KINH THIÊN-THỦ THIÊN-NHÃN

QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT QUẢNG-ÐẠI VIÊN-MÃN

VÔ-NGẠI ĐẠI-BI-TÂM ÐÀ-RA-NI

 

Đời Đường, Sa-môn Dà-Phạm Đạt-Mạ người xứ Tây-Thiên-Trúc dịch 

 

III 

PHẦN LƯU THÔNG


TRÌ CHÚ ĐẠI-BI, 42 THỦ NHÃN ẤN-PHÁP  và  chí tâm xưng danh hiệu của tôi, 

lại chuyên niệm danh hiệu bổn sư tôi là đức A Di Đà Như Lai, 

để LƯU THÔNG BỘ KINH NẦY


Khi phát lời nguyện ấy xong, chí tâm xưng danh hiệu của tôi, lại chuyên niệm danh hiệu bổn sư tôi là đức A Di Đà Như Lai (24), kế đó tiếp tụng đà ra ni thần chú này. Nếu chúng sanh nào, trong một ngày đêm tụng năm biến chú, sẽ diệt trừ được tội nặng trong ngàn muôn ức kiếp sanh tử. 



Đức Phật bảo ngài A Nan: 

- Ông nên dùng lòng trong sạch tin sâu mà thọ trì môn Đại Bi tâm đà ra ni này và lưu bố rộng ra trong cõi Diêm Phù Đề, chớ cho đoạn tuyệt. 

...

Đức Phật bảo ngài A Nan: - Thần chú (ĐẠI-BI) của Quán Thế Âm Bồ Tát nói ra đây, chân thật không dối.

Nếu muốn thỉnh Bồ Tát đến, nên tụng chú vào hương chuyết cụ la 21 lần rồi đốt lên (chuyết cụ la chính là an tức hương). 

...

Đức Phật lại bảo ngài A Nan: - Quán Thế Âm Tự Tại Bồ Tát có ngàn mắt ngàn tay, mỗi tay đều tiêu biểu cho hạnh tùy thuận các sự mong cầu của chúng sanh. Đó cũng là do tâm Đại Bi của vị Đại Sĩ ấy hóa hiện. 



1. Nếu chúng sanh nào muốn được giàu lớn, có nhiều thứ châu báu, đồ dùng, nên cầu nơi tay cầm châu như ý

Chân ngôn rằng: Án-- phạ nhựt ra, phạ đa ra, hồng phấn tra.
 

...

Khi ấy, tất cả chúng hội, Bồ Tát Ma ha tát, Kim Cang mật tích, Phạm vương, Đế Thích, tứ đại thiên vương, thiên, long, quỷ thần, nghe đức Như Lai khen ngợi môn đà ra ni này xong, thảy đều vui mừng, y lời dạy mà tu hành. 



KINH VĂN:


Ngài A Nan lại bạch Phật: - Bạch đức Thế Tôn! Vị Bồ Tát Ma Ha Tát, bộ chủ của thần chú này, tôn hiệu là chi, mà khéo nói môn đà ra ni như thế? 

Đức Phật bảo: - Vị Bồ Tát ấy hiệu là Quán Thế Âm Tự Tại, cũng tên là Nhiên Sách, cũng gọi là Thiên Quang Nhãn. 

Này thiện nam tử! Quán Thế Âm Bồ Tát thần thông oai lực không thể nghĩ bàn, trong vô lượng kiếp về trước từng thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Vì nguyện lực đại bi, vì muốn làm duyên phát khởi cho tất cả các hàng Bồ Tát, vì muốn an vui thành thục cho chúng sanh, ngài mới giáng tích hiện làm Bồ Tát. Vậy ông và đại chúng, các hàng Bồ Tát, Ma Ha Tát, Phạm vương, Đế Thích, Long thần đều nên cung kính, chớ sanh lòng khinh mạn, xem thường. Nếu tất cả hàng trời, người thường xưng niệm, cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ được vô lượng phước diệt vô lượng tội , mạng chung sanh về cõi nước của Phật A Di Đà. 

Đức Phật bảo ngài A Nan: - Thần chú của Quan Thế Âm Bồ Tát nói ra đây, chân thật không dối. Nếu muốn thỉnh Bồ Tát đến, nên tụng chú vào hương chuyết cụ la 21 lần rồi đốt lên. 


PHỤ CHÚ .-

Chuyết cụ la chính là an tức hương. 



Nếu kẻ nào bị loài ma mèo dựa vào phá khuấy, người thân thuộc nên tìm một bộ xương của con mèo đã chết, đốt tan ra tro, rồi hòa với đất bùn sạch, nắn thành hình mèo. Khi hoàn thành để hình ấy trước tượng Thiên Nhãn, tụng 108 biến chú Đại Bi vào lưỡi dao rồi chặt hình mèo thành 108 đoạn. Nên nhớ cứ mỗi lần tụng xong một biến thì chém xuống một đao, kêu tên loài ma mèo một lần. Làm như thế bịnh nhơn sẽ an lành, ma mèo vĩnh viễn không dám phá hoại. 

Nếu người nào bị chất độc của loài sâu cổ làm hại, thì thân nhơn mau dùng hương dược kiếp bố la hòa đồng phân với chuyết cụ la hương vào nước trong, sắc còn một chén. Xong, lại để chén thuốc ấy trước tượng Thiên Nhãn tụng chú 108 biến rồi cho bịnh nhơn uống, liền thấy an lành.


PHỤ CHÚ .- 

Dược kiếp bố la hương tức Long não hương. 



Nếu bị rắn rít cắn, dùng vị Càn cương tán thành mạt, tụng chú vào đấy 21 biến, rồi dấp lên vết thương, liền hết. 

Nếu bị kẻ thù mưu hại, nên dùng đất sạch, hoặc bột, hoặc sáp, nắn thành hình kẻ ấy. Xong, lại để hình nhơn trước tượng Thiên Nhãn, tụng vào lưỡi dao 108 biến Đại Bi, cứ tụng xong mỗi biến lại chém xuống một dao, kêu tên người kia một lần, rồi đem 108 đoạn hình đã chặt đốt tan. Y theo pháp thức như thế, kẻ oan gia thù nghịch sẽ đổi ra trạng thái vui vẻ, thân hậu đối với ta, trọn đời đôi bên quý mến lẫn nhau. 

Nếu bị bịnh đau mắt, hoặc mắt kéo màng đỏ, mắt trắng đục, hoặc quáng manh, hoặc hư tròng, không thấy được ánh sáng, nên dùng trái ha lê lặc, trái am ma lặc, trái bệ hê lặc, mỗi thứ một quả, đem nghiền, vắt lấy nước. Khi vắt nước nên ở chỗ vắng lặng, giữ cho sạch sẽ, miệng luôn niệm Phật, chớ để cho mèo, chó, gà, lợn cùng đàn bà mới sanh thấy. Vắt nước xong đem hòa với bạch mật, hoặc sữa người. Sữa này phải là của phụ nhơn sanh con trai, chứ không được dùng sữa của người sanh con gái. Khi hòa thành xong, đem chén thuốc để trước tượng Thiên Nhãn tụng chú 108 biến. Trì chú vào thuốc rồi, bịnh nhơn phải ở nơi nhà kín, tránh gió trong thời gian 7 ngày và dùng thuốc ấy nhỏ vào mắt. Làm như thế, tròng con mắt hư lại sanh, các chứng kia đều lành. Mắt thấy được tỏ rõ 


PHỤ CHÚ .-

Ba thứ trái này xứ ta không có, bịnh nhơn nên phương tiện thay 3 thứ trái khác hoặc 3 thứ thuốc khác có tánh cách trị bịnh đau mắt, nếu như chí thành, cũng được linh nghiệm. 



Nếu bị bịnh rét hoặc bị loài ma rét dựa, nên dùng da cọp hoặc da beo tụng vào đấy 21 biến chú, rồi phủ lên mình thì bịnh sẽ lành, ma cũng xa lánh. Như được da sư tử thì càng quý. 

Nếu bị rắn độc cắn, dùng chất ráy đóng trong lỗ tai của người bị cắn, tụng chú 21 biến, thoa vào vết thương, nọc rắn liền tiêu. 

Nếu bị bịnh rét dữ nhập tâm, hôn muội sắp chết, dùng một khối mủ cây đào, lớn ước lượng bằng trái đào, đem hòa với một chén nước trong, sắc còn nửa chén, tụng chú vào đấy bảy biến rồi uống, bịnh sẽ lành. Thuốc này chớ cho phụ nữ sắc. 

Nếu bị loài quỷ truyền thi, phục thi làm bịnh, dùng hương chuyết cụ la tụng chú 21 biến, đốt xông vào lỗ mũi. Lại lấy 7 khối hương lớn ước lượng bằng lóng tay cái, cũng gia trì chú 21 biến mà uống, bịnh sẽ lành. Nên nhớ: Bịnh nhơn phải kiêng rượu, thịt, ngũ vị tân 
(58) và mắng chửi. Một phương pháp nữa là dùng vị Ma Na Thi La hòa với Bạch giới tử và muối hột, gia trì chú 21 biến, rồi đem xông đốt dưới giường người bịnh, quỷ liền vội vã trốn chạy, không dám ở 


PHỤ CHÚ .-

Ma Na Thi La là vị thuốc Hùng Hoàng. 



