KINH THỦ-LĂNG-NGHIÊM GIẢNG GIẢI
HT THANH TỪ
CHƯƠNG V: NGHIỆP QUẢ - CÁC CẢNH GIỚI - CHƯỚNG NẠN
I. NGHIỆP QUẢ
1. Nhân quả của sáu
đường
Đức Phật nói lời đây
rồi, khi ấy A-nan và cả đại chúng được nhờ Như Lai mở bày nghĩa mật ấn
Bát-đát-la, và được nghe những tên gọi của kinh liễu nghĩa này, liền đốn ngộ
thiền-na, tăng thượng diệu lý, tu tiến đến Thánh vị, tâm lự được rỗng rang lắng
đọng, đoạn trừ được sáu phẩm phiền não vi tế tu tâm trong tam giới. Liền từ chỗ
ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, chắp tay cung kính bạch Phật rằng:
- Đức Thế Tôn có oai đức
lớn dùng lời từ bi không ngăn ngại, khéo mở bày cho chúng sanh những mê lầm vi
tế sâu kín, khiến ngày nay thân tâm con được vui thích được lợi ích lớn. Bạch
Thế Tôn, nếu chân tâm thanh tịnh sâu mầu sáng suốt ngày xưa nay là tròn khắp,
như thế cho đến đại địa cỏ cây, các loài sinh vật nhuyễn động, cội gốc là chân
như, tức là chân thể thành Phật của Như Lai, Thể tánh của Phật là chân thật,
tại sao lại có các đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la, người, trời?
Theo lời Phật dạy, tất
cả chúng sanh đều từ một chân tâm thanh tịnh sâu mầu sáng suốt mà ra. Như vậy
tất cả thế giới, cỏ cây, mọi loài sinh vật vốn từ chân như, tức thể tánh chân
thật của Phật. Vậy sao lại sanh ra sáu đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh v.v...
Đây là câu hỏi rất hệ trọng, những người tu Phật nếu không rành, khi bị người
ta hỏi sẽ lúng túng không thể nào đáp được. Hơn nữa, chính mình trên đường tu
cũng đâm ra hoang mang. Cho nên những câu hỏi này chúng ta phải chú tâm nhớ kỹ,
hiểu rõ, mới thấy giá trị của lời Phật giải thích cho ngài A-nan.
Bạch Thế Tôn, sáu đường
này là xưa nay tự có hay do vọng tập của chúng sanh sanh khởi?
Câu hỏi thứ hai cũng rất
hệ trọng. Như hiện nay chúng ta thường nghe có nhiều người hỏi: "Cảnh địa
ngục, ngạ quỷ là do ai sắp bày sẵn, hễ phạm tội liền xuống đó hay do chúng sanh
làm tội mà tự có ra?" Thời nay, có người nặng về lý, giảng là không có địa
ngục nào hết, nếu mình làm xấu làm ác thì lương tâm cắn rứt giày vò, tức là địa
ngục. Đó là một lối giải bất chấp lời Phật dạy. Phật đã nói có lục đạo luân
hồi. Nhưng lục đạo luân hồi từ đâu mà có? Nó đã sẵn từ thuở nào hay do sự huân
tập nghiệp của chúng sanh mới có? Đó là vấn đề rất then chốt.
Bạch Thế Tôn, như
Tỳ-kheo-ni Bảo Liên Hương giữ giới Bồ-tát mà lén làm việc dâm dục, nói dối rằng
hành dâm không phải là giết hại, không phải là trộm cướp, nên không có nghiệp
báo. Khi nói lời ấy rồi, trước hết nơi nữ căn phát ra ngọn lửa cháy rực, sau đó
từng phần thân thể đều bị lửa lớn thiêu đốt, đọa vào địa ngục Vô gián.
Vua lưu-ly và Tỳ-kheo
Thiện Tinh, vua Lưu-ly vì giết dòng họ Cồ-đàm, Tỳ-kheo Thiện Tinh vì nói dối
tất cả pháp đều không, ngay thân đang sống mà rơi vào địa ngục A-tỳ. Các địa
ngục này là có chỗ nơi nhất định hay lại là tự nhiên, do mỗi người kia phát
nghiệp, chỉ mỗi người nhận riêng?
Địa ngục là sẵn có cố
định, ai làm tội đều phải vô đó, hay là do những người kia tạo nghiệp rồi tự họ
cảm nhận cảnh địa ngục riêng cho mình, chứ không có địa ngục chung?
Câu chuyện vua Lưu-ly
giết dòng họ Thích-ca, trong kinh Tăng Nhất A-hàm kể rằng: Vua Ba-tư-nặc cầu
hôn con gái họ Thích ở Ca-tỳ-la-vệ, nếu không bằng lòng sẽ dùng áp lực bức
bách. Họ Thích thuộc dòng dõi lớn, không muốn kết thân, bèn đem con gái của
Ma-ha-nam do một nữ tỳ sanh ra, diện mạo đoan chánh, cho mặc áo đẹp, ngồi xe vũ
bão, đưa đến cho vua Ba-tư-nặc nói dối là công chúa con vua Ma-ha-nam. Vua
Ba-tư-nặc lập công chúa làm đệ nhất phu nhân, sanh con trai là Tỳ-lưu-ly. Vua
rất yêu thương thái tử. Khi Tỳ-lưu-ly lên tám, vua gửi sang bên ngoại, cho học
bắn cung cùng năm trăm trẻ dòng họ Thích.
Bấy giờ trong thành
Ca-tỳ-la-vệ mới dựng một giảng đường, chuẩn bị rất trang nghiêm. Những người
dòng họ Thích định thỉnh Phật cùng chúng tăng đến đó để cúng dường. Thái tử
Lưu-ly cùng năm trăm đứa trẻ đến giảng đường, leo ngay lên tòa sư tử. Những
người họ Thích trông thấy hết sức giận dữ, bèn lôi Tỳ-lưu-ly kéo ra ngoài cửa,
xô xuống đất mắng: "Đây là đứa con của nô tỳ, chư thiên và mọi người chưa
có ai dám vào đây, mà đứa con nô tỳ này dám vào đây ngồi!"
Tỳ-lưu-ly bảo một người
con của Phạm chí tên là Hiếu Khổ rằng: "Họ Thích hủy nhục ta đến thế này.
Về sau nếu ta nối ngôi vua, ông nên nhắc ta chuyện này." Từ đó, mỗi ngày
người con Phạm chí tâu nhắc ba lần: "Hãy nhớ mối nhục họ Thích." Đến
khi thái tử Lưu-ly lên ngôi, Hiếu Khổ nhắc lại chuyện xưa, vua nổi giận dẫn bốn
bộ binh đến nước Ca-tỳ-la-vệ.
Phật muốn can gián vua
Lưu-ly, bèn đến một cây khô không cành lá bên đường, ngồi kiết già. Vua Lưu-ly
từ xa thấy Phật ngồi, liền xuống xe cúi lạy rồi hỏi:
- Có những cây tốt cành
lá sum suê, sao Ngài lại ngồi dưới cây khô này?
- Bóng mát của thân tộc
hơn hẳn người ngoài.
Vua Lưu-ly liền nghĩ:
"Hôm nay Thế Tôn cố
vì thân tộc. Vậy ta nên trở về, chẳng nên chinh phạt Ca-tỳ-la-vệ."
Về triều nghe lời nhắc
lại, vua tức giận lại kéo quân đi đánh. Nửa đường lại thấy Phật ngồi dưới cây khô
và nói như lần trước, vua trở về. Lại được nhắc mối nhục xưa, vua kéo quân đi
đánh nữa. Lần thứ ba này, tôn giả Đại Mục-kiền-liên muốn cứu dòng họ Thích,
nhưng Phật nói: "Hôm nay họ Thích túc duyên đã chín, sẽ thọ báo."
Những người dòng họ
Thích đều trì giới, tu hành pháp lành, nên dù có quân binh mạnh vẫn không chống
cự. Vua Lưu-ly giết hết dòng họ Thích, quanh thành Ca-tỳ-la-vệ máu chảy thành
sông. Bảy ngày sau, vua Lưu-ly và quân lính, khi đến bên bờ sông A-chi-la vui
chơi và nghỉ đêm, bị nước lớn cuốn trôi ra biển, chết sanh vào địa ngục A-tỳ.
Tỳ-kheo Thiện Tinh là
con trai của thái tử Tất-đạt-đa, ngài thọ trì đọc tụng giải thuyết mười hai bộ
kinh, chứng được tứ thiền. Vì gần gũi bạn ác nên mất tứ thiền, sanh kiến chấp
tà ác mà nói rằng không Phật, không pháp, không nhân quả, không có tạo nghiệp,
không có Niết-bàn. Phật thường thuyết pháp cho Tỳ-kheo Thiện Tinh mà ông không
có lòng tin thuận. Khi ông đang ở gần sông Ni-liên-thiền, thấy Phật từ xa đi
đến, ông liền sanh tâm tà ác. Do tâm ác này thân đang sống đọa vào địa ngục
A-tỳ.
Tại Việt Nam, những năm
về trước có xảy ra trường hợp "trời trồng". Có những người làm tội
ác, cầm dao hay cầm cây đánh cha mẹ thì tự nhiên đứng sững, rồi từ từ lún
xuống, đó là ngay thân đang sống rơi vào địa ngục.
Tóm lại, câu hỏi thứ
nhất: Tất cả chúng sanh đều từ nơi chân như, chư Phật cũng trở về chân như, tại
sao chân như đó lại sanh ra lục đạo chúng sanh?
Câu hỏi thứ hai: Lục đạo
chúng sanh phát sanh ra, đó là tự sẵn có hay do chúng sanh tạo nghiệp rồi mới
có?
Câu hỏi thứ ba: Những
nghiệp chúng sanh gây tạo, hiện đời thấy đọa địa ngục, địa ngục có sẵn nhất
định, ai phạm tội thì rơi xuống, hay do chúng sanh phát nghiệp nên mới có địa
ngục đó?
Nếu chúng ta hiểu ba câu
hỏi thiết yếu này, ắt sẽ giải quyết được nhiều vấn đề mà lâu nay có thể chưa
nắm vững.
Cúi mong đức Thế Tôn rủ
lòng đại từ mở rộng cho kẻ mới vào đạo, khiến cho tất cả chúng sanh trì giới,
nghe được nghĩa quyết định, vui vẻ tôn trọng kính cẩn gìn giữ cho trong sạch,
không trái phạm.
Phật bảo A-nan:
- Hay thay câu hỏi này,
khiến cho các chúng sanh không vào tà kiến. Nay ông lắng nghe kỹ, ta sẽ vì ông
nói.
Này A-nan, tất cả chúng
sanh thật vốn là chân như thanh tịnh, do vọng kiến kia mà có vọng tập sanh
khởi. Nhân đây mà phân chia ra phần trong và phần ngoài.
Này A-nan, phần trong
tức là phần trong của chúng sanh. Từ các ái nhiễm mà phát khởi vọng tình. Vọng
tình chất chứa không thôi, hay sanh ra nước ái. Thế nên, tâm chúng sanh nghĩ
nhớ đến những thức ăn ngon thì trong miệng liền ra nước miếng. Khi tâm nhớ lại những
người xưa, người mình thương hoặc người mình giận thì nước mắt tuôn tràn.
Khi đói bụng mà nhớ đến
những thức ăn ngon, tự nhiên trong lưỡi ra nước miếng. Khi nhớ lại những người
đau khổ nhất thì trào nước mắt. Đó là hiện tượng của ái. Từ ái mà thành ra nước
rơi xuống.
Người tham cầu tiền của
thì tâm phát ra nước ái, toàn thân họ đượm ướt và sáng. Nếu tâm đắm trước sự
hành dâm thì nơi nam căn, nữ căn tự nhiên có dịch chảy ra.
Những người thích của
báu thì toàn thân họ đượm ướt, có vẻ hơi sáng. Điều này chúng ta ít thấy vì
hiện tại hiếm có người ham tới cỡ đó, trừ những người đi bòn vàng, còn thường
thì không thấy.
Tất cả những điều trên
là bằng chứng cụ thể, cho thấy bên trong chúng ta tích lũy tình nhiều, dễ phát
ra nước ái, là lý do đưa mình chìm xuống cõi dưới. Nước thì nặng nên rơi xuống,
không thể chảy ngược lên, nên tình nhiều là trầm luân, không nghi ngờ gì. Ai
tình cảm nặng quá thì coi chừng rơi xuống, chứ không đi lên nổi. Đó là kinh
nghiệm bên trong con người, đức Phật kể rõ ràng như vậy, để biết nếu chúng ta
chất chứa cái gì nhiều thì cái đó sẽ lôi mình đi.
Này A-nan, các thứ ái
tuy khác nhau nhưng kết quả chảy nước là đồng, thấm ướt không thể bay lên được,
tự nhiên theo đó mà rơi xuống. Đây gọi là phần trong.
Các thứ ái tuy khác
nhau, hoặc thích món ăn, hoặc thương hoặc giận, hoặc ưa tiền bạc của báu, sắc
đẹp... nhưng ái trước cái nào cũng ra nước, rơi xuống trôi đi, kết cuộc đều dẫn
mình đi xuống, là đồng chứ không khác. Nên nói nghiệp ái dẫn đi xuống. Bên
trong con người chất chứa những thứ đó thì rơi xuống, không nghi ngờ. Ái thuộc
về tình, ái ít thì chìm cạn, ái nhiều thì nhất định chìm sâu.
Này A-nan, ngoại phần là
phần bên ngoài của chúng sanh. Nhân các khát ngưỡng mà phát ra những hư tưởng.
Tưởng đó tích chứa không thôi, hay sanh ra khí thù thắng.
Tưởng là phần bên ngoài,
còn ái hoặc tình là phần bên trong. Khi mơ ước, trông mong khao khát một điều
gì, do tích lũy sự tưởng tượng, mơ ước đó lâu ngày nên có sức mạnh, hơi mạnh đó
đưa mình đi lên. Ví dụ như người khao khát muốn về Cực lạc, họ tưởng tới Phật,
tưởng cõi Cực lạc. Bởi khao khát nên mới có mơ tưởng, tích lũy lâu rồi liền có
diệu dụng. Còn người khao khát muốn thành tiên cưỡi hạc dạo chơi cõi trời,
tưởng tiên lâu ngày cũng có hơi mạnh phát ra.
Thế nên, trong tâm chúng
sanh giữ gìn giới cấm thì toàn thân nhẹ nhàng thanh tịnh. Tâm trì ấn chú thì
mắt nhìn xem thấy mạnh mẽ kiên quyết. Tâm muốn cầu sanh cõi trời thì khi mộng
thấy mình bay lên. Tâm nhớ cõi Phật thì cảnh Phật thầm hiện. Nếu thờ phụng
thiện tri thức thì xem thường thân mạng. Này A-nan, các tưởng tuy khác nhưng
nhẹ nhàng bay lên là đồng. Bay lên không chìm xuống, tự nhiên vượt lên. Đây gọi
là phần bên ngoài.
Các tưởng tuy có khác:
tưởng giữ giới, tưởng cõi Phật, tưởng sanh cõi trời, tưởng trì chú v.v... đều
là đi lên.
Đến đây, chúng ta có thể
sẽ có một điều nghi: Người muốn sanh lên cõi trời, cứ tưởng mãi thì thấy mình
bay lên, muốn sanh về cõi Phật cứ tưởng mãi sẽ mộng thấy Phật hay thấy hoa sen,
như vậy là tu có hiệu nghiệm. Còn người tu thiền thường không thấy gì hết, có
phải là thua thiệt không? Do vì chúng ta tưởng mãi cái gì thì mộng thấy cái đó.
Tu tịnh độ tưởng nhớ tới Phật nên mới thấy cảnh Phật, còn tu Thiền không cho
mong tưởng, làm sao thấy!
Tại sao chúng ta không
tưởng thấy Phật cho tốt? Bởi đây là đứng về mặt tình và tưởng: tình thì sanh
trong các loài chìm sâu ở dưới, tưởng thì sanh lên các cõi ở trên, còn người tu
thiền là dẹp cả tình lẫn tưởng. Không tưởng thì làm sao thấy có những cảnh mình
mơ tưởng. Vậy người tu thiền sanh ở đâu? Do không muốn sanh nữa nên mới dẹp tình
dẹp tưởng, tâm lặng lẽ như như bất động, cho nên gọi là "Bất động
địa", không kẹt bên này bên kia.
Lại có người hoang mang,
vì khi tu thỉnh thoảng thấy mộng dữ, hoặc những tật cũ đời nào. Bởi vì người tu
thiền không tưởng thêm cái mới, chỉ bỏ cái cũ thôi. Nhưng trong khi đang trừ
dẹp, tàng thức vẫn còn chứa những chủng tử nhiều đời, tốt xấu đều có. Ban ngày,
chúng ta bỏ những chủng tử đang hiện hành trong hiện tại, còn những thứ chất
chứa trong quá khứ chúng ta chưa làm chủ được, nên khi nằm mộng nó trồi lên.
Những thứ chất chứa không phải hoàn toàn tốt, cho nên khi mộng có thể thấy
những cảnh bất thường, dữ xấu làm mình hoảng hốt. Bởi vậy, các bậc thầy xưa
dạy, nếu người tu thiền đêm mộng thấy những cảnh dữ, thức dậy phải sám hối, vì
biết những chủng tử xấu ở trong còn nhiều.
Nếu thấy cảnh lành, như
thấy mình đang thuyết pháp hoặc trong chùa có lễ lạt, thấy huynh đệ cùng tu
hành, đó là mộng thấy trở lại chỗ sống hàng ngày, chứ không phải thấy cảnh mình
tưởng ra. Đây là dấu hiệu tốt lành, cho biết chủng tử quá khứ đã nhẹ rồi, chỉ
có cảnh hiện tại.
Hiểu thật kỹ, mới biết
mỗi lối tu có ảnh hưởng rất nhiều tới tâm tưởng. Nếu không hiểu, khi thất lạ
sanh ra hoảng hốt, không biết tại sao hồi trước niệm Phật, cầu sanh tịnh độ thì
thấy mộng lành, nay tu thiền thấy mộng dữ. Ở đây Phật dạy rõ tình là
thế nào, tưởng là thế nào. Khi tình nhiều, mộng thấy cảnh của
tình, còn tưởng nhiều thì mộng thấy cảnh của tưởng.
Đó là nêu lên cho biết
nơi con người chúng ta, vọng nghiệp chia ra làm hai phần: phần tích chứa ở
trong là tình và phần ở ngoài là tưởng.
Này A-nan, tất cả thế
gian sanh tử tiếp nối: sanh thì thuận theo tập nghiệp, còn tử thì theo biến
chuyển.
Xưa huân tập những gì
thì nay theo đó mà đi, gọi là thuận tập. Vậy nên nói sanh là thuận mà tử là
nghịch, vì phá hoại cái hiện hữu này nên gọi là nghịch, còn theo chiều nghiệp
cũ dẫn đi gọi là thuận.
Khi sắp mạng chung chưa
hết hơi ấm, những việc thiện ác trong một đời đồng thời hiện ra.
Điều này giúp chúng ta
hiểu rõ tinh thần của con người sắp mạng chung. Khi sắp chết, chưa hết hơi ấm,
những nghiệp thiện ác đã làm trong đời mình liền hiện ra. Cho nên, nếu là
thiện, như người niệm Phật thành công thì thấy chư Bồ-tát Quán Âm, Thế Chí. Còn
những người làm ác, khi ấy thấy cảnh dữ, liền đọa xuống địa ngục. Chỉ có những người
nửa tình nửa tưởng được sanh làm người, lúc đó mới có việc chờ cha mẹ trong
vòng bốn mươi chín ngày, mới có chuyện cầu nguyện cho họ. Ở đây Phật nói rất kỹ
cho chúng ta biết rành rẽ.
Như vậy, nặng về tình
thì đi xuống, nhiều tưởng thì đi lên, nhưng cũng không ngoài luân hồi. Nếu muốn
hết luân hồi thì phải hết tình hết tưởng.
Chết là nghịch, sanh là
thuận, hai tập nghiệp giao nhau.
Hai tập nghiệp sanh
thuận và tử nghịch giao tiếp nhau. Chết là nghịch vì thân này bị hoại, sanh là
thuận là đi theo nghiệp cũ dẫn tạo nghiệp cũ dẫn tạo nghiệp mới, nên hai nghiệp
mới cũ giao kết nhau.
Nếu thuần tưởng tức bay
lên, ắt sanh trên cõi trời. Nếu bay lên mà trong tâm gồm đủ phước tuệ và nguyện
thanh tịnh, thì tự nhiên tâm mở sáng, thấy được các cõi tịnh độ của chư Phật
mười phương, tùy nguyện mà vãng sanh.
Nếu người thuần tưởng
cõi tịnh độ, hay cõi đức Phật A-súc... không còn chút tình nào chen vào, có
nguyện sanh về cõi đó, đồng thời làm phước tu tuệ đầy đủ thì khi lâm chung trí
tuệ họ mở sáng, liền thấy cõi thanh tịnh của chư Phật mười phương, rồi tùy theo
nguyện của mình mà sanh về cõi Phật, gọi là vãng sanh. Đó là tưởng cộng với
phước, tuệ và nguyện, đủ bốn điều này thì sanh về cõi Phật.
Đây là lý do tại sao khi
trong gia đình có người chết, đừng nên khóc mà phải tụng kinh. Khóc là tăng
trưởng cái tình, tức là làm người chết chìm xuống các cõi dữ. Muốn nuôi dưỡng
cái tưởng cho thuần khiết nên khuyên người sắp mất phải nhớ Phật, phải nghe
kinh, để cho tâm tưởng nhẹ nhàng, dễ bay lên các cõi trên. Đó là điều thiết yếu.
Tình ít tưởng nhiều thì
cũng nhẹ nhàng bay lên, nhưng không được xa, liền làm phi tiên, đại lực quỷ
vương, phi hành dược-xoa, địa hành la-sát, dạo đi trong cõi trời Tứ thiên vương
không bị chướng ngại.
Chừng chín phần tưởng
một phần tình, hoặc tám phần tưởng hai phần tình thì cũng bay lên nhưng không
xa, được tự tại ở trong khoảng trời Tứ thiên vương trở xuống. Chúng ta tự kiểm
lại thì biết mình đang tới chỗ nào.
Trong đó nếu có những
người tâm lành nguyện lành, hộ trì pháp Phật, ủng hộ giới cấm theo người giữ
giới, hoặc ủng hộ thần chú theo những người trì chú, hoặc ủng hộ thiền định thì
giữ yên pháp nhẫn, chính những người ấy được ở dưới tòa Như Lai.
Những người có tâm lành
nguyện lành đó sẽ làm những vị thần để bảo vệ người giữ giới, người trì chú,
người tu thiền định. Do đó họ luôn luôn ở dưới tòa Như Lai, tức là
ở trong chùa, gọi là Hộ pháp, chứ không đi làm thần thánh các nơi khác.
Tình tưởng bằng nhau,
không bay lên cũng không rơi xuống thì sanh ở nhân gian. Người tưởng sáng thì
thông minh, người tình tối thì ngu độn.
Người sanh ở
nhân gian, ai trước có tưởng nhiều hơn tình thì người đó thông minh,
còn nếu tình nhiều thì ngu độn. Thử kiểm lại thì biết mình đời trước thuộc loại
nào.
Nếu tình nhiều tưởng ít
thì phải trôi giạt trong loài hoành sanh. Nếu nặng thì làm loài có lông, nếu
nhẹ làm loài có cánh.
Nếu khoảng sáu phần tình
bốn phần tưởng thì vào loài hoành sanh hay bàng sanh, tức là
loài đi ngang, như trâu bò heo chó... Nặng thì làm loài thú có lông, nhẹ thì
làm loài có cánh như chim chóc bay đi. Bây giờ nhìn lại mình tự biết mình thuộc
loại nào, tương lai như thế nào, biết rõ chứ không nghi ngờ. Nếu tự đánh giá
thấy tưởng nhiều thì tốt, còn nếu tình nhiều phải dẹp bớt lần lần.
Bảy phần tình ba phần
tưởng thì chìm xuống thủy luân, sanh bên mé hỏa luân, nhận chịu hơi nóng bốc
lên rất mạnh, thân làm ngạ quỷ, thường bị lửa đốt, vì nước có thể hại mình,
không ăn không uống, trải qua trăm ngàn kiếp.
Trong nhà Phật nói ở
ngoài trái đất là phong luân, kế đến thủy luân, hỏa luân, kim luân v.v... Người
sanh ở giữa ranh giới thủy luân và hỏa luân này, do nhận chịu hơi lửa xông lên
mà thân họ luôn luôn có lửa, trong miệng thường ra lửa, nên nói làm ngạ
quỷ khổ vô cùng. Những người tự tử chết oan hay đọa làm ngạ quỷ, vì
thắt cổ, uống thuốc độc... là nặng về tình mà chết, nên rơi vào loài này.
Chúng ta sống bảy tám
mươi năm thấy cũng dài, ngạ quỷ sống cả trăm ngàn kiếp, tuổi thọ cũng không
biết bao nhiêu. Nên làm loài đó rồi khó mà chuyển nổi, khổ quá không biết chừng
nào mới tu được! Chúng ta thường nghĩ ngạ quỷ luôn đói khát là do không ai cúng
cho họ ăn uống. Nước đầy cả sông cả biển, uống lúc nào cũng được, nhưng họ vẫn
luôn luôn khát. Tại sao vậy? Vì nước có thể làm hại họ, thân họ như lửa, vào
nước là tắt là chìm, nên họ không dám tới gần nước. Do đó khi cúng cho họ, phải
tụng chú biến thực biến thủy, họ mới ăn uống được.
Vậy mới thấy, được làm
thân người là rất quý. Mất rồi, nếu rơi vào những chỗ này không biết chừng nào
mới trở lại làm người, thoát khỏi khổ đau!
Chín phần tình một phần
tưởng thì chìm xuống thấu hỏa luân. Thân vào chỗ ranh giới giao nhau giữa phong
luân và hỏa luân. Nếu nhẹ thì sanh nơi địa ngục hữu gián, còn nặng thì sanh địa
ngục vô gián.
Địa ngục hữu gián là chỗ tra khảo còn có lúc nghỉ, còn tại địa
ngục vô gián thì tra khảo suốt ngày suốt đêm không khi nào ngừng nghỉ.
Thuần tình thì chìm vào
địa ngục A-tỳ.
Trọn mười phần tình,
không có tưởng thì vào địa ngục A-tỳ, không biết chừng nào ra.
Thế giới hoại, địa ngục A-tỳ vẫn chưa hoại.
Nếu trong tâm chìm vào
đó mà còn chê bai Đại thừa, phá giới cấm của Phật, cuồng vọng nói pháp để tham
cầu của tín thí, lạm nhận sự cung kính của người khác, phạm tội ngũ nghịch hoặc
thập trọng thì lại sanh vào địa ngục A-tỳ ở mười phương.
Trọn mười phần tình lại
thêm những tội ngũ nghịch thập trọng thì sanh địa ngục A-tỳ,
khi thế giới này hoại, địa ngục A-tỳ ở đây mất lại sanh vào địa ngục A-tỳ ở thế
giới mười phương khác. Ở đâu có thế giới, có địa ngục A-tỳ thì đều sanh vào đó,
không biết đến chừng nào ra.
Theo nghiệp ác đã tạo,
tuy là tự chiêu cảm quả báo, nhưng trong chúng đồng phần thì đã có chỗ sẵn.
Nếu hỏi rằng địa ngục là
chỗ có sẵn hay do người tạo rồi mới có với người đó, đức Phật dạy: Tuy tùy
nghiệp chúng sanh chiêu cảm mà có, nhưng vì nhiều người tạo nghiệp ác chiêu cảm
như vậy, thành ra có chỗ sẵn.
Ví dụ như ở thế gian nếu
người dân hiền lành không phạm luật pháp, không có ai tạo tội thì nhà nước đâu
cất khám đường làm gì! Giả sử có một người hoặc hai người phạm, có lẽ cũng khỏi
cất khám đường. Nhưng nếu cả trăm, ngàn người phạm tội, gọi là chúng
đồng phần, nhiều người cùng chiêu cảm, phải có chỗ nhất định để giáo dục
họ, hoặc phải có khám đường để chứa họ.
Như vậy có thể khẳng
định là địa ngục có sẵn hay không có sẵn? Câu trả lời là: Không phải có ai tạo
địa ngục sẵn cho con người, chỉ do vọng nghiệp chúng sanh tạo tác, tự gây
nhân rồi chuốc lấy quả, nên thấy có cảnh khổ phải chịu. Nhưng vì nhiều người
tạo tác như vậy, cùng chuốc quả báo giống nhau, nên phải có cảnh nhất định cùng
chung chịu khổ. Địa ngục rõ ràng như ở thế gian vậy.
Chúng ta học kỹ mới biết
rõ tại sao mình được thăng, tại sao phải trầm. Vậy chúng ta phải như thế nào?
Thăng trầm lên xuống là hai bên, chúng ta không nên kẹt một bên nào. Nếu chưa
giải thoát được, thì thà là thăng chứ đừng trầm, khổ lắm!
Hãy thử xét nơi mình,
nếu có nhân trầm nhiều thì phải ráng cạo gọt cho nhẹ bớt, đừng để tới sáu bảy
phần tình là nguy. Năm phần tình là tối đa, để còn có thể trở lại làm người,
tiếp tục tu nữa chứ quá phần đó thì nguy. Nhẹ thì làm các loài chim chóc cũng
không tu được, cứ lẩn quẩn lo kiếm trái ăn. Nếu làm trâu bò, bị bắt kéo cày cực
nhọc chịu sao nổi!
Tu là để chuyển hướng đi
lên. Nếu người chưa thể đạt được giải thoát, nhờ chuyển hướng lên mà càng ngày
càng nhẹ hơn. Còn người không biết tu cứ chìm ở trong tình thương ghét, do tình
đó mà bị chìm sâu. Học kinh rồi mới thấy thương chúng sanh, thế gian này có mấy
người biết tưởng, chỉ sống với tình thôi. Cứ giận
người này, ghét người kia, thương người nọ, ngày ngày ngồi lại bàn nói chỉ có
bấy nhiêu. Buồn, thương, giận, ghét... toàn là tình! Đeo mang tình đầy dẫy thì
làm sao đi lên được!
Phật nói mất thân này
rồi, tìm lại được rất khó. Chúng ta thử kiểm lại những người thân quanh mình,
xem tình nhiều hay tưởng nhiều? Ít có người tưởng nhiều, trừ một vài người biết
tu biết nhớ Phật, còn đa số là sống theo tình, ắt phải chìm sâu khó mà lên
được. Bởi vậy, người biết tu rồi thấy thương chúng sanh mê muội không biết chỗ
nào để thoát ra.
Con người sống một đời
này mấy chục năm có nghĩa gì, mà trong đó lại tạo cái nhân chìm đắm khổ đau,
đến mấy kiếp hoặc là mấy ngàn năm. Quả là đem một chút vui đổi lấy khổ muôn
đời, giống như đứa con nít ham ăn, thấy có chút đường dính ở lưỡi dao bén, vội
le lưỡi liếm. Liếm chút xíu đường, không ngọt được bao lâu mà họa đứt lưỡi đau
không biết mấy ngày mấy tháng. Con người mê muội đến như vậy!
Người tu là người biết
chọn hướng đi để thoát khổ, còn người không biết tu cứ vùi đầu trong khổ đau mà
không tự biết. Đời này khổ một ít, rồi đời sau khổ nữa, không biết đâu là ngằn
mé. Người đời trong lòng chứa toàn là tình. Nếu làm cha mẹ thì giận đứa con này
thương đứa con kia, thằng đó nghèo quá, đứa kia ngỗ nghịch quá... Cứ kể lể bao
nhiêu chuyện ấy, ít có ai nói chuyện niệm Phật, mộng thấy Phật Di-đà, hoặc mong
sẽ sanh về cõi trời Đâu-suất, thấy Phật Di-lặc…
Do vậy, người thế gian chết
rồi mà được trở lại làm thân người là vô cùng khó, trong trăm ngàn người chưa
biết có được một người trở lại không, nói gì là lên các cõi trên! Bởi vì họ
sống theo một lối một hướng như nhau là cứ đuổi theo tình, suốt ngày có bao
nhiêu đó. Chúng ta biết tu, hiểu đạo rồi mới thấy chỗ quý báu của sự tu, nhìn
lại thấy chúng sanh mê muội đáng thương. Phật thương chúng sanh nên chỉ cho họ
hướng đi. Do đó, thuyết pháp là việc thiết yếu, để nhắc cho mọi người nhớ đường
đi lên.
2. Mười tập nhân và sái
giao báo
A-nan, những điều này
đều do nghiệp của các chúng sanh kia tự chiêu cảm, tạo mười tập nhân thì lãnh
thọ sáu giao báo.
Mười tập nhân là do mình
huân tập hay gây tạo, nên phải chịu hậu quả phát sáng, chứ không phải có ai ác
ý muốn làm khổ mình.
a. Thế nào là mười nhân?
Này A-nan, một là tập
khí dâm dục giao tiếp phát ra sự cọ xát lẫn nhau, cọ xát nhau không thôi, như
thế nên ở trong có ngọn lửa lớn cháy sáng dấy lên. Giống như người lấy hai tay
tự xoa với nhau, cảm giác nóng liền hiện tiền. Hai tập khí đốt nhau nên mới có
các việc giường sắt cột đồng v.v... Thế nên tất cả Như Lai ở mười phương xem
việc hành dâm này đồng gọi là lửa dục. Bồ-tát trông thấy dục như tránh hầm lửa.
Chúng ta thấu nhân và
quả rõ ràng: nhân là tự mình tạo ở trong, đưa đến quả phải chịu thiêu đốt trên
giường sắt nóng hoặc ôm cột đồng cháy v.v... ở địa ngục. Vậy là từ hành dâm dục
ở trong mà có quả báo bên ngoài. Như vậy, rõ ràng từ tập nhân đó đưa tới nghiệp
báo kia, chứ không phải ngẫu nhiên mà có quả báo hoặc do ai khác bày ra.
Hai là tập khí tham lam
kết giao với so tính, phát ra sự thu hút lẫn nhau, thu hút buộc chặt không
dừng, như thế nên ở trong đó chất chứa cái lạnh, biến thành băng cứng lạnh
buốt. Như người dùng miệng hút hơi gió vào thì sanh cảm giác lạnh.
Do tham nên tính mưu kế,
hai tập khí này thu hút nhau không dừng, kết thành những tảng băng cứng chắc.
Do hai tập khí lấn đoạt
nhau, nên có các sự tra tra, ba ba, la la, hoa sen xanh, đỏ, trắng, băng lạnh
v.v…
Chữ tra tra, ba
ba, la la là những tiếng diễn tả khi bị lạnh quá răng đánh bò cạp,
hoặc những tiếng rên hừ hừ khi bị rơi xuống hàn băng. Người phát ra tiếng thế
này, người phát ra tiếng thế nọ.
Như vậy, dâm là lửa
nóng, tham là nước lạnh.
Thế nên tất cả Như lai
mười phương xem người tham cầu nhiều đồng gọi là nước tham. Bồ-tát trông thấy
tham như tránh biển độc.
Tham cầu nhiều, muốn có
được nhiều thứ, ở đời gọi là tham. Còn đối với trong chùa, khi làm người có
trách nhiệm, ai tới mình cũng muốn người ta cúng nhiều để nuôi chúng, vậy muốn
nhiều đó có phải là tham không? Vô tình mình cũng bị tham chi phối, rồi cũng
rơi xuống chỗ lạnh cóng này. Vậy nên đừng ham muốn nhiều, thí chủ phát tâm thế
nào cũng tùy hỷ. Đây là điều mọi người cần dè dặt.
Ba là tập khí ngã mạn
giao kết với sự lấn hiếp, phát ra ỷ thế với nhau, giong ruổi không dừng. Như
thế nên có phóng chạy ngược xuôi, chất chứa sóng thành nước. Như lưỡi trong
miệng người tự kết với vị, nhân đó mà nước bọt chảy ra.
Mạn là ngã mạn. Người
ngã mạn thì thấy ai cũng thua mình, ỷ mình hay chê người dở, khinh khi người
khác. Chữ miên là cột, kết; lưỡi kết với vị. Vì khi lưỡi mình
thích gì thì dính với cái đó, khi nhớ thèm cái đó, nước miếng chảy ra. Đằng
dật bôn ba là phóng chạy ngược xuôi. Đằng là
nhảy, dật là buông thả, bôn là chạy
đuổi, ba là sóng, lượn sóng này đuổi lượn sóng kia, đuổi nhau
hoài không ngừng.
Do hai tập khí này kích
động nhau nên mới có các việc sông máu, sông tro, cát nóng, biển độc, rót nước
đồng sôi. Thế nên tất cả Như Lai mười phương gọi ngã mạn là uống nước si.
Bồ-tát trông thấy ngã mạn như tránh vực sâu.
Đó là hiện trạng của địa
ngục, hoặc thấy bị xô xuống sông máu, sông tro, bơi lội khổ
sở, hoặc bị cát nóng, hoặc bị rơi xuống biển độc, hoặc
bị rót nước đồng sôi vô miệng bắt nuốt... Người ngã mạn khinh
người, lấn lướt người khác là uống nước si, để rồi bị đau khổ. Bồ-tát tránh ngã
mạn như tránh chỗ sông to biển lớn, vực thẳm, khiến dễ bị chết chìm.
Hãy thử kiểm tra lại xem
trong ba thứ dâm, tham, mạn mình có thứ nào thì biết kết quả sẽ đưa tới đâu,
phải liệu để tránh.
Bốn là tập khí nóng giận
giao kết với xung đột, phát ra sự chống đối nhau, chống đối kết mãi không thôi,
tâm nóng phát ra lửa, đúc khí ấy thành kim loại, thế nên có núi đao cọc sắt,
cây kiếm, bánh xe kiếm, búa rìu thương cưa. Như người ôm lòng oán hận thì sát
khí nổi lên. Do hai tập khí đó công kích nhau nên có những việc thiến cắt chém
chặt, dùi đâm đập đánh. Thế nên tất cả Như Lai mười phương gọi nóng giận là dao
kiếm bén. Bồ-tát trông thấy nóng giận như tránh họa chém giết.
Những kẻ nhiều sân giận
thường chống đối người này người kia, lâu ngày kết thành thói quen chống đối.
Trong tâm nóng bức, lửa sân dấy lên, nên mới có các thứ núi đao, cây kiếm... và
các khổ chém chặt... rùng rợn ở địa ngục. Như vậy, do sân hận mình chống đối,
hại người, rốt cuộc mình phải chịu khổ.
Năm là tập khí lường gạt
giao kết với dụ dỗ, phát ra sự toan tính với nhau, dẫn khởi không ngừng.
Lường gạt là tìm cách
này cách kia để gạt gẫm, lấy của người khác. Như người hiện chỉ có một ngàn
đồng, muốn lấy của người khác mười ngàn, bèn nói: "Tôi có một trăm ngàn
đang gửi ngân hàng, bây giờ lấy ra chưa được, chị cho tôi mượn mười ngàn, ít
bữa tôi lấy ra trả lại." Đây gọi là nói gạt.
Như thế nên có dây, cây,
thòng lọng, căng nọc. Như nước chảy vào ruộng, cỏ cây được sanh trưởng. Do hai
tập khí này kéo dài với nhau, nên có các việc gông cùm xiềng xích, roi trượng
hèo gậy. Thế nên tất cả Như Lai mười phương đồng gọi gian dối là giặc gièm pha.
Bồ-tát thấy sự lường gạt như sợ sói beo.
Do dối gạt lẫn nhau, dẫn
dắt không dừng, nên đọa xuống địa ngục, bị dây trói, gậy, trượng. Đó là gốc từ
gian dối mà ra. Bồ-tát xem sự lừa dối như các loài thú dữ, không dám đến gần.
Sáu là tập khí lừa dối
giao kết với dối gạt, phát ra lừa gạt nhau, lừa gạt không dừng, phóng tâm tạo
các điều gian dối, như thế nên có bụi đất, phân, nước tiểu, dơ nhớp không sạch.
Như bụi theo gió, đều không thể thấy. Hai tập khí này giúp nhau, nên có những
sự chìm đắm, nhảy lên, ném xuống, bay lên, rơi xuống, trôi chìm. Thế nên tất cả
Như Lai mười phương đồng gọi dối gạt là cướp giết. Bồ-tát thấy dối gạt như đạp
phải rắn rít.
Đây là tạo nhân lừa gạt.
Do lừa gạt nên tâm gian trá càng nhiều, đó là nhân địa ngục. Nơi đó chứa toàn
đồ bất tịnh, ô uế... bắt người có tội phải lội trong đó. Vì vậy mà các Bồ-tát
xem lừa dối như đạp phải rắn độc.
Thứ bảy là tập khí oán
hận giao kết với thù hiềm, phát ra ôm lòng giận hờn, như thế nên có quăng đá,
ném gạch, nhốt trong hộp, xe cũi, hũ đựng, túi đãy. Như người hiểm độc ngầm, ôm
ấp chất chứa điều ác trong lòng.
Người ôm ấp chất chứa
điều ác trong lòng thì sau bị chứa nhốt trong hộp, trong cũi, trong hũ, trong
đãy…
Do hai tập khí này nuốt
nhau, nên mới có các việc ném quăng cầm giữ, đánh bắn tung chụp. Thế nên tất cả
Như Lai mười phương gọi oán thù là quỷ vi hại. Bồ-tát thấy oán thù như uống
rượu độc.
Do oán thù kết tập nhau
mà sanh tâm ôm ấp hiềm hận. Hận là rơi vào chỗ bị quăng đá, ném gạch, nhốt
trong hộp... ở địa ngục. Vì vậy các Bồ-tát xem sự oán hờn như uống rượu độc.
Tám là tập khí ác kiến
giao kết với sáng, như thân kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, các nghiệp tà kiến,
phát ra sự chống đối, sanh ra trái ngược nhau, như thế nên có vua, kẻ sứ, chủ,
lại nắm giữ sổ bộ làm chứng. Như người đi đường qua lại gặp nhau.
Kiến là nhận định. Nhận định sai lầm hay nhận định chỉ đúng
một phần mà chấp chặt thì gọi là kiến tập, là tập khí của kiến chấp. Nhận định
thì lúc nào cũng là sáng, không phải tối, nhưng vì nhận định còn thiên về một
bên hoặc lệch lạc không đúng mà chấp là đúng nên trở thành tà kiến hay ác kiến.
Trong đó có các nghiệp thân kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tà
kiến, phát ra sự chống trái nhau. Do đó hiện ra vua Diêm vương, sứ là
người của nhà vua sai đi mời về, chủ là người sai khiến đánh đập, lại là người
coi sổ bộ làm chứng... mọi việc hiện tiền không nghi ngờ.
