KINH THỦ-LĂNG-NGHIÊM GIẢNG GIẢI
HT THANH TỪ
CHƯƠNG I: KIẾN ĐẠO
I- BẢY CHỖ HỎI TÂM
Bảy chỗ gạn hỏi tâm này,
nếu chúng ta thật tình mà đáp thì chắc cũng không ngoài những lời đáp của ngài
A-nan. Chính lời đáp đó giúp chúng ta thấy được bệnh của mình. Nếu bệnh ngài
A-nan hết thì bệnh của mình cũng sẽ hết. Vì vậy chúng ta cần nghe thật kỹ lời
Phật hỏi và những lời A-nan đáp, để suy nghiệm xem có đúng với căn bệnh của
mình hay không.
Này A-nan! Nay ta hỏi
ông, chính khi ông phát tâm, do duyên nơi ba mươi hai tướng tốt của Như Lai,
ông dùng gì để thấy và lấy cái gì để yêu thích?
A-nan bạch Phật: - Bạch
Thế Tôn, yêu thích như thế là do dùng tâm và mắt của con. Do con mắt xem thấy
tướng tốt của Như Lai, rồi tâm sanh yêu thích nên con phát tâm nguyện thoát
sanh tử.
Phật yêu cầu A-nan
xác định do đâu mà sanh yêu thích. Ngài trả lời chân thật và đơn giản, từ mắt
thấy rồi tâm dấy lên yêu thích.
Phật bảo A-nan:
Như lời ông nói, sự yêu
thích đó thật là do nơi tâm và mắt. Nếu không biết tâm và mắt ở chỗ nào thì
không thể hàng phục được trần lao. Ví như một vị quốc vương bị giặc xâm lấn bèn
cử binh đi dẹp trừ, thì đoàn binh ấy cần phải biết chỗ giặc ở. Khiến ông bị lưu
chuyển là lỗi của tâm và mắt. Nay ta hỏi ông, tâm và mắt ấy hiện giờ ở chỗ nào?
Phật vừa nói lý vừa đưa
ví dụ hết sức cụ thể. A-nan nói lý do ưa thích là từ tâm và mắt, vậy thì phải
biết rõ tâm và mắt ở chỗ nào. Nếu không biết thì không thể nào hàng phục nó
được. Như ông vua bị giặc xâm lấn bờ cõi, nếu không biết giặc đang đóng ở đâu,
đi hướng nào thì làm sao cử binh đi đánh dẹp?
1. Chấp tâm ở trong thân
A-nan bạch Phật: - Bạch
Thế Tôn, tất cả mười loại chúng sanh khác nhau trong thế gian, đồng
cho là thức tâm ở trong thân. Dù con xem thấy con mắt đẹp như hoa sen xanh của
Như Lai, cũng ở trên mặt Phật. Nay con xem con mắt thô phù do bốn trần hợp lại
này, cũng chỉ ở trên mặt con. Như thế thì thức tâm thật ở trong thân con.
Ngài A-nan xác định tâm
ở trong thân, con mắt ở trên mặt. Điều này chẳng phải chỉ riêng ngài, mà mười
loại chúng sanh trong thế gian cũng đều do thức tâm ở trong thân, còn con mắt
dù đẹp như hoa sen xanh của Phật hay con mắt thô phù do tứ đại kết hợp cũng ở
trên mặt mọi người. Chỗ lầm của ngài A-nan chính là chỗ lầm của tất cả chúng
ta, giả sử được hỏi chúng ta cũng sẽ nói như thế thôi.
Phật bảo A-nan:
- Nay ông hiện ngồi
trong giảng đường của Như Lai, xem thấy rừng cây Kỳ-đà hiện ở chỗ nào?
- Bạch Thế Tôn, giảng
đường lầu các rộng lớn thanh tịnh này, ở trong vườn của ông Cấp Cô Độc, còn
rừng cây Kỳ-đà, thật ở ngoài giảng đường.
- A-nan, nay ông ở trong
giảng đường, trước thấy cái gì?
Lối lý luận của Phật rất
đặc biệt, hết sức chi tiết và cụ thể. Phật không bẻ ngay vấn đề mà đưa ví
dụ trước.
Đầu tiên Phật hỏi A-nan:
Vì lý do gì xuất gia? Ngài cho biết, do thấy tướng tốt của Phật
mà xuất gia. Lại hỏi: Lấy cái gì thấy và ưa thích? Ngài đáp do mắt
thấy rồi tâm ưa thích. Từ đó Phật liền chỉ cho thấy, con mắt và tâm ưa thích ấy
chính là lỗi làm cho trầm luân.
Trước khi vào lý luận,
đức Phật muốn A-nan xác nhận tâm và con mắt ở đâu. Ngài xác nhận tâm ở trong
thân, mắt ở trên mặt. Phật không giải thích cũng không nói đúng sai, mà đưa ra
ví dụ rồi hỏi để ngài A-nan trả lời.
- Bạch Thế Tôn, con ở
trong giảng đường, trước thấy Như Lai, kế thấy đại chúng, rồi nhìn ra ngoài mới
trông thấy vườn rừng.
Vậy là ngài đi vào cái
bẫy của Phật rồi. Đức Phật hỏi thêm:
- A-nan, ông xem thấy
vườn rừng là nhân cái gì mà có thấy?
- Bạch Thế Tôn, giảng
đường lớn này, các cửa mở rộng, cho nên con ở trong giảng đường này thấy được
ngoài xa.
Rõ ràng, ngồi trong nhà
trước thấy người trong nhà, kế đó nhờ cửa mở mới thấy phía ngoài.
Khi ấy đức Thế Tôn ở
trong đại chúng duỗi cánh tay sắc vàng xoa đầu A-nan, bảo A-nan và đại chúng
rằng:
- Có pháp tam-ma-đề tên
là Đại Phật đảnh Thủ-lăng-nghiêm vương đầy đủ muôn hạnh. Các đức Như Lai mười
phương, từ một cửa đó vượt lên con đường diệu trang nghiêm. Nay ông hãy lắng
nghe cho kỹ.
A-nan đảnh lễ, kính nghe
lời Phật dạy.
Đức Phật rất tâm lý, đưa
ra ví dụ rồi đặt câu hỏi từ từ cho ngài A-nan trả lời. Nhưng ngang đây đối đáp
chưa dứt khoát, tại sao Phật dừng lại xoa đầu A-nan? Phật thấy ngài đáp sai nếu
bẻ liền e giật mình, nên Phật an ủi trước, xoa đầu hứa hẹn chỉ dạy rồi mới bắt
đầu phá chấp.
Phật bảo A-nan: - Như
ông đã nói, thân ông ở trong giảng đường, nhờ cửa mở rộng nhìn xa thấy được
vườn rừng. Lại có chúng sanh ở trong giảng đường này, không thấy Như Lai mà
thấy ngoài giảng đường chăng?
A-nan đáp:
- Bạch Thế Tôn, ở trong
giảng đường mà không thấy Như Lai, lại thấy rừng suối thì không có lý.
- A-nan, ông cũng vậy.
Tâm linh của ông sáng tỏ tất cả, nếu hiện tiền tâm sáng suốt rõ ràng thật ở
trong thân ông, khi ấy trước nên rõ biết trong thân. Thế có chúng sanh nào,
trước thấy trong thân rồi sau mới thấy vật ở ngoài chăng? Dù không thể thấy
được tim, gan, tỳ, vị, cũng phải thấy móng tay ra, tóc dài, gân chuyển, mạch
động, thật nên biết rõ, tại sao lại không biết? Nếu không biết ở trong thì làm
sao biết ở ngoài. Thế nên phải biết, ông nói tâm hay hiểu biết ở trong thân,
điều đó không có lý.
Chúng ta hiện nay có
người nào thấy được tim gan tỳ vị... của mình không? Nếu không thấy vật bên
trong thì những thứ ở ngoài như móng tay ra, tóc dài,... mình phải biết, nhưng
cũng không ai có thể biết được. Bên trong không biết, ở ngoài cũng không biết,
lại biết tận ngoài xa, điều đó có lý không? Do đó đức Phật bác: tâm hiểu biết
nằm trong thân là vô lý.
Lý luận của đức Phật quá
chặt chẽ. Chúng ta học kinh Lăng-nghiêm chẳng những học đạo lý để tu hành mà
còn học cách lý luận hết sức khít khao của Phật, chứ không phải thường, khéo
đưa từ những việc nhỏ dồn dần vô chỗ không còn lối thoát, để chỉ cho thấy điều
sai lầm của chúng ta.
Tới đây, ngài A-nan biết
rõ từ trước đến nay chấp tâm ở trong thân là sai. Nhưng nếu tâm ở không ở trong
thì chắc chắn phải ở ngoài rồi, nghĩ vậy nên kế đây ngài A-nan trả lời một
cách khẳng định.
2. Chấp tâm ở ngoài thân
A-nan cúi đầu lễ Phật,
bạch rằng:
- Con nghe lời Như
Lai dạy như thế, ngộ biết rằng tâm con thật ở ngoài thân. Vì sao? Ví như ngọn
đèn sáng thắp ở trong nhà, đèn ấy trước phải chiếu soi trong nhà, rồi sau từ
các cửa mới chiếu ra ngoài sân. Tất cả chúng sanh không thấy ở trong thân, mà
riêng thấy ngoài thân, cũng như ngọn đèn sáng để ở ngoài nhà, không
thể cho trong nhà được. Nghĩa này ắt rõ ràng, không thể lầm lẫn, đúng với nghĩa
rốt ráo Phật nói, không hư dối chăng?
Ngài A-nan dùng ví dụ
ngọn đèn để xác định chỗ ngài hiểu là đúng với lý Phật nói, không nghi
ngờ. Vì không ở trong tức là ở ngoài, điều này nghe như hợp lý.
Phật Bảo A-nan: Các thầy
Tỳ-kheo này, vừa rồi theo ta đến thành Thất-la-phiệt thứ
lớp khất thực, ăn xong trở về rừng Kỳ-đà, ta cũng đã thọ trai. Ông
xem các thầy Tỳ-kheo, khi một người ăn, những người khác có no không?
A-nan thưa: - Bạch Thế
Tôn, không. Vì sao? Vì các thầy Tỳ-kheo này, tuy chứng A-la-hán, nhưng thân
mạng chẳng đồng, làm sao một người ăn mà khiến những người khác no.
Phật bảo A-nan:
- Nếu tâm hay biết rõ
ràng của ông thật ở ngoài thân, tức thân và tâm riêng biệt không liên can gì
với nhau, ắt điều gì tâm biết thì thân không thể hay, khi biết ở nơi thân thì
tâm không thể rõ. Nay ta đưa cánh tay đâu-la-miên lên cho ông xem, khi mắt ông
thấy, tâm có phân biệt chăng?
- A-nan thưa: Bạch Thế
Tôn, có vậy.
Phật bảo A-nan:
- Nếu thân tâm cùng biết
thì tại sao ông nói ở ngoài thân? Thế nên biết, ông nói tâm hay hiểu biết ở
ngoài thân, điều đó không có lý.
Đức Phật rất khéo, vừa
lý luận vừa thực tế. Ngài đưa ví dụ các thầy Tỳ-kheo đi khất thực, rồi
hỏi: Khi một người ăn, những người khác có no không? Chúng ta
nghe Phật hỏi dường như lạc đề, đưa ví dụ không dính dáng vào đâu, làm sao một
người ăn mà những người khác no được! Đây là Phật muốn chỉ cho ngài A-nan hiểu
lý không tương quan; mỗi người riêng biệt không liên hệ gì nhau thì người này
ăn, người kia không thể no được.
Kế đến Phật đi thẳng vào
vấn đề. Nếu tâm hay hiểu biết thật ở ngoài thì khi thân biết, tâm không biết;
cái gì tâm biết thì thân không hay vì thân và tâm không liên can nhau. Nhưng
khi Phật đưa tay lên, mắt A-nan vừa thấy thì tâm liền biết, tức thân và
tâm có tương quan, vậy tại sao lại nói tâm ở ngoài thân như ngọn đèn ở ngoài
cái nhà? Lý này cũng bị Phật bác.
3. Chấp tâm núp trong
con mắt
A-nan bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn, như lời
Phật dạy. Vì không thấy bên trong nên chẳng phải ở trong thân; vì thân tâm cùng
biết, không hề lìa nhau, nên chẳng phải ở ngoài thân. Nay con suy nghĩ, biết nó
ở một chỗ.
Phật hỏi: - Nay ở chỗ
nào?
A-nan thưa: - Tâm rõ
biết này, đã không biết ở trong mà hay thấy ở ngoài, theo như con nghĩ ắt là
núp trong con mắt. Ví như có người mang mắt kính, tuy có vật úp lên mà
không bị chướng ngại. Con mắt kia vừa thấy liền theo đó phân biệt. Tâm hay
hiểu biết của con, không thấy bên trong vì nó ở nơi con mắt, nhưng lại thấy bên
ngoài rõ ràng không bị ngăn ngại vì tâm lý trong con mắt.
Ngài A-nan rất
thông minh, nghĩ ra lý lẽ tâm núp sau con mắt . Vì tâm núp sau con mắt nên
không thấy ở trong mà vẫn thấy bên ngoài rõ ràng. Như người mang kính, tuy hai
mắt có kính úp ở ngoài nhưng vừa thấy cảnh liền theo đó phân biệt không bị trở
ngại. Ở đây Phật không bẻ lý mà ngài bể ngay ví dụ.
Phật bảo A-nan: -
Như lời ông nói, tâm núp trong con mắt, giống như người mang kính.
Vậy người kia, chính khi cái kính úp trên con mắt, thấy được núi sông thì có
thấy cái kính chăng?
- Bạch Thế Tôn, có thấy.
Người ấy chính khi mang kính thật thấy được kính.
Phật bảo A-nan:
- Tâm ông nếu giống như
người mang kính thì chính khi thấy núi sông sao không thấy được con mắt? Nếu
tâm thấy con mắt thì con mắt đồng với cảnh bên ngoài, chẳng thành nghĩa
mắt vừa thấy tâm liền phân biệt. Còn nếu tâm không thể thấy con mắt thì sao lại
nói tâm hay biết này núp trong con mắt như người mang kính? Thế nên phải biết,
ông nói tâm hay hiểu biết núp ở trong con mắt như người mang kính, điều đó
không có lý.
Ngài A-nan dùng ví
dụ người mang kính. Kính dụ cho con mắt, con mắt dụ cho tâm. Phật bẻ ngay ví dụ
này. Người mang kính khi thấy ngoại cảnh cũng phải thấy cái kính. Nếu
tâm núp trong con mắt thì khi thấy cảnh bên ngoài, lẽ ra phải thấy
con mắt. Tâm thấy con mắt, tức con mắt là đối tượng ở ngoài tâm, ắt không thể
cùng biết một lúc, không thể vừa thấy liền phân biệt. Nếu tâm núp sau con mắt
thì phải thấy được mắt, như người mang kính phải thấy cái kính. Tâm không thấy
được con mắt, tức lý tâm nước sao không mắt không thành.
Ngài A-nan chấp tâm ở
trong, ở ngoài và ở giữa, ba chỗ này đều đã bị Phật bác. Chúng ta thấy những lý
luận trong đây thật khúc chiết và khít khao. Đức Phật không những đưa ra ví dụ
mà còn dẫn chứng lập luận cụ thể, chứ không phải chỉ nói suông.
4. Chấp thấy tối gọi là
thấy trong
A-nan bạch Phật: - Bạch
Thế Tôn, nay con lại khởi suy nghĩ thế này: Nơi thân chúng sanh, có tạng phủ ở
trong, khiếu huyệt ở ngoài. Có tạng phủ thì tối, có khiếu huyệt thì sáng. Nay
con đói trước Phật, mở mắt thấy sáng gọi là thấy ngoài, nhắm mắt thấy tối gọi
là thấy trong nghĩa này thế nào?
Đến chỗ này ngài A-nan
hơi dè dặt, không dám xác quyết như trước nữa. Ngài nghĩ tạng phủ, gan ruột bao
tử v.v... ở trong, giống như đồ đạc để trong tủ bị che đậy nên tối, còn khiếu
huyệt, mắt tai mũi v.v... thông ra ngoài nên sáng. Ngài không nhất định tâm ở
chỗ nào, nếu khi mở mắt thấy sáng rồi đó là thấy ngoài, còn nhắm mắt thấy tối gọi
là thấy trong.
Phật bảo A-nan: - Chính
khi ông nhắm mắt thấy tối thì cảnh tối này là đối trước mắt hay không đối trước
mắt? Nếu đối trước mắt thì tối ở trước mắt, làm sao mà thành ở trong thân. Nếu
thành ở trong thân thì khi ở trong nhà tối, không có mặt trời, mặt trăng hoặc
đèn, mọi thứ trong nhà tối này đều là tạng phủ của ông. Còn nếu tối không đối
trước mắt thì làm sao mà thành thấy?
Phật hỏi A-nan: Chính
khi ông nhắm mắt thấy tối thì cảnh tối này là đối trước mắt hay không đối trước
mắt? Như bao kính để trên bàn này, lúc chúng ta nhìn thấy bao kính thì
bao kính là đối trước mắt hay không đối? Đối thì thấy, còn không đối thì không
thấy. Nếu tối đối với con mắt nó phải ở phía trước con mắt, trước mắt tức là ở
ngoài, thì làm sao nói nhắm mắt là thấy trong thân được.
Nếu như thấy tối là thấy
ở trong thì khi ở trong nhà tối không có mặt trời, mặt trăng và đèn, chẳng lẽ
các vật trong nhà tối này đều là tạng phủ của mình hết sao? Như vậy đối ngoài
và đối trong, cả hai đều sai.
Phật lại đưa ra trường
hợp: Còn nếu tối không đối trước mắt thì làm sao mà thành thấy? Cái
gì không đối trước mắt có thể thấy được không? Không đối thì không thể thấy.
Dù loại bỏ lối thấy ra
bên ngoài, mà cho rằng con mắt hướng vào trong, khi nhắm mắt thấy tối gọi là
thấy trong thân, thì lúc mở mắt thấy sáng sao không thấy được mặt? Nếu chẳng
thấy được mặt thì nghĩa đối vào trong chẳng thành. Nếu thấy được mặt thì tâm rõ
biết này cùng với con mắt của ông đều ở ngoài hư không, làm sao mà thành ở
trong thân được. Nếu tâm và mắt ở ngoài hư không thì tự nó chẳng phải là thể
của ông. Vậy lẽ ra hiện nay Như Lai thấy mặt ông cũng là thân ông sao?
Giả sử tâm xoay ngược
trở vô, nhắm mắt thấy tối là thấy trong thân, thì khi mở mắt, vì nó đang xoay
ngược vào, nên lẽ ra phải thấy cái mặt. Nhưng chẳng có ai thấy được mặt mình,
tức nghĩa này không đúng.
Nếu tâm xoay ngược trở
vô, nhắm mắt thấy tối là thấy trong thân thì khi mở mắt lẽ ra phải thấy cái
mặt. Nhưng chẳng ai thấy được mặt mình, cho nên nghĩa này không đúng.
Dù cho thấy được mặt,
đây là giả sử thôi chứ không bao giờ có, nếu thấy được mặt tức là con mắt đang
ở ngoài thân nhìn ngược trở vào, vậy thì tâm liễu tri này cùng với con mắt đều
ở ngoài hư không, mà ở ngoài hư không thì nó đâu phải là của mình. Còn nếu ở
ngoài thì chẳng lẽ khi Phật thấy mặt A-nan cũng thành thân của A-nan hay sao?
Vậy ai thấy được mặt mình cũng thành thân mình hết rồi.
Con mắt ông đã biết thì
thân nên chẳng biết. Nếu không chắc rằng thân và con mắt đều biết thì phải có
hai cái biết, vậy một thân ông sẽ thành hai ông Phật. Thế nên phải biết, ông
nói thấy tối gọi là thấy ở trong thân, điều đó không có lý.
