấy như thế,
đốt cái nghe, thì có thể làm vạc-dầu sôi, làm nước đồng-chảy; đốt hơi-thở, thì
có thể làm khói-đen, lửa đỏ; đốt cái nếm, thì có thể làm viên tròn nung-đỏ, làm
cơm-sắt; đốt cảm-xúc, thì có thể làm tro-nóng, lò-than; đốt tâm-ý, thì có thể
sinh ra sao-lửa rưới khắp, làm rung-động cả cõi hư-không.
Hai, là giao-báo về nghe, chiêu-cảm ác-quả. Khi nghiệp-nghe ấy
giao-báo, thì lúc lâm-chung, trước hết, thấy sóng cuộn chìm-ngập trời đất;
thần-thức người chết, sa xuống theo dòng vào ngục Vô-gián, phát ra hai tướng:
Một là nghe tỏ, nghe các thứ ồn-ào, tinh-thần rối-loạn; hai là điếc hẳn,
lặng-lẽ, không nghe gì, thức-thần chìm-lịm. Sóng nghe như thế, rót vào cái
nghe, thì có thể làm trách, làm hỏi; rót vào cái thấy, thì có thể làm sấm, làm
thét, làm hơi-độc-dữ; rót vào hơi thở, thì có thể làm mưa, làm mù, rưới các
sâu-độc đầy khắp thân-thể; rót vào các vị, thì có thể làm mủ, làm huyết, các
thứ nhơ-nhớp; rót vào cảm-xúc, thì có thể làm con súc, làm con quỷ, làm phân,
làm nước-tiểu; rót vào ý-nghĩ, thì có thể làm chớp, làm mưa-đá, đập nát
tâm-thức.
Ba, là giao-báo về ngửi, chiêu-cảm ác-quả. Khi nghiệp-ngửi ấy
giao-báo, thì lúc lâm-chung, trước hết, thấy hơi-độc đầy-nhẩy xa gần; thần-thức
người chết, từ dưới đất trổi lên, vào ngục Vô-gián, phát-hiện ra hai tướng: Một
là ngửi thông, bị các hơi dữ xông tột-bực, làm cho tâm rối-loạn; hai là ngạt
mũi, hơi-thở ngạt không thông, nằm chết-giấc dưới đất. Hơi ngửi như thế, xông
vào hơi-thở, thì có thể làm thông, làm ngạt; xông vào cái thấy, thì có thể làm
lửa, làm đuốc; xông vào cái nghe, thì có thể làm chìm-ngập, làm chết-đuối, làm
nước-lớn, làm nước-sôi; xông vào cái vị, thì có thể làm đói, làm ngấy; xông vào
cái cảm-xúc, thì có thể làm xấu, làm nát, làm núi-thịt lớn có trăm ngàn con
mắt, hút-ăn không cùng; xông vào ý-nghĩ, thì có thể làm tro, làm chướng-khí, làm
gạch-đá bay lên đánh-nát thân-thể.
Bốn, là giao-báo về vị, chiêu-cảm ác-quả. Khi nghiệp-vị ấy
giao-báo, thì lúc lâm-chung, trước hết, thấy lưới-sắt nung-đỏ che khắp
thế-giới; thần-thức người chết từ dưới tung lên, mắc lưới treo ngược đầu xuống,
vào ngục Vô-gián, phát ra hai tướng : Một là nuốt vào, thì kết-thành giá-lạnh,
làm nứt-nẻ thân-thể; hai là mửa ra, thì bay lên thành lửa-hồng, đốt-rụi
xương-tủy. Vị-báo như thế, qua cái nếm, thì có thể làm nhận, làm chịu; qua cái
thấy, thì có thể làm các thứ kim-thạch đốt-cháy; qua cái nghe, thì có thể làm
binh-khí sắc-bén; qua hơi-thở, thì có thể làm lồng-sắt lớn che khắp cõi-nước;
qua cảm-xúc, thì có thể làm cung, làm tên, làm mỏ, làm bắn; qua ý-nghĩ, thì có
thể làm sắt-nóng bay, từ trên không rưới xuống.
Năm, là giao-báo về xúc, chiêu-cảm ác-quả. Khi nghiệp-xúc ấy
giao-báo, thì lúc lâm-chung, trước hết, thấy núi lớn bốn mặt hợp lại, không còn
đường ra; thần-thức người chết thấy thành-sắt lớn, rắn-lửa, chó lửa, hùm-sói,
sư-tử, ngục-tốt đầu trâu, la-sát đầu ngựa, tay cầm thương, xóc, lùa vào cửa
thành, hướng về ngục Vô-gián, phát ra hai tướng; Một là hợp-xúc, thì núi kẹp ép
mình, xương-thịt nát ra máu; hai là ly-xúc, thì dao gươm chạm vào mình, tim gan
cắt-xẻ. Xúc-báo như vậy, qua cái xúc, thì có thể làm đạo, làm quán, làm sảnh,
làm án; qua cái thấy, thì có thể làm đốt, làm nung; qua cái nghe, thì có thể
làm đập, làm đánh, làm đâm, làm bắn; qua hơi-thở, thì có thể làm trùm, làm đẫy,
làm tra, làm trói; qua cái nếm, thì có thể làm cày, làm kiềm, làm chém, làm chặt;
qua ý-nghĩ, thì có thể làm rơi, làm bay làm nấu, làm nướng.