Do hai tập khí giao kết
với nhau nên có khám xét, mưu mẹo, tra khảo hạch hỏi, điều tra thẩm xét, vạch
bày tra cứu cho sáng tỏ, có những đồng tử thiện ác tay cầm sổ bộ chứng từ biện
bạch các việc. Thế nên tất cả Như Lai mười phương đồng gọi ác kiến là hầm kiến
chấp. Bồ-tát thấy các thiên chấp hư dối như đi vào khe núi độc.
Do nghiệp chấp theo tà
kiến, khi chết thấy bị sứ vua sai bắt, xuống địa ngục bị Diêm vương tra khảo
hỏi cung. Nếu chối thì có người cầm bộ sổ đem đến minh chứng các việc để hết
dám chối.
Chín là tập khí oan uổng
giao kết với gia hại phát ra vu oan, chê bai người, như thế nên có núi ép đá ép
lại, nghiền xay cày bừa. Như kẻ sàm tặc bức hiếp oan uổng người lương thiện. Do
hai tập khí chống đối nhau, nên có các việc ép kẹp đánh đè, ép huyết, cân
lường. Thế nên tất cả Như Lai mười phương đồng gọi sự oán ghét vu báng người là
con cọp gian. Bồ-tát thấy sự oan uổng như gặp sấm sét.
Đọa xuống địa ngục, thấy
mình đang ở giữa hai trái núi ép lại, hoặc là đi giữa hai khối đá ép lại, khiến
bị nát thây, hoặc bị bỏ trong cối đâm hoặc trong cối xay. Kẻ gian bức bách, làm
oan uổng người lương thiện khổ như thế nào thì khi chết thấy cảnh như vậy. Do
ức hiếp người nên sanh vào địa ngục chịu các khổ như thế, nên Bồ-tát xem sự vu
oan như sấm sét, không dám đến gần.
Thứ mười là tập khí thưa
kiện giao kết với cãi vã, phát ra che giấu, như thế nên có gương soi đuốc
chiếu. Như giữa ban ngày không thể giấu bóng được. Hai tập khí cùng phô bày
nhau, nên có các việc bạn ác, gương nghiệp, hỏa châu, bày hiện nghiệp xưa để
đối nghiệm. Thế nên tất cả Như Lai mười phương đồng gọi sự che giấu này là giặc
ngầm. Bồ-tát xem che giấu như là đội núi cao mà lội trong biển lớn.
Do hơn thua nên có thưa
kiện, khi thưa kiện thì lúc nào cũng đưa ra nhiều điều phải giấu điều quấy, tức
là che giấu. Đến khi chết xuống địa ngục, những gì mình làm trên nhân gian,
giấu giếm không nói ra thì lúc đó sẽ gặp những bạn ác, họ chỉ mặt nói "hồi
đó anh làm những chuyện này, tôi làm chứng". Nếu không chịu, cãi nữa thì
được dẫn lại cái gương để coi. Ví dụ hồi trước giết người, nay trên gương hiện
ra cảnh đó, gọi là gương nghiệp. Hoặc hỏa châu sáng rỡ soi cho thấy hết các
việc mình làm. Nghiệp trước bày hiện ra hết không giấu giếm được, cho nên mới
có sự đối nghiệm. Bồ-tát xem che giấu như đội núi cao mà đi vào biển lớn, ắt bị
chìm xuống tận đáy.
Trên đây là mười tập
nhân đưa đến các quả khổ. Địa ngục có những cảnh hung dữ, tàn ác, đau khổ...
như vậy là do ở thế gian chúng sanh có các tâm dâm, tham, ngã mạn, nóng giận,
lường gạt, lừa dối, oán hận, tà kiến, oan uổng, thưa kiện. Người không biết tu
cứ tạo nghiệp rồi chịu khổ, chẳng phải chỉ trả đời này mà không biết bao nhiêu
đời mới trả hết. Chúng sanh mê muội ham vui nhỏ mà chuốc khổ dài. Bởi vậy nên
Phật mới thương, dạy cho biết thức tỉnh để tránh các khổ. Như ngày nay giật
được của người ta năm, bảy chục nghìn, xài chừng nửa tháng đã hết rồi, mà
nghiệp báo sau này phải bị đọa đày bao nhiêu đời kiếp. Sự khờ dại của con người
là họ không biết tội để tránh, không biết phước để làm, vì vậy mà cứ chuốc khổ,
chẳng biết tìm con đường an vui. Đó là gốc của khổ đau.
Chúng ta kiểm lại trong
mười tâm đó, coi mình có tâm nào thì tự liệu. Nếu mình chứa cái nào thì sau này
gặp cái đó, vì có tập nhân thì cũng có quả theo cùng. Quả báo khổ đau ấy, không
phải ai khác làm ra mà chính do nhân mình đã tạo. Chúng ta học đạo phải biết rõ
tập nhân xấu để tránh thì quả khổ sẽ không đến. Nếu không tránh tập nhân thì
quả khổ nhất định phải tới.
Phần kế, Phật nói sáu
quả giao báo, tức là quả báo do kết hợp với nhau mà thành.
b. Thế nào là sáu báo?
Này A-nan, tất cả chúng
sanh do sáu thức tạo nghiệp, chiêu cảm ác báo từ sáu căn mà ra.
Phật chỉ sáu quả báo này
là do sáu thức nơi mắt tai mũi lưỡi thân ý của chúng sanh tạo thành nghiệp, nên
chuốc lấy quả báo từ sáu căn.
Thế nào là ác báo từ sáu
căn ra? Một là giao báo về thấy chiêu dẫn quả dữ. Nghiệp
giao báo về thấy này là khi lâm chung, trước thấy lửa dữ đầy cả thế
giới mười phương. Thần thức của người chết bay lên rồi rơi xuống, nương theo
khói vào địa ngục Vô gián, phát sanh ra hai tướng: một là thấy sáng, thấy khắp
các vật dữ, sanh ra kinh hãi vô cùng; hai là thấy tối, lặng im không thấy gì
hết, sanh ra sợ sệt vô lượng.
Ác báo về thấy, vời
quả báo ác dẫn tới chỗ thọ khổ. Ai đầy người ta vào địa ngục Vô gián? Chính là
do nghiệp đã tạo, đến khi chết thấy lửa cháy rần rần, không biết đâu mà chạy,
hoảng quá bay lên, gặp khói cuộn đưa vào địa ngục Vô gián. Khi vào địa ngục Vô
gián thì thấy hai tướng: thấy sáng là thấy toàn sự ác, thấy tối là không thấy
gì hết, cả hai đều làm cho người kinh sợ.
Lửa thấy như thế, thiêu
đốt cái nghe, hay làm thành chảo nước sôi, nước đồng chảy.
Đốt hơi thở thì hay làm ra khói đen lửa đỏ. Thiêu cái nếm thì
hay làm tro nóng than hừng. Đốt tâm ý thì hay sanh sao lửa xẹt
tung tóe, thổi bùng khắp cõi hư không.
Vào địa ngục thấy toàn
là lửa, lửa đốt cái thấy phát ra hai tướng thấy sáng và thấy
tối. Thấy sáng là thấy toàn những chuyện ác rồi sanh ra kinh hoàng. Thấy tối
thì tuy lặng im không thấy gì hết, nhưng cũng làm hoảng hốt sợ sệt. Đốt nghe thì
sanh ra chảo nước sôi, nước đồng nóng chảy. Đốt ngửi thì hay
làm ra khói đen, lửa đỏ. Thiêu vị thì hay làm ra cơm hay cháo sắt hoặc viên lửa
cháy đỏ, tức là một khối sắt lửa đỏ hừng, giống như giường sắt, lưới sắt nóng.
Đốt cảm xúc thì hay làm thành tro nóng, lửa than. Đốt về tâm
ý thì hay sanh tinh hỏa bính lệ, tức là những đóm lửa bay
lên tung tóe rồi rơi xuống, cũng như thợ rèn đập sắt thấy toàn là lửa văng xẹt
tứ tung. Khi gió thổi sao lửa xẹt lên, hừng hực cả cõi hư không, dấy động khắp
nơi toàn là lửa.
Hai là giao báo về nghe chiêu
dẫn quả dữ. Nghiệp nghe này giao báo thì khi lâm chung, trước
thấy sóng dậy chìm ngập cả trời đất. Thần thức của người chết rơi trong sóng,
theo dòng nước vào ngục Vô gián, phát sanh ra hai tướng: một là nghe thông thì
nghe tất cả tiếng ồn náo làm cho tinh thần rối loạn; hai là điếc đặc thì lặng
lẽ không nghe gì, hồn phách chìm trong mù mịt u tối.
Sóng nghe như thế, rót
vào nghe thì hay làm thành lời trách móc hỏi vặn. Rót
vào thấy hơi độc đầy dẫy từ xa đến gần. Thần thức của người
chết từ dưới đất vọt lên, vào địa ngục Vô gián, phát sanh ra hai tướng: một là
ngửi thông, bị các khí độc xông thẳng vào mũi làm cho tâm rối loạn; hai là ngạt
mũi thì hơi nghẹt không thông, làm cho chết giấc dưới đất.
Hơi ngửi như thế, xông
vào hơi thở thì hay làm chất ngại, làm giày xéo. Xông
lên thấy thì hay làm lửa làm đuốc. Xông lên nghe thì
hay làm chìm đắm, làm nước lớn, nước nóng. Xông lên nếm thì
hay làm đói làm lầm. Xông lên xúc thì hay làm rách nát, làm
núi thịt lớn có trăm ngàn con mắt, bị vô lượng con vật cắn mổ ăn. Xông lên ý
thì hay làm tro, chướng khí, gạch cát đá bay đáng nát thân thể.
Như vậy, tất cả những
cảnh dữ đó, người làm ác khi vừa tắt thở đã thấy liền, thần thức hoảng loạn
chạy trốn, rơi ngay vào địa ngục Vô gián, ai mà kéo ra cho kịp! Nếu có quý thầy
quý cô đứng đó tụng kinh cũng không kéo lại nổi, người chết đâu kịp nghe kinh
để xin về Cực lạc. Vì vậy, đừng có coi thường, nói chờ tới lúc chết có mấy vị
tu hành đến cứu làm sao kịp!
Bốn là giao báo về vị
chiêu dẫn tới quả dữ. Nghiệp nếm này giao báo thì khi lâm
chung trước thấy lưới sắt lửa cháy hừng hực che khắp cả thế giới. Thần thức
người chết rớt xuống mắc trong lưới, đầu bị treo ngược, liền vào địa ngục Vô
gián, phát sanh ra hai tướng: một là hít hơi vào, kết thành băng lạnh làm cho
thân thể lạnh cóng da thịt nứt nẻ; hai là nhả hơi bay ra thành lửa mạnh thiêu
rụi xương tủy.
Vị nếm như thế,
qua nếm thì làm thành nhận chịu. Qua thấy thì
hay đốt chảy vàng đá. Qua nghe thì hay làm các thứ đao binh
bén. Qua mũi thì làm lồng sắt lớn che khắp cõi nước. Qua xúc thì
hay làm cung tên nỏ bắn. Qua ý thì hay làm sắt nóng bay, từ trên không rơi
xuống như mưa.
Năm là giao báo về xúc chiêu
dẫn quả dữ. Nghiệp xúc này giao báo thì khi lâm chung trước
thấy núi lớn bốn phía áp lại không còn đường ra. Thần thức người chết thấy
thành sắt lớn, rắn lửa chó lửa, cọp sói sư tử, ngục tốt đầu trâu, la-sát đầu
ngựa, tay cầm thương mâu xua vào trong cửa thành, thẳng vào địa ngục Vô gián,
phát sanh ra hai tướng: một là hợp xúc thì thấy núi áp lại đè ép thân thể,
xương thịt máu mủ tuôn chảy; hai là ly xúc thì thấy đao kiếm chạm vào thân, tim
gan bị cắt nát.
Thần thức của người chết
thấy các núi áp lại, có thành sắt lớn, trong ngoài đâu đâu cũng toàn là lửa,
lại có mấy con thú lửa, ngưu đầu ngục tốt, mã đầu la-sát tay cầm thương, mâu
xua vào trong cửa thành. Khi ấy do hoảng sợ, không còn có thời gian để suy nghĩ
gì nữa, cùng đường rồi phải đi thẳng vào địa ngục Vô gián, chịu các cảnh thống
khổ. Lúc đó, ở trên nhân gian con cháu dù có cúng gì, thần thức người chết cũng
không thể hưởng.
Xúc hợp như thế, trải
qua xúc thì hay làm ra đạo, quán, sảnh, án.
Đạo là thấy con đường tội nhân đi vào địa ngục. Quán là
những tòa nhà cao lớn trong địa ngục. Sảnh là chỗ người ta tra
hỏi. Án là cái bàn xét hỏi. Đây toàn là những cảnh của địa
ngục.
Qua thấy thì
hay làm thiêu đốt. Qua nghe thì hay làm đánh, đập, đâm, bắn. Qua hơi
thở thì làm trùm bắt, đẫy nhốt, đánh khảo, cột trói. Qua nếm thì
làm cày, làm kìm, chém, chặt. Qua ý thì hay làm rơi xuống, bay
lên, nấu, nướng.
Phần này giao báo về xúc
tức quả báo của thân, thần thức thấy toàn cảnh dữ, rồi rơi vào địa ngục, chịu bao
nhiêu thứ khổ.
Sáu là giao báo về ý
chiêu dẫn quả dữ. Nghiệp ý này giao báo thì khi lâm chung
trước thấy gió dữ thổi nát cõi nước. Thần thức người chết bị gió thổi lên hư
không, xoay rơi theo gió mà vào địa ngục Vô gián, phát sanh ra hai tướng: một
là không biết, mê muội quá thành ra hoảng hốt, chạy đi không dừng; hai là không
mê, hay biết thì khổ, bị thiêu đốt không cùng rất là đau đớn khó mà chịu nổi.
Như thế ý sai lầm kết
với ý nghĩ thì hay làm ra nơi chốn. Kết nơi thấy thì
hay làm gương soi, làm chứng cứ.
Nơi chốn là chỉ những
chỗ hành hạ tra tấn. Khi người ta xét tội, nếu chối thì có người làm chứng như
gương soi, cho biết là đang chối.
Kết nơi nghe thì
hay làm đá lớn hợp lại, làm băng, sương, đất, mù. Kết nơi hơi thở thì
hay làm ra những tiếng kêu to, làm hối hận, khóc lóc. Kết ở xúc thì
hay làm ra lớn, nhỏ, làm cho trong một ngày mà muôn lần sống muôn lần chết, làm
nghiêng làm ngửa.
Trong địa ngục khổ quá,
muốn chết cũng không được. Chết rồi gió thổi sống lại, chịu khổ rồi chết, chết
rồi sống lại nữa, muôn vạn lần trong một ngày, năm này qua tháng nọ hành hạ
hoài không biết chừng nào ra. Chúng ta chết có một lần mà còn sợ, huống là chết
quá nhiều lần. Đó là cảnh khổ của địa ngục Vô gián.
Người không lo tu lỡ rơi
xuống đó rồi, dù kêu la cũng không ai cứu nổi, lúc đó chỉ riêng một mình chịu
thôi. Khi còn sống ăn gian, trộm cướp mang tiền của về, có người này người kia
ăn chia, tới chừng rơi xuống địa ngục không ai chia tội cùng mình. Bởi vậy
người tu rồi mà còn tham lam của này vật kia, sau rơi xuống địa ngục chịu hình
phạt thật là tủi, mới thấy đó là sự ngu si của mình. Ở ngoài thế gian vì không
hiểu, tham lam, làm những điều tội lỗi để được tiền của, nhiều người cùng
hưởng, khi chết phải một mình chịu khổ. Người tu nhiều khi không tỉnh giác,
cũng có những lúc tham lam chen vào, tạo chút ít tội lỗi rồi phải đọa, thật
khổ!
Cho nên biết rồi, chúng
ta dè dặt từng hành động, từng lời nói, từng ý niệm, đừng để cho ba nghiệp tạo
ác. Nếu tạo rồi thì sau này giả sử bị cùi bị mù... khổ sáu bảy chục năm là
cùng, còn xuống đó chết đi sống lại khổ ngàn muôn năm, vậy mà người ta lại
không sợ. Cứ tưởng rằng mình gian lận qua mắt thiên hạ được nên không sợ, không
ngờ xuống đó có người làm chứng, có gương nghiệp soi, không thể chối được.
Sáu giao báo do sáu căn
tạo ra. Một căn tạo nghiệp sẽ sanh ra các khổ qua những căn khác. Ví dụ như căn
mũi thì có nghiệp của mũi, đồng thời có những nghiệp các căn khác phải chung
chịu. Do nơi sáu căn chính là lục tặc dẫn đi xuống địa ngục chịu khổ đau. Vì
vậy người tu phải biết dè dặt nơi mỗi căn, đừng để tạo nghiệp.
Này A-nan, ấy gọi là
mười nhân sáu quả trong địa ngục, đều do chúng sanh mê vọng mà tạo ra. Nếu các
chúng sanh đồng tạo nghiệp ác thì vào trong địa ngục A-tỳ chịu vô lượng khổ
trải qua vô lượng kiếp.
Không phải có ai sắp đặt
tạo sẵn chỗ đó, chỉ do mê vọng của chúng sanh tạo ra. Nếu nhiều người cùng mê
vọng tạo nghiệp ác giống nhau thì liền có địa ngục A-tỳ, để họ đến chịu vô
lượng khổ trong vô lượng kiếp. Thân đánh đập người, miệng chửi mắng người...
gốc đều từ ý. Ý nổi giận nên miệng mới chửi, thân mới đánh, nhưng tới chừng hết
giận, tìm cái nổi giận trước không thể thấy. Nó là hư vọng không thật nhưng một
khi theo nó rồi thì tạo nghiệp không thể lường.
Ví dụ một người có sức
mạnh lại biết võ, ra chợ mua hàng. Cô bán hàng phách lối, nghe người này nói
câu gì đó không vừa ý liền chửi bừa vô mặt. Người đó ỷ có võ giơ tay đánh một
cái, cô bán hàng té ngửa bất tỉnh, chết luôn. Như vậy, nổi giận đánh có một cái
thôi mà người ta chết thì phải chịu ở tù bao lâu? Cái nổi giận đó không thật,
chỉ một phút giây tạo nghiệp mà khổ kéo dài không biết bao lâu. Huống là cả đời
tạo nghiệp ác thì khổ chừng bao nhiêu?
Do đó phải dè dặt, biết
ý vốn không thật thì có nổi nóng gì cũng nhớ nó không thật, rồi buông bỏ đừng
theo thì mọi việc an ổn. Trái lại theo nó tạo nghiệp thì phải chịu khổ, không
biết ngày nào ra. Phật dạy quá rõ, bởi chúng sanh mê vọng tạo nghiệp chứ không
phải thật, nhưng đã tạo rồi thì cảnh địa ngục A-tỳ liền có, phải đến để chịu
quả khổ. Không phải Trời Phật ác ý muốn tạo địa ngục cho mình xuống; vì mình
tạo nghiệp ác cho nên có cảnh khổ tương ưng với nghiệp của mình.
Cũng vậy nếu chúng ta
không biết tu thì một phen tạo điều ác rồi, phải chịu khổ không biết bao lâu,
thời gian không nhất định. Thế gian không thiếu những chuyện vì tham sân mà tạo
nghiệp. Như mấy người tham, thấy có người cầm túi đồ quý, giật túi, bị công an
bắt liền. Từ dấy lòng tham đến giật túi chỉ chừng năm mười phút, nhưng tới
chừng bị bắt ở tù thì bao lâu? Như vậy mới thấy tham sân xảy ra thời gian rất
ngắn nhưng quả báo của nó thật là dài.
Hiểu vậy mới thấy phiền
não đáng sợ, còn không hiểu thì coi nó rất thường, nổi giận cứ làm, hoặc dấy
lòng tham cứ làm, rồi chuốc lấy hậu quả không lường trước nổi. Vậy nên Phật dạy
chúng ta phải buông bỏ tâm tham lam, nóng giận, si mê nơi mình, đừng để tạo
nghiệp ác, như vậy là thoát khổ.
Nơi sáu căn, mỗi căn tạo
và nghiệp đã tạo kia, gồm cả cảnh và căn, người ấy hẳn vào tám địa ngục Vô
gián. Nếu cả ba thân khẩu ý tạo nghiệp giết trộm dâm thì người ấy hẳn vào mười
tám địa ngục. Không gồm đủ ba nghiệp, trong đó hoặc giết hoặc trộm, người ấy
hẳn vào ba mươi sáu địa ngục. Hiện thấy một căn riêng phạm một nghiệp, người ấy
ắt hẳn vào một trăm lẻ tám địa ngục.
Do những chúng sanh ấy
riêng làm riêng tạo mà chỗ đồng phần trong thế giới. Đó là do vọng tưởng phát
sanh, không phải từ trước đến nay đã sẵn có.
Như vậy, khi tạo nghiệp
thì tạo riêng, nhưng chịu quả lại đến chỗ chung, chỉ do vọng tưởng phát sanh
chứ không phải địa ngục có sẵn từ trước. Như ở thế gian, những người tạo nghiệp
trộm cướp là mỗi người tạo riêng, nhưng tới chừng vào tù thì ở tù chung. Chung gọi
là đồng phần, còn riêng gọi là biệt nghiệp, nghiệp thì tạo
riêng mà kết quả là tới chỗ chung.
Tuy địa ngục không phải
sẵn có, nhưng nếu tạo nghiệp ác thì có. Lý này quá đúng, ở thế gian cũng vậy.
Giả sử như trong một làng không có sẵn nhà tù, nhưng nếu có người nào ăn cướp,
giết người, bị bắt đem nhốt, thì chỗ nhốt, đánh đập đó trở thành nhà tù. Nếu có
nhiều người cùng tội thì phải có chỗ nhốt chung. Như vậy tất cả khổ trong địa
ngục, phải có chỗ chung để cùng chịu, gốc từ hư vọng tạo ra chứ không thật có.
Nếu tất cả mọi người đều
hiền lành, không ai phạm pháp luật nhà nước, thì các khám đường sẽ đổi thành
trường học, nhà nuôi trẻ... Ở thế gian cũng như cảnh sau khi chết, nếu mình tạo
nghiệp thì mới có cảnh dữ chứ không phải có sẵn cố định.
3. Dư báo
Lại nữa A-nan, những
chúng sanh ấy chẳng phải phá hoại luật nghi, phạm giới Bồ-tát, hủy báng
Niết-bàn của Phật, mà tạo các tạp nghiệp khác, nhiều kiếp phải bị thiêu đốt.
Sau khi đền tội xong rồi, chịu các hình quỷ.
Sau khi đọa địa ngục rồi
còn có nghiệp thừa, chiêu cảm quả báo đọa vào loài quỷ. Như vậy không phải ra
khỏi địa ngục là trở lại làm người liền, mà còn nghiệp thừa, có khi phải làm
quỷ. Ra khỏi loài quỷ còn có nghiệp thừa, phải làm súc sanh. Vậy là khi đi
xuống thì đi một hơi từ người thẳng xuống địa ngục, không có thứ bậc, nhưng lúc
trở lên phải đi từng chặng, từng bậc một để trả dư báo.
Nếu người kia do nhân trước
tham đồ vật mà bị tội, người ấy đền tội xong, gặp vật thành hình, gọi là Quái
quỷ.
Ví dụ do tham vàng hay
tham ngọc mà thành tội, sau khi đọa địa ngục rồi lên kiếp quỷ, thấy vàng ngọc
liền gá vô thành quỷ, gọi là Quái quỷ. Người ta thường nói đồ báu chôn giấu lâu
ngày thành yêu, thành quỷ, là do các loài đó ảnh hưởng.
Nếu do tham sắc làm
thành tội, người ấy đền tội xong rồi, gặp gió thành hình, gọi là Bạt quỷ. Nếu
do tham mê làm thành tội, người ấy sau khi đền tội xong, gặp loài súc sanh
thành hình, gọi là Mỵ quỷ.
Bạt quỷ là những con quỷ
phiêu bạt. Còn Mỵ quỷ là những con thú sống lâu thành tinh, do thần thức người
làm tội khi hết ở địa ngục rồi lên dựa.
Do tham hờn giận làm
thành tội, người ấy đền tội xong rồi, gặp loài sâu trùng thành hình, gọi là Cổ độc
quỷ. Do tham nhớ lỗi làm thành tội, người ấy đền tội xong rồi, gặp các loại suy
thành hình, gọi là Lệ quỷ.
Nhớ đây là giận ai, buồn ai, nhớ đời đời không
bỏ. Suy là các thứ sắp hoại, như nhà cũ sắp hoại, bỏ không,
thì loài quỷ dựa vào.
Do tham kiêu ngạo làm
thành tội, người ấy khi đền tội xong, gặp khí thành hình, gọi là Ngạ quỷ. Do
tham lừa dối thành tội, người ấy sau khi đền tội rồi, gặp u tối thành hình, gọi
là Yểm quỷ.
Do hơi nóng hơi lửa bị
đói khát, thành ra Ngạ quỷ. Khi có người làm hình nhân rồi ếm, quỷ dựa vào đó
để phá người, gọi là Yểm quỷ.
Do tham sự sáng (tham vẻ
đẹp) làm thành tội, người ấy khi đền tội xong, gặp tinh hoa thành hình, gọi là
Võng lượng quỷ. Do tham sự thành tựu mà làm thành tội, người ấy khi đền tội
xong, gặp cái sáng thành hình, gọi là Dịch sử quỷ. Do tham bè đảng làm thành
tội, người ấy khi đền tội xong, gặp con người thành hình, gọi là Truyền tống
quỷ.
Có những người luyện
thiên linh cái, lấy sọ người chết để luyện. Quỷ theo mấy người này và làm tay
sai, người luyện sai quỷ làm các việc thay cho họ. Ví dụ có ai đến coi tay coi
tướng gì đó, người luyện sai quỷ tới nhà người coi lấy tin tức về báo cho họ,
nên gọi là Truyền tống quỷ, chuyên dựa vào người.
Này A-nan, những người
ấy đều do thuần tình mà rơi xuống. Lửa nghiệp thiêu đốt khô, trở lên làm quỷ.
Như vậy mới thấy thuần
tình là gốc rơi vào địa ngục, hết nghiệp dưới địa ngục thì trở lên làm
quỷ.
Những loài này đều do
nghiệp vọng tưởng chiêu cảm mà dẫn đến. Nếu ngộ được đạo Bồ-đề thì nơi tánh
diệu viên minh vốn không có việc ấy.
Nếu giác ngộ được Bồ-đề
rồi, thì nơi tánh mầu tròn sáng không có những cảnh địa ngục ngạ quỷ.
Như vậy, quả báo thừa là
sau khi trả báo địa ngục xong, không phải ngang đó hết, mà còn trở lên làm quỷ.
Hết làm quỷ, vẫn còn chút ít những nghiệp thừa thì làm súc sanh để đền trả, vì
loài súc sanh đời sống ngắn, nên chỉ chịu khổ thời gian ngắn. Như thế, địa ngục
tuổi thọ rất dài, tỷ dụ là một muôn năm, trả xong lên làm loài ngạ quỷ vài ngàn
năm, làm súc sanh chừng ít năm. Vậy là từ nghiệp báo rất khổ thì tuổi thọ thật
dài, tới nghiệp thừa chút ít, khổ kém hơn thì tuổi thọ cũng kém chút ít, sau đó
nghiệp thừa còn rất ít, khổ ít hơn thì tuổi thọ cũng ít hơn. Nghiệp báo còn
thừa nhiều thì khổ đậm, còn thừa ít thì nhẹ hơn.
Lại nữa, này A-nan,
nghiệp quỷ đã hết thì cả hai tình và tưởng đều thành không, mới ở nơi thế gian
cùng với những người mình thiếu nợ trước, oán thù gặp lại, thân làm súc sanh để
trả nợ đời trước.
Tình và tưởng ngang đó
xem như xóa hết, không phải nhờ tu mà là do thiêu đốt khô hết. Rồi trở lên nhân
gian, cùng những người trước kia mình đã thiếu nợ, ân oán gặp lại nhau để trả,
chứ chưa phải hết. Trả bằng cách làm thân súc sanh để đền đủ nợ cũ.
Loài Quái quỷ theo vật,
khi vật đó tiêu thì quả báo hết, sanh ở thế gian phần nhiều làm loài chim kiêu.
Loài Bạt quỷ theo gió, gió tiêu thì quả báo hết, sanh ở thế gian phần nhiều làm
các loài báo điềm dữ.
Vật quái là quỷ gá vào vật. Chim báo điềm dữ như chim ụt, chim
cú, hễ nghe tiếng kêu là người ta thường chọi đuổi.
Loài Mỵ quỷ theo thú
vật, khi con vật chết thì quả báo hết, sanh ở thế gian phần nhiều làm loài
chồn.
Loài này nương theo con
vật mà thành quỷ. Con vật chết rồi sanh lên làm chồn, chồn này là loại thường
chứ không phải là chồn tinh nữa.
Loài Cổ quỷ theo trùng
bọ, khi trùng độc chết thì quả báo hết, sanh ở thế gian phần nhiều làm các loài
độc. Loài Lệ quỷ theo sự suy hoại, khi suy dứt thì quả báo hết, sanh ở thế gian
phần nhiều làm các loài giun sán.
Cổ quỷ khi hết quả báo, sanh lên làm các loài có nọc độc như
rắn, rít v.v…
Lệ quỷ dựa vào những chỗ sắp tan hoại. Như khi chúng ta
đi tới nhà nào đang hưng thịnh phát đạt thì thấy có vẻ quang đãng sáng sủa, còn
tới nhà nào thấy u trệ hoang tàn biết là đang suy. Hồi xưa, thường các nhà giàu
khi suy thì quỷ dậy. Đó là loại suy quỷ, thấy chỗ nào suy tàn thì dựa vào.
Không ai bắt buộc nó tới đó, chỉ vì nghiệp của nó, thích dựa vào chỗ suy để phá
thêm.
Ngạ quỷ theo khí, khi
khí tiêu thì quả báo hết, sanh ở thế gian phần nhiều làm các loài cho người ăn
thịt. Loài quỷ kết với u tối, khi u tối tiêu thì quả báo hết, sanh ở thế gian
phần nhiều làm loài cung cấp đồ mặc. Quỷ hòa với tinh hoa, khi tinh hoa tiêu
thì quả báo hết, sanh lên thế gian phần nhiều làm các loài ứng.
Ứng tức là đáp ứng những gì người ta gọi hoặc kêu làm,
thường nói "bên này hô, bên kia ứng". Những loài người ta nuôi, dạy
nó làm theo lệnh chủ sắp đặt gọi là ứng, như con khỉ, chim, chó
v.v...
Quỷ minh linh khi sáng
diệt thì quả báo hết, sanh ở thế gian phần nhiều làm những loài báo điềm lành.
Hưu trưng là những loài báo điềm lành như bồ câu, chim khách, sáo,
cưỡng v.v…
Quỷ nương nơi người, khi
người chết thì quả báo hết, sanh ở thế gian phần nhiều làm các loài đi theo
người.
Sanh lên làm các loài
con người nuôi như chó hay mèo... cứ đi theo quanh quẩn bên người.
Này A-nan, những loài ấy
đều do lửa nghiệp đốt khô, kế đó làm súc sanh đền trả nợ trước. Những loài này
cũng đều từ nghiệp hư vọng chiêu cảm mà dẫn đến. Nếu ngộ được Bồ-đề thì vọng
duyên này vốn không thật có.
Từ địa ngục rồi làm ngạ
quỷ, còn một chút nghiệp, kế đó làm súc sanh. Chúng ta thấy làm con bò con heo,
trâu chó cũng khổ quá rồi, vậy mà vẫn là nhẹ. Nghiệp chánh là địa ngục, phụ là
ngạ quỷ, còn một chút bên cạnh đó là làm súc sanh.
Như ông đã nói nhóm Bảo
Liên Hương, vua Lưu-ly, Tỳ-kheo Thiện Tinh, vốn tự mình tạo ta những nghiệp ác
như thế, chẳng phải từ trời rơi xuống cũng không phải từ dưới đất vọt ra, cũng
không phải người khác đem tới, chỉ do mình vọng gây ra, trở lại tự nhận chịu
quả báo. Trong tâm Bồ-đề, đó đều là vọng tưởng hư dối nhưng kết lại.
Những nghiệp ác đó là do
vọng tưởng hư dối ngưng kết lại trong tâm Bồ-đề, chứ không phải Bồ-đề có nghiệp
ấy. Cũng giống như dưới biển có bọt có sóng, đối với mặt biển thì sóng không
phải là mặt biển, bọt không phải là biển. Tuy nhiên, khi đã có nghiệp thì chỉ
thấy sóng, thấy bọt mà không thấy biển. Quên biển là quên chỗ chân thật vậy.
Sau khi từ địa ngục qua
ngạ quỷ đến súc sanh, bây giờ tới làm người, cũng còn một chút thừa nữa.
Lại nữa A-nan, từ loài
súc sanh ấy đền trả nợ trước. Nếu lúc trả quá phần nợ cũ của họ, thì những
chúng sanh này trở lại làm người đòi lại phần thừa kia.
Vậy nên đừng ỷ mình có
phước, trong nhà nuôi bò trâu chó mèo, rồi nghĩ nó mang nghiệp xấu, nó thiếu nợ
mình, tha hồ hành hạ quá mức. Đến chừng nó trở lại làm người, sẽ tìm người kia
đòi lại nợ thừa đó.
Nếu như người kia có thế
lực và có phước đức thì ở trong loài người, chưa bỏ thân người mà trả lại nợ dư
đó. Nếu người không có phước, phải trở lại làm súc sanh để hoàn trả phần nợ dư
đó.
Ví dụ như người nuôi bò
hay trâu, bắt nó cày bừa. Nó là con vật giúp sức mà người ấy còn đánh đập, hành
hạ nó quá mức, lẽ ra khi nó hết nghiệp, được sanh làm người, người chủ ấy phải
sanh làm trâu bò để trả lại phần nợ dư. Nhưng nếu người chủ kia có phước đức
thì khi con vật sanh làm người, người chủ ấy cũng vẫn làm người, nhưng lâu lâu
lại bị nó làm khó làm dễ, làm khổ đôi chút để đòi nợ thừa. Nếu không có phước,
lỡ lấy dư thì phải trở lại làm súc sanh trả đủ. Bởi vậy, phải tu cho có phước
đức là điều thiết yếu.
A-nan! Phải biết nếu
dùng tiền vật hoặc sai sử sức lực của chúng, trả đủ thì tự dừng. Nếu như trong
khoảng giữa đó lại còn giết thân mạng hoặc ăn thịt chúng, như thế cho đến trải
bao số kiếp như vi trần, ăn nhau giết nhau, giống như bánh xe lăn, xoay vần
thay đổi trên dưới không có ngưng dứt. Trừ người được chánh định và gặp Phật ra
đời, còn lại thì không thể dừng.
Con vật sanh ra trong
nhà chủ để trả nợ, người chủ bắt làm gì đều phải làm, nó nợ tiền không nợ mạng,
vậy mà còn ăn thịt nó tức là dư, dĩ nhiên phải nợ lại phần máu thịt đó, sau trở
lại trả nợ máu thịt. Như thế mà xoay vần ăn nuốt lẫn nhau, như bánh xe lên rồi
xuống, xuống rồi lên không dừng. Vòng luân hồi là vậy.
Nay ông nên biết loài
chim kiêu kia, khi trả nợ đủ rồi, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp
với hạng ngoan cố.
Ngoan cố hay ngoan cường
là cứng đầu cứng cổ, làm điều quấy, người khác chỉ cho mà không chịu nghe không
chịu nhận.
Loài chim báo điềm dữ
kia trả nợ hết, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp với hạng quái dị.
Loài chồn kia khi đền trả nợ hết, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp
với hạng dung tục.
Các loài chim báo điềm
xui xẻo như chim cú, sanh lên loài người, do nghiệp báo còn, nên làm người ngu
ngốc, quái lạ. Các loài chồn thì gian xảo không lương thiện nên tầm thường.
Loài độc kia khi trả nợ
hết, trở lại có thân sanh trong loài người, thích hợp với hạng tàn ác. Loài
giun kia khi trả nợ hết, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp với hạng
nhỏ nhen.
Quả với nhân như nhau,
loài giun, trùng, sùng, sên... khi trở lại được sanh cõi người thì hợp với hạng
nhỏ nhoi ty tiện, ưa làm chuyện nhỏ nhít, chấp nê từng chút, bòn mót từng chút
từ cây kim sợi chỉ.
Loài bị người ta ăn
thịt, khi trả nợ hết, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp với hạng
nhu nhược.
Vì sanh trong loài bị
người ăn thịt, bị đâm họng, lột da... trong lòng luôn sợ hãi, nên sanh ra nhu
nhược.
Loài sanh ra để làm đồ
mặc, khi trả hết nợ, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp với hạng lao
nhọc.
Vì loài này luôn cần mẫn
như tằm nhả tơ để cho người có đồ mặc, nên hợp với lao nhọc.
Loài ứng kia khi trả hết
nợ, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp với hạng văn vẻ.
Loài ứng lanh
lẹ, người ta kêu liền biết đáp ứng, nên khi làm người hợp với hạng văn vẻ.
Loài chim đem điềm lành,
khi trả nợ hết, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp với hạng sáng
suốt. Các loài đi theo người, khi trả nợ hết, trở lại có thân sanh trong loài
người thì hợp với hạng thông suốt.
Các loài chim đem điều
tốt này luôn mang niềm vui, lợi ích cho người nen hợp với hạng sáng suốt.
Này A-nan, những hạng đó
do nợ đời trước đã trả xong, trở lại được thân trong cõi người, đều từ vô thủy
đến nay nghiệp chấp điên đảo, sanh nhau giết hại nhau, không được gặp Như Lai,
không được nghe chánh pháp, ở trong trần lao cứ thế mà luân hồi. Những bọn này
gọi là đáng thương xót vậy.
Những chúng sanh trả
xong nợ ở địa ngục ngạ quỷ súc sanh thì trở lại làm người. Khi làm người cũng
còn chút báo thừa của đời trước nên tùy loài mà hợp, vì vậy trong nhân gian có
kẻ không người dại, có kẻ nham hiểm người độc ác... Đó là tùy theo hạt giống
đời trước còn lưu lại.
II. MƯỜI THỨ TIÊN
Này A-nan, lại có chúng
sanh từ loài người không y nơi chánh giác tu chánh định, riêng tu theo vọng
niệm, giữ tư tưởng bảo vệ thân hình, dạo nơi rừng núi chỗ không có người đến,
thành mười thứ tiên.
A-nan, những chúng sanh
kia do kiên cố ăn thức bổ dưỡng không dừng nghỉ, khi đạo ăn được thành tựu gọi
là Địa hành tiên. Kiên cố dùng cỏ cây không dừng nghỉ, khi đạo thuốc được thành
tựu gọi là Phi hành tiên. Kiên cố dùng vàng đá không dừng nghỉ, khi đạo biến
hóa được thành tựu gọi là Du hành tiên.
Địa hành tiên vì còn ăn những thứ mà họ cho rằng sẽ làm cho thân họ
sống lâu bền, nên còn đi dưới đất chưa bay lên được. Phi hành
tiên chỉ dùng thuốc nên nhẹ hơn, bay được. Lại có các ông tiên luyện
đá hóa thành vàng, hoặc chế luyện các thứ thuốc. Luyện theo cách biến hóa như
vậy nên gọi là đạo hóa.
Kiên cố dùng cái động và
dừng không dừng nghỉ, khi khí tinh thành tựu gọi là Không hành tiên.
Động là sự biến động, dừng là sự yên tịnh,
những vị này lấy đó làm phương châm để luyện tập. Như khí công, các lối luyện
tập hơi thở, hít vô tới đâu rồi dừng lại để cho nó đi ra chỗ nào... Dùng cái
động và dừng mà luyện, chỉ chuyên về khí nên bay được trên không.
Kiên cố dùng nước miếng
không dừng nghỉ, khi nhuận đức được thành tựu gọi là Thiên hành tiên.
Những vị này ngồi thiền,
co cái lưỡi trên ổ gà để đón nước miếng chảy xuống rồi nuốt, cho là nước cam
lồ.
Kiên cố hấp thụ tinh sắc
không dừng nghỉ, khi hấp thụ tinh hoa được thành tựu gọi là Thông hành tiên.
Kiên cố luyện phù chú không dừng nghỉ, khi pháp thuật được thành tựu gọi là Đạo
hành tiên. Kiên cố suy tư không dừng nghỉ, khi sự nghĩ nhớ được thành tựu gọi
là Chiếu hành tiên. Kiên cố giao cấu không dừng nghỉ, khi cảm ứng được viên
thành gọi là Tinh hành tiên. Kiên cố về biến hóa không dừng nghỉ, khi giác ngộ
được viên thành gọi là Tuyệt hành tiên.
Trong thân người có tứ
đại, nhưng nổi hơn hết là nước và lửa. Những vị này vận dụng lửa với nước gặp
nhau để chuyển hóa gọi là giao cấu. Lửa đốt nước, nước thành hơi tức là khí, là
lối "chuyển tinh hóa khí, chuyển khí hóa thần".
Này A-nan, những vị này
đều ở trong loài người mà luyện tâm, không tu chánh giác, riêng được lẽ sống,
thọ ngàn muôn tuổi, ẩn trong núi sâu hoặc ở trên đảo giữa biển lớn, xa cách chỗ
người ở. Đây cũng là vọng tưởng lưu chuyển luân hồi. Vì không tu chánh định,
khi quả báo hết, trở lại phân tán vào trong các đường.
Những vị này do công phu
luyện tập, tuổi thọ tuy dài nhưng rồi cũng phải chết, cũng luân hồi trong lục
đạo chứ chưa ra khỏi. Như vậy công phu rất cực mà kết quả không phải là viên
mãn.
III. CÁC CÕI TRỜI
1. Dục giới
Đây là các cõi trời
Dục giới, những người cư sĩ biết tu thiền, đối với ái dục ngày một bớt lần,
công phu tu cao lên thì sẽ sanh vào các cõi trời.
Này A-nan, những
người ở thế gian không cầu thường trụ, chưa thể xả bỏ ân ái thê thiếp, nhưng
tâm không buông lung trong tà dâm. Do lóng tâm được trong lặng thì phát sanh
sáng suốt, sau khi mạng chung họ gần với mặt trời mặt trăng. Một loại như thế
gọi là Tứ thiên vương thiên.
Những người này
không cầu được mãi mãi an trụ Niết-bàn, cũng chưa có thể xả bỏ ân ái thế tục,
họ vẫn có gia đình, nhưng không phạm lỗi tà dâm. Nhờ biết tu thiền định, tâm họ
được trong sáng nên khi chết sanh ở cõi trời Tứ thiên vương.
Đối với vợ mình,
dâm ái giảm bớt, trong lúc ở yên chưa được toàn vị, sau khi mạng chung vượt quá
ánh sáng mặt trời mặt trăng, ở trên đảnh nhân gian. Một loại như thế gọi là
Đao-lợi thiên.