Nếu bị tai điếc lùng bùng, tụng chú vào dầu mè, rồi nhỏ trong tai, bịnh sẽ lành. 

Nếu bị chứng thiên phong, xụi nửa thân mình, tai điếc, mũi không biết mùi, dùmg dầu mè sắc với vị Thanh Mộc Hương, gia trì chú 21 biến, rồi thoa nơi mình. Bịnh sẽ vĩnh viễn tiêu trừ. Lại một phương pháp nữa: dùng sữa ngưu tô thuần chất, tụng vào 21 biến chú mà thoa, bịnh cũng sẽ lành. 

Nếu phụ nhơn sanh sản khó, mau dùng dầu mà gia trì chú 21 biến, rồi thoa nơi rún và ngọc môn, liền được dễ sanh. 

Nếu phụ nhơn có nghén, thai nhi chết trong bụng, dùng một lượng thuốc A Ba Mộc Lợi Đà, đổ hai chén sắc còn một chén, gia trì chú 21 biến mà uống, thì cái thai liền ra, phụ nhơn không một chút đau đớn. Như thai y (nhau) không ra, cũng uống thuốc này. 


PHỤ CHÚ .-

A Ba Mộc Lợi Đà là vị Ngưu Tất.



Nếu bỗng nhiên đau nhói nơi tim chịu không kham, đây gọi là chứng độn thi chú, nên dùng hương Quân Trụ Lỗ, tụng chú vào 21 biến, rồi để trong miệng nhai nuốt không hạn nhiều ít, chừng nào mửa được mới thôi, y như thế bịnh sẽ lành, song nên nhớ phải cữ ngũ tân và rượu thịt (quân trụ lỗ là vị thuốc Huân Lục Hương). 

Nếu bị phỏng lửa thành ghẻ, dùng phân trâu đen tụng chú 21 biến mà thoa, bịnh sẽ lành. 

Nếu bị sên lải cắn, dùng nửa chén nước tiểu con ngựa kim, như bịnh nặng thì một chén, gia trì chú 21 biến, uống vào loài trùng sẽ quyện ra như sợi dây. 

Nếu bị bịnh ghẻ đinh dùng lá Lăng Tiêu đâm lấy nước, gia trì chú 21 biến mà thoa, thì ghẻ liền ra cồi mà lành. 

Nếu rủi bị con lằn cắn vào mắt, dùng phẩn mới của con lừa, vắt lấy nuớc, gia trì 21 biến chú, đợi ban đêm trước khi ngủ, nhỏ thuốc ấy vào, bịnh sẽ lành. 

Nếu bị đau bụng, dùng nước giếng trong nấu với 21 hột muốn lớn, còn nửa chén gia trì chú 21 biến uống vào, liền hết đau. 

Nếu bị bịnh đau mắt đỏ, mắt lồi thịt, mờ mịt không thấy, dùng lá xa xa di đâm lược lấy nước, gia trì chú 21 biến, rồi bỏ đồng tiền có meo xanh vào ngâm một đêm. Xong lại lấy ra, tụng thêm vào đấy 7 biến chú nữa. Dùng thuốc này nhỏ vào mắt, bịnh sẽ lành (Xa xa di là lá câu kỷ). 

Nếu người có tật ban đêm sợ hãi ra vào không yên, lấy chỉ trắng xe thành niệt, gia trì chú 21 biến, kết thành 21 gút buộc nơi cổ, thì tật ấy sẽ dứt. Chẳng những trừ được sự khủng bố mà cũng diệt được tội. 

Nếu trong nhà sanh nhiều tai nạn, dùng nhánh cây thạch lựu chặt thành 1.080 đoạn ước độ một tấc, mỗi đoạn 2 đầu đều thoa mật tô lạc. Kế đó, đem lò nhỏ để trước bàn Phật, cứ tụng xong một biến chú, liền đốt một đoạn. Khi thiêu hết 1.080 đoạn, tất cả tai nạn thảy đều tiêu trừ. 

Nếu ở các nơi đấu tranh, luận nghị, muốn được hơn người dùng cành bạch xương bồ gia trì chú 21 biến, đeo nơi cánh tay mặt, tất sẽ được toại nguyện. 

Nếu muốn được trí huệ nên dùng nhánh xa xa di, chặt thành 1080 đoạn, mỗi đoạn 2 đầu thoa sữa ngưu tô thuần chất và sữa ngưu tô hòa với bạch mật, cứ mỗi lần tụng chú lại đốt một đoạn. Nên nhớ trong một ngày đêm chia ra ba thời, mỗi thời tụng chú và đốt 1080 đoạn. Thật hành đúng 7 ngày, chú sư sẽ được trí huệ thông ngộ. 


PHỤ CHÚ .- 

Mỗi thời tụng 1080 biến tất là người tụng quá nhuần, và có định tâm nhiều. 



Nếu muốn hàng phục đại lực quỷ thần, dùng củi cây A rị sắc ca, thoa sữa tô lạc và mật vào, đem trước tượng Đại Bi gia trì, chú 49 biến, rồi đốt trong lửa.


PHỤ CHÚ .- 

A rị sắc ca dịch là Mộc hoạn tử, cũng gọi là vô hoạn tử, một thứ cây có năng lực trừ tà, hạt của trái cây này có thể xỏ làm hạt chuỗi. 



Nếu lấy một lượng Hồ Lô giá na, đem đựng trong bình lưu ly, để trước tượng Đại Bi tụng chú 108 biến, rồi dùng thuốc ấy thoa trên trán và nơi thân, thì tất cả Thiên, Long, Quỷ Thần, người cùng loài phi nhơn trông thấy đều hoan hỉ. 


PHỤ CHÚ .- 

Hồ lô giá na là vị Ngưu Hoàng. 



Nếu thân bị xiềng xích, dùng phẩn của con bồ câu trắng, gia trì chú 108 biến, tụng xong đem thoa vào tay chà lên gông xiềng, gông xiềng sẽ tự sút. 

Nếu vợ chồng bất hòa, trạng như nước lửa, dùng lông đuôi chim oan ương, đem trước tượng Đại Bi tụng chú 1.080 biến rồi đeo trong mình, tất vợ chồng trọn đời vui hòa, thương yêu nhau. 

Nếu lúa mạ hoặc các thứ cây trái bị sâu bọ cắn, dùng tro và cát sạch hòa với nước trong, gia trì 21 biến chú, rảy trên cây, trên mạ cùng bốn bên bờ ruộng, thì sâu bọ không dám phá hại. 


THIÊN-THỦ THIÊN-NHÃN PHÁP-BỬU

CHƠN-NGÔN-ĐỒ



Đức Phật lại bảo ngài A Nan: - Quán Thế Âm Tự Tại Bồ Tát có ngàn mắt ngàn tay, mỗi tay đều tiêu biểu cho hạnh tùy thuận các sự mong cầu của chúng sanh. Đó cũng là do tâm Đại Bi của vị Đại Sĩ ấy hóa hiện. 



PHỤ CHÚ .- Những chân-ngôn sau đây, chỗ có 2 vạch ngang (--) là chữ đọc kéo hơi dài ra, chữ có 1 vạch ngang (-) là hai chữ đọc hiệp lại làm một. Muốn cầu điều gì, đọc chân-ngôn theo điều ấy. 

 


42 Thủ Nhãn Ấn-Pháp




Như-Ý-Châu Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Nhứt

Ma Ra Ma Ra [25]

Án-- phạ nhựt ra, phạ đa ra, hồng phấn tra.



Kinh nói rằng: “Nếu Chúng-sanh nào muốn được giàu lớn, có nhiều thứ châu báu đồ dùng, nên cầu nơi Tay cầm Châu-Như-Ý.”

 

Thần-chú rằng:  Ma Ra Ma Ra [25]


Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt ra, phạ đa ra, hồng phấn tra.



Kệ tụng :


Thanh hương bảo đỉnh hóa tam thiên 

Như ý kim ngao du cửu uyên 

Thiện Tài Long Nữ tiếu huyên huyên 

Phật giáo diệu pháp nhữ yếu tham.

 



Quyến-Sách Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Hai

Ma Ra Na Ra [62]

Án-- chỉ rị lã ra, mô nại ra, hồng phấn tra.



Kinh nói rằng: “Nếu bị các việc khuấy rối, muốn được an ổn, nên cầu nơi Tay cầm dây Quyến-Sách.”

 

Thần-chú rằng: Ma Ra Na Ra [62]

 

Chơn-ngôn rằng: Án-- chỉ rị lã ra, mô nại ra, hồng phấn tra.



Kệ tụng :


Quyến sách thủ thị khổn ma thằng

Bàng môn quỉ quái nan độn hình

Câu lưu pháp bảo đa biến hóa

Trừ tà phù chánh bí văn linh.







Bảo-Bát Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba

Hô Lô Hô Lô Hê Lỵ [42]

Án-- chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra, hồng phấn tra.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn trị các thứ bịnh trong bụng, nên cầu nơi Tay cầm Bát-Báu.

 

Thần-chú rằng: Hô Lô Hô Lô Hê Lỵ [42] 


Chơn-ngôn rằng: Án-- chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra, hồng phấn tra.