Sáu, là giao-báo về ý-nghĩ, chiêu-cảm ác-quả. Khi nghiệp-ý ấy
giao-báo, thì lúc lâm-chung, trước hết thấy gió-dữ thổi-nát cõi nước, thần-thức
người chết bị thổi lên trên không xoay-rơi theo gió, sa vào ngục Vô-gián, phát
ra hai tướng: Một là không biết, tột mê, thì hoang-mang, ruổi-chạy không thôi;
hai là không mê, hay-biết, thì khổ, bị đốt-cháy không cùng, đau-buốt không chịu
nổi. Ý-báo như thế, kết vào ý-nghĩ, thì có thể làm phương, làm sở; kết vào cái
thấy, có thể làm gương-soi, làm chứng-cứ; kết vào cái nghe, thì có thể làm
đại-hợp-thạch, làm giá, làm sương, làm đất, làm mù; kết vào hơi-thở, thì có thể
làm xe-lửa lớn, làm thuyền lửa, cũi-lửa; kết vào cái nếm, thì có thể làm kêu-la
to, làm ăn-năn, làm khóc-lóc; kết vào cái cảm-xúc, thì có thể làm lớn, làm nhỏ,
làm cho một ngày muôn lần sống, muôn lần chết, làm nghiêng, làm ngửa.
"A-nan, thế gọi là 10 nhân và 6 quả của điạ-ngục, nhân-quả
ấy đều do mê-vọng của chúng-sinh tạo ra.
Nếu các chúng-sinh, sáu căn đồng-tạo nghiệp-dữ, thì vào ngục
A-tỳ, chịu khổ vô-cùng trong vô-lượng kiếp; nếu từng mỗi căn tạo ra và
nghiệp-dữ đã làm gồm cả cảnh và căn thì người ấy vào 8 ngục Vô-gián. Nếu cả
thân, khẩu, ý làm việc sát, đạo, dâm, thì người ấy vào Thập-bát-địa-ngục; không
đủ cả ba nghiệp thân, khẩu, ý, làm việc sát, đạo, dâm, thì người ấy vào
Thập-bát-địa-ngục; không đủ cả ba nghiệp thân, khẩu, ý, hoặc trong ấy chỉ làm
một việc sát, hoặc một việc đạo, thì người ấy vào trong Tam-thập-lục-điạ-ngục;
chỉ có một căn, riêng làm một việc, thì người ấy vào Nhất-bách-bát-địa-ngục.
Do những chúng-sinh ấy riêng gây ra nghiệp, nên vào chỗ
đồng-phận trong giới ấy; đó đều do vọng-tưởng phát-sinh ra, không phải bản-lai
tự có.
Chí tâm sám-hối :
Ðệ tử _____ và chúng-sanh trong pháp-giới, từ đời vô-thỉ nhẫn
đến ngày nay, bị vô-minh che đậy nên điên đảo mê-lầm, lại do sáu căn ba nghiệp
quen theo pháp chẳng lành, rộng phạm mười điều dữ cùng năm tội vô-gián và tất
cả các tội khác, nhiều vô-lượng vô-biên nói không thể hết. Mười phương các đức
Phật thường ở trong đời, tiếng pháp không dứt, hương mầu đầy lấp, pháp vị ngập
tràn, phóng ánh sáng sạch trong chếu soi tất cả. Lý mầu thường trụ đầy dẫy
hư-không.
Con từ vô-thỉ đến nay, sáu căn che mù, ba nghiệp tối-tăm, chẳng
thấy chẳng nghe chẳng hay chẳng biết “CHÂN-TÂM BỔN-GIÁC” , vì nhơn duyên đó
trôi mãi trong vòng sanh tử, trải qua các đường dữ, trăm nghìn muôn kiếp trọn
không lúc nào ra khỏi. -- Kinh rằng :
“Ðức Tỳ-Lô-Giá-Na thân khắp cả chỗ, chỗ của Phật ở gọi là
Thường-tịch-quang, cho nên phải biết cả thảy các pháp đều là Phật-Pháp, mà con
không rõ lại theo giòng vô-minh vì thế trong trí bồ-đề mà thấy không
thanh-tịnh, trong cảnh giải-thoát mà sanh ràng buộc. Nay mới tỏ ngộ nay mới
chừa bỏ ăn-năn, phụng đối trước các đức Phật và A-Di-Ðà Thế-Tôn mà phát lồ
sám-hối, làm cho đệ-tử cùng pháp-giới chúng-sanh, tất cả tội nặng do ba nghiệp
sáu căn, gây tạo từ vô-thỉ, hoặc hiện-tại cùng vị-lai, chính mình tự gây tạo
hoặc biểu người, hay là thấy nghe người gây tạo mà mà vui theo, hoặc nhớ hoặc
chẳng nhớ, hoặc biết hoặc chẳng biết, hoặc nghi hoặc chẳng nghi, hoặc che giấu
hoặc chẳng che giấu, thảy đều được rốt-ráo thanh-tịnh.