Những người này có
gia đình, tuy chưa được hoàn toàn trong sạch nhưng đối với ái dục đã mỏng bớt
thì chết rồi được sanh Đao-lợi thiên.
Gặp dục thì tạm
theo, qua rồi không nghĩ nhớ, ở trong nhân gian động ít tịnh nhiều, sau khi
mạng chung sáng rỡ an trụ ở trong hư không, ánh sáng mặt trời mặt trăng không
chiếu đến được, những người ấy tự có ánh sáng. Một loại như thế gọi là
Tu-diệm-ma thiên.
Những người này đối
với dâm dục nhẹ mỏng, chỉ còn một ít, lại biết tu tịnh nên được sanh cõi trời
Tu-diệm-ma.
Tất cả thời đều yên
tĩnh, nhưng khi có sự xúc chạm đến thì chưa thể chống lại, sau khi mạng chung
sẽ lên trên chỗ tinh vi, không tiếp xúc với các cảnh trời người cõi dưới, cho
đến khi kiếp hoại, tam tai cũng không đến được. Một loại như thế gọi là
Đâu-suất-đà thiên.
Khi một đại kiếp
sắp hết sẽ lần lượt có ba tai nạn lớn nhiễu hại từ cõi người đến cõi Tam thiền:
nạn nước, nạn lửa và nạn gió bão. Người ở thế gian nếu biết tu cũng có thể sanh
lên cõi trời Đâu-suất-đà, không có ba nạn này.
Mình không có tâm
dục, đáp ứng với người khác mà làm, lúc bày ra những việc ấy, vị như là nhai
sáp, sau khi mạng chung vượt lên sanh vào cõi biến hóa. Một loại như thế gọi là
Lạc biến hóa thiên.
Không có tâm thế
gian, chỉ đồng với thế gian mà làm việc dục, lúc làm việc ấy rõ ràng là vượt
lên trên, sau khi mạng chung đều hay ra khỏi cảnh giới biến hóa và không biến
hóa. Một loại như thế gọi là Than hóa tự tại thiên.
Này A-nan, sáu cõi
trời như thế, hình thức tuy ra khỏi động mà dấu tâm còn dính mắc. Từ đây trở
lại trước gọi là Dục giới.
Trong kinh
Lăng-nghiêm này nói sáu đường luân hồi của chúng sanh là: địa ngục, ngạ quỷ,
súc sanh, nhân, tiên và thiên. Không thấy kể a-tu-la. Có lẽ chữ tiên này gần
với Trung Hoa hơn. Người ta thường nói "tu tiên", ít ai nói tu theo
hạnh a-tu-la.
Tiên cũng chưa hết
thất tình lục đục. Vì vậy khi có ai chọc tức, mấy ông tiên cũng xuống núi. Xem
truyện thấy học trò của tiên đánh nhau rồi về mách với thầy, thầy cũng xuống
trần bênh học trò. Như vậy là họ chưa thật giải thoát, chỉ do công phu tu luyện
lâu năm nên củng cố thân hình bền bỉ, sống lâu. So sánh thì đâu bằng các thiền
sư. Thiền sư không cần củng cố gì, nhưng cũng có thể để lại nhục thân mấy ngàn
năm không hoại, còn thân một vị tiên ngày nay cũng không thấy có. Do đây mới
thấy pháp Phật quá vi diệu, ngoài chuyện giải thoát còn có những thứ rất siêu
thoát, không thuộc công phu luyện tập thường tình nữa.
Đoạn trên, ngài
A-nan thưa hỏi Phật: Tất cả chúng
sanh đều từ nơi chân như, chư Phật cũng trở về chân như, tại sao chân như đó
lại sanh ra lục đạo chúng sanh? Lục đạo chúng sanh phát sanh ra đó, là tự sẵn
có hay do chúng sanh tạo nghiệp rồi mới có? Đến đây, chúng ta
mới thấy rõ ý Phật trả lời: Gốc ban đầu
là bản thể diệu minh chân tâm, trong đó không có lục đạo luân hồi. Nhưng hiện
nay thấy có lục đạo luân hồi là do vọng nghiệp của chúng sanh mới có?
Phật trả lời: Cảnh địa ngục không có sẵn, không cố định,
nhưng do vọng tưởng người đời tạo thành nghiệp rồi đi theo nghiệp. Nếu nhiều
người cùng tạo một nghiệp giống nhau thì sẽ có cảnh để cho họ cùng chịu trả
nghiệp, gọi là đồng phần. Vậy cảnh địa ngục không phải từ trên
trời xuống, không phải từ dưới đất lên, không phải người tạo mà chính vì mỗi
người tạo nghiệp riêng, cộng những cái riêng thành chung nên có địa ngục. Giống
như thế gian nếu có nhiều người trộm cắp thì sẽ có khám nhốt họ vì tội ấy.
Nhiều người làm chính trị phạm tội thì có khám để nhốt những người phạm tội chính
trị…
Những cảnh địa ngục
nghe rởn gáy đó từ đâu mà ra? ai bày sẵn cho mình? Chính mình, nhưng mình là
cái gì? Là những vọng tưởng điên đảo. Do vọng tưởng điên đảo mà tạo thành
nghiệp. Đây là mấu chốt tạo nên các đường khổ. Giờ đây biết tu, chúng ta chặn
ngay vọng tưởng điên đảo, chặn mấu chốt đó thì mọi đường khổ dứt.
Tu là nhắm thẳng
động cơ chủ yếu mà dừng. Có bao giờ chửi nhau đánh nhau mà không do giận. Vậy
giận là mấu chốt ban đầu. Khi chúng ta dừng được cơn giận thì đâu còn xảy ra
chuyện đánh chửi, làm gì có nghiệp ở tù. Như vậy động cơ chủ yếu mà chặn được
ngay từ ban đầu, thì mọi khổ đau dài lê thê không bao giờ có. Tuy nhiên, người
thế gian có biết chặn không? Họ cứ thả cho vọng tưởng điên đảo chạy, rồi nó kéo
đi đủ các đường, nếm đủ mùi. Nếu ai muốn nếm đủ mùi thì cứ thả nó chạy. Ai sợ
không muốn đi trong các đường dữ đó thì dừng lại.
Tu tức là dừng lại,
đừng cho vọng chạy nữa. Nếu dừng lại được thì trở về tâm tánh sáng suốt, còn
không dừng lại thì đi trong lục đạo luân hồi, khổ vô kể. Hai đường đó chúng ta
chọn đường nào? Có ai dại gì mà chọn đường lăn lộn khổ sở, cho nên mình phải
biết dừng ngay. Nay học kinh, Phật chỉ cho biết rồi mà không sợ, không dừng thì
thật dạy chứ không phải dại thường, nên Phật nói: "Đáng thương! Đáng
thương!" Như người không biết cắm đầu tạo nghiệp chịu khổ, đáng thương,
còn chúng ta biết rồi mà không chịu dừng thì thật đáng thương, đáng thương!
2. Sắc giới
Này A-nan, ở thế
gian, tất cả những người tu tâm không nhờ thiền định thì không có trí tuệ.
Phật xác nhận những
người tu tâm, nếu không nhờ thiền định thì không thể nào phát khởi trí tuệ
được. Rõ ràng như vậy, trong ba vô lậu học giới định tuệ, có định mới có tuệ,
không định thì không thể nào phát tuệ được.
Người chỉ hay gìn
giữ thân không làm việc dâm dục, hoặc đi hoặc ngồi đều không tưởng niệm, không
sanh ái nhiễm, thì không còn lưu lại ở cõi Dục. Người ấy liền đó thân làm Phạm
lữ. Một loại như thế gọi là Phạm chúng thiên.
Phạm lữ là những người cùng
chung ở, cùng là bạn bè trong cõi Phạm thiên. Phạm
chúng thiên là dân chúng ở cõi Phạm thiên. Những người đã dứt
tâm ái nhiễm tham dục thế gian thì không còn lưu lại Dục giới. Sau khi chết họ
sanh vào làm chúng cõi Phạm thiên.
Tập khí cõi Dục đã
trừ, tâm lìa dục hiện tiền, vui thích tùy thuận theo luật nghi. Người ấy liền
đó hay thực hành đức trong sạch. Một loại người như thế gọi là Phạm phụ thiên.
Phạm phụ là các vị
quan giúp đỡ cho vua cõi Phạm thiên. Những người tập khí của Dục giới đã trừ
sạch, ưa thích gìn giữ luật nghi, sau khi chết sanh làm các vị quan ở cõi Phạm
thiên.
Thân tâm nhiệm mầu
tròn đủ, oai nghi không thiếu, giới cấm thanh tịnh, lại thêm tỏ ngộ. Người đó
liền hay thống nhiếp chúng cõi Phạm thiên, làm vị Đại Phạm vương. Một loại như
thế gọi là Đại Phạm thiên.
A-nan, ba hạng thù
thắng này, tất cả khổ não không thể bức bách. Tuy chẳng phải chân chánh tu
thiền định, nhưng trong tâm thanh tịnh, các lậu không làm lay động, gọi là Sơ
thiền.
Chứng Sơ thiền thì
tâm lìa dục, đối với ngũ dục thế gian không còn nhiễm nữa, đối với các luật
nghi đều ưa thích tùy thuận, tâm cũng có một phần sáng suốt. Những người này
không còn nhân sanh vào cõi Dục, khi chết được sanh lên các cõi trời Đại Phạm.
Vì vậy Sơ thiền gọi là Ly sanh hỷ
lạc, tức là xa lìa các dục nhiễm của thế gian mà sanh vui thích.
Người ấy nhờ tu
thiền định mà chứng được Sơ thiền, nếu ngang đó không chịu tiến theo con đường
giải thoát thì sau khi chết sẽ sanh làm ba hạng người ở cõi Phạm thiên: bậc
thấp thì sanh làm chúng dân, bậc khá thì sanh làm quan, bậc cao hơn thì sanh
làm vua cõi Phạm thiên.
A-nan, kế đến là
hàng Phạm thiên thống nhiếp Phạm chúng, phạm hạnh tròn đầy, tâm lóng lặng không
động, do trong lặng sanh ra ánh sáng. Một loại như thế gọi là Thiểu quang
thiên.
Hào quang chiếu
sáng nhau rọi sáng không cùng tận, ánh ra thế giới mười phương đều thành lưu
ly. Một loại như thế gọi là Vô lượng quang thiên.
Vô lượng quang
thiên tức
là những vị trời ánh sáng vô lượng. Những vị này tự mình có ánh sáng chứ không
nhờ ánh sáng của mặt trời.
Như vậy theo cái
nhìn của nhà Phật, trong hư không có vô số hành tinh, có cõi nhỏ hơn, có cõi
lớn hơn trái đất. Những hành tinh nào ở gần trái đất thì thấy ngôi sao đó sáng.
Cũng có những hành tinh quá xa trái đất nhưng năng lực phát quang của bản thân
và những người sống trên hành tinh đó, tự thân họ phát ra ánh sáng. Người tu ít
thì ánh sáng ít, tu nhiều ánh sáng nhiều. Ánh sáng đó tự làm sáng cả cõi nước
của họ, không nhờ mặt trời.
Thu hút gìn giữ ánh
sáng tròn đầy, thành tựu giáo thể, phát ra sự giáo hóa được thanh tịnh, ứng
dụng không cùng tận. Một loại như thế gọi là Quang âm thiên.
Đặc biệt, những vị
trời này do ánh sáng phát ra làm phương tiện giáo hóa cho mọi người được thanh
tịnh. Ánh sáng chiếu tới ai thì người đó tự thức tỉnh, giống như ở cõi nhân
gian, khi nghe giảng kinh pháp, người nghe được thức tỉnh cho nên nói thành tựu giáo thể.
Này A-nan, ba hạng
thù thắng này, tất cả lo buồn không thể bức bách được. Tuy chẳng phải chân
chánh tu thiền định nhưng trong tâm thanh tịnh, những thô lậu đã hàng phục, gọi
đó là Nhị thiền.
Những người đạt
trạng thái của Nhị thiền Định sanh hỷ
lạc, thì tâm lóng lặng không động, từ định phát ra ánh sáng, từ ánh
sáng đó phát ra niềm vui an lạc. Những người tu đạt được Nhị thiền, nếu không
vượt lên chứng thánh quả, ngang đó chết thì sanh bào Thiểu quang thiên, Vô lượng quang thiên và
Quang âm thiên.
Này A-nan, những vị
trời như thế, ánh sáng tròn đầy thành tựu được âm thanh, dùng âm thanh hiển lộ
sự mầu nhiệm, phát thành hạnh tinh vi, thông suốt cái vui lặng lẽ. Một loại như
thế gọi là Thiểu tịnh thiên.
Sự thanh tịnh rỗng
rang được hiện tiền, dẫn phát không ngằn mé, thân tâm khinh an, thành tựu cái
vui lặng lẽ. Một loại như thế gọi là Vô lượng tịnh thiên.
Thân, tâm, thế
giới, tất cả đều hoàn toàn trong sạch, đức trong sạch được thành tựu, nương sự
thù thắng hiện tiền trở về cái vui tịch diệt. Một loại như thế gọi là Biến tịnh
thiên.
A-nan, ba hạng thù
thắng này, đầy đủ đại tùy thuận, thân tâm an ổn, được cái vui vô lượng. Tuy
chẳng phải chân chánh được thiền định, nhưng trong tâm an ổn, đầy đủ niềm vui,
gọi là Tam thiền.
Tam thiền Ly hỷ diệu lạc, là lìa cái
vui thô động ở trước, vì còn hỷ là còn thô, trở lại sự tịch diệt bên trong được
cái vui thù thắng mầu nhiệm. Nếu ngang đó dừng trụ, không tiến lên được thì sẽ
sanh ở ba nơi trong cõi trời Sắc giới: Thiểu tịnh
thiên, Vô lượng tịnh thiên và Biến tịnh thiên.
A-nan, lại nữa
những vị trời thân tâm không còn bị bức bách, nhân khổ đã hết, nhưng cái vui
không thường còn, lâu dần cũng tiêu tan. Hai tâm khổ vui đồng thời chóng xả bỏ,
các tướng thô trọng đã diệt, phước thanh tịnh được sanh. Một loại như thế gọi
là Phước sanh thiên.
Nếu sống lâu ở cõi
trời này thì thân cũng hoại, rồi phải sanh ở nơi khác. Phước của những vị này
không phải nhờ làm lành được
Tâm buông xả được
tròn khắp, thắng giải được thanh tịnh. Trong phước không gì ngăn ngại đó, được sự
tùy thuận nhiệm mầu cùng tột mé vị lai. Một loại như thế gọi là Phước ái thiên.
A-nan, từ trong cõi
trời này có hai lối tẽ:
- Nếu nơi tâm trước
thanh tịnh sáng suốt vô lượng, phước đức tròn sáng, tu chứng rồi dừng trụ, một
loại như thế gọi là Quảng quả thiên.
- Nếu nơi tâm trước
đều chán cả khổ và vui, chuyên ròng nghiên cứu tâm xả liên tục không dứt, xả bỏ
được tròn đầy cùng tột, thân tâm đều diệt, tâm nghĩ suy lặng như tro tàn, trải
qua năm trăm kiếp. Người ấy đã lấy sanh diệt làm nhân, không thể phát minh được
tánh không sanh diệt, nên nửa kiếp ban đầu thì diệt, nửa kiếp sau sanh. Một
loại như thế gọi là Vô tưởng thiên.
Bậc này có hai
hạng: một hạng an trụ chỗ phước đức đầy đủ không tiến nữa, thì sang Quảng quả
thiên. Một hạng nữa chán khổ vui, xả hết thân tâm, nhưng còn lấy cái sanh diệt
làm nhân, không ngộ được tánh bất sanh bất diệt, nên nửa kiếp ban đầu diệt, nửa
kiếp sau sanh gọi là Vô tưởng thiên.
Này A-nan, bốn hạng
thù thắng này, tất cả các cảnh khổ vui ở thế gian không thể làm xao động được.
Tuy chẳng phải là chỗ bất động chân thật vô vi, nhưng tâm có sở đắc, công dụng
được thuần thục, gọi là Tứ thiền.
Tứ thiền còn gọi
là Xả niệm thanh tịnh, tức
xả hết niệm khổ niệm vui. Vì Tam thiền còn có diệu lạc, tức còn giữ cái vui
nhiệm mầu, mà vui là đối với khổ, nên đến Tứ thiền khổ vui đều xả, thân tâm
hoàn toàn thanh tịnh. Tứ thiền là địa vị người tu hành phải vượt qua mới đến
thánh quả. Nếu dừng ngang đây thì sanh cõi trời chứ không được thánh quả.
Cõi trời Tứ thiền
gồm có: Phước sanh thiên, Phước ái thiên,
Quảng quả thiên, Vô tưởng thiên. Tứ thiền cũng gọi là Phàm phu
thiền, dù cho được sanh ở cõi trời, nhưng hưởng hết phước rồi cũng trở lại
trong vòng luân hồi chứ chưa thành thánh quả. Chúng ta hiểu thật rõ từng phần,
tu được tới đâu mình đều biết. Nếu vượt qua sẽ chứng thánh quả, không vượt qua
thì sanh ở cõi nào đều biết rõ không nghi.
A-nan, trong đây
lại có Ngũ bất hoàn thiên, đồng thời diệt hết chín phẩm tập khí trong cõi dưới,
cả hai khổ vui đều mất, không rơi xuống cõi dưới, cho nên an lập chỗ ở chúng
đồng phần của tâm xả.
Ngũ bất hoàn thiên
còn có tên Ngũ A-na-hàm thiên. Trong bốn quả thánh, quả thứ nhất là Tu-đà-hoàn
còn bảy phen sanh tử mới được A-la-hán, quả thứ hai là Tư-đà-hàm còn một lần
lên cõi trời một lần trở xuống cõi trần gian, quả thứ ba là A-na-hàm còn sanh ở
cõi Bất hoàn thiên. Các vị sanh lên đó rồi chứng A-la-hán luôn chứ không trở
lại cõi trần, nên gọi là Bất hoàn.
Hạng này tâm buông
xả, khổ vui đều hết, không còn rơi lại Dục giới này nữa. Nhiều người tu hạnh
như vậy, chứng giống như vậy, gọi là chúng đồng phần, nên có lập ra một chỗ ở
chung. Ngược với cõi đây là cõi khổ. Ví như người ăn trộm, hoặc trộm tiền bạc
hoặc trộm quần áo, năm bảy chục thứ khác nhau, nhưng nếu cùng một nghiệp ác thì
phải có một chỗ để họ chịu khổ. Ví như người ăn trộm, hoặc trộm tiền hoặc trộm
quần áo, năm bảy chục thứ khác nhau, nhưng đều cùng một tội ăn trộm. Nếu có năm
bảy trăm người ăn trộm thì nhà nước phải cất khám để nhốt và giáo dục họ. Như
vậy từ nghiệp riêng thành quả chung. Khi thành quả chung thì có chỗ nơi để thọ
quả chung.
Đó là đi xuống, còn
đi lên cũng vậy. Mỗi người tùy theo duyên tạo phước, tùy duyên tu thiền, hoặc
chứng Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền hoặc chứng Sơ quả, Nhị quả, Tam
quả. Trong khi tu hành, nếu đạt được Tam quả, chưa chứng A-la-hán mà chết thì
không bị rơi xuống cõi dưới, cũng chưa nhập Niết-bàn, nhiều người như vậy, liền
có chỗ ở theo sức tu hành của họ.
Đây cũng còn là
nghiệp, nhưng là nghiệp thanh tịnh nên có chỗ ở thanh tịnh. Ví dụ như các vị
quan chức ở thế gian, năm bảy chục người cùng có trách nhiệm trong một công sở
lớn. Nếu họ không có chỗ ở thì nhà nước phải cất nhà cho nhóm công chức đó ở.
Chỗ họ ở tất nhiên đẹp hơn, sáng sủa hơn chỗ mấy người có tội ở.
Như vậy trong cái
riêng lại có cái chung. Các vị A-na-hàm chưa được nhập Niết-bàn, cũng không còn
duyên xuống cõi trần, nên phải có chỗ ở tương ứng với công phu tu hành, để tu
thêm cho đến khi nhập Niết-bàn. Vì vậy gọi là Ngũ
bất hoàn thiên.
A-nan, hai thứ khổ
vui hết, không còn tâm đấu tranh, một hạng như thế gọi là Vô phiền thiên.
Buông xả độc hành,
không chỗ nghiền ngẫm giao tiếp, một hạng như thế gọi là Vô nhiệt thiên.
Cơ quát độc hành, cơ là cái máy hay
cái mỏ, quát là mũi tên. Nỏ và tên đi riêng nghĩa là không còn các đối
đãi. Nghiên giao vô địa là
không còn chỗ để nghiên cứu, giao tiếp. Hạng người này vì đã dứt được những
giao tiếp đối đãi, đã buông xả cả khổ lẫn vui, không còn gì để bực bội nóng nảy
nữa, nên gọi là Vô nhiệt thiên. Chúng
ta sở dĩ nóng nảy bực bội là vì bị cái này cái kia ràng buộc, không được tự do
nên sanh phiền não.
Khéo thấy cả thế
giới mười phương đều tròn lặng, lại không có các trần cảnh, tất cả cấu nhiễm
chìm đắm đều lắng sạch, một loại như thế gọi là Thiện kiến thiên.
Cái thấy tinh ba
được hiện tiền, gạn lộc không còn chướng ngại, một loại như thế gọi là Thiện
hiện thiên.
Thiện kiến tức là khéo thấy cả
thế giới mười phương đều tròn đầy lặng lẽ.
Thiện hiện là cái thấy tinh
ba khéo hiện ra.
Xem xét rốt ráo các
cơ, cùng tột tánh của sắc, vào mé vô biên, một loại như thế gọi là Sắc cứu cánh
thiên.
Vào mé vô
biên là
vào chỗ không còn ngằn mé nữa. Tới đây đã tột cùng cõi trời Sắc, sắp bước qua
Vô sắc, nên gọi là Sắc cứu cánh
thiên.
Này A-nan, cõi Bất
hoàn thiên này, Tứ vị thiên vương Tứ thiền kia chỉ có kính nghe tên nhưng không
thể thấy biết. Như hiện nay ở thế gian những nơi đồng trống hoặc núi sâu, chỗ
đạo tràng của các bậc thánh, đều có những vị A-la-hán trụ trì, nhưng những
người thô thiển ở thế gian không thể nào thấy được.
Từ cõi Bất hoàn
thiên cho tới Tứ vị thiên vương Tứ thiền thiên, chúng ta chỉ có nghe tên chứ
không thể thấy được hình ảnh của các vị. Tại sao? Ví dụ như nơi những đạo tràng
giảng kinh thuyết pháp, có khi các vị A-la-hán hiện đến chứng minh mà mình
không thấy được, hoặc các ngài tu ở nơi thâm sơn cùng cốc, mình cũng không
biết.
Này A-nan, mười tám
cõi trời đó ở cõi riêng không giao tiếp, nhưng chưa hết cái lụy hình hài. Từ
đây trở lại gọi là Sắc giới.
Mười tám cõi trời
đó riêng sống trong cảnh của mình chứ không có giao tiếp với nhau. Những vị đó
đều chưa hết cái lụy thân hình, bởi hưởng hết phước rồi còn rơi xuống trần gian
để thọ báo trở lại.
Những vị trời Phạm
thiên do giữ giới thanh tịnh và chuyên tu thiền định mà được sanh thiên. Chỉ
mới lên cõi trời mà còn phải tu như vậy, huống nữa người muốn thoát tam giới
làm sao không tu thiền, không giữ tâm thanh tịnh được!
3. Vô sắc giới
Lại nữa A-nan, từ
cõi Hữu đảnh này, trong bờ mé của Sắc giới, khoảng đó lại có hai lối tẽ:
- Nếu nơi tâm xả
phát minh trí tuệ, ánh sáng trí tuệ tròn đầy thông suốt liền ra khỏi cõi trần
thành A-la-hán, vào được Bồ-tát thừa. Một loại như thế gọi là Hồi tâm đại
A-la-hán.
Như vậy có hai lối
tẽ rõ ràng: Tâm xả thanh tịnh tức là Tứ thiền, rồi phát minh trí tuệ thông
suốt, liền ra khỏi các thế giới của trần tục hay là các thế giới ở trong ba
cõi, thành A-la-hán hoặc là vào Bồ-tát thừa. Hoặc là được Tứ thiền rồi, tức là
tới Sắc cứu cánh thiên, rồi tẽ qua Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ v.v…
Người tu Phật có
thể tu Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, nhưng tới Tứ thiền thì không
đi qua lối tẽ Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ... của Vô sắc giới, mà đi thẳng
ngộ được lý Tứ để, trí tuệ sáng suốt, liền chứng A-la-hán hay vào Bồ-tát thừa.
Ngoại đạo thời Phật
tại thế cũng tu Tứ thiền nhưng mục đích chỉ lên các cõi trời. Đạo Phật tu Tứ
thiền nhưng vượt qua để đến Niết-bàn. Bước đầu cùng dùng pháp tu chung, nhưng
mục đích hướng đến mỗi bên khác nhau.
- Nếu ở tâm xả
thành tựu sự chán xả, biết thân là chướng ngại, muốn tiêu chướng ngại của thân
để vào trong không. Một loại như thế gọi là Không xứ (Không vô biên xứ).
Sau khi qua Sắc
rồi, thành tựu được tâm xả, chán cái thân có hình tướng có chướng ngại, mới xả
thân ngại đó để vào Không vô biên
xứ.
Các chất ngại đã
tiêu, không còn ngại cũng không còn diệt, trong kia chỉ lưu lại thức a-lại-da,
toàn thức mạt-na chỉ còn nửa phần vi tế. Một loại như thế gọi là Thức xứ (Thức
vô biên xứ).
Không còn chất ngại
không còn diệt, thức a-lại-da còn đủ, thức mạt-na phần thô đã hết chỉ còn phân
nửa thức vi tế.
Sắc và Không đã
hết, thức tâm đều diệt, mười phương lặng lẽ không còn qua lại. Một loại như thế
gọi là Vô sở hữu xứ.
Không còn thức,
không còn tâm, cũng không còn qua lại gì hết, nên gọi là Vô sở hữu xứ.
Thức tánh không
động, do nghiên cứu diệt đến cùng tột, trong chỗ không tận phát ra tánh tận,
như là còn mà chẳng còn, như là hết mà chẳng hết. Một loại như thế gọi là Phi
tưởng phi phi tưởng xứ.
Trong chỗ đó dường
như hết mà không phải hết, nên gọi là Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Phi tưởng tức không còn
tưởng, mà phi phi tưởng tức
còn có tưởng, nghĩa là không có tưởng thô mà còn tưởng tế.
Những vị này quán
cùng tột không mà chẳng tột được lý không, từ Bất hoàn thiên thấu tột thánh
đạo, một loại như thế gọi là Bất hồi tâm độn A-la-hán.
Những vị A-na-hàm
sanh về cõi Bất hoàn thiên tu để đạt được thánh đạo, tức ngộ lý Tứ đế rồi an
trụ Niết-bàn thì gọi là độn
A-la-hán và Bất hồi tâm
độn A-la-hán. Chỗ này phân tích cho chúng ta biết những con
đường tẽ thế nào, tới đâu thì tẽ lối.
Nếu từ các cõi trời
Vô tưởng của ngoại đạo, cùng tột không mà không biết quay lại, mê lầm không
nghe chánh pháp, liền vào đường luân chuyển.
Này A-nan, mỗi mỗi
người ở trên các cõi trời đều là phàm phu, phải đền trả nghiệp quả, khi trả hết
thì vào trong luân hồi.
Những ngoại đạo ở
cõi trời Tứ không: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ và phi tưởng
phi phi tưởng xứ, nếu không được gặp đạo, không nghe lý đạo, không biết tỉnh
giác quay lại, thì khi hưởng hết phước báo sẽ trở lại trong luân hồi. Đó là
những người thuộc về phàm phu. Bởi vậy những loại thiền này gọi là Phàm phu
thiền.
Những vị vua trong
các cõi trời đó là những vị Bồ-tát dạo đi trong chánh định, lần lượt tăng tiến,
hồi hướng về con đường tu hành trong dòng thánh.
Như vậy những người
sanh làm dân ở các cõi trời là do công họ tu, còn những vị vua ở các cõi đó
phần nhiều là Bồ-tát. Các ngài sanh ở cõi trời để giáo hóa chư thiên, đồng thời
tu hành để tiến lên thánh đạo. Trong kinh Hoa Nghiêm có nói, đức Phật sau khi
thành đạo liền lên các cõi trời thuyết pháp, ban đầu là cõi trời Đao-lợi, rồi
tới các cõi trời khác, nói đủ các pháp từ Thập trụ tới Thập địa cho những vị
Bồ-tát ở các cõi đó. Vì những vị Bồ-tát không phải ngộ đạo rồi là viên mãn công
quả thành Phật, mà còn phải hành đạo bằng cách lợi tha trong cảnh khổ cũng như
cảnh vui.
Những người ở trong
cảnh vui đáng thương hay đáng ghét? Những người ở trong cảnh khổ đáng thương
hay đáng ghét? Chúng ta thường thương người khổ mà ghét người vui. Thấy ai khổ
thì nói người đó đáng thương, còn thấy ai có tiền bạc, thảnh thơi, mình có vẻ
không ưa. Vậy là tâm mình còn nông cạn, khác với tâm Bồ-tát.
Người dân quê nghèo
đói là kẻ mê, còn ông quan tiền bạc sung túc, ăn ở sang trọng mà có tỉnh chưa?
Cũng mê. Như vậy người nghèo mê nên chúng ta thương thì người sang cả mê mình
cũng thương. Đó là thương cái mê chứ không phải thương sự sung sướng hay cực
khổ. Vì sướng hay khổ chỉ một thời gian thôi, còn cái mê trầm luân mới là đáng
thương, cần phải làm cho họ tỉnh giác. Vì vậy Bồ-tát có khi lăn lộn trong cảnh
khổ giáo hóa chúng sanh, có khi lên cõi trời giáo hóa chúng sanh.
Này A-nan, chư
thiên ở cõi Tứ không ấy, thân tâm diệt hết, tánh định được hiện tiền, không có
nghiệp quả của cõi Sắc. Từ đây đến cuối gọi là Vô sắc giới.
Phần trên nói rõ về
các cõi trời Tứ thiền. Các pháp tu đó trong đạo Phật cũng có, nhưng Tứ không
thì ít dùng. Ngày xưa đức Phật đã tu qua những pháp này, khi sắp nhập Niết-bàn,
ngài thuận nghịch trải qua các lớp định rồi mới nhập Niết-bàn. Tất cả các loại
định đó, đức Phật đều đi qua nhưng không mắc kẹt, còn người tu tới Tứ không mà
mắc kẹt chỗ đó, dù công phu tu rất đáng kể nhưng sau hưởng hết phước quả lại
phải trầm luân.
Đây đều do không rõ
Diệu giác minh tâm, tích chứa vọng mà phát sanh, giả dối có ba cõi. Ở trong đó
dối theo bảy nẻo mà chìm đắm, nên bào thai tùy theo mỗi loại mà ra đời.
Kết luận này hết
sức rõ ràng. Phật nói: sở dĩ sanh trong các cõi trời, là vì những người đó chưa
tỏ ngộ được Diệu giác minh tâm, chứa nhóm các vọng hư dối, tức dùng tưởng để
ứng dụng tu, nên phát sanh kết quả vậy. Như thế ba cõi là không thật, do vọng
mà có, theo vọng chìm đắm trong bảy đường. Các kinh khác chỉ nói sáu nẻo: địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, a-tu-la, trời; ở đây có thêm tiên. Bảy đường đó
là do chúng sanh hư dối tạo nghiệp rồi theo từng loại mà sanh ra.
Điều này hết sức rõ
ràng. Như những đứa bé sanh ra ở thế gian, cùng một lứa tuổi mà mỗi đứa bé sanh
ra ở thế gian, cùng một lứa tuổi mà mỗi đứa thích mỗi nghề, sở thích khác nhau.
Có đứa thích du đãng, bụi đời, có đứa thích đức hạnh, muốn đi tu... Do đó lớn
lên mỗi đứa tạo nghiệp khác nhau, rồi sẽ sống chung với những người theo nghiệp
của nó, nên có những chỗ khác nhau. Sở thích đó là gì? Cũng là vọng tâm ưa cái
này thích cái kia. Vọng tâm thúc đẩy chúng sanh tạo nghiệp của nó, nên có những
chỗ khác nhau. Sở thích đó là gì? Cũng là vọng tâm ưa cái này thích cái kia.
Vọng tâm thúc đẩy chúng sanh tạo nghiệp, thành nghiệp rồi thì đi tới chỗ chịu
quả, không có ai bắt buộc.
Các loài khác nhau
là tùy theo chỗ tạo nghiệp của mỗi người, mà nghiệp đó là từ vọng tưởng của
mình phát ra chứ không do ai tạo.
IV. BỐN LOẠI
A-TU-LA
Lại nữa A-nan,
trong tam giới này lại có bốn loài a-tu-la: Nếu từ loài quỷ, do sức bảo hộ
chánh pháp, được thần thông mà vào hư không, loại a-tu-la này từ trứng sanh ra,
nhiếp thuộc về loài quỷ.
Loài a-tu-la này có
thần thông, chúng ta gọi là các vị thần ủng hộ chùa chiền già-lam, ủng hộ những
đàn tràn thuyết pháp, cũng thuộc về loài quỷ.
Nếu ở trong cõi
trời mà đức đã giảm, bị rơi xuống chỗ ở gần với mặt trời mặt trăng, những loài
a-tu-la này từ bào thai sanh ra, nhiếp thuộc về loài người.
Có vua a-tu-la nắm
giữ thế giới, sức mạnh đến không hề sợ ai, hay cùng Phạm vương, Thiên Đế-thích,
Tứ thiên vương tranh quyền với nhau. Loại a-tu-la này nhân biến hoá mà có,
nhiếp thuộc về loài súc sanh.
Loài a-tu-la này
chúng ta thường nghe người đời nói đến chuyện "mắc đàng dưới". Đó là
do những a-tu-la ban ngày đi dạo chơi, gặp người thì phá khuấy, tối lại trở về
dưới biển ngủ, nên nói là đàng dưới.
Đó là đã kể rõ các
loài khác nhau. Đến đây kết thúc, Phật nói cho chúng ta rõ tại sao có sáu đường
chúng sanh hay bảy nẻo luân hồi, ngẫm cho thật kỹ mới thấy cái hay Phật chỉ ở
các phần trước.
Này A-nan, nếu xét
kỹ bảy loài địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, thần tiên, trời cho đến a-tu-la
như thế, đều do mê lầm các tướng hữu vi, từ vọng tưởng mà thọ sanh, vọng tưởng
mà theo nghiệp. Đối với bản tâm diệu viên minh vô tác, đều như hoa đốm trong hư
không, vốn không dính dáng.
Câu này quá hay!
Đức Phật nói tất cả bảy loài đó gốc đều từ mê lầm tướng hữu vi mà ra. Xin hỏi
tất cả quý vị có ai không mê lầm tướng hữu vi không? Nhà đẹp, áo đẹp, thân đẹp,
cảnh đẹp... đều là tướng hữu vi. Chúng sanh bị chìm đắm trong tướng hữu vi nên
mới có bảy loài. Phật nói rất rõ, tất cả đều
từ vọng tưởng mà thọ sanh, vọng tưởng mà theo nghiệp, chứ đối với
bản tâm tròn sáng nhiệm mầu không tạo tác này, bảy loài chúng sanh đều như hoa đốm trong hư không, không
dính dáng gì. Thật là thấu đáo làm sao!
Tôi tạm ví dụ, như
người thế gian, có người chiều tan sở đi về nhà, có người dấy niệm đi coi hát,
rồi chuẩn bị đi coi hát. Dấy niệm đi coi hát là vọng tưởng, chuẩn bị đi coi hát
là theo nghiệp. Có người dấy niệm đến quán nhậu, rồi lấy tiền sửa soạn đến
quán. Vậy là từ khởi vọng tưởng, rồi đi theo nghiệp luôn. Lại có người dấy niệm
đi chùa, sửa soạn áo tràng đi chùa, hoặc nghe nói có nơi đang tổ chức làm từ
thiện, mình liền đến giúp. Đó là vọng tưởng lành nên tạo nghiệp lành. Tất cả
đều do dấy vọng tưởng rồi theo nghiệp của vọng tưởng.
Như vậy vọng tưởng
là sự sanh khởi đầu tiên, rồi theo nghiệp là bước thứ hai, và kết quả là đến
chỗ mình muốn. Tất cả các cõi tướng hữu vi, dù lành hay dữ cũng đều từ vọng
tưởng mà ra. Vậy vọng tưởng là trọng tâm để thành nghiệp. Bao nhiêu nghiệp lành
dữ xấu tốt đều từ vọng tưởng mà ra, mà vọng tưởng lại không có căn cứ, hoàn
toàn hư dối, vậy mới đau khổ! Như khi dấy niệm đi coi hát, thử nhìn lại niệm
"muốn đi coi hát" xem nó ra sao. Nhìn lại thì nó mất tiêu, vì niệm
tưởng vốn hư dối không thật. Vậy mà chúng ta theo nó để tạo thành nghiệp hư
dối.
Vọng tưởng là hư
dối, tạo nghiệp là hư dối. Những thứ hư dối ấy, đối với bản tâm chân thật diệu
viên minh vô tác có dính dáng gì đâu! Nó chỉ như hoa đốm trong hư không, vậy mà
chúng ta cam chịu theo những vọng tưởng đó trôi lăn mãi, còn tánh viên minh nơi
mình lại bỏ quên mất. Thế có đau khổ không? Ngang đó có chịu dừng chưa?
Như chiếc xe máy,
muốn cho nó chạy thì trước phải nổ máy, rồ ga nó mới chạy. Cái nổ máy đó tướng
mạo ra sao? Đâu có tướng mạo gì, chỉ là sức nổ của động cơ (hơi). Từ sức động
(hơi động) đó, chiếc xe chạy đường này đường kia tùy theo ý mình. Như vậy trọng
tâm làm cho chiếc xe chạy là do máy nổ liên tục, mà máy nổ đó chỉ là hơi chứ
đâu có gì thật. Từ cái không thật, biến thành chiếc xe chạy thật.
Cũng vậy, từ vọng
tưởng không thật, nếu mình theo nó thì tạo nghiệp thật. Như có người vọng tưởng
ra quán uống rượu say túy lúy rồi ụa mửa, thành thật mất! Từ động cơ không thật
mà biến thành nghiệp thật, hết sức rõ ràng.
Chúng ta tu phải
làm sao đây? Ngay động cơ không thật, dừng lại thì đâu còn chuyện gì nữa. Như
vậy trọng tâm sự tu đặt ngay nơi động cơ chính yếu là dừng theo vọng tưởng. Đã
không theo vọng thì đâu còn tạo nghiệp, không tạo nghiệp tức không thọ quả. Bao
nhiêu vọng tưởng đều dừng lại thì đâu còn chuyện gì nữa. Như vậy trọng tâm sự
tu đặt ngay nơi động cơ chính yếu là dừng theo vọng tưởng. Đã không theo vọng
thì đâu còn tạo nghiệp, không tạo nghiệp tức không thọ quả. Bao nhiêu vọng
tưởng đều dừng lại thì trở về bản tâm diệu viên minh vô tác. Đó là tu. Đó là
trọng tâm của đạo lý, đâu thể sai chạy! Rất là đơn giản. Như muốn cho xe đừng
chạy thì ta phải tắt máy. Cũng vậy muốn không tạo nghiệp thì cứ ngay vọng tưởng
mình dừng lại là xong.
Đây là điều quan
trọng mà bấy lây nay người ta coi thường. Nghe nói "biết vọng không theo"
thấy thường quá, không có gì mầu nhiệm, không hiểu rằng vọng tưởng chính nó là
chủ yếu tạo bao nhiêu nghiệp. Cái chủ yếu đó dừng rồi thì bao nhiêu thứ nghiệp
làm sao có, không có nghiệp thì làm gì bị luân hồi. Không theo nghiệp, không
còn luân hồi tức trở về bản tâm, rõ ràng như vậy.
Nghiên cứu kỹ trong
các kinh điển, chúng ta mới thấy rõ đường lối tu "đừng theo vọng",
mới đủ lòng tin để tu, mới thấy đó là trọng tâm. Phật đã nói rõ: từ vọng tưởng mà thọ sanh, vọng tưởng mà theo
nghiệp, đối với bản tâm diệu viên minh vô tác đều như hoa đốm trong hư không,
vốn không dính dáng.
Chỉ một thứ hư dối,
không có gốc rễ manh mối gì.
Vọng tưởng chỉ là
hư dối, do theo hư dối đó mà có bảy đường. Nó lăng xăng lộn xộn vậy nhưng chẳng
có gốc rễ manh mối gì. Khi vọng tưởng dấy khởi, chúng ta thử tìm lại coi nó ra
sao, gốc rễ ở đâu, manh mối chỗ nào? Hoàn toàn không có, Vậy mà theo nó thì tạo
thành nghiệp.
A-nan, những chúng
sanh đó không biết bản tâm, phải chịu luân hồi như vậy, trải qua vô lượng kiếp
không được tánh chân tịnh.
Do không biết bản
tâm, chạy theo vọng tưởng nên phải chịu luân hồi vô lượng kiếp, không được chân
tịnh. Nay nếu biết được đó là hư dối, trở về bản tâm tức là dừng vòng luân hồi.
Điều này hết sức cụ thể. Vậy mới thấy đường lối tu của mình hết sức là thấu
đáo, không có chuyện xa vời. Dầu lên cõi trời sung sướng bao nhiêu cũng vẫn
trong luân hồi. Chỉ cần biết bản tâm, sống với thể thanh tịnh của bản tâm là
đủ. Không dấy niệm chạy theo trần cảnh liền được thanh tịnh, thanh tịnh tức bản
tâm hiện tiền. Biết được bản tâm, sống được với cái đó thì không đi trong bảy
đường luân hồi.
Đều do tùy thuận
sát, đạo, dâm. Nếu ngược lại ba thứ này thì phát sanh không sát không đạo không
dâm. Nếu có ba nghiệp này thì gọi là loài quỷ, nếu không có thì gọi là nẻo
trời. Bởi có và không lấn nhau mà
phát khởi ra vòng luân hồi. Nếu khéo phát huy được chánh định thì thường lặng
lẽ nhiệm mầu, cả hai có và không đều không,
cái không
hai thứ này cũng diệt luôn. Còn không có chẳng sát, chẳng
đạo, chẳng dâm thì làm sao lại thuận theo việc sát, đạo, dâm?
