KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
PHẦN CHÍNH TÔNG
21. VĂN THÙ LỰA
CHỌN CĂN VIÊN THÔNG
Manjushri Selects the Organ of Entry
Khi bấy-giờ, đức Như-lai
bảo Ngài Văn-thù-sư-lỵ Pháp-vương-tử rằng: "Ông hãy xét trong 25 vị vô-học
Đại-bồ-tát và A-la-hán, mỗi mỗi đều trình-bày phương-tiện hành-đạo lúc đầu, đều
nói tu-tập tính viên-thông chân-thật; chỗ tu-hành của các vị kia, thật không có
hơn, kém, trước, sau gì khác nhau. Nay tôi muốn khiến cho ông A-nan khai-ngộ,
thì trong 25 phép tu, phép nào hợp với căn-cơ của ông ấy; lại, sau khi tôi
diệt-độ rồi, chúng-sinh trong cõi nầy vào thừa Bồ-tát, cầu đạo vô-thượng, thì
do pháp-môn phương-tiện gì, được dễ thành-tựu hơn?"
Tán-thán tính-giác vốn
diệu và chỉ rõ mê-vọng vốn không
Ngài Văn-thù-sư-lỵ
Pháp-vương-tử, vâng từ-chỉ của Phật, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi
chân Phật, dựa vào uy-thần của Phật, nói bài kệ đáp lại:
"Bản-tính biển Giác
khắp đứng-lặng,
Tính khắp đứng-lặng
vốn nhiệm-mầu,
Bản-minh chiếu ra
hình-như sở,
Lập tướng sở, bỏ mất
bản-minh.
Do mê-vọng, mà có
hư-không,
Nương hư-không, lập-thành
thế-giới;
Tư-tưởng chăm-chú thành
cõi-nước,
Hay-biết mọi việc, là
chúng-sinh.
Hư-không sinh ra trong
đại-giác,
Như một bọt-nước sinh
trong bể;
Các nước hữu-lậu, như
vi-trần
Đều nương hư-không, mà
phát-sinh;
Bọt-nước diệt, vốn không
hư-không,
Huống nữa là, hình-tướng
ba cõi.
( Giác hải tánh
trừng viên
Viên trừng giác nguyên
diệu
Nguyên minh chiếu sanh sở
Sở lập chiếu tánh vong.
Mê vọng hữu hư không
Y không lập thế giới
Tưởng trừng thành quốc độ
Tri giác nãi chúng sanh.
Không sanh đại giác trung
Như hải nhất âu phát
Hữu lậu vi trần quốc
Giai tòng không sở sanh
Âu diệt không bổn vô
Huống phục chư tam hữu.)
Nêu rõ phương-tiện có mau
chậm
Bản-tính xoay về, vốn
không hai,
Phương-tiện tu-chứng có
nhiều cách,
Cách nào cũng thông vào
bản-tính,
Nói thuận, nghịch, chỉ là
phương-tiện;
Do hàng sơ-tâm vào
Tam-muội,
Bên mau, bên chậm không
đồng nhau.
( Quy nguyên tánh vô nhị
Phương tiện hữu đa môn
Thánh tánh vô bất thông
Thuận nghịch giai phương
tiện
Sơ tâm nhập tam muội
Trì tốc bất đồng luân. )
Lựa ra 6 trần
Vọng-tưởng kết-lại thành
sắc-trần,
Hay-biết không thể
thông-suốt được;
Làm sao, chính chỗ không
thông-suốt,
Tu-hành, lại được tính
viên-thông?
Âm-thanh xen-lộn với lời
nói,
Chỉ nương theo ý-vị
danh-từ;
Nếu một, không trùm được
tất-cả,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Hương, chỉ lúc hợp, mới
rõ-biết,
Lúc rời-cách, thì vốn
không có;
Nếu sở-giác, không được
thường-xuyên,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Vị, không phải bản-nhiên
tự có,
Cần phải nếm, mới biết có
vị;
Nếu giác-quan, không
thường duy-nhất,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Xúc, do các vật chạm mà
biết,
Không vật chạm, thì không
thành xúc;
Khi hợp, khi ly, không
nhất-định,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Pháp, cũng có tên là
nội-trần,
Nương theo trần, tất phải
có sở;
Năng sở, không viên-dung
nhập một,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
( Sắc tưởng kết thành
trần.