Ðệ-tử sám-hối rồi, sáu căn cùng ba nghiệp trong sạch, không lỗi
lầm, căn lành tu-tập cũng trọn thanh-tịnh, thảy đều hồi-hướng dùng trang-nghiêm
Tịnh-độ, khắp với chúng-sanh, đồng sanh về nước An-Dưỡng.
Nguyện đức A-Di-Ðà Phật thường đến hộ-trì, làm cho căn lành của
đệ-tử hiện-tiền tăng-tấn, chẳng mất nhơn-duyên Tịnh-độ, đến giờ lâm-chung, thân
an-lành niệm chánh vững-vàng, xem nghe đều rõ-ràng, tận mặt thấy đức A-Di-Ðà
cùng các Thánh-chúng, tay cầm đài hoa tiếp-dẫn đệ-tử, trong khoảng sát-na sanh
ra trước Phật, đủ đạo-hạnh Bồ-Tát, rộng độ khắp chúng-sanh đồng thành Phật đạo.
Ðệ-tử sám-hối phát-nguyện rồi quy-mạng đảnh-lễ :
Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới, đại-từ đại-bi, A-Di-Ðà
Như-Lai, biến pháp-giới Tam-bảo.
2. THÀNH "QỦY"
"Lại nữa, A-nan, các chúng-sinh đó, nếu không phải gây tội
chê-phá luật-nghi, phạm Bồ-tát-giới, hủy-báng Niết-bàn của Phật, mà chỉ phạm
những nghiệp phức-tạp khác nhau, thì sau khi bị đốt cháy nhiều kiếp, đền tội
hết rồi, thì chịu những hình quỷ.
Nếu nơi bản-nhân, do tham vật mà làm ra tội, thì người ấy đền
tội hết rồi, gặp vật thành-hình gọi là Quái-quỷ; do tham sắc mà làm ra tội, thì
người ấy đền tội hết rồi, gặp gió thành-hình, gọi là Bạt-quỷ; do tham dối-trá
mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp giống súc thành-hình, gọi là
Mỵ-quỷ; do tham nóng-giận mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp con
sâu thành-hình, gọi là Cổ-độc-quỷ; do tham thù-oán mà làm ra tội, thì người ấy
đền tội hết rồi, gặp vận-suy kẻ-thù mà thành-hình, gọi là Lệ-quỷ; do tham
ngã-mạn mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp khí thành-hình, gọi là
Ngạ-quỷ; do tham lừa-gạt mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp u-ẩn
thành-hình, gọi là Áp-quỷ; do tham ác-kiến mà làm ra tội, thì người ấy đền tội
hết rồi, gặp tinh-hoa thành-hình, gọi là Vọng-lượng-quỷ; do tham vu-vạ mà làm
ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp linh-hiển thành-hình, gọi là
Dịch-sử-quỷ; do tham bè-phái che-giấu mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết
rồi, gặp con người thành-hình, gọi là Truyền-tống-quỷ.
A-nan, những người đó đều vì thuần-tình phải đọa-lạc, khi
lửa-nghiệp đốt-sạch rồi, thì lên làm quỷ; như thế đều do cái nghiệp vọng-tưởng
tự mình chuốc lấy; nếu ngộ được tính Bồ-đề, thì nơi tính Diệu-viên-minh, vốn
không có gì.
3. THÀNH "THÚ"
Lại nữa, A-nan, khi nghiệp-quỷ đã hết, tình và tưởng cả hai đều
thành không, thì mới ở nơi thế-gian, cùng với người mắc nợ cũ, oán-đối gặp
nhau; thân làm súc-sinh để trả nợ cũ.