Phật lại nêu trường hợp
khác. Nếu con mắt thấy được mặt, tức là nó ở ngoài thân. Vậy khi con mắt biết,
thân ắt chẳng biết, vì hai cái rời nhau. Rời nhau mà cùng biết, thành ra có hai
cái biết. Vậy khi thành Phật, một thân sẽ thành hai ông Phật hay sao?
Đoạn này cho thấy ngài
A-nan đang hiểu sai và Phật cố tình bác những chỗ chấp đó. Phật làm vậy với mục
đích gì? Trong sự tu hành nếu muốn tiến tu vững chắc, muốn được giác ngộ thì
trước hết phải phá những kiến chấp sai lầm. Kiến chấp còn, sự tu không bao giờ
tiến và không mong gì giác ngộ. Cho nên trước khi chỉ ra tâm chân thật, đức
Phật phải phá sạch những chỗ chấp sai lầm. Khi những kiến chấp sai lầm được phá
hết, lúc ấy mới nhận ra được cái chân thật.
5. Chấp tâm tùy chỗ hợp
mà có
A-nan thưa: - Con thường
nghe Phật chỉ dạy bốn chúng: "Do tâm sanh nên các thứ pháp sanh, do pháp
sanh nên các thứ tâm sanh." Nay con suy nghĩ, tức cái thể suy nghĩ này
thật là tâm tánh của con. Tùy nơi chỗ hợp mà tâm theo đó có, chứ không phải ở
trong, ngoài và chặng giữa.
Bởi nghe Phật dạy tâm
sanh thì các pháp sanh, ngài A-nan liền cho suy nghĩ là tâm, tùy nó
hiện chỗ nào tâm liền theo đó mà sanh. Như chúng ta nghĩ đến chợ vũng Tàu
thì tâm liền ở chợ vũng Tàu, nghĩ chợ Sài Gòn tâm theo ở chợ Sài Gòn. Hễ nghĩ
đến chỗ nào thì tâm liền ở chỗ đó, không có nhất định. Nên nói không phải ở
trong, không phải ở ngoài, cũng không ở chặng giữa.
Phật bảo A-nan:
- Nay ông nói do
pháp sanh nên các thứ tâm sanh, tùy chỗ nào hợp, tâm theo đó mà có. Tâm ấy
không có tự thể thì không có chỗ hợp. Nếu không có tự thể mà có thể hợp được,
như giới thứ mười chín nhân trần thứ bảy mà hợp, nghĩa ấy không đúng.
Giới chỉ có mười
tám giới, trần chỉ có sáu trần. Như vậy nói giới thứ mười
chín và trần thứ bảy, tức chỉ có tên mà không có thể, không tự thể
thì làm sao hợp! Phàm nói hợp là cái này hợp với cái kia, như chúng ta lấy cát,
xi-măng, nước trộn lại thành hồ xây tường. Cát, xi-măng và nước mỗi thứ có tự
thể riêng, hòa hợp lại thành hồ. Nay ngài A-nan nói tâm tùy chỗ hợp, vậy tâm đó
là có tự thể hay không tự thể? Không tự thể tức không hòa hợp được, còn có
tự thể thì sao?
Nếu tâm có tự thể, như
ông lấy tay tự gãi trên thân, chỗ tâm ông biết là ở trong ra hay từ ngoài vào?
Nếu ở trong ra, phải thấy trong thân. Còn nếu từ bên ngoài đến, trước phải thấy
cái mặt.
Khi chúng ta gãi thân,
cảm giác biết đó là từ trong thân ra hay ngoài hư không chạy vào? Nếu tâm có tự
thể thì phải có nơi chốn xuất phát. Ví dụ khi đi đường gặp người quen, chúng ta
hỏi: "Anh ở đâu mà đi đây?" Người đó đáp: "Tôi ở trong chùa
ra", hoặc là "Tôi từ trên vườn về". Cũng vậy, khi chúng ta gãi,
cái biết ngứa đó ở đâu ra? Nếu nó ở trong thân ra, tức trước phải thấy tim gan
v.v... Còn ở ngoài vào thì trước phải thấy mặt, rồi sau đó mới có cảm giác ở
chỗ mình gãi. Vậy là nghĩa ở trong ra hay ngoài vào đều không đúng.
A-nan thưa:
- Thấy là con mắt, còn
tâm thì biết chẳng phải là mắt mà gọi là thấy thì không đúng nghĩa.
Phật bảo: - Nếu con mắt
thấy, khi ông ở trong nhà, cái cửa có thể thấy chăng? Vậy những người đã chết
con mắt vẫn còn, lẽ ra đều thấy vật. Nếu thấy vật, làm sao gọi là người chết?
Bởi trước Phật nói, tâm
biết đó nếu từ bên ngoài vào, trước phải thấy cái mặt, như vậy là tâm thấy.
Ngài A-nan không chịu lẽ này, mà khẳng định rằng thấy là con mắt, còn
tâm thì biết.
Chúng ta chắc cũng nghĩ
như vậy. Nhưng ở đây Phật quở: Khi ông ở trong nhà, cái cửa có thể thấy
không? Như người đứng trong nhà, cửa mở nhìn ra thấy cây cảnh bên
ngoài, vậy là người thấy hay cái cửa thấy? Người đứng trong nhà dụ cho tâm, cửa
dụ con mắt. Con mắt mở ra, tâm nương đó mà biết và phân biệt cảnh. Thấy biết là
tâm, còn con mắt là do tứ đại hợp lại. Nếu lầm cho con mắt thấy, tức rơi vào
lỗi chấp tứ đại là cái biết. Vả lại, nếu cho rằng con mắt thấy thì người chết
vẫn còn con mắt, lẽ ra phải thấy vật, mà còn thấy vật thì sao gọi là chết!
Này A-nan! Lại tâm hay
hiểu biết của ông, nếu có tự thể, là một thể hay nhiều thể? Nay tâm ở tại thân
ông, là khắp cả thân hay không khắp thân? Nếu là một thể, thì khi ông dùng tay
gãi một chi, cả tứ chi đều cảm giác. Nếu đều cảm giác, thì chỗ gãi lại không
nhất định tại đâu. Còn nếu gãi mà biết chỗ nơi, thì nghĩa một thể của ông không
thành. Nếu có nhiều thể, thành ra nhiều người, thể nào là của ông?
Đến đây, Phật bác lý tâm
là một thể hay nhiều thể. Nếu một thể, khi động chỗ này thì tất cả chỗ khác
cũng phải biết. Như khi gãi tay, tức cả tứ chi đều có cảm giác. Nếu tất cả chỗ
đều có cảm giác thì chỗ gãi không nhất định. Nhưng hiện nay vừa động chỗ nào
liền biết chỗ đó, như vậy nói một thể không thành. Còn nhiều thể tức là nhiều
người, nhiều tâm, vậy tâm nào là của ông?
Nếu tâm ở khắp thân thì
đồng với trước không biết chỗ gãi. Nếu không khắp thì chính khi ông xúc
chạm trên đầu, đồng thời chạm dưới chân, nếu đầu có cảm giác, lẽ ra chân không
biết, mà nay ông không phải vậy. Thế nên biết, tùy chỗ nào hợp, tâm theo đó mà
có, điều đó không có lý.
Tâm ở khắp thân, cũng
như lý lẽ một thể vừa nói ở trên, động một chỗ là biết chung hết nên không rõ
vừa động chỗ nào. Còn nếu không khắp thân, tại sao cùng lúc chạm trên đầu và
dưới chân, hai chỗ đều biết.
Không có tự thể thì
không thể thành nghĩa hợp, có tự thể thì bị kẹt ở chỗ một hay nhiều đều không
được. Vậy chấp tâm tùy chỗ hợp mà có là không hợp lý.
6. Chấp tâm ở khoảng
giữa
A-nan bạch Phật: - Bạch
Thế Tôn! Con cũng nghe Phật cùng ngài Văn-thù và các vị Pháp vương tử v.v...
khi bàn về thật tướng, Thế Tôn cũng nói: Tâm không ở trong, cũng không ở ngoài.
Như con suy nghĩ, ở trong thì không thể thấy gì, còn ở ngoài thì thân, tâm
không cùng biết. Vì tâm không biết ở trong, nên nghĩa ở trong không thành. Vì
thân tâm cùng biết, nên nói tâm ở ngoài là không đúng. Nay thân và tâm cùng
biết, lại không thấy được bên trong, vậy là tâm chắc ở khoảng giữa.
Phật bảo:
- Ông nói tâm ở
khoảng giữa, chỗ giữa đó ắt không lẫn lộn, chẳng phải không có chỗ nơi.
Nay ông nghĩ khoảng giữa đó, ở tại chỗ nào? Là ở cảnh hay tại thân? Nếu tại
thân thì nó ở một bên chứ không phải là giữa, nếu ở giữa thân thì đồng với ở
trong thân rồi. Nếu nó ở tại cảnh, có chỗ nêu ra hay không có chỗ nêu? Nếu
không có chỗ nêu ra thì đồng với không có; còn nếu có chỗ nêu, chỗ đó ắt không
nhất định. Vì sao? Như người lấy cây nêu đặt làm điểm giữa, người đứng bên đông
nhìn thấy nó ở phía bên tây, đứng phương nam nhìn thì nó ở phía bắc. Việc chỉ
ra hướng nêu đã lẫn lộn, thì tâm cũng rối loạn.
Đến đây ngài A-nan cho
rằng tâm ở chặng giữa. Vì không thấy ở trong tức không phải ở trong, lại thân
tâm cùng biết nên không phải ở ngoài, vậy là tâm chắc ở khoảng giữa. Nhưng
khoảng giữa là chỗ nào? Ngực ở phía trước, lưng ở phía sau, trước hay sau cũng
là một bên. Nếu ở ruột gan thì đồng ở trong, lý ở trong trước đã phá. Như vậy
nói chặng giữa là không hợp lý.
Nếu ở tại cảnh, phải có
chỗ tiêu biểu, có chỗ để nêu ra, vậy là chỗ nào? Không nêu ra được là đồng với
không, nêu được lại không có chỗ nhất định. Ví dụ trong chúng đang ngồi đây, có
người đứng dậy ra làm nêu ở giữa. Người ngồi góc bên đông nhìn thì thấy người
làm nêu ở phía tây, người góc nam nhìn sẽ thấy người làm nêu ở phía bắc. Chỗ
giữa đó không cố định, chỉ tùy theo chỗ nhìn của mỗi người. Việc chỉ ra hướng
nêu đã lẫn lộn thì tâm cũng rối loạn theo. Như vậy nói khoảng giữa là ở trong
thân hay tại cảnh đều không được.
A-nan thưa: - Con nói
khoảng giữa đó, không phải hai thứ này. Như Thế Tôn nói: Con mắt đối với sắc
làm duyên, sanh ra nhãn thức. Mắt có phân biệt, còn sắc trần không biết, thức
sanh trong khoảng ấy, ắt là chỗ của tâm.
Phật bảo: - Tâm ông nếu
ở giữa căn và trần, thì thể của tâm này gồm cả hai thứ hay chẳng gồm hai? Nếu
gồm cả hai thì vật (sắc trần) và thể (nhãn căn) lộn xộn: vật thì không biết,
thể thì biết, thành ra hai cái đối lập nhau, làm sao có khoảng giữa? Gồm cả hai
bên không thành, vì chẳng phải biết cũng chẳng phải không biết, tức là không có
thể tánh, lấy gì làm tướng giữa? Thế nên biết, tâm ở chặng giữa là không có lý
vậy.
Đoạn này Phật bác bỏ chỗ
chấp tâm ở chặng giữa của A-nan. Bởi theo ý ngài A-nan, giữa đây là giữa sắc
trần và nhãn căn. Khi căn trần tiếp xúc thì có thức sanh ra, như vậy thức sanh
ra ở giữa căn và trần.
Phật bẻ lại, nếu thức
sanh ra ở giữa căn và trần, vậy thì tâm gồm cả căn và trần hay không gồm? Nếu
gồm cả hai thì vật - thể lộn xộn. Vì vật là cảnh, là sắc trần; thể chỉ cho
người, cho con mắt. Năm căn thì biết, còn trần không biết. Nếu nói gồm cả hai,
vậy một bên biết một bên không biết, hai bên trái hẳn nhau làm sao có cái giữa?
Nếu không gồm cả hai, tức chẳng phải căn biết cũng chẳng phải trần vô tri thì
nó không có thể tánh, vậy khoảng giữa lấy gì làm tướng?
7. Chấp tất cả không
dính mắc gọi là tâm
A-nan bạch Phật rằng: -
Bạch Thế Tôn, trước đây con thấy Phật cùng với bốn vị đại đệ tử là Đại
Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, Phú-lâu-na và Xá-lợi-phất đồng chuyển pháp luân,
thường nói: Tâm tánh hiểu biết phân biệt đã không ở trong cũng không ở ngoài,
không ở chặng giữa, đều không ở đâu cả, tất cả không dính mắc gọi đó là
tâm. Vậy cái không dính mắc của con, gọi đó là tâm chăng?
Phật bảo A-nan:
- Ông nói tâm tánh hiểu
biết phân biệt đó, đều không có chỗ nơi, các vật tượng trên thế gian, như các
loài ở trong hư không, thủy, lục, phi hành, gọi là tất cả. Vậy ông không dính
mắc đó, là có hay là không? Nếu không thì đồng với lông rùa, sừng thỏ, làm sao
nói không dính mắc? Nếu có "không dính mắc" thì không thể gọi là
không. Không tướng là không, còn không phải không tức có tướng, mà có tướng thì
có chỗ nơi, làm sao gọi là không dính mắc? Thế nên phải biết, tất cả không dính
mắc, gọi là tâm hiểu biết của ông thì không đúng vậy.
Đoạn này ngài A-nan dẫn
lời Phật cùng các vị đệ tử lớn của Phật thuyết pháp, cũng bị Phật bác. Người
thấy rồi nói thì đúng, còn không thấy mà bắt chước người khác nói theo, đúng
cũng biến thành sai.
Tất cả các vật tượng
trên thế gian, như loài ở hư không, ở trong nước, ở trên đất và những loài biết
bay... Cái nào có tên cũng đều có hình tướng, sự vật. Vậy tâm không chấp, không
dính mắc đó, là có hay là không? Nếu không thì đồng như lông rùa sừng thỏ, đâu
có gì mà nói là không chấp. Còn nếu có cái không dính mắc tức có tướng, có
tướng là có chấp, làm sao nói không?
Đến đây là kết thúc
phần thất xứ trưng tâm, tức bảy chỗ hỏi về tâm. Ngài A-nan thông
minh nói tới bảy chỗ, mà rốt cuộc chỗ nào cũng sai.
Tại sao đức Phật cứ gạn hỏi mãi như vậy? Bởi vì trước khi muốn chỉ tâm thể chân
thực, Phật phải hỏi để biết những chỗ chấp sai lầm của A-nan, cũng như của tất
cả chúng ta. Những gì hư dối mà tưởng lầm là thật, Phật bác hết. Cuối cùng ngài
A-nan đuối lý, giật mình thấy rõ đã chấp lầm. Lúc ấy Phật mới chỉ ra cái thật.
Như vậy phá chỗ thấy sai
là cốt chỉ ra cái đúng, chỗ sai nếu không dẹp phá thì không làm sao chỉ chỗ
đúng được. Cũng như có người chuyên buôn bán đồ quý, thấy người trong nhà muốn
đi mua một món đồ, sợ mua lầm nên phải giải thích đối chiếu, chỉ ra cho thấy đồ
nào giả đồ nào thật. Nếu không biết phân biệt đồ giả thì thứ nào cũng tưởng là
thật. Khi đã biết đồ giả rồi, đưa cái thật ra họ mới nhận được.
A-nan chấp những suy
nghĩ hiểu biết cho là tâm, bị Phật gạn hỏi chỗ nơi của tâm suy nghĩ, ngài
chỉ chỗ nào cũng bị Phật bác. Tại sao? Vì những thứ có tướng, như bàn ghế... mới
có chỗ nơi, còn hư không không tướng đâu thể chỉ chỗ nơi. Tâm tánh không
hình tướng, ngài A-nan lại tưởng có tướng, nên cứ nói ở chỗ này chỗ kia, càng
nói càng sai. Dù lanh lợi như ngài A-nan, nhưng do không thật thấy nên trả lời
hoài cũng không đúng.
Lâu nay chúng ta quen
chấp tâm vọng tưởng suy nghĩ phân biệt là tâm thể của mình, cho nên đức Phật
mới bác bỏ tất cả, cho thấy những suy nghĩ đó là tướng hư giả, chứ không phải
tâm chân thật vốn không tướng mạo, không chỗ nơi.
II. CHỈ RA TÁNH THẤY
Khi ấy A-nan ở trong đại
chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, chệch áo bày vai phải, quỳ gối phải xuống đất,
chắp tay cung kính bạch Phật rằng:
- Con là em út của Phật,
nhờ Phật thương xót, nay tuy được xuất gia, vẫn còn ý lại lòng thương yêu của
Phật. Do đó chỉ học nhiều mà chưa được vô lậu, không thể chiết phục thần chú
Sa-tỳ-la, bị chú làm lay chuyển, phải sa vào nhà dâm, chính là do không biết
được mé chân thật để đến. Cúi mong Thế Tôn mở lòng đại từ thương xót, chỉ dạy
cho chúng con con đường thiền định (xa-ma-tha), khiến những người không có lòng
tin (xiển-đề) trừ bỏ được các tà kiến.
Anan thưa thỉnh xong,
gieo năm vóc xuống đất, cùng với đại chúng đều khát ngưỡng trông chờ được nghe
lời chỉ dạy của Phật.
Ngài A-nan qua bảy chỗ
chấp tâm đều sai, mới đảnh lễ Phật tha thiết cầu xin chỉ dạy. Ngài thưa, do ỷ
lại vào lòng thương xót của Phật, nên tuy đã xuất gia, chỉ một bề học rộng mà
không lo tu. Vì vậy chưa được vô lậu, tức là chưa chứng A-la-hán, nên bị thần
chú của ngoại đạo làm mê hoặc, dẫn tới nhà dâm. Ngài cầu Phật thương xót chỉ
dạy cho con đường thiền định để tiến tới chỗ giác ngộ chân thật. Không riêng
ngài A-nan, mà cả chúng cũng mong chờ được nghe lời Phật dạy.
Khi ấy đức Thế Tôn từ
cửa mặt phóng ra các thứ hào quang. Các hào quang ấy sáng rỡ như trăm ngàn mặt trời,
soi khắp các cõi Phật, có sáu thứ chấn động. Như thế các cõi nước ở mười phương
nhiều như số vi trần đồng thời hiện ra. Do oai thần của Phật khiến các thế giới
hợp thành một thế giới. Trong thế giới ấy có tất cả các vị đại Bồ-tát, đều ở
tại nước mình chắp tay chờ nghe Phật dạy.
Đoạn này vừa sự vừa lý:
- Về sự: Trước khi muốn
chỉ chỗ tu hành thiết yếu, đức Phật phóng quang để cho mọi người thấy các cõi
nước Phật khác. Đây là nương thần lực của Phật, hội chúng thấy được lẽ chân,
chứ chưa phải tự mình thấy.
- Về lý: Cửa mặt là
khoảng giữa hai chân mày, tượng trưng cho trí tuệ. Trí tuệ của Phật và trí tuệ
của chư Phật khắp mười phương đều đồng một thể, bởi đồng thể nên hợp các thế
giới lại thành một thế giới.
Phật dùng trí tuệ chỉ
cho mọi người thấy được lẽ chân thật. Không chỉ riêng hàng Thanh văn hiện có
trong hội, mà cả những vị Bồ-tát trong các cõi nước kia, cũng như chúng ta hiện
nay, đều trông chờ được nghe lời Phật dạy.