 


Kệ tụng :


Bát vạn tứ thiên bệnh ma triền

Bảo bát cam lộ khả ly thuyên

Bồ đề tát đỏa tự tại quán

Từ bi phổ độ hóa hữu duyên.



Bảo-Kiếm Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Tư

Địa Rị Sắt Ni Na [50]

Án-- đế thế đế nhá, đổ vỉ nảnh,
                 đổ đề bà đà dã, hồng phấn tra.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn hàng phục tất cả quỷ, thần, vọng, lượng, nên cầu nơi Tay cầm Kiếm-Báu.”


Thần-chú rằng: Địa Rị Sắt Ni Na [50]


Chơn-ngôn rằng: Án-- đế thế đế nhá, đổ vỉ nảnh,
                                   đổ đề bà đà dã, hồng phấn tra.


Kệ tụng :


Bảo kiếm phi quang thấu tam tam

Ly Mỵ Vọng Lượng các tuân tuyên

Pháp giới yêu khí tòng tư tức

Hoằng dương chánh giáo độ càn khôn.



 


Bạt-Chiết-La Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Năm

Giả Kiết Ra A Tất Đà Dạ [68]

Án-- nể bệ nể bệ, nể bà dã, ma ha thất rị duệ, tát-phạ hạ.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn hàng phục tất cả thiên-ma và thần, nên cầu nơi Tay cầm cây Bạt-Chiết-La.”



Thần-chú rằng: Giả Kiết Ra A Tất Đà Dạ [68]


Chơn-ngôn rằng:  Án-- nể bệ nể bệ, nể bà dã, ma ha thất rị duệ, tát-phạ hạ.



Kệ tụng:


Pháp lôi cao kình cảnh ngoan minh

Pháp cổ phủ xao chấn quý lung

Pháp vân phổ âm lợi vạn vật

Pháp vũ biến sái nhuận quần sinh.




Kim-Cang-Xử Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Sáu

Ta Ra Ta Ra [43]
Án-- phạ nhựt-ra chỉ-nảnh, bát-ra nể bát đa dã, tát-phạ hạ.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn hàng phục tất cả oán tặc, nên cầu nơi Tay cầm Chày Kim-Cang.”


Thần-chú rằng: Ta Ra Ta Ra [43]

Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt-ra chỉ-nảnh, bát-ra nể bát đa dã, tát-phạ hạ.



Kệ tụng:

Hàng phục oán ma kinh quỉ thần

Vũ trụ cát tường chánh khí tồn

Hộ pháp vệ giáo công huân phổ

Tăng già hợp hòa đạo dịch hưng.







Thí Vô Úy Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Bảy


Na Ra Cẩn Trì Bàn Đà Ra Dạ [72]
Án-- phạ nhựt-ra nẳng dã, hồng phấn tra.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn trừ TÁNH ở tất cả chỗ sợ hãi không yên, nên cầu nơi Tay Thí-Vô-Úy.”


Thần-chú rằng: Na Ra Cẩn Trì Bàn Đà Ra Dạ  [72] 

Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt-ra nẳng dã, hồng phấn tra.



Kệ tụng:



Thu tận thiên ma pháp bảo kỳ

Nghiệp chướng tiêu trừ thú Bồ đề

Vạn bệnh hồi xuân tăng phước  thọ

Thí vô úy thủ độ quần mê.



Nhật-Tinh-Ma-Ni Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Tám

Thất Phật Ra Da [32]

Án-- độ tỉ, ca giả độ tỉ, bát ra phạ rị nảnh, tát-phạ hạ.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn trị bịnh mắt mờ không thấy ánh sáng, nên cầu nơi Tay cầm châu Nhựt-Tinh-Ma-Ni.”

 

Thần-chú rằng: Thất Phật Ra Da [32] 

Chơn-ngôn rằng: Án-- độ tỉ, ca giả độ tỉ, bát ra phạ rị nảnh, tát-phạ hạ.



Kệ tụng:


Tâm địa quang minh chiếu thế gian

Lục căn thanh tịnh hỗ dụng huyền

Ngu si chuyển thành chân trí huệ

Hắc ám biến tác cự hỏa diệm.

 



Nguyệt-Tinh Ma-Ni Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Chín


Độ Lô Độ Lô [28]

Án-- tô tất địa yết rị, tát-phạ hạ.


Kinh nói rằng: “Nếu bị bịnh nhiệt độc, muốn được mát mẻ hết bịnh, nên cầu nơi Tay cầm châu Nguyệt-Tinh Ma-Ni.
                 


Thần-chú rằng: Độ Lô Độ Lô [28]

Chơn-ngôn rằng: Án-- tô tất địa yết-rị, tát-phạ hạ.



Kệ tụng:



Nhiệt độc vi hoạn nhật tương tiễn

Triền miên sàng đệ bội thương thảm

Nguyệt tinh ma ni thanh lương tán

Tiêu tai diên thọ lợi kiền khôn.



Bảo-Cung Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười


Phạt Sa Phạt Sâm [39]
Án-- a tả vĩ, lệ, tát-phạ hạ.


Kinh nói rằng: “Nếu muốn được làm quan, lên chức, nên cầu nơi Tay cầm Cung-Báu.”



Thần-chú rằng: Phạt Sa Phạt Sâm[39]

Chơn-ngôn rằng: Án-- a tả vĩ, lệ, tát-phạ hạ.



Kệ tụng:

Tướng quân anh dũng mạnh vô địch

Bảo cung tại thủ xạ gian di

Khải toàn cao xướng vinh quan bổng

Ích chức gia thăng lạc hữu dư.





Bảo-Tiễn Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Một


Ba Dạ Ma Na [51]
Án-- ca mạ lã, tát-phạ hạ.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn được mau gặp các bạn lành, nên cầu nơi Tay cầm Tên-Báu.”



Thần-chú rằng: Ba Dạ Ma Na [51]


Chơn-ngôn rằng: Án-- ca mạ lã, tát-phạ hạ.




Kệ tụng:


Tiễn xạ cường địch đảm lạc hàn

Khắc thù chí thắng thao tả khoán

Nhân Quý tướng quân bình liễu loạn

Khải ca cao xướng lạc quần thiên.




Dương-Chi Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Hai


Mục Ðế Lệ [35]

Án-- Tô tất địa, ca rị phạ rị, đa nẩm đa,
                              mục đa duệ, phạ nhựt ra, phạ nhựt ra bạn đà,
        hạ nẳng hạ nẳng, hồng phấn tra.


Kinh nói rằng: “Nếu muốn trị các thứ bịnh trên thân, nên cầu nơi Tay cầm cành
                      Dương-Liễu.”


Thần-chú rằng: Mục Ðế Lệ [35]

Chơn-ngôn rằng: Án-- Tô tất địa, ca rị phạ rị, đa nẩm đa,
                                    mục đa duệ, phạ nhựt ra, phạ nhựt ra bạn đà,
                                    hạ nẳng hạ nẳng, hồng phấn tra.




Kệ tụng:


Dương chi thủ nhãn độ quần manh

Phiền nhiệt bệnh khổ đắc thanh lương

Khô mộc phùng xuân trọng mậu thịnh

Tử nhi bất vong thọ vĩnh xương.






Bạch-Phất Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Ba


Mạ Mạ [34]


Án-- bát na di nảnh, bà nga phạ đế,
                               mô hạ dã nhá, nga mô hạ nảnh, tát-phạ hạ.




Kinh nói rằng: “Nếu muốn trừ những chướng nạn ác bên thân, nên cầu nơi Tay cầm cây        
                         Phất-Trần.”         
                     


Thần-chú rằng: Mạ Mạ [34]

Chơn-ngôn rằng: Án-- bát na di nảnh, bà nga phạ đế, mô hạ dã nhá,
                                 nga mô hạ nảnh, tát-phạ hạ.



Kệ tụng:

Túc thế sát nghiệp trọng như sơn

Dục tu thánh đạo chướng vô biên

Hạnh hữu đại bi bạch phất thủ

Khinh tảo số số chúng nan quyên








Hồ-Bình Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Bốn


Na Ra Cẩn Trì [49]


Án-- yết lệ, thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn tất cả người trong quyến-thuộc được hòa thuận nhau, nên   
                      cầu  nơi Tay cầm cái Hồ-Bình.”


Thần-chú rằng: Na Ra Cẩn Trì [49]

Chân-ngôn rằng: Án-- yết lệ, thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.




Kệ tụng:

Hồ-bình cam lộ nhuận quần manh

Cô mộc phùng xuân mậu hựu xương

Vạn bệnh kham trừ hiển đại dụng

Sinh sinh hóa hóa diệu vô phương.







Bàng-Bài Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Lăm


Phạt Xà Da Ðế [28]

Án-- dược các sam nẳng, na dã chiến nại-ra,
               đạt nậu bá rị-dã, bạt xá bạt xá, tát-phạ hạ.




Kinh nói rằng: “Nếu muốn xua đuổi loài hổ báo, sài lang và tất cả ác thú, nên cầu nơi
                      Tay cầm cái Bàng-Bài.”



Thần-chú rằng: Phạt Xà Da Ðế [28]

Chơn-ngôn rằng: Án-- dược các sam nẵng, na dã chiến nại-ra,
                                   đạt nậu bá rị-dã, bạt xá bạt xá, tát-phạ hạ.