Quái-quỷ theo vật, vật tiêu báo hết, sinh nơi thế-gian, phần
nhiều làm loài chim kiêu. Bạt-quỷ theo gió, gió tiêu báo hết, sinh nơi
thế-gian, phần nhiều làm tất-cả những loài cữu-trưng kỳ-dị. Mỵ quỷ theo súc,
súc chết báo hết, sinh nơi thế-gian, phần nhiều làm loài hồ. Cổ-quỷ theo sâu,
sâu diệt báo hết, sinh nơi thế-gian, phần nhiều làm loài có độc. Lệ-quỷ theo
vận suy, suy tột báo hết, sinh nơi thế-gian, phần nhiều làm loài giun. Ngạ-quỷ
theo khí, khí tiêu báo hết, sinh nơi thế-gian, phần nhiều làm loài cung-cấp
thịt ăn. Áp-quỷ theo u-ẩn, u-ẩn tiêu báo hết, sinh nơi thế-gian, phần nhiều làm
loài cung-cấp đồ-mặc. Vọng-lượng-quỷ theo tinh-hoa, tinh-hoa tiêu báo hết, sinh
nơi thế-gian, phần nhiều làm các loài chim mùa. Dịch-sử-quỷ theo sự linh-hiển,
linh-hiển diệt báo hết, sinh nơi thế-gian, phần nhiều làm tất-cả các loài
hưu-trưng. Truyền-tống-quỷ theo người, người chết báo hết, sinh nơi thế-gian,
phần nhiều làm các loài quấn-quít bên người.
A-nan, bọn ấy đều do lửa-nghiệp đốt xong, sinh ra loài súc, trả
hết nợ cũ; như thế, đều do những nghiệp hư-vọng của tự mình chuốc lấy; nếu ngộ
được tính Bồ-đề, thì các vọng-duyên đó vốn không có gì.
Như lời ông nói, bọn Bảo-liên-hương, Lưu-ly-vương, Thiện-tinh
tỷ-khưu đều vốn tự mình gây ra nghiệp-dữ; nghiệp ấy không phải từ trên trời sa
xuống, từ dưới đất phát ra và cũng không phải do người khác đưa tới, mà chính
do vọng-tưởng của tự mình gây ra, rồi tự mình phải chịu quả-báo; nơi tâm Bồ-đề,
đó chỉ là sự kết-đông của vọng-tưởng giả-dối.
4. THÀNH "NGƯỜI"
Lại nửa, A-nan, các súc-sinh ấy đền-trả nợ trước, nếu trong lúc
trả nợ, trả quá nợ cũ, thì những chúng-sinh ấy, trở lại làm người, đòi lại chỗ
thừa. Nếu bên kia có sức, lại có cả phúc-đức, thì ở trong loài người, không rời-bỏ
thân người, mà hoàn lại chỗ thừa đó; còn nếu không phúc-đức, thì phải làm
súc-sinh đền lại chỗ thừa.
A-nan, nên biết, nếu dùng tiền-của hoặc sức người ta, thì đền đủ
là xong; còn như trong ấy, có giết thân-mạng, hoặc ăn thịt kẻ khác, như thế,
thì đi đến ăn nhau, giết nhau, trải qua nhiều kiếp, số như vi-trần, cũng như
bánh xe xoay-vần, thay-đổi bên cao, bên thấp, không có dừng-nghĩ; trừ khi được
phép Xa-ma-tha, hoặc gặp Phật ra đời, thì không thể thôi được.
Nay ông nên biết loài chim kiêu kia, trả nợ đủ, trở lại hình
người, sinh trong nhân-đạo, tham-hợp hạng ngoan-cố. Giống cữu-trưng kia, trả nợ
đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân-đạo, tham-hợp hạng quái-dị. Những loài
hồ kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân-đạo, tham-hợp hạng ngu-dại.
Những loài có độc kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân-đạo,
tham-hợp hạng nham-hiểm. Những loài giun kia, trả nợ đủ, trở lại hình người,
sinh trong nhân-đạo, tham-hợp hạng hèn-nhát. Những loài cung-cấp thịt-ăn kia,
trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân-đạo, tham-hợp hạng nhu-nhược.
Những loài cung-cấp đồ mặc kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong
nhân-đạo, tham-hợp hạng lao-lụy. Những loài chim mùa kia, trả nợ đủ, trở lại
hình người, sinh trong nhân-đạo, tham-hợp hạng văn-hoa. Những loài hưu-trưng
kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân-đạo, tham-hợp hạng
thông-minh. Những loài quấn-quít theo người kia, trả nợ đủ, trở lại hình người,
sinh trong nhân-đạo, tham-hợp hạng thông-đạt.
A-nan, bọn ấy trả hết nợ cũ, trở lại hình người, đều do từ
vô-thủy đến nay, điên-đảo gây nghiệp, vay trả thừa thiếu, sinh nhau, giết nhau;
nếu không gặp Như-lai, không nghe Chính-pháp, thì ở trong trần-lao, máy-móc
xoay-vần mãi mãi; bọn ấy gọi là thật đáng thương-xót.
5. THÀNH MƯỜI THỨ "TIÊN"
"A-nan, lại có chúng-sinh từ loài người, không nương theo
Chính-giác tu phép Tam-ma-đề, lại riêng tu theo vọng-niệm, để tâm củng-cố
hình-hài, vào trong rừng núi, những chỗ người ta không đến được, thành mười thứ
Tiên.