Ví dụ như khi có
những đứa con bất hiếu, hung hăng, chúng ta khuyên: "Các bé nên hiếu thảo
với cha mẹ, hiền lành với mọi người." Tại sao khuyên nó như vậy? Vì sợ nó
bất hiếu, sợ nó hung hăng. Nếu một ngày nào những đứa bé đó hoàn toàn hiếu
thảo, hiền lành thì mình không còn khuyên vậy nữa. Như vậy không còn khuyên là
vì đã được rồi. Còn khi khuyên hiếu thảo, hiền lành là lúc đó chưa hoàn toàn
được, chúng ta còn nghi nó có thể bất hiếu, còn nghi nó có thể hung hăng nên
mới phải khuyên.
Do đó, ở đây nói
bởi có và không lấn nhau chon nên đi
trong vòng luân hồi. Nếu được chánh định thì thường ở trong tánh lặng lẽ mầu
nhiệm. Trong đó hai cái có và không đã hết, cái hết có không cũng chẳng còn.
Như vậy còn gì đâu mà nói chẳng sát,
chẳng đạo, chẳng dâm, huống là còn theo việc sát, đạo, dâm?
Ba cõi đã như hoa
đốm giữa hư không thì làm gì có có-không đối
đãi mà phát ra ba nghiệp sát đạo dâm. Sở dĩ hiện nay chúng ta khi tỉnh khi mê
là do chưa thật nhận được tánh chân như nơi mình. Nếu thật nhận được, thường
hằng không lúc nào quên thì ba nghiệp sát đạo dâm không do đâu mà còn.
Này A-nan, không
dứt ba nghiệp thì mỗi người đều có nghiệp riêng. Nhân mỗi người có nghiệp
riêng, nhiều phần riêng thành đồng phần, chẳng phải không có chỗ nhất định.
Những câu này thật
là chí lý! Giả sử có những người phạm tội giết người, bằng cách này hoặc bằng
cách khác, bị nhốt chung chỗ của những người phạm tội giết người. Lại có một số
người đánh cướp nhà này ăn trộm nhà kia, thành nghiệp trộm cướp, bị bắt cũng có
chỗ nhốt riêng. Những người phạm tội hiếp dâm cũng bị nhốt chung. Mỗi người làm
một cách riêng, nhân vật khác, nhưng nhiều người đồng phạm tội nào thì phải có
chỗ nhốt chung. Như vậy các cõi không cố định nhưng khi đã tạo nghiệp thì nhất
định thọ quả. Cái lý về nghiệp này, xem như siêu hình mà lại ứng với thực tế,
không phải là việc mơ màng.
Chúng sanh tạo
nghiệp rồi chịu luân hồi trong các đường. Như vậy các cõi trong tam giới này,
từ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cho đến các cõi trời Dục giới Sắc giới v.v...
đều không cố định sẵn có, chỉ tùy theo nghiệp của chúng sanh mà hiện. Nếu chúng
sanh không tạo nghiệp, trở về bản tâm thanh tịnh thì các cõi đó đều không còn
nữa.
Do tự hư vọng phát
sanh, vọng sanh không có nhân, không thể tìm xét.
Ví dụ mình đang
ngồi chơi rất là bình ổn, chợt có người đi ngang nói một câu xúc phạm đến danh
dự, lúc đó mình liền nổi sân, rồi muốn đánh muốn chửi họ. Nếu là người bình
tĩnh thì nhìn lại xem cái sân này từ đâu ra, nhìn một hồi nó mất tiêu, không có
gốc rễ gì cả. Vì vậy nên nói do tự nơi
vọng phát sanh, vọng sanh không có nhân. Khi nó lặng rồi, tìm
xem nó trú ẩn ở đâu thì rõ ràng là không có chỗ nơi.
Ông nên khuyên
người tu hành, muốn được Bồ-đề cần phải trừ ba hoặc sát đạo dâm. Chẳng hết ba
hoặc, dù có được thần thông, đều là công dụng hữu vi của thế gian. Nếu không
dứt trừ tập khí thì rơi vào đường ma, tuy muốn trừ vọng lại càng thêm hư dối.
Như Lai nói những người đó rất đáng thương xót.
Tập khí ba hoặc nếu không diệt, sẽ
rơi vào đường ma chứ không thành thánh thần gì. Dù có được thần thông, biết quá
khứ vị lai, mà còn sát, đạo, dâm thì chưa giải thoát được. Những người không
dứt được ba hoặc mà nói muốn trừ vọng thì chỉ thêm hư dối. Không hiểu được cái
gốc này mà tu thì chỉ là việc tạm bợ trên thế gian, rồi cũng rơi trong đường ma
chứ không đi tới đâu. Bởi vì mê quá nên Phật nói là kẻ đáng thương.
Đều do ông tự tạo
nghiệp hư dối, không phải lỗi của Bồ-đề.
Câu này quá hay!
Ông tự dấy niệm rồi theo nó tạo nghiệp, chứ thật Bồ-đề không tạo nghiệp. Tánh
giác không có lỗi gì với việc đó. Nếu mình không tạo nghiệp nữa thì nhập Bồ-đề,
Bồ-đề không từ chối mình. Chỉ tại mình ham làm chúng sanh quá nên quên làm
Phật. Nếu không chịu làm chúng sanh thì trở lại thành Phật, có ai ngăn cản đâu!
Như người đang ngồi
một mình nơi vắng vẻ trong vườn hay ngoài đồng ruộng, yên lành không bị ai quấy
nhiễu, thật là quý. Nhưng người ấy có chịu đâu, thấy buồn, phải kiếm người nói
chuyện cho vui. Nói một hồi thì có vấn đề để suy nghĩ, hoặc người kia có những
lời nói xúc phạm mình, hoặc theo người đó chê người này, khen người kia... Vậy
rõ ràng là mê làm chúng sanh, ngồi một mình yên ổn, tâm thanh tịnh tốt quá mà
không chịu.
Hoặc buổi tối, tới
giờ ngồi thiền, nghe đánh kẻng thì xách bồ đoàn đi có vẻ uể oải mệt nhọc. Nhưng
nếu nghe nói tối nay có chiếu phim thì không mệt nhọc chút nào, đi sớm vô ngồi
trước. Như vậy là mê làm chúng sanh hay mê làm Phật? Chúng ta chịu những thứ
giả dối của chúng sanh bày ra, chứ không chịu nghe lý thật đức Phật chỉ.
Tự kiểm lại xem,
muốn thành Phật mà ưa chúng sanh, mâu thuẫn lạ đời! Vậy phải dẹp sự mâu thuẫn
đó, phải có con đường đi quyết định cho mình. Quyết đi đường Phật thì phải đi
thẳng, những gì không liên quan thì gạt qua một bên. Vậy nên tu không phải là
chuyện khó, chính vì chỗ nhiễm trước của mình đậm quá nên thành khó. Ai cũng
biết phim là giả mà mê vẫn cứ mê, cũng như Phật nói vọng tưởng là giả dối mà
mình vẫn cứ theo. Vậy nên không phải biết giả rồi ai ai cũng tỉnh; biết giả rồi
cũng vẫn mê theo giả. Điều đó thật là đáng thương, thật là đáng thương, hai ba
lần đáng thương. Sao dại khờ quá mức!
Cũng như những đứa
trẻ con, có đứa chúng ta chỉ dạy một lần nó đã nghe, có đứa nói mãi không nghe.
Như thấy đứa trẻ cầm dao cắt trái cây, chúng ta nhắc: "Cẩn thận! Coi chừng
đứt tay!" Nhưng nó vẫn cứ cắt, rồi đứt tay. Theo lẽ thường mình giận nó,
nhưng nếu xét kỹ thì thấy nó ngu quá, đáng thương; đã được cảnh cáo mà không
nghe, để đứt tay rồi khóc. Cũng vậy, Phật nói tất cả nghiệp là từ vọng tưởng
tạo nên, đừng theo nó. Phật cảnh cáo rồi, nhưng chúng sanh vẫn cứ theo vọng
tưởng tạo nghiệp thọ khổ, than thở khóc lóc rồi kêu Phật cứu con độ con. Như
vậy thật là đáng thương!
Đức Phật đã chỉ rõ
ràng, tất cả nghiệp đều từ vọng tự tạo, Bồ-đề không có lỗi gì với việc đó.
Chúng ta muốn được Bồ-đề thì đừng theo vọng, không vọng tự nhiên trở về với
Bồ-đề.
Người nói lời như
thế ấy, gọi là lời nói chân chánh, nếu nói khác đi tức là ma vương nói.
Hiện nay thấy có
nhiều người không trừ ba nghiệp, nhưng họ gắng tu được chút thần thông, rồi tự
cho là siêu nhân. Những người khác nghe họ nói vậy, do không biết được cội gốc
tu hành nên cũng tin.
Nói về gốc của sự
tu, tôi sẽ chỉ đơn giản cho dễ nhớ. Giai đoạn một: Phải diệt trừ ba nghiệp gốc
sát đạo dâm.
Ba nghiệp này hầu
như ai cũng có. Thấy người cầm súng hay ná bắn chim, nếu họ bắn trúng, mình
cũng muốn vỗ tay khen. Đi ra bờ sông thấy người bỏ câu, giật được cá mình cũng
mừng. Còn bản thân mình, đang ngồi chơi thấy con cóc con nhái nhảy, liền muốn
lượm cục sỏi gần đó chọi chơi. Những thói đó đã quen rồi, nên hồi nhỏ gặp cào
cào, châu chấu, dế thì bắt cho đá nhau, hoặc ngắt cánh ngắt đầu. Con người sanh
ra đã mang bản chất đó. Bởi vậy sát là một nghiệp nặng.
Nghiệp dâm, đạo
(trộm cắp) cũng vậy. Thấy đồ của ai tốt thì thích, nếu có tiền thì muốn mua,
không tiền mua thì lén lấy. Ăn cắp cũng đủ cách, không phải chỉ ăn cắp bằng
cách đưa tay lấy, nhiều khi dùng miệng nói gạt để được cũng là ăn cắp. Sát,
đạo, dâm là gốc sẵn có của con người mê muội, phải ráng bỏ nó.
Giai đoạn hai: Vọng
tưởng là chủ động tạo nghiệp, cứ thẳng nơi đó dừng thì mọi nghiệp theo đó hết, không
có gì khác hơn.
Cho nên chúng ta
tu, bên ngoài lấy giới luật giữ thân, bên trong biết vọng tưởng đừng theo là
giữ tâm. Đó là nhân để giải thoát sanh tử. Nếu không thực hành như vậy thì khó
mà ra khỏi vòng sanh tử.
V. CÁC CHƯỚNG MA
Bấy giờ đức Như Lai sắp
chấm dứt thời pháp, từ trên tòa sư tử vịn ghế thất bảo, xoay thân tử kim sơn,
trở lại dựa vào ghế, bảo khắp đại chúng và A-nan:
Thân của Phật được tán
thán như một khối vàng tía, vững vàng như núi nên gọi là thân tử kim
sơn. Đức Phật sắp mãn buổi giảng, do ngồi lâu nên ngài mới vịn ghế
xoay thân muốn nghỉ, nhưng lại còn phải dạy thêm ít điều nữa nên trở lại dựa
ghế. Chỗ này không ai hỏi, nhưng vì Phật thấy rằng nếu không dạy đủ sợ người tu
dễ lầm lẫn, nên Phật tự chỉ dạy.
Các ông là hàng hữu học
Thanh văn Duyên giác, ngày nay hồi tâm hướng về đại Bồ-đề vô thượng Diệu giác.
Nay ta đã nói pháp tu hành chân thật, ông vẫn chưa biết những việc ma vi tế khi
tu Chỉ tu Quán. Nếu cảnh ma hiện ra mà ông không thể biết được, khi tu tâm
không chân chánh sẽ rơi vào tà kiến, hoặc là ma ngũ ấm của ông hoặc gặp thiên
ma, hoặc bị quỷ thần dựa vào hoặc gặp những loài yêu quái, mà trong tâm ông
không rõ nhận giặc làm con.
Phật thương muốn cho
chúng ta tu, nên ngài đã chỉ rõ cách tu, đường lối tu rồi, nhưng còn e rằng
trong khi tu có những cảnh ma mà mình không biết, dễ bị lầm lẫn. Chính lúc
chúng ta tu sẽ có những ma sự lẫn trong đó, làm cho mình trở thành tà kiến, vì
vậy mà Phật thương xót nhắc nhở. Do chúng ta không rõ đó là ngũ ấm ma hay thiên
ma hoặc quỷ thần dựa vào người, lại nhận nó là thiện tri thức hay nhận là mình
tu chứng, đó đều là nhận giặc làm con.
Từ đầu tới cuối kinh
Lăng-nghiêm chủ yếu nhắm vào Thiền. Ban đầu là ngài A-nan đứng ra thưa hỏi về
phương pháp tu Chỉ và tu Quán, đến phần chót của kinh, Phật lại dạy về các ma
sự trong khi tu Thiền. Chỉ trong quyển bảy, do ngài A-nan thưa hỏi, Phật mới
phương tiện nói việc dựng lập đàn tràng và nói lại thần chú.
Lại nữa, ở trong ấy được
chút ít là đủ. Như có Tỳ-kheo vô văn tu được Tứ thiền, dối cho là chứng thánh.
Khi quả báo cõi trời đã hết, tướng suy liền hiện tiền, liền chê bai A-la-hán mà
còn có thân sau, phải đọa vào địa ngục A-tỳ.
Tỳ-kheo vô văn là vị Tỳ-kheo dốt nát, tu mà không học, không hiểu
gì. Những vị này có công tu, nhưng tiến lên chưa đến nơi lại tưởng đã đến, hài
lòng cho là đã chứng A-la-hán rồi, hoặc tưởng mình thành Phật. Đến lúc hưởng
hết phước bị đọa, mới giật mình: "Tại sao mình là A-la-hán rồi mà nay còn
bị đọa?" Do không hiểu bèn chê A-la-hán còn bị đọa, đây là nói bậy phải
đọa địa ngục.
Ông nên lắng nghe cho
kỹ, nay ta vì ông mà phân biệt chín chắn.
A-nan đứng dậy, cùng với
hàng hữu học trong hội vui mừng đảnh lễ, kính mong được nghe lời chỉ dạy từ bi
của Phật.
Phật sắp nói lý do vì
sao ma phá người tu. Hồi xưa tôi cứ nghĩ mình tu là làm lành, tu đắc đạo thì độ
hết chúng sanh, trong đó có ma nữa. Mình độ nó được tỉnh giác thì lẽ ra nó phải
ủng hộ mình triệt để, nhưng tại sao nó lại phá mình? Phần kế Phật nói lý do rất
rõ ràng.
Phật bảo A-nan và cả đại
chúng:
- Các ông nên biết, thế
giới hữu lậu có mười hai loài chúng sanh, tâm thể bản giác diệu minh giác viên
cùng với chư Phật mười phương không hai không khác.
Đó là câu xác nhận của
Phật, đối với tâm thể bản giác diệu minh giác viên, Phật có
thì mười hai loài chúng sanh trong thế giới hữu lậu này cũng có, không
hai không khác, không kém không thua chút nào. Đừng nghĩ lầm Phật mới
có còn chúng sanh vô phần.
Do ông vọng tưởng, mê
lầm chân lý mà thành lỗi lầm, si ái phát sanh, sanh mê cùng khắp nên có hư
không. Cái mê biến hóa không dừng nên có thế giới sanh ra. Cõi nước như số vi
trần ở mười phương này, trừ ngoài bậc vô lậu, thì đều là do mê lầm vọng tưởng
mà an lập.
Tất cả chúng sanh đều có
bản giác diệu tâm như chư Phật mười phương không khác, nhưng sở dĩ có khác là
do vọng tưởng mê lý mà ra. Mê lý là không thấy được lý thật,
tức không thấy được bản giác diệu tâm, thành ra lỗi. Lỗi đó là bởi si mê và ái
kiến mà phát sanh. Khi đã phát sanh thì mê càng ngày càng rộng khắp, cho nên
đầu tiên là có hư không. Cái mê lại biến hóa không dừng, lần lần có thế giới.
Trong thế giới ở mười
phương như số vi trần này có cả phàm lẫn thánh. Thánh là những vị vô lậu, còn
phàm là tất cả chúng sanh ngu mê, đều do vọng tưởng an lập. Như vậy các cõi địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh v.v... đều từ vọng tưởng mà ra, cho nên vọng tưởng là
then chốt tạo ra cảnh khổ cảnh vui, luân hồi lục đạo. Nay chúng ta chặn ngay
gốc vọng tưởng, đừng cho nó làm chủ mình nữa thì đâu còn tạo nghiệp sanh tử.
Như vậy mới thấy trọng
tâm sự tu là phải biết nhắm gốc để hạ nó. Cái cây tàn lớn bao nhiêu đi nữa,
muốn nó ngã thì phải cưa từ gốc, còn chặt từng nhánh thì chỉ gãy nhánh chứ
không ngả cây được. Cũng như vậy, lục đạo luân hồi mà phá từng chỗ thì lâu lắm,
cứ ngay gốc tạo ra luân hồi lục đạo đó mà chặn là dứt. Đây là gốc của sự tu.
Do đó hướng tu của chúng
ta, là vọng tưởng là chủ tạo nghiệp, vậy phải dừng nó lại đừng theo nữa. Không
theo vọng tưởng là không theo nghiệp, mà không theo nghiệp tức hết luân hồi.
Đơn giản vô cùng! Chúng ta tu cốt cầu giải thoát. Giải thoát cái gì? Giải thoát
luân hồi. Cái gì là trọng tâm của luân hồi? Là vọng tưởng. Bây giờ dừng vọng
tưởng không theo nó tức là dừng luân hồi, dừng luân hồi tức là giải thoát. Như
vậy chủ đích chúng ta nhắm hết sức rõ ràng, không có gì nghi ngờ.
Hiểu thật rõ như vậy mới
thấy đường hướng tu của chúng ta là thấu đáo. Người không hiểu rõ nói: "Tu
gì đơn giản quá, phải làm công kia việc nọ cho có phước đức, còn không
theo vọng tưởng coi bộ đơn sơ quá." Họ không biết rằng vọng tưởng
chính là mấu chốt của sanh tử. Ban đầu nó hết sức đơn giản, nhưng từ cái đơn
giản đó, sau phát ra những thứ phiền toái.
Nên biết hư không sanh
trong tâm của ông ví như một làn mây mỏng điểm trong bầu trời xanh, huống là
các thế giới ở trong hư không kia.
Buổi trưa trời trong
trẻo, chúng ta thấy bầu trời xanh có làn mây mỏng, làn mây mỏng đó có nghĩa gì,
có thấm vào đâu so với bầu trời xanh! Hư không vô bờ vô bến mà đối với bản giác
diệu tâm cũng như một mảnh mây nhỏ trong bầu trời xanh, nói gì các thế giới ở
trong hư không. Huống nữa thân này nào có ra gì? Vậy mà chấp nó làm chỗ cứu
cánh, còn cái thênh thang kia lại bỏ quên! Phật thương chúng sanh chính vì sự
ngu mê đó.
Thể tánh thênh thang
không bờ bến, trùm cả hư không, hư không đối với thể tánh đó không có nghĩa lý
gì hết. Vậy mà mình bỏ quên tánh, rồi chấp và tự mãn với tấm thân chút xíu,
chấp những hơn thua phải quấy, phiền hà nhau, đời này tiếp tục đời kia. Vậy nên
khi ngài A-nan ngộ rồi, ngài nói nhìn thân cha mẹ sanh ra đối với pháp thân
giống như thổi một hạt bụi trong hư không, hoặc còn hoặc mất chẳng có gì quan trọng
hết. Còn chúng ta do mê nên thấy các giả tướng là thật, là quan trọng, không
thể nào buông bỏ được.
Trong kinh Hoa Nghiêm,
đức Phật cho thân này như hạt bụi nhỏ tí ti, còn bản tâm như quyển kinh lớn
bằng tam thiên đại thiên thế giới. Quyển kinh lớn nhét trong hạt bụi nhỏ, chỉ
cần đập hạt bụi ra là lấy được quyển kinh. Như vậy, tâm thể bao la không ngằn
mé, sao lại dồn ép vào một cái tí ti không nghĩa lý gì, để rồi lo nó còn mất,
đói lạnh...! Cần cho nó rã ra, để lấy bộ kinh lượng bằng tam thiên đại thiên
thế giới. Nhớ kỹ như vậy, sẽ thấy sự tu không khó.
Như vậy, việc làm của
người tu là phi thường chứ không phải tầm thường, không nên lẩn quẩn mãi trong
cái ăn cái mặc... để bị quay hoài trong trục luân hồi sanh tử không dừng dứt.
Thoát ra khỏi vòng quay đó, sống với cái thênh thang không bờ mé tức là phi
thường.
Các ông một người mà
phát khởi sự trở về tánh chân thật ban đầu, thì mười phương hư không thảy đều
tiêu mất, làm sao các cõi nước ở trong hư không kia không bị rúng động, đổ nát.
Trở về gốc ban đầu là
bản giác diệu tâm của chính mình. Đối với bản giác diệu tâm thì hư không chỉ là
mảnh mây nhỏ giữa khoảng trời xanh, không có giá trị gì, nên nói trở về diệu
tâm thì hư không mười phương thảy đều tiêu hết. Hư không mười phương còn hết,
huống là các cõi nước trong hư không, làm sao mà không rung chuyển, đổ nát?
Các ông tu thiền, trau
giồi chánh định, Bồ-tát và hàng vô lậu đại A-la-hán ở mười phương, tâm tinh
thông suốt, ngay đó được trong lặng. Tất cả ma vương cùng các quỷ thần, các vị
trời phàm phu, thấy cung điện của họ vô cớ đổ vỡ; quả đất rạn nứt, các loài ở
dưới nước, ở trên cạn, các loài bay nhảy thảy đều kinh hoảng, nhưng những người
phàm phu tối tăm thì không biết có sự dời đổi.
Đến đây Phật nói lý do
ma phá người tu hành. Giả sử có người tu đắc đạo, ma quỷ hoảng kinh đi tới phá,
người này đều không hay biết. Trong sử kể: Có vị tăng tên Pháp Tế, tự khoe về
thiền học. Một hôm đại sư Trí Giả tình cờ gặp vị này tại am thất. Am chủ Pháp
Tế nằm dựa ghế hỏi: "Có người ở trong định nghe đất núi rúng động, biết có
vị tăng quán lý vô thường, ấy là định gì?" Đại sư Trí Giả trả lời:
"Đó chỉ mới chuyển thân vào định thôi, là biên định chưa sâu, là tà chứng
ám nhập. Nếu chấp nói thì định ấy chắc chắn phải mất." Vị tăng Pháp Tế
nghe nói kinh hãi đứng dậy thưa: "Tôi thường được định này, vì nói cho
người nghe nên đã mất."
Như vậy, những cảnh
trong định, quỷ thần với thiên ma biết mà người thường không biết. Người tu khi
quán thế giới vô thường thấy cả quả đất rung động, huống nữa là tu đến lúc tâm
hoàn toàn thanh tịnh, nên các cung ma chợt thấy sụp đổ.
Bọn kia đều được năm thứ
thần thông, chỉ trừ lậu tận thông. Chúng quyến luyến trần lao này, làm sao có
thể để cho ông làm tan hoại chỗ ở của chúng. Thế nên quỷ thần và các thiên ma,
võng lượng yêu tinh, khi ông ở trong tam-muội, chúng cùng đến nhiễu loạn.
Bọn kia là ma vương, quỷ thần và trời phàm phu. Trong lục thông,
họ có được cả năm thứ, trừ lậu tận thông mà bậc A-la-hán mới có. Cung mà là
những chỗ sang trọng họ đang thụ hưởng, mà nay thấy rung chuyển tan hoang là do
có người tu đắc đạo. Bọn họ quyến luyến trần lao này lắm, thấy cung điện sắp rã
rời thì hoảng sợ, phải cử binh tới phá, như ngày xưa đức Phật sắp thành đạo,
quân ma kéo tới bao vây phá ngài.
Trước đây chúng ta thấy
ngạc nhiên, Phật giác ngộ rồi độ tất cả chúng sanh, trong đó có cả thiên ma,
tại sao thiên ma lại tới vây hại ngài? Đó là từ lý do này. Hiểu rõ rồi, chúng
ta không còn nghi ngờ tại sao khi mình tu tới chỗ tâm hoàn toàn thanh tịnh rỗng
suốt giống như các vị A-la-hán các vị Bồ-tát, thì ma vương sẽ tới nhiễu loạn
quấy phá.
Nhưng bọn ma kia tuy có
giận dữ, chúng là ở trong trần lao còn ông ở trong diệu giác, như gió thổi ánh
sáng, như dao chặt nước, trọn không xúc chạm được ông. Ông như nước sôi, bọn
chúng như băng cứng, vừa gần hơi nóng thì không bao lâu băng sẽ tiêu hết.
Đó là ba ví dụ để chúng
ta yên lòng. Thứ nhất là ma ở trong trần lao, còn chúng ta ở trong diệu giác,
chúng muốn làm hại cũng giống như gió thổi ánh sáng. Thứ hai, ma muốn hại người
tu giống như là cầm dao chặt nước, dầu chặt bao nhiêu nước cũng chẳng sao. Thứ
ba, chúng ta như nước sôi, ma như băng cứng, băng cứng gần nước sôi sẽ chảy
hết.
Chúng ỷ nơi thần lực
nhũng chúng chỉ là khách, nếu chúng phá rối thành tựu được là do người chủ năm
ấm trong tâm ông.
Quang trọng là người chủ
là năm ấm (sắc thọ tưởng hành thức). Nếu người chủ năm ấm gạt gẫm mình, mình
lầm nó thì ma bên ngoài mới phá được, vì ma ngoài là khách còn năm ấm là chủ.
Trái lại, nếu chúng ta làm chủ được trọn vẹn, không bị năm ấm làm lầm, thì ma
bên ngoài dù mạnh mấy cũng không làm gì mình được.
Chủ nhân nếu lầm thì
khách mới được cơ hội thuận tiện. Chính trong khi thiền định giác ngộ không mê
lầm thì những việc ma kia không làm gì được ông. Năm ấm tiêu trừ thì vào tánh
sánh, bọ ma tà kia đều ở trong khí tối, sáng hay phá tối nên đến gần thì tự
tiêu mất, làm sao dám ở đó nhiễu loạn người tu thiền định?
Khi chúng ta phá được
mỗi ấm tức vào mỗi phần sáng suốt, còn ma thì ở chỗ u ám tối tăm. Chúng ta sáng
suốt thì tối không sao chen vào được. Tối đến gần sáng thì tối phải mất, đâu
dám ở lại làm rối loạn người tu thiền. Do lầm nên ma mới có cơ hội phá. Lầm cái
gì? Lầm những biến tướng của năm ấm. Khi tu, năm ấm biến ra những tướng lạ,
chúng ta lầm tưởng là chứng thánh cho nên ma có cơ hội phá. Trái lại, nếu khi
những tướng lạ hiện ra, biết rõ không lầm thì ma không có cơ hội phá được.
Ma thuộc về âm u tăm
tối, còn chúng ta tu thiền là mở mang trí tuệ, mà trí tuệ là sáng, sáng hay phá
tối. Bởi vậy ma không thể làm nhiễu loạn người tu thiền định được, nếu người đó
không lầm. Như vậy là sự tu có bảo đảm, với điều kiện là phải ngộ chứ không mê.
Nếu chẳng tỏ ngộ, bị các
ấm làm mê, thì ông A-nan ắt sẽ làm con của ma, thành người ma.
Đó là chỗ đáng sợ. Nếu
trong khi tu, chúng ta không sáng suốt không tỉnh ngộ, bị các ấm ma làm mê lầm
(ấm ma là ma của mình, do nhận lầm năm ấm) thì chính mình ắt bị làm con của ma,
thành người ma chứ không còn là người tu chân chánh nữa. Cho nên có nhiều người
ham tu, tu rất có công phu mà rốt cuộc lại làm tôi tớ của ma, nói những chuyện
ma, làm những điều ma. Đó là vì họ đã bị lầm.
Như Ma-đăng-già sức rất
là yếu kém, chỉ dùng chút chú thuật khiến ông phá luật nghi của Phật. Trong tám
muôn hạnh chỉ hủy một giới, do tâm ông thanh tịnh nên vẫn chưa bị trầm luân. Ma
này phá hoại toàn thân bảo giác của ông, giống như quan tể tướng chợt mất hết
bộ sổ, đành phải lang thang, không ai có thể thương mà cứu được.
Sức phá hại của ma làm
cho toàn thân bảo giác của ngài A-nan bị hủy hoại. Tại sao? Vì nó làm mê lầm
rồi phá giới, khiến không ngộ nhập được tánh giác, như ông tể tướng chợt mất
hết bộ sổ, phải lang thang không thể cầu cứu ai.
Như vậy, đoạn này Phật
đã giải thích hết sức rành rẽ:
- Tất cả chúng sanh đều
có tâm thể bản giác diệu minh giác viên, đồng với chư Phật mười phương.
- Sở dĩ chúng ta bị luân
hồi là vì vọng tưởng. Bởi có vọng tưởng nên mê lầm chân lý, đưa tới tạo nghiệp
thọ sanh, chịu luân hồi sanh tử. Một phen mê liền sanh ra hư không, thế giới.
Mà hư không, thế giới đối với tâm tánh giác minh chỉ giống như một mảnh mây nhỏ
ở trong bầu trời xanh.
- Nay chúng ta tu để trở
về bản giác đó. Nếu trở về được với bản giác thì hư không mười phương thảy đều
tan hoại, tất cả cõi nước ở trong hư không này rúng động, đổ vỡ. Quân ma thấy
cung điện chúng sụp đổ, hoảng hốt, biết là do có người tu gần đắc đạo, bèn kéo
đến phá hại.
- Tuy nhiên không đánh
sợ vì ma ở trong trần lao, chúng ta ở trong diệu giác, nó hại mình chẳng khác
nào gió thổi ánh sáng, dao chặt nước, băng gần lửa. Chỉ có điều đáng sợ là lầm
ngũ ấm ma. Nếu người tu lầm ngũ ấm ma nơi chính mình thì ma ở ngoài mới có cơ
hội phá phách. Vậy nên phải dè dặt đừng lầm ngũ ấm ma.
Học đoạn này mới thấy sự
tu hành thật là khó khăn chứ không đơn giản. Trong năm ấm, mỗi ấm Phật phân ra
có mười thứ ma. Mười thứ ma này không phải từ ngoài vào mà chính là do công phu
tu, phá từng ấm mà nó phát hiện. Nếu không biết rõ, khi hiện những tướng lạ
tưởng là mình đạt đạo chứng quả thì đó là bệnh. Còn nếu biết rõ không lầm nhận
thì đó là cảnh giới tốt, do công phu tu của mình mà hiện ra. Như vậy ma hay là
thiện đều từ chỗ biết và không biết. Biết tức là cảnh giới lành, không biết là
cảnh giới ma, tầm vóc hệ trọng ở chỗ đó.
Lại nữa, người tu thường
nói bị ma phá, nhưng sự thật là họ tự phá. Nếu tất cả việc bên ngoài đến đều
một mực nhất quyết từ chối không chấp nhận thì ma làm sao phá được. Chính vì
mình còn mê nên nghe theo sự cám dỗ của ma. Nếu chúng ta chân chánh quả quyết
một đường, sống chết không lay động thì không có con ma nào rù quến được mình.
Như vậy không phải lỗi tại ma, mà lỗi tại mình vậy.
1. Sắc ấm
Mỗi ấm có mười thứ ma.
Phải nhớ kỹ để khi tu khỏi lầm.
A-nan nên biết, ông ngồi
nơi đạo tràng tiêu hết các niệm, các niệm kia nếu hết thì tâm lìa niệm tất cả
được trong sáng, động tịnh không đổi dời, nhớ quên như một. Chính khi an trụ
trong đó mà vào được chánh định, như người mắt sáng ở chỗ rất tối tăm. Tánh
linh rất nhiệm mầu thanh tịnh nhưng tâm chưa phát sáng. Đây gọi là phạm vi của
sắc ấm.
Tinh tánh diệu minh, tinh chỉ cho kiến tinh, tuy trong sạch nhiệm mầu nhưng
trong tâm chưa phát sáng. Cái sáng chỉ mới ở mắt, nhưng chưa sáng trong tâm,
như người mắt sáng mà còn ở trong chỗ tối. Đó là còn trong phạm vi sắc ấm.
Nếu con mắt trong sáng,
mười phương đều rỗng suốt, không còn chỗ nào tối tăm, gọi là hết sắc ấm. Người
ấy có thể vượt khỏi kiếp trược, xét lại nguyên do có sắc ấm, thì cội gốc là
vọng tưởng kiên cố.
Phá được một ấm là qua
được một lớp trược trong năm lớp trược. Người nào khi con mắt thấy rỗng suốt cả
mười phương không còn chỗ nào tối tăm thì gọi là hết phạm vi của sắc ấm, tức
vượt khỏi kiếp trược. Xem lại nguyên do thì thấy sở dĩ có sắc ấm là bởi vọng
tưởng quá bền chắc. Đó là cội gốc có thân sắc ấm.
Như vậy ở trên giải
thích tổng quát hai phần: Phần thứ nhất còn ở trong phạm vi sắc ấm. Phần thứ
hai vượt khỏi phạm vi sắc ấm.
Đến đây mới nói mười thứ
ma của sắc ấm.
Này A-nan, chính ở trong
ấy chuyên ròng nghiên cứu tánh sáng suốt nhiệm mầu, tứ đại không còn đan kết
nữa, trong khoảng chốc lát thân có thể ra khỏi chướng ngại. Đây gọi là tánh
sáng suốt tuôn tràn ra cảnh trước. Ấy chỉ do công dụng tạm được như thế, chẳng
phải chứng thánh. Nếu không khởi tâm cho là chứng thánh thì gọi là cảnh giới
lành. Nếu khởi nghĩ chứng thánh liền rơi vào các thứ tà.
Khi đang thiền định,
chuyên ở trong tĩnh lặng, lâu ngày phát ra ánh sáng. Lúc đó thấy tứ đại như rã
rời, không đan kết nữa, cảm thấy thảnh thơi nhẹ nhàng không còn chướng ngại.
Rồi thấy ở trước sáng khắp hết, đó là do dụng công tu mà tạm thời vậy thôi, chứ
không phải chứng thánh. Nếu thấy vậy, biết là do công phu tu hành mình dồn ép
mà phát ra, chứ không có gì thật, không khởi tâm cho rằng mình chứng thánh thì
đó là cảnh giới lành, không có lỗi gì. Trái lại, vừa dấy niệm chấp cho là mình
chứng thánh, liền rơi vào tà kiến.
Như vậy, tốt hay tà đều
do mình tỉnh giác biết rõ hay chấp lầm. Chỉ khéo một chút là an ổn, còn không
khéo thì thành bệnh. Đó là ma thứ nhất. Ma này có thật là ma không? Nếu biết rõ
cảnh giới đó là do sức cố gắng tu hành của mình phát ra, không cho là chứng
thánh, thì ma đâu có cơ hội để dựa. Còn nếu nói mình chứng thánh, tự cho là
Bồ-tát hay A-la-hán thì ma có cơ hội dựa vào.
Này A-nan, lại dùng tâm
ấy chuyên ròng nghiên cứu tánh sáng suốt nhiệm mầu, trong thân thành rỗng suốt.
Người ấy bỗng nhiên ở trong thân mình lượm ra những con giun sán, mà thân thể
vẫn y nguyên, không bị thương tổn. Đây gọi là tánh sáng suốt tuôn tràn ra thân
thể. Đó chỉ do tinh chuyên thực hành mà tạm được như thế, chẳng phải chứng
thánh. Nếu không khởi tâm cho là chứng thánh thì gọi là cảnh giới lành. Nếu
khởi nghĩ chứng thánh liền rơi vào các thứ tà.
Người tu nếu không hiểu
kỹ sẽ bị hai lỗi:
- Do không hiểu, nên khi
ngồi thiền thấy lạ liền hoảng hốt. Sao lại thấy giun sán trong ruột gan, còn
lượm đem ra ngoài được nữa nên lo sợ. Vì sợ nên không dám tu tiếp. Đó là do
không biết mà bị thối tâm.
- Khi thấy lạ khởi tâm
mừng, cho rằng mình kỳ đặc hơn người, nghĩ mình chứng thánh còn mấy người kia
là phàm, liền rơi vào đường tà.
Chúng ta thấy sự tu
không đơn giản. Tu mà không chịu học, không tìm hiểu cho thấu đáo thì dù có nỗ
lực cố gắng, khi thấy những cảnh lạ đó lại sanh ra hoảng hốt hoặc vui mừng, rồi
nói bậy bạ, dễ lạc vào tà kiến.
Lại dùng tâm ấy chuyên
ròng nghiên cứu trong ngoài, khi ấy hồn phách, ý chí, tinh thần, trừ chấp thọ
thân ra, đều xen lẫn vào nhau làm chủ làm khách. Bỗng nhiên ở trong hư không
nghe tiếng nói pháp, hoặc nghe mười phương đồng diễn bày nghĩa sâu kín. Đây gọi
là tinh phách thay nhau lìa rồi hợp, thành tựu hạt giống lành tạm được như thế,
chẳng phải là chứng thánh. Nếu không khởi tâm cho là chứng thánh thì gọi là
cảnh giới lành. Nếu khởi nghĩ chứng thánh liền rơi vào các thứ tà.
Nhiều người mắc phải chỗ
này, ngồi tu lâu, bỗng nhiên nghe ở ngoài có tiếng nói pháp, hoặc nghe thần
chú, tưởng rằng Phật hay Bồ-tát tới dạy, điểm đạo cho mình, tưởng mình đã ngộ,
lắng nghe riết rồi quên tu. Như vậy do không biết nên tự mình bị gạt, ban đầu
nghe nói những pháp chánh, sau dẫn tới pháp tà, bị lạc vào đường ma, dần dần bị
điên hồi nào không hay. Nếu biết những tiếng đó là do nỗ lực công phu mà phát
ra, không thèm chú tâm vào tiếng nói đó, chỉ cố gắng tu tiến thì sẽ qua. Đó là
cảnh giới lành, vì đã qua được một chặng đường chứ đâu có lỗi gì. Lỗi tại mê
lầm không biết, tưởng mình chứng thánh mà thành bệnh.
Lại dùng tâm ấy lóng
lặng, hiển bày sáng suốt, ánh sáng ở trong phát minh, khắp cả mười phương làm
ra sắc vàng Diêm-phù-đàn, tất cả các chủng loại hóa thành Như Lai. Khi ấy bỗng
thấy đức Phật Tỳ-lô-giá-na ngồi trên đài thiên quang, có ngàn đức Phật đi nhiễu
quanh, trăm ức cõi nước cùng với hoa sen đồng thời hiện ra. Đây gọi là tâm hồn
linh ngộ tiêm nhiễm tâm quang nghiên cứu phát minh, chiếu soi các thế giới, tạm
được như thế chẳng phải là chứng thánh. Nếu không khởi tâm cho là chứng thánh
thì gọi là cảnh giới lành. Nếu khởi nghĩ chứng thánh liền rơi vào các thứ tà.
Thấy cảnh giới như vầy
là phi thường rồi. Chỗ này thật dễ tưởng mình chứng thánh, thành đạo. Đoạn
trước nói về thân, con mắt, đến đây nói về tâm. Do tâm lóng lặng, thấu triệt
rồi phát ra ánh sáng, thấy toàn cả thế giới sắc vàng, thấy tất cả loài chúng
sanh như chó mèo... đều hóa thành Phật hết, rồi lại thấy Phật pháp thân ngồi
trên đài kim quang, có cả ngàn đức Phật vây quanh, cả trăm ức cõi nước cùng hoa
sen hiện ra. Như vậy quá tuyệt rồi, không lầm mình chứng thánh sao được. Thấy
những cảnh đó nếu không lầm, biết do tâm mình nỗ lực tu hành mà hiện ra, trong
phạm vi phá sắc ấm, thì đó là cảnh giới lành; còn nếu cho là mình chứng thánh
tức rơi vào tà. Vậy mới biết tu hành khó khăn, chứ không đơn giản.
Lại dùng tâm ấy chuyên
ròng nghiên cứu tánh sáng suốt nhiệm mầu, quán sát không ngừng, đè ép hàng
phục, kìm chế quá mạnh, khi ấy bỗng dưng mười phương hư không thành sắc bảy báu
hoặc sắc trăm bảo, đồng thời đầy khắp không ngăn ngại nhau, các sắc xanh vàng
đỏ khắp không ngăn ngại nhau, các sắc xanh vàng đỏ trắng mỗi thứ đều thuần hiện
ra. Đây gọi là công sức đè ép quá phần, tạm được như thế chứ chẳng phải chứng
thánh. Nếu không khởi tâm cho là chứng thánh thì gọi là cảnh giới lành. Nếu
khởi nghĩ chứng thánh liền rơi vào các thứ tà.
Bảy báu là vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã
não. Tinh nghiên là chuyên ròng nghiên cứu, không phải khởi
niệm nghiên cứu, mà là tâm luôn luôn thầm lặng hướng về tánh thanh tịnh sáng
suốt. Như khi ngồi thiền luôn giữ tâm yên lặng, càng ngày càng lặng gọi là tinh
nghiên.
Tuy kể có mười thứ ma,
nhưng không phải người tu nào trong khi phá sắc ấm đều thấy đủ mười thứ. Trong
những thứ ma đó hoặc thấy thứ này hoặc thấy thứ kia, hễ lầm cho là mình chứng
thánh thì đều rơi vào tà; còn không lầm, biết rõ do công phu đè ép vọng tưởng
của mình lâu ngày mà phát ra như vậy thì đó là cảnh giới lành.
Lại dùng tâm ấy nghiên
cứu lóng lặng thấu suốt, ánh sáng tinh thuần không loạn, chợt khoảng giữa đêm ở
trong nhà tối thấy rõ các vật không khác gì ban ngày, mà những vật trong nhà
tối cũng không diệt mất. Đây gọi là tâm vi tế thầm kín lóng lặng mà thấy được.
Cái thấy thấu suốt chỗ tối tăm, tạm được như thế chẳng phải là chứng thánh. Nếu
không khởi tâm cho là chứng thánh thì gọi là cảnh giới lành. Nếu khởi nghĩ
chứng thánh liền rơi vào các thứ tà.
Những cảnh này, nếu ai
dụng công tu thì có khi thấy được. Nhờ dụng công nhiều, bỗng dưng thấy trong
nhà sáng hết, thấy các đồ vật cũng như lúc ban ngày. Chúng ta học rồi hiểu kỹ
thì chính mình tu không lầm, mình cũng biết để nói cho họ khỏi bị lầm lạc, đây
là điều thiết yếu.