Phật bảo A-nan: - Tất cả
chúng sanh từ vô thủy đến nay, theo các thứ điên đảo, tự nhiên tạo giống nghiệp
như chùm ác-xoa. Những người tu hành không thể thành được vô thượng Bồ-đề, mà
chỉ thành Thanh văn, Duyên giác và thành ngoại đạo, chư thiên, ma vương và
quyến thuộc của ma, đều do không biết hai thứ căn bản, tu tập sai lầm. Họ giống
như nấu cát mà muốn thành cơm ngon, dù trải qua số kiếp như vi trần, trọn không
thể được.
Ác-xoa là tên một thứ
trái ở Ấn Độ, Trung Hoa dịch là Diên quán châu. Ba trái chung một cuốn nên gọi
là chùm ác-xoa, khi trái này rụng xuống đất tự nhiên tụ lại một chỗ. Đây dụ cho
ba thứ: hoặc, nghiệp và khổ chẳng rời nhau. Nghiệp của chúng sanh huân tập từ
thuở nào, kết thành chùm nghiệp, chịu khổ, không thể chia rời được. Đến đây đức
Phật chỉ ra lý do tại sao người tu hành không đạt được cứu cánh, có khi lại còn
sai lầm.
Đức Phật nêu lên tai họa
lớn lao của chúng ta bị luân hồi vô lượng kiếp đến giờ, gốc từ không
biết hai thứ căn bản, tu tập sai lầm. Bởi không biết hai thứ căn bản để tu,
nên dù nỗ lực công phu nhưng không chứng được Phật quả. Cao lắm là chứng quả Thanh
văn Duyên giác, còn không thì thành ngoại đạo, chư thiên, ma vương hoặc quyến
thuộc của ma. Cũng như hiện nay, có nhiều người tu thích được ai dựa hoặc được
bậc nào đó về để phù hộ cho, vì vậy trở thành quyến thuộc của ma.
Người tu do không biết
được hai thứ căn bản nên tu hành sai lầm, không thể có kết quả tốt. Giống
như nấu cát mà muốn thành cơm ngon. Những người này tu hành, dù
trải qua thời gian bao lâu cũng không thể nào thành Phật. Kế đây Phật sẽ chỉ ra
hai cội gốc căn bản đó.
Thế nào là hai thứ căn
bản? Này A-nan, một là cội gốc sanh tử từ vô thủy, chính hiện nay ông cùng các
chúng sanh, dùng tâm phan duyên cho là tự tánh. Hai là Bồ-đề Niết-bàn từ vô
thuỷ, vốn là bản thể thanh tịnh, chính nay là thức tinh nguyên minh của ông,
hay sanh ra các duyên, nhưng khi theo duyên thì bỏ quên nó. Do các chúng sanh
bỏ quên bản minh này, nên tuy trọn ngày dùng nó mà không tự biết, luống vào
trong các nẻo.
Cội gốc căn bản thứ nhất
là dùng tâm phan duyên cho là tự tánh. Tâm phan duyên là tâm dính mắc, chạy
đuổi theo sáu trần. Chúng ta lâu nay nhận tâm phan duyên này làm tám tánh của
mình. Khi sáu căn tiếp xúc sáu trần, mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi
mùi... liền vin theo đó để phân biệt đẹp xấu, đánh giá thế này thế kia, rồi
chấp nê sanh ra yêu ghét... cho đó là tâm mình. Vì vậy trôi lăn trong sanh tử
muôn đời muôn kiếp.
Cội gốc căn bản thứ hai
là thể thanh tịnh Bồ-đề Niết-bàn sẵn có từ vô thủy đến nay, chính là thức tinh
nguyên minh hiện có nơi mỗi người. Thức tinh là cái tinh ba của
thức, nguyên minh là vốn sáng suốt. Thức tinh nguyên minh là
thể tánh tịnh minh hay sanh ra các duyên, nhưng khi theo duyên thì lại bỏ sót
nó. Bởi quên mất bản tánh yên lặng trong sáng thường hằng này, nên dù trọn ngày
sống với nó mà không tự biết, phải đi trong sanh tử luân hồi. Cũng như gương
soi phản chiếu vô số hình ảnh, nhưng khi chúng ta nhìn vào gương thấy các hình
ảnh thì không còn nhớ mặt gương nữa. Hình ảnh đâu rời mặt gương mà có, song khi
nhớ hình ảnh thì quên mặt gương. Quên gọi là bỏ sót. Cái hằng hữu bên mình mà chúng
ta không nhớ, hằng sống với nó mà không biết. Đây là chỗ rất hệ trọng.
Khi sáu căn tiếp xúc với
sáu trần, theo kinh Lăng-già có chia ra ba lượng:
1. Hiện lượng là cái
thấy ngay phút giây ban đầu.
2. Tỷ lượng là khởi so
sánh phân biệt.
3. Phi lượng là ý nghĩ
sai lầm, không đúng lẽ thật.
Khi mắt nhìn thấy các
vật như quạt, đèn v.v... chưa dấy khởi phân biệt mà vẫn thấy biết rõ ràng, đó
là hiện lượng. Nhưng ít khi chúng ta dừng ngang đó, mà thấy thì liền đánh giá
quạt này đẹp hay xấu, chừng bao nhiêu tiền... gọi là tỷ lượng. Không dừng ở cái
thấy ban đầu nữa, mà so sánh phân biệt rồi sanh chấp trước sai lầm, dẫn đến
phiền não điên đảo, đó là phi lượng.
Như vậy, ngay nơi sáu
căn của chúng ta có đủ ba thứ: hiện lượng, tỷ lượng và phi lượng. Thức tinh
nguyên minh tương ưng với hiện lượng. Trong nhà thiền thường nói "hằng
thấy, hằng nghe mà không khởi phân biệt", tức là không khởi tỷ lượng và
phi lượng. Sống với hiện lượng là sống trong thể thanh tịnh Bồ-đề Niết bàn vốn
sẵn có từ vô thủy đến giờ, chứ không phải nay tu mới có. Nhưng do chúng
sanh bỏ quên bản minh này, nên chịu oan uổng đi trong các đường.
Kinh Lăng-nghiêm là một
quyển kinh nói về thiền. Nhà thiền thường nói: "Cây gậy là cây gậy, hoa
hồng là hoa hồng", không thêm gì nữa. Đó là nhìn sự vật với hiện lượng.
Thể của tâm là biết, nếu ngay khi thấy nghe, chúng ta không chạy theo bóng dáng
sáu trần, đây chính là kiến tinh nguyên minh hay thức tinh nguyên minh. Sống
trở lại cái sáng ban đầu đó, tức là Bồ-đề Niết-bàn. Nếu cứ bỏ quên bản minh
chạy theo các duyên thì sẽ trôi đi trong sanh tử vào các cõi.
Đức Phật chỉ dạy hai
điều căn bản rất rõ ràng, chúng ta đừng lầm tâm duyên theo ngoại cảnh cho đó là
tâm thật của mình, mà phải biết nó là gốc của sanh tử luân hồi. Tất cả chúng ta
đang bị tâm phan duyên này chi phối, làm sao lìa được nó thì mới có thể giải
thoát. Nhưng nếu lìa nó mà không biết cái thật thì cũng không có căn bản. Nên
phải biết gốc Bồ-đề Niết bàn là bản thể thanh tịnh, đó chính là tâm hiện lượng
sẵn có. Biết rõ gốc ngọn như vậy, tu mới không bị lầm lẫn, không rơi vào các
đường tà, thẳng đến giác ngộ giải thoát.
Đến đây người nghe có
thể hiểu được về lý thuyết, nhưng trên thực tế chưa có gì cụ thể để chứng minh,
nên kế tiếp Phật dùng hình ảnh để minh chứng.
- Này A-nan! Nay ông
muốn biết con đường thiền định, mong ra khỏi sanh tử, ta lại hỏi ông.
Liền khi đó, Như Lai đưa
cánh tay sắc vàng, co năm ngón lại, hỏi A-nan rằng: - Nay ông thấy chăng?
A-nan thưa: - Thấy.
Phật hỏi: - Ông thấy cái
gì?
A-nan thưa: - Con thấy
Như Lai đưa cánh tay lên, co năm ngón làm thành nắm tay sáng rỡ, chiếu rọi vào
tâm mắt con.
Phật bảo: - Ông lấy cái
gì để thấy?
A-nan thưa:
- Con cùng đại chúng đều
dùng con mắt thấy.
Phật bảo: - A-nan! Nay
ông trả lời ta rằng Như Lai co năm ngón lại thành nắm tay sáng rỡ, chiếu vào
tâm mắt ông. Mắt ông có thể thấy, vậy lấy gì làm tâm để biết được nắm tay sáng
rỡ của ta?
Đây là hình ảnh Phật nêu
lên cụ thể để ngài A-nan xác định cái gì là tâm. Phật muốn gạn lại: khi A-nan
thấy nắm tay của Phật, ngài phân biệt nó là nắm tay sáng rỡ, vậy nếu cái thấy
đó là mắt thì lấy gì làm tâm?
A-nan thưa: - Hôm nay
đức Như Lai gạn hỏi tâm ở chỗ nào, con dùng tâm suy xét cùng tột để tìm kiếm,
cái hay suy xét đó con cho là tâm của con.
Phật bảo: - Dốt! A-nan!
Cái này không phải là tâm của ông.
A-nan hoảng sợ, rời khỏi
chỗ ngồi đứng dậy chắp tay bạch Phật:
- Cái ấy không phải là
tâm con, vậy nên gọi là gì?
Phật bảo A-nan: - Đây là
tướng tưởng hư dối của tiền trần, ông lầm cho là chân chánh. Do ông từ vô thủy
đến đời nay nhận giặc làm con, bỏ mất tánh nguyên thường của ông, nên phải bị
luân chuyển.
Ngài A-nan cho cái hay
suy nghĩ là tâm, cũng như chúng ta thường nói tâm tôi bận suy nghĩ điều này, lo
tính việc kia. Đức Phật quở rầy để chỉ thẳng cho thấy chỗ sai lầm. Cái suy nghĩ
ấy không phải là tâm chân thật, đó chỉ là tướng vọng tưởng duyên theo bóng dáng
sáu trần, che mất chân tánh chúng ta, vậy mà lâu nay lầm chấp cho nó là tâm của
mình.
Thế nào là tướng tưởng
duyên theo bóng dáng sáu trần? Ví dụ khi chúng ta đi ra đường thấy tai nạn xe
cộ, tối lại ngồi thiền những hình ảnh ấy hiện ra, nghĩ tới cảnh đó mình sợ. Rõ
ràng tâm nghĩ nhớ đó chỉ là vọng tưởng duyên theo bóng dáng của tiền trần, chứ
đâu phải tâm thật của mình. Do thấy những cảnh trên đường, ngồi nhớ lại rồi
duyên theo phân biệt. Cái duyên theo đó chỉ là hình bóng hư dối, vậy mà từ vô
thủy đến giờ lầm nhận nó là thật, chẳng khác nào nhận giặc làm con, quên mất
bản lai thường trụ, nên bị luân hồi mãi mãi.
Đoạn trước Phật vừa dạy
vừa an ủi nên ngài A-nan vẫn còn lầm chấp, đến đây bị Phật quở mạnh ngài mới
giật mình hoảng hốt. Đức Phật chỉ thẳng cho ngài A-nan vẫn còn lầm chấp, đến
đây bị Phật quở mạnh ngài mới giật mình hoảng hốt. Đức Phật chỉ thẳng cho ngài
A-nan biết, đó chỉ là vọng tưởng duyên theo bóng dáng sáu trần, nếu theo nó sẽ
tiếp tục đi mãi trong luân hồi. Muốn hết luân hồi, phải biết đó là giặc chứ
không phải là con. Tất cả chúng ta có người nào chẳng nhận giặc làm con không?
Đó là chỗ mê lầm ngàn đời ngàn kiếp. Vì nhận lầm bóng dáng tiền trần làm tâm,
nên chúng ta bị đau khổ dài dài, trôi lăn mãi trong luân hồi tới bây giờ cũng
chưa ra khỏi sanh tử.
Gốc của sanh tử luân hồi
mà chúng ta lại chấp nhận nó là mình, có đáng thương không? Vì vậy cần phải tập
buông bỏ, tức là không theo giặc thì không bị nó dẫn đi trong sanh tử nữa. Như
chiếc bè mục ở bờ biển, một số trẻ em leo lên bè mục ấy bơi ra biển chơi. Chúng
ta thấy vậy thương lo lắng nhắc nhở, để các em biết bè đó đã bị hư mục, nếu ra
xa sẽ bị sóng nhồi làm rã bè chết chìm. Cũng vậy, khi nhận biết được vọng tưởng
duyên theo bóng dáng sáu trần là gốc của luân hồi sanh tử, làm sao không thương
những người còn ngu mê lầm chấp được. Đây gọi là khởi đại bi tâm.
Vì vậy, có nhiều vị tuy
biết mình chưa đến nơi, muốn ẩn tu cho yên ổn, nhưng khi nhớ lại những người
xung quanh còn đang mê lầm, không thể ngồi yên mà tu riêng được. Do thấy rõ sự
mê lầm của mọi người nên lòng thương xót tràn đầy. Nếu thấy ai đói mình thương,
còn người no thì không thương, đó chưa phải là từ bi. Từ bi là thương hết tất
cả chúng sanh đang ở trong mê lầm không có ngày ra mà không tự biết, đây mới
thật là tâm từ bi của Bồ-tát.
Bồ-tát Địa Tạng phát
nguyện, chừng nào chúng sanh không còn trong địa ngục thì ngài mới hết bổn
phận. Hiểu được chỗ này, chúng ta thấy lời nguyện của ngài không phải vô lý.
Bởi vì thấy chúng sanh đáng thương quá, đâu thể ngồi yên bỏ mặc. Cũng như chúng
ta thấy đám trẻ nhỏ leo lên bè mục, làm sao không tìm cách bơi ra cứu chúng,
đâu nỡ nhìn chúng chết chìm ngoài biển.
Chúng ta thử kiểm lại,
trên nhân gian có mấy người biết vọng tưởng không phải là tâm chân thật của
mình? Chính trong chúng đây, có người còn chưa tin chắc, huống là những người
chưa từng nghe giảng kinh thì làm sao biết được.
A-nan bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Con là
em cưng của Phật, vì tâm yêu mến Phật nên con xuất gia. Tâm con đâu riêng cúng
dường Như Lai, cho đến trải khắp cõi nước hằng sa, phụng sự chư Phật và thiện
tri thức, phát tâm đại dũng mãnh, làm tất cả các pháp sự khó làm, đều dùng cái
tâm này. Dầu cho con có hủy báng chánh pháp, hằng lui sụt căn lành cũng nhân
tâm này. Nếu Phật phát minh đó không phải là tâm, vậy là con không có tâm, đồng
như cây như đất. Vì ngoài hiểu biết này, đâu còn gì nữa! Tại sao đức Như Lai
bảo đây không phải là tâm? Con thật là kinh sợ, và cả đại chúng này thảy đều
nghi ngờ. Cúi xin Như Lai rủ lòng đại bi chỉ dạy cho người chưa ngộ.
Dù Phật đã chỉ dạy nhưng
A-nan vẫn còn thấy cái hay suy nghĩ là tâm mình, ngài đưa ra hai trường hợp:
- Ngài xuất gia do tâm
thương mến Phật. Khi xuất gia rồi, cúng dường chư Phật, phụng thờ thiện tri
thức, nghĩ lành, làm việc lành v.v... đều dùng cái tâm suy nghĩ này.
- Giả sử ngài nghĩ điều
ác, làm việc xấu cũng là tâm này.
Nghĩ thiện nghĩ ác đều
từ tâm này, bây giờ Phật nói đó không phải là tâm, vậy là mình chẳng có tâm,
đồng như cây đất sao? Lìa hiểu biết ấy không còn gì nữa, vậy lấy gì mà tu? Tại
sao Phật lại nói như thế, chính chỗ này làm ngài A-nan hoảng hốt.
Lâu nay chúng ta thường
cho rằng cái hay suy nghĩ làm thiện làm ác là tâm của mình. Nên khi không suy
nghĩ, không tính toán gì thì tưởng như mình không có tâm, do đó lầm lẫn trên
đường tu. Vì vậy đây không chỉ là chỗ lầm của ngài A-nan, mà cũng chính là chỗ
sai lầm của tất cả chúng ta.
Đoạn trước, đức Phật đã
chỉ rất rõ ý nghĩa hai thứ căn bản sanh tử và Bồ-đề Niết-bàn, nhưng ngài A-nan
vẫn không biết. Cũng có thể ngài vì muốn làm lợi ích chúng sanh đời sau, nên
thị hiện chưa hiểu để nài nỉ Phật chỉ dạy thật kỹ thật rõ cho người sau dễ hiểu
mà ứng dụng tu tập.
Bấy giờ, đức Thế Tôn chỉ
dạy cho A-nan và đại chúng, muốn khiến cho tâm vào vô sanh pháp nhẫn, nên ở
trên tòa sư tử xoa đầu A-nan mà bảo rằng:
- Như Lai thường nói,
các pháp sanh ra chỉ do tâm hiện; tất cả nhân quả, thế giới, vi trần cũng nhân
tâm mà thành thể. Này A-nan! Như tất cả những thứ có trong các thế giới, cho
đến lá cây, cọng cỏ, sợi dây, cái gút, tìm căn nguyên của nó đều có thể tánh;
dù cho hư không cũng có tên, có tướng, huống là tâm sáng suốt thanh tịnh nhiệm
mầu, là tánh của tất cả tâm mà không có tự thể sao? Nếu ông chấp chặt cái hay
biết suy xét phân biệt, quyết cho là tâm ông, tâm này lẽ ra khi lìa tất cả các
sự nghiệp trần cảnh: sắc, hương, vị, xúc v.v... riêng có toàn tánh.
Phật xoa đầu an ủi A-nan
rồi mới chỉ dạy, vì biết rằng đây là chỗ khó hiểu, khó thấu đáo.
Đức Phật chỉ cho thấy
rõ, tất cả sự vật trên thế gian này, truy nguyên đều có nguồn gốc, huống chi là
tánh thanh tịnh của mình. Nếu chấp chặt vào cái hiểu biết phân biệt đối với
ngoại cảnh cho đó là tâm thì tâm này khi rời tiền trần phải có tự tánh riêng
biệt. Nếu rời sáu trần chẳng còn thì không thật là tâm. Đây là chỗ cần phải lưu
ý.
Chúng sanh do chấp những
thứ không thật làm mình nên đi mãi trong luân hồi. Nay muốn được Vô sanh pháp
nhẫn, phải biết cái gì lìa ngoài sáu trần mà vẫn thường hằng. Nếu nhận được
tánh phân biệt sẵn có thì nơi sáu trần mặc tình đi lại, không hề dính dáng. Đây
là Phật đại từ đại bi phương tiện chỉ thẳng, muốn cho chúng sanh dứt sạch nghi
lầm. Như vậy mới thấy Phật với Tổ chẳng hai, kinh và thiền không khác.
Như nay ông lắng nghe ta
nói pháp, đó là nhân nơi tiếng mà có phân biệt. Dù dứt tất cả thấy nghe hiểu
biết, giữ cái thầm lặng bên trong cũng vẫn là việc phân biệt bóng dáng pháp
trần.
Năm trần trước do năm
căn tiếp xúc mà có nhận biết, còn pháp trần là đối tượng của ý thức. Khi ý thức
hơi yên, tuy không chạy ra ngoài nhưng bên trong vẫn còn lăng xăng, phân biệt
những bóng dáng của pháp trần. Chỗ u nhàn mờ mờ lặng đó, mình tưởng là tới nơi,
chứ sự thật đây vẫn là việc phân biệt bóng dáng pháp trần.
Ta không bảo ông chấp là
chẳng phải tâm. Nhưng đối với tâm này, ông phải chín chắn suy xét. Nếu lìa tiền
trần mà có tánh phân biệt mới thật là tâm ông; còn nếu lìa tiền trần, tánh phân
biệt không có tự thể, đây ắt là việc phân biệt bóng dáng tiền trần.