"A-nan, các chúng-sinh kia, kiên-cố dùng đồ-bổ mà không
dừng-nghỉ, khi đạo-ăn được thành-tựu, thì gọi là Địa-hành-tiên.
Kiên-cố dùng cỏ-cây mà không dừng nghỉ, khi đạo-thuốc được
thành-tựu, thì gọi là Phi-hành-tiên.
Kiên-cố dùng kim-thạch mà không dừng-nghỉ, khi đạo hóa-chất được
thành-tựu, thì gọi là Du-hành-tiên.
Kiên-cố làm những động-tác mà không dừng-nghỉ, khi khí-tinh được
thành-tựu, thì gọi là Không-hành-tiên.
Kiên-cố luyện nước-bọt mà không dừng-nghỉ, khi nhuận-đức được
thành-tựu, thì gọi là Thiên-hành-tiên.
Kiên-cố hấp-thụ tinh-hoa mà không dừng-nghỉ, khi hấp-thụ được
thành-tựu, thì gọi là Thông-hành-tiên.
Kiên-cố làm thuật phù-chú mà không ngừng-nghỉ, khi thuật-pháp
được thành-tựu, thì gọi là Đạo-hành-tiên.
Kiên-cố chuyên-chú tâm-niệm mà không dừng-nghỉ, khi chuyên-niệm được
thành-tựu, thì gọi là Chiếu-hành-tiên.
Kiên-cố về thủy hỏa giao-cấu mà không dừng-nghỉ, khi cảm-ứng
được thành-tựu, thì gọi là Tinh-hành-tiên.
Kiên-cố tập-luyện biến-hóa mà không dừng-nghỉ, khi giác-ngộ được
thành-tựu, thì gọi là Tuyệt-hành-tiên.
"A-nan, bọn ấy đều ở trong loài người mà luyện tâm, tuy
không tu Chính-giác, nhưng riêng được lẽ sống, thọ ngàn vạn tuổi, nghỉ ở trong
núi sâu hoặc trên đảo giữa bể cả, cách-tuyệt chỗ người ở; đó cũng là vọng-tưởng
luân-hồi lưu-chuyển. Nếu không tu phép Tam-muội, thì khi quả-báo hết rồi, trở
lại tản vào trong lục-đạo.
6. THÀNH "CHƯ THIÊN" DỤC GIỚI
"A-nan, các người thế-gian, không cầu-đạo thường-trụ, chưa
có thể rời-bỏ được sự ân-ái với vợ mình, nhưng tâm không buông-lung trong việc
tà-dâm, do tâm đứng-lặng sinh ra sáng-suốt, sau khi mệnh-chung ở gần với mặt
trời, mặt trăng; một loài như thế, gọi là Tứ-Thiên-Vương-Thiên.
Đối với vợ mình, dâm-ái ít-ỏi, trong lúc tịnh-cư, không được
toàn-vị, thì sau khi mệnh-chung, vượt ánh-sáng mặt trời, mặt trăng, ở trên chóp
nhân-gian; một loài như thế, gọi là Đao-lợi-thiên.
Gặp cảnh-dục tạm theo, bỏ đi không nhớ-nghĩ, ở trong nhân-gian,
động ít, tĩnh nhiều, thì sau khi mệnh-chung, sáng-rỡ ở yên trong cõi hư-không,
ánh-sáng mặt trời, mặt trăng không soi đến được; và những người ấy tự mình có
ánh-sáng; một loài như thế, gọi là Tu-diệm-ma-thiên.
Lúc nào cũng tĩnh, nhưng khi có cảm-xúc đến bên mình, chưa
chống-đối được, thì sau khi mệnh-chung, lên trên chỗ tinh-vi, không tiếp với
những cảnh nhân-thiên cõi dưới, cho đến gặp hoại-kiếp, tam-tai cũng không đến
nơi; một loài như thế, gọi là Đâu-suất-đà-thiên.
Chính mình không có tâm dâm-dục, chỉ đáp-ứng với người khác mà
làm, trong lúc phô-bày, vô-vị như ăn sáp, thì sau khi mệnh-chung, vượt lên sinh
vào cảnh biến-hóa; một loài như thế, gọi là Lạc-biến-hóa-thiên.
Không có tâm thế-gian, chỉ đồng với thế-gian mà làm việc
ngũ-dục; trong lúc làm việc ấy, rõ-ràng là siêu-thoát, thì sau khi mệnh-chung,
vượt trên tất-cả những cảnh biến-hóa và không biến-hóa; một loài như thế, gọi
là Tha-hóa-tự-tại-thiên.
A-nan, sáu cõi-trời như thế, hình-thức tuy khỏi động, nhưng
tâm-tính còn dính-dấp; từ các cõi ấy trở xuống, gọi là Dục-giới.