Lại dùng tâm ấy hoàn
toàn vào chỗ rỗng suốt dung hợp, khắp thân bỗng dưng đồng với cây cỏ, lửa đốt
dao cắt không hề có cảm giác. Lại, dùng lửa không thể đốt cháy, dù có cắt thịt
cũng như cắt cây. Đây gọi là bỏ các trần, dẹp trừ tánh tứ đại, một bề vào chỗ
thuần thục, tạm được như thế chẳng phải là chứng thánh. Nếu không khởi tâm cho
là chứng thánh thì gọi là cảnh giới lành. Nếu khởi nghĩ chứng thánh liền rơi
vào các thứ tà.
Trạng thái thứ bảy này
là không còn cảm giác, thân mình như cây cỏ, đâm vào không đau, đốt không nóng.
Nhiều người tu tới đây hoảng sợ dừng lại không dám tu nữa. Cần biết đây là do
sức ép quá mức của sự dụng công dẹp bỏ thân tứ đại quá thuần thục, hết cảm
giác. Đó là một chặng trong phá sắc ấm, không phải chứng thánh cũng không phải
thành vô tri vô giác.
Lại dùng tâm ấy thành tựu
sự thanh tịnh, công phu thanh tịnh tâm đã cùng cực, chợt thấy cả đại địa, núi
sông ở mười phương đều thành cõi Phật, đầy đủ bảy báu, hào quang sáng suốt đầy
khắp. Lại thấy chư Phật Như Lai nhiều như số cát sông Hằng đầy khắp cõi hư
không, lầu các hoa lệ. Nhìn xuống dưới thấy cõi địa ngục, nhìn lên thấy thiên
cung, được không chướng ngại. Đây gọi là do tưởng ưa chán ngưng lắng lâu ngày,
tưởng lâu mà hóa thành, chứ không phải chứng thánh. Không khởi tâm cho là chứng
thánh thì gọi là cảnh giới lành. Nếu khởi nghĩ chứng thánh liền rơi vào các thứ
tà.
Đây là do tưởng
ưa chán lâu ngày hóa thành, như tưởng ưa cõi Phật, ví dụ người tưởng
cõi Cực lạc, hoặc là chán các cõi địa ngục khổ sở, cái tâm ưa chán mạnh quá,
lâu ngày kết đọng lại mà thành ra các cảnh tượng như vậy. Ngang đây rất dễ vỗ
ngực xưng ta là Thánh, vì thấy núi sông, đất liền... đều thành cõi Phật và thấy
chư Phật ở khắp mười phương nhiều như cát sông Hằng, trên thấy thiên cung, dưới
thấy địa ngục. Nhưng thật chỉ mới là chặng thứ nhất trong năm chặng thôi. Nếu
khởi tâm cho là chứng thánh thì lạc vào bọn tà, còn nếu không khởi thì không có
lỗi gì, đó là cảnh giới lành.
Lại dùng tâm ấy nghiên
cứu sâu xa, chợt lúc giữa đêm thấy phố chợ đường sá, thân tộc quyến thuộc ở
phương xa, hoặc nghe những người kia nói. Đây gọi là tâm bị bức bách cùng tột
bay ra, nên thấy được nhiều thứ cách xa, chứ không phải chứng thánh. Không khởi
tâm cho là chứng thánh thì gọi là cảnh giới lành. Nếu khởi nghĩ chứng thánh
liền rơi vào các thứ tà.
Đây giống những người
xuất hồn, vì đè ép quá mức, tâm bay ra thấy những thứ xa xôi, làng xóm chợ búa,
hoặc nghe người ta nói. Như vậy, nếu ai nghiên cứu kỹ thì biết lối xuất hồn chỉ
là một chặng trong phá sắc ấm. Như ngài Hư Vân có lần ngồi thiền trong căn nhà
tối mà ngài thấy ở ngoài xa xa những người đi thuyền trên sông. Đây cũng là một
trong những trạng thái này.
Lại dùng tâm ấy nghiên
cứu tinh chuyên cùng cực, thấy hình thể thiện tri thức đổi dời, không có duyên
cớ gì, trong chốc lát thay đổi thành nhiều thứ. Đây gọi là tâm tà, bị các loài
ly mỵ hoặc các thiên ma vào trong tim trong bụng, họ tự nhiên nói pháp, thông
suốt các diệu nghĩa, đó chẳng phải là chứng thánh. Không khởi tâm cho là chứng
thánh thì ma sự tự tiêu dứt. Nếu nghĩ là chứng thánh liền rơi vào các thứ tà.
Có một lần, tôi nghe nói
có một hai vị tu lâu ngày theo cách gì đó, khi có người gặp họ, thấy trong ngày
họ thay đổi hình dáng nhiều lần, có lúc thấy họ đỏ hồng, khi thì trắng bạch,
lúc khác thì đổi khác, nói pháp rất lưu loát, ai thấy cũng phục. Nếu mình nghe
vậy tin phục, xin làm đệ tử, đó là lạc vào đám tà. Như vậy, việc này là bên
ngoài, do khi tu, sức nghiên cứu tinh chuyên của mình phát ra khiến cho thấy
những người như vậy. Khi thấy vậy, nếu không lầm là tốt, còn lầm là tai hại.
Này A-nan, mười thứ cảnh
hiện ra trong lúc tu thiền như vậy đều do sắc ấm và dụng tâm xen lẫn nên mới
hiện ra những việc ấy. Chúng sanh mê lầm không tự suy xét, gặp những nhân duyên
này, mê không tự biết, cho là chứng quả thánh, thành tội đại vọng ngữ, rơi vào
địa ngục Vô gián.
Kể ra có mười thứ chỉ
trong một giai đoạn phá sắc ấm mà hiện ra như vậy. Những cảnh thấy trong khi
tu, là do sức dụng công phá dẹp sắc ấm. Nói phá sắc ấm, chẳng qua là do tâm
thanh tịnh, vượt qua sắc ấm thì có những ma cảnh hiện ra, nếu biết thì không có
lỗi gì.
Sau khi Như Lai diệt độ,
ở trong đời mạt pháp, các ông phải y theo lời chỉ dạy tuyên bày nghĩa này,
không để cho thiên ma được cơ hội quấy phá. Phải bảo vệ che chở những người tu
hành thành tựu đạo Vô thượng.
Như vậy mười thứ ma này
có thật là ma không? Nếu biết tức là cảnh giới lành, còn lầm nó mới gọi là ma.
Vậy thì đó không hẳn là ma, mà do công phu của mình phát ra. Biết rõ do công
phu phát ra tức không lầm, đi qua được một chặng đường là tốt. Còn nếu không
biết, tự cho là chứng đắc mới rơi vào ma.
Vậy ma hay không phải mà
là tùy mình biết hay không biết. Muốn biết thì phải học. Nhiều người không chịu
học, chỉ muốn cố gắng tu, nên đa số những người tu lâu mà không biết đều dễ lạc
trong mấy thứ ma này. Công phu càng nhiều càng lạc sâu, rốt cuộc thành tai hại.
Có lắm người tu, một thời nổi tiếng như cồn, ai nghe cũng nể phục, nhưng thời
gian sau lại rơi đường tà.
Vậy nên chúng ta tu phải
học cho thông suốt. Phật đã chỉ kỹ càng, chúng ta phải nhớ đâu đó rành rẽ, biết
rõ đường đi, nếu không biết thì dễ đi lạc. Chúng ta cần biết đường để tu, đồng
thời để hướng dẫn người khác. Bởi vậy nên tôi bắt quý vị phải nhớ đại cương, vì
đây là những điều thiết yếu của sự tu, không khéo nguy hiểm cả một đời tu của
mình. Trong lúc tu thiền, khi thấy những ma cảnh đó chúng ta đâu kịp giở kinh
đối chiếu, vừa vội mừng là đã bị kẹt rồi. Vậy nên phải nhớ những điểm then chốt
này, nếu lầm sẽ tai hại lớn chứ không phải nhỏ.
Như vậy ma ở ngoài không
quan trọng, mà trọng tâm là ma ở trong. Phá mỗi ấm có mười thứ ma, năm ấm có
năm mươi thứ ma, không phải là ít. Qua được năm mươi thứ rồi, mới là yên ổn.
2. Thọ ấm
Này A-nan, người thiện
nam kia trong khi tu Chỉ Quán, sắc ấm đã hết, thấy tâm chư Phật như trong gương
sáng hiện rõ các hình tượng. Nếu có sở đắc mà chưa dùng được, cũng như người bị
bóng đè, tay chân vẫn y nguyên, thấy nghe không sai lầm, nhưng vì tâm bị khách
tà nên không thể cử động được. Đây gọi là phạm vi của thọ ấm.
Nếu hết bị bóng đè, tâm
người kia lìa khỏi thân, trở lại xem thấy được cái mặt, đi đứng tự do không còn
bị lưu ngại, ấy gọi là thọ ấm hết. Người này ắt hay siêu việt kiến trược, xem
lại nguyên do của nó thì vọng tưởng hư minh là cội gốc.
Lúc còn trong phạm vi
thọ ấm thì thấy biết tâm Phật mà chưa dùng được, giống như người bị bóng đè,
biết hết mà không cựa động được, thành ra phải chịu áp lực của nó.
Giai đoạn kế là ra khỏi
thọ ấm, tức là vượt ra khỏi hình thức bị bóng đè. Lúc đó tâm ra khỏi thân, thấy
được cái mặt của mình, đi lại tự do không chướng ngại. Đây gọi là thọ ấm hết,
tức vượt ra khỏi kiến trược. Khi vượt ra khỏi rồi, xem lại nguyên do ở trong
vòng thọ ấm này, thì thấy do vọng tưởng hư minh (rỗng sáng) làm gốc.
Đó là vọng tưởng sáng mà
hư dối là rỗng, không có thật. Ví dụ như mắt tai mũi lưỡi thân chúng ta xúc
chạm với sắc thanh hương vị xúc, Khi xúc chạm, các cảm thọ rõ ràng. Cái biết rõ
đó là biết của vọng tưởng hư dối chứ không có thật, cho nên thọ không thật, thọ
rồi liền mất. Mùi hương qua lỗ mũi, mình cảm nghe thơm, nhưng mùi hương thoảng
qua rồi mất chứ không còn hoài. Như vậy, có cảm thọ rõ ràng nên gọi là minh,
nhưng nó không có thật thể, qua rồi mất nên gọi là hư, đều thuộc về vọng tưởng.
Này A-nan, người thiện
nam kia chính khi ở trong đó được rất sáng suốt, tâm kia phát minh do bên trong
đè nén quá phần, từ nơi ấy chợt phát lòng thương vô cùng. Như thế cho đến xem
thấy ruồi muỗi cũng thương như con đỏ, tâm sanh thương xót, bất giác rơi lệ đầm
đìa. Đây gọi là dụng công đè ép quá mức, nếu tỉnh ngộ thì không lỗi, chẳng phải
là chứng thánh. Nếu biết rõ ràng không lầm thì lâu dần tự hết. Nếu khởi nghĩ là
chứng thánh ắt có ma bi nhập vào tim gan, thấy người thì
thương xót khóc lóc không dừng, mất đi chánh định, sẽ bị trầm luân.
Người này thấy gì cũng
thương cũng khóc, nếu không biết tưởng đó là phát tâm Bồ-đề nên mới thương
chúng sanh như vậy. Rồi lầm tưởng mình đạt đạo, thành Bồ-tát, không ngờ đó là
bệnh.
Mới thấy qua, mọi người
sẽ cho người này là quá tốt vì thấy người thấy vật đều thương. Tốt quá mà sao
phải trầm luân? Bởi vì bi thương đó khiến ngồi thiền không yên, làm mất tâm
chánh định của mình, chánh định mất đi thì sẽ đi vào trầm luân.
Này A-nan, lại những
người thiện nam ở trong định kia thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm được rõ ràng, tướng
tốt hiện ở trước, cảm kích quá phần, bỗng ở trong đó sanh ra dõng mãnh vô hạn.
Tâm kia mạnh mẽ nhạy bén, ý chí bằng với chư Phật, cho rằng chỉ một niệm có thể
vượt qua ba vô kiếp. Đây gọi là dụng công lấn ép thái quá, tỉnh ngộ thì không
lỗi, chẳng phải là chứng thánh. Hiểu rõ không lầm, lâu rồi tự tiêu mất. Nếu
khởi nghĩ là chứng thánh ắt bị ma cuồng nhập vào tim gan, thấy
người thì khoe khoang, ngã mạn không ai sánh bằng. Tâm người kia, cho đến trên
không thấy có Phật dưới không thấy có người, mất đi chánh định, sẽ rơi vào vòng
trầm luân.
Trước là ma Bi, đây là
ma Cuồng. Do sức tu của mình dằn ép quá phần, bỗng nhiên có thắng tướng hiện
tiền, sự cảm kích quá mức đó làm phát sanh sức dõng mãnh phi thường. Phật nói
tu ba vô số kiếp mới thành Phật, nay trong một niệm mà mình vượt qua được,
tưởng như mình là người phi thường. Nếu không biết, tự cho là chứng thánh thì
sanh tâm ngã mạn, trên không thấy có Phật để kính, dưới không thấy có người có
thể bằng mình. Đó là bệnh lớn gọi là ma cuồng.
Như vậy, dõng mãnh tinh
tấn là điều tốt, nhưng khi quá phần sẽ có những tướng lạ. Nếu không biết, tưởng
là chứng thánh liền thành bệnh. Cái lỗi là do không biết nên lầm, cho là mình
đạt đạo, chứng thánh, nếu biết rõ đây chỉ là do sức dằn ép quá phần mà hiện ra
thì từ từ nó tiêu mất. Cho nên tu cần có kinh nghiệm chín chắn, phải bình tĩnh
trước mọi cảnh, không nên chỉ mới được chút ít liền mừng hoặc hoảng sợ, đó là
gốc của bệnh.
Lại, những người thiện
nam ở trong định kia thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm rõ ràng, phía trước không có chỗ
chứng mới, lui lại thì đã mất chỗ cũ, trí lực yếu kém, vào trong chỗ tiêu diệt,
bặt không thấy gì, trong tâm chợt sanh rất khô kiệt. Trong tất cả thời, cái nhớ
thầm lặng không mất, cho đây là tưởng tinh tấn. Đây gọi là tu tâm mà không có
trí tuệ nên tự lầm. Nếu tỉnh ngộ thì không lỗi, chẳng phải là chứng thánh. Nếu
khởi nghĩ là chứng thánh ắt có ma nhớ nhập vào tim gan, sớm
chiều nắm cái tâm treo ở một chỗ, làm mất chánh định, sẽ rơi vào vòng trầm
luân.
Chỗ này mới gian nan,
phía trước tiến tới không được mà lùi lại sau thì chỗ chứng cũ mất rồi, tâm khô
như cây như đá, chìm trong cái nhớ thầm lặng không tan, lại cho đây là tướng
siêng năng tinh tấn. Đó là hiểu lầm. Thật ra đây chỉ là một chặng đường, do tâm
bị khô kiệt rồi hiện ra tướng trạng đó, gọi là tu tâm mà không có trí
tuệ nên tự lầm, hiểu rõ thì không có lỗi gì.
Lại, những người thiện
nam ở trong định kia thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm rõ ràng, sức tuệ vượt quá sức
định, bị lỗi mạnh mẽ bén nhạy, ôm ấp các tánh thù thắng trong lòng, tự tâm đã
nghi mình là Phật Lô-xá-na, được ít cho là đủ. Đây gọi là dụng tâm quên mất chỗ
thường xét nét kỹ càng, chìm ở nơi tri kiến. Nếu tỉnh ngộ thì không có lỗi,
chẳng phải là chứng thánh. Nếu khởi nghĩ là chứng thánh, ắt có ma hạ
liệt dễ biết đủ nhập vào tim gan. Thấy người thì tự nói tôi được Vô
thượng đệ nhất nghĩa đế, mất hết chánh định, sẽ rơi vào trầm luân.
Từ tuệ nhiều hơn định mà
sanh ra các việc như vậy. Do không có sự xét nét kỹ càng, lầm tưởng mình là
Phật Lô-xá-na tức là báo thân Phật, mới được chút ít cho là đủ. Đó là bệnh lớn,
hợp với con ma hạ liệt dễ biết đủ.
Lại, những người thiện
nam ở trong định kia thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm rõ ràng, chỗ đứng mới chưa được
còn tâm cũ đã mất. Xem qua hai mé trước và sau, tự cho là nguy hiểm, tâm chợt
sanh lo buồn vô tận, như ngồi trên giường sắt, như uống thuốc độc, tâm không
muốn sống nữa, thường nhờ người khác hại mạng mình để sớm được giải thoát. Đây
gọi là tu hành lạc mất phương tiện. Nếu tỉnh ngộ thì không lỗi, chẳng phải là
chứng thánh. Nếu khởi nghĩ là chứng thánh ắt có một phần ma thường ưu
sầu nhập vào tim gan. Tay cầm dao bén tự cắt thịt mình, thích bỏ thân
mạng hoặc thường ưu sầu chạy vào trong rừng núi, không muốn thấy người, mất hết
chánh định, sẽ rơi vào vòng trầm luân.
Bệnh này có hai trạng
thái: Một là muốn mượn người khác giết mình cho chết để được giải thoát. Hai là
buồn chán tột độ, không thích thấy ai nữa, chỉ ưa một mình nên muốn chạy vô
rừng núi ở.
Vậy, thỉnh thoảng có
người đang tu học bỗng muốn vô rừng ở một mình, không muốn gặp ai. Người này
thấy ai cũng phàm tục, chỉ có mình là thánh, sợ ở chung với kẻ phàm rồi bị
nhiễm, nên muốn lên rừng ở một mình. Người tu lâu lâu có bệnh đó. Nên nhớ mình
chưa phải là thánh, vô rừng ở một thời gian rồi đói quá cũng phải bò ra kiếm
ăn! Lúc ấy, do đói nhiều năm, nên ăn nhiều hơn người khác nữa. Thành ra điều đó
không tốt gì đâu! Vậy nên cố gắng tu trong bình thường, giản dị mà luôn tiến là
tốt.
Lại, những người thiện
nam ở trong định kia thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm rõ ràng, ở trong chỗ thanh tịnh,
sau khi tâm được an ổn bỗng tự sanh vui vẻ vô hạn, trong tâm vui mừng không thể
tự dừng. Đây gọi là khinh an mà không có trí tuệ để tự kìm chế. Tỉnh ngộ thì
không có lỗi, chẳng phải là chứng thánh. Nếu khởi nghĩ là chứng thánh ắt có một
phần ma ưa hỷ lạc vào trong tim gan. Thấy người liền cười, ở
bên cạnh ngã tư đường tự ca tự múa, tự bảo đã được vô ngại giải thoát, mất hết
chánh định sẽ rơi vào dòng trầm luân.
Thỉnh thoảng chúng ta có
thấy những người tu kiểu đó. Họ tưởng mình đã được giải thoát vô ngại, đi tới
đâu cũng ca múa hát xướng, không biết đó là bị ma hỷ lạc nhập vào.
Lại, những người thiện
nam ở trong định kia thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm rõ ràng, tự cho là đã đủ, chợt vô
cớ sanh khởi đại ngã mạn, như thế cho đến mạn cùng quá mạn cùng quá mạn và mạn
quá mạn, hoặc tăng thượng mạn, hoặc ty liệt mạn, đồng thời đều phát.
Đại ngã mạn là trên không thấy Phật để kính, dưới không thấy
có chúng sanh bằng mình. Mạn là ỷ mình hay mà khinh người, lấn
lướt người. Quá mạn là mình có tài năm mươi phần trăm, người
kia cũng có tài y vậy mà tưởng mình hơn họ; bằng người ta mà tưởng hơn nên gọi
là quá mạn. Mạn quá mạn là người khác có tài năm mươi phần
trăm mình chỉ ba mươi phần trăm mà tưởng mình tới bảy mươi phần trăm, nghĩa là
kém hơn người mấy phần mà tưởng mình cao hơn người.
Tăng thượng mạn là được ít mà tưởng là đủ, ví dụ mình tu mới tới
phá thọ ấm mà tưởng như mình thành Phật rồi. Ty liệt mạn là kẻ
không ra gì mà thấy ai cũng coi họ không ra gì, nghĩa là mình thấp kém mà lại
khinh thiên hạ, kiêu căng phách lối. Người bệnh này trong thiên hạ hết xài
được, đã thua kém hết thảy mọi người mà lại tưởng hơn. Tất cả các bệnh trên,
chúng sanh thường mắc kẹt.
Trong trường hợp này,
người ở trong định kia có đủ hết các thứ mạn nên nói đồng thời đều
phát.
Trong tâm còn khinh cả
chư Phật mười phương, huống là những quả vị dưới như Thanh văn Duyên giác. Đây
gọi là chỗ thấy thù thắng mà không có trí tuệ tự cứu. Nếu tỉnh ngộ thì không có
lỗi, chẳng phải là chứng thánh. Nếu khởi nghĩ là chứng thánh, ắt có một
phần ma đại ngã mạn vào trong tim gan. Không chịu lễ chùa
tháp, phá hủy kinh tượng, nói với những người cư sĩ rằng: "Những tượng này
là vàng, đồng hoặc là đất, cây; kinh là lá cây hoặc là vải lụa. Xác thân là
chân thường mà không tự cung kính, lại sùng mộ đất, cây, thật là điên
đảo." Những người quá tin lời kia, theo đó phá hủy kinh tượng, chôn vùi
trong đất. Do làm nghi lầm chúng sanh, bị vào địa ngục Vô gián, mất hết chánh
định, sẽ rơi vào trầm luân.
Những người quá ngã mạn,
họ cho mình là trên, cho nên đối với Phật, đối với chùa không coi ra gì. Tượng
Phật họ cho đó là đồng là đất là xi-măng là cây v.v... kinh cũng vậy, cho nên
không trọng Phật không trọng kinh. Phật tử nghe họ nói cũng bắt chước theo, như
vậy đó là làm nghi lầm chúng sanh, mất đi chánh định sau phải trầm luân. Thật
là tai hoạ! Nên khi thấy ai có điều kỳ đặc, lại nói lời giống như thế, chúng ta
biết rõ đó là ma. Đừng thấy có thần thông hay thấy những chuyện lạ của họ mà
vội tin. Họ luôn luôn có những điều lạ, hiện ra những thứ khác thường để làm
cho người lầm lẫn.
Lại nữa, những người
thiện nam ở trong định kia thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm rõ ràng, trong chỗ thuần
sáng viên ngộ được tinh lý, được đại tùy thuận. Tâm kia chợt sanh vô lượng
khinh an, tự nói đã thành thánh, được đại tự tại. Đây gọi là nhân nơi tuệ mà
được sự trong sáng nhẹ nhàng. Nếu tỉnh ngộ thì không có lỗi, chẳng phải là
chứng thánh. Nếu khởi hiểu là chứng thánh ắt có một phần của ma ưa
trong sáng nhẹ nhàng vào trong tim gan, tự cho là đầy đủ, lại không
cầu tiến lên. Những người này phần nhiều là những thầy Tỳ-kheo ít học, làm nghi
lầm chúng sanh, đọa địa ngục A-tỳ, mất đi chánh định, sẽ rơi vào dòng trầm
luân.
Tinh minh là thuần trong sáng. Ma thứ tám này là ma ưa
trong sáng nhẹ nhàng. Nếu lầm cho là chứng thánh thì bị ma nhập vào
tim gan, ngang đó tự cho là đã đầy đủ rồi, không cầu tiến lên bước nào nữa.
Lại nữa, những người
thiện nam ở trong định kia thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm rõ ràng, trong chỗ tỏ ngộ
được tánh rỗng sáng. Trong ấy bỗng dưng xoay hướng về sự hằng đoạn diệt, bác
không có nhân quả, một bề vào rỗng không. Tâm rỗng không hiện tiền, cho đến tâm
sanh chấp đoạn diệt mãi mãi. Nếu tỉnh ngộ thì không có lỗi, chẳng phải là chứng
thánh. Nếu khởi hiểu là chứng thánh, ắt có ma rỗng không vào
trong tim gan, bèn chê bai người trì giới gọi là Tiểu thừa, còn Bồ-tát ngộ lý
không thì có gì mà trì phạm?
Người kia thường ở nơi
nhà người cư sĩ có tín tâm, ăn thịt uống rượu, làm những chuyện dâm uế. Vì sức
ma nhiếp phục nên người chủ nhà không sanh nghi ngờ chê bai. Tâm quỷ nhập lâu
rồi thì hoặc ăn phẩn dơ cùng với ăn thịt uống rượu v.v... đều cho là không, phá
luật nghi của Phật, làm lầm lạc đưa người vào chỗ tội lỗi, mất hết chánh định,
sẽ rơi vào vòng trầm luân.
Đây nói về những người
tu chấp không, chấp đoạn diệt, bác không có nhân quả, chê bai người trì
giới nên cứ ăn thịt uống rượu, làm việc dâm dục, vậy mà một số tín đồ
vẫn tin theo. Chúng ta thấy lạ quá, cư sĩ giữ năm giới còn không làm các điều đó,
những người này xuất gia lại làm những việc xấu ác như vậy. Nếu biết lý do thì
không có gì lạ, đó là vì sức ma nhiếp phục, ma khiến được người ta, tuy thấy
như vậy mà nhiều người vẫn tin, vẫn kính trọng như thường.
Lại nữa, những người
thiện nam ở trong định kia thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm rõ ràng, được vị rỗng sáng
thâm nhập vào tận tim cốt. Người kia chợt sanh tâm ái vô hạn. Ái quá độ nên
phát cuồng, liền làm những việc tham dục. Đây gọi là cảnh định an thuận vào
trong tâm, không có trí tuệ để tự gìn giữ, lầm mê vào trong các dục. Nếu tỉnh
ngộ thì không có lỗi, chẳng phải là chứng thánh. Nếu khởi hiểu là chứng thánh,
ắt có ma dục vào trong tim gan, một bề nói dục là đạo Bồ-đề,
giáo hóa những người cư sĩ bình đẳng hành dục, người hành dâm kia gọi là người
giữ gìn chánh pháp.
Những người lầm lạc vào
trong các dục, họ bảo cư sĩ làm chuyện dâm dục để có con tiếp nối giữ gìn chánh
pháp, nên gọi là trì pháp tử. Như khi họ thấy cần cưới vợ,
người ta hỏi tại sao thầy tu mà cưới vợ, đáp là để sanh con cái gìn giữ chánh
pháp, họ sợ mình chết rồi không có người tiếp nối duy trì pháp Phật. Lý luận
của họ nghe thật trái đời, vậy mà thiên hạ vẫn
tin.
Do sức của quỷ thần,
nhiếp phục những kẻ phàm ngu trong đời mạt pháp, số đến cả trăm. Như thế cho
đến một trăm hai trăm hoặc năm sáu trăm, còn nhiều thì cả ngàn muôn người. Khi
tâm ma sanh chán, nó rời bỏ thân thể người kia, oai đức đã không còn, rơi vào
nạn pháp luật. Vì làm nghi lầm chúng sanh nên vào địa ngục Vô gián, mất hết
chánh định, sẽ rơi vào vòng trầm luân.
Những điều này thật là
đáng sợ. Tu là việc rất hay nhưng lệch một chút là xuống địa ngục. Vì lầm không
biết nên bị ma nhập, tự làm những điều tà quấy, lại dạy người khác làm, đó là
tội đọa địa ngục. Cho nên tu mà không cẩn thận thì rất nguy hiểm.
Thật ra trong khi tu do
dụng công nhiều nên có những trạng thái bất thường hiện ra. Người tu phải có
trí tuệ sáng suốt, khi có điều gì bất thường hiện ra phải tự biết kìm chế nó
lại, để tâm được an định. Định và tuệ cân bằng thì sự tu mới tốt, nếu có một
thứ vượt bậc, mất thăng bằng dễ lạc vào ma. Bởi không tự kìm chế được nên ma mới
mới dựa vào, thúc đẩy người tu đi sâu vào tội lỗi.
Do đó, nói tới sự tu tôi
rất dè dặt, quý vị phải nghe cho rõ, học cho kỹ để biết. Bởi vì bản thân tôi
tuy là thầy, nhưng chưa qua hết những địa vị đó, làm sao tôi nói hết được.
Chúng ta phải nhờ chư Phật tổ đã tu đã chứng qua, biết rõ các bệnh rồi dạy lại.
Nên mình phải học, nghe kỹ thì khi tu mới khỏi lầm. Nếu chỉ học chút ít tưởng
là đủ, tới chừng tu gặp những cảnh ma này, không biết tưởng là mình đắc đạo.
Lại hướng dẫn người khác đi sai, tự mình đọa lại khiến cho người khác đọa theo,
đó là tội rất lớn. Vì vậy phải cẩn thận dè dặt, đừng có khinh thường.
Này A-nan, mười thứ cảnh
hiện ra trong lúc tu thiền định như vậy, đều do thọ ấm và dụng tâm xen lẫn nên
mới có những việc này. Chúng sanh ngu mê không tự xét lường, gặp những nhân
duyên này, mê lầm không tự biết, cho rằng mình đã lên quả thánh, thành đại vọng
ngữ, phải rơi vào địa ngục Vô gián.
Sau khi ta diệt độ, ở
trong đời mạt pháp, các ông cũng nên đem lời nói của Như Lai truyền dạy, khiến
khắp chúng sanh khai ngộ được nghĩa này, không để cho thiên ma được dịp khuấy
phá. Phải bảo vệ gìn giữ che chở cho những người tu hành được đạo Vô thượng.
Đó là lời Phật nhắc nhở
chúng ta phải ráng đem lời ngài chỉ dạy truyền lại cho những người sau, đừng để
họ lầm lẫn.
Tóm tắt mười loại ma của
thọ ấm là: ma bi, ma cuồng, ma nhớ, ma hạ liệt dễ biết đủ, ma thường ưu
sầu, ma ưa hỷ lạc, ma đại ngã mạn, ma ưa khinh an, ma không và ma dục.
3. Tưởng ấm
Trong phạm vi sắc ấm và
thọ ấm thì ma nhập vào tâm của người tu. Đến tưởng ấm ma không nhập vào tâm nữa
mà dựa vào một người khác để gạt mình. Đây là trường hợp người ngoài làm cho
mình tin và bị họ gạt. Nếu chúng ta không khéo biết thì cũng rất dễ lầm tin.
Này A-nan, người thiện
nam kia tu thiền, thọ ấm đã hết, tuy chưa được lậu tận mà tâm rời khỏi hình hài
như chim bay ra khỏi lồng. Đã có thể thành tựu từ thân phàm này, trên thì trải
qua sáu mươi vị Thánh của Bồ-tát, được ý sanh thân, tùy qua lại không chướng
ngại. Ví như có người ngủ say nói mớ, người ấy tuy không hay biết mình nói gì,
nhưng lời kia đã thành âm vận thứ lớp, khiến cho những người không ngủ đều hiểu
được lời nói đó. Đây gọi là phạm vi của tưởng ấm.
Khi đã vượt qua thọ ấm,
còn ở trong tưởng ấm, tâm mình thoát ra khỏi thân tự do như chim sổ lồng, cho
nên được ý sanh thân tự tại, dễ dàng tiến lên các vị thánh,
nhưng trải qua trong mê lầm chứ chưa sáng tỏ như các bậc thánh. Thấy như tự do
tự tại mà chưa thật được vậy, giống như người ngủ mê nói mớ, nói thành câu
thành lời rõ ràng mà họ không có ý thức gì, nhưng người ở ngoài nghe thì biết.
Đó là hình ảnh lúc còn trong phạm vi của tưởng ấm.
Nếu hết động niệm, các
tưởng thô phù tiêu trừ, nơi tâm giác minh như bỏ trần cấu, một vòng sanh tử đầu
cuối đều soi sáng khắp, gọi là hết tưởng ấm. Người ấy hẳn có thể vượt khỏi phiền
não trược. Xét lại nguyên do của tưởng ấm, cội gốc là vọng tưởng dung thông.
Năm ngón trực đều từ
vọng tưởng mà ra. Trong năm ấm, phá mỗi ấm cũng đều thấy gốc từ vọng
tưởng. Cội gốc của tưởng ấm là vọng tưởng dung thông. Vọng
tưởng khi đã thuần thục rồi thì dung hợp với nhau không chướng ngại. Đây cũng
còn thuộc vọng tưởng, nên nói còn ở trong phạm vi tưởng ấm, dường như là được
tự tại mà chưa tự tại. Đến khi tất cả động niệm và các tưởng thô đều hết, sạch
hết trần cấu, nhìn thấy dòng sanh tử đầu cuối đều biết rõ, đó là qua khỏi tưởng
ấm.
Này A-nan, người thiện
nam kia thọ ấm rỗng suốt linh diệu không bị các tà lự, định tròn đầy phát sáng.
Trong chánh định, tâm ưa được sáng suốt tròn đầy, suy nghĩ bén nhạy, tham cầu
thiện xảo. Khi ấy thiên ma được cơ hội thuận tiện, phóng tinh thần của nó gá
vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người ấy không biết là bị ma dựa, tự cho
được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ người thiện nam cầu thiện xảo kia, trải tòa
nói pháp. Hình dáng người ấy, nếu cần thì hoặc làm thân Tỳ-kheo khiến cho người
kia thấy, hoặc làm thân Đế-thích, hoặc phụ nữ hoặc Tỳ-kheo-ni, hoặc nằm trong
nhà tối mà thân có hào quang chiếu sáng. Người tu hành ngu mê lầm cho là
Bồ-tát, tin vào sự giáo hóa của người ấy, làm cho tâm họ dao động, phá luật
nghi của Phật, lén làm việc tham dục.
Những việc này rất dễ
lầm, thật khó xét lường. Nếu muốn xét lường. Nếu muốn xét lường thì chúng ta
phải lấy tiêu chuẩn gì để xét? Họ muốn biến hiện gì thì hiện nhưng nếu họ nói
bậy, làm việc tham dục thì nhất định không tin. Như vậy, người tu ấy từ chỗ hay
đi lần tới dở, do tâm phóng đãng, dao động nên phá luật nghi của Phật, làm
những chuyện tham dục. Sở dĩ ma phá được là vì người tu ấy tuy tưởng thô không
còn, nhưng niệm tưởng vi tế vẫn còn dấy lên tham cầu. Đó là yếu điểm cần phải
biết.
Miệng người ma dựa ưa
nói những việc tai họa, điềm lành, đổi thay. Hoặc nói Như Lai ra đời chỗ này
chỗ nọ, hoặc nói về kiếp hỏa hoặc nói có dao binh, làm khủng bố người khiến cho
tiền của trong nhà họ vô cớ bị hao tán.
Gần đây có ông Đạo làm
chiếc thuyền Bát-nhã. Ông nói sẽ có trận hồng thủy, nước ngập đầy, mọi người
đều sẽ chết chìm. Ông đóng chiếc thuyền Bát-nhã đó, để khi có nạn ông chèo đi
vớt người. Nhiều người nghe ông nói như vậy tin và sợ, bỏ nhà bỏ của đi ra cất
nhà dọc theo cồn, để khi có nạn hồng thủy leo lên thuyền Bát-nhã cho sớm. Họ đã
bỏ hết gia tài sự nghiệp để ra đó chờ được cứu sống, đến giờ nơi đó có xảy ra
trận hồng thủy nào đâu!
Đó là những trường hợp
ma dựa, nói những điều làm cho người ta hoảng hốt lo sợ. Thoạt nghe thì có vẻ
như là ông Đạo khuyến khích mọi người tu, nói cho họ sợ để lo tu, nhưng ngược
lại làm phá tan sự nghiệp của người. Do không biết nên bản đạo khi nghe những
lời tiên tri đó liền sợ hãi. Họ đang làm ăn, có nhà cửa ruộng vườn, bỗng nhiên
bỏ hết ra cồn ở, khiến gia nghiệp tiêu tan. Con người vốn sợ chết, nghe nói ai
cứu là mừng, tốn hao bao nhiêu cũng không màng. Điều đáng lo là vì mọi người
nghĩ ông Đạo kia tu khổ hạnh, tu hay... nên lầm tin theo, đưa đến những tai hại
đáng tiếc.
Thật ra, trong kinh đức
Phật có dạy, người tu không được nói chuyện tai biến của một đất nước, một cá
nhân hay một gia đình. Ví như mình biết trước chuyện có thể xảy ra, cũng không
có quyền nói. Tại sao? Vì tai nạn có đến là do nhân quả của họ. Nhân họ đã gieo
thì quả họ phải chịu. Mình nói trước tức muốn sửa đổi nhân quả của họ, nhưng
làm sao có thể đổi được. Như ngày xưa đức Phật biết vua Lưu-ly qua đánh giết
dòng họ Thích-ca, nhưng ngài cũng không thể cứu được. Ngài Mục-kiền-liên thương
xót, cứu năm trăm người để trong bát đưa lên hư không, nhưng khi mở ra tất cả
đều hóa thành máu.
Vậy nói ra không có lợi
gì, chỉ làm cho họ bị khủng bố, khổ sở thêm. Sách Nho thường gọi là "thiên
cơ bất khả lậu", nghĩa là việc trời không thể thổ lộ được. Nếu nói ra là
"lậu thiên cơ", sẽ bị hình phạt. Đứng về mặt nhân quả thì tất cả
những gì xảy ra trên một đất nước, một địa phương cũng đều là do nghiệp, nên
khi mình biết, chỉ có thể cứu họ bằng cách dạy họ tu để chuyển nghiệp. Nếu họ
không tự chuyển được thì đành chịu.
Đây gọi là Quái quỷ,
tuổi già thành ma làm não loạn người tu. Khi tâm ma chán rồi, nó bỏ thân người,
đệ tử cùng thầy đều phạm vào luật vua.
Tới chừng ma chán, bỏ
thân người không gá nữa, do lường gạt người khác nên thầy trò phải ngồi tù.
Thời hiện tại, chúng ta thấy rõ đã có những điều như vậy.
Các ông phải biết trước
để không vào trong luân hồi, còn nếu mê lầm không biết sẽ rơi vào địa ngục Vô
gián.
Bệnh thứ nhất của người
tu trong giai đoạn phá tưởng ấm là tham cầu thiện xảo. Chúng
ta học Phật phải nắm cho vững những điều này, đừng để bị lầm bị gạt. Chúng ta
đang tu bình an, nếu nghe có ai bảo sẽ có tối trời tối đất, tận thế...
thì biết là ma đang dựa vào người đó, nói cho mình sợ, làm cho mình phải hao
tài tốn của. Như có một bà khá giả, có nhà cửa ruộng vườn. bà nghe nói chỉ trong
năm, mười năm nữa "đời tới" rồi. Bà hoảng sợ, không dám làm ăn gì cả,
cất cái thất nhỏ ở đó chờ "đời tới". Nhưng đời không tới mà sự nghiệp
thì tiêu hết. Đó là ma quái gạt người. Những lời tiên tri dối gạt này, được
nghe rất nhiều người, đừng vội lầm tin.
Này A-nan, lại người
thiện nam kia thọ ấm rỗng suốt linh diệu, không bị các tà lự, định tròn đầy
phát sáng. Trong chánh định, tâm ưa dạo chơi lang thang, tinh thần bay đi, tham
cầu ngao du nơi này nơi kia. Khi ấy thiên ma được cơ hội thuận tiện, phóng tinh
thần của nó gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người ấy cũng không biết là
mình bị ma dựa, tự cho rằng được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ người thiện nam
muốn dạo chơi kia, trải tòa nói pháp.
Tự thân hình người ấy
không biến đổi, nhưng những người nghe pháp kia chợt thấy thân mình ngồi trên
tòa sen báu, toàn thân thành khối vàng tía rực rỡ. Cả chúng nghe pháp mỗi mỗi
đều như thế được việc chưa từng có. Người tu hành ngu mê lầm là Bồ-tát, tâm
sanh dâm dật, phá hoại luật nghi của Phật, lén làm những điều tham dục.
Miệng người ma dựa ưa
nói chư Phật ứng hóa ra đời; ở chỗ kia, người kia chính là hóa thân đức Phật
kia đến đây; người nọ tức là vị Bồ-tát nọ... đến giáo hóa nhân gian. Người tu
hành thấy thế tâm sanh khát ngưỡng, tà kiến thầm dấy lên, giống trí tuệ bị tiêu
diệt. Đây gọi là Bạt quỷ, tuổi già thành ma làm não loạn người tu kia. Khi tâm
ma đã nhàm chán, nó bỏ thân thể người, đệ tử với thầy đều phạm vào luật vua.
Các ông phải biết trước để không vào trong luân hồi, còn nếu mê lầm không biết
sẽ roi vào địa ngục Vô gián.
Như gần đây, có tin đồn
đức Phật Di-lặc ra đời là một chú bé mập mạp ở xứ nào đó; hoặc nói có Bồ-tát
Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí thị hiện ở đâu đó. Người tu nghe thấy vậy kính
trọng quá, lần lần tâm tà càng ngày càng tăng, trí tuệ từ từ tiêu mòn. Đây là
do tâm ưa dạo chơi lang thang, để biết chỗ này chỗ kia, rày đây mai đó, không
yên ở tu hành.
Lại, người thiện nam kia
thọ ấm rỗng suốt linh diệu, không bị các tà lự, định tròn đầy phát sáng. Trong
chánh định, tâm ưa thầm hợp, lóng lặng tinh thần, tham cầu khế hợp. Khi ấy
thiên ma được cơ hội thuận tiện, phóng tinh thần gá vào người khác, miệng nói
kinh pháp. Người ấy thật không biết bị ma dựa, cũng nói mình được Vô thượng
Niết-bàn, đến chỗ người thiện nam cầu thầm hợp kia, trải tòa nói pháp.
Thân hình người ấy và
những người nghe pháp kia, bên ngoài không có gì biến đổi, nhưng khiến cho
những người nghe pháp, trước khi nghe pháp tâm tự khai ngộ, niệm niệm dời đổi,
hoặc được túc mạng thông, hoặc có tha tâm thông, hoặc thấy địa ngục, hoặc biết
được các việc tốt xấu ở nhân gian, hoặc miệng nói kệ, hoặc tự tụng kinh. Mỗi
người đều vui mừng được điều chưa từng có. Người tu hành ngu mê, lầm cho là
Bồ-tát, tâm thầm ưa thích, phá luật nghi của Phật, lén làm những chuyện tham
dục.
Miệng người ma dựa ưa
nói Phật có lớn có nhỏ, Phật kia là Phật trước, Phật nọ là Phật sau... Trong đó
cũng có Phật thật Phật giả, Phật nam Phật nữ, Bồ-tát cũng vậy. Người tu kia
thấy vậy, quên mất tâm tu hành trước, dễ tin hiểu theo tà. Đây gọi là Mỵ quỷ,
tuổi già thành ma não loạn người ấy. Khi tâm ma đã nhàm chán, nó bỏ thân người,
đệ tử và thầy đều phạm bào luật vua. Các ông phải biết trước để không vào trong
luân hồi, còn nếu mê lầm không biết sẽ rơi vào địa ngục Vô gián.