Tinh liễu bất năng triệt.
Như hà bất minh triệt.
Ư thị hoạch viên thông?
Âm thanh tạp ngữ ngôn.
Đãn y danh cú vị.
Nhất phi hàm nhất thiết.
Vân hà hoạch viên thông?
Hương dĩ hợp trung tri.
Ly tắc nguyên vô hữu.
Bất hằng kỳ sở giác.
Vân hà hoạch viên thông?
Vị tánh phi bản nhiên.
Yếu dĩ vị thời hữu.
Kỳ giác bất hằng nhất.
Vân hà hoạch viên thông?
Xúc dĩ sở xúc minh.
Vô sở bất minh xúc.
Hợp ly tánh phi định.
Vân hà hoạch viên thông?
Pháp xưng vi nội trần.
Bằng trần tất hữu sở.
Năng sở phi biến thiệp.
Vân hà hoạch viên thông?
)
Lựa-ra 5 căn
Cái thấy, tuy rỗng-suốt
rất xa,
Nhưng thấy trước, mà
không thấy sau;
Bốn-bề, còn thiếu mất một
nửa,
Thì làm sao, được tính
viên-thông!
Mũi, có thở ra và thở
vào,
Chặng giữa, hiện không có
hơi-thở,
Nếu không viên-dung sự
cách-bức,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Ngoài sở-nhập, tính-nếm
không thành,
Nhân các vị, mới có
hay-biết;
Không có vị, rốt-ráo
không có,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Thân biết-xúc với cảnh
sở-xúc,
Đều có hạn, không phải
cùng khắp;
Nếu không nhận tính không
bờ-bến,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Ý-căn xen với các
loạn-tưởng,
Đứng-lặng, rốt-cuộc không
thấy gì;
Nếu không thoát được các
tưởng-niệm,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?"
( Kiến tánh tuy đỗng
nhiên.
Minh tiền bất minh hậu.
Tứ duy khuy nhất bán.
Vân hà hoạch viên thông?
Tỵ tức xuất nhập thông.
Hiện tiền vô giao khí.
Chi ly phỉ thiệp nhập.
Vân hà hoạch viên thông?
Thiệt phi nhập vô đoan.
Nhơn vị sanh giác liễu.
Vị vong liễu vô hữu.
Vân hà hoạch viên thông?
Thân dữ sở xúc đồng.
Các phi viên giác quán.
Nhai lượng bất minh hội.
Vân hà hoạch viên thông?
Ý căn tạp loạn tư.
Trạm liễu chung vô kiến.
Tưởng niệm bất khả thoát.
Vân hà hoạch viên thông?
)
Lựa-ra 6 thức
Nhãn-thức, phát-khởi nhờ
căn trần,
Gạn-cùng, vốn không có
tự-tướng;
Cả tự-thể, còn không
nhất-định,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Tâm nghe rỗng-thấu cả
mười phương,
Là do sức hoằng-thệ
rộng-lớn;
Sơ-tâm, không thể đến chỗ
ấy
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Quán đầu-mũi, vốn là
duyên-cơ,
Chỉ để nhiếp-tâm được
an-trụ;
Nếu cảnh-quán, lại thành
sở-trụ,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Thuyết-pháp, diệu-dụng
các danh-từ;
Cốt phải đã được khai-ngộ
trước;
Nếu lời nói, không phải
vô-lậu,
Thì làm sao, được tính viên-thông?
Giữ giới, chỉ câu-thúc
cái thân,
Ngoài cái thân, lấy gì
câu-thúc;
Vốn không phải cùng khắp
tất-cả,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Thần-thông, do túc-tập từ
trước,
Nào dính gì ý-thức
phân-biệt;
Tưởng-niệm, không
thoát-ly sự-vật,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
( Thức kiến tạp tam hoà.
Cật bổn xưng phi tướng.
Tự thể tiên vô định.
Vân hà hoạch viên thông?