THÀNH "CHƯ THIÊN" SẮC GIỚI
"A-nan, tất-cả những người tu tâm trong thế-gian, không nhờ
Thiền-na, thì không có trí-tuệ.
Người nào giữ được cái thân không làm việc dâm-dục, trong lúc
đi, lúc ngồi, đều không nghĩ-nhớ, lòng ái-nhiễm không sinh, không còn ở trong
Dục-giới, thì bản-thân liền được làm phạm-lữ; một loài như thế, gọi là
Phạm-chúng-thiên.
Tập-quán ngũ-dục đã trừ rồi, tâm ly-dục hiện ra, vui-vẻ thuận
theo các luật-nghi, thì người đó liền có thể thực-hành những phạm-đức; một loài
như thế, gọi là Phạm-phụ-thiên.
Thân tâm hoàn-toàn thanh-tịnh, uy-nghi không thiếu, cấm-giới
trong-sạch, lại có thêm trí-sáng, thì người đó liền được thống-lĩnh phạm-chúng,
làm đại-phạm-vương; một loài như thế, gọi là Đại-phạm-thiên.
A-nan, ba loài-tốt đó, tất-cả khổ-não không bức-bách được; tuy
không phải chân-chính tu phép Tam-ma-đề của đạo Phật, nhưng trong tâm
thanh-tịnh, những lầm-lạc của Dục-giới không lay-động được, nên gọi là
Sơ-thiền.
A-nan, thứ nữa, các hàng phạm-thiên khi thống-lĩnh phạm-chúng,
lại tu-tập phạm-hạnh được viên-mãn, làm cho tâm đứng-lặng không lay-động, và do
sự đứng-lặng ấy, sinh ra sáng-suốt; một loài như thế, gọi là Thiểu-quang-thiên.
Hào-quang sáng-suốt thêm nhiều, chói-sáng không cùng, ánh vào
thập phương thế-giới đều thành trong-sáng như ngọc lưu-ly; một loài như thế,
gọi là Vô-lượng-quang-thiên.
Nắm-giữ hào-quang viên-mãn, tạo thành giáo-thể, phát ra sự giáo-hóa
thanh-tịnh, ứng-dụng không cùng; một loài như thế, gọi là Quang-âm-thiên.
A-nan, ba loài-tốt ấy, tất-cả lo-buồn không bức-bách được; tuy
không phải chân-chính tu-hành phép Tam-ma-đề của đạo Phật, nhưng trong tâm
thanh-tịnh, những lầm-lạc thô-động đã dẹp xuống, nên gọi là Nhị-thiền.
A-nan, những loài trời như thế, khi dùng hào-quang viên-mãn làm
việc giáo-hóa, do sự giáo-hóa càng rõ lẽ nhiệm-mầu, phát ra hạnh tinh-tiến,
thông với cái vui yên-lặng; một loài như thế, gọi là Thiểu-tịnh-thiên.
Cảnh thanh-tịnh hiện-tiền, dẫn-phát không có bờ-bến, thân tâm
được khinh-an, thành cái vui yên-lặng; một loài như thế, gọi là
Vô-lượng-tịnh-thiên.
Thế-giới và thân tâm, tất-cả hoàn-toàn thanh-tịnh, đức
thanh-tịnh được thành-tựu, cảnh-giới thù-thắng hiện-tiền, dồn về vui yên-lặng;
một loài như thế, gọi là Biến-tịnh-thiên.
A-nan, ba loài-tốt đó, đầy-đủ công-hạnh đại-tùy-thuận, thân tâm
yên-lặng, được cái vui vô-lượng; tuy không phải chân-chính được phép Tam-ma-đề
của đạo Phật, nhưng trong tâm yên-ẩn, hoan-hỷ được đầy-đủ, nên gọi là
Tam-thiền.
A-nan, lại nữa, những loài trời đó, thân tâm không bị bức-bách,
nguyên-nhân của khổ đã hết, lại xét cái vui không phải thường-trụ, lâu rồi cũng
phải tiêu-tan, nên cả hai tâm khổ và vui, đồng-thời đều phóng-xả; những tướng
thô-nặng đã diệt, thì phúc thanh-tịnh sinh ra; một loài như thế, gọi là
Phúc-sinh-thiên.
Tâm phóng-xả được viên-mãn, sự nhận-hiểu cao-xa càng thanh-tịnh;
trong cái phúc không gì trở-ngại đó, được sự tùy-thuận nhiệm-mầu cùng-tột
vị-lai; một loài như vậy, gọi là Phúc-ái-thiên.
A-nan, từ cõi trời đó, có hai đường trẽ : Nếu dùng cái tâm
sáng-suốt thanh-tịnh vô-lượng trước kia, mà tu-chứng an-trụ nơi phúc-đức
viên-mãn sáng-suốt, thì một loài như thế, gọi là Quảng-quả-thiên.