Kệ tụng:

Sài lang hổ báo mạnh hựu hung

Sư tử hùng bi cánh tranh nanh

Bàng bài cao cử giai hồi tỵ

Tuy phùng hiểm lộ diệc khang bình.






 Phủ-Việt Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Sáu



Tất Ra Tăng A Mục Khê Da [64]
Án-- vị ra dã, vị ra dã, tát-phạ hạ.




Kinh nói rằng: “Nếu muốn trong tất cả thời, tất cả chỗ, lìa nạn quan quân vời bắt, nên
                      cầu nơi Tay cầm cây Phủ-Việt.”


Thần-chú rằng: Tất Ra Tăng A Mục Khê Da [64]

Chơn-ngôn rằng: Án-- vị ra dã, vị ra dã, tát-phạ hạ.



Kệ tụng:


Nghiêm hình bức cung khấp quỉ thần

Hàm oan linh ngữ lý nan thân

Nhược dục thoát ly luy tiết khổ

Thả tu phủ việt thủ an thân






Ngọc-Hoàn Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Bảy


Hô Lô Hô Lô Ma Ra [41]
Án-- bát na hàm vị ra dã, tát-phạ hạ.




Kinh nói rằng: “Nếu muốn có tôi trai tớ gái để sai khiến, nên cầu nơi Tay cầm chiếc
                       Vòng-Ngọc.”


Thần-chú rằng: Hô Lô Hô Lô Ma Ra [41]

Chơn-ngôn rằng: Án-- bát na hàm vị ra dã, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:


Kinh thiên động địa dịch quỉ thần

Hô phong hoán vũ đàm tiếu trung

Nam cung nữ kính đồng lễ bái

Tân chủ hòa hợp đạo đại hưng.





Bạch-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Tám


Kiết Mông [27]

Án-- phạ nhựt-ra, vị ra dã, tát-phạ hạ.




Kinh nói rằng: “Nếu muốn được các thứ công đức, nên cầu nơi Tay cầm
                      Hoa-Sen-Trắng.”


Thần-chú rằng: Kiết Mông [27]

Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt-ra, vị ra dã, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:


Bạch sắc bạch quang bạch liên hoa

Thiện công mỹ đức đại vô nhai

Ư thử thủ nhãn cần tu tập

Hà sầu bất chí pháp vương gia.





Thanh-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Chín


Rị Ðà Dựng [26]

Án-- chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra,
                bộ ra bạn đà, hồng phấn tra.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn được sanh về mười phương tịnh-độ, nên cầu nơi Tay cầm  
                        Hoa-Sen-Xanh.”


Thần-chú rằng: Rị Ðà Dựng [26]

Chơn-ngôn rằng: Án-- chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra, bộ ra bạn đà, hồng phấn tra.


Kệ tụng:


Niệm Phật niệm pháp niệm thánh tăng

Thập phương tịnh độ bảo liên đăng

Hoa khai Phật hiện viên giác quả

Nhậm vận lai vãng sát na trung.





Bảo-Kính Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Hai Mươi

Thất Na Thất Na [37]

Án-- vỉ tát phổ ra, na ra các xoa,
                              phạ nhựt-ra, mạn trà lả, hồng phấn tra.


Kinh nói rằng: “Nếu muốn được trí huệ lớn, nên cầu nơi Tay cầm cái Kính-Báu.”


Thần-chú rằng: Thất Na Thất Na [37]

Chơn-ngôn rằng: Án-- vĩ tát phổ ra, na ra các xoa,
                                   phạ nhựt-ra, mạn trà lả, hồng phấn tra.


Kệ tụng:

Đại viên kính trí cùng pháp nguyên

Chiếu yêu kính lý tróc quái tiên

Diêm vương kính trung ác nghiệp hiện

Pháp bảo kính thủ chủng trí viên





Tử-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Hai Mươi Mốt

Phật Ra Xá Da [40]
Án-- tát ra tát ra, phạ nhựt-ra ca ra, hồng phấn tra.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn được diện kiến 10 phương tất cả chư Phật, nên cầu nơi Tay
                      cầm Hoa-Sen-Tím.”


Thần-chú rằng: Phật Ra Xá Da [40]

Chơn-ngôn rằng: Án-- tát ra tát ra, phạ nhựt-ra ca ra, hồng phấn tra.




Kệ tụng:

Vi diệu nan tư tử liên hoa

Bồ đề tốc chứng giải thoát pháp

Diện kiến thập phương Phật-đà-da

Tùng kim bất lạc lục đạo gia.





Bảo-Khiếp Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Hai Mươi Hai

Tất Đà Dủ Nghệ [57]
Thất Bàn Ra Dạ [58]

Án-- phạ nhựt-ra, bá thiết ca rị,
  yết nẳng hàm, ra hồng.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn lấy được kho báu ẩn trong lòng đất, nên cầu nơi Tay cầm cái
                      Bảo-Kiếp.”

Thần-chú rằng: Tất Ðà Dủ Nghệ [57]
                        Thất Bàn Ra Dạ [58]

Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt-ra, bá thiết ca rị,
                                   yết nẳng hàm, ra hồng.


Kệ tụng:


Thiên thượng chúng bảo diệu nghiêm trang

Địa trung phục tạng hóa ngu manh

Hải lý long cung kỳ trân hiện

Bảo khiếp thủ nhãn phóng hào quang.






Ngũ-Sắc-Vân Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Hai Mươi Ba

Ma Hê Ma Hê [26]
Án-- phạ nhựt-ra, ca rị ra tra hàm tra.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn được đạo tiên, nên cầu nơi Tay cầm hóa hiện
                      Mây-Ngũ-Sắc.”


Thần-chú rằng: Ma Hê Ma Hê [26]

Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt-ra, ca rị ra tra hàm tra.


Kệ tụng:


Vị đạo cầu tiên nguyện trường sinh

Thọ dữ thiên tề bất giảm tăng

Toại tâm như ý thông biến hóa

Ngũ sắc tường vân túc hạ đăng.






Quân-Trì Thủ Nhãn Ấn Pháp
 Thứ Hai mươi Bốn

   
 Đà Ra Đà Ra [30]
 
 Án-- phạ nhựt-ra, thế khê rô, tra hàm tra.




Kinh nói rằng: “Nếu muốn sanh lên cõi Phạm-Thiên, nên cầu nơi Tay cầm bình
                      Quân-Trì.”


Thần-chú rằng: Đà Ra Đà Ra [30]

Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt-ra, thế khê rô, tra hàm tra.



Kệ tụng:


Thanh tịnh vô nhiễm Đại Phạm Thiên

Thọ thắng diệu lạc phúc báo toàn

Đản năng trì thử quân trì thủ

Thân thân sinh bỉ thọ như sơn.






Hồng-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Hai Mươi Lăm



Bà Đà Ma Yết Tất Đà Dạ [70]
  
Án-- thương yết lệ, tát-phạ hạ.




Kinh nói rằng: “Nếu muốn được sanh lên các cung trời, nên cầu nơi Tay cầm
                       Hoa-Sen-Hồng.”

Thần-chú rằng: Bà Đà Ma Yết Tất Đà Dạ [70]
Chơn-ngôn rằng: Án-- thương yết lệ, tát-phạ hạ.

Kệ tụng:

Chư thiên khoái lạc thắng nhơn gian

Phát nguyện vãng sanh đa trở nan

Đản tự thủ trì hồng liên hoa

Đàn chỉ vãng sanh phi đẳng gián.




Bảo-Kích Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Hai Mươi Sáu


Ma Ha Phạt Xà Da Đế [29] 

Án-- thẳm muội dã, chỉ nảnh hạ rị,

 hồng phấn tra.



 Kinh nói rằng: “Nếu muốn xua đuổi giặc nghịch ở phương khác đến, nên cầu nơi Tay

                       cầm cây Bảo-Kích.”

 

Thần-chú rằng: Ma Ha Phạt Xà Da Đế [29]

Chơn-ngôn rằng: Án-- thẳm muội dã, chỉ nảnh hạ rị,

                                    hồng phấn tra.

 

 

Kệ tụng:

 

Nhân Quý chinh liêu dũng vô địch

Nê hà cứu giá lập công kỳ

Cao ly đầu hàng triều thánh đế

Tha phương nghịch tặc tuyệt tông tích.




Bảo-Loa Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Hai Mươi Bảy

Cu-Lô Cu-Lô [27]

Án-- thương yết-lệ,
                                            mạ hạ thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.


Kinh nói rằng: “Nếu muốn triệu tất cả chư thiên, thiện-thần nên cầu nơi Tay cầm ống                              Loa-Báu.”

        
Thần-chú rằng: Cu-lô Cu-lô [27]

Chơn-ngôn rằng: Án-- thương yết-lệ,

                                   mạ hạ thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:

Pháp âm hưởng triệt chấn chư thiên

Nhất thiết thiện thần y triệu lệnh

Tứ phương kết giới thiên biến hóa

Long vương hộ vệ tại hậu tiền.







  Độc-Lâu-Trượng Thủ Nhãn Ấn Pháp
    Thứ Hai Mươi Tám

   

Y Hê Di Hê [36]

   Án-- độ nẳng, phạ nhựt-ra xá.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn sai khiến tất cả quỷ-thần, nên cầu nơi Tay cầm cây
                      Gậy- Đầu-Lâu.”