Trường hợp này người
nghe pháp chưa nghe câu nào bỗng dưng tâm tự sáng. Lại có nhiều người vào chỗ
ma, rồi tự nhiên phát ra những lời nói mà bình thường không hề biết. Do sức ma
quá mạnh, khiến lúc đó nhớ được đời trước, hoặc liền biết tâm người khác, hoặc
thấy địa ngục... hoặc miệng tụng những kinh mà trước đây mình không thuộc.
Người ấy thấy mầu nhiệm như vậy, nên quên hết tâm tu hành trước kia đã qua được
thọ ấm mà tin theo ma, khiến tâm kiên cố trước càng ngày càng bị lệch, càng
phai nhạt, dễ tin hiểu theo tà.
Lại, người thiện nam kia
thọ ấm rỗng suốt linh diệu, không bị các tà lự, định tròn đầy phát sáng. Trong
chánh định, tâm ưa biết cội gốc, xem xét cùng tột sự biến hoá trước sau của
muôn vật, tâm sáng suốt kia tham cầu biện biệt phân tích.
Người này tâm ưa tìm lại
cội gốc trước, muốn thấu tột thế giới từ đâu mà có, từ cái gì sanh ra... muốn
phăn tìm cái gốc ban đầu đó.
Khi ấy thiên ma được cơ
hội thuận tiện, nó phóng tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp.
Người ấy trước không biết mình bị ma dựa, cũng nói rằng mình được Vô thượng
Niết-bàn, đến chỗ người thiện nam cầu rõ nguồn gốc kia, trải tòa nói pháp.
Người ấy thân có oai thần, nhiếp phục được người cầu pháp, khiến cho người ở
dưới tòa tuy chưa nghe pháp mà tự nhiên tâm đã kính phục rồi. Những người ấy
cho rằng pháp thân, Bồ-đề, Niết-bàn của Phật là trên xác thân hiện tiền của ta
đây. Cha cha con con lần lượt mà sanh, tức là pháp thân thường trụ không mất.
Đều chỉ cho hiện tại là cõi Phật, không riêng có cõi thanh tịnh và thân tướng
sắc vàng nào khác.
Những người bị ma dựa
kia cho pháp thân, Bồ-đề, Niết-bàn ở trên thân xác thịt hiện đây chứ không gì
khác. Cứ cha sanh con, con sanh cháu, cháu sanh chắt, sanh tiếp tục mãi đời đời
không dứt như vậy, cho đó là pháp thân còn hoài không mất. Họ nói vậy mà vẫn
được thiên hạ tin.
Người kia tin nhận, quên
mất tâm tu hành trước, thân mạng đều quy y nơi người ấy, cho rằng được việc
chưa từng có. Những người tu hành ngu mê lầm cho là Bồ-tát, tâm ưa suy cứu kia,
phá luật nghi của Phật, lén làm chuyện tham dục.
Miệng người ma dựa ưa
nói mắt tai mũi lưỡi đều là Tịnh độ, nam căn, nữ căn là chỗ chân thật Bồ-đề,
Niết-bàn. Những người kia không biết, tin lời nói ô uế ấy. Đây gọi là các loài
ác quỷ Cổ Độc, Yểm Thắng, tuổi già thành ma làm não loạn người tu hành. Khi tâm
ma sanh nhàm chán, nó bỏ thân người, thì đệ tử và thầy đều phạm vào luật vua.
Các ông phải biết trước để không vào trong luân hồi, còn nếu mê lầm không biết
sẽ rơi vào địa ngục Vô gián.
Người kia, trước tu chân
chánh nên vượt qua được sắc ấm và thọ ấm, nhưng tới đây họ tin vào những điều
ma nói nên quên mất tâm trước đó, quy y theo ma.
Các loài quỷ Cổ Độc là
các loài sâu cổ, quỷ Yểm Thắng tức là làm bùa yếm đối hại người. Các loài quỷ
này, tuổi già thành ma hại người. Lâu nay người ta sợ quỷ hơn sợ ma vì nghĩ quỷ
dữ hơn ma, ở đây nói có khác là thành quỷ lâu ngày mới thành ma. Đó cũng chỉ là
ngôn từ thôi.
Lại, người thiện nam khi
thọ ấm rỗng suốt linh diệu, không bị các tà lự, định tròn đầy phát sáng. Trong
chánh định, tâm ưa sự huyền ứng, nghiên cứu cùng khắp, tham cầu thầm cảm ứng.
Khi ấy thiên ma được cơ hội thuận tiện, phóng tinh thần gá vào người khác,
miệng nói kinh pháp. Người ấy vốn không biết bị ma dựa, cũng nói mình được Vô
thượng Niết-bàn, đến chỗ người thiện nam cầu cảm ứng kia, trải tòa nói pháp,
hay khiến cho thính chúng tạm thấy thân họ như đã trăm ngàn tuổi, tâm sanh ái
nhiễm, không thể nào xa lìa được; đem thân làm tôi tớ, cúng dường tứ sự không
biết mỏi mệt. Ma khiến cho tâm mỗi người dưới tòa đều biết đây là thiện tri
thức, tiên sư của mình, riêng sanh pháp ái, dính khắn như keo sơn, được việc
chưa từng có. Những người ngu mê ấy lầm cho là Bồ-tát, tâm ưa thân cận, phá
luật nghi của Phật, lén làm những chuyện tham dục.
Miệng người ma dựa ưa
nói: "Kiếp trước ta ở trong đời đó, trước độ người đó, lúc ấy là thê
thiếp, anh em của ta, đời nay đến đây để độ nhau. Ta cùng với các ngươi theo
nhau về thế giới kia, cúng dường đức Phật kia." Hoặc nói riêng có cõi trời
Đại quang minh, Phật ở trong đó là chỗ tất cả đức Như Lai nghỉ ngơi.
Những người kia không
hiểu biết, tin lời lừa dối ấy, quên mất tâm tu hành trước. Đây gọi là Lệ quỷ,
tuổi già thành ma não loạn người tu hành. Khi tâm ma nhàm chán, nó bỏ thân
người, thì đệ tử và thầy đều phạm vào luật vua. Các ông phải biết trước để
không vào trong luân hồi, còn nếu mê lầm không biết sẽ rơi vào địa ngục Vô
gián.
Huyền ứng là muốn biết các việc chưa tới, muốn có sự ứng hợp
từ xa đến giúp mình. Vậy mới thấy những loại ma này quá dữ! Trong nhà thiền có
những câu chí lý: "Gặp Phật giết Phật, gặp ma giết ma." Chúng ta tu
là để định tâm, phát huy trí tuệ, chứ không mong cầu điều gì bên ngoài. Nếu
người bên ngoài tới nói là Phật mình cũng không nhận, nói là ma cũng không sợ,
như vậy mới không lầm. Nếu còn cầu mong bên ngoài, mong Phật tới giáo hóa mình,
mong Bồ-tát hiện để cứu rỗi thì dễ lạc vào ma.
Cho nên phải thật cẩn
thận, có những người tu thấy không có gì đặc biệt, nhưng họ dạy mình phải giữ
giới, dạy thực hành đúng luật nghi của Phật, nên biết đó là người chân chánh.
Trái lại, người có thần thông cao tới đâu, nếu dạy mình bỏ những điều răn cấm
quan trọng của Phật, đó là tà ma. Do đó ngày xưa Phật cấm các vị Thanh văn hiện
thần thông, vì ngoại đạo cũng hiện được những phép lạ. Người tu Phật thì cứ
dùng pháp Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Nhân quả luân hồi, Lục độ... để dạy
người, còn tất cả những thứ mầu nhiệm, lạ lùng đều không nên dùng.
Người tu thiền chân
chánh, khi tu chỉ làm một điều là dứt hết mọi vọng tưởng điên đảo. Tâm yên tịnh
thì trí tuệ tự sáng, tự nhận ra cái chân thật của chính mình. Ngoài ra, tất cả
những gì bên ngoài đều không thừa nhận. Như vậy thì không bao giờ lầm. Trái lại
nếu còn tin những thứ bên ngoài sẽ dễ bị gạt, bị hiểm nguy, có thể thầy trò đều
rơi vào tai nạn. Vậy nên người học Phật phải khéo biết.
Lại, người thiện nam khi
thọ ấm rỗng suốt linh diệu, không bị các tà lự, định tròn đầy phát sáng. Trong
chánh định tâm ưa thâm nhập khắc khổ siêng năng, ưa chỗ vắng vẻ, tham cầu yên
tĩnh. Khi ấy thiên ma được cơ hội thuận tiện, phóng tinh thần gá vào người
khác, miệng nói kinh pháp. Người ấy vốn không biết bị ma dựa, cũng nói mình
được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ người thiện nam cầu yên lặng kia, trải tòa nói
pháp, khiến những người nghe pháp đều biết được nghiệp trước của mình. Hoặc ở
trong hội đó, nói với một người rằng: "Nay ông chưa chết mà đã làm súc
sanh", rồi bảo một người phía sau đạp cái đuôi, liền khiến người kia không
đứng dậy được.
Điều này tôi cũng có
nghe, có một người tu làm kiểu đó. Người nào tới, ông ấy nhìn một hồi rồi nói
đời trước là gì, nếu không tin thì bảo người khác đứng sau đạp đuôi thử. Quả
nhiên người ấy không đứng dậy được. Đó là do bị ma dựa mà làm ra như vậy. Nếu
chúng ta không học để biết rõ cũng dễ bị lầm.
Khi ấy cả chúng đều hết
lòng kính phục. Có người khởi tâm thì nó đã biết được ý móng khởi. Ngoài luật
nghi của Phật, lại thêm sự khắc khổ, nó chê bai các thầy Tỳ-kheo, mắng nhiếc đồ
chúng, vạch bày việc của người, không ngại sự chê trách.
Ví dụ có người vừa khởi
nghĩ: "Không biết ông này tu thật hay giả đây?", nó biết liền:
"À, ông nói tôi giả phải không?" Người ma dựa làm ra vẻ tu hơn Phật.
Như Phật dạy Tỳ-kheo ngày ăn một bữa, bây giờ nó nói như vậy cũng nhiều, một
ngày chỉ ăn một chén thôi. Hoặc không được ăn cơm, phải ăn khoai, khắc khổ còn
hơn Phật dạy, để cho mọi người kính phục. Do đâu mà dám chê bai Tỳ-kheo? Vì nó
mỗi ngày chỉ ăn một chén cơm hoặc chỉ ăn khoai, nên nói: "Mấy ông thầy
tham ăn, ăn nhiều, mấy ông tu lôi thôi, tôi mới là chân chánh." Nếu đồ
chúng tin theo các thầy Tỳ-kheo, liền bị nó mắng nhiếc. Ma ưa vạch bày những
việc thầm kín của người, không ngại người ta tỵ hiềm.
Thật ra người tu chân
chánh vẫn sống bình thường như mọi người. Chỉ khác là họ luôn gìn giữ giới
luật, biết chuyển hướng những vọng niệm sai lầm, biết tu sửa, đó là điểm chính
yếu. Đừng nên ham những hình thức lạ. Chúng ta phải hiểu rõ chánh và tà. Tà mau
phát mau tàn, còn chánh thì cứ thầm thầm diệu diệu. Chánh là mỗi ngày mình tu
gỡ được một ít phiền não, đó là giải thoát được một ít; lâu ngày phiền não sạch
tức giải thoát hoàn toàn. Đừng mong cầu điều lạ, sẽ dễ lạc đường ma.
Miệng người ma dựa ưa
nói những điều họa phước đến, đến khi họa phước xảy thì không sai sót mảy may.
Đây là Đại lực quỷ, tuổi già thành ma não loạn người tu hành. Khi tâm ma nhàm
chán, nó bỏ thân người thì đệ tử cùng với thầy đều phạm vào luật vua. Các ông
phải biết trước để không vào trong luân hồi, còn nếu mê lầm không biết sẽ rơi
vào địa ngục Vô gián.
Ma ưa nói chuyện họa
phước của người. Ví dụ như nói người này ba tháng nữa mắc nạn, phải ở tù, thì
đúng ba tháng người đó mắc nạn ở tù. Vậy làm sao không tin được! Người tu phải
sáng suốt, biết để đừng lầm. Tuy nghe kinh biết rõ vậy, nhưng giả sử bây giờ có
ma hiện việc lạ đó, quý vị có lầm không? Có thể lầm gần chín mười phần trăm.
Vậy phải làm sao, có tiêu chuẩn gì để khỏi lầm? Tất nhiên người tu thiền phải
có tiêu chuẩn riêng để không lầm, đó là Giới - Định - Tuệ.
Hễ người nào phá giới
luật của Phật là ma. Như Phật dạy cấm tà dâm, cấm nói dối, cấm uống rượu v.v...
mà người đó lại khen, chúng ta liền biết là ma. Chủ trương nhà thiền tu là định
chứ không phải thần thông, từ định phát sanh trí tuệ. Những chuyện huyền bí ở
bên ngoài không cần thiết với người tu thiền. Nếu chúng ta chạy theo những cái
hay lạ bên ngoài là mất đi định tuệ của mình. Sở dĩ người tu bị lầm là vì không
nắm vững những điều đó.
Theo nhà thiền thì
"gặp Phật giết Phật, gặp ma giết ma". Dù nó hiện Phật mình cũng không
tin, đừng nói là ma. Tu không cầu Phật ở ngoài, tâm giác ngộ là Phật. Dù Phật
tới xoa đầu mình cũng không nhận, làm sao ma gạt được. Sở dĩ bị gạt là tại ham
những thứ lạ bên ngoài, tu ngồi thiền hoài cực quá, có ai cho mình kết quả mau
và khỏe thì thích, chạy theo liền. Vậy nên ma dễ đánh lừa mình.
Lại, người thiện nam khi
thọ ấm rỗng suốt linh diệu, không bị các tà lự, định tròn đầy phát sáng. Trong
chánh định, tâm ưa hiểu biết, siêng năng khổ nhọc xét tìm, mong cầu biết đời
trước. Khi ấy thiên ma được cơ hội thuận tiện, phóng tinh thần gá vào người
khác, miệng nói kinh pháp. Người ấy vốn không hay biết bị ma dựa, cũng nói mình
được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ người thiện nam cầu hiểu biết kia, trải tòa
nói pháp.
Người tu hành bỗng dưng
ở chỗ nói pháp, được hạt châu lớn. Ma kia có khi hóa làm súc sanh, miệng ngậm
hạt châu và các loại trân bảo khác, hoặc sắc lệnh phong tước của vua chúa, thẻ
lệnh của quan tướng, các vật kỳ lạ, trước trao cho người kia, sau đeo vào trong
thân. Hoặc dụ người nghe pháp ở dưới đất có chôn hạt châu minh nguyệt, đang
chiếu sáng chỗ kia. Những người nghe pháp được việc chưa từng có. Phần nhiều ma
ăn thuốc hoặc cỏ, không ăn những thức ăn ngon, có khi ngày ăn một hột mè hạt
lúa mà thân hình nó vẫn béo mập, do vì sức ma gìn giữ. Ma chê bai các thầy
Tỳ-kheo, mắng nhiếc đồ chúng, không sợ sự chê trách.
Ma ăn mỗi ngày một hột
mè, hột bắp, ăn rất ít, sơ sài, không ăn thức ăn ngon mà vẫn mập
Miệng người ma dựa ưa
nói kho báu chôn ở phương khác, hoặc chỗ ở ẩn của các bậc Thánh Hiền mười
phương. Ai theo sau đi tìm thì thường thấy có những người kỳ dị.
Ví dụ ma nói trên núi
Thị Vải có cái hang, hiện có ông thánh đang tu ở đó. Chúng ta không tin, nó bèn
dẫn mình đi. Tới đó thấy một vị ẩn tu rất kỳ đặc, râu tóc phủ dài trắng xóa,
làm sao không tin được. Cho nên người tu nếu không biết cội nguồn, cứ chạy theo
hình tướng bên ngoài sẽ dễ lạc vào đường tà.
Đây gọi là quỷ thần ở
rừng núi, đất đai, thành hoàng, sông núi, tuổi già thành ma. Hoặc ma nói những
điều dâm dục, phá giới luật của Phật, nó cùng với những người phụng sự lén làm
việc ngũ dục, hoặc có khi tinh tấn ăn toàn cỏ cây. Việc làm của nó không nhất
định, cốt não loạn người tu hành. Khi tâm ma nhàm chán, nó bỏ thân người thì đệ
tử và thầy phần nhiều phạm vào luật vua. Các ông phải biết trước để không vào
trong luân hồi, còn nếu mê lầm không biết sẽ rơi vào địa ngục Vô gián.
Dựa lâu rồi ma cũng ló đuôi.
Cách ma gạt gẫm là có khi nó rất khổ hạnh không ăn thức ăn ngon, có lúc lại
cùng đồ đệ lén hưởng ngũ dục. Như vậy những loại ma này chúng ta nên vững chí
không tin theo.
Lại, người thiện nam khi
thọ ấm rỗng suốt linh diệu, không bị các tà lự, định tròn đầy phát sáng. Trong
chánh định, tâm ưa các thứ thần thông biến hóa, nghiên cứu nguồn gốc sự biến
hóa, tham cầu có thần lực. Khi ấy thiên ma được cơ hội thuận tiện, phóng tinh
thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người ấy vốn không hay biết bị ma
dựa, cũng nói mình được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ người thiện nam cầu thần
thông kia, trải tòa nói pháp.
Người ấy hoặc tay cầm
lửa sáng, nắm lửa đó đem phân phối trên đầu bốn chúng nghe pháp. Ngọn lửa trên
đỉnh đầu những người nghe pháp, lên cao vài thước (thước tàu = 1/3m) cũng không nóng, không hề bị
thiêu đốt. Hoặc ma đi trên nước như khi đi trên đất bằng, hoặc ở trong hư không
ngồi yên không động, hoặc vào trong bình hoặc ở trong đãy, hoặc vượt ra cửa sổ,
xuyên qua vách tường không có gì chướng ngại. Chỉ đối với đao binh thì ma không
được tự tại.
Chúng ta thấy vậy có
phục không? Như lửa cháy rực trên đầu mà tóc không cháy, không nóng, hoặc ngồi
kiết già trong hư không, hoặc đi trên nước phao phao... Những điều đó, đối với
các vị thiền sư thì chẳng có gì quan trọng cả. Như ngài Hoàng Bá một hôm đi dạo
núi Thiên Thai, gặp một vị tăng nói chuyện với nhau như đã quen biết từ xưa,
nhìn kỹ là người mục quang xạ. Hai người cùng đi, gặp khe suối nước đầy chảy
mạnh, ngài giở mũ chống gậy dừng lại, vị tăng kia thúc ngài đồng qua. Ngài bảo:
- Huynh cần qua thì tự
qua.
Vị tăng kia liền vén y,
bước đi trên sóng như đi trên đất bằng. Qua đến bờ, vị tăng kia quay lại hối:
- Qua đây! Qua đây!
Ngài bảo:
- Ôi! Cái gã tự độ. Nếu
tôi sớm biết, sẽ chặt bắp đùi huynh.
Vị tăng kia khen:
- Thật là pháp khí Đại
thừa, tôi không bì kịp.
Nói xong, không thấy vị
tăng ấy nữa.
Bây giờ nếu người cùng
đi với mình bước trên nước qua sông, còn mình không đi được như vậy, mình có
xấu hổ vì thua, có phục họ chăng? Ngài Hoàng Bá chẳng những không xấu hổ, không
phục mà còn đòi chặt chân nữa! Như vậy mới thấy người chân tu là làm sao cho
tâm mình thanh tịnh, trí tuệ giác ngộ sáng suốt, chứ không cốt ở thần thông,
coi thần thông như trò chơi, không có gì quan trọng. Người mới tu thấy thần thông
rất phục, nên khi thấy ma quỷ có sức thần thông, đi trên nước, ngồi trong hư
không, chun trong bình, ngồi trong đãy, xuyên qua vách tường, cái gì nó cũng
làm được, liền cảm thấy xấu hổ, cho là mình tu bao nhiêu năm mà không được gì
hết, sanh lòng nể phục rồi theo làm đệ tử nó. Đó là lạc đường ma. Nguy hiểm như
vậy!
Ma tự nói là Phật, thân
mặc áo trắng mà nhận Tỳ-kheo lễ, chê bai Thiền Luật, mắng nhiếc đồ chúng, vạch
bày việc của người mà không sợ tỵ hiềm. Miệng ma thường nói thần thông tự tại,
hoặc lại khiến người ở bên thấy được cõi Phật. Đây là do sức quỷ mê hoặc người,
không phải chân thật. Ma khen ngợi việc hành dâm, không chê những hạnh thô, đem
những việc xấu xa cho đó là truyền pháp.
Tuy ma là người bạch y
cư sĩ, lại ngồi cho các thầy Tỳ-kheo lạy. Thường thì Tù-kheo ngồi cho cư sĩ
lạy, nay vì các thầy Tỳ-kheo phục tài năng của nó, tưởng nó là Phật thị hiện
nên lễ lạy. Ma khiến cho người ngồi đây mà thấy được cõi Phật, cho nên người ta
dễ lầm. Tuy nhiên, ma chấp nhận những hạnh thô, nó dẫn người vô bóng tối làm
những chuyện xấu xa, bảo là truyền pháp. Ban đầu nó hiện thần thông, làm những
điều kỳ quái cho người ta phục, rồi sau lộ ra những tà hạnh.
Đây gọi là các loài tinh
mỵ có sức lực lớn trong trời đất: tinh núi, tinh biển, tinh gió, tinh sông, tinh
đất; tất cả tinh mỵ do cây cỏ sống nhiều kiếp hóa thành; hoặc là rồng thành
quỷ; hoặc các vị tiên tuổi thọ hết, sống lại làm loài yêu quái; hoặc những vị
tiên kỳ hạn đã hết, đến lúc phải chết mà hình không hoại, có các loài yêu quái
gá vào, tuổi già thành ma não loạn người tu. Khi tâm ma nhàm chán, nó bỏ thân
thể người kia, đệ tử với thầy phần nhiều phạm vào luật vua. Các ông phải biết
trước để không vào trong luân hồi, còn nếu mê lầm không biết sẽ rơi vào địa
ngục Vô gián.
Bệnh này là do ưa thích
thần thông nên quỷ hiện thần thông tới gạt. Như vậy người tu mà còn dấy niệm ưa
thích điều gì đều thành bệnh hết.
Lại, người thiện nam khi
thọ ấm rỗng suốt linh diệu, không bị các tà lự, định tròn đầy phát sáng. Trong
chánh định, tâm ưa vào chỗ tịch diệt, nghiên cứu tánh biến hóa, tham cầu cái
Không sâu xa. Khi ấy thiên ma được cơ hội thuận tiện, phóng tinh thần gá vào
người khác, miệng nói kinh pháp. Người ấy vốn không biết bị ma dựa, cũng nói
mình được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ người thiện nam cầu Không kia, trải tòa
nói pháp. Ở trong đại chúng, thân hình bỗng hóa thành không, mọi người không
thấy gì, lại từ hư không đột nhiên xuất hiện, khi xuất hiện khi mất tự tại. Ma
hoặc hiện thân rỗng suốt như lưu ly, hoặc duỗi tay chân phát ra mùi hương
chiên-đàn, hoặc đại tiểu tiện cứng như đường phèn.
Đây là những loại quỷ
ghê gớm, làm những việc ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Hồi tôi còn bé
cũng nghe có một ông thầy, gặp ai ông cũng đưa tay bảo ngửi. Có người ngửi nghe
thơm, không rõ là thơm chiên-đàn hay thơm mùi gì. Nếu thơm chiên-đàn là đúng
loại ma này rồi. Lại thêm việc kỳ quái: đại tiểu tiện như đường phèn, chắc các
đệ tử sẽ đua nhau lượm, vì họ tin tưởng đó là bậc Thánh.
Ma chê bai giới luật,
khinh khi người xuất gia, miệng thường nói không có nhân quả, một phen chết là
mất hẳn, không có thân sau, cũng không có phàm thánh. Tuy nó được không lặng mà
lén làm những việc tham dục, người thọ nhận dục kia cũng được tâm không, cũng
bác không có nhân quả. Đây gọi là các loại vàng ngọc, cỏ thơm... ăn nuốt tinh
khí mặt trời mặt trăng, lân, phụng, quy, hạc, trải qua ngàn muôn năm không
chết, thành tinh linh sanh ra trong cõi nước, tuổi già thành ma não loạn người
tu hành. Khi tâm ma nhàm chán, nó bỏ thân thể người ấy, đệ tử với thầy phần
nhiều phạm vào luật vua. Ông phải biết trước để không vào trong luân hồi, còn
nếu mê lầm không biết sẽ rơi vào địa ngục Vô gián.
Những đồ vật để lâu ngày
hay những con vật sống lâu quá thành tinh, lâu nữa nó linh thiêng nên thành ma,
quấy phá người tu hành.
Lại, người thiện nam khi
thọ ấm rỗng suốt linh diệu, không bị các tà lự, định tròn đầy phát sáng. Trong
chánh định, tâm ưa sống lâu, nhọc nhằn nghiên cứu kỹ, tham cầu được nhiều tuổi
bỏ mạng sống phần loạn, mong chóng được tướng vi tế biến dịch thường trụ.
Người này cho cái thân
phần đoạn này là thô, mong cầu được thân biến dịch vi tế thường trụ. Thân
phần đoạn sanh tử phải chịu luân hồi trong sáu đường, có sự sai khác về hình
thể và hạn định về tuổi thọ, phải chịu các thứ quả báo khác nhau của phàm phu.
Vì thân mạng có dài ngắn nên gọi là phần đoạn. Các bậc thánh từ A-la-hán trở
lên có thân biến dịch sanh tử, là thân không có hình sắc hơn kém, không có thời
gian thọ mạng ngắn dài, chỉ có những mê tưởng diệt dần, chứng ngộ tăng dần, nên
gọi là biến dịch. Đây là sự thay đổi trong vi tế mà tánh thường còn không mất.
Khi ấy thiên ma được cơ
hội thuận tiện, phóng tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người
ấy vốn không biết bị ma dựa, cũng nói mình được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ
người thiện nam cầu sống lâu kia, trải tòa nói pháp. Ma ưa nói qua lại phương
khác không chướng ngại, hoặc trải qua muôn dặm chỉ trong chớp mắt hay một hơi
thở liền trở lại, đều lấy được vật ở phương kia.
Ví dụ như hiện đang ngồi
trong hội ở đây, người ấy nói: "Để tôi ra thành nội Huế mượn một món đồ cổ
đem về cho các ông coi." Rồi trong chớp mắt liền đưa món đồ kia ra. Chúng
ta có tin là người ấy đã đi tới Huế không? Nếu không đi tới thì làm sao lấy món
đồ kia được. Vả lại có người từng đến Huế, đã biết món đồ đó để chỗ nào trong
thành nội nên nó đưa ra là tin liền. Như vậy mới thấy sức của ma quá mạnh.
Hoặc ở một chỗ, trong
một nhà chỉ khoảng vài bước, bảo người kia đi từ bên đông đến vách bên tây,
người ấy đi rất mau mà trải nhiều năm cũng không đến. Nhân đây mọi người có
lòng tin nghi là Phật hiện tiền. Miệng ma thường nói: "Chúng sanh ở mười
phương đều là con của ta, ta sanh ra chư Phật, ta sanh ra thế giới, ta là Phật
đầu tiên, tự nhiên ra đời, không do tu mà được." Đây gọi là ma Trụ thế Tự
tại thiên. Ma sai bọn quyến thuộc như Giá-văn-trà và đồng tử Tỳ-xá cõi trời Tứ
thiên vương, những kẻ chưa phát tâm, ưa cái hư minh kia, ăn tinh khí của người
tu hành.
Ma vương ở cõi trời Tự
tại, quyến thuộc của nó và đồng tử cõi trời Tứ thiên vương, những kẻ chưa phát
tâm theo Phật thì phá người tu như vậy, còn khi đã phát tâm theo Phật rồi thì
ủng hộ chứ không phá nữa.
Hoặc không nhân nơi
thầy, đích thân người tu hành kia xem thấy, những vị tự xưng là thần Chấp kim
cang đến ban cho mạng sống lâu dài. Ma hiện thân mỹ nữ, làm những việc tham
dục, chưa đầy một năm, gan não của người kia đều khô kiệt. Miệng người kia hay
nói lẩm bẩm một mình, nghe như yêu quái, người đi trước chưa rõ nguyên do, phần
nhiều phạm vào luật vua, chưa kịp chịu hình phạt, trước đã chết khô. Ma não
loạn người kia cho đến chết mất. Các ông phải biết trước để không vào trong
luân hồi, còn nếu mê lầm không biết sẽ rơi vào địa ngục Vô gián.
Đây là con ma thứ mười,
lỗi tại người tu mong cầu sống lâu. Cho nên gần đây, có người nói với tôi:
"Quý thầy tu mà bệnh hoạn hoài, vậy tu làm chi! Tu không bệnh mới được
chứ!" Họ khuyên muốn không bệnh, phải luyện pháp tiên để được sống lâu.
Như vậy vô tình mắc kẹt vào bệnh tham sống lâu. Nếu trong khi tu có bệnh đó, dễ
bị loại quỷ này gạt và dẫn đi. Ban đầu nó hiện thần thông để chinh phục mình,
rồi sau nói những điều trái với luật nghi Phật và xúi làm bậy. Đa số những loài
quỷ quái đều vậy. Người tu hành có công phu ở núi rừng dễ bị bệnh này.
Người học đạo phải sáng
suốt nhận cho kỹ, điều gì trái với luật nghi của Phật thì không phải chánh đạo.
Bởi vì những gì trái với đạo đức đều phát nguồn từ ba bệnh gốc dâm-sát-đạo. Ở
đây, ma mắc bệnh thứ nhất. Cho nên, dầu một ngày nó ăn một hạt mè, một hạt bắp
mà nói toàn những chuyện tham dục, biết là bậy rồi, không tin theo. Đó là những
điều giúp chúng ta nghiệm biết để không lầm lẫn.
Như vậy, bị ma dẫn là do
các bệnh tham cầu thiện xảo, tham cầu ngao du, tham cầu khế hợp, tham
cầu biện biệt phân tích, tham cầu thầm cảm ứng, tham cầu yên lặng, tham cầu
biết đời trước, tham có thần lực, tham cầu được Không, tham cầu sống lâu. Do
mười bệnh đó mà bị ma phá, gốc vẫn là tại mình. Nếu không có mười bệnh đó thì
ma không thể phá được.
Tu thiền là phải dứt
lòng tham, bất cứ là tham điều gì; tâm phải lặng lẽ như như. Tâm như như thì
không bệnh. Nếu tâm có chỗ mong cầu là gốc của bệnh, gốc của ma. Nhưng đa số
người tu lại thường mong cầu ham điều lạ, nên thường lạc vào ma. Tu là cốt trở
về chân trí như như, dù cho ma có hiện cái gì, đến bậc nào cũng không dính gì
tới mình. Nếu không được vậy thì dễ bị ma lôi.
Người ta sợ tu thiền có
thể bị điên, chính vì không biết cái gốc vọng. Vọng khởi thì sanh bệnh, vừa có
mong muốn là vọng khởi, dù là muốn thành Phật cũng không được, đừng nói là mong
những thứ lạ khác. Người tu thiền buông hết vọng tưởng thì không bao giờ điên.
Này A-nan, phải biết mười
thứ ma này, trong đời mạt pháp, những người xuất gia tu hành ở trong giáo pháp
của ta, hoặc ma gá vào thân thể người ấy hoặc tự hiện hình, đều nói đã thành
Chánh biến tri giác, khen ngợi dâm dục, phá luật nghi của Phật. Trước là thầy
ác ma, cùng với đệ tử ma, đem dâm dục truyền dạy nhau. Những tà tinh như thế mê
hoặc tim gan người kia, gần thì chín đời, nhiều đến trăm đời, khiến cho người
tu hành chân chánh đều làm quyến thuộc của ma. Sau khi mạng chung ắt làm dân
ma, mất chánh biến tri, rơi vào địa ngục Vô gián.
Phật kết thúc rất rõ
ràng, tuy ma tự xưng là Phật là thánh, nhưng nó khen ngợi sự dâm dục, chê bai
giới luật của Phật. Do đó chúng ta biết nó là ma, không còn nghi ngờ gì nữa.
Nay ông chưa nên vào
Niết-bàn tịch diệt. Trước dù ông đã được vô học, nên lưu nguyện vào trong đời
mạt pháp kia, khởi lòng đại từ bi cứu độ những chúng sanh có lòng tin sâu chân
chánh, khiến họ không bị mắc tà ma, được chánh tri kiến. Nay tôi độ ông đã được
ra khỏi sanh tử, ông phải vâng lời Phật dạy mới gọi là đền ơn của Phật.
Phật tha thiết khuyên
ngài A-nan đừng vội nhập Niết-bàn, dù cho ngài đã tới mức đó rồi. Phải phát
nguyện vào trong đời mạt pháp, để dạy dỗ chúng sanh có lòng tin sâu Tam bảo
không rơi vào tà ma. Đó chính là đền ơn Phật vậy.
Này A-nan, mười thứ cảnh
hiện ra trong thiền định như thế, đều do tưởng ấm dụng tâm xen lẫn nên hiện
những việc này. Chúng sanh mê lầm không tự xét lường, gặp những nhân duyên này,
mê mờ không tự biết, bảo rằng đã lên quả vị thánh, thành tội đại vọng ngữ, rơi
vào địa ngục Vô gián. Sau khi ta diệt độ, các ông ắt phải đem lời nói của Như
Lai truyền dạy cho đời mạt pháp, khiến cho khắp chúng sanh khai ngộ được nghĩa
này, không để cho thiên ma được cơ hội thuận tiện, bảo vệ che chở những người
tu hành thành đạo Vô thượng.
Giả sử chúng ta chưa
nghe những lời Phật dạy răn như vầy thì thật dễ bị gạt như trở bàn tay, chỉ cần
thấy nó ngồi trong hư không là đủ để quỳ lạy rồi. Bởi vậy thế gian bị lầm lẫn
không biết bao nhiêu! Nếu một người tu dù có thần thông tự xưng là thánh mà còn
xúi người làm một trong ba điều dâm sát đạo, đều là tà hết. Nhớ kỹ như vậy.
Thiên hạ rất dễ bị lầm,
nghe thấy người nào làm điều gì lạ liền tin, mà không nhận ra người ấy đang xúi
làm những điều bậy. Vậy nên bị ma gạt, chìm trong khổ đau đời này nối tiếp đời
sau, chịu khổ làm tôi tớ cho nó, ít nhất là chín đời, nhiều thì cả trăm đời.
Vậy nên mới đáng sợ. Tu mà không hiểu thấu đáo thì ham tu là họa chứ không phải
phước, vì tu sai nhiều đời càng dễ rơi sâu vào đường tà. Người tu ít mà giữ
tròn năm giới cũng được trở lại làm người. Trái lại, tận lực tu hành cần khổ mà
không hiểu biết cũng rơi vào tà, làm tôi tớ ma, còn thua người giữ năm giới.
Như vậy, phần sắc ấm và
thọ ấm là nhân người tu có công phu phát ra tướng lạ, lầm cho là ngộ đạo hay
chứng thánh nên rơi vào đường tà. Ma có cơ hội dựa vào làm cho người tu mất hết
chỗ tu tiến trước kia, sanh ra các bệnh.
Qua tới tưởng ấm, do
trong khi tu còn một vài tâm chấp và tham cầu, hoặc chấp sống lâu, hoặc chấp
không... nên ma mới có cơ hội quấy phá. Bởi vì tưởng là tưởng ngoại cảnh nên ma
bên ngoài gá vào người khác đến chỗ người tu, nói rằng đã được đạo, hiện những
điều kỳ lạ để cho người kia kính phục, rồi theo làm đệ tử, do đó mà rơi vào
đường tà. Như vậy, mỗi phần có mỗi thứ ma. Nếu không học thì chúng ta rất dễ bị
lầm.
4. Hành ấm
Đến phần hành ấm thì ma
trong ma ngoài đều hết, chỉ còn lỗi do công phu tu tới đó tưởng là đã tột, rồi
suy lý chấp thế này thế kia, liền rơi vào ngoại đạo.
Này A-nan, người thiện
nam kia tu chánh định, tưởng ấm đã hết, người này bình thường mọi mộng tưởng đã
tiêu diệt, nên thức ngủ hằng một tánh giác minh rỗng suốt lặng lẽ, giống như hư
không trong trẻo, không còn những việc bóng dáng thô trọng của tiền trần. Xem
thấy núi sông đất liền trong thế gian như trong gương soi sáng, đến không chỗ
dính, đi không dấu vết. Rỗng nhận sự soi sáng ứng hiện, hoàn toàn không còn tập
khí cũ, chỉ có một tinh chân.
Trong nhà thiền hay có
câu hỏi: "Đã được thức ngủ như một chưa?" Ở đây nói khi tưởng ấm
không còn thì thức ngủ như một, chỉ một tánh giác minh rỗng suốt lặng
lẽ. Vì còn tưởng ấm là còn mộng, tưởng ấm hết rồi thì lúc nào cũng
tỉnh táo an nhiên, nên thức ngủ là một, như hư không trong trẻo không có chút
bụi bặm. Người tu chúng ta khi tu thuần thục mà vẫn còn tưởng ấm, chỉ hay hơn
người thường là trong lúc thức mình không nhiễm trần cảnh, không phạm giới
luật, khi ngủ nếu gặp cảnh đó mình cũng không phạm. Ví dụ như khi thức mình ăn
chay, không uống rượu, thì lúc ngủ người ta mời ăn mặn uống rượu mình cũng từ
chối. Như vậy là tốt rồi. Còn lại, đa số người khi thức thì khác, khi ngủ khác,
lúc tỉnh lúc mê; thức thì giữ giới, còn ngủ không giữ được.
Khi tưởng ấm sạch rồi
thì hết mộng. Mộng từ tưởng mà ra, mộng hết thì ngủ thức như nhau. Vậy nói thức
ngủ như nhau là tới giai đoạn phá hành ấm này. Đến đây những tập khí cũ không
còn nữa, chỉ thuần một tánh chân. Phần này nói về thắng tướng của hành ấm, phần
kế nói phạm vi hành ấm.
Cội gốc sanh diệt từ đây
bày hiện. Thấy rõ ràng tất cả chủng loại của mười hai loài chúng sanh trong
mười phương. Tuy chưa thông suốt manh mối sanh mạng của các loài, nhưng thấy
đồng một nền tảng phát sanh, giống như sóng nắng chập chờn, trong sạch mà lăng
xăng, là then chốt cứu cánh của phù căn trần. Đây gọi là phạm vi của hành ấm.
Chữ thanh
nhiễu thật khó giải thích. Thanh là trong, nhiễu là
lăng xăng. Chỗ hành ấm này quá tế nhị, mới nhìn thấy rất lặng lẽ, tuy nhiên vẫn
còn gờn gợn lăn tăn. Giống như khi chúng ta nhìn xuống dòng sông hay mặt hồ,
tuy không có sóng lớn nhưng những gợn lăn tăn vẫn còn. Những gợn lăn tăn đó, ở
xa nhìn như không có, chỉ là mặt nước bình lặng, tới thật gần mới thấy rõ.
Chữ thanh là trong, thấy như trong lặng, nhưng nhìn gần thì có
những gợn lăn tăn, nên gọi là nhiễu. Đó là trạng thái của hành
ấm.
Chúng ta tạm ví dụ cho
dễ hiểu. Như lúc ngồi thiền, có những khi khởi vọng tưởng này vọng tưởng kia,
hình tướng dễ thấy; rồi có những lúc tâm yên, tuy yên mà vẫn lăn tăn, chập chờn
nhè nhẹ, thật là khó trị. Vọng tưởng nhảy ra từng thứ thì dễ bỏ dễ trị, riêng
những gợn lăn tăn này thì khó thấy khó trị. Cho nên đa số người tới hành ấm
thường bị kẹt. Người tu phá được hành ấm là ngang với Bồ-tát Bát địa, gần quả
A-la-hán của Thanh văn chứ không phải thường.
Nếu nguồn gốc trong sạch
mà lăng xăng chập chờn này vào tánh lóng lặng ban đầu, một phen lóng lặng những
tập khí từ trước, như những lượn sóng lớn sóng nhỏ đều tiêu diệt, chỉ còn nước
lắng trong, gọi là hành ấm hết. Người ấy ắt hay vượt khỏi chúng sanh trược. Xét
lại nguyên do kia thì gốc là vọng tưởng thầm lặng.
Khi nào tất cả những gợn
lăn tăn đều hết, chỉ còn tâm phẳng lặng, lúc đó gọi là hành ấm hết. Người
ấy xem lại nguyên do kia thì gốc là vọng tưởng thầm lặng. Đây
cũng còn thuộc về vọng tưởng, nhưng nó nhẹ nhàng thầm lặng ở trong, vì quá thầm
lặng nên khó thấy, gọi là u ẩn. U là tối, ẩn là kín, tức là
những vọng tưởng thầm lặng chứ không phải vọng tưởng nổi.
A-nan nên biết, những
người thiện nam ở trong chánh định được chánh tri này, tâm chân chánh ngưng
lặng sáng suốt, mười loài thiên ma không được cơ hội thuận tiện nữa, mới được
chuyên ròng nghiên cứu cùng tột cội gốc các loài chúng sanh. Nơi cội gốc các
loài, manh mối của sự sanh được bày lộ. Xét gốc ban đầu trong sạch thầm kín,
tròn đầy mà còn xao động, ở trong cội gốc tròn đầy đó khởi suy tính chấp trước,
người ấy rơi vào hai thứ luận vô nhân.
Vô nhân là không có nhân.
Ở đây chia ra: gốc vô nhân và ngọn vô nhân.
Một là người ấy thấy gốc
không có nhân. Vì sao? Người ấy đã phá dẹp hoàn toàn cơ sở của sự sanh, nương
tám trăm công đức của nhãn căn, thấy được những chúng sanh trong tám muôn kiếp,
nghiệp báo lưu chuyển xoay vần, chết đây sanh kia; chỉ thấy chúng sanh luân hồi
trong khoảng đó, ngoài tám muôn kiếp thì mờ mịt không thấy được. Người ấy liền
khởi nghĩ rằng chúng sanh ở thế gian trong mười phương này, tám muôn kiếp trở
lại, không nhân mà tự có. Do suy tính chấp trước này, mất chánh biến tri, rơi
vào ngoại đạo, lầm tánh Bồ-đề.
Giả sử có người nào nói
thấy được mười đời về trước, chúng sanh ở đâu, làm cái gì, chúng ta nghe cũng
đã nể, đàng này thấy đến tám muôn đời của chúng sanh! Tuy nhiên người ấy chỉ
thấy đến khoảng đó, ngoài ra không thể thấy. Do thấy bỗng dưng có người có
cảnh, có chúng sanh mà không biết từ đâu ra, nên người ấy nói là không
có nhân. Đó là kiến chấp thứ nhất phăn về nguồn gốc, cho là không có
nhân.