Nếu nơi cái tâm trước kia nhàm-chán cả cái khổ và cái vui, lại
nghiền-ngẫm cái tâm phóng-xả, tiếp-tục không ngừng, đi đến cùng-tột sự
phóng-xả, thân tâm đều diệt hết, ý-nghĩ bặt mất, trải qua năm trăm kiếp; song,
người ấy đã lấy cái sinh-diệt làm nhân, thì không thể phát-minh tính
không-sinh-diệt, nên nửa kiếp đầu thì diệt, nửa kiếp sau lại sinh; một loài như
thế, gọi là Vô-tưởng-thiên.
A-nan, bốn loài-tốt ấy, tất-cả những cảnh khổ vui trong thế-gian
không lay-động được; tuy không phải là chỗ bất-động chân-thật của đạo vô-vi;
song, nơi cái tâm hữu-sở-đắc, công-dụng đã thuần-thục, nên gọi là Tứ-thiền.
A-nan, trong đó, lại có năm bậc Bất-hoàn-thiên, các vị này đã
diệt hết tập-khí chín phẩm tư-hoặc trong cõi dưới rồi, khổ vui không còn, bên
dưới không có chỗ ở, nên an-lập chỗ ở nơi chúng-đồng-phận của tâm phóng-xả.
A-nan, khổ vui cả hai đều diệt, không còn tâm-niệm ưa-ghét; một
loài như thế, gọi là Vô-phiền-thiên.
Tự-tại phóng-xả, không còn năng-xả, sở-xả; một loài như thế, gọi
là Vô-nhiệt-thiên.
Khéo thấy thế-giới mười phương thảy đều đứng-lặng, không còn tất-cả
những cấu-nhiễm trầm-trọng của trần-cảnh; một loài như thế, gọi là
Thiện-kiến-thiên.
Tri-kiến thanh-tịnh hiện-tiền, sử-dụng được không ngăn-ngại; một
loài như thế, gọi là Thiện-hiện-thiên.
Quán-sát rốt-ráo các cực-vi, cùng-tột tính của sắc-pháp, vào tính
không bờ-bến; một loài như thế, gọi là Sắc-cứu-kính-thiên.
A-nan, những bậc Bất-hoàn-thiên đó, chỉ riêng bốn vị thiên-vương
Tứ-thiền được có kính-nghe, nhưng không thể thấy-biết; cũng như hiện nay, có
các thánh-đạo-trường nơi rừng sâu đồng rộng thế-gian, đều là những nơi trụ-trì
của các vị A-la-hán, nhưng những người thô-thiển thế-gian không thể thấy được.
A-nan, mười tám loài trời đó, tâm thường ở trong định, không
dính-dáng với trần-cảnh, song chưa hết cái lụy của hình-hài; từ đó trở về, gọi
là Sắc-giới.
THÀNH "CHƯ THIÊN" VÔ SẮC GIỚI
"Lại nữa, A-nan, từ chỗ cao nhất của Sắc-giới, lại có hai
đường trẽ. Nếu nơi tâm phóng-xả, phát-minh được trí-tuệ, trí-tuệ sáng-suốt
viên-thông, thì ra khỏi cõi trần, thành vị A-la-hán, vào Bồ-tát-thừa; một loài
như thế, gọi là Hồi-tâm-đại-a-la-hán.
Nếu nơi tâm phóng-xả, khi thành-tựu được sự phóng-xả rồi, lại
cảm-thấy cái thân làm ngăn-ngại và tiêu cái ngăn-ngại ấy vào hư-không, thì một
loài như thế, gọi là Không-xứ.
Các chất-ngại đã tiêu-trừ rồi, nhưng không diệt được cái
vô-ngại, trong đó chỉ còn thức A-lại-gia và còn nguyên-vẹn phần nửa vi-tế của
thứ Mạt-na; một loài như thế, gọi là Thức-xứ.
Sắc và không đã hết, cái tâm biết là hết ấy cũng diệt-trừ, mười
phương vẳng-lặng, không còn gì nữa; một loài như thế, gọi là Vô-sở-hữu-xứ.
Thức-tính vốn không lay-động, lại dùng cái diệt mà diệt đến
cùng; trong chỗ không thể hết, phát-minh nhận cho là hết, nên hình-như còn, mà
không phải còn, hình-như hết, mà không phải hết; một loài như thế, gọi là
Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ.
Bọn nầy xét cùng cái không, nhưng không tột lý-không; nếu từ
thánh-đạo cõi trời bất-hoàn mà xét-cùng, thì một loài như thế, gọi là
Bất-hồi-tâm-độn-a-la-hán. Nếu từ cõi trời vô-tưởng và ngoại-đạo mà xét-cùng cái
không, không biết trở về, mê-lầm không nghe Chính-pháp, thì sẽ vào trong
luân-hồi.