Tâm văn đỗng thập phương.
Sanh vu đại nhân lực.
Sơ tâm bất năng nhập.
Vân hà hoạch viên thông?
Tỵ tưởng bổn quyền cơ.
Kỳ linh nhiếp tâm trụ.
Trụ thành tâm sở trụ.
Vân hà hoạch viên thông?
Thuyết pháp lộng âm văn.
Khai ngộ tiên thành giả.
Danh cú phi vô lậu.
Vân hà hoạch viên thông?
Trì phạm đãn thúc thân.
Phi thân vô sở thúc.
Nguyên phi biến nhất
thiết.
Vân hà hoạch viên thông?
Thần thông bổn túc nhơn.
Hà quan pháp phân biệt.
Niệm duyên phi ly vật.
Vân hà hoạch viên thông?
)
Lựa-ra 7 đại
Nếu quán cái tính của
địa-đại,
Thì nó ngăn-ngại, không
thông-suốt;
Pháp hữu-vi, không phải
chân-tính,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Nếu quán cái tính của
thủy-đại,
Quán-tưởng, đâu phải là
chân-thật,
Nếu không đi đến
Diệu-chân-như,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Nếu quán hỏa-đại, trừ
dâm-dục,
Chán cái có, không phải
thật ly;
Phương-tiện, không hợp
với sơ-tâm,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Nếu quán cái tính của
phong-đại,
Động, tĩnh, đâu phải
không đối-đãi;
Đối-đãi, trái với
vô-thượng-giác,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Nếu quán cái tính của
không-đại,
Hư-không vô-tri, không
hay-biết;
Không biết, khác hẳn với
Bồ-đề,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Nếu quán cái tính của
thức-đại,
Thức sinh-diệt, đâu phải
thường-trụ,
Để tâm trong phân-biệt
hư-vọng,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?
Tất-cả các hành đều
vô-thường,
Tưởng-niệm, vốn trong
vòng sinh diệt,
Nhân và quả, khác nhau
như thế,
Thì làm sao, được tính
viên-thông?"
( Nhược dĩ địa tánh quán.
Kiên ngại phi thông đạt.
Hữu vi phi thánh tánh.
Vân hà hoạch viên thông?
Nhược dĩ thủy tánh quán.
Tưởng niệm phi chơn thật.
Như như phi giác quán.
Vân hà hoạch viên thông?
Nhược dĩ hoả tánh quán.
Yếm hữu phi chơn ly.
Phi sơ tâm phương tiện.
Vân hà hoạch viên thông?
Nhược dĩ phong tánh quán.
Động tịch phi vô đối.
Đối phi vô thượng giác.
Vân hà hoạch viên thông?
Nhược dĩ không tánh quán.
Hôn độn tiên phi giác.
Vô giác dị bồ đề.
Vân hà hoạch viên thông?
Nhược dĩ thức tánh quán.
Quán thức phi thường trụ.
Tồn tâm nãi hư vọng.
Vân hà hoạch viên thông?
Chư hành thị vô thường.
Niệm tánh vô sanh diệt.
Nhân quả kim thù cảm.
Vân hà hoạch viên thông?
)
Hợp với giáo-thể
cõi Sa-bà
Tôi nay xin bạch đức
Thế-tôn,
Phật ra đời trong cõi
Sa-bà,
Trong cõi nầy, lối dạy
chân-thật,
Thanh-tịnh, do chỗ nói và
nghe;
Nay muốn
tu-chứngTam-ma-đề,
Thật nên do cái nghe mà
vào."
( Ngã kim bạch Thế Tôn
Phật xuất ta-bà giới
Thử phương chơn giáo thể
Thanh tịnh tại âm văn
Dục thủ tam ma đề
Thật dĩ văn trung nhập. )
Xưng-tán ngài Quán-thế-âm
Rời cái khổ và được
giải-thoát,
Hay thay cho ngài
Quán-thế-âm;
Trong kiếp số như cát
sông Hằng,
Vào cõi Phật như số
vi-trần,
Được sức tự-tại rất
to-lớn,
Bố-thí vô-úy cho
chúng-sinh.