Thần-chú rằng: Y Hê Di Hê [36]

Chơn-ngôn rằng: Án-- độ nẳng, phạ nhựt-ra .



Kệ tụng:

Bạch cốt hoàn giao thổ vị mai

Hành nhân tu pháp thiết cung đài

Luyện thành quỷ-thần tuân hiệu lệnh

Độc lâu trượng thủ bi nguyện hoài.






Sổ-Châu Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Hai Mươi Chín

Phật Ra Xá-Lợi [38]

Nẳng mồ-- ra đát-nẳng,
                   đát ra dạ dã. 

                                       Án-- a na bà đế vĩ nhá duệ,
                                                 tất địa tất đà lật thế,
                                                                                      tát-phạ hạ.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn 10 phương chư Phật sớm đến đưa tay tiếp dẫn, nên cầu nơi
                      Tay cầm xâu Chuỗi-Ngọc.”

Thần-chú rằng: Phật Ra Xá-Lợi [38]

Chơn-ngôn rằng: Nẳng mồ-- ra đát-nẳng,
                                              đát ra dạ dã.

                                              Án-- a na bà đế vĩ nhá duệ,
                                                       tất địa tất đà lật thế, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:

Niệm tư tại tư vọng quy chơn
Thập phương chư Phật thọ thủ thân
Tốc chứng tam bối phẩm tư địa
Ma ha diệu pháp thắng linh văn.


 




 Bảo-Đạc Thủ Nhãn Ấn Pháp
  Thứ Ba Mươi


Dá Ra Dá Ra [33]

Nẳng mồ-- bát ra hàm bá noa duệ.
                                                    Án-- a mật lật đảm, nghiểm bệ thất rị duệ,
                                                     thất rị chiếm rị nảnh, tát-phạ hạ.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn có được tất cả Phạm-âm-thanh tốt nhiệm mầu, nên cầu nơi
                      Tay cầm chiếc Linh-Báu.”

Thần-chú rằng: Dá Ra Dá Ra [33]

Chơn-ngôn rằng: Nẳng mồ-- bát ra hàm bá noa duệ.
                                              Án-- a mật lật đảm, nghiểm bệ thất rị duệ,
                                                       thất rị chiếm rị nảnh, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:

Phạm âm liệu lượng biến thái không
Khải lung chấn quý cảnh ngu mông
Huyền diệu biến hóa bảo đạc thủ
Văn thanh ly khổ giác hoa tông.





Bảo-Ấn Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Mốt

Tát Bà Tát Bà [24]
Án-- phạ-nhựt ra, nảnh đảm nhá duệ, tát-phạ hạ.


Kinh nói rằng: “Nếu muốn được miệng nói biện luận hay khéo, nên cầu nơi Tay cầm
                      chiếc Ấn-Báu.”


Thần-chú rằng: Tát Bà Tát Bà [24]

Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ-nhựt ra, nảnh đảm nhá duệ, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:

Khẩu nhược huyền hà biện tài hùng
Ngôn từ khảo diệu âm lượng hồng
Lý sự viên dung pháp tánh áo
Truyền Phật-tâm-ấn vạn thiện đồng.





Cu-Thi-Thiết-Câu Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Hai


Địa Rị Ni [31]
Án-- a rô rô, đa ra ca ra, vỉ sa duệ.
                                              Nẳng mồ-- tát-phạ hạ.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn được Thiên-thần, Long-vương thường đến ủng hộ, nên cầu
                      nơi Tay cầm Cu-Thi-Thiết-Câu.”


Thần-chú rằng: Địa Rị Ni [31]

Chơn-ngôn rằng: Án-- a rô rô, đa ra ca ra, vỉ sa duệ.
                                   Nẳng mồ-- tát-phạ hạ.


Kệ tụng:

Cấp Tu, Khoái Độ chư long vương
Quả Vãng, Pháp Đại các thiện tường
Quy y tam bảo hộ đạo trường
Hành trụ tọa ngọa vĩnh an khang.






Tích-Trượng Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Ba

Di Đế Rị Dạ [48]
Án-- na lật thế, na lật thế,
                                             na lật tra bát để, na lật đế  na dạ bát nảnh,
                                                                                hồng phấn tra.


Kinh nói rằng: “Nếu vì lòng Từ-bi muốn cho tất cả Chúng-sanh được nh sự che chở
                        giúp đỡ, nên cầu nơi Tay cầm cây Tích-Trượng.”



Thần-chú rằng: Di Đế Rị Dạ [48]

Chơn-ngôn rằng: Án-- na lật thế, na lật thế,
                                   na lật tra bát để, na lật đế  na dạ bát nảnh,
                                   hồng phấn tra.


Kệ tụng:

Đại từ đại bi cứu quần sinh
Đại hỷ đại xả ích hàm manh
Đại nguyện đại nhân bồ tát đạo
Đại hùng đại lực Phật quả thành.





Hiệp-Chưởng Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Bốn


Tất Rị Tất Rị [44]
Án --bát nạp mạng, nhá lăng hất rị.


Kinh nói rằng: “Nếu muốn cho tất cả chúng sanh thường cung kính yêu mến nhau, nên
                       cầu nơi Tay Hiệp-Chưởng.”


Thần-chú rằng: Tất Rị Tất Rị [44]
Chơn-ngôn rằng: Án-- bát nạp mạng nhá lăng, hất rị.

(Theo trong tạng-bản, lại có chơn-ngôn: Án-- vỉ tát ra, vỉ tát ra, hồng phấn tra.)



Kệ tụng:

Nhất tâm cung kính thiên trung thiên
Chúng sinh ái niệm các chân hư
Chủng nhân kết quả cầu chư kỷ
Lễ thượng vãng lai đạo bất thiên.




Chưởng-Thượng Hóa-Phật Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Lăm


A Ra Sâm [38]

Án-- chiến na ra, ba hàm tra rị,
                                                 ca rị na, chỉ rị na, chỉ rị nỉ, hồng phấn tra.


Kinh nói rằng: “Nếu muốn tùy theo chỗ sanh, thường ở bên Phật, nên cầu nơi Tay hiện
                      Hóa-Phật.”


Thần-chú rằng: A Ra Sâm [38]

Chơn-ngôn rằng: Án-- chiến na ra, ba hàm tra rị,
                                   ca rị na, chỉ rị na, chỉ rị nỉ, hồng phấn tra.

Kệ tụng:

Túc thực đức bản chủng thắng nhân
Chư Phật Bồ tát quyến thuộc thân
Giác hải trừng thanh tâm nguyệt hiện
Đại viên kính trí cổ kim minh.





Hóa-Cung-Điện Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Sáu

Phạt Ma Ra [34]
Án-- vi tát ra, vi tát ra, hồng phấn tra.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn đời đời kiếp kiếp thường ở trong cung điện Phật, không thọ
                      sanh ở bào thai, nên cầu nơi Tay hiện Hóa-Cung-Điện.”

Thần-chú rằng: Phạt Ma Ra [34]
Chơn-ngôn rằng: Án-- vi tát ra, vi tát ra, hồng phấn tra.


Kệ tụng:

Thế thế sinh sinh pháp vương gia
Cung điện lâu các diệu liên hoa
Bất thọ thai tạng thân thanh tịnh
Tín giải hành chứng ma ha tát.




Bảo-Kinh Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Bảy



Tất Đà Dạ. Ta Bà Ha.
                                    Ma Ha Tất Đà Dạ. Ta Bà Ha. [53-56]



Án-- a hạ ra, tát ra phạ ni,
                              nể dã đà ra, bố nể đế, tát-phạ hạ.

Kinh nói rằng: “Nếu muốn được học rộng nghe nhiều, nên cầu nơi Tay cầm quyển
                      Kinh-báu.”



Thần-chú rằng: Tất Đà Dạ. Ta Bà Ha.
                       Ma Ha Tất Đà Dạ. Ta Bà Ha [53-56]

Chơn-ngôn rằng: Án-- a hạ ra, tát ra phạ ni,
                                    nể dã đà ra, bố nể đế, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:

Đa văn đệ nhất thuộc A Nan
Quảng học thiện ký Khổng Nhan Uyên
Độc tụng đại thừa thâm bát nhã
Trí huệ thao thao như dũng tuyền.





Bất-Thối Kim-Luân Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Tám


Bồ-Đề Dạ [46]
Án-- thiết na di tả, tát-phạ hạ.


Kinh nói rằng: “Nếu muốn từ thân này cho đến thân thành Phật, Tâm-bồ-đề thường       
                      không lui sụt, nên cầu nơi Tay cầm Bất-Thối-Kim-Luân.”


Thần-chú rằng: Bồ-Đề Dạ [46]

Chơn-ngôn rằng: Án-- thiết na di tả, tát-phạ hạ.



Kệ tụng:


Thô tà hộ chánh kim cang luân
Ly mỵ vọng lượng câu độn hình
Bồ đề đạo tâm thường bất thoái
Kim thân nãi chí thành Phật thân





Đảnh-Thượng-Hóa-Phật Thủ Nhãn ấn pháp
Thứ Ba Mươi Chín

Bồ-Ðà Dạ [47]

                                             Án-- phạ nhựt-rị ni,
                         phạ nhựt-lảm nghệ, tát-phạ hạ.