A-nan, trên các cõi trời đó, mỗi mỗi đều là những phàm-phu hưởng
sự báo-đáp của nghiệp-quả và khi sự báo-đáp ấy hết rồi, thì trở vào trong
luân-hồi. Thiên-vương các cõi kia, thường là Bồ-tát, dùng Tam-ma-đề mà lần-lượt
tiến lên, hồi-hướng về đường tu-hành đạo Phật.
A-nan, những cõi trời tứ-không đó, thân tâm diệt hết, định-tính
hiện-tiền, không có sắc-pháp của nghiệp-quả; từ đó đến cuối-cùng, gọi là
Vô-sắc-giới.
Bọn đó, đều do không rõ Diệu-giác-minh-tâm, chứa-nhóm cái vọng,
mà giả-dối phát -sinh ra ba cõi, giả-dối theo bảy loài trong đó, mà chìm-đắm và
cá-thể thụ-sinh cũng theo từng loài.
7. THÀNH BỐN GIỐNG "A TU LA"
"Lại nữa, A-nan, trong ba cõi ấy, còn có bốn giống A-tu-la.
Nếu từ loài quỷ, do sức bảo-hộ Chính-pháp, được thần-thông vào
hư-không, thì giống A-tu-la này, từ trứng sinh ra, thuộc về loài quỷ.
Nếu từ cõi trời, đức kém phải sa-đọa, chỗ ở gần với mặt trời,
mặt trăng, thì giống A-tu-la đó, từ thai sinh ra, thuộc về loài người.
Có chúa A-tu-la, nắm-giữ thế-giới, sức-mạnh đến chỗ không phải
sợ ai, có thể tranh-quyền với Phạm-vương, Đế-thích và Tứ-thiên-vương; giống
A-tu-la này, nhân biến-hóa mà có, thuộc về loài trời.
A-nan, riêng có một số A-tu-la thấp-kém, sinh trong lòng biển
lớn, lặn trong thủy-huyệt, ban ngày đi chơi trên hư-không, tối về ngủ dưới
nước; giống A-tu-la này, nhân thấp-khí sinh ra, thuộc về loài súc-sinh.
KHAI THỊ CHỖ HƯ VỌNG CỦA BẢY LOÀI
ĐỂ KHUYẾN KHÍCH TU HÀNH CHÍNH PHÁP
"A-nan, xét-rõ bảy loài địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sinh, người
và thần-tiên, trời và A-tu-la như thế, đều là những tướng hữu-vi tối-tăm,
giả-dối tưởng-tượng thụ-sinh, giả-dối tưởng-tượng theo nghiệp; đối với tâm-tính
Diệu-viên-minh, bản-lai không năng-tác, sở-tác, thì đều như hoa-đốm giữa
hư-không, vốn không dính-dáng; chỉ một cái hư-vọng, chứ không có cỗi-gối
manh-mối gì.
"A-nan, những chúng-sinh đó, không nhận được tâm-tính
bản-lai, chịu cái luân-hồi như thế trong vô-lượng kiếp, mà không chứng được
chân-tính thanh-tịnh, đó đều do chúng thuận theo những sát, đạo, dâm, hoặc
ngược lại ba cái đó, thì lại sinh ra không-sát, không-đạo, không-dâm; có, thì
gọi là loài quỷ, không, thì gọi là loài trời; có và không thay nhau, phát-khởi
ra tính luân-hồi.
"Nếu khéo tu-tập phát-huy phép Tam-ma-đề, thì trong
bản-tính thường-diệu, thường-tịch, cả hai cái có, cái không đều không và cái
không có, không không cũng diệt, còn không có gì là bất-sát, bất-đạo, bất-dâm,
làm sao lại còn thuận theo được những việc sát, đạo, dâm.
"A-nan, không đoạn được ba nghiệp, thì mỗi mỗi chúng-sinh
đều có phần riêng, nhân những cái riêng ấy, mà quả-báo đồng-phận-chung của các
cái riêng, không phải là không chỗ nhất-định; đó là do vọng-kiến của tự mình
phát-sinh ra; hư-vọng phát-sinh vốn không có nhân, không thể tìm-xét nguồn-gốc
được.
"Ông khuyên người tu-hành, muốn được đạo Bồ-đề, cốt-yếu
phải trừ tam-hoặc; tam-hoặc không hết, thì dầu được thần-thông, cũng đều là
những công-dụng hữu-vi của thế-gian; tập-khí mê-lầm đã không diệt, thì lạc vào
đường ma; tuy muốn trừ cái vọng, nhưng lại càng thêm giả-dối; Như-lai bảo là
rất đáng thương-xót. Như thế, đều do vọng-kiến tự mình tạo ra, không phải là
lỗi của tính Bồ-đề.
Nói như thế ấy, tức là lời nói chân-chính; nếu nói khác thế, tức
là lời nói của Ma-vương".
Comments
Post a Comment