Đoạn này rất hệ trọng.
Không phải Phật bác hiểu biết chẳng phải là tâm, vì biết chính là tâm, nhưng
Phật dạy phải suy nghĩ chín chắn. Lâu nay chúng ta luôn chấp suy nghĩ là tâm,
nên khi nghe Phật nói suy nghĩ không phải là tâm chân thật của mình, liền hoảng
hốt cho như vậy là không có tâm, do đó rơi vào bệnh chấp không.
Đức Phật muốn chỉ cho
thấy thật rõ, nếu sự phân biệt do các căn tiếp xúc trần cảnh mới có thì nó
thuộc về bóng của trần, là tướng sanh diệt. Nếu phân biệt rời sáu trần riêng
có, đó mới thật là tâm. Ví dụ lúc chúng ta thấy cảnh vật hoặc nghe ai nói mới
khởi phân biệt, phân biệt đó do duyên mới có, nên thuộc về sanh diệt. Khi sắc
trần, thanh trần... không có, mà vẫn biết rõ ràng sáng suốt, đây mới thật là
tâm mình.
Thiền sư Huyền Giác đến
tham kiến Lục Tổ. Sau khi được Tổ ấn chứng, ngài xin trở về liền. Lục Tổ bảo:
Trở về chóng vậy? Huyền Giác thưa: Vốn tự không động, há có mau ư? Lục Tổ bảo:
Ai biết chẳng động? Huyền Giác thưa: Nhân giả tự sanh phân biệt. Tổ bảo: Ngươi
được ý vô sanh rất sâu. Ngài liền hỏi lại: Vô sanh há có ý sao? Tổ bảo: Nếu
không ý thì ai biết phân biệt? Huyền Giác thưa: Phân biệt cũng không phải
ý. Tổ khen: Lành thay!
Khi chúng ta thấy người
hay vật rồi khởi niệm phân biệt thế này thế kia, đây là A là B, tánh tình ra
sao thế nào v.v... từng niệm từng niệm sanh diệt, suy nghĩ đó thuộc về ý thức
phân biệt. Nếu nhìn thấy tất cả, đèn ra đèn, bàn ra bàn, người ra người... cái
gì ra cái ấy mà không thêm một niệm nào, thấy biết rõ ràng nhưng không động,
đây cũng là phân biệt mà không phải ý.
Nghe nói phân biệt cũng
không phải ý, chúng ta thấy khó hiểu quá. Nay tôi tạm dùng ví dụ, như người hay
vật hiện bóng trong gương, trắng hiện ra trắng, đen hiện ra đen, cao hiện thấy
cao, thấp hiện thấy thấp. Phân biệt hình bóng rõ ràng nhưng gương không hề
động.
Kinh và thiền nói không
khác nhau. Trong kinh đức Phật chỉ cho thấy, nếu thật là tâm mình thì không đợi
có sáu trần mới phân biệt. Lâu nay chúng ta cứ lầm tưởng có suy xét, phê phán
đẹp xấu... mới gọi là phân biệt, mà không biết đó là phân biệt của ý thức. Thấy
biết phân biệt sẵn có này luôn hiện hữu, dù có trần cảnh hay không. Như con mắt
vẫn hằng thấy, không đợi có sắc rồi khởi phân biệt đẹp xấu mới thấy. Hoặc khi
nhìn lên trời, có mây hay không mây chúng ta vẫn thấy biết rõ ràng, chứ không
phải có mây mới thấy, không mây nói không thấy. Phật chỉ dạy rất rõ, nếu ngay
đây sáng được tức đã nhận ra tâm chân thật bất sanh bất diệt nơi mình.
Trần thì chẳng thường
trụ, khi nó biến mất, tâm này đồng với lông rùa sừng thỏ thì pháp thân ông đồng
với đoạn diệt, vậy lấy gì để tu chứng vô sanh pháp nhẫn?
Trần thuộc về sanh diệt
nên không thường trụ. Nếu chấp bóng dáng duyên theo trần là tâm thì giống như
lông rùa sừng thỏ là thật có. Như vậy pháp thân cũng đồng với đoạn diệt.
Ngay nơi mỗi chúng ta
đều có pháp thân. Pháp thân đó rời tiền trần vẫn có phân biệt, lúc nào cũng
hiện hữu, là chân tâm của chính mình. Nếu rời tiền trần, tánh phân biệt mất đi
thì pháp thân đồng với đoạn diệt, lấy gì để tu chứng vô sanh pháp nhẫn? Vô sanh
pháp nhẫn là thấu rõ lý không sanh không diệt của các pháp, trong tất cả cảnh
đều an trụ tâm như như bất động. Như vậy, pháp thân không phải gì lạ, không
phải khó nhận, tất cả chúng ta người nào cũng đều sẵn có mà quên.
Như gương phản chiếu các
hình tượng bên ngoài. Khi nhìn vào gương, chúng ta thường để ý hình bóng mà
không nhớ tới mặt gương, chỉ khi nào không có hình bóng mình mới thấy mặt
gương. Dù hiện trăm ngàn hình bóng, mặt gương cũng chưa từng vắng. Do cứ duyên
theo những hình bóng nên quên mất mặt gương mà thôi. Cũng vậy, có bóng dáng sáu
trần là chúng ta lệ thuộc vào đó mà quên chỗ chân thật của mình, chừng nào bóng
dáng sáu trần lặng rồi, mặt thật xưa nay mới hiện.
Khi ấy, A-nan cùng đại
chúng lặng thinh, tự mất.
Nghe tới đây tại sao
ngài A-nan và đại chúng lặng thinh, tự mất? Bởi lâu nay chấp cái hay suy nghĩ
là tâm, bây giờ nghe Phật nói đó chẳng phải tâm, biết mà chưa nhận được nên làm
thinh. Tuy chưa nhận ra, nhưng những lầm chấp trước kia đến đây không còn nữa,
nên nói tự mất.
Phật bảo A-nan:
- Tất cả những người tu
học trong thế gian, hiện tiền tuy được cửu thứ đệ định mà không được lậu tận
thành A-la-hán, đều do chấp vọng tưởng sanh tử này, lầm cho là chân thật. Thế
nên, nay ông tuy học rộng nghe nhiều mà không thành thánh quả.
Cửu thứ đệ định là chín
thứ lớp định, gồm có:
1. Sơ thiền
2. Nhị thiền
3. Tam thiền
4. Tứ thiền
5. Không vô biên xứ
6. Thức vô biên xứ
7. Vô sở hữu xứ
8. Phi tưởng phi phi
tưởng xứ
9. Diệt thọ tưởng định
A-nan nghe rồi lại buồn
khóc, năm vóc gieo xuống đất, quỳ gối chắp tay bạch Phật rằng:
- Từ khi con theo Phật
phát tâm xuất gia, chỉ ỷ lại oai thần của Phật, thường tự suy nghĩ con không
cần phải tu hành nhọc nhằn, cho rằng Như Lai sẽ ban cho con tam-muội. Chẳng
biết thân tâm vốn không thể thay nhau, bỏ mất bản tâm của con, nên tuy thân
xuất gia mà tâm không vào đạo, ví như người cùng tử bỏ cha trốn đi lang thang.
Ngày nay mới biết, tuy được học rộng nếu không tu hành thì cùng người không học
giống nhau, như người nói ăn trọn chẳng thể no.
A-nan than thở rất cảm
động, ngài nghĩ rằng mình là anh em của Phật, hiện tại lo hầu Phật là đủ rồi,
Phật thương sau này sẽ cho ngài được chánh định, đâu cần tu hành. Bấy giờ nghe Phật
nói thân tâm còn không thể thay thế nhau, huống là người khác làm sao ban cho
mình được, ngài mất đi tâm ỷ lại ngày trước.
Ngài A-nan không những
là em mà còn là thị giả của Phật, vậy mà Phật không cứu được. Chúng ta cách
Phật hơn hai nghìn rưỡi năm, việc gì cũng cầu Phật cứu thì thật vô lý. Cứ một
bề ỷ lại vào Phật là điều hết sức sai lầm. A-nan đến chỗ này mới thấy mình thân
tuy xuất gia mà tâm chưa vào đạo, tức chưa thể nhập vô sanh pháp nhẫn, như cùng
tử bỏ cha mà đi. Chúng ta cũng vậy, cha mẹ là trưởng giả giàu có mà mình bỏ đi
làm cùng tử, ăn mày rách rưới. Nếu cha mẹ không đủ cơm ăn mình bỏ đi lập nghiệp
thì không có lỗi gì, đằng này cha mẹ giàu có hơn người mà lại bỏ đi lang thang
chịu cảnh nghèo đói, quả thật đáng thương!
Cha mẹ là gì? Là kho báu
nhà mình. Chúng ta có sẵn kho báu mà không biết, bỏ đi không khai thác để phải
chịu nghèo đói. Trọn ngày theo đuổi bóng dáng của tiền trần, nắm bắt những thứ
giả dối tạm bợ hư ảo, để rồi một mai nó hoại mình cũng hoại theo. Hoại xong lại
tiếp tục nắm bắt cái khác, cứ vậy mà lang thang trong các nẻo luân hồi dài dài
đời này kiếp nọ, còn của báu bất sanh bất diệt thì lại bỏ quên.
Ngài A-nan nghe Phật nói
mới biết, nếu không chịu tu hành thì tuy học rộng nghe nhiều cũng như người
không học. Bởi hiểu mà không tu thì đâu đưa đến kết quả, giống như
người nói ăn trọn chẳng thể no. Giả sử có người thuộc tên nhiều món ăn
nào là chả giò, bánh tráng, bánh hỏi... toàn thức ăn ngon. Người đó kể từ sáng
tới trưa mà không ăn thì bụng có no không? Không thể no được. Cũng vậy, chúng
ta hiểu đạo nhưng không ứng dụng tu thì không thể cứu được nghiệp của mình, có
tu mới chuyển được nghiệp.
Một số người ỷ lại vào
học rộng biết nhiều, mở miệng ra nói Bồ-đề, Niết-bàn, chân như, Phật tánh...
nhưng chỉ nói trên danh từ chứ thật sự chưa biết Bồ-đề, chưa nhận ra chân như
là gì, chẳng khác nào người suốt ngày nói ăn mà bụng vẫn đói. Lâu nay chúng ta
quen quan niệm phải học thật nhiều, không trong sự tu hành thì ngược lại, dám
bỏ hết sở học, vọng tưởng không sanh mới thật là học đạo.
Bạch Thế Tôn! Ngày nay
chúng con bị hai chướng trói buộc, do vì không biết được tâm tánh lặng lẽ
thường trụ. Cúi mong Như Lai thương xót kẻ cùng khổ, phát khởi tâm nhiệm mầu
sáng suốt mở con mắt đạo cho chúng con.
Hai chướng là phiền não
chướng và sở tri chướng. Do hai chướng này trói buộc nên không biết được tâm
tánh thường hằng vắng lặng của mình.
Liền khi ấy, từ chữ Vạn
trên ngực đức Như Lai, phóng ra một đạo hào quang báu. Hào quang ấy sáng rỡ, có
trăm ngàn màu sắc, một lúc soi khắp các thế giới chư Phật mười phương nhiều như
số vi trần. Hào quang chiếu khắp trên đảnh chư Như Lai ở các cõi Phật trong
mười phương rồi trở lại soi đến A-nan và đại chúng. Phật bảo A-nan rằng:
- Nay ta vì ông dựng lập
pháp tràng lớn, cũng khiến cho tất cả chúng sanh trong mười phương được tâm
tánh trong sáng sâu kín nhiệm mầu, được con mắt đạo thanh tịnh.
Đoạn trước đức Phật
phóng quang ở cửa mặt, tượng trưng cho trí tuệ Phật. Đến đây Phật phóng quang
từ chữ Vạn trên ngực, tượng trưng cho Như Lai tàng tâm, soi rọi khắp cả chư Phật.
Tất cả chư Phật đều cùng một tâm này, ngài A-nan và đại chúng cũng cùng tâm
này. Hào quang chiếu khắp trên đầu chư Phật, trở lại soi trên đầu A-nan và đại
chúng, để nói lên rằng tất cả mọi người đều sẵn có Như Lai tàng tâm chứ không
phải riêng Phật mới có.
1. Tánh thấy biết chính
là tâm
- Này A-nan, trước ông
trả lời với ta là thấy nắm tay sáng rỡ. Vậy nắm tay sáng rỡ này nhân đâu mà có?
Vì sao mà thành nắm tay? Ông dùng cái gì mà thấy?
Đoạn trước Phật đưa nắm
tay lên, A-nan nói nắm tay của Phật sáng rỡ, nên ở đây đức Phật nhắc lại để
hỏi.
A-nan thưa: - Do toàn
thân Phật như vàng Diêm-phù-đàn, sáng rỡ như hòn núi báu, từ trong sạch sanh
ra, nên có hào quang chiếu sáng. Con thật dùng mắt xem thấy năm ngón tay của
Phật co nắm lại để chỉ cho người, nên có tướng nắm tay.
Phật bảo A-nan: - Hôm
nay Như Lai thật bảo ông, những người có trí cần do ví dụ mà được khai ngộ. Này
A-nan! Ví như nắm tay của ta, nếu không có bàn tay thì không thành nắm tay, nếu
không có con mắt của ông thì không thành cái thấy của ông. Lấy con mắt ông so
với nắm tay ta, nghĩa lý đó có đồng chăng?
Nếu Phật hỏi chúng ta,
chúng ta cũng thấy điều này hợp lý. Do có bàn tay mới có nắm tay, cũng như do
có con mắt nên mới có thấy. Phật khéo dùng ví dụ để ngài A-nan thừa nhận, sau
đó mới chỉ dạy.
Đây là những chỗ phát
minh rất lý thú, mà người học nhiều khi không khéo thấy. Ngày xưa học đến đoạn
này tôi rơi nước mắt, vì thấy thật lạ thường, ở đời không bao giờ được nghe
những điều này. Người đời trăm người như một, ai cũng nói do có mắt mình mới thấy.
Nhưng ở đây Phật chỉ ra một điều đặc biệt khiến chúng ta phải giật mình.
A-nan thưa: - Bạch Thế
Tôn! Đúng vậy. Không có con mắt của con thì không thành cái thấy của con. Đem
con mắt của con so với nắm tay của Phật, nghĩa ấy đồng nhau.
Phật bảo A-nan: - Ông
nói đồng nhau, nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Như người không bàn tay thì hẳn là
không có nắm tay. Còn người không có con mắt kia, chẳng phải hoàn toàn không
thấy.
Chúng ta luôn nghĩ rằng
bởi có bàn tay nên có nắm tay, có con mắt mới có thấy. Nhưng Phật quở, không
con mắt chẳng phải là không thấy. Điều này ngược lại với tất cả những gì lâu
nay mình hiểu. Đâu có ai nói người mù thấy, nhưng ở đây Phật bảo người không có
con mắt kia chẳng phải hoàn toàn không thấy, chúng ta làm sao hiểu được?
Phật nói người mù không
phải hoàn toàn không thấy, đây có phải là một phát minh trọng đại không? Nếu
nhận ra được cái thấy của người mù thì quả là điều hy hữu, mà cũng rất ngược
ngạo với thế gian, vì thế gian cho rằng người mù không thấy. Nói người mù vẫn
thấy, không phải Phật ngụy biện để điều ngược ngạo đó trở thành hữu lý cho
chúng ta tin, mà chính là Phật chỉ rõ sự lầm lẫn từ ngàn xưa. Chúng ta thường
mắc kẹt vào những hình thức vật chất, cho đó là nguyên nhân của sự hiểu biết,
là cơ quan để hiểu biết. Nên khi cơ quan có hình tướng đó hư, chúng ta đinh
ninh nó không còn biết nữa, mà không ngờ cái biết đó không bao giờ mất.
Như ngọn đèn điện này,
khi có điện nó sáng, đến lúc bóng đèn bị hư nó tắt. Tắt đó là điện hết hay còn?
Điện vẫn còn. Đèn không sáng là do bóng đèn hư chứ không phải không có điện, đó
là chỉ thấy bên ngoài mà không thấy được tế nhị bên trong. Cũng vậy, con mắt là
cơ quan để thấy, nhưng biết được những hình ảnh ở ngoài là nhờ cái bên trong,
không phải con mắt. Chúng ta nói con mắt thấy là kẹt trong vật chất, là hiểu
lầm. Tất cả mọi người đều hiểu lầm như vậy.
Chính vì kẹt trong vật
chất, nên chúng ta luôn bị vật chuyển. Nếu nhận ra được cái biết của mình không
bao giờ mất, chúng ta sẽ rõ tâm là chủ tất cả vật, không phải vật là chủ của
tâm. Đây là chỗ tối quan trọng. Chúng ta phải đem hết tâm tư nhận ra lẽ thật
này, để có được niềm tin vượt ngoài tầm thường của thế gian.
Bởi tại sao? Ông thử ra
đường hỏi những người mù: "Anh thấy cái gì?" Những người mù kia ắt sẽ
đáp với ông: "Nay trước mắt tôi chỉ thấy tối đen, không thấy gì
khác." Lấy nghĩa này quán xét thì tiền trần tự tối, chứ cái thấy nào có
thiếu kém.
Người mù nói trước mắt
chỉ thấy tối đen. Như vậy thấy tối đen đó là do cảnh ở trước tối chứ cái thấy
đâu có mất. Nói không thấy là không thấy sáng bên ngoài nhưng vẫn thấy tối ở
trong. Người mù nói thấy tối đen, chứng minh là người mù vẫn thấy, bởi có thấy
nên mới nói thấy tối đen. Ngài A-nan không bằng lòng, vặn lại.
A-nan thưa: - Những
người mù trước mắt chỉ thấy tối đen thì làm sao mà thành thấy?
Phật bảo A-nan: - Những
người mù không mắt chỉ thấy tối đen, cùng với người có mắt sáng ở trong nhà
tối, hai cái tối ấy khác nhau hay không khác?
- Bạch Thế Tôn! Đúng
vậy, người mắt sáng ở trong nhà tối, cùng với những người mù, đem hai cái tối
so với nhau không hề có khác.
Người mù thấy tối đen
quờ quạng, người mắt sáng vô nhà tối đen cũng quờ quạng. Hai việc giống hệt
nhau. Người mù thấy tối, người không mù cũng thấy tối, cái thấy tối này không
khác.
- A-nan! Nếu người mù
thấy phía trước hoàn toàn tối đen, chợt được sáng mắt, đối với tiền trần lại
thấy được những thứ hình sắc, gọi là mắt thấy. Vậy thì người mắt sáng ở trong
nhà tối kia, thấy trước mắt toàn tối đen, chợt được đèn sáng, đối với tiền trần
cũng thấy các thứ hình sắc, lẽ ra nên gọi là đèn thấy.
Phật đưa ví dụ rất hay!
Nếu người mù có thuốc trị mắt được lành thì thấy cảnh trước mắt rõ ràng, gọi là
mắt thấy. Vậy người mắt sáng ở trong nhà tối, lúc đốt đèn lên thấy cảnh vật ở
trước mắt cũng nên gọi là đèn thấy. Nhưng đèn có thấy không? Không ai nói đèn
thấy hết. Phật đưa ra ví dụ cụ thể rồi kết thúc.
Nếu là đèn thấy thì đèn
hay có thấy, tự không gọi là đèn. Lại nữa, nếu đèn thấy thì đâu có quan hệ đến
việc của ông? Thế nên phải biết, đèn hay hiển bày các hình sắc, còn thấy là mắt
chứ không phải đèn. Mắt hay hiển sắc, như vậy tánh thấy là tâm chứ chẳng phải
mắt.
Rõ ràng như thế. Đèn chỉ
làm sáng tỏ các vật, còn thấy là mắt chẳng phải đèn. Cũng vậy, con mắt là cơ
quan để những hình sắc bên ngoài phản ánh vào, còn biết phân biệt được những
hình ảnh đó chính là tâm không phải mắt.