Kinh nói rằng: “Nếu muốn 10 phương chư Phật mau đến xoa đầu Thọ-ký, nên cầu nơi
                        Tay Đảnh-Thượng-Hóa-Phật.”

Thần-chú rằng: Bồ-Ðà Dạ [47]

Chân-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt-rị ni, phạ nhựt-lảm nghệ, tát-phạ hạ.
  

Kệ tụng:


Hóa Phật đảnh thượng pháp tối kỳ
Phổ cứu quần sinh xuất hãm ni
Công viên quả mãn siêu tam giới
Tức hoạch giác giả thọ thánh ký.





Bồ-Đào Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Bốn Mươi

A Tất Đà Dạ [66]
Án-- A-ma lã kiếm đế nể nảnh, tát-phạ hạ.


Kinh nói rằng: “Nếu muốn có được cây trái ngũ cốc, nên cầu nơi Tay cầm chùm
                      Bồ-Đào.”


Thần-chú rằng: A Tất Ðà Dạ [66]

Chơn-ngôn rằng: Án-- A-ma lã kiếm đế nể nảnh, Tát-phạ hạ.


Kệ tụng :


Viên phố quả qua đào lý tân
Hướng vinh chi diệp thậm tiên minh
Ngũ cốc phong thu thương doanh túc
Bách ban như ý khánh thăng bình.




Cam-Lộ Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Bốn Mươi Mốt


Tô Rô Tô Rô [45]

                                    Án-- Tố rô tố rô, Bác-ra tố rô, Bác-ra tố rô,
tố rô tố rô dã, Tát-phạ hạ.


Kinh nói rằng: “Nếu muốn cho tất cả loài hữu tình đói khát được no đủ mát mẻ, nên
                        cầu nơi Tay hóa nước Cam-Lộ.”


Thần-chú rằng:  Tô Rô Tô Rô [45]

Chân-ngôn rằng:  Án-- tố rô tố rô, bác-ra tố rô,
                            bác-ra tố rô, tố rô tố rô dã, tát-phạ hạ.


( Có bản thiếu 2 chữ “TỐ RÔ” )

Kệ tụng:

Cơ khát hữu tình vọng thanh lương
Khô mộc trùng sinh phóng dị quang
Phổ khánh từ bi sâm tạo hóa
Cam lộ thiên lệ tế thập phương.






Tổng-Nhiếp-Thiên Tý Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Bốn Mươi Hai


Ma Bà Lỵ Thắng Yết Ra Dạ [74]


Đát nể dã thá, phạ lồ chỉ đế, thấp phạ ra dã,
tát bà đốt sắc, tra ô hạ di dả, Sá-phạ hạ.


Kinh nói rằng: “Nếu muốn hàng phục ma oán trong cõi Đại-thiên, nên cầu nơi Tay
                      Tổng-Nhiếp-Thiên-Tý-Thủ.”

Thần-chú rằng: Ma Bà Lỵ Thắng Yết Ra Dạ [74]

Chơn-ngôn rằng: Đát nể dã thá, phạ lồ chỉ đế, thấp phạ ra dã,
                           tát bà đốt sắc, tra ô hạ di dả, Sá-phạ hạ.


Có bản Việt-văn thiếu 4 chữ tát bà đốt sắc, còn bản Anh-văn thì có thêm chữ Án-- (Nan.)  


Kệ tụng :

Thủ nhãn biến thân diệu vô biên
Hàng phục chúng ma trấn tam thiên
Khảo tà quy chánh tu thiện pháp
Ma ha bát nhã nan ngôn tuyên.


- Này A Nan! Những việc có thể mong cầu như thế, kể có ngàn điều. Nay ta chỉ nói lược qua chút ít phần thôi. 



Khi ấy Nhựt Quang Bồ Tát vì người thọ trì Đại Bi Tâm đà ra ni nói đại thần chú để ủng hộ rằng: 


Nhựt-Quang Bồ-tát Đà-ra-ni



Nam mô Bột-đà cù na mê. Nam mô Đạt-mạ mạc ha đê. Nam mô Tăng-già đa dạ nê.

Đ chỉ bộ tất tát đốt chiêm nạp mạ. 




Nhựt Quang Bồ Tát bạch Phật: 

- Bạch đức Thế Tôn! Tụng chú này diệt được tất cả tội, cũng đuổi được ma và trừ thiên tai. Nếu kẻ nào tụng chú này một biến, lễ Phật một lạy, mỗi ngày chia ra làm 3 thời tụng chú lễ Phật như thế, trong đời vị lai tùy theo chỗ thọ thân, thường được tướng mạo xinh đẹp, được quả báo đáng vui mừng. 

Nguyệt Quang Bồ Tát cũng vì hành nhơn mà nói đà ra ni để ủng hộ rằng: 


Nguyệt-Quang Bồ-tát Đà-ra-ni

 

Thâm đê đế đồ tô tra. A nhã mật đế ô đô tra. Thâm kỳ tra. Ba lại đế. Gia di nhã tra ô đô tra. Câu la đế tra kỳ ma tra. Sá-phạ hạ. 



Nguyệt Quang Bồ Tát lại bạch Phật: 

- Bạch đức Thế Tôn! Tụng chú này 5 biến, rồi lấy chỉ ngũ sắc xe thành sợi niệt, gia trì chú vào, buộc tréo nơi tay, chú này do 40 hằng sa chư Phật đời quá khứ đã nói ra, nay tôi cũng nói để vì các hành nhơn mà làm duyên ủng hộ. Chú này có công năng trừ tất cả chướng nạn, tất cả bịnh ác, xa lìa tất cả sự sợ hãi. 

Đức Phật bảo ngài A Nan: 

- Ông nên dùng lòng trong sạch tin sâu mà thọ trì môn Đại Bi tâm đà ra ni này và lưu bố rộng ra trong cõi Diêm Phù Đề, chớ cho đoạn tuyệt. Đà ra ni này có thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh trong 3 cõi. Tất cả bịnh khổ ràng buộc nơi thân, nếu dùng đà ra ni này mà trị thì không bịnh nào chẳng lành, dùng đại thần chú này tụng vào cây khô, cây ấy còn được sanh cành lá, trổ bông, trái, huống chi là chúng sanh có tình thức ư? Nếu thân bị đại bịnh, dùng chú này mà trị không lành, lẽ ấy không bao giờ có. 

Này thiện nam tử! Sức oai thần của Đại Bi tâm đà ra ni không thể nghĩ bàn! Không thể nghĩ bàn! Khen ngợi không bao giờ hết được, nếu chẳng phải là kẻ từ thời quá khứ lâu xa đến nay đã gieo nhiều căn lành, thì dù cho cái tên gọi còn không được nghe, huống chi là được thấy! Nay đại chúng các ông, cả hàng trời, người longthần, nghe ta khen ngợi phải nên tùy hỉ. Nếu kẻ nào hủy báng thần chú này tức là hủy báng 99 ức hằng hà sa chư Phật kia. Nếu người nào đối với đà ra ni này sanh nghi không tin, nên biết kẻ ấy sẽ vĩnh viễn mất sự lợi ích lớn, trăm ngàn muôn kiếp không bao giờ nghe thấy Phật, Pháp, Tăng, thường chìm trong tam đồ không biết bao giờ mới được ra khỏi. 

Khi ấy, tất cả chúng hội, Bồ Tát Ma ha tát, Kim Cang mật tích, Phạm vương, Đế Thích, tứ đại thiên vương, thiên, long, quỷ thần, nghe đức Như Lai khen ngợi môn đà ra ni này xong, thảy đều vui mừng, y lời dạy mà tu hành 

 

KINH THIÊN-THỦ THIÊN-NHÃN

QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT QUẢNG-ÐẠI VIÊN-MÃN

VÔ-NGẠI ĐẠI-BI-TÂM ÐÀ-RA-NI


 CHUNG


PHẦN CHÚ THÍCH

 


(58) Ngũ vị tân: hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ (hai thứ sau nước ta không có). 

(59) Bạt chiết la (vajra): dịch là Kim Cang Xử, đây cũng là một loại chày Kim Cang. 

(60) Bình quân trì dịch là tháo bình, tịnh bình, tức là bình để rửa tay

 

Phần Đại-Bi

Trì-Nghiệm

 

Thanh Biện Luật sư, người xứ Tây Thiên Trúc, sức học uyên bác, rất thâm về vô tướng tông. Các ngoại đạo nghe danh, đến vấn nạn đều bị ngài dùng nghĩa không mà phá tất cả. Có một lần, luận sư gặp một nhà ngoại đạo nổi tiếng là giỏi, 2 bên tranh biện nhau hơn nửa ngày, ngoại đạo bị khuất lý mà vẫn cố chấp không chịu thua. Do đó, tự thân bỗng biến thành đá. Đến 6 tháng sau, nghe sấm nổ mớI phục nguyên lại thành người như trước.