Hai là người ấy thấy
ngọn không có nhân. Vì sao? Người ấy nơi sự sanh đã thấy cội gốc các loài, biết
người sanh người, hiểu chim sanh chim, quạ trước nay là đen, thiên nga trước
nay là trắng, người và trời vốn đi thẳng, súc sanh vốn đi ngang, màu trắng
không do rửa mà thành, màu đen chẳng phải do nhuộm mà được, suốt tám muôn kiếp
không hề thay đổi. Nay hết đời này cũng lại như thế. Ta xưa nay không thấy có
Bồ-đề, làm sao lại có việc thành tựu Bồ-đề? Nên biết ngày nay tất cả vật tượng
đều vốn là không có nhân. Do suy tính chấp trước này, quên mất chánh biến tri,
rơi vào ngoại đạo, lầm tánh Bồ-đề. Đây gọi là ngoại đạo thứ nhất, lập luận vô
nhân.
Những người này do tu
hành thấy được tám muôn kiếp, nhưng manh mối trước đó nữa họ không thấy, nên
lầm cho là không có nhân. Khi lập luận vô nhân như vậy là do công
phu của họ thấy được, chứ không phải bỗng dưng bịa đặt ra.
Này A-nan! Những người
thiện nam ở trong chánh định này, tâm chân chánh ngưng lặng sáng suốt, ma không
được cơ hội thuận tiện, xét cùng tột cội gốc của các loài chúng sanh, xem gốc
ban đầu trong sạch thầm kín mà thương nhiễu động kia, ở trong tánh viên thường
mà khởi suy tính chấp trước, người ấy rơi vào bốn thứ luận biến thường.
Biến thường luận là luận khắp thường, tức là cái gì cũng cho là thường.
Một là người ấy xét cùng
tột tánh của tâm và cảnh, cả hai đều không nhân. Tu tập có thể viết được trong
hai muôn kiếp, sự sanh diệt của chúng sanh mười phương, thảy đều tuần hoàn
không hề tan mất, chấp cho đó là thường.
Do người ấy xét cùng tâm
tột cảnh đều thấy không có nhân, nên thấy được trong hai muôn kiếp, chúng sanh
sanh diệt xoay vần không mất. Bởi thấy không mất nên chấp là thường.
Hai là người ấy xét cùng
tột nguồn gốc của tứ đại, tánh của tứ đại là thường trụ. Tu tập có thể biết
được trong bốn muôn kiếp, sự sanh diệt của chúng sanh trong mười phương, bản
thể đều thường hằng không hề tan mất, chấp cho đó là thường.
Như chúng ta thường lý
luận, thân này do tứ đại hòa hợp thành, nên khi thân này rã ra là thân mất chứ
tứ đại không mất. Như vậy đối với thân thì có diệt nhưng tứ đại không diệt. Cây
cối, sự vật chung quanh cũng vậy. Họ tìm xét cho tới nơi, thì thấy tất cả chúng
sanh ở trên thế gian này có sanh diệt nhưng tứ đại không mất, không sanh diệt,
nên họ chấp là thường.
Ba là người ấy xét cùng
tột sáu căn, do thức mạt-na chấp giữ, trong tâm ý thức biết nguyên do căn bản
tánh là thường hằng. Do tu tập có thể biết được trong tám muôn kiếp, tất cả
chúng sanh xoay vần không mất, xưa nay thường trụ; xét tội cùng tánh không mất,
chấp cho đó là thường.
Người đó biết cùng tột
sáu căn do thức mạt-na gìn giữ. Ở trong tâm ý thức đó họ biết được nguyên do
cội gốc của nó, cho đó là tánh thường hằng. Do họ thấy cứ xoay chuyển luân hồi
hoài không mất, nên chấp là thường.
Bốn là người ấy đã hết
gốc tưởng, lý sanh không còn sự vận chuyển trôi chảy hay dừng lại. Tâm tưởng
sanh diệt nay đã vĩnh viễn diệt mất, trong lý tự nhiên thành chẳng sanh diệt.
Nhân tâm khởi suy tính chấp trước cho đó là thường. Do chấp thường này, mất
chánh biến tri, rơi vào ngoại đạo, lầm tánh Bồ-đề. Đây gọi là ngoại đạo thứ
hai, lập luận viên thường.
Đến phần phá hành ấm
không khéo thì trở thành ngoại đạo, chứ không bị ma phá nữa. Tu được tới chỗ
này cũng cay đắng lắm. Trên thế gian hiếm thấy người tu tới đây. Cao lắm là đến
phá sắc ấm thôi. Vậy mà chúng ta cứ nghe người khoe chứng cái này, người kia
đạt cái nọ, chỉ là gạt gẫm nhau chứ chưa tới đâu.
Vậy nên phải cẩn thận,
tu phải thấy cho tới nơi tới chốn. Mình là đệ tử Phật thì phải làm đúng như lời
Phật dạy. Thà là chậm mà đến nơi, còn mong cho mau thì dễ rơi vào đường ma hoặc
lạc vào ngoại đạo. Trong sự tu hành, ai có tâm nôn nóng mong mỏi mau được mai
đến thì đó là bệnh, khó tránh khỏi lầm lạc.
Người tu phải điềm đạm
bình tĩnh, lấy căn bản Phật pháp làm tiêu chuẩn để theo. Điều gì thấy lệch thì
tránh liền, không lầm. Dù ai đó hiện bao nhiêu thứ thần thông mà rủ mình uống
rượu thì từ giã liền, không chơi nữa. Dù ai đó có bao nhiêu phép lạ mà bảo mình
phải giết người, vì người ấy là ma, mình cũng từ giã. Phật cấm sát hại chúng
sanh, giết là phạm giới sát, mà bảo mình giết thì phải tránh ngay. Hễ theo họ
là theo đường tà, rất nguy hiểm!
Ma dễ đưa người tới chỗ
lầm lẫn, vừa làm hại bản thân, vừa hại cho những người chung quanh. Ai tin theo
cũng bị hại lây cả chùm. Vậy nên phải rất dè dặt. Chúng ta cứ nhận mình là phàm
phu, tu không có gì đặc biệt, thủng thẳng bước từng bước, bước nào vững bước
nấy. Người khoe khoang nói chuyện quá khứ vị lai, e rằng không phải thứ thật,
phải tránh xa đừng nên gần.
Lại, những người thiện
nam ở trong chánh định, do tâm chân chánh ngưng lặng vững chắc, ma không được
cơ hội thuận tiện, xét cùng tột cội gốc của các loài chúng sanh, xem gốc ban
đầu trong sạch thầm kín mà thường nhiễu động kia, ở trong tự và tha khởi suy
tính chấp trước. Người ấy rơi vào bốn luận chấp điên đảo, một phần vô thường
một phần thường.
Một là người ấy xem xét
tâm diệu minh lặng lẽ khắp cả thế giới mười phương, cho là thần ngã cứu cánh,
từ đó khởi chấp cái ta cùng khắp mười phương, ngưng lặng sáng suốt chẳng động,
còn tất cả chúng sanh ở trong tâm ta, tự sanh tự chết. Vậy tâm tánh của ta gọi
là thường, còn những chúng sanh sanh diệt kia thật là vô thường.
Người này do thấy tâm
mình trùm khắp mười phương nên chấp cho là thường, còn chúng sanh sanh rồi tử ở
trong tâm mình thì tánh vô thường. Như vậy những người này chấp một phần thường
một phần vô thường.
Hai là người ấy không
xét tâm mà xem khắp hằng sa cõi nước trong mười phương, thấy chỗ kiếp hoại gọi
là chủng tánh rốt ráo vô thường, thấy chỗ kiếp không hoại gọi là rốt ráo
thường.
Phần trước quán tâm
mình. Đến đây không quán tâm mà quán cõi nước trong mười phương. Cõi nước nào
còn hoài cho là thường, cõi nước nào bị hoại cho là vô thường.
Ba là người ấy quán
riêng tâm mình tinh tế nhỏ nhiệm, giống như vi trần, lưu chuyển trong mười
phương, tánh không đổi dời, có thể khiến cho thân này liền sanh liền diệt. Chấp
tánh không hoại kia gọi là tánh thường của mình. Tất cả sanh tử từ nơi cái ngã
đó phát sanh ra gọi là vô thường.
Khi quán tâm mình đến
chỗ tế nhị nhỏ nhiệm như là vi trần, thấy tâm lưu chuyển khắp cả mười phương
không có dời đổi, liền cho tánh ngã đó còn mãi nên chấp là thường, còn thân
sanh rồi lại diệt này gọi là vô thường.
Bốn là người ấy biết
tưởng ấm hết, thấy hành ấm trôi chảy. Hành ấm thường trôi chảy, chấp cho là
tánh thường, còn sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm v.v... nay đã diệt hết, gọi là vô
thường. Do đây mà khởi suy tính chấp trước một phần vô thường một phần thường,
rơi vào ngoại đạo, lầm tánh Bồ-đề. Đây là ngoại đạo thứ ba, lập luận một phần
thường một phần vô thường.
Đến hành ấm thì ma trong
ma ngoài đều không phá được người tu hành, mà do họ nhận định sai lầm, do chỗ
nhìn thấy chỉ giới hạn ở chừng mực nào đó rồi chấp chặt vào, tự cho là đã thấy
đúng sự thật nên mới có những lập luận như vậy. Nếu không biết thì thấy sự tu
hết sức khó, còn khi biết rõ tu là để tâm thanh tịnh giác ngộ chứ không mong
cầu gì khác, thì mình không sợ ma trong lẫn ma ngoài.
Nếu vọng tưởng ở trong
dấy khởi, chúng ta luôn biết rõ không theo thì còn có ma trong nào dấy được;
nếu đối với tất cả cảnh bên ngoài, chúng ta luôn tâm niệm "gặp Phật giết
Phật, gặp ma giết ma" thì ma ngoài làm sao phá được. Đến ngang hành ấm thì
cần nhớ, Phật chỉ cho chúng ta tới chỗ tột cùng là giác ngộ giải thoát, chứ
không phải thấy thường hay thấy vô thường. Thấy bên này bên kia đều là ngoại
đạo chấp sai lầm. Biết nguyên tắc đó sẽ không bị lầm, nếu không nhớ nguyên tắc
đó thì tu tới đây cũng dễ bị lầm.
Lại, những người thiện
nam ở trong chánh định, do tâm chân chánh ngưng lặng vững chắc, ma không được
cơ hội thuận tiện; xét cùng tột cội gốc của các loài chúng sanh, xem gốc ban
đầu trong sạch thầm kín mà thường nhiễu động kia, ở trong phần vị sanh ra suy
tính chấp trước. Người ấy rơi vào bốn thứ luận hữu biên.
Một là tâm người ấy chấp
chỗ ban đầu của sự sanh trôi chảy không dừng, chấp quá khứ vị lai gọi là hữu
biên, chấp tâm tương tục gọi là vô biên.
Người ấy chấp quá khứ là
đã qua rồi, vị lai chưa đến, đó gọi là hữu biên, còn tâm liên tục không dừng
gọi là vô biên.
Hai là người ấy quán tám
muôn kiếp thấy có chúng sanh, còn trước tám muôn kiếp thì bặt không nghe thấy
gì. Chỗ không nghe thấy gọi là vô biên, còn chỗ có chúng sanh gọi là hữu biên.
Những người này quán
thấy được chúng sanh trong tám muôn kiếp, ngoài ra không thấy gì. Do chỉ thấy
có chúng sanh trong khoảng đó nên nói là hữu biên, chỗ không thấy được chấp là
vô biên.
Ba là người ấy chấp ta
biết khắp là được tánh vô biên. Tất cả các người kia hiện ở trong cái biết của
ta, ta không hề biết tánh biết của họ, cho là những người kia không được tâm vô
biên, chỉ có tánh hữu biên.
Chấp tâm ta biết khắp cả
là vô biên, còn những chúng sanh hiện trong cái biết của ta là hữu biên.
Bốn là người ấy xét cùng
tột hành ấm là không. Do chỗ thấy con đường tâm suy tính trong một thân của tất
cả chúng sanh, thảy đều phân nửa sanh phân nửa diệt; chấp rằng tất cả sự vật
trong thế giới, phân nửa là hữu biên, phân nửa là vô biên. Do suy tính chấp
trước hữu biên và vô biên như thế, rơi vào ngoại đạo, lầm tánh Bồ-đề. Đây gọi
là ngoại đạo thứ tu lập luận hữu biên.
Tâm thế nào là phân nửa
sanh phân nửa diệt? Họ chấp tâm vừa dấy lên là sanh, kế lặng xuống là diệt mất.
Tâm có phân nửa sanh còn phân nửa là diệt, vì nếu không có phân nửa diệt đó thì
làm sao diệt. Chấp sự vật trong thế giới một nửa hữu biên, một nửa là vô biên.
Thật ra ở Việt Nam ít
nghe ai chấp những điều này, cho nên cũng khó mà giải thích rộng.
Lại, những người thiện
nam ở trong chánh định, do tâm chân chánh ngưng lặng vững chắc, ma không được
cơ hội thuận tiện, xét cùng tột cội gốc của các loài chúng sanh, xem gốc ban
đầu trong sạch thầm kín mà thường nhiễu động kia, ở trong hiểu biết sanh ra suy
tính chấp trước. Người ấy rơi vào bốn thứ luận hư vọng, điên đảo biến kế, càn
loạn bất tử.
Chữ bất tử ở
đây có nghĩa là không dứt khoát, không nhất định.
Một là người ấy xem cội
gốc sự biến hóa, thấy chỗ dời đổi gọi đó là biến, thấy chỗ tiếp nối không dừng
gọi đó là hằng còn. Thấy những chỗ thấy được gọi là sanh, chỗ chẳng thấy được
gọi là diệt. Chỗ các nhân tiếp nối không đoạn dứt gọi là tăng; còn chính trong
chỗ tiếp nối, ở chỗ giữa lìa ra gọi là giảm. Chỗ sanh của mỗi thứ gọi là có,
chỗ luôn luôn mất gọi là không.
Ví dụ như đoàn xe chạy
liên tục cả trăm chiếc, tuy liên tục nhưng vẫn có khoảng cách giữa chiếc này
với chiếc kia. Như vậy trong sự liên tục đó vẫn có những khoảng cách ở giữa là
cái mối đứt quãng; người ấy thấy khoảng cách ở giữa gọi là giảm, còn thấy sự
liên tục không dứt gọi là tăng. Chỗ nào mình thấy được gọi là sanh, chỗ nào
không thấy được gọi là diệt v.v…
Dùng lý xem xét tất cả,
dụng tâm thấy có sai biệt. Có người đến cầu pháp hỏi nghĩa kia thì đáp rằng:
"Nay tôi cũng sanh cũng diệt, cũng có cũng không, cũng tăng cũng
giảm." Trong tất cả thời đều nói rối loạn, khiến cho người đang đứng trước
hỏi đạo đó, không thể hiểu câu nghĩa.
Di thất chương cú là mất hết câu chữ, tức là không còn câu, không còn lời
lẽ để người nghe có thể hiểu nghĩa rành rẽ được. Nói rối loạn như vậy thì không
ai có thể hiểu.
Hai là người ấy xem kỹ
tâm kia, luôn luôn ở chỗ không, nhân không mà được chứng. Có người đến hỏi, chỉ
đáp một chữ, chỉ nói là "không". Ngoài chữ "không" ra không
nói lời gì nữa.
Người này chấp không,
ai hỏi gì cũng đáp không.
Ba là người ấy xem xét
kỹ nơi tâm kia, mỗi mỗi đều có chỗ, do thấy có mà được chứng. Có người đến hỏi,
chỉ đáp một chữ, chỉ nói là "phải". Ngoài chữ "phải" ra
không nói lời gì nữa.
Người này chấp có,
nên ai hỏi gì cũng đáp phải, phải tức là có.
Bốn là người ấy chấp cả
có và không, vì cảnh phân tán nên tâm cũng rối loạn. Có người đến hỏi, đáp
rằng: "Cũng có tức là cũng không, trong cũng không chẳng phải là cũng
có." Tất cả đều rối loạn, không đáp cùng tột.
Cảnh chi là phân chia cảnh ra từng phần chấp có rồi
cũng chấp không. Do chấp như vậy nên đáp có không lộn xộn, làm
tâm người hỏi rối loạn, không sao hiểu rõ manh mối.
Do suy tính chấp trước
đó, rối loạn, rỗng không, rơi vào ngoại đạo, lầm tánh Bồ-đề. Đây gọi là ngoại
đạo thứ năm, chấp bốn thứ luận hư vọng, điên đảo biến kế, càn loạn bất tử.
Đến ngoại đạo thứ sáu,
chấp sau khi chết có tướng.
Lại, những người thiện
nam ở trong chánh định, do tâm chân chánh ngưng lặng vững chắc, ma không được
cơ hội thuận tiện, xét cùng tột cội gốc các loài chúng sanh, xem gốc ban đầu
trong sạch thầm kín mà thường nhiễu động kia, nơi dòng chảy vô tận sanh ra suy
tính chấp trước, người ấy khởi tâm điên đảo, rơi vào chấp sau khi chết có
tướng. Hoặc tự củng cố thân, bảo rằng "sắc là ngã". Hoặc thấy ngã bao
trùm khắp các cõi nước, nên nói "ngã có sắc". Hoặc thấy những duyên ở
trước theo ngã mà xoay trở lại, nên nói "sắc thuộc về ngã". Hoặc lại
thấy ngã nương trong hành mà tương tục, nên nói "ngã ở nơi sắc".
Chúng ta thường nghe
trong kinh nói có hai thứ chánh báo và y báo. Y báo thuộc về chánh báo, cũng
như cảnh thuộc về người. Nếu người khéo léo sáng suốt ở đâu thì cảnh nơi đó
đẹp, còn người vụng về dốt nát ở đâu thì cảnh nơi đó xấu theo. Như vậy cảnh tùy
thuộc theo người, nên nói những duyên trước theo ta mà xoay trở lại, tức
là cảnh ở trước tùy theo ta mà xoay lại.
Đây là những lối chấp
của ngoại đạo, nếu chúng ta không biết, lúc đọc kinh Nikaya nói về Ngã, sẽ thấy
khó hiểu. Khi nói sắc là ngã, đó là trường hợp chấp thân kiên
cố. Nếu nói ngã có sắc, tức trường hợp thứ hai, do thấy ngã
trùm khắp cõi nước mười phương. Nói sắc thuộc về ngã, là trường hợp
thứ ba, do thấy ngoại cảnh tùy thuộc mình. Nói ngã ở nơi sắc là
trường hợp thứ tư, vì tới hành ấm, họ thấy ngã nương nơi hành ấm, mà hành ấm
thì tương tục không dứt.
Chúng ta hiểu được bốn
lối chấp này, mới thấy rõ ý trong các kinh A-hàm, bằng không thì khó mà hiểu
tại sao Phật không nói đơn giản "không có ngã" là được rồi, lại còn
phá luôn bốn thứ chấp ngã.
Bốn thứ ngã đó đều do
suy tính chấp trước sau khi chết có tướng. Như thế xoay vần có mười sáu tướng,
từ đây còn chấp cứu cánh phiền não và cứu cánh Bồ-đề, hai tánh cùng chạy đuổi,
đều không đụng chạm nhau. Do đây suy tính chấp trước sau khi chết là có, rơi
vào ngoại đạo, lầm tánh Bồ-đề. Đây gọi là ngoại đạo thứ sáu, do tâm điên đảo
lập luận trong năm ấm sau khi chết có tướng.
Những lập luận này đều
do hiểu sai lầm mà ra, thuộc về sáu mươi hai kiến chấp của ngoại đạo trong thời
Phật. Mấy phần này hơi khô khan, nhưng chúng ta học kỹ thì đọc những kinh khác
mới dễ hiểu.
Lại, những người thiện
nam ở trong chánh định, do tâm chân chánh ngưng lặng vững chắc, ma không được
cơ hội thuận tiện, xét cùng tột cội gốc của cái loài chúng sanh, xem gốc ban
đầu trong sạch thầm kín mà thương nhiều động kia, trước trừ diệt sắc ấm, thọ
ấm, tưởng ấm, sanh ra suy tính chấp trước. Người ấy khởi tâm điên đảo, rơi vào
chấp sau khi chết không tướng.
Người ấy thấy sắc ấm
diệt, hình thể không còn chỗ làm nhân; quán tưởng ấm diệt, tâm không ràng buộc
chỗ nào; biết thọ ấm diệt, không còn dính dáng gì; tánh các ấm tiêu tan, dù có
lý sanh mà không có thọ và tưởng thì đồng với cây cỏ. Hình chất này hiện tiền
còn không thể được, sau khi chết làm sao lại có các tướng? Nhân đó suy nghiệm
sau khi chết không có tướng.
Do người này quán sắc
ấm, thọ ấm, tưởng ấm đều hết, nên thấy tất cả tiêu tan, không còn có sự liên hệ
nào. Họ cho rằng khi phá thọ và tưởng rồi, dù đang sống mà không có cảm thọ,
không có tưởng tượng thì cũng giống như cây cỏ. Thân đang sống đây còn không
thể được, huống là sau khi chết, làm sao có tướng! Nên
họ cho rằng sau khi chết là không tướng.
Như thế xoay vần có tám
thứ vô tướng. Từ đây chấp nhân quả, Niết-bàn... tất cả đều không, chỉ có danh
tự suông, rốt ráo đều đoạn hết. Do đây suy tính chấp trước sau khi chết là
không, rơi vào ngoại đạo, lầm tánh Bồ-đề. Đây là ngoại đạo thứ bảy, do tâm điên
đảo lập luận trong năm ấm sau khi chết không có tướng.
Họ cho rằng Niết-bàn,
nhân quả... chỉ là nói suông, không có lẽ thật. Như vậy họ bác không nhân quả,
không Niết-bàn, tất cả đều không. Đây là chỗ lầm chấp sau khi chết là
không của ngoại đạo thứ bảy.
Lại, những người thiện
nam ở trong chánh định, do tâm chân chánh ngưng lặng vững chắc, ma không được
cơ hội thuận tiện, xét cùng tột cội gốc của các loài chúng sanh, xem gốc ban
đầu trong sạch thầm kín mà thường nhiễu động kia, trong chỗ hành ấm còn, mà thọ
tưởng đều diệt, khởi hai chấp có và không tự thể phá nhau. Người ấy rơi vào
luận điên đảo, chấp sau khi chết chẳng phải có chẳng phải không.
Hai chấp có và không tự
thể phá nhau, bởi vì phân nửa có
phân nửa không tức là chống nhau, nên nói tự thể phá nhau. Vì vậy, chữ câu
phi nghĩa là có và không đều chẳng phải.
Trong sắc ấm, thọ ấm,
tưởng ấm, thấy có mà chẳng phải có; trong hành ấm thì đổi dời, thấy không mà
chẳng phải không.
Vì sắc ấm, thọ ấm, tưởng
ấm trước có mà bây giờ đã diệt rồi, nên chẳng phải có; còn hành ấm thì luôn
luôn đổi dời, cho nên thấy nó không mà chẳng phải không, vì nó vẫn liên tục.
Như thế xoay vần cùng
tận ấm giới, thành tám tướng "đều chẳng phải"; tùy gặp một duyên gì,
đều nói sau khi chết có tướng, không tướng.
Nghĩa là, gặp duyên gì
cũng nói sau khi chết có tướng, không tướng, nói không dứt
khoát.
Lại, suy xét tánh các
hành ấm là thay đổi liên tục, nên tân phát ra thấu suốt, cho rằng có, không đều
chẳng phải, hư thật lộn xộn.
Nói có không đều
chẳng phải thì không có rõ ràng, không biết là hư là thật thế nào, làm
cho lộn xộn lúng túng.
Do đây suy tính chấp
trước sau khi chết chẳng phải có chẳng phải không, phía sau mờ mịt không có lối
đi, rơi vào ngoại đạo, lầm tánh Bồ-đề. Đây gọi là ngoại đạo thứ tám, do tâm
điên đảo lập luận trong năm ấm sau khi chết chẳng phải có chẳng phải không.
Đây là ngoại đạo thứ
tám, chấp sau khi chết rồi, năm ấm này nói có nói không đều chẳng phải.
Lại, những người thiện
nam ở trong chánh định, do tâm chân chánh ngưng lặng vững chắc, ma không được
cơ hội thuận tiện, xét cùng tột cội gốc của các loài chúng sanh, xem gốc ban
đầu trong sạch thầm kín mà thường nhiễu động kia, sanh ra suy tính chấp trước
sau cùng là không. Người ấy rơi vào bảy thứ luận đoạn diệt.
Hoặc họ chấp thân này
diệt, hoặc chấp dục hết là diệt, hoặc chấp khổ hết là diệt, hoặc chấp vui tột
là diệt, hoặc chấp xả tột là diệt. Như vậy xoay vần cùng tận bảy thứ, hiện tiền
đều là tiêu diệt, diệt rồi không trở lại. Do đây suy tính chấp trước sau khi
chết là đoạn diệt, rơi vào ngoại đạo, lầm tánh Bồ-đề. Đây gọi là ngoại đạo thứ
chín, do tâm điên đảo lập luận trong năm ấm sau khi chết đoạn diệt.
Những người này chấp
đoạn diệt vì thấy mé sau cùng là không, không còn sanh nữa. Bởi vì khi khổ mà
hết khổ rồi thì khổ diệt mất, khi vui mà hết cơn vui rồi thì vui cũng mất. Vì
tột khổ rồi cũng diệt, tột vui rồi cũng diệt, tột xả rồi cũng diệt nên chấp tất
cả đều tiêu diệt.
Lại, những người thiện
nam ở trong chánh định, do tâm chân chánh ngưng lặng vững chắc, ma không được
cơ hội thuận tiện, xét cùng tột cội gốc của các loài chúng sanh, xem chỗ ban
đầu trong sạch thầm kín mà thường nhiễu động kia, sanh ra suy tính chấp trước ở
sau cùng là có. Người ấy rơi vào chấp năm thứ luận Niết-bàn.
Hoặc cho Dục giới là
chánh chuyển y, do xem thấy sáng suốt tròn khắp nên sanh lòng yêu thích. Hoặc
cho Sơ thiền là Niết-bàn vì tánh không lo buồn. Hoặc cho Nhị thiền là Niết-bàn
vì tâm không khổ. Hoặc cho tam thiền là Niết-bàn vì rất vui. Hoặc cho Tứ thiền
là Niết-bàn vì cả hai khổ vui đều mất, không phải chịu sanh diệt trong luân
hồi.
Chuyển y là chuyển bỏ chỗ nương của các pháp tạp nhiễm, để
chứng được chỗ nương của các pháp thanh tịnh, tức chuyển sanh tử thành
Niết-bàn.
Ở đây những người cho
cõi Dục giới là chánh chuyển y tức là Niết-bàn. Ví như họ thấy
mình đang được sống trong cảnh sung túc, ấm no vui sướng trong vật chất đầy đủ,
bèn cho như vậy là Niết-bàn, chấp ngay ở Dục giới là Niết-bàn. Sơ thiền là ly
sanh hỷ lạc, tức do lìa hết dục lạc nên hết buồn khổ mà được hỷ lạc, không còn
lo buồn, cho đó là Niết-bàn. Nhị thiền là định sanh hỷ lạc, cho tâm không còn
khổ nữa là Niết-bàn. Tam thiền xả hết khổ vui, không còn bị luân hồi sanh diệt,
nên cho đó là Niết-bàn.
Do mê lầm cõi trời hữu
lậu, khởi hiểu là vô vi, lấy năm chỗ an ổn làm nơi nương tựa thù thắng thanh
tịnh. Xoay vần như thế có năm chỗ cứu cánh.
Cõi trời hữu lậu là từ
Dục giới tới Sắc giới, còn trong sanh diệt mà lại cho đó là vô vi bất sanh bất
diệt. Chấp năm thứ vui mà họ cho là Niết-bàn, làm chỗ nương tựa.
Do đây mà suy tính chấp
trước năm thứ Niết-bàn hiện có, rơi vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ-đề. Đây là
ngoại đạo thứ mười, do tâm điên đảo mà lập luận trong năm ấm có năm thứ
Niết-bàn hiện tại.
Đó là mười thứ chấp lầm
thuộc hành ấm, gồm có: Một là hai thứ luận vô nhân. Hai là bốn thứ chấp biến
thường. Ba là chấp một phần thường một phần vô thường. Bốn là chấp hữu biên.
Năm là chấp bốn thứ luận điên đảo biến kế, càn loạn bất tử. Sáu là chấp sau khi
chết có tướng. Bảy là chấp sau khi chết không có tướng. Tám là chấp sau khi
chết chẳng phải có chẳng phải không. Chín là chấp ngũ ấm sau khi chết đoạn
diệt. Mười là chấp năm thứ Niết-bàn hiện tại.
Đến đây Phật kết thúc:
Này A-nan, mười thứ
cuồng giải trong thiền định như thế, đều do hành ấm dụng tâm xen lẫn nên hiện
ra hiểu biết này. Chúng sanh mê lầm không tự xét lường, gặp những cảnh hiện
tiền này, lấy mê làm ngộ, tự nói đã chứng quả thánh, thành tội đại vọng ngữ,
rơi vào địa ngục Vô gián.
Sau khi ta diệt độ, các
ông cần phải đem lời của Như Lai truyền dạy cho chúng sanh đời mạt pháp, khiến
cho khắp chúng sanh hiểu rõ nghĩa này, không để cho tâm ma tự gây những tội lỗi
sâu nặng. Bảo vệ che chở cho họ tiêu dứt các tà kiến. Dạy cho họ thân tâm đều
khai mở được nghĩa giác ngộ chân thật, nơi đạo Vô thượng không gặp những lối
tẽ. Chớ để họ mong cầu được một ít cho là đủ, nêu bày lời dạy thanh tịnh của
bậc Đại giác vương.
Mười thứ ma hành ấm này,
đối với các thứ ma trước mới thấy dường như ít nguy hiểm hơn. Vì các thứ ma
trước phá đủ cách, thấy rất nguy hiểm; đến đây ma không phá nữa, nhưng do mình
nhận thấy sai, nên lạc vào ngoại đạo. Tự mình thấy sai so với ma phá, thứ nào
nguy hiểm hơn? Thật ra, các ma trước mới nghe tưởng như nguy hiểm, nhưng không
bằng ma hành ấm này, bởi vì hễ thấy sai rồi thì không ai sửa được. Ma phá, đến
khi tỉnh mình biết, hoặc có ai chỉ cho thì hết lầm; còn chỗ này vì mình thấy
nên cho như vậy là đúng, khó mà sửa được.
Cho nên, sự tu càng lâu
lại càng khó. Khó là vì tế nhị quá nên chúng ta dễ lầm, hễ lầm rồi thì không
thể đi tới chỗ cứu cánh như sự mong mỏi.
5. Thức ấm
Thức ấm là cái cuối cùng
của năm ấm. Qua được thức ấm là xong phần ngũ ấm ma, là qua khỏi Thập địa
Bồ-tát. Trong phần thức ấm này, không còn bị ma quỷ phá nữa, chỉ có những nhận
định sai lầm thành kiến chấp. Đến đây, chúng ta sẽ thấy trình độ của chúng
ngoại đạo cũng thật là cao chứ không phải tầm thường.
Này A-nan, người thiện
nam kia khi tu chánh định, hành ấm đã hết, ở chỗ trong sạch thầm kín mà nhiễu
động, sự sanh chung của các chúng sanh trong thế gian bỗng nhiên bị tiêu diệt.
Giềng mối sâu kín của mầm sanh, mạch ngầm cảm ứng của sự đền trả các nghiệp đã
dứt mất.
Đồng phần là chung của tất cả chúng sanh. Bồ-đặc-già-la chỉ
cho mầm sanh của chúng sanh trong các cõi, gốc của bào thai.
Khi qua khỏi hành ấm thì
mầm sanh ở trong tam giới bị huỷ diệt, những manh mối vi tế không còn thấy nữa,
cho nên sự cảm ứng nghiệp báo tới đây đã dứt. Nói một cách gọn hơn, đến thức ấm
này thì mầm móng sanh của tất cả chúng sanh đã dứt, không còn cảm ứng nữa.
Nơi trời Niết-bàn sắp
đại minh ngộ, giống như khi gà gáy sáng, nhìn về phương đông đã thấy có ánh
sáng.
Đại minh ngộ là được sáng suốt hoàn toàn, tức ngộ đạo. Tinh
sắc là ánh sáng. Đây nói người dứt hết hành ấm qua thức ấm thì mọi mầm
sanh tử tiếp nối ngang đây đều dứt, Niết-bàn chân thật sắp hiện. Giống như khi
gà gáy sáng, nhìn về phương đông thấy mặt trời sắp lên.
Sáu căn rỗng lặng không
còn giong ruổi, trong ngoài lặng lẽ sáng suốt, vào không chỗ vào,
thấu suốt được nguyên do thọ mạng của mười hai loài chúng sanh ở khắp mười
phương. Xem thấy nguyên nhân đều từ chấp trước, nên các loài không còn chiêu
dẫn được nữa. Trong mười phương thế giới đã được tánh đồng, sắc sáng không còn
bị chìm mất, phát hiện những chỗ sâu kín. Đây gọi là phạm vi của thức ấm.
Như trên là còn trong
phạm vi của thức ấm. Tuy thấu được chỗ thâm sâu đó, cũng chưa thoát ra khỏi
thức ấm. Vì tới thức ấm tức gần Niết-bàn nhưng vẫn chưa đạt được Niết-bàn, cũng
như gần sáng chưa phải là sáng.
Theo các chỗ giảng, khi
qua được hành ấm rồi mà chưa phá thức thứ bảy vẫn còn chấp một phần của thức
thứ tám là ngã. Nó chấp ngã như vậy vì chưa thật rõ thức thứ tám, chưa thấu
suốt được Như Lai tàng ma chỉ thấy cái bóng của Như Lai tàng rồi chấp làm ngã,
tức chưa thật đến nơi đến chốn. Bởi vậy, còn ở trong phạm vi thức ấm là chưa
hoàn toàn tỉnh ngộ sáng suốt.
Nếu đối với các sự chiêu
cảm đã tới chỗ chung rồi thì tiêu dung sáu căn, khi đóng hay mở đều được thành
tựu, thấy nghe thông nhau, dùng lẫn nhau thanh tịnh.
Nếu dứt hết được các mầm
lôi cuốn để sanh ở nơi này nơi kia, thì trong tánh đồng đó sáu căn không còn
riêng rẽ, đóng hay mở đều được thành tựu. Như vậy, tới đây con mắt có thể nghe,
lỗ tai có thể thấy, nghĩa là sáu căn hỗ dụng, không còn cách biệt. Sáu căn
chúng ta hiện nay đang bị dính khắn, nên không thể dùng cái này thay cái kia được.
Còn khi tu tới đây thì được tánh đồng, nên sáu cái riêng mất đi, trở thành một
cái chung, bởi chung nên hỗ dụng thanh tịnh.
Thế giới mười phương
cùng với thân tâm như ngọc lưu ly, trong ngoài đều sáng suốt, gọi đó là thức ấm
hết. Người ấy có thể vượt khỏi mạng trược.
Phải tới chặng này mới
hết mạng trược. Đến đây thế giới, thân và tâm, cả ba đều rỗng suốt như lưu ly,
không còn mờ tối. Ở những giai đoạn trước, có khi thấy cảnh ở trước sáng mà
trong tâm tối, có khi thấy trong tâm sáng mà cảnh tối, hoặc thấy mờ mờ không
rõ. Tới đây tất cả rõ ràng, cảnh hoàn toàn sáng, thân và tâm hoàn toàn sáng. Cả
ba đều trong sáng như lưu ly mới qua được thức ấm.
Như vậy, chặng đường nào
rõ ràng chặng đó. Nếu chúng ta tu mà không hiểu, không nắm vững điều này thì dễ
lầm lẫn, mới đi một đoạn đường mà tưởng đâu đã đến nơi, đưa tới những sai lầm.
Xem xét nguyên do của
nó, gốc là vọng tưởng điên đảo, hình ảnh giả dối rỗng không.
Như vậy cả cảnh, thân và
tâm đều là những hình ảnh hư dối rỗng không, từ vọng tưởng mà sanh chứ không có
gì thật. Đó là nói tổng quát phạm vi của thức ấm và ra khỏi thức ấm. Người tu
nếu không mắc kẹt nơi thức ấm, tất nhiên sẽ bước qua các quả vị Bồ-tát, lên tới
Đẳng giác Diệu giác.
Đến đây đi vào chi tiết
mỗi cái chấp của thức ấm.
A-nan nên biết, người thiện
nam ấy đã tột các hành ấm là không, trở về cội nguồn của thức ấm, đã diệt được
danh diệt, nhưng chỗ tinh diệu tịch diệt chưa được tròn đủ. Người ấy có thể
khiến nơi thân mình, các căn khi hợp khai, khi chia cách, cũng cùng các loài
trong mười phương thông hiểu nhau; tánh hiểu biết đó thông suốt nhau, có thể
vào tánh ban đầu tròn đủ.
Nếu nơi chỗ trở về đó,
lập ra nhân chân thường, sanh khởi thắng giải, người ấy rơi vào chấp
"nhân, sở nhân", thành bè bạn của ngoại đạo Ta-tỳ-ca-la, chấp trở về
với minh đế, lầm Bồ-đề của Phật, quên mất tri kiến. Đây gọi là hạng thứ nhất,
lập tâm có sở đắc thành quả có chỗ trở về, trái xa tánh viên thông, đi ngược
với thành Niết-bàn, sanh vào giống ngoại đạo.
Người này lấy chỗ trở về
cho là nhân chân thường, tự xem đó là hiểu biết thù thắng. Đây là cái chấp thứ
nhất, chấp có chỗ trở về tức sở nhân, và mình là người trở về
tức năng nhân. Do thấy có tâm sở đắc nên thành quả có
chỗ trở về.
A-nan, người thiện nam
ấy, đã tột hành ấm là không, đã diệt được sanh diệt, nhưng chỗ tinh diệu của
tịch diệt chưa được tròn đủ. Nếu nơi chỗ trở về xem là tự thể, tất cả chúng
sanh trong mười hai loài ở khắp cả cõi hư không đều từ trong một thân ta lưu
xuất, rồi sanh khởi thắng giải. Người ấy rơi vào chấp "năng, phi
năng", thành bè bạn với Ma-hê-thủ-la hiện vô biên thân, lầm Bồ-đề của
Phật, quên mất tri kiến.
Năng, phi năng là hay tạo tác và cũng không tạo tác, tức chấp cái ta
trùm khắp, tất cả chúng sanh nơi thế giới mười phương đều ở trong thân ta, như
vậy ta là năng, còn các chúng sanh đó là phi năng.
Đây gọi là hạng thứ hai,
lập tâm năng vi thành quả năng sự, trái xa tánh viên thông, đi ngược với thành
Niết-bàn, sanh vào giống ngoại đạo Đại mạn thiên, thấy cái ngã trùm khắp viên
mãn.
Tám năng vi thành quả
năng sự, là tâm hay làm thành
quả hay nên việc.
Đại mạn thiên thấy ngã trùm khắp, cho chúng sanh đều sanh từ trong
thân ta. Hễ chấp giống như vậy thì thành bè bạn của đám này.
Lại, người thiện nam ấy
đã tột hành ấm là không, đã diệt được sanh diệt, nhưng chỗ tinh diệu tịch diệt
chưa được tròn đủ. Nếu đối với chỗ trở về thấy có chỗ quay về nương tựa, liền
tự nghi thân tâm từ đó lưu xuất, hư không mười phương đều từ đó sanh khởi. Ngay
chỗ tất cả đều từ đó lưu xuất, khởi hiểu là thân chân thường không còn sanh
diệt. Ở trong sanh diệt sớm chấp cho là thường trụ. Đã lầm cái chẳng sanh cũng
mê luôn cái sanh diệt, an trụ trong mê lầm sâu nặng mà sanh khởi thắng giải.
Người này thấy thật sự
có chỗ cho mình trở về nương tựa, cho rằng thân tâm mình và mười phương hư
không đều từ chỗ nương tựa đó lưu xuất; khởi hiểu đó là thân chân thường, bị
chìm sâu vào mê lầm; ngay ở trong sanh diệt chấp lầm là thường trụ. Như thân
này là thứ bại hoại, là sanh diệt mà nói là thường trụ, vậy nên đã chẳng rõ cái
chẳng sanh mà cũng không biết cái sanh diệt luôn.
Người ấy rơi vào chấp
"thường, phi thường", thành bạn bè những kẻ chấp Tự tại thiên, lầm
Bồ-đề của Phật, quên mất tri kiến. Đây gọi là hạng thứ ba, lập tâm nhân y thành
quả vọng kế, trái xa tánh viên thông đi ngược với thành Niết-bàn, sanh ra hạt
giống "đảo viên".
Nhân y là có nhân để nương tựa. Vọng kế là suy
tính chấp lầm hư dối.
Người này chấp chỗ trở
về nương tựa là thường, còn tất cả chúng sanh nương tựa nơi đó
là chẳng thường. Người ấy thành bè bạn của Tự tại thiên, vì Tự
tại thiên cho rằng mình hay sanh ra tất cả chúng sanh là chẳng thường, không
biết cõi trời Tự Tại thiên chẳng phải thường trụ. Đó là chấp điên đảo.
Lại, người thiện nam ấy,
đã tột hành ấm là không, đã diệt được sanh diệt, nhưng chỗ tinh diệu tịch diệt
chưa được tròn đủ. Nếu ở chỗ biết, do biết cùng khắp, nhân biết đó lập thành sự
nhận hiểu rằng "cỏ cây mười phương đều gọi là hữu tình, cùng với người
không khác; cỏ cây làm người, người chết trở lại thành cây cỏ mười phương, đều
cùng biết khắp, không có chọn lựa", rồi sanh khởi thắng giải.
Người ấy rơi vào chấp
"tri vô tri", thành bạn bè của Bà-tra-tản-ni, chấp tất cả đều biết,
lầm mê Bồ-đề của Phật, quên mất tri kiến. Đây gọi là hạng thứ tư, chấp tâm khắp
biết, thành quả sai lầm hư dối, trái xa tánh viên thông, đi ngược với thành Niết-bàn,
sanh ra hạt giống "đảo tri".
Những người này không có
chọn lựa cái nào là hữu tình, cái nào là vô tình, mà cho rằng tất cả đều là
biết khắp, sanh khởi thắng giải như vậy nên chấp tri vô tri. Tri
là biết, cái biết trùm khắp mười phương, đó là cái biết của người, là chủ. Cỏ
cây là vô tri, do tri trùm khắp nên nó cũng thành tri. Ngoại đạo lập tri
vô tri là cái biết ban đầu trùm khắp tất cả cái vô tri, nên gọi tri vô
tri. Chấp như vậy nên sanh ra đảo tri, nghĩa là biết điên
đảo.