Như ngọn đèn điện này,
khi có điện thì sáng, nếu bóng đèn bị hư thì tắt, như vậy đèn tối là do bóng bị
hư, chứ không phải không có điện. Nhờ có điện nên bóng đèn mới sáng, vậy mà lâu
nay chúng ta chỉ thấy bóng đèn sáng mà không nhớ tới điện. Đó là chỉ thấy bên
ngoài, không thấy cái tế nhị bên trong. Cũng vậy, con mắt là cơ quan để thấy,
nhưng biết được những hình ảnh ở ngoài là nhờ cái bên trong chứ không phải con
mắt. Nói con mắt thấy là tâm.
Chúng ta thường tưởng
thấy là mắt, nên khi con mắt bị hư, hình sắc bên ngoài không rọi vào được, gọi
là không thấy. Cũng như bóng đèn hư nên không phát sáng, sự thật điện không hề
mất. Đèn chỉ là công cụ để điện phát ra chứ không phải đèn là điện.
Người mắt hư thì cái
biết của mắt sẽ thông qua những chỗ khác, như lỗ tai, bàn tay v.v... Mất một cơ
quan thì các cơ quan còn lại sẽ hoạt động mạnh hơn. Như chúng ta từng tiếp xúc
với ai thì sau thấy mặt mới nhớ, còn người mù không cần thấy chỉ nghe tiếng là
biết liền. Bàn tay của họ cũng rất nhạy. Những năm tôi giảng ở Vũng Liêm, có
thầy trụ trì mù hai mắt từ thuở nhỏ, đánh cờ rất giỏi. Sắp cờ xong, thấy rờ các
con cờ rồi bắt đầu đi nước cờ, ít ai thắng được thầy. Như vậy, khi một cơ quan
bị hư, cái biết không phải mất.
Tất cả chúng ta đều có
cái thấy hằng hữu, tối hay sáng đều thấy, có mắt cũng thấy, không mắt vẫn thấy.
Gọi người mù vì mắt bị hư, chứ không phải không có cái biết thấy. Hiểu vậy rồi
mới biết, ngay nơi sáu căn tâm trùm khắp. Sáu căn chỉ là cơ quan, qua đó tâm
hiển phát.
Khi thấy khi nghe đều có
biết, thế thì tại sao nói "tôi suy nghĩ, tôi mới biết"? Suy nghĩ là
cái biết sanh diệt, biến động. Ngay nơi mắt tai mình luôn có cái biết hiện hữu,
vừa thấy liền biết, vừa nghe liền biết. Như thiền sư nói cây gậy là cây gậy...
Cây gậy biết là cây gậy, hoa hồng biết là hoa hồng. Thấy biết này không thêm
suy nghĩ nên không thuộc tướng sanh diệt.
Kinh Lăng-nghiêm gọi sáu
cơ quan là lục hòa hợp, phát xuất từ nhất tinh minh. Sáu cơ quan chỉ là chỗ làm
duyên tụ hội của ngoại cảnh và nội tâm chứ không phải là gốc của cái biết. Thấy
biết chính là tự tâm, nương gá vào sáu cơ quan vật chất mà hiển phát. Nếu cái
thấy là vật chất thì người chết, phần vật chất chưa mất, tại sao không thấy? Do
chỗ lầm chấp này nên không nhận ra mình còn có cái sâu kín lạ thường ở trong.
Đức Phật muốn chỉ thẳng
cái biết không bao giờ mất mà lâu nay lại bỏ quên. Nếu từ sáu căn này mà nhận
ra được, đó là phát minh điều thế gian chưa bao giờ biết. Dù mắt, tai, mũi...
bị hư hoại thì cái biết của sáu căn cũng không mất. Cho đến khi người ta tắt
thở, các cơ quan vật chất này tan rã, cái biết cũng không mất. Đây là điều
trọng yếu mà chúng ta cần phải nhận ra.
A-nan cùng với đại chúng
tuy được nghe lời này, miệng đã lặng thinh mà tâm chưa khai ngộ, vẫn mong Như
Lai dùng từ âm chỉ dạy, nên chắp tay lắng lòng trông chờ Phật thương xót dạy
bảo.
Chỗ này chúng ta giống
ngài A-nan, nghe Phật nói rõ ràng như vậy, miệng không còn gì để cãi nữa nhưng
tâm vẫn chưa khai ngộ.
2. Tánh thấy không động
Khi ấy, Thế Tôn duỗi
cánh tay đâu-la-miên sáng rỡ, xòe năm ngón ra bảo A-nan và đại chúng:
- Lúc ta mới thành đạo ở
trong vườn Lộc Dã, vì năm vị Tỳ-kheo A-nhã-đa v.v... và bốn chúng các ông, nói
rằng tất cả chúng sanh không thành Bồ-đề và A-la-hán, đều do khách trần phiền
não làm mê lầm. Chính khi đó, các ông nhân đâu được khai ngộ mà ngày nay thành
thánh quả?
Khi ấy Kiều-trần-na đứng
dậy bạch Phật:
- Nay con là Trưởng lão,
ở trong đại chúng riêng được tên là Giải, nhân ngộ hai chữ khách trần mà thành
đạo quả.
Kiều-trần-na thường được
gọi là A-nhã Kiều-trần-như. A-nhã dịch là Giải. Hội thuyết pháp đầu tiên Phật
nói cho năm anh em Kiều-trần-như nghe. Khi Phật nói Tứ đế xong, ngài
Kiều-trần-như là người hiểu trước nhất, nên được Phật khen là Giải đệ nhất.
Bạch Thế Tôn! Ví như
người khách đi đường dừng nghỉ ở quán trọ, hoặc để ngủ hoặc để ăn, việc ăn ngủ
xong rồi, sửa soạn hành trang lên đường không ở lại nữa. Nếu thật là người chủ
thì họ không đi đâu. Như vậy con suy nghĩ: không dừng trụ gọi là khách, còn trụ
gọi là người chủ. Do không dừng trụ nên có nghĩa khách.
Lại khi trời mưa mới
tạnh, mặt trời lên cao trong trẻo, ánh sáng soi vào các kẽ hở hiện rõ các tướng
bụi trần trong hư không. Tính chất của bụi trần thì dao động còn hư không lặng
yên. Như thế con suy nghĩ: Lặng yên gọi là hư không, dao động gọi là bụi trần.
Do dao động nên có nghĩa trần.
Đức Phật thật khéo léo,
trước khi muốn chỉ dạy một điều gì, ngài thường đưa ra những hình ảnh cụ thể,
hoặc nêu lời người khác nói để minh chứng. Ở đây Phật mượn lời ngài
Kiều-trần-như giải thích nghĩa khách trần. Cái gì có đến đi là khách, dao động
là trần, thuộc về tạm bợ hư giả. Còn an trụ là chủ, tịch tĩnh là hư không thì
thường còn. Như vậy khi nói khách là hàm ý có chủ trong đó, khi nói trần là hàm
ý có hư không. Trần thì dao động, hư không lặng lẽ; khách có đến đi, còn chủ
thường ở. Hai nghĩa động tịnh rõ ràng.
Phật bảo: - Đúng thế?
Liền đó, Như Lai ở trong
đại chúng co năm ngón tay, nắm rồi lại xòe, xòe rồi lại nắm. Ngài hỏi A-nan: -
Nay ông thấy gì?
A-nan thưa: - Con thấy
bàn tay trăm báu của Như Lai ở trong chúng xòe ra rồi nắm lại.
Phật bảo A-nan: - Ông
thấy tay ta ở trong chúng xòe nắm, đó là tay ta có xòe có nắm hay cái thấy của
ông có xòe có nắm?
A-nan thưa: - Tay báu
của đức Thế Tôn ở trong chúng xòe nắm. Con thấy tay Như Lai tự xòe nắm, chứ
không phải tánh thấy của con có xòe có nắm.
Phật hỏi: - Cái nào
động, cái nào tịnh?
A-nan thưa: - Tay Phật
không dừng, tánh thấy của con còn không tịnh thì đâu có gì là động.
Phật bảo: - Đúng thế!
Ở đây đức Phật chỉ cho
biết có cái bất sanh bất diệt ở ngay nơi mình, không phải nghĩa lý tầm thường.
Tuy nhiên ít người đọc kinh Lăng-nghiêm thấy được chỗ quan trọng này. Trước
Phật có nói cái gì động là khách là trần, thuộc về sanh diệt, còn tánh thấy
không động tức không sanh diệt. Vậy mà chúng ta lại bỏ quên cái không sanh diệt,
chạy theo sanh diệt!
Bấy giờ từ trong lòng
bàn tay của đức Như Lai phóng ra một đạo hào quang báu đến bên phải A-nan,
A-nan liền xoay đầu qua phải nhìn. Phật lại phóng một đạo hào quang đến bên
trái A-nan, A-nan lại xoay đầu qua trái nhìn. Phật hỏi A-nan:
- Đầu ông hôm nay cớ sao
dao động?
A-nan thưa:
- Con thấy Như Lai phóng
hào quang báu nhiệm mầu đến bên phải bên trái con, nên con nhìn sang trái sang
phải, khiến đầu tự dao động.
- A-nan! Ông nhìn hào
quang Phật, đầu xoay qua phải qua trái. Vậy đầu của ông động hay cái thấy động?
- Bạch Thế Tôn! Đầu con
tự dao động chứ tánh thấy của con còn không có dừng, nói gì là dao động.
Phật bảo: - Đúng thế!
Đây có hai trường hợp:
Trường hợp thứ nhất, tay
của Phật, chỉ cho trần cảnh. Tay Phật xòe nắm là động, còn cái thấy của ngài
A-nan không động.
Trường hợp thứ hai, đầu
ngài A-nan, chỉ cho thân. Đầu ngài A-nan xoay qua xoay lại là động, còn cái
thấy không hề dao động.
Động là trần, là khách.
Không động là hư không, là chủ. Động thì phiền não, tạm bợ. Không động tức chân
thật, thường hằng.
Như vậy ngang đây Phật
đã chỉ thẳng tánh thấy nơi mỗi chúng ta. Tánh thấy này không động, không bị
phiền não che đậy.
Khi ấy đức Như Lai bảo
khắp đại chúng:
- Nếu lại có chúng sanh
cho cái dao động gọi là trần, cho không dừng trụ gọi là khách. Các ông xem đầu
của A-nan tự dao động, còn cái thấy không động. Lại nữa, các ông xem tay ta tự
xòe nắm, còn cái thấy không có co mở. Tại sao nay các ông lại lấy cái động làm
thân, lấy động làm cảnh? Từ đầu đến cuối niệm niệm sanh diệt, quên mất chân
tánh, làm việc điên đảo; đã bỏ mất tâm tánh chân thật, còn nhận vật làm mình,
luân hồi trong ấy tự chịu sự lưu chuyển.
Đoạn này đức Phật mượn
hình ảnh khách và trần để chỉ ra cái gì động là tạm bợ, không động là chân
thật. Ngài lại dùng bàn tay xòe nắm để chỉ bàn tay dao động, còn cái thấy được
bàn tay không hề động. Kế đến Phật phóng hào quang bên trái bên phải, ngài
A-nan xoay đầu nhìn qua lại, để chỉ cho thấy thân là tướng dao động tức tạm bợ,
còn cái thấy không động tức thường trụ.
Chúng ta thường chấp
thân làm ngã, cảnh là ngã sở, rồi lo bám giữ thân cảnh ấy. Thân và cảnh đều
thuộc khách trần sanh diệt, còn tánh thấy không sanh diệt chúng ta lại bỏ quên
không chịu nhận. Chúng ta mải đuổi bắt trần cảnh bên ngoài để bồi đắp cho thân,
nhưng cuối cùng nó cũng hoại diệt. Hai thứ này diệt, vọng tưởng duyên theo bóng
dáng tiền trần cũng diệt, như vậy cả ba thứ này rõ ràng đều thuộc về sanh diệt.
Hiện nay chúng ta sống
không ngoài trần cảnh, sắc thân và vọng tưởng duyên theo trần cảnh, cho đó là
quan trọng. Tưởng rằng ngoài ba thứ này không còn gì để sống, nên cứ một bề đắm
đuối theo chúng, vì vậy việc tu hành chẳng thể thành tựu đạo quả. Những thứ
sanh diệt mà cứ lo giữ, chẳng phải mê lầm là gì, cho nên Phật quở: Tại
sao nay các ông lại lấy cái động làm thân, lấy động làm cảnh?
Cảnh và thân vô thường
biến hoại lại nhận là thật, nếu thật thì đâu có vô thường. Từ trước đến nay
nhận lầm như vậy nên cứ theo niệm niệm sanh diệt mà mất đi chân tánh. Niệm niệm
sanh diệt là những vọng tâm duyên theo thân cảnh dao động, chạy theo động bỏ
quên chân tánh yên tịnh sẵn có nơi mình, làm những việc điên đảo. Lấy giả làm
thật, lấy động làm tịnh, đó là điên đảo. Tâm tánh chân thật lại không chịu nhận
nên nói bỏ sót. Thân tứ đại đất nước gió lửa là vật vô thường biến hoại lại
nhận làm thân mình, nên ở trong luân hồi tự chịu luân chuyển.
Do chúng ta lấy tâm cảnh
vọng động làm thân tâm mình, nên bị lưu chuyển quay cuồng, đi trong luân hồi
đời đời kiếp kiếp không dừng, mất thân này liền chụp thân khác không kể tốt
xấu. Chính khi nhận được chỗ này, chúng ta mới thấy bao nhiêu đời kiếp mình đã
sống theo dao động sanh diệt, mà không nhận ra cái chân thật bất động ngay nơi
mình. Nếu biết trở lại tâm chân thật thường hằng không dao động, tức là sống
với pháp thân bất sanh bất diệt của chính mình thì thoát khỏi luân hồi.
Như vậy đoạn này đức
Phật đã chỉ rất rõ ràng cụ thể. Phật chỉ thẳng tánh thấy, vì dễ biết dễ nhận,
để chúng ta rõ được ngay nơi mình có cái không hề sanh diệt, không bị luân hồi,
dao động. Còn tất cả cảnh, thân và ý thức đều là tướng động. Nếu không chạy
theo cảnh theo thân, không bị ý thức lôi cuốn thì chúng ta sống được với cái
thật nơi chính mình.
Kinh Lăng-nghiêm đối với
nhà thiền rất gần gũi. Các vị thiền sư luôn bảo thấy cứ thấy, nghe cứ nghe,
ngửi cứ ngửi, nếm cứ nếm... đừng thêm ý thức phân biệt. Như gương, Hồ đến hiện
Hồ, Hán đến hiện Hán. Gương hiện tất cả hình bóng, trắng ra trắng, đen ra đen,
hình thế nào bóng thế ấy, trung thực không lẫn lộn, không có sai biệt. Tuy hiện
ra không sai biệt nhưng mỗi thứ rõ ràng sai biệt. Phân biệt rành rẽ mà không có
niệm phân biệt. Đó là chỗ chân thật.
Nếu chúng ta đợi có niệm
mới phân biệt thì hết chân thật, vì có niệm tức là có động. Dùng niệm động để
chạy theo cảnh thì thân và cảnh đều động. Ngược lại không theo động nhưng vẫn
thấy nghe sáng suốt rõ ràng chứ không mù tối. Nếu ngay đó trực nhận tánh pháp
giới thường trụ không lay động, vẫn hiển nhiên trong bình thường nhật dụng của
chúng ta thì không phải tìm đâu xa nữa.
Chính ý này làm sáng tỏ
tinh thần thiền và kinh không hai. Nhiều khi chúng ta đọc qua loa, không nhận
biết thấu suốt rồi coi thường. Biết được rồi mới thấy thật thân thiết. Từ những
ví dụ hết sức đơn giản và thực tế cụ thể, đức Phật đã khéo léo chỉ ra nơi cảnh,
thân và tâm, cái nào sanh diệt cái nào không sanh diệt.
3. Tánh thấy không hoại
diệt
Khi ấy A-nan và đại
chúng nghe Phật chỉ dạy, thân tâm thư thái nhẹ nhàng, nghĩ mình từ vô thủy đến
nay bỏ mất bản tâm, lầm nhận sự phân biệt bóng dáng duyên trần, ngày nay được
khai ngộ, như đứa bé mất sữa bỗng gặp mẹ hiền. Chắp tay lễ Phật, mong nghe Như
Lai chỉ bày ở nơi thân tâm, cái nào là chân, vọng, hư, thật; hiện tiền phát
minh hai tánh sanh diệt và chẳng sanh diệt.
Khi ấy vua Ba-tư-nặc
đứng dậy bạch Phật:
- Xưa khi con chưa được
gặp và nghe Phật chỉ dạy, thấy Ca-chiên-diên, Tỳ-la-chi Tử đều nói thân này sau
khi chết sẽ đoạn diệt gọi là Niết-bàn. Con tuy được gặp Phật, nay vẫn còn hồ
nghi, làm sao để sáng tỏ chứng biết tánh không sanh diệt nơi tâm này. Nay trong
đại chúng đây, những người còn hữu lậu thảy đều mong được nghe.
Đến đây câu chuyện được
chuyển qua vua Ba-tư-nặc. Nhà vua nghi ngờ câu nói của các ngoại đạo cho
rằng thân này sau khi chết sẽ đoạn diệt gọi là Niết-bàn. Vậy
làm sao để chứng biết thân này chết rồi không phải mất hết?
Phật bảo: - Đại vương, thân
ông hiện đang sống, nay ta lại hỏi ông. Thân thịt của ông đây là đồng với kim
cương thường trụ không hoại hay là biến hoại?
- Bạch Thế Tôn, thân con
hiện nay đây rốt cuộc cũng thay đổi và hoại diệt.
Phật bảo: - Đại vương,
ông chưa từng chết làm sao biết nó sẽ chết?
- Bạch Thế Tôn, thân vô
thường biến hoại của con đây tuy chưa từng chết, nhưng con xem hiện tiền niệm
niệm đổi dời mãi không dừng, như lửa tàn thành tro, dần dần tiêu mất. Vì hoại
diệt không dừng nên con biết chắc chắn thân này sẽ diệt mất.
Chúng ta cũng nhận biết
mình sẽ chết, qua hai việc: Một là thấy những người trước đã chết nên biết mình
sẽ chết. Đó là nhìn bên ngoài để nghiệm lại bản thân. Hai là nhìn lại thân mình
đổi thay luôn luôn nên biết nó sẽ đi tới chỗ hoại diệt.
Phật bảo: - Đúng thế,
Đại vương! Nay ông tuổi đã già yếu, diện mạo có giống như khi còn trẻ
không?
- Bạch Thế Tôn, ngày xưa
con còn bé da dẻ tươi nhuần. Đến tuổi trưởng thành thì khí huyết đầy đủ. Ngày
nay tuổi già ép ngặt thành ra suy yếu, hình sắc khô gầy, tinh thần mờ tối, tóc
bạc da nhăn, sự chết không còn bao lâu nữa, làm sao có thể sánh được với lúc
còn sung thạnh.
Phật bảo: - Đại vương,
hình dung của ông đâu có già liền?
Vua thưa: - Bạch Thế
Tôn, sự biến hóa thầm dời đổi, con thật không biết, nóng lạnh đổi thay, dần đến
như thế này. Vì sao? Lúc con hai mươi tuổi, tuy gọi là thiếu niên nhưng dung
mạo đã già hơn khi mười tuổi. Khi ba mươi tuổi lại già hơn lúc hai mươi. Đến
nay sáu mươi hai tuổi, xem lại khi năm mươi tuổi rõ ràng lúc đó cường tráng
hơn.
Bạch Thế Tôn, con thấy
nó thầm đổi dời. Tùy cái già này thay đổi trong khoảng hạn kỳ là mười năm,
nhưng nếu bảo con suy nghĩ chín chắn, chẳng những nó biến đổi trong một kỷ hai
kỷ mà thật là thay đổi từng năm. Không những đổi dời từng năm mà còn biến hóa
từng tháng. Đâu những biến hóa từng tháng, lại hay thay đổi từng ngày. Nghĩ
cùng xét kỹ thì nó thay đổi trong từng sát-na, trong khoảng mỗi niệm không hề
dừng trụ. Nên biết thân con trọn theo sự biến đổi hoại diệt.