Ngài Quán-thế-âm, tiếng
nhiệm-mầu,
Tiếng trong-sạch và tiếng
hải-trào,
Cứu đời, mọi việc được
yên-lành,
Xuất-thế-gian, được quả
thường-trụ."
( Ly khổ đắc giải thoát
Lương tai Quán Thế Âm
Ư hằng sa kiếp trung
Nhập vi trần phật quốc
Đắc đại tự tại lực
Vô úy thí chúng sanh
Diệu âm Quán Thế Âm
Phạm âm hải triều âm
Cứu thế tất an ninh
Xuất thế hoạch thường
trụ. )
Xưng-tán nhĩ-căn
Tôi nay kính bạch đức
Như-lai,
Như lời ngài Quán-âm vừa
nói:
Ví-như, có người trong
yên-lặng,
Chung-quanh mười phương
đều đánh trống,
Thì đồng-thời nghe khắp
mười nơi,
Như thế, mới là
viên-chân-thật.
Mắt bị ngăn-che, không
thấy được,
Thiệt-căn, tỷ-căn cũng
như vậy,
Thân-căn, lúc hợp mới
biết-xúc,
Ý-căn, phân-vân không
manh-mối;
Cách tường, nhĩ-căn vẫn
nghe tiếng,
Dầu xa, dầu gần, đều nghe
được;
Năm căn so-sánh thật
không bằng,
Như thế, mới là
thông-chân-thật.
Tính thanh-trần, có động,
có tĩnh,
Trong tính-nghe thành có,
thành không;
Khi không tiếng, gọi là
không nghe,
Đâu phải thật không còn
tính-nghe;
Không tiếng, tính-nghe đã
không diệt,
Có tiếng, tính-nghe đâu
phải sinh;
Trọn-rời cả hai thứ
sinh-diệt,
Như thế, mới là
thường-chân-thật.
Dầu cho, trong lúc đương
ngủ mê,
Không vì không nghĩ, mà
không nghe;
Tính-nghe ra ngoài sự
suy-nghĩ,
Thân, ý không thể so bằng
được.
( Ngã kim khải Như Lai
Như Quán Âm sở thuyết
Thí như nhân tĩnh cư
Thập phương câu kích cổ
Thập xứ nhất thời văn
Thử tắc viên chơn thật
Mục phi quán chướng ngoại
Khẩu tỵ diệc phục nhiên
Thân dĩ hợp phương tri
Tâm niệm phân vô tự
Cách viên thính âm hưởng
Hà nhĩ câu khả văn
Ngũ căn sở bất tề
Thị tắc thông chơn thật
Âm thinh tánh động tĩnh
Văn trung vi hữu vô
Vô thinh hiệu vô văn
Phi thật văn vô tánh
Thinh vô ký vô diệt
Thinh hữu diệc phi sanh
Sanh diệt nhị viên ly
Thị tắc thường chơn thật
Túng linh tại mộng tưởng
Bất vị bất tư vô
Giác quán xuất tư duy
Thân tâm bất năng cập.)
Chuyển mê thành ngộ
Hiện nay, trong cõi Sa-bà
nầy,
Các thứ thanh-luận được
truyền-bá,
Do chúng-sinh bỏ mất
tính-nghe,
Theo thanh-trần, nên bị
lưu-chuyển;
A-nan, tuy có tính nhớ
dai,
Vẫn không khỏi mắc các tà-niệm;
Há không phải tùy chỗ
chìm-đắm,
Xoay ngược dòng, thoát
khỏi hư-vọng.
A-nan, ông hãy nghe cho
chín,
Nay tôi nương uy-lực của
Phật,
Tuyên-nói phép Tam-muội
chân-thật,
Chắc như Kim-cương-vương,
như-huyễn,
Không nghĩ-bàn, xuất-sinh
chư Phật.
Ông nghe tất-cả pháp
bí-mật
Của chư Phật, số như
vi-trần,
Nếu trước hết, không trừ
dục-lậu,
Nghe nhiều, chứa-chấp
thành lầm-lỗi;
Dùng cái nghe thụ-trì
Phật-pháp,
Sao lại không tự nghe cái
nghe?