Lại, người thiện nam ấy
đã tột hành ấm là không, đã diệt được sanh diệt, nhưng chỗ tinh diệu tịch diệt
chưa được tròn đủ. Nếu trong chỗ viên tịch diệt chưa được tròn đủ. Nếu trong
chỗ viên dung các căn hỗ dụng đã được tùy thuận, liền nơi sự biến hóa tròn đầy
mà tất cả phát sanh, mong được ánh sáng của lửa, ưa sự trong sạch của nước,
thích sự chuyển khắp của gió, xem sự thành tựu của trần, mỗi mỗi đều tôn sùng
thờ phụng, lấy các trần này làm nhân ban đầu, lập ra sự nhận hiểu thường trụ.
Người ấy rơi vào chấp
"sanh vô sanh", thành bạn bè của Ca-diếp-ba cùng những Bà-la-môn, đem
hết thân tâm siêng năng thờ phụng lửa, nước để cầu ra khỏi sanh tử, mê lầm
Bồ-đề của Phật, quên mất tri kiến. Đây gọi là hạng thứ năm, chấp trước thờ
phụng, tâm mê theo vật, lập nhân vọng cầu mong được quả hư dối, trái xa tánh
viên thông, đi ngược với thành Bồ-đề, sanh ra hạt giống "điên hóa"
(biến hóa điên đảo).
Do chấp trước, tâm mê
chạy theo vật, cái nhân mong cầu hư dối thì quả đạt được cũng là hư dối. Học
đến đây mới biết vì lý do gì người ta dạy thờ lửa, thờ nước. Do những người tu
đến chỗ phá thức ấm, nhìn thấy lửa sáng rỡ đẹp, thấy nước trong sạch đẹp... cho
tứ đại là gốc của muôn vật, sanh ra muôn vật, nên đem thân tâm thờ phụng như
chúng ta kính thờ tổ tiên.
Lại, người thiện nam ấy
đã tột hành ấm là không, đã diệt được sanh diệt, nhưng chỗ tinh diệu tịch diệt
chưa được tròn đủ. Nếu nơi chỗ tròn sáng chấp cái rỗng trong tánh sáng, bác bỏ
và diệt trừ các sự biến hóa, nương tựa nơi hằng diệt mất làm chỗ trở về, rồi
sanh khởi thắng giải.
Người ấy rơi vào chấp
"quy vô quy", thành bạn bè với các thần Hư không trong Vô tưởng
thiên, lầm mê Bồ-đề của Phật, quên mất tri kiến. Đây gọi là hạng thứ sáu, do
tròn đủ tâm hư vô mà thành quả "không vong", trái xa tánh viên thông,
đi ngược thành Niết-bàn, sanh ra hạt giống đoạn diệt.
Quy vô quy là trở về mà không có chỗ trở về. Tâm hư
vô là tâm trống không. Không vong là quên mất hết.
Những người này chấp nơi
chỗ rỗng không, nên tất cả sự biến hóa họ đều cho tiêu diệt hết. Họ trở về chỗ
vĩnh diệt nên đồng với thần Hư không trong Vô tưởng thiên, không có tướng mạo.
Lại, người thiện nam ấy
đã tột hành ấm là không, đã diệt được sanh diệt nhưng chỗ tinh diệu tịch diệt
chưa được tròn đủ. Nếu nơi chỗ viên thường chấp giữ thân được thường trụ, đồng
với tánh tinh viên (tinh ba tròn đầy) còn mãi không bị chết mất, rồi sanh khởi
thắng giải.
Người này chấp giữ thân
cho còn mãi không chết, không muốn nó hoại.
Người ấy rơi vào chấp
"tham phi tham", thành bạn bè của các vị A-tư-đà cầu được tuổi thọ
lâu dài, lầm mê Bồ-đề của Phật, quên mất tri kiến. Đây gọi là hạng thứ bảy,
chấp trước cội nguồn của mạng sống, lập nhân cố giữ cái hư dối, tiến đến quả
kéo dài sự khổ nhọc, trái xa tánh viên thông, đi ngược thành Niết-bàn, sanh ra
hạt giống "vọng diên" (sự kéo dài hư dối).
A-tư-đà là vị tiên A-tư-đà. Những người này thích sống lâu nên
gọi là tham, nhưng họ đã qua được mấy phần chấp ở trước, không
còn kẹt trong sắc thọ tưởng hành, khi những thứ ấy đã diệt thì tham không
thành, nên gọi là phi tham.
Hạng này lập
nhân cố giữ cái hư dối, hướng đến quả kéo dài sự lao khổ. Con người vì
nuôi thân này sống, nên phải cực vì sự sống. Bởi ăn nên phải làm, làm nên chịu
cực khổ, vì mình mà cực. Còn có thân là còn khổ, mỗi ngày sống là thêm cực, vậy
mà họ lại muốn giữ thân còn hoài thì khổ nhọc càng kéo dài, nên gọi là trường
lao.
Nhiều người cho sống già
là nhọc, nhưng nếu chết sớm mà không biết tu hành thì còn khổ hơn, khổ vì bị
rơi vào địa ngục ngạ quỷ súc sanh, còn cực hơn làm người. Bởi vậy, tuy thân này
sống lâu mệt nhọc, nhưng biết tu thì những năm tháng đó cũng quý.
Lại, người thiện nam ấy
đã tột hành ấm là không, đã diệt được sanh diệt nhưng chỗ tinh diệu tịch diệt
chưa được tròn đủ. Quán xét mạng sống thông lẫn nhau, muốn giữ lại trần lao, e
sợ nó tiêu mất. Khi ấy liền ở nơi mé này ngồi cung hoa sen, hóa ra rất nhiều
bảy báu và nhiều mỹ nữ, buông lung tâm mình, rồi sanh ra thắng giải.
Người ấy rơi vào chấp
"chân vô chân", thành bạn bè của Tra-chỉ-ca-la, lầm mê Bồ-đề của
Phật, quên mất tri kiến. Đây gọi là hạng thứ tám, phát ra nhân suy nghĩ sai
lầm, lập thành quả các trần hưng thịnh, trái xa tánh viên thông, đi ngược thành
Niết-bàn, sanh ra hạt giống thiên ma.
Gọi là chấp chân
vô chân vì họ hóa ra được nhiều thứ báu, ngồi trên đài sen v.v... thấy
như chân nhưng lại không phải chân. Người này rơi vào thiên ma, vì ưa hưởng các
dục lạc.
Lại, người thiện nam ấy
đã tột hành ấm là không, đã diệt được sanh diệt nhưng chỗ tinh diệu tịch diệt
chưa được tròn đủ. Trong chỗ sáng suốt của mạng căn phân biệt sự tinh và thô,
quyết định cho rõ ràng thật và giả, nhân quả đền đáp nhau, chỉ cầu cảm ứng,
trái với đạo thanh tịnh. Nghĩa là thấy Khổ đoạn Tập chứng Diệt tu Đạo, ở nơi
Diệt đế đã dừng lại không chịu tiến lên, rồi sanh ra thắng giải.
Người ấy hẳn rơi vào
định tánh Thanh văn, thành bè bạn với những vị Tăng vô văn, những người tăng
thượng mạn, lầm mê Bồ-đề của Phật, quên mất tri kiến. Đây gọi là hạng thứ chín,
viên mãn tâm tinh ứng, thành tựu quả tiến đến chỗ tịch diệt, trái xa tánh viên
thông, đi ngược thành Niết-bàn, sanh ra hạt giống trói buộc nơi không.
Sơ quyết chân ngụy là đối với chỗ thật và giả, sự quyết đoán chưa
chín chắn. Người này đã thấy được Tứ đế, nhưng chứng được Diệt đế rồi thôi,
không tiến lên nữa. Như vậy vị này chứng quả A-la-hán chưa? Chứng rồi. Nhưng
chưa thật rõ được cái nào chân cái nào giả, chỗ nhận định chưa thấu đáo rành
rẽ, nên hài lòng tự mãn ở nơi đó. Do vậy vị này sau khi diệt hết mọi phiền não
rồi dừng ngang đó, sống với Diệt đế chứ không tiến lên nữa, tức là lấy sự tịch
diệt đó làm chỗ cứu cánh. Vì vậy mà bị chê là trầm không trệ tịch.
Đây gọi là vị
tăng ít học, cũng là những vị tăng thượng mạn. Trong kinh
Pháp Hoa, khi Phật sắp nói về nhân duyên lớn chư Phật xuất hiện nơi đời thì năm
nghìn người đứng dậy lui về. Đó gọi là những người tăng thượng mạn, chưa chứng
mà tự cho là đã chứng, nên không ở lại nghe pháp.
Lại, người thiện nam ấy
đã tột hành ấm là không, đã diệt được sanh diệt nhưng chỗ tinh diệu tịch diệt
chưa được tròn đủ. Nếu nơi tánh giác sáng suốt thanh tịnh viên dung, nghiên cứu
chỗ thâm diệu liền lập làm Niết-bàn mà không tiến tới nữa, rồi sanh thắng giải.
Người ấy hẳn rơi vào
định tánh Bích-chi, thành bè bạn của những vị Duyên giác, Độc giác không hồi
tâm về Đại thừa, lầm mê Bồ-đề của Phật, quên mất tri kiến. Đây gọi là hạng thứ
mười, do viên mãn tâm giác thông suốt, thành tựu được quả lặng lẽ sáng suốt,
trái xa tánh viên thông, đi ngược thành Niết-bàn, sanh ra hạt giống giác viên
minh nhưng không chuyển hóa để tròn đủ.
Hàng Độc giác là
Bích-chi Phật, đã thấy được chỗ viên minh, nghiên cứu thâm diệu, nhưng hài lòng
ở chỗ yên vắng riêng, không muốn làm gì, không muốn gần ai.
Như vậy, hai hạng sau là
định tánh Thanh văn tức A-la-hán và định tánh Bích-chi là Bích-chi Phật. Tuy
hai bậc này không tiến lên nữa, nhưng các ngài đã tới chỗ viên minh sáng suốt
rồi, không còn bị trầm luân.
Như vậy trong mười cái
lầm của thức ấm, bảy trường hợp trước lạc vào ngoại đạo, điều kế là thành thiên
ma, còn hai cái lầm sau là vào hàng A-la-hán (Thanh văn) và Bích-chi Phật
(Duyên giác).
Đến hết thức ấm này có
chỗ gọi là Đệ bát địa, hay Niết-bàn A-la-hán. Người tu đến đây có thể bị mắc
kẹt ở quả vị A-la-hán hoặc ở quả vị Bích-chi Phật không vượt lên được. Các vị
Bồ-tát thì phải được nhờ Phật khuyến phát để tăng tiến lên.
Này A-nan, mười thứ
thiền-na như thế, ở giữa đường thành ra cuồng mê. Nhân y nơi mê hoặc trong chỗ
chưa đủ tưởng là chứng đầy đủ, đều do thức ấm dụng tâm xen lẫn, nên sanh ra
những địa vị này. Chúng sanh mê muội không tự xét lường, gặp những cảnh này
hiện tiền, mỗi người do tâm mê lầm, yêu thích những tập cũ mà tự dừng nghỉ, cho
là chỗ trở về an ổn rốt ráo. Họ tự nói đã đầy đủ đạo Vô thượng Bồ-đề, trở thành
đại vọng ngữ. Ngoại đạo tà ma, khi nghiệp cảm đã hết thì rơi vào địa ngục Vô
gián. Thanh văn Duyên giác thì không tiến lên được.
Các ông để tâm gìn giữ
đạo của Như Lai, sau khi ta diệt độ đem pháp môn này truyền dạy cho chúng sanh
đời mạt pháp, khiến cho khắp chúng sanh hiểu rõ nghĩa này, không để cho ma tà
kiến tự làm cho chìm đắm trong tội lỗi. Bảo vệ thương xót cứu giúp người tu
hành tiêu dứt các tà duyên, khiến cho thân tâm họ vào tri kiến Phật, từ lúc bắt
đầu đến khi thành tựu không gặp các đường tẽ.
Đến đây kết thúc năm ấm
ma. Nói là Ngũ ấm ma nhưng thật ra là vượt qua năm ấm, trên
con đường tiến tu không còn bị các ấm che mờ nữa, cuối cùng là tâm, thân và
cảnh đều sáng rỡ như lưu ly. Đến đó là đã vượt khỏi thức ấm, đối với hàng Thập
địa Bồ-tát là đã đến địa thứ chín và thứ mười. Phần này rất hệ trọng. Nếu chúng
ta phá được mười thứ ma trong mỗi ấm thì sẽ tiến đến chỗ cứu cánh thành Phật.
Lời căn dặn chí yếu của
đức Phật là phải làm sao đem những lời Phật dạy, đem pháp môn Phật chỉ ở đây,
nhắc nhở cho người sau, để họ đừng bị rơi vào đường tà, có thể vào được tri
kiến Phật, không đi các lối tẽ.
Kế đây, Phật nói những
công dụng của người tu, khi qua được ngũ ấm ma.
Pháp môn như thế, chư
Như Lai nhiều như số bụi trong hằng sa kiếp quá khứ đã nương nơi pháp môn này
mà tâm được khai ngộ và chứng Vô thượng đạo. Thức ấm nếu hết thì hiện tiền các
căn của ông được dùng thay lẫn nhau đó, có thể vào địa vị Kim cang Càn huệ của
Bồ-tát; trong tâm tinh thuần tròn sáng đó phát ra sự biến hóa, như mặt trăng
báu hiện trong món đồ lưu ly trong trẻo.
Chúng ta có thể nói cách
khác, như trong cái bình thủy tinh để một bóng đèn, khi bóng đèn cháy sáng,
chúng ta thấy nó sáng rỡ không bị ngăn ngại. Ở đây cũng vậy, khi tâm tinh thuần
tròn sáng rồi, nó phát hiện ra không bị trở ngại.
Như thế mà vượt khỏi
Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Tứ gia hạnh tâm, Kim cang thập
địa của Bồ-tát tu hành, Đẳng giác tròn sáng, vào được biển Diệu trang nghiêm
của Như Lai, viên mãn Bồ-đề, trở về Vô sở đắc.
Rốt cuộc trở về Vô
sở đắc, tức không chỗ được. Vô sở đắc là có đắc hay không? Tại sao nói đủ
Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác,
rồi lại Vô sở đắc? Do vì đã thấy tâm thể của tất cả chúng sanh là sẵn có. Tâm
thể sẵn có đó, gọi là Phật pháp thân. Tuy nhiên trên con đường tu, tạm đặt ra
nhiều chặng. Dù có đặt ra nhiều chặng đường, nhưng sự thật thì không thêm bớt
gì cả. Vậy có được cái gì không? Sống trở về với cái mình sẵn có thì có gì là
được?
Cũng như mình sẵn có một
gia tài lớn, nhưng vì quên mất lại đi lang thang chỗ này chỗ kia, làm ăn thất
bại, thiếu thốn nghèo đói. Nay mình nhớ lại gia sản lớn của cha mẹ, liền trở về
và được cha mẹ trao lại sự nghiệp. Đó là được hay là không được? Gia sản đó cha
mẹ để dành sẵn cho mình thì mình có quyền hưởng, chỉ vì mình bỏ đi nên nghèo
khổ, nay trở về nhận lại của sẵn có thì có gì gọi là được! Cái gì mình không
có, ai cho mới gọi là được; còn của mình, bây giờ trở về nhận lại thì không có
gì gọi là được, cho nên nói Vô sở đắc.
Đó là nói tổng quát, đến
đây mới giải thích thêm rành rẽ.
Đây là chư Phật Thế Tôn
trước, thuở quá khứ ở trong Chỉ và Quán đã giác ngộ sáng suốt, phân tích được
những việc ma vi tế.
Đây tức chỉ cho kinh này, pháp môn này. Những đức Phật trước
ở đời quá khứ, chính ở trong chánh định, trong thiền quán, các ngài dùng tánh
giác sáng suốt, phân tích những việc ma vi tế cho chúng ta biết như vậy.
Ma cảnh hiện tiền, ông
hay biết rõ thì tâm nhơ được rửa sạch, không rơi vào tà kiến, ấm ma tiêu diệt,
thiên ma bị tan nát, đại lực quỷ thần khiếp đảm chạy trốn, các loài ly mỵ võng
lượng không còn dám xuất hiện, thẳng đến Bồ-đề không có thiếu sót. Dù cho những
người hạ liệt cũng được tăng tiến, đối với đại Niết-bàn tâm không mê muội.
Điều trọng yếu trong
việc diệt ma là tâm nhơ phải tẩy trừ. Tâm nhơ tẩy trừ rồi thì bao nhiêu thứ ma
đều chạy hết. Tâm nhơ không trừ thì các ma hưng thịnh. Phá được hết các ấm ma
thì mọi thứ khác không có gì làm hại mình được, đi tới Bồ-đề viên mãn.
Nếu những chúng sanh ngu
độn ở đời mạt kiếp chưa biết thiền-na, không biết Phật pháp, ưa tu chánh định,
ông sợ họ rơi vào đường tà, nên một lòng khuyên bảo họ trì thần chú Phật đảnh
đà-la-ni của ta. Nếu chưa thể trì tụng được thì viết để trong thiền đường hoặc
đeo trên thân, thì tất cả các ấm ma không thể lay động được. Ông nên kính vâng
theo khuôn phép rốt sau, chỗ tu tiến cứu cánh của Như Lai mười phương.
Đó là lời đức Phật
khuyên bảo ngài A-nan và hội chúng, phải y theo lời Phật dạy mà tu hành để khỏi
rơi đường tà, không lạc vào ngoại đạo.
Qua đoạn này, chúng ta
thấy kết quả của người tu sau khi phá được năm ấm thì sẽ tiến lên quả vị
Bồ-tát, rồi thẳng tới Đẳng giác Diệu giác, không còn bị ma chướng làm trở ngại
nữa; trái lại, ma kinh hoàng sợ sệt không dám quấy nhiễu. Người nào đi được tới
đây cũng phải trải qua nhiều gian nan cay đắng. Muốn được kết quả an ạc đầy đủ,
cái giá phải trả là vượt qua đám ma quấy phá dọc đường; có những khi điêu đứng
với nó, có những khi muốn làm thân thuộc với nó.
Nếu chúng ta vượt qua được
hết những rào cản đó, tới đây tự tại, thì lúc này chúng ma hoảng hồn khiếp vía,
không còn dám khinh khi như trước nữa. Ngược lại, nếu không chịu khổ nhọc để
vượt qua thì sẽ làm bè bạn hoặc tôi tớ của ma. Như vậy trong sự tu, chúng ta
muốn tiến lên thì phải chấp nhận những khó khăn, nhất là phải trì chí hướng về
mình, chứ đừng lệ thuộc bên ngoài, cũng đừng dính với những ảo ảnh do tâm biến
hiện.
Sau đây là điều nghi
cuối cùng của ngài A-nan. Chúng ta nẵm vững chỗ nghi này, mới thấy đoạn này là
thiết yếu.
VI. KHAI THỊ BẢN
NHÂN NĂM ẤM LÀ VỌNG TƯỞNG - GIỚI HẠN PHẠM VI CÁC ẤM
A-nan liền từ chỗ
ngồi đứng dậy, nghe Phật chỉ dạy, đảnh lễ kính vâng ghi nhớ không quên, ở trong
đại chúng lại bạch Phật rằng:
- Như Phật đã dạy,
trong tướng của năm ấm có năm thứ hư vọng, làm tâm tưởng cội gốc. Chúng con
bình thường chưa được nghe Như Lai khai thị tỷ mỷ.
Khi kết thúc mỗi
ấm, Phật đều nói bản nhân của nó gốc từ vọng tưởng hư dối mà thành, nhưng đại
chúng chưa được nghe Phật giải thích tường tận. Do đó ngài A-nan nghi, nên đặt
thành câu hỏi.
Lại năm ấm này là
đồng tiêu trừ hay theo thứ lớp mà hết? Năm lớp như thế, đến đâu là giới hạn?
Cúi mong Như Lai phát tâm đại từ, vì đại chúng ở đây khiến cho tâm mắt họ được
trong sáng, để làm con mắt tương lai cho tất cả chúng sanh đời mạt kiếp.
Phật bảo A-nan:
- Bản giác nhiệm
mầu sáng suốt tinh thuần chân thật trong sạch viên mãn, không lưu giữ sanh tử
và các trần cấu, cho đến hư không đều nhân nơi vọng tưởng mà sanh khởi. Tánh
giác cội gốc ban đầu này vốn là vi diệu sáng suốt tinh thuần chân thật, do vọng
mà phát sanh ra khí thế gian.
Tinh chân diệu minh
bản giác viên tịnh chỉ cho thủy giác và bản giác. Đứng về mặt thủy giác hay bản
giác đều không chứa sanh tử và trần cấu. Đây là câu trả lời tổng quát: Trong
bản giác viên tịnh không có sanh tử, trần cấu; do mê lầm bản giác viên tịnh mà
sanh khởi muôn sự muôn vật, cho đến hư không cũng do vọng tưởng mà sanh, thế
giới cũng từ vọng tưởng mà có.
Thế giới hay thế gian
gồm: hữu tình thế gian tức
tất cả chúng sanh có tình thức; và khí
thế gian là sông núi, đất đai, cõi nước... nơi tất cả chúng
sanh cư trú.
Như Diễn-nhã-đạt-đa
quên đầu nhận bóng.
Diễn-nhã-đạt-đa
quên đầu nhận bóng là từ cái gì mà ra? Từ vọng mà ra. Nghĩa là khi tỉnh thì
biết đầu mình là đầu, nhưng lúc mê, thấy bóng cái đầu trong gương liền tưởng là
đầu mình, lầm nhận bóng cái đầu trong gương là đầu thật, rồi quên cái đầu thật
của mình, sanh ra cuồng loạn. Cũng vậy, chúng sanh mê lầm cứ chạy theo những
bóng vọng tưởng cho là thật, quên mất bản giác, phát sanh bao nhiêu phiền não
trần lao, nên nói do vọng mà sanh.
Do vọng sanh thì có
nhân không?
Vọng vốn không
nhân. Ở trong vọng tưởng mà lập ra tánh nhân duyên. Mê lầm nhân duyên thì gọi
là tự nhiên. Tánh hư không kia còn thật là huyễn sanh thì nhân duyên, tự nhiên
đều do vọng tâm chúng sanh suy tính chấp trước.
Sự cuồng loạn đó
không có nhân, chỉ do mê lầm mà vọng sanh. Từ vọng tưởng mà lập ra nhân duyên,
rồi khi thấy không phải nhân duyên thì nói là tự nhiên. Như khi chúng ta ngủ mê
thấy mộng, trong mộng có đủ thứ người, vật. Trong mộng chúng ta phân tích những
người, vật mình thấy đó, cho là do nhân duyên hợp mà có. Tuy vậy, nhân duyên ở
trong mộng cũng chỉ là nhân duyên của mộng thôi. Nếu nhân duyên trong mộng hết
rồi, bèn cho là tự nhiên. Hễ hết nói nhân duyên thì xoay qua tự nhiên. Nhưng
nhân duyên hay tự nhiên cũng đều là của cảnh mộng, thì có gì là thật! Cho nên
nói nhân duyên nói tự nhiên chỉ là hý luận, không đến được chỗ cứu cánh.
Tánh hư không kia
còn là huyễn sanh,
vì hư không cũng do vọng mà phát. Từ hư không cho đến thế giới đều là huyễn
sanh, do vọng mà có nên không thật. Vì vậy, nói nhân duyên hay tự nhiên đều là
do vọng tưởng chúng sanh so chấp mà ra.
Này A-nan, biết chỗ
vọng khởi, nói vọng là nhân duyên. Nếu vọng vốn không, nói nhân duyên vọng vốn
không có. Huống là chẳng biết mà suy ra là tự nhiên.
Thấy vọng dấy khởi
thì gọi đó là nhân duyên, còn nếu nhân duyên vọng không khởi thì đẩy qua tự
nhiên, cứ bị mắc kẹt ở hai bên ấy. Như vậy chỉ là trong mê mà lập ra đối đãi,
chứ nhân duyên hay tự nhiên đều không thật.
Thế nên Như Lai vì
ông mà phát minh bản nhân của năm ấm đồng là vọng tưởng.
Đó là Phật nói lý
do gì mà cả năm ấm đều gốc từ vọng tưởng. Bởi vì thế giới, hư không đều là vọng
mà có, thì chúng sanh ở trong thế giới, hoặc chấp nhân duyên hay tự nhiên cũng
từ hư vọng mà ra.
Thân ông trước là
do tưởng của cha mẹ mà sanh. Tâm ông nếu không có tưởng thì không thể đến trong
tưởng mà truyền mạng.
Cha mẹ gặp nhau là
từ tưởng và nếu mình không có tưởng thì không đến đó. Như vậy, cha mẹ gặp nhau
là do tưởng nên có bào thai, rồi mình cũng do tưởng mà kết tụ vô bào thai. Gọi
là thọ sanh hay truyền mạng đều
là nhập cái mạng vô bào thai. Vậy cả ba đều gốc từ tưởng, thân này có là từ
tưởng mà ra.
Như trước ta đã
nói, tâm tưởng về vị chua thì trong miệng chảy nước miếng, tâm tưởng lên chỗ
cao thì giữa lòng bàn chân nghe rờn rợn. Dốc núi cheo leo chẳng có, vật chua
chưa đến, thân của ông nếu chẳng phải chung một nhóm với hư vọng, thì nước
trong miệng vì sao nhân nói chua liền chảy ra?
Đó là một ví dụ
chính xác, Phật chỉ cho chúng ta thấy rõ, nếu thân này không phải là hư vọng
thì những thứ tưởng hư vọng đó đâu có liên hệ gì đến nó, nó đâu có động. Nay
những vọng tưởng về vị chua hay đứng trên cao thì thân liền động, hẳn nhiên là
chung một loại với vọng tưởng.
Thế nên phải biết,
sắc thân hiện tại của ông gọi là lớp vọng tưởng kiên cố thứ nhất.
Phật chỉ cho chúng
ta thấy hai chặng:
- Chặng thứ nhất là
khi bắt đầu thọ mạng từ ba tưởng: cha, mẹ và mình. Ba tưởng đó từ hư vọng mà
có.
- Khi hiện mang
thân những thứ tưởng cũng phát sanh: nghe nói chua là chảy nước miếng, nghe nói
đi trên núi cao thì rờn rợn bàn chân, hoặc ban đêm đi đường vắng, nhớ lại chỗ
đó nghe nói có ma, liền rởn óc... Tất cả những điều ấy chỉ nghe nói hoặc nghĩ
đến là mình có cảm giác liền, có hiện tượng phát ra liền. Đó không phải từ
tưởng ra thì là gì? Nên nói thân đồng một loại với tưởng.
Hai chặng này quá
rõ: chặng ban đầu và chặng hiện hữu. Chặng đầu là từ tưởng, rồi chặng hiện hữu
cũng từ tưởng. Như vậy cuộc sống chúng ta đều là từ tưởng.
Ví dụ về việc ăn,
ai cũng biết ăn để sống, nhưng nếu bụng chưa đói lắm mà thấy cơm khô canh lạt
thì nuốt không trôi. Trái lại, khi bụng đói thì ngon dở gì nuốt cũng được hết.
Như vậy, ăn cũng thuộc tưởng. Mình nghĩ món đó không ngon thì ăn thấy không
ngon. Như khi có người làm thức ăn cho mình, nếu mình cảm thấy họ làm dơ dáy,
ăn có ngon không? Để vô lưỡi nghe ngon, nhưng nếu khởi tưởng dơ thì ăn hết
ngon. Như vậy rõ ràng từ tưởng mà ra.
Thân này là vọng
tưởng kiên cố chứ không có gì thật. Vậy mà chấp nó, vỗ ngực xưng ta đây là
thật, đâu biết là vọng tưởng. Bản chất của thân là vọng tưởng, vì nó cứng chắc
quá nên có thân này. Vì vậy mới nói sắc thân là
lớp vọng tưởng kiên cố thứ nhất.
Chính khi nghe lời
nói ở trên, nơi tâm nghĩ tưởng đến chỗ cao, có thể khiến cho thân ông thật có
cảm thọ rờn rợn. Do nhân cảm thọ sanh hay làm động sắc thân.
Cái cảm thọ rờn rợn
nơi lòng bàn chân là do mình tưởng đi lên núi cao. Rồi nhân nơi thọ sanh ra mà
làm động cái thân của mình. Như khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, mắt tiếp xúc
với sắc trần có cảm thọ khổ vui, tai tiếp xúc với thanh trần có cảm thọ khổ
vui... Từ cảm thọ đó mà thân thể này chuyển theo.
Ví dụ như mình đang
vui vẻ, chợt có ai nói một lời nặng, xúc chạm tới danh dự. Vừa cảm thọ đó là
lời nói nặng, mặt mình sa sầm ngay. Như vậy vừa có cảm thọ thì thân chuyển
liền. Hoặc giả mình đang buồn mà có ai nói điều gì đúng sở thích, vừa cảm thọ
thích thú thì vui lên, con mắt sáng rỡ. Như khi bụng đang đói cồn cào, có ai
đưa cho một củ khoai lang thì mắt liền sáng rỡ, rồi nhai ngấu nghiến, cười nói
vui vẻ. Các thọ khác cũng vậy, hễ có cảm thọ thì thân thể chuyển theo. Vì vậy
nên nói do nhân cảm thọ sanh hay làm động
sắc thể.
Ông hiện nay hai
thứ thuận thì tăng ích nghịch thì tổn giảm hiện đang đuổi nhau, gọi là vọng
tưởng hư minh thứ hai.
Thuận là như khi nghe
khen mình vui, còn nghịch như
lúc bị chê mình buồn. Hai thứ hiện đang đuổi nhau, nghĩa là có vui thì không
buồn, có buồn thì không vui. Giả như đang buồn mà có ai làm điều gì mình vui
thích thì buồn biến mất. Còn đang vui chợt có ai nói lời động chạm liền buồn
bực thì hết vui. Như vậy thì thuận nghịch đổi thay luôn luôn, gọi đó là
lớp vọng tưởng hư minh thứ hai. Hư
mình nghĩa là rỗng sáng.
Vậy cảm thọ cũng
thuộc vọng tưởng.
Do ý nghĩ của ông
sai khiến sắc thân ông, nếu thân không phải cùng loại với ý nghĩ thì nhân gì
thân ông lại theo sự sai khiến của ý niệm, nhận các thứ hình tượng, tâm sanh
thì thân nhận theo, cùng với niệm tương ưng?
Ví dụ mình đang
ngồi yên trước thềm chùa, chợt dấy niệm gặp huynh A để làm gì đó, vừa dấy niệm
liền đứng dậy đi. Như vậy ý niệm là vọng tưởng, nhẹ như gió, mà vừa dấy lên thì
thân mấy chục ký liền theo. Vọng tưởng vừa khởi, thân này liền bị sai khiến,
nếu thân này không cùng một loại với vọng tưởng thì làm sao vọng tưởng khiến
được? Vì cả hai đều là đồng loại anh em nên vừa dấy vọng tưởng, thân liền đi
theo, không cưỡng lại nổi. Nên nói tâm sanh thì
hình thủ, niệm vừa sanh thì thân nhận theo, cùng với niệm tương ưng, tức là
đi theo niệm.
Khi thức thì tâm
tưởng, khi ngủ thì thành các mộng. Vậy tâm tưởng của ông, vọng tình dao động
gọi là vọng tưởng dung thông thứ ba.
Công dụng của tưởng
là gì? Khi thức thì tưởng cái này, tính cái kia, mơ ước cái nọ. Còn khi ngủ thì
nó làm cho mình thấy mộng này mộng kia. Mộng là từ tưởng, được lưu giữ ở tàng
thức, khi ngủ hiện ra nên nói mộng tưởng. Qua được tưởng ấm thì thức ngủ như
một. Còn ở trong tưởng ấm thì thức ngủ khác nhau. Vì trong chỗ tích lũy vọng
tưởng xa xưa đâu có lường nổi, cho nên khi ngủ bao nhiêu tướng trạng ngày
thường không có, bây giờ nó hiện ra.
Thân hiện sống khởi
bao nhiêu thứ tâm tưởng, những tâm tưởng đó lại sai sử thân này. Vậy thân này
đâu có rời vọng tưởng. Nó đồng một loại với vọng tưởng, thân với tưởng không
tách rời nhau. Nên nói tưởng ấm là hư vọng. Tâm tưởng nghĩ thì thân liền theo,
hai cái dung hợp nhau. Đây là lớp vọng tưởng
dung thông thứ ba.
Sự chuyển biến
không dừng, xoay vần thầm dời đổi, móng tay dài, tóc mọc ra, khí lực tiêu mòn,
da mặt nhăn. Ngày đêm đổi thay nhau mà không hề hay biết.
Chúng ta không biết
một ngày móng tay mình ra bao nhiêu, một đêm tóc mình dài bao nhiêu. Khí huyết
mình tiêu mòn hồi nào đâu có hay. Lâu lâu rờ lại mặt nhăn thì biết là già, chứ
không biết nó già lúc nào. Như vậy con người chúng ta thầm dời đổi mà mình
không biết. Đó là hành ấm.
Này A-nan, nếu sự
dời đổi này không phải là ông thì làm sao thân ông bị dời đổi? Còn như thật là
ông thì vì sao ông không biết?
Sự dời đổi thuộc về
mình, mình mới bị dời đổi, nếu nó không phải là mình thì mình đâu có bị dời
đổi. Nhưng nếu nó là mình thì mình đâu có bị dời đổi. Nhưng nếu nó là mình thì
mình phải biết nó dời đổi chứ?
Vậy các hành niệm
niệm không dừng của ông, gọi là vọng tưởng u ẩn thứ tư.
U ẩn là vì nó thầm thầm
đổi dời ở trong mà mình không biết.
Lại, chỗ tinh minh
trong lặng không dao động của ông, gọi là thường hằng đó, nơi thân không ngoài
thấy nghe hiểu biết. Nếu thật là tinh thuần chân thật thì chẳng dung những tập
khí vọng tưởng. Vậy tại sao các ông trong những năm trước, từng thấy một vật kỳ
quái, trải qua nhiều năm không còn nhớ nữa, về sau bỗng nhiên lại thấy vật lạ
ngày trước, liền nhớ lại rõ ràng không hề sót mất.
Chỗ trong lặng
không dao động, thường hằng đó chỉ cho thức ấm, tức a-lại-da hay tàng thức. Nếu đó
là tinh ba chân thật thì đâu dung những tập khí vọng tưởng. Nhưng hiện nay
trong đó thường chứa chất những tập khí vọng tưởng không thật. Ví dụ như nhiều
năm trước mình thấy một người có tật lạ, như con mắt hay giật giật. Thấy đó rồi
thôi, mình bỏ qua và không để ý nữa, bao nhiêu năm không còn nhớ tới hình ảnh
đó. Bỗng nhiên một hôm đi đường chợt thấy lại người có tật mắt giật, mình nhớ
liền hình ảnh cũ.
Như vậy nó chứa ở
đâu mà nay nhớ lại? Chính là đã tích lũy ở trong tàng thức. Nhưng nếu tàng thức
không cùng một loại với nó thì làm sao chứa được? Bởi cùng một loại mới chứa ở
trong, nên nói Nếu thật tinh chân thì không dung
tập vọng. Như vậy, tàng thức sẵn chứa các chủng tử thiện ác,
khi tiếp duyên rồi thì nó lưu lại, bởi lưu nên khi gặp lại, nó phát ra cái cũ
không sai sót.
Thế nên trong chỗ
tinh liễu lặng lẽ không dao động này, từng niệm luôn nhận sự huân tập, đâu thể
tính toán nổi!
Thức ấm chỉ gần với
tánh chân mà không phải chân, nó còn những niệm sanh diệt liên miên ở trong.
Tàng thức lặng lẽ không dao động nhưng lại nhận những thứ huân tập, vô số trong
đó, không thể nào tính toán cho hết được. Bởi vậy nên khi chúng ta ngồi lại, nó
tràn ra hết lớp này tới lớp kia, cũ có mới có, bỏ hoài không hết.
Này A-nan, phải
biết cái lặng lẽ này không phải thật, như dòng nước chảy nhanh, trông xa giống
như yên lặng, vì nó chảy nhanh nên không thấy, chẳng phải là không chảy. Nếu
cội gốc không phải là vọng tưởng thì đâu nhận những tập khí hư vọng.
Như người cầm cây
hương quay thật nhanh sẽ có một vòng lửa. Người đứng xa nhìn thấy có vòng lửa,
vòng lửa này có thật không? Chỉ vì quay cây hương quá nhanh, con mắt mình nhìn
theo không kịp nên thấy có vòng lửa, nhưng sự thật cây hương đang chạy nhanh
chứ không có vòng lửa.
Tàng thức hoàn toàn
không phải thật. Nó giống một thác nước đổ, ở xa trông như một dải nước trắng,
lại gần mới thấy nó chảy liên tục, ầm ầm. Người không biết tưởng nó là chân
thường, sự thật nó là một dòng sanh diệt. Thức ấm nhận các tập khí hư vọng thì
nó cũng thuộc về vọng tưởng.
Nếu sáu căn của ông
không thể khai hợp dùng thay lẫn nhau thì vọng tưởng này không khi nào được
diệt. Cho nên trong những thây nghe hiểu biết của ông hiện tại xâu kết các tập
khí; những hình ảnh hư dối rỗng không trong chỗ trạm liễu là tinh tưởng vi tế
điên đảo thứ năm vậy.
Khai là mở, hợp là đóng. Nếu sáu căn
không thể đóng mở tự tại, chưa tới chỗ hỗ dụng thì vọng tưởng không bao giờ
diệt, mà muốn tới chỗ sáu căn hỗ dụng thì phải phá hết thức ấm.
Trạm liễu chỉ cho tàng thức
lặng lẽ rõ ràng. Võng tượng
hư vô là những hình ảnh hư dối rỗng không. Đây cũng là tưởng
nhưng rất tinh vi, là lớp tưởng điên
đảo thứ năm.
Như vậy cả năm ấm
đều thuộc vọng tưởng. Nếu năm ấm là vọng tưởng thì thân này là gì? Thân này là
do năm ấm sắc thọ tưởng hành thức kết thành, mà năm thứ đó đều từ vọng tưởng mà
ra; năm vọng tưởng lại thành một cái tưởng to, vậy thân này là chúa tể vọng
tưởng. Mang cái chúa tể vọng tưởng mà nói mình thật, vậy có ngu không? Chúa tể
vọng tưởng thì có gì là thật, vậy mà lúc nào cũng thấy nó thật, không phải điên
đảo là gì!
Đức Phật vạch trần
cho chúng ta biết từng phần bản chất của con người. Mọi điều rõ ràng như vậy mà
chúng ta thường không hề biết. Cho nên học kinh rồi mới thấy chỗ ngu mê của
mình thật quá sâu dày, nhờ Phật chỉ ra từng phần chúng ta mới thấy. Chính chỗ
mê lầm, giả tưởng mà tưởng là thật, nên trầm luân muôn kiếp.
Nếu chúng ta nhận
biết rằng mình đang mang cái thân tràn trề vọng tưởng thì tự nhiên sẽ bớt chấp,
bớt khổ. Rõ ràng chúng ta đang sống trong điên đảo, cái thân vọng tưởng hư dối
cứ tưởng là thân thật. Nay mình biết thân này có ra là từ vọng tưởng chứ không
gì khác, hàng ngày buông bỏ vọng tưởng thì đâu còn chấp thân nữa.
Như vậy phá được
năm ấm tức là phá được vọng tưởng. Vọng tưởng hết, đó là bắt đầu vào cảnh giới
của Bồ-tát, của Phật. Nên biết vọng tưởng là gốc của tất cả, năm ấm, thế
giới... đều từ vọng mà ra. Do vọng mà thân bị sai sử, nay mình không theo vọng
thì nó hết sai sử. Gốc của cuộc đời mình là vọng tưởng, không theo vọng tưởng,
làm chủ vọng tưởng là chúng ta đã làm chủ được cuộc đời mình. Tu bỏ vọng tưởng
là bỏ ngay cái gốc.
Này A-nan, năm thọ
ấm này là do năm thứ vọng tưởng mà thành. Nay ông muốn biết giới hạn cạn sâu
của nó, chỉ sắc và không là ranh giới của sắc ấm, chỉ xúc và ly là ranh giới
của thọ ấm, chỉ nhớ và quên là ranh giới của tưởng ấm, chỉ diệt bà sanh là ranh
giới của hành ấm, lặng lẽ hợp vào lặng lẽ là trở về ranh giới của thức.
Vậy ranh giới này
cũng chỉ là những đối đãi với nhau thôi.
Cái gốc của năm ấm
này trùng điệp sanh khởi. Sanh nhân thức mà có, diệt từ sắc mà trừ.
Tại sao sanh nhân thức mà có? Tại
sao diệt từ sắc mà trừ? Ban
đầu chúng ta đến thọ sanh ở bào thai mẹ thì chính thức ấm đến, hành đã đẩy thức
đến, nên sanh từ thức mà ra. Sau khi chết thì thân này hoại đi, nên diệt từ sắc
mà trừ.
Lý thì chóng ngộ,
nương nơi ngộ đều tiêu sạch. Sự chẳng thể chóng trừ, phải nhân nơi thứ lớp mà
hết.
Trước đã trả lời về
ranh giới của năm ấm, đến đây Phật trả lời câu hỏi cuối Năm ấm là đồng tiêu trừ hay theo thứ lớp mà
hết? Về lý thì chúng ta hiểu rằng thân ngũ ấm này là do vọng
tưởng làm gốc, nhưng muốn hết chấp thân thì phải chừng bao lâu mới hết? Về lý
thì đốn ngộ, ngộ rồi thì những hiểu lầm ngày xưa tiêu hết, biết rõ thân không
thật, từ vọng tưởng mà ra; nhưng trên sự tu hành, để không còn chấp nữa thì
phải tiệm, theo thứ lớp mà hết.
Tôi đã chỉ dạy ông
về cái gút của khăn kiếp-ba, sao ông còn không rõ, lại hỏi chỗ này nữa? Ông nên
đem chỗ tâm đã được thông suốt về cội gốc vọng tưởng này, truyền dạy cho những
người tu hành trong đời mạt pháp tương lai, khiến họ biết những thứ hư vọng mà
tự sanh nhàm chán, biết có Niết-bàn để không lưu luyến ba cõi nữa.
Cái khăn kiếp-ba đã
cột thành nhiều gút, nay muốn mở thì phải từng gút mà mở, đâu thể một lần mở
hết được. Phật khuyên ngài A-nan nên đem chỗ Phật dạy "cội nguồn năm ấm là
vọng tưởng" mà ngài A-nan đã hiểu, dạy cho
những người tu hành trong đời mạt pháp, khiến họ biết được
thân năm ấm này là hư vọng, nên tự sanh nhàm chán, đồng thời biết có Niết-bàn để không còn quyến luyến tam
giới nữa.
Comments
Post a Comment