Về sau, ngài xem bộ luận về Hữu Tướng Tông của Hộ Pháp Đại Sư, đem nghĩa học của mình đối chiếu vẫn không phá hoại được, mới than rằng: 'Nếu không phải đức Di Lặc ra đời, thì ai giải quyết được mối nghi ngờ của ta?' Nhân đó, ngài đến trước tượng Quán Tự Tại Bồ Tát, tụng chú Đại Bi tùy tâm đà ra ni 3 năm. Một đêm, đức Quán Thế Âm Bồ Tát, hiện sắc thân tốt đẹp đến hỏi: 'Ngươi tụng chú để mong cầu điều chi?' Luận sư đáp: 'Con nguyện lưu trụ thân đợi đến lúc Từ Thị Như Lai ra đờI để thưa hỏi về giáo nghĩa'. Bồ Tát nói: 'Thân người mong manh, cõi đời hư huyễn, sao không tu thắng hạnh cầu mong lên trời Đâu Suất, chẳng là mau gặp gỡ hơn ư?' Ngài thưa: 'Đức Di Lặc tuy hiện trụ nơi nội viện cung trời thứ tư, nhưng chưa thành Phật, vì thế con muốn đợi đến lúc ngài hiện thành chánh giác nơi cõi nhơn gian. Chí con đã quyết định, không thể lay chuyển'. Bồ tát bảo: 'Đã như thế, ngươi nên đi qua thành phía nam xứ Đại An Đạt La, thuộc về miền nam Thiên Trúc. Cách đó không xa, có một tòa sơn nham, chính là chỗ ở của thần Chấp Kim Cang. Sau khi đến nơi, ông nên đối trước sơn nham tụng chú Chấp Kim Cang Thần đà ra ni, sẽ được toại nguyện'. 

Luận sư vâng lời, đi đến nơi, hành trì như thế. 3 năm sau, thần hiện ra và hỏi: 'Ông cầu nguyện điều chi?' Đáp : Tôi vưng lời đức Quán Thế Âm Bồ Tát mách bảo, đến đây trì tụng, nguyện lưu thân này sống mãi đợI đến khi Phật Di Lặc ra đời, xin tôn thần cho tôi được thành tựu như ý muốn'. Chấp Kim Cang thần bảo: 'Trong sơn nham này có cung điện của thần A Tu La, ông nên gia trì chú Đại Bi trong hạt cải trắng, rồi liệng vào thì cửa đá sẽ mở. Sau khi ấy, ông nên đi thẳng vào trong, sẽ có phương tiện để cho ông trụ thân lâu dài mà chờ đợi'. Luận sư hỏi: '
  trong cung động, cách biệt ngoài trần, khi Phật ra đời làm sao tôi được biết?' Thần nói: 'Chừng ấy, tôi sẽ cho ông hay'. 

Ngài Thanh Biện lại y lời, tinh thành tụng chú trong hạt cải 3 năm, rồi liệng vào sơn nham, bỗng thấy vách đá mở ra, trong ấy hào quang chiếu sáng. Lúc bấy giờ, có rất đông đại chúng tề tựu đến xem, bàn bàn luận luận quên cả trở về. Luận sư tướng trạng an lành, buớc vào cửa đá, rồi day lại nói: 'Tôi nguyện cầu đã lâu, muốn trụ thân này chờ đức Từ Thị ra đời, nhờ sức thánh linh, bổn nguyện từ đây đã toại, vậy đại chúng nên theo tôi, để được ngày kia thấy Phật nghe pháp'. Trong chúng nghe nói sợ hãi, cho là hang loại độc long, đi vào chắc mất thân mạng. Luận sư đôi ba phen gọi bảo, chỉ có 6 ngườI chịu đi theo mà thôi. Ngài từ tạ rồi dẫn 6 ngườI thong thả đi vào trong, cửa đá liền khép lại. 

Lúc ấy đại chúng ở ngoài thấy vậy hết sức hối tiếc, trách mình đã nghĩ nói lỗi lầm. (trích Đường Tây Vực Ký) 

Ở nước Ma Già Đà xứ Tây Thiên Trúc, có một người phật tử tại gia, tánh ưa sắc đẹp. Một hôm, nhân xem kinh thấy nói hàng A Tu La, người nam tuy xấu, nhưng ngườIinữ lại xinh tốt tuyệt bậc, trong lòng sanh niệm mến thích, ước làm sao cùng được kết mối lương duyên. Không bao lâu, lại nghe nhiều vị bảo trong núi nọ có cung điện A Tu La rất nguy nga tráng lệ, báu lạ như thiên cung, liền quyết tâm trì chú Đại Bi 3 năm, cầu mong được viếng cảnh mầu để thỏa lòng ước nguyện khi trước. 

3 năm đã mãn, ngườI ấy từ tạ thân hữu, và gọI một tên đệ tử cùng đi theo. Khi thầy trò đi đến trước núi, chí tâm tụng chú cầu nguyện, bổng cửa đá vụt mở, trong ấy lộ ra cung điện có quỷ thần canh giữ cực nghiêm. Vị phật tử liền bước đến nói rõ bổn nguyện của mình: trì chú muốn kết duyên cùng thần nữ A Tu La, xin nhờ thông báo, và thỉnh ý giùm. Kẻ giữ cửa vào thưa lại. A Tu La nữ nghe nói tỏ ý vui đẹp, hỏi: Đi đến có mấy ngườI? Đáp: Thưa hai người. Thần nữ bảo: Ngươi ra thuật lại ý ta đã thuận. Thỉnh ngườI trì chú mau vào, còn ông đồng bạn hãy tạm đứng ngoài cửa. Kẻ giữ cửa ra thưa lại, vị Phật tử liền đi vào trong. 

Nhìn theo thầy mình đi rồi, người đệ tử còn đang bàng hoàng, bất giác bỗng tự thấy đã trở về đứng ở phía nam của nhà mình hồi nào không hay. Từ ấy về sau, ông này đã mấy lần đến chỗ cũ, song chỉ thấy vách đá đứng sững. Mây khói mịt mù, không còn được nghe biết tin tức gì bên trong nữa. Nhân đó, người đệ tử phát tâm lìa nhà tu hành, nguyện trọn đời ở nơi già lam cúng dường ngôi Tam bảo. 

Khi ngài Huyền Trang sang Ấn Độ du học, đến trụ ở chùa Na Lan Đà, nghe chính ngườI đệ tử này thuật chuyện lại (trích Tây Quốc Chí). 

Đời nhà Tống, Huệ Tài pháp sư, ngườI huyện Lạc Thanh, đất Vĩnh Gia, xuất gia hồi thuở còn bé, sau khi thọ đại giới, ngài đi tham học nhiều nơi mà không thông hiểu. Tự hận mình nghiệp chướng sâu dày, pháp sư thường tụng chú Đại Bi cầu cho được trí huệ. Hành trì đã lâu, bỗng một đêm ngài nằm mộng thấy một vị phạm tăng cao vài trượng, cởi áo ca sa đắp lên mình. Sau khi thức dậy, pháp sư thấy tâm trí tỏ sáng, những kinh nghĩa đã nghe từ trước đến giờ, một lúc đều nhớ rõ ràng thông suốt. 

Về sau, ngài tham yết Từ Vân Sám chủ, hằng theo phục dịch gần bên, chỗ giải ngộ càng thêm sâu sắc. Niên hiệu Trị Bình năm đầu, ngài trụ ở Pháp Huệ bảo các, được vua tứ hiệu Quảng Từ. Không bao lâu, pháp sư lại thối cư về ở bên tháp Lôi Phong, tinh tu về môn Tịnh Độ. Ngài thường đứng co một chân trì chú Đại Bi 108 biến, lấy đó làm thường khóa. Lại đứng dở chân 1 ngày 1 đêm niệm thánh hiệu Di Đà. Một đêm, pháp sư mộng thấy mình đến chỗ cảnh giớI sáng suốt, nhiều cung điện lâu các trang nghiêm, có người bảo: 'Tịnh độ trung phẩm là nơi thác sanh của ông'. 

Mùa xuân niên hiệu Nguyên Phong năm đầu, ngài vì hàng đạo tục ngàn người, truyền giới ở Lôi Phong, khi vừa mớì làm phép yết ma, nơi đỉnh tượng đức Quán Thế Âm bỗng phóng ánh sáng rực rỡ, đèn đuốc cùng ánh mặt trời thảy đều lu mờ. Ngài Thủ Nhứt Thiền Sư ở chùa Tịnh Từ vì đó làm bài Giới Quang Ký. 

Ngày 21 tháng 5 niên hiệu Nguyên Phong thứ 6, pháp sư tắm gội thay y phục lên giảng tòa, đề bài kệ khen Phật, rồi bảo đại chúng: 'Ta chắc chắn được sanh về Tịnh Độ', nói xong, ngồi yên lặng mà tịch, thọ được 86 tuổi. (trích Phật Tổ Thống Ký) 

Đời nhà Thanh, Ngô doãn Thăng người ở Huy Châu, huyện Hấp, lúc tuổi trẻ thường qua lại buôn bán ở 2 châu Tô, Hàng. Một hôm, nhân có dịp đi qua Hồ Khâu, tình cờ gặp vị tăng đang hóa trai. Vị này nhìn chăm chú vào mặt ông một lúc lâu rồi nói: Ngươi cũng có căn lành, nhưng tiếc vì đến lúc 29 tuổi bị nạn chết đắm. Biết làm sao? Doãn Thăng sợ quá, cầu phương pháp giải thoát. Vị tăng trầm ngâm giây phút rồi bảo: Từ đây về sau, ngươi nên giớI sát, phóng sanh, niệm Phật và trì chú Đại Bi, may ra có thể khỏi được. Ngô Doãn Thăng y lờI, về nhà trì chú, niệm Phật và thường lấy đó khuyên người. 