Tính-nghe không phải
tự-nhiên sinh,
Nhân thanh-trần mà có
danh-hiệu,
Xoay cái nghe, thoát-ly
thanh-trần,
Cái thoát-ly ấy, gọi là
gì?
Một căn, đã trở về
bản-tính,
Thì cả sáu căn, được
giải-thoát,
Thấy, nghe như bệnh lòa
huyễn-hóa,
Ba cõi như hoa-đốm
hư-không;
Xoay tính-nghe, gốc lòa
tiêu-trừ,
Trần-tướng tiêu,
giác-tính viên-tịnh.
Tột thanh-tịnh, trí-quang
thông-suốt,
Thể tịch-chiếu trùm khắp
hư-không,
Trở lại xem các việc
thế-gian
Thật giống như chiêm-bao
không khác.
Nàng Ma-đăng-già là
chiêm-bao
Thì còn ai bắt ông được
nữa?
Như các huyễn-sư khéo
trong đời,
Làm trò, thành ra các trai,
gái;
Tuy thấy các căn đều
cử-động,
Cốt-yếu, do cái máy dật
dây;
Nghỉ máy, tất-cả đều
yên-lặng,
Các trò, trở thành không
có tính.
Cả sáu căn cũng giống như
thế,
Vốn đều nương một tính
tinh-minh
Chia ra thành sáu thứ
hòa-hợp;
Một nơi, đã rời-bỏ quay
về,
Thì cả sáu, đều không
thành-lập;
Trong một niệm, trần-cấu
đều tiêu,
Chuyển-thành tính
Viên-minh tịnh-diệu,
Còn sót trần-cấu là
học-vị,
Sáng-suốt cùng-tột, tức
Như-lai.
Hỡi đại-chúng và ông
A-nan,
Hãy xoay lại cái nghe
điên-đảo,
Xoay cái nghe về, nghe
tự-tính,
Nhận tự-tính, thành đạo
vô-thượng;
Thật-tính viên-thông là
như thế."
( Kim thử ta-bà quốc.
Thanh luận đắc tuyên
minh.
Chúng sanh mê bổn văn.
Tuần thinh cố lưu chuyển.
A-nan túng cường ký.
Bất miễn lạc tà tư.
Khởi phi tùy sở luân.
Triền lưu hoạch vô vọng.
A-nan nhữ đế thính:
Ngã thừa Phật oai lực.
Tuyên thuyết Kim cang
vương.
Như huyễn bất tư nghị.
Phật mẫu chơn tam muội.
Nhữ văn vi trần Phật.
Nhất thiết bí mật môn.
Dục lậu bất tiên trừ.
Súc văn thành quá ngộ.
Tương văn trì phật phật.
Hà bất tự văn văn?
Văn phi tự nhiên sanh.
Nhơn thinh hữu danh tự.
Triền văn dữ thinh thoát.
Năng thoát dục thùy danh?
Nhất căn ký phản nguyên.
Lục căn thành giải thoát.
Kiến văn như huyễn ế.
Tam giới nhược không hoa.
Văn phục ế căn trừ.
Trần tiêu giác viên tịnh.
Tịnh cực quang thông đạt.
Tịch chiếu hàm hư không.
Khước lai quán thế gian.
Du như mộng trung sự.
Ma-đăng-già tại mộng.
Thùy năng lưu nhữ hình?
Như thế xảo huyễn sư.
Huyễn tác chư nam nữ.
Tuy kiến chư căn động.
Yếu dĩ nhất cơ trừu.
Tức cơ quy tịch nhiên.
Chư huyễn thành vô tánh.
Lục căn diệc như thị.
Nguyên y nhất tinh minh.
Phân thành lục hoà hợp.
Nhất xứ thành hưu phục.
Lục dụng giai bất thành.
Trần cấu ứng niệm tiêu.
Thành viên minh tịnh
diệu.
Dư trần thượng chư học.
Minh cực tức Như Lai.
Đại chúng cập A-nan.
Triền nhữ đảo văn cơ.
Phản văn văn tự tánh.