Ba-tư-nặc là một vị vua
ngồi trên ngai vàng, mà khi nhìn lại bản thân ông thấy thấy sự biến chuyển thật
là tế nhị. Ban đầu ông đặt từng khoảng thời gian là mười năm rồi từng tháng,
từng ngày, từng giờ, cho tới từng mỗi niệm.
Chúng ta có thấy thân
này già giống như vua Ba-tư-nặc nói không? Niệm trước qua niệm sau tới, thân
già hơn một chút. Chúng ta đang xê dịch về già bệnh, đang bị biến đổi tiến dần
dần đến chỗ chết. Như kim đồng hồ từng tích tắc dời đi, hiện tại thấy ba giờ
thì biết lát nữa là bốn giờ. Từng ngày từng tháng từng năm, từng sát-na sanh
diệt. Vậy mà cứ thấy mình còn trẻ hoài nên mãi vui chơi không nhớ già chết.
Ví dụ chúng ta đi bộ từ
đây về Thành phố, đi được một cây số thấy gần đích một chút, đi hai cây số thấy
gần hơn chút nữa. Sự thật thời gian đến đích không phải đợi tính bằng cây số,
mà từng bước mỗi bước mỗi gần hơn. Chúng ta cũng vậy, không phải chờ tới đầu
bạc da nhăn mới nói là chết, mà mỗi thời gian trôi qua đã gần cái chết một chút
rồi. Chúng ta đang già chết từng phút từng giây, sự sống bị già chết bức bách
dồn đuổi không dừng, nhưng việc tu hành thì cứ chần chờ, đòi nghỉ ngơi, hẹn mai
hẹn mốt.
Phật bảo: - Đại vương,
ông thấy sự biến hóa đổi dời không dừng, nên ngộ biết thân ông phải hoại diệt.
Cũng chính khi đang diệt đó, ông biết trong thân có cái chẳng diệt không?
Đức Phật muốn chỉ rõ ra,
trong biến hoại có cái không biến hoại, trong sanh tử có cái không sanh tử.
Vua Ba-tư-nặc chắp tay
bạch Phật:
- Con thật không biết.
Phật bảo: - Nay ta chỉ
cho ông tánh không sanh diệt. Này Đại vương, lúc ông bao nhiêu tuổi thì thấy
nước sông Hằng?
Vua thưa: - Khi con được
ba tuổi, mẹ con dẫn đến yết kiến thần Kỳ-bà thiên, đi qua dòng sông này. Khi ấy
con được thấy nước sông Hằng.
Phật bảo: - Này Đại
vương, như lời ông nói, khi hai mươi tuổi thì già hơn lúc mười tuổi, cho đến
sáu mươi tuổi, năm tháng ngày giờ, niệm niệm dời đổi. Vậy khi ba tuổi ông xem
thấy sông Hằng, đến mười ba tuổi thấy nước sông này thế nào?
Vua thưa: - Như khi ba
tuổi, rõ ràng không khác. Cho đến hiện nay con sáu mươi hai tuổi cũng thấy
không có khác.
Phật hỏi cái thấy chứ
không phải hỏi nước sông Hằng. Nước sông Hằng chảy đến chảy đi không dừng,
không dừng tức là đổi khác, nhưng cái thấy nước sông Hằng thuở ba tuổi và cái
thấy lúc sáu mươi hai tuổi không hề đổi khác.
Phật bảo:
- Nay ông tự cảm thương
tóc bạc da nhăn, mặt ông thì nhất định phải nhăn hơn khi còn trẻ. Vậy hiện nay
ông thấy sông Hằng so với khi còn bé thấy sông Hằng, cái thấy đó có trẻ có già
chăng?
Vua thưa:
- Bạch Thế Tôn, không.
Phật bảo: - Này
Đại vương, mặt ông tuy nhăn mà tánh thấy này chưa từng nhăn. Cái gì nhăn thì
biến đổi, cái không nhăn thì không biến đổi. Cái biến đổi thì phải chịu hoại
diệt, còn cái không biến đổi kia vốn không sanh diệt, làm sao trong đó lại chịu
sanh tử của ông, mà ông còn dẫn những lời của chúng Mạt-già-lê kia, nói thân
này sau khi chết hoàn toàn tiêu diệt?
Vua nghe lời này, tin
biết sau khi bỏ thân này sẽ sanh thân khác, cùng với đại chúng vui mừng nhảy
nhót được điều chưa từng có.
Tại sao nhà vua mà cũng
nhảy nhót? Như người sáu bảy mươi tuổi nghèo đói thiếu ăn thiếu mặc, bất ngờ được
trúng độc đắc, họ sẽ vỗ tay nhảy nhót reo mừng. Mừng vì mình được việc chưa
từng có, hơn cả mơ ước. Vua Ba-tư-nặc cũng vậy, nghĩ chết rồi là hết, chợt nghe
Phật chỉ thân này có cái không hoại diệt, không phải chết rồi hoàn toàn đoạn
diệt. Nghe được điều này vua quá đỗi vui mừng.
Trước đức Phật đã chỉ
cho ngài A-nan thấy thân và cảnh là đồng, động tức hoại diệt, tánh thấy không
động, không động thì không hoại diệt. Đến đây đức Phật chỉ cho vua Ba-tư-nặc rõ
thân là vô thường biến hoại, còn tánh thấy trước sau không đổi thay. Không đổi
thay thì không vô thường, không vô thường làm sao biến hoại. Nên biết, ngay nơi
thân vô thường biến hoại có cái chưa từng biến hoại. Nhận được chỗ này, vua
Ba-tư-nặc vui mừng vô kể vì được điều chưa từng có.
Tất cả chúng ta đều có
tánh không sanh diệt ấy, nếu nhận được thì thân này có hoại trăm lần cũng không
lo sợ. Như đi du lịch đến nhà trọ nghỉ, sáng ra nghe nói nhà trọ đó sắp sập;
chúng ta lại đi đến tỉnh khác ghé nhà trọ nghỉ, rồi cũng nghe nói nhà trọ ấy đã
xiêu... Giả sử ghé cả mười nhà trọ mà sáng ra nghe nhà nào cũng hư hoại, có
buồn không? Nhà trọ hư đâu dính dáng gì mình. Thân này cũng như nhà trọ, nên
nói "gá thân mộng". Chỉ nương gá tạm chứ nó đâu phải là mình. Biết rõ
thân là chỗ nương gá tạm thì khi sắp chết đâu có gì buồn khóc.
Người đời thường cho ý
thức là tâm mình, mà không biết tuy ý thức suy nghĩ được nhiều việc, nhưng nó
không thường trụ, dời đổi luôn luôn. Ngoại đạo thì nhận ý thức là hồn, đâu biết
khi không có thân, ý thức không còn nhân duyên phát khởi. Nếu chúng ta nương
nơi ý thức thay đổi sanh diệt để tu hành thì kết quả cũng chỉ là sanh diệt mà
thôi. Nhận rõ nơi mình có tánh không sanh diệt là điều trọng yếu đối với người
học Phật. Sống được với tánh không sanh diệt mới chứng được đạo quả thường trụ của
chư Phật.
4. Tánh thấy không điên
đảo
A-nan liền từ chỗ ngồi
đứng dậy lễ Phật, chắp tay quỳ bạch:
- Bạch Thế Tôn, nếu tánh
thấy nghe này thật không sanh diệt, tại sao Thế Tôn gọi chúng con là bỏ mất
chân tánh, làm việc điên đảo? Vậy mong Ngài khởi lòng từ bi rửa sạch trần cấu
cho chúng con.
Liền khi ấy Như
Lai duỗi cánh tay sắc vàng, năm ngón chỉ xuống đất bảo A-nan rằng: - Nay ông
thấy tay mẫu-đà-la của ta là thuận hay nghịch?
A-nan thưa:
- Chúng sanh ở thế gian
cho đây là nghịch, mà con thì không biết sao là thuận sao là nghịch.
Trước giờ bị kẹt nhiều
quá rồi nên tới đây ngài A-nan dè dặt. Người thế gian cho đó là nghịch, riêng
con thật tình không biết thế nào là thuận, thế nào là nghịch? Như vậy nếu có
sai là người thế gian sai, chứ không phải ngài trả lời sai.
Phật bảo A-nan: - Nếu
người thế gian cho đây là nghịch, vậy họ gọi thế nào là thuận?
A-nan thưa: - Như Lai
đưa cánh tay đâu-la-miên lên, ngón tay chỉ lên hư không thì gọi là thuận.
Phật liền đưa cánh tay
lên, bảo A-nan rằng:
- Điên đảo là như thế,
chỉ là đầu đuôi đổi nhau, những người thế gian phần nhiều đều thấy vậy. Nên
biết thân ông cùng với pháp thân thanh tịnh của chư Phật, so sánh để phát minh:
thân Như Lai gọi là chánh biến tri, thân của các ông gọi là tánh điên đảo. Ông
xem xét kỹ thân Phật và thân ông, cái danh từ điên đảo ấy, ở chỗ nào gọi là
điên đảo?
Cùng một cánh tay mà khi
gọi là thuận, khi gọi là nghịch. Như đồng là thân mà thân Phật là thì gọi là
chánh biến tri, còn thân chúng ta thì gọi là điên đảo. Vậy thử tìm xem ngay nơi
thân cái gì là điên đảo?
Khi ấy A-nan cùng đại
chúng nhìn sững Phật không nháy mắt, không biết nơi thân tâm này điên đảo ở chỗ
nào? Phật khởi lòng từ bi thương xót A-nan và đại chúng, phát tiếng nói như hải
triều bảo khắp hội chúng:
- Này các thiện nam tử,
ta thường nói rằng: Sắc, tâm, các duyên và tâm sở sử cùng các pháp sở duyên đều
do tâm hiện. Thân ông và tâm ông đều là vật hiện ra trong diệu minh chân tinh
diệu tâm (tâm chân thật sáng suốt nhiệm mầu). Tại sao các ông lại bỏ sót bản
diệu viên diệu minh tâm, bảo minh diệu tánh mà nhận cái mê trong ngộ?
Diệu minh chân tinh diệu
tâm là bản tâm nhiệm mầu,
tinh ba chân thật sáng suốt. Ở đây chúng ta có thể nói gọn dễ hiểu: Tại sao các
ông bỏ quên chân tâm thanh tịnh sáng suốt để nhận cái mê trong ngộ?
Thân tâm... tất cả các
pháp đều từ tâm hiện, mà chúng ta lại bỏ quên bản tâm chân thật, nhận vọng
tưởng suy nghĩ phân biệt duyên theo bóng dáng tiền trần làm tâm mình. Tâm này
là nguồn cội của muôn pháp nên gọi là tâm địa, nghĩa là thân tâm và các pháp
đều từ đất tâm phát sanh. Đây là ý nghĩa của hai chữ duy tâm.
Mờ tối làm hư không,
trong hư không tối tăm đó kết cái tối làm sắc.
Đây là Phật nói về sự
hình thành sắc tướng trong vũ trụ. Mờ tối làm hư không. Hư không
nguyên tối tăm, nhưng phần đông chúng ta thường nghĩ hư không sáng. Sự thật
sáng đó là do có mặt trời.
Trong hư không tối tăm
đó, kết cái tối làm sắc. Trong hư không mờ tối
lại kết những bụi bặm làm thành sắc. Hiện nay các nhà khoa học cũng giải thích,
trong hư không mênh mông có những luồng gió bụi, bụi bị cuốn đi tụ lại chỗ nào
thì nơi đó dần dần kết thành một thế giới. Tùy theo bụi nhiều hay ít mà kết
thành thế giới nhỏ hay lớn, hành tinh nhỏ hay hành tinh lớn.
Chỗ này chúng ta có thể
mượn ví dụ nhỏ để tạm hiểu, như trong lúc ngủ mê hiện những cảnh chiêm bao. Mê
là tướng mờ mịt tối tăm, từ tướng tối tăm đó giấc mộng mới xuất hiện có cảnh có
người... Nếu tỉnh sáng thì giấc mơ không hiện ra được.
Sắc xen tạp với vọng
tưởng, lấy tướng vọng tưởng cho là thân. Nhóm các duyên lăng xăng bên trong,
giong ruổi theo cảnh bên ngoài, cho cái tướng mờ mịt lăng xăng đó là tâm tánh.
Một khi lầm là tâm thì quyết định lầm nó ở trong thân.
Thân chúng ta có một
phần hình sắc và một phần vọng tưởng. Hai thứ xen lẫn nhau thành tướng trạng
hiện thấy, rồi cho đó là thân. Gom góp những hình ảnh lăng xăng ở trong, nương
các căn mắt tai... chạy đuổi theo cảnh bên ngoài, nhận tướng mờ mịt lăng xăng
cho là tâm mình. Vì vậy dù các căn đóng lại, bên trong vẫn lăng xăng. Như khi
ngồi thiền, mắt không nhìn xa, tai không cố nghe các âm thanh, tức là các cửa
đã tạm đóng, nhưng trong tâm vẫn không yên, khởi hết niệm này đến niệm khác,
hiện đủ thứ hình ảnh. Khi đi đứng... hay trong tất cả sinh hoạt, tâm cứ phóng
theo cái này, chạy đuổi cái nọ, ở trong lăng xăng ở ngoài giong ruổi, chúng ta
lại nhận đó là thân tâm của mình.
Không biết sắc thân cho
đến núi sông, hư không, đại địa bên ngoài đều là vật ở trong diệu minh chân
tâm. Ví như bỏ đi trăm ngàn biển cả trong lặng, chỉ nhận một hòn bọt nổi, cho
là toàn thể nước của tất cả biển lớn. Các ông là nhóm người trong mê, như cánh
tay duỗi xuống không khác. Như Lai nói là đáng thương xót vậy!
Phật dùng ví dụ biển cả
để chỉ tâm mê của chúng sanh. Mặt biển thênh thang, nước biển mênh mông không
nhận, lại nhận hòn bọt nổi trôi phập phồng trên mặt biển, rồi cho đó là biển.
Nếu chúng ta dẫn trẻ con ra biển, nó chỉ hòn bọt nói đây là biển, mình sẽ bảo
chúng dại dột ngu si. Biển là cái mênh mông kia chứ đâu phải hòn bọt này. Cũng
vậy, tất cả thân tâm cảnh giới đều từ bản tâm thanh tịnh sáng suốt hiện ra,
chúng ta không nhận bản tâm mà chỉ nhận những bóng dáng lăng xăng cho là tâm
mình, nào khác đứa bé nhận hòn bọt cho là biển cả, cho nên Phật nói đáng
thương xót vậy.
Tại sao Phật thương xót
chúng sanh mà không thương xót các vị Bồ-tát? Vì chúng sanh quá ngu si nên Phật
thương, còn các vị Bồ-tát đã giác nên Phật khỏi cần lo. Ví dụ trong gia đình có
năm bảy đứa con, những đứa lớn học hành thông minh, có công ăn việc làm thì cha
mẹ khỏi lo, riêng đứa con nhỏ bị tật nguyền ngu mê thì cha mẹ sẽ thương yêu
chăm sóc hơn. Cũng vậy, Phật thấy chúng ta nhìn hòn bọt cho là biển, ngu đến
đỗi đó không thương sao được. Chúng ta nếu hiểu biết được ý này, sẽ thấy mình
ngu mê cỡ nào. Có bằng đứa bé ba tuổi không?
Đức Phật chỉ rõ cho
thấy, trên cơ thể chân thật Phật và chúng ta không khác, đều có tâm sáng suốt
thanh tịnh như Phật. Nhưng nơi đức Phật thì gọi là chánh biến tri, còn nơi
chúng ta thì gọi là điên đảo. Bởi vì chúng ta mê chấp chút bụi đất kết tụ, chút
lăng xăng trong đầu cho đó là thân tâm mình. Chính chỗ mê lầm điên đảo lâu đời
này khiến cho trôi lăn muôn kiếp. Phật dạy phải gạn lọc những thứ lăng xăng hư
vọng, để hiển bày cái chân thật sáng suốt trùm khắp, gọi là đạt đến quả vị
Phật.
Đây không phải là chuyện
mơ tưởng huyền hoặc ở đâu xa xôi, mà là trở về tâm chân thật nơi chính mình.
Chúng ta thử nhìn lại vọng tưởng xem, những khởi nghĩ lăng xăng như những đợt
sóng chập chờn trên mặt nước, vừa sanh liền diệt. Nếu buông hết vọng tưởng lăng
xăng đó thì thấy nghe ngửi nếm, xúc chạm... thảy đều rõ ràng, trùm khắp.
Tánh biết không hình
tướng, không chỗ nơi nên trùm khắp. Khi những vọng tưởng dừng lặng, chúng ta
như hòa đồng cùng trời đất, còn nếu sống bằng vọng tưởng thì thấy dường như tâm
ở trong thân. Tất cả chúng sanh đều đồng một thể giác thênh thang, do vì vọng
tâm mà thành hạn cuộc, có phân biệt sai khác, có nghiệp riêng chẳng đồng, có
chấp ngã chấp pháp, có chống trái nhau. Nếu không buông tâm vọng, không dừng
tập nghiệp thì tánh giác không thể hiển lộ và cứ tiếp tục đi mãi trong luân
hồi. Khi không còn nhận hòn bọt cho là toàn biển nữa, đó chính là giác ngộ giải
thoát.
5. Tánh thấy không chỗ
trả về
A-nan vâng nghe lời Phật
từ bi chỉ dạy rồi, khóc lóc chắp tay bạch Phật rằng:
- Tuy con được nghe lời
Phật dạy nhiệm mầu như thế, ngộ được tâm diệu minh vốn là tâm địa viên mãn thường
trụ. Nhưng con ngộ đây là do tiếng Pháp của Phật vừa dạy, cũng dùng tâm phan
duyên chí thành chiêm ngưỡng. Con chỉ luống được tâm này chứ chưa dám nhận là
bản nguyên tâm địa. Vậy mong Phật thương xót dùng viên âm chỉ dạy, nhổ gốc nghi
cho con để trở về với đạo Vô thượng.
Đến đây một lần nữa ngài
A-nan khóc lóc cầu xin. Ngài khóc vì tuy được nghe Phật chỉ dạy có tâm không
sanh diệt, nhưng vẫn còn dùng tâm duyên theo tiếng pháp mà hiểu, chứ chưa thật
nhận bản nguyên tâm địa của mình. Ngài cầu xin Phật chỉ dạy thêm để nhổ hết gốc
nghi, trở về với đạo Vô thượng. Chúng ta cũng vậy, nghe kinh cảm thấy ngộ nhưng
ra khỏi giảng đường thì mê lại. Đó là ngộ qua lời nói, dùng tâm suy nghĩ mà
nhận hiểu chứ chưa thật sự thấy tánh, hằng sống được mọi lúc mọi nơi.
Phật bảo A-nan: - Các
ông còn dùng tâm phan duyên nghe pháp thì pháp này cũng thuộc về duyên, chẳng
phải được pháp tánh. Như người dùng ngón tay chỉ mặt trăng cho người khác,
người kia nhân ngón tay nên thấy được mặt trăng. Nếu lại xem ngón tay cho là
mặt trăng mà còn bỏ mất ngón tay.
Dùng tâm phan duyên lăng
xăng để nghe pháp thì pháp ấy cũng thuộc về pháp sở duyên. Vì tiếng vốn sanh
diệt, tâm duyên theo tiếng sanh diệt cũng là sanh diệt, chứ chẳng phải pháp
tánh. Nghe giảng về vọng tưởng nên nhìn lại tâm vọng nơi mình, nghe nói chân
tâm phải thẳng đó nhận lấy. Nếu trên lời nói khởi phân biệt là bị lời chuyển,
kẹt trong lời nói, là sanh diệt.
Chúng ta phải hiểu pháp
của Phật nói như thế nào? Phật đưa ví dụ nương ngón tay để thấy mặt trăng. Như
đêm mồng bốn mồng năm mặt trăng lưỡi liềm nhỏ xíu hiện ở phương tây. Có người
hỏi, đêm nay có trăng không? Người mắt sáng nhìn thấy mặt trăng liền nói có.
Người kia lại hỏi, mặt trăng ở đâu? Người này đưa tay chỉ về hướng mặt trăng,
người kia nương ngón tay nhìn lên liền thấy mặt trăng. Trái lại, nếu cứ nhìn
đầu ngón tay cho đó là mặt trăng thì không bao giờ biết được mặt trăng mà cũng
lầm luôn ngón tay. Cho nên Phật nói, chẳng những mất mặt trăng mà cũng mất luôn
ngón tay. Đức Phật cốt chỉ tâm tánh cho chúng ta, vì vậy chúng ta phải biết
xoay lại mình để nhận ra, đừng nương lời nói mà khởi phân biệt.
Vì sao? Vì cho ngón tay
chỉ là mặt trăng sáng, không những bỏ mất ngón tay, mà còn không biết được sáng
tối. Vì sao? Vì cho thể ngón tay là tánh mặt trăng sáng, tức không rõ hai tánh
sáng và tối. Ông cũng như thế, nếu cho cái phân biệt tiếng ta nói pháp là tâm
ông thì tâm này tự nên lìa sự phân biệt tiếng mà vẫn có tánh phân biệt. Ví như
có người khách nghỉ ở nhà trọ, tạm dừng rồi đi chứ không ở mãi, còn người chủ
nhà trọ thì chẳng đi đâu, ấy gọi là chủ nhà.
Lời nói của Phật là âm
thanh sanh diệt, tâm duyên theo lời pháp đó nếu thật là tâm mình, thì khi lời
nói qua mất tâm vẫn còn. Nếu lời nói qua rồi, tâm cũng mất luôn thì chẳng khác
nào khách trọ. Khi lời nói của Phật không còn, lìa tiếng lìa sự phân biệt lời
nói mà vẫn có cái biết hiện hữu rõ ràng, đó mới thật là tâm mình. Như người chủ
nhà hằng luôn có mặt.
Tất cả chúng sanh đang
mắc kẹt vào chỗ khi có cảnh có phân biệt, lúc không cảnh tưởng là không có phân
biệt. Nếu thật không phân biệt, sao biết là không cảnh? Khi nghe tiếng phân
biệt tiếng hay tiếng dở, lúc không tiếng biết lúc này không tiếng. Cái gì biết
lúc này không tiếng? Phải có cái hằng biết nên mới phân biệt được có tiếng và
không tiếng. Chỗ này rất tế nhị mà chúng ta không nhận ra.
Đây cũng như vậy, nếu
thật là tâm của ông thì không đi đâu. Tại sao lìa tiếng lại không có tánh phân
biệt? Nói như vậy, đâu chỉ tâm phân biệt tiếng mà tâm phân biệt hình dung ta,
nếu lìa các sắc tướng cũng không có tánh phân biệt. Như thế cho đến cái phân
biệt đều không, chẳng phải sắc, chẳng phải không, mà nhóm Câu-xá-ly v.v... lầm
cho là minh đế. Nếu lìa các pháp duyên không có tánh phân biệt, thì tâm tánh
ông đều có chỗ trả về, sao gọi là chủ được?
Phật dạy ngài A-nan, tâm
phân biệt tất cả tiếng, hoặc hình sắc dung nhan Phật... Nếu rời những thứ đó
không còn tánh phân biệt, tức chẳng phải là tâm ông. Chúng ta cần chú tâm thật
kỹ đoạn này, để biết rõ đường lối tu hành. Nếu không nắm vững thì việc tu dễ bị
nhầm lẫn.
Tâm chạy theo sắc, thanh,
hương v.v... dấy khởi phân biệt là vọng. Vậy khi rời sáu trần chúng ta còn có
cái biết phân biệt hay không? Lúc có cảnh, có người thì thấy cảnh, thấy người;
khi không cảnh, không người thì thấy không cảnh, không người. Không cảnh không
người chứ chẳng phải không có cái thấy. Nếu không thấy làm sao biết không cảnh
không người.
Như bây giờ chúng ta
ngước mặt nhìn trời, thấy mây bay thì nói mây bay, đến lúc mây tan hết thì thấy
trời trong. Mây bay trời trong đều thấy, nếu không thấy làm sao biết. Đợi có cảnh
mới thấy, đợi suy nghĩ mới phân biệt là lệ thuộc vào cảnh. Tánh thấy luôn hiện
hữu, ngay nơi mắt tai mũi lưỡi thân ý lúc nào cũng có cái phân biệt, không đợi
suy nghĩ. Ngài Huyền Giác thưa với Lục Tổ: "Phân biệt cũng không phải
ý." Đây là chỗ chân thật trong nhà Thiền.
Nhiều người lầm cho rằng
ngồi thiền mà được định bảy tám ngày mới là tu đúng, còn ngồi nghe thấy đủ thứ
là tu sai. Thiền là dừng những vọng động khách trần để sống với ông chủ hằng
hiện hữu, thấy nghe hiểu biết rõ ràng, chứ không phải quên thân. Định ở đây là
không bị khách trần làm rối loạn, không có vọng tưởng lăng xăng. Dù ở bất cứ
nơi nào, trên chánh điện, ngoài vườn ruộng... cũng là thiền. Làm tất cả việc,
cuốc cỏ, đi đứng... đều là định. Không phải ngồi một chỗ quên hết các thứ mới gọi
là thiền định.
Chứng Đạo Ca nói:
"Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền; Nói nín động tịnh thể an nhiên."
Trong mọi hoạt động mà tâm thường thanh tịnh lặng lẽ, đó là đại định. Kinh Pháp
Bảo Đàn nói: "Nếu có xuất nhập tức không phải đại định." Ở đây Phật
cũng dạy, lìa tiền trần vẫn có cái biết phân biệt rõ ràng hằng hữu, không lệ
thuộc vào cảnh. Nhận được chỗ này rồi thì mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe, kiến cắn
liền hay, cái gì động liền biết rõ ràng, mà chân tâm luôn hiện tiền. Như vậy,
thiền của chư Tổ và Phật nói phù hợp nhau không khác.
Ngồi thiền mà như cây đá
không biết gì hết, đó là định mù tối. Bởi ngồi quên hết, tức rơi vào chỗ không
phải sắc không phải không, ngoại đạo gọi đó là minh sơ. Minh là mờ mờ mịt mịt.
Định như cây đá này khác Diệt tận định của A-la-hán. Định của A-la-hán diệt
sạch hết kiết sử, thấy biết được các đời quá khứ vị lai, có đầy đủ lục thông,
tuy nhiên khi định cũng quên thân. Còn thiền định Phật dạy trong kinh
Lăng-nghiêm và của Lục Tổ dạy thì chỉ rõ tánh chân thật hằng hiện hữu nơi mình,
không chạy theo vọng tưởng đó là thiền, chứ không phải quên hết cảnh quên hết
người mới là thiền.
Đây là chỗ nhiều người
tu lầm kẹt, tưởng rằng tâm không khởi vọng là đạo. Như người đi tìm nhà quen,
nhớ con đường mà quên số nhà, tới trước cửa nhà vẫn không biết nên không vào
được. Chỉ còn một chút nữa mà không biết thì vẫn là kẻ chưa đến nhà. Cũng vậy,
tuy không vọng tưởng nhưng chưa nhận ra tâm chân thật, chỗ này mờ mịt. Nếu ngay
đây nhận ra như người nhớ được số nhà, tự nhiên bước vào chẳng gì ngại ngùng.
Vọng tưởng phân biệt lắng sạch thì thấy vẫn thấy, nghe vẫn nghe, tánh biết
không mất.
A-nan thưa: - Nếu tâm
tánh của con mỗi mỗi đều có chỗ trả về thì tại sao Như Lai nói diệu minh nguyên
tâm không trả về đâu? Cúi mong Ngài thương xót vì con mà chỉ dạy.
Phật bảo A-nan: - Tánh
thấy sáng suốt của ông thấy ta, tánh thấy này tuy không phải là diệu tinh minh
tâm, nhưng nó như mặt trăng thứ hai, không phải bóng mặt trăng.
Dụ và pháp này đơn giản
nhưng thật thấu đáo. Phật nói tánh thấy của ngài A-nan thấy Phật, tuy không
phải là chân tâm sáng suốt, nhưng cũng như mặt trăng thứ hai không phải
là bóng mặt trăng. Tại sao vậy? Bởi tánh thấy, tánh nghe... đang hiện
hữu nơi chúng ta, tuy cũng sáng suốt nhưng chưa thật toàn vẹn, nên dụ như
mặt trăng thứ hai. Vào đêm rằm, nếu chúng ta lấy tay ấn mắt nhìn lên mặt trăng
thì thấy dường như có hai mặt trăng. Như vậy, mặt trăng thứ hai là bóng nhòe ra
từ mặt trăng thứ nhất, cho nên rất gần mặt trăng thứ nhất. Tánh thấy tánh nghe
hiển hiện qua sáu căn gần với chân tâm, giống như căn nhà có một cửa chính, một
cửa sau và bốn cửa sổ đều mở. Nếu bật đèn sáng thì người đứng ngoài nhìn vào sẽ
thấy ánh sáng phát ra các cửa. Ánh sáng nơi cửa sổ vuông, nơi cửa chính rộng, ở
cửa sau thì dài và nhỏ. Ánh sáng chiếu ra ngoài bị khuôn trong phạm vi sáu
cửa, nên thấy là có lớn nhỏ vuông dài khác nhau, nhưng ánh sáng đó vào ánh sáng
đèn trong nhà chỉ một.
Thể kiến tinh là một,
phát ra sáu căn thành sáu. Nhận ra tánh biết ở mắt tai mũi lưỡi thân ý là mới
nhận ra nơi các cơ quan chứ chưa phải toàn thể, nên Phật nói giống như mặt
trăng thứ hai, chưa phải mặt trăng thật. Ý nghĩa chỗ này rất rõ ràng.
Ông nên nghe kỹ, nay ta
sẽ chỉ cho ông chỗ không thể trả về. A-nan, giảng đường lớn này khi mở rộng cửa
về phương đông, mặt trời lên thì có ánh sáng chiếu rọi, vào đêm không trăng,
mây mù mờ mịt tối tăm. Nơi các cửa mở thì thấy thông suốt, khoảng tường vách
lại thấy bít lấp. Chỗ phân biệt được thì lại thấy cảnh duyên, chỗ trống rỗng
toàn là hư không. Cảnh sắc mù mịt thuộc về bụi bặm tối tăm, mưa tạnh trời lặng
thì thấy trong trẻo.
Này A-nan, ông xem các
tướng biến hóa này. Nay mỗi thứ ta đều trả về bản nhân của nó. Thế nào là bản
nhân? Này A-nan, các thứ biến hóa này, sáng trả về cho mặt trời. Vì sao? Vì
không mặt trời thì không sáng, ánh sáng nhân nơi mặt trời, nên trả về mặt trời,
cái tối trả về cho đêm không trăng. Thông suốt trả về cửa nẻo, ngăn bít trả về
tường vách. Cảnh duyên trả về cho phân biệt, trống rỗng trả về hư không. Mù mịt
trả về cho bụi bặm, trong sáng trả về trời tạnh. Tất cả mọi vật có trong không
gian không ngoài những thứ này.
Còn tánh thấy sáng suốt
của ông thấy được tám thứ này, ông muốn trả về đâu? Vì sao? Nếu trả về cho sáng
thì khi tối đến không thể thấy được tối. Tuy sáng tối v.v... các thứ đều có sai
biệt, cái thấy không hề sai biệt. Những thứ có thể trả về, tất nhiên chẳng phải
là ông, còn cái ông không thể trả về đó, không phải ông thì là gì? Thế nên biết
tâm ông vốn là nhiệm mầu thanh tịnh sáng suốt, ông tự mê muội làm mất cái gốc,
phải chịu luân hồi thường bị trôi lăn trong sanh tử. Thế nên Như Lai nói là
đáng thương xót vậy!
Phần này gọi là Bát
hoàn, tức tám thứ trả về. Phật nêu lên để chỉ cho thấy rõ cả
tám thứ, mỗi thứ đều có chỗ trả về, còn tánh thấy là cái không thể trả về.
Không trả về đâu hết, vậy nó là của ai? Cái gì trả về được tức thuộc bên ngoài,
không phải mình; cái thấy không trả về đâu tất nhiên là của mình. Đã là của
mình tại sao lại quên nó để phải chịu luân hồi sanh tử, nên Phật nói chúng ta
là kẻ đáng thương xót.
Ngay nơi chúng ta tánh
thấy, tánh nghe, tánh ngửi, tánh nếm, tánh xúc chạm v.v... hằng hữu, mà mình
quên nên phải chịu luân hồi. Cái không sanh tử mà không nhận, lại chạy theo
những thứ giả dối bên ngoài rồi than sao cứ mãi luân hồi. Nếu nhớ sống trở về
với tánh biết không sanh diệt thì ra khỏi sanh tử. Chúng ta tu là cốt làm sao
xoay lại sống với tâm chân thật hằng hữu, đang hiện bày ở mắt tai mũi lưỡi thân
ý. Cho nên đi đứng nằm ngồi, mắt thấy tai nghe... đừng để bị duyên trần lôi kéo
chi phối. Trong mọi hoạt động hằng sống với tâm bất sanh bất diệt, đó gọi là
Kim cương đại định hay Lăng-nghiêm đại định.
6. Tánh thấy không phải
là vật
A-nan thưa:
- Con tuy biết tánh thấy
này không trả về đâu, nhưng làm sao biết nó là chân tánh của con?
Phật bảo A-nan:
- Nay ta hỏi ông, ông
chưa được vô lậu thanh tịnh, nhờ thần lực của Phật mà thấy cõi Sơ thiền không
chướng ngại. A-na-luật thì thấy cõi Diêm-phù-đề như xem trái yêm-ma-la để trong
lòng bàn tay. Các vị Bồ-tát v.v... thấy trăm ngàn thế giới. Chư Phật mười
phương đều thấy cùng tận các cõi nước thanh tịnh như số vi trần, không chỗ nào
chẳng thấy. Chúng sanh thì nhìn thấy không quá phân tấc.
Sự thấy của chúng ta
cùng với Phật Bồ-tát có nhiều sai biệt. Ngài A-na-luật thấy thế giới rõ ràng
như nhìn trái đào trái lý trong lòng bàn tay. Chư Phật thì thấy khắp hết trăm
ngàn thế giới mười phương cõi nước nhiều như số cát sông Hằng. Sức thấy của
chúng ta không quá gang tấc, chỉ một tấm giấy ngăn trước mắt là không thấy.
Thời Phật đâu có viễn
vọng kính hay những phương tiện tối tân để thấy xa mà Phật đã thấy như vậy. Nếu
Phật không thấy được vô số thế giới thì ngài đâu có tuyên bố thế giới nhiều như
số cát sông Hằng. Đến hiện nay người ta mới khám phá ra, trong hư không này
cũng có các thế giới khác. Nên nói chư Phật thấy trùm khắp. Đồng là mắt, mà mỗi
vị tu hành có con mắt khác nhau. Ngài A-nan do chưa được vô lậu nên phải nương
thần lực của Phật mới thấy được cõi Sơ thiền.
Này A-nan, ta cùng ông
xem cung điện Tứ thiên vương, khoảng giữa xem khắp những loài ở dưới nước, trên
đất liền, trong hư không, tuy có các thứ hình tượng tối sáng, đều là tiền trần
phân biệt làm chướng ngại. Ông nên ở nơi đó phân biệt cái nào là mình cái nào
là vật. Nay ta cho ông chọn lựa trong cái thấy đó, cái gì là thể của ông cái gì
là hình tượng sự vật.
A-nan, tột cùng cội
nguồn cái thấy của ông, từ các cung mặt trời mặt trăng... là vật chứ không phải
ông; cho đến Thất kim sơn, xem kỹ cùng khắp, tuy có các thứ ánh sáng cũng là
vật chứ không phải ông. Dần đến xem thấy mây nổi chim bay, gió động bụi dấy,
cây cối núi sông, rau cỏ người thú, đều là vật chứ không phải ông.
Này A-nan! Tính chất các
vật gần xa tuy có sai khác, nhưng đều do tánh thấy trong sạch của ông xem thấy.
Vậy các vật kia tự có sai biệt, còn tánh thấy thì không khác. Tánh thấy sáng
suốt nhiệm mầu này thật là tánh thấy của ông.
Phật xác nhận rõ, trăm
vật sai khác ở cõi này cho tới mặt trời, mặt trăng v.v... đều thuộc về cảnh bên
ngoài, không phải là tánh thấy của ông. Cái hay thấy được trăm ngàn thứ đó,
chính là tánh thấy sẵn có nơi mình.
Nếu tánh thấy là vật thì
ông cũng thấy cái thấy của ta. Nếu khi cùng thấy gọi là thấy cái thấy của ta,
thì khi ta không thấy sao ông không thấy được chỗ không thấy của ta? Nếu ông
thấy được cái không thấy, thì tự nhiên đó không phải là tướng không thấy kia.
Nếu ông không thấy được chỗ không thấy của ta, thì tự nhiên cái thấy không phải
vật, sao lại không phải là ông?
Lại nay khi ông thấy
vật, ông đã thấy vật thì vật cũng phải thấy ông. Như vậy thì thể tánh rối loạn,
ông với ta cùng cả thế gian không an lập được.
Này A-nan, nếu khi ông
thấy ấy là ông chứ không phải ta, tánh thấy khắp giáp đó không phải là ông thì
còn là ai? Tại sao lại tự nghi chân tánh của ông? Tánh của ông mà ông không
chịu nhận, lại đến cầu ta chỉ cho cái thật.
Phật quở ngài A-nan, tất
cả những gì thấy được là vật, còn cái hay thấy được vật chính là tánh thấy sẵn
có nơi mỗi người, vậy mà không chịu nhận lại đến cầu Phật chỉ dạy.
Tất cả chúng ta mỗi
người đều có tánh thấy sẵn có sao không tự nhận, lại mải đi tìm cầu đâu đâu,
nay học chỗ này mai cầu chỗ kia... để nhờ chỉ giùm. Tánh thấy tánh nghe chân
thật trùm khắp, không có giới hạn mà không nhận, lại nhận những suy nghĩ lăn
tăn trong đầu cho là tâm mình, bỏ quên cái thấy biết trùm khắp. Đó là không tự
nhận lấy chỗ chân, lại cầu Phật chỉ cho cái thật, nên bị Phật quở.
7. Tánh thấy không ngại
A-nan bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn, nếu tánh
thấy này hẳn là con không phải gì khác, thì khi con cùng Như Lai xem bảo điện
thù thắng của Tứ thiên vương ở cung mặt trời mặt trăng, cái thấy này trùm khắp
cả cõi Ta-bà, khi lui về tinh xá chỉ thấy cảnh chùa, trở vào gian nhà thanh tâm
chỉ xem thấy phòng nhà. Bạch Thế Tôn, cái thấy này như thế, thể của nó xưa nay
cùng khắp một cõi, nay ở trong nhà chỉ thấy khắp trong nhà. Vậy cái thấy này
rút lớn thành nhỏ, hay bị tường vách ép lại khiến cho đứt đoạn? Nay con không
biết nghĩa này thế nào, cúi mong Ngài rộng lòng từ bi vì con giảng rõ.
Ngài A-nan hình dung cái
thấy là một sự vật có hình tướng, nên có thể rút lại, nở ra hoặc bị cắt đứt...
Điều nghi của ngài xem ra cạn cợt, nhưng chính vì để phá chỗ chấp lầm của chúng
ta. Chúng ta thường đồng hoá cái thấy với sự vật, gá mình nơi vật, quên mất
chính mình.
Phật bảo A-nan:
- Tất cả các thứ
lớn nhỏ trong ngoài ở thế gian đều thuộc về tiền trần, không nên nói cái thấy
có giãn ra hay rút lại. Ví như trong món đồ vuông thì thấy hư không vuông, ta
lại hỏi ông: Trong món đồ vuông này thấy hư không vuông, là cố định vuông hay
không cố định? Nếu cố định vuông thì khi ở trong vật tròn lẽ ra hư không đó
không tròn. Nếu không cố định vuông thì ở trong món đồ vuông lẽ ra hư không
chẳng vuông. Ông nói không biết nghĩa này thế nào. Nghĩa tánh như thế, sao còn
hỏi thế nào!
Phật nêu ví dụ để chỉ rõ
tánh thấy không phải là hình thức vật chất nên không nhất định là lớn nhỏ vuông
tròn. Người ta thường hỏi tâm ở đâu, lớn chừng nào, mà không biết đặt câu hỏi
như vậy là đã lầm, vì tâm tánh không thuộc hình tướng, chỗ nơi, lớn nhỏ...
Này A-nan, nếu lại muốn
vào tánh không vuông tròn thì chỉ trừ bỏ món đồ vuông. Thể của hư không vốn
không vuông, chẳng nên nói bỏ cái tướng hư không vuông hiện có. Nếu như ông
hỏi, khi vào trong nhà, tánh thấy rút nhỏ lại, vậy khi ông ngước xem mặt trời,
há lại kéo tánh thấy giãn bằng với mặt trời? Nếu bị tường vách ép lại, tánh
thấy đứt đoạn, thì khi xoi một lỗ nhỏ sao không thấy dấu nối? Nghĩa ấy không
đúng!
Tất cả chúng sanh từ vô
thủy đến nay mê mình làm vật, bỏ mất bản tâm bị vật xoay chuyển, nên ở trong đó
thấy có lớn nhỏ.
Tất cả chúng ta có nhận
lầm mình là vật không? Nhận thân tứ đại của mình tức đã lầm cho mình là vật.
Thân tứ đại này luôn luôn biến đổi sanh diệt lại chấp lấy nó làm mình, tất phải
bị lưu chuyển luân hồi.
Chúng ta có hai bệnh:
Một, chấp thân là mình, tức lầm mình là vật nên quên mất bản tâm. Hai, chấp cái
hiện biết của mình giống như vật. Cho nên khi có vật mới cho là thấy, không vật
liền nói không thấy. Lúc có tiếng nói nghe, không tiếng thì nói không nghe. Mắt
thấy tai nghe khắp hết mà nói không thấy không nghe, quên đi cái hiện hữu. Khi
nào có cảnh mới biết có mình, khi không cảnh dường như quên mình. Đó là lệ
thuộc ngoại cảnh.
Cảnh là tướng hư giả,
tùy duyên tụ hợp không cố định lại cho là có thật. Tánh biết hằng hữu trùm khắp
thì lại bỏ quên, tưởng như không có. Đây là nhận vật nhận âm thanh làm mình mà
quên mất bản tâm, bị ngoại cảnh lôi cuốn đi mãi trong trầm luân sanh tử, gọi là
bị vật chuyển.
Ví dụ chúng ta đang ngồi
bình tĩnh vui vẻ bất chợt có người kêu tên chửi, lúc đó có còn bình tĩnh vui vẻ
hay đỏ mặt đỏ mày chuẩn bị trả đũa? Chỉ có ít tiếng khó nghe mà đã chuyển mình
từ ngồi yên trở thành xao động lăng xăng, huống là gặp những việc lớn lao khác
đến với mình thì sao? Lúc đó chắc quên hết mọi thứ, quay cuồng theo cảnh, không
còn tỉnh giác gì nữa.
Nếu bị vật chuyển thì
hạn cuộc ở nơi vật. Như thấy thân này là mình, nên đối với thân chúng ta thấy
có thấp cao đẹp xấu v.v... rồi quý yêu chiều chuộng, chạy theo nhu cầu của nó,
suốt một đời chỉ nô lệ cho thân, rốt cuộc đi dần đến chỗ bại hoại. Giống dã
tràng xe cát trên bãi biển, một cơn sóng ập vô liền tiêu tan hết. Chúng ta cũng
vậy, nuôi dưỡng thân mấy chục năm cuối cùng nó cũng bại hoại, thật là công dã
tràng! Đến khi mất thân này lại chụp kiếm thân khác, cứ như vậy làm hoài nên
luân hồi muôn kiếp. Đó là bị vật chuyển, còn chuyển vật là sao?
Nếu hay chuyển được vật
tức đồng Như Lai, thân tâm tròn sáng chẳng rời đạo tràng, ở trên đầu một sợi
lông mà dung chứa các cõi nước mười phương.
Khi chuyển được vật tức
đồng với chư Phật, thân tâm tròn sáng, ngay nơi đạo tràng này, một mảy lông
cũng có thể bao hàm cả thế giới mười phương. Điều này có dễ tin không? Nếu nhìn
trên tướng, chúng ta thấy cõi nước mười phương vô cùng to lớn, còn đầu sợi lông
thì bé tí xíu. Ở đây là đứng về tánh không, về tâm thể mà nói. Mọi sự vật đều
do duyên khởi, tự tánh là không. Tánh không thì không có lớn nhỏ, còn tâm thể
không hình tướng thì có gì mà không hàm dung, nên đầu sợi lông và mười phương
cõi nước đều hàm dung nhau. Đó là diệu dụng bất khả tư nghì.
Biết thân vật chất không
phải thật mình, chỉ là tướng tứ đại duyên hợp hư dối. Trong mọi thấy nghe đều
xoay trở lại tánh thấy tánh nghe nơi mình, không đợi có sắc mới gọi là thấy,
không đợi có âm thanh mới gọi là nghe. Khi mắt thấy vật đẹp xấu chúng ta chỉ
nhớ mình đang thấy, lúc tai nghe lời chửi bới hay khen ngợi chỉ nhớ đang nghe.
Tất cả cảnh đến chúng ta đều xoay chuyển về tánh hiện biết thì đâu có phiền giận,
mất mình.
Chúng ta tu mà chỉ nghĩ
đến thân này sao cho an ổn sung sướng thì biết đó là bị vật chuyển. Còn biết
thân hư dối tạm bợ, mang nó cũng như ôm khúc cây mục, cần lội vô bờ gấp, như
vậy là chuyển được vật. Mang thân này để tu chứ không phải để hưởng thụ, giây
phút nào cũng phải nghĩ làm sao vượt ra khỏi trầm luân sanh tử, làm sao để dứt
sạch mọi vọng tưởng điên đảo, để cho tâm tròn sáng thanh tịnh, trùm khắp mười
phương. Ngộ được lẽ này chúng ta không còn mắc kẹt trong sự vật nữa. Do mê nên
nhận vật làm mình, thấy có lớn nhỏ, tốt xấu, thương ghét... bị vật chuyển luân
hồi kiếp kiếp. Ngộ được bản tâm thì những thứ đó không còn giá trị nữa. Vì vậy
chúng ta tu là phải chuyển được vật, để tâm trùm khắp cả thế giới mười phương.
8. Tánh thấy không hai
A-nan bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn, nếu tánh
thấy này chắc chắn là diệu tánh của con, thì diệu tánh này phải hiện ở trước
con. Tánh thấy quả thật là con thì nay thân tâm con lại là vật gì? Nhưng hiện
nay thân tâm con thật có phân biệt, còn cái thấy kia không phân biệt được thân
con. Nếu tánh thấy thật là tâm con, khiến con hiện nay có thấy, vậy tánh thấy
là con, còn thân không phải con thì đâu có khác với chỗ trước kia Như Lai gạn
hỏi vật hay thấy được con? Cúi mong Ngài đại từ mở bày cho những người chưa ngộ.
Ngài A-nan có ba điều
nghi:
- Một, tánh thấy này nếu
thật là con thì thân tâm hiện nay lại là vật gì?
- Hai, hiện tại thân tâm
rõ ràng có phân biệt, còn cái thấy thì không phân biệt được thân, vậy sao nói
tánh thấy là con được?
- Ba, nếu tánh thấy
thật là con thì thân này không phải là con, vì hai cái riêng rẽ, vậy thì đâu
khác đoạn trước Phật gạn hỏi, nếu nó ở ngoài thì phải thấy mặt ông, tức là vật
hay thấy được ông?
Phật bảo A-nan:
- Nay ông nói cái
thấy ở trước ông, nghĩa đó không đúng. Nếu thật ở trước ông và ông thật thấy
được, thì tánh thấy này đã có chỗ nơi, đều chỉ ra được. Vả lại, nay ta với ông
ngồi trong rừng Kỳ-đà, xem khắp rừng suối cùng với điện đường, trên đến mặt
trời mặt trăng, phía trước là sông Hằng. Nay ông ở trước tòa sư tử của ta, đưa
tay chỉ rõ những tướng này: chỗ râm mát là rừng, chỗ sáng là mặt trời, chướng
ngại là vách, thông suốt là hư không, như thế cho đến cỏ cây, mảy mún, lớn nhỏ,
tuy sai khác nhưng đã có hình thì đều có thể chỉ ra được. Nếu quyết định tánh
thấy này hiện tại ở trước ông, thì ông nên lấy tay chỉ rõ ràng chính xác, cái
nào là tánh thấy?
Này A-nan! Nên biết, nếu
hư không là cái thấy, đã thành cái thấy rồi, cái nào là hư không? Nếu vật là
cái thấy, đã là cái thấy rồi, cái nào là vật? Ông hãy chín chắn phân tích trong
vạn tượng, chọn ra tánh thấy sáng suốt thanh tịnh nhiệm mầu, chỉ rõ cho ta, như
các vật kia rõ ràng không lầm lẫn.
Phật bảo A-nan suy nghĩ
tìm xét trong mọi sự vật, phân tích ra cái nào là tánh thấy, để chỉ bày rõ ràng
cụ thể như những vật chúng ta thấy trước mắt.
A-nan thưa: - Nay con ở
nơi lầu gác giảng đường này, nhìn xa thấy sông Hằng, trên xem đến mặt trời mặt
trăng... những thứ tay chỉ ra được, mắt xem thấy được đều là vật, không phải
tánh thấy.
Bạch Thế Tôn! Như lời
Phật đã dạy, chẳng những hàng Thanh văn hữu lậu sơ học chúng con, cho đến
Bồ-tát cũng không thể nào đối trước hình tượng muôn vật, chia chẻ ra được tánh
thấy, lìa tất cả sự vật riêng có tự tánh.
Phật bảo: - Đúng thế!
Đúng thế!
Ngài A-nan trả lời
khéo léo, không chỉ riêng ngài mà đến những bậc Bồ-tát cũng không thể nào chia
chẻ vạn tượng chỉ ra tánh thấy được.
Phật lại bảo A-nan:
- Như lời ông nói, không
có tánh thấy lìa tất cả sự vật riêng có tự tánh, vậy những thứ ông chỉ ra được
đều là vật, không phải cái thấy. Nay lại bảo ông, ông cùng Như Lai ngồi trong
rừng Kỳ-đà, xem thấy vườn rừng, cho đến mặt trời mặt trăng, các thứ hình tượng
sai khác, chắc chắn không có tánh thấy để ông chỉ ra được. Ông hãy phát minh
trong các vật này, cái gì không phải là cái thấy?
A-nan thưa: - Con thật
xem khắp rừng Kỳ-đà này, không biết trong đó cái gì không phải là cái thấy. Vì
sao? Nếu cây không phải là cái thấy thì làm sao thấy cây? Nếu cây tức là cái
thấy thì sao gọi là cây? Như thế cho đến hư không, nếu không phải là cái thấy
thì làm sao thấy hư không? Nếu hư không là cái thấy thì sao gọi là hư không?
Con lại suy nghĩ, trong muôn vật này, chín chắn phát minh, không có gì chẳng
phải cái thấy.
Phật nói: - Đúng thế!
Đúng thế!
Tại sao Phật bảo ngài
A-nan tìm xem trong tất cả sự vật, gì là cái thấy, gì không phải cái thấy? Bởi
ngài A-nan chấp cái thấy ở trước mặt, mà đã trước mặt tức là vật chất, tất
nhiên phải có nơi chốn, nên Phật bảo phải tìm xem nó ở đâu. Ngài A-nan tìm
không được, nói không có cái thấy. Không có cái thấy thì làm sao thấy được? Như
chúng ta nhìn thấy cây, nhà, hồ nước,... tất cả những thứ ấy không phải là cái
thấy, nhưng nếu không liên hệ cái thấy thì làm sao thấy được các vật?
Ở đây có hai phần:
- Thứ nhất, phân tích
tất cả sự vật tìm không có cái thấy. Bởi cái gì chỉ ra được, nhận thấy biết
được đều là vật không phải là cái thấy.
- Thứ hai, tất cả sự vật
nhìn thấy được cái nào cũng là cái thấy, vì nếu không phải cái thấy thì làm sao
thấy được sự vật?
Trong kinh Hoa Nghiêm,
ngài Văn-thù bảo đồng tử Thiện Tài đi kiếm loại cây có chất độc thì cây nào
cũng độc, lại bảo đi tìm lương dược thì cây nào cũng là lương dược. Cũng vậy,
tất cả sự vật không phải là cái thấy mà không gì chẳng phải là cái thấy. Chúng
ta biết được sự vật, những sự vật đó không là cái thấy của chúng ta. Người thế
gian thì thấy vật và mình là hai, đã là hai tức mình không thể biết vật, còn
biết được vật thì chẳng phải là hai.
Vật thể vô tri, biết
được vật thể là tâm. Ví dụ người thợ làm ra đồng hồ, người ấy có quyền sở hữu
và đặt nó nơi nào tùy thích. Người thợ làm ra đồng hồ là tri hay vô tri? Người
thợ là tri, đồng hồ là vô tri. Vô tri bị tri làm chủ, chứ nó đâu thể làm chủ
được cái tri. Cũng vậy, thân tứ đại của chúng ta là vô tri, cái biết điều khiển
thân tứ đại là tri. Như mình đang nằm nghỉ chợt khởi ý niệm ngồi dậy liền ngồi
dậy, khởi niệm bước xuống đi thì bước xuống đi... Cái điều khiển được thân tứ
đại đó là tri.
Từ thân cho đến các sự
vật bên ngoài đều do tri điều khiển, vậy là vật không rời tâm. Ngộ được tất cả
sự vật gốc từ tâm thì đại địa cũng trở về nguồn tâm. Nếu không ngộ lý ấy, đại
địa là đại địa, mình là mình. Thấy được sự liên hệ đó rồi, trở về được với
nguồn chân, mới không lầm giả là thật.
Chúng ta thường tưởng sự
vật ở bên ngoài là thật nên bị vật chuyển. Như cây hoa hướng dương, nếu không
từng biết nó thì đối với mình nó chỉ là nó chứ không nói là hoa hướng dương hay
là gì hết. Chính con người chúng ta, do có biết rồi ưa hoặc ghét, tạo thêm
nhiều thứ khen chê lấy bỏ theo ý muốn của mình. Biết rõ sự vật tùy thuộc nơi
mình, mình làm chủ nó, tức chuyển được vật. Đó là giác ngộ, trở về chỗ thật.
Hầu hết chúng ta đều bị
vật chuyển, vì quên tâm chân thật. Nếu khéo trở về nguồn tâm thì tất cả sự vật
cho đến cả thế giới vũ trụ cũng theo đó mà chuyển. Thế nên các thiền sư đến đi
tự tại, đối với thân tứ đại này sống chết chẳng có gì quan trọng. Thân dù có
bệnh đau, tâm các ngài vẫn an nhiên.
Ở đây Phật nói nghĩa thị
và phi thị. Thị là phải, phi thị là chẳng phải. Tánh thấy không lệ thuộc vào
phải và chẳng phải, không mắc kẹt hai bên. Chỗ này hàng Thanh văn hữu học không
thể nào biết được.
Khi ấy trong đại chúng
những người chưa vào hàng vô học, nghe Phật nói lời này mờ mịt không biết nghĩa
trước sau thế nào, nên đều hoảng hốt sợ mất điều trước đã gìn giữ. Đức Như Lai
biết họ đang lo sợ nên sanh lòng thương xót, an ủi A-nan và đại chúng:
- Này các thiện nam tử!
Đấng Pháp vương vô thượng nói lời chân thật, như chỗ thấy mà nói, không dối
không gạt, không phải như bốn thứ nghị luận bất tử rối loạn của nhóm
Mạt-già-lê. Ông phải chín chắn suy nghĩ, chớ phụ lòng thương mến của ta.
Như chỗ thấy mà nói, là thấy thế nào nói thế ấy, đúng như chỗ thấy mà nói.
Trong các bộ kinh A-hàm
có nói về chúng ngoại đạo Mạt-già-lê, lý luận trườn uốn như con lươn. Bốn
thứ nghị luận bất tử rối loạn là: cũng thay đổi cũng thường hằng, cũng
sanh cũng diệt, cũng có cũng không, cũng tăng cũng giảm.
Đến chỗ này hàng Nhị
thừa không giải quyết được, nên Bồ-tát Văn-thù xuất hiện.
Khi ấy, Văn-thù-sư-lợi
Pháp vương tử, vì thương xót tứ chúng, từ chỗ ngồi trong đại chúng đứng dậy
đảnh lễ dưới chân Phật, chắp tay cung kính bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn, các
đại chúng này không ngộ được chỗ Như Lai phát minh hai nghĩa "phải"
và "chẳng phải", nơi hai thứ tánh thấy và sắc không. Bạch Thế Tôn,
như các vật tượng sắc không nơi tiền cảnh này là tánh thấy thì nên có chỗ chỉ
ra được; nếu không phải là tánh thấy thì lẽ ra không thể thấy, mà nay không
biết nghĩa ấy về đâu, nên mới kinh sợ, chứ chẳng phải do thiện căn đời trước
mỏng ít. Cúi mong Như Lai mở lòng đại bi chỉ rõ cho biết các vật tượng này cùng
với tánh thấy nguyên là vật gì, mà ở trong ấy không có các nghĩa
"phải" và "chẳng phải".
Phật bảo Văn-thù và đại
chúng:
- Như Lai mười phương và
đại Bồ-tát khi tự trụ trong chánh định, cái thấy và các vật bị thấy cùng với
tướng tưởng đều như hoa đốm trong hư không, vốn không thật có. Cái thấy này và
các duyên vốn là thể giác nhiệm mầu thanh tịnh sáng suốt, làm sao trong đó có
"phải" và "chẳng phải".
Tự trụ trong chánh định, tức nhập chánh định của chính mình, là chỗ hằng sống
từng phút từng giây. Nơi cái thấy và các vật bị thấy cùng với tướng
tưởng, chư Phật Bồ-tát xem như hoa đốm trong hư không. Tất
cả đều từ tánh giác tròn sáng mà ra thì làm gì có phải và chẳng phải.
Tất cả sự vật đều không
rời tâm viên giác, nên biết ngoài tâm không có cảnh, ngoài cảnh không có tâm.
Những thứ tốt xấu đâu có ở ngoài tâm mà theo đuổi? Chúng sanh mê lầm thấy vật ở
ngoài mình nên có thương ghét, sanh bao nhiêu phiền não. Phật chỉ tường tận cái
nào cội nguồn, cái nào tạm bợ. Cội nguồn là tánh giác, tướng tưởng và cảnh
duyên là tạm bợ. Tướng tưởng là thức tâm phân biệt, duyên là trần cảnh. Nếu
biết cả hai đều ở trong tánh giác thì không còn đem tâm phân biệt cảnh, tự
nhiên trở về tâm thể Bồ-đề. Vậy nên trong đó không thể nói là phải hay chẳng
phải. Vì còn nói phải chẳng phải là còn thấy hai, mà còn thấy hai là cái thấy
sai lầm.
Như bọt nước, như lượn
sóng trên