Qua năm 29 tuổI, ông thuê thuyền từ Hàng Châu về quê quán, bạn đồng hành có 16 người. Thuyền ra đi được vài mươi dặm, bỗng gió to sóng lớn nổI lên, thế rất nguy cấp. Doãn Thăng chợt nhớ lờI vị tăng nói khi trước, vộI vã chắp tay tụng chú, niệm Phật. Giây phút thuyền chìm, tất cả ngườI đi trong ấy đều bị sóng gió trôi giạt. Trong lúc hôn mê, ông bỗng nghe tiếng nói: Ngô Doãn Thăng có công trì chú niệm Phật và khuyên ngườI, được khỏi tai nạn này! Mở mắt tỉnh ra, nhìn xung quanh, ông thấy mình đã được dân chài lướI vớt lên bờ, y phục ướt đẫm, mũ giày đều bị nước cuốn đi mất, duy nơi tay còn cầm chắc xâu chuỗi 18 hột thường dùng để tụng niệm hằng ngày. Hỏi ra, thì 16 ngườI kia đã bị nước cuốn đi không tìm thấy tung tích. 

Từ đó về sau, ông tin tưởng công đức niệm phật, trì chú không thể nghĩ bàn, từng dùng hương viên đốt nơi cánh tay thành bốn chữ 'cầu sanh Tây phương'. Khi gặp ai ông cũng nói lý nhân quả, khuyên việc tu hành. Có được tiền, ông làm những công đức: tạo tượng, cất chùa, phóng sanh, bố thí, cùng các việc phước thiện khác. Danh lành của ông càng lúc càng truyền xa, cho đến tại vùng Hàng châu, tên Ngô Doãn Thăng đàn bà, trẻ con đều biết.. 

Ngày mùng một tháng năm, niên hiệu Đạo Quang thứ 9, khi lâm chung, ông giữ chánh niệm phân minh, tự nói: 'Tôi thấy vô số Bồ Tát đi kinh hành ở trước mặt tôi' Nói xong, ngồi yên mà qua đờI, năm đó ông được 66 tuổI (trích Nhiễn Hương Tục Tập) 

Thời Trung Hoa Dân Quốc, ở Thai Châu có vị tăng hiệu Thích Kim Trược, xuất gia nơi chùa Diên Thọ hồi 8 tuổI, đến 20 tuổI, thọ đại giới tại chùa Quốc Thanh. Trên đường tu hành, vị đại đức thầy thế độ của ông, chỉ khuyên tụng chú Đại Bi và trì thánh hiệu Quán Thế Âm, y lời mỗI ngày sư tụng chú 48 biến, ngoài ra chỉ chuyên tâm niệm thánh hiệu không cho gián đoạn. Trì tụng lâu ngày, những thói quen trần nhiễm lúc trước lần lần tiêu mòn, tâm tánh lần lần tỉnh sáng, ông xem danh lợi cuộc đời như mây bay bọt nước. Sư thường vì ngườI trị bịnh rất là hiệu nghiệm, nhưng không thọ tiền thù đáp. Có nhiều kẻ cầu hỏi xin truyền cho phương pháp, ông bảo: 'Tôi chỉ trì chú Đại Bi và niệm Quán Thế Âm mà thôi'. Trong năm Mậu Thìn (dân quốc), sư trụ ở một am nhỏ, ban đêm bị ăn cướp vào khảo tiền. Sau khi chúng xét khắp am, thấy không có chi, nổI giận, đâm ông một dao ở tay mặt và hai dao ở bên trán. Thương thế tuy nặng, nhưng sư không chết. Vết đâm cũng dần lành, để lại ba dấu thẹo lớn ăn sâu vào. Đây cũng là nghiệp trái nhiều kiếp, do công đức trì niệm, nên chuyển quả báo nặng thành ra quả nhẹ ở hiện đời. Mùa hạ năm Kỷ Tị, sư đến Ninh Ba định an cư ở chùa A Dục Vương, nhưng vì số dự chúng đã đủ, mấy lần xin gia nhập, cũng không được hứa nhận. Chưa biết sẽ đi về đâu, ông ngồi tĩnh tọa trọn nửa ngày, không có lời hờn trách, sắc oán hận. Vị giám tự tăng thấy thế, đưa sư đến tạm ở nơi Dưỡng tâm đường. Ngày mãn hạ, vị tăng quản đường lại theo quy lệ, không cho ở. Sư bảo: 'Chẳng bao lâu tôi sẽ sanh về Tây phương, xin từ bi cho tôi lưu lại trong một thời gian ngắn nữa'. Đến ngày 19 tháng 10, sư nói vớI đại chúng rằng: 'Trong vòng 3 hôm nữa, tôi sẽ thoát ly biển khổ, sanh về Cực Lạc, xin khuyên bạn đồng tu thành tâm trì chú niệm Phật hoặc niệm Quán Âm, quyết định sẽ được vãng sanh. Vì Phật không bao giờ nói dối'. Lại bảo đức Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm đài bạc thường hiện ở trước tôi'. Chúng cho là lờI nói phô, tỏ vẻ không tin. Qua ngày 21, trước giờ ngọ, sư đắp y len chánh điện lễ Phật, lại đến trước vị tăng quản đường từ tạ, nói sau giờ ngọ thờI mình sẽ vãng sanh. Lúc ấy, mọI ngườI còn cho là lờI nói dối. œến giờ ngọ, sư cùng đại chúng thọ trai, ăn đủ hai chén như mọI ngày không giảm. Lại bảo bạn đồng liêu rằng: 'Theo quy lệ của nhà chùa, ngườI chết đưa thi hài vào núi sâu, tiền công khiêng đi phải bốn giác. Nay tôi không có vật chi, chỉ còn đôi dép, xin phụng tặng, nhờ thầy lo liệu giùm việc ấy' 

Quả nhiên, sau thờI ngọ một giờ, sư ngồi day mặt về Tây, an ổn mà hóa. (trích Du Huệ Úc Sao Tập) 

- Ấn Quang đại sư, một vị cao tăng cận đại ở Trung Hoa, thuở sanh bình, hết sức tự tu và hoằng hóa pháp môn tịnh độ, thường khóa của ngài ngoài thờI niệm Phật chánh thức, lại kiêm trì chú Đại Bi. Đại sư tu hành tinh tấn, sức từ bi cảm hóa đến hàng dị loại. 

Năm Dân quốc thứ 19, ngài trụ ở chùa Báo Quốc, tại Thái Bình, trong tịnh thất, bỗng sanh ra vô số rệp, nhiều cho đến nỗi nó bò lên song cửa, trên mặt bàn. Có mấy vị đệ tử lo nghĩ đại sư già cả, không kham chịu sự quấy nhiễu, đôi ba phen xin vào trong thất dọn bắt. Ngài không cho và bảo: 'Việc này chỉ trách mình kém đạo đức mà thôi. Thuở xưa một vị cao tăng cũng bị loài rệp phá rối, chịu không kham. Quở bảo nó phải dờI đi nơi khác, chúng liền đem nhau bò đi. Nay ta tu trì bất lực, nên không được sự cảm ứng như thế, lại còn nói gì?' Ròi đại sư vẫn an nhiên mà ở, không để ý đến. Ít lâu sau, loài rệp bỗng nhiên tuyệt tích, ngài cũng không nói cho ai biết. Lúc ấy, gần tiết Đoan Ngọ, Đức Sum pháp sư chợt nhớ đến việc trước hỏi thăm, ngài bảo: 'đã đi hết từ lâu, không còn con nào nữa'. Pháp sư cho là ngài lớn tuổI, mắt mờ yếu nên không thấy, quyết ý xin vào trong xem lại, quả nhiên chúng đã đi đâu hết sạch. Hay là nó cũng vì ngài dờI chỗ ư? 

Đại sư thường gia trì chú Đại Bi vào nước, gạo hoặc tro sạch để cứu những chứng bịnh mà các y sư đều bó tay, hiệu nghiệm lạ lùng. Một ngày, nơi lầu Tàng Kinh của chùa phát hiện ra vô số mối trắng, đại sư ở trong thất, nghe nói, liền trì chú vào nước bảo rưới lên chú nguyện, loài mối cũng kéo nhau đi mất. 

Những đệ tử ở xa bị bịnh dây dưa không hết, ngài khuyên nên trì chú vào gạo nấu ăn cho đến chừng nào hết bịnh mới thôi. Phương pháp đó gọi là Đại Bi Phạn. Cách nấu cơm, theo đại sư, nên khéo nấu gạo nước cho vừa chừng, đừng đổ nước nhiều rồi chắt ra, vì như thế đã hao củi lại mất chất bổ trong cơm, làm phí phạm của tiền mà tổn phước. Thuở còn nhỏ, ngài hay đau yếu, có ngườI giỏi về tướng pháp cho rằng chỉ thọ đến 38 tuổI là cùng. Nhưng sau đại sư sống khoẻ mạnh đến 80 tuổI mới vãng sanh. NgườI chí tâm tu niệm hay cải đổI số mạng. Việc ấy quả có như thế ư? (trích Ấn- Quang Đại Sư truyện ký) 













Comments

Popular posts from this blog