Tánh thành vô thượng đạo.
Viên thông thật như thị.
Thử thị vi trần Phật.)
Chọn lấy nhĩ-căn làm
phương-tiện thích-hợp
Đây thật là một đường
thẳng tiến
Vào Niết-bàn của vi-trần
Phật;
Các đức Như-lai trong
quá-khứ
Đều đã thành-tựu pháp-môn
nầy;
Các vị Bồ-tát trong
hiện-tại
Điều viên-minh vào
pháp-môn ấy;
Những người tu-học đời
vị-lai
Đều nên nương theo
pháp-môn đó;
Tôi cũng do pháp ấy mà
chứng,
Không phải chỉ ngài
Quán-thế-âm.
Thật như lời đức Phật
Thế-tôn
Đã hỏi tôi về các
phương-tiện
Để cứu-giúp, trong đời
mạt-pháp,
Những người cầu pháp
xuất-thế-gian
Thành-tựu được tâm-tính
Niết-bàn
Thì ngài Quán-âm là hơn
cả.
Còn tất-cả các
phương-tiện khác
Đều là nhờ uy-thần của
Phật,
Tức nơi sự, rời-bỏ
trần-lao,
Không phải phép tu-học
thường-xuyên,
Nông hay sâu cũng đồng
nghe được.
( Nhất lộ niết-bàn môn.
Quá khứ chư Như Lai.
Tư môn dĩ thành tựu.
Hiện tại chư bồ tát.
Kim các nhập viên minh.
Vị lai tu học nhơn.
Đương y như thị pháp.
Ngã diệc tòng trung
chứng.
Phi duy Quán Thế Âm.
Thành như Phật Thế Tôn.
Tuân ngã chư phương tiện.
Dĩ cứu chư mạt kiếp.
Cầu xuất thế gian nhơn.
Thành tựu niết-bàn tâm.
Quán Thế Âm vi tối.
Tự dư chư phương tiện.
Giai thị Phật oai thần.
Tức sự xả trần lao.
Phi thị trường tu học.
Thiển thâm đồng thuyết pháp.)
Đảnh-lễ cầu gia-bị
Xin đỉnh-lễ tính
Như-lai-tạng,
Vô-lậu, không còn sự
nghĩ-bàn,
Nguyện gia-bị cho đời
vị-lai,
Nơi pháp-môn nầy, không
lầm-lẫn.
Đây là phương-tiện dễ
thành-tựu,
Nên đem dạy cho ông A-nan
Cùng những kẻ trầm-luân
mạt-kiếp,
Chỉ dùng nhĩ-căn mà
tu-tập,
Thì viên-thông chóng hơn
pháp khác;
Tâm-tính chân-thật là như
thế."
( Đảnh lễ Như Lai tạng.
Vô lậu bất tư nghị.
Nguyện gia bị vị lai.
Ư thử môn vô hoặc.
Phương tiện dị thành tựu.
Kham dĩ giáo A-nan.
Cập mạt kiếp trầm luân.
Đãn dĩ thử căn tu.
Viên thông siêu dư giả.
Chơn thật tâm như thị.)
NGHE
PHÁP ĐƯỢC CHỨNG
Lúc ấy, ông A-nan cùng cả
đại-chúng, thân tâm tỏ-rõ, nhận được sự khai-thị to-lớn, xem quả Bồ-đề và
Đại-niết-bàn của Phật, cũng như có người nhân có việc phải đi xa, chưa trở về
được, song đã biết rõ con đường về nhà. Trong Pháp-hội, cả đại-chúng,
thiên-long bát-bộ, hàng Nhị-thừa hữu-học và tất-cả các Bồ-tát mới phát-tâm,
số-lượng bằng mười số cát sông Hằng, đều được bản-tâm xa trần-tướng, rời
cấu-nhiễm, được pháp-nhãn thanh-tịnh. Bà Tính-tỷ-khưu-ni nghe nói bài kệ xong,
thành quả A-la-hán; vô-lượng chúng-sinh đều phát-tâm Vô-đẳng-đẳng-vô-thượng
Chính-đẳng-chính-giác.
Comments
Post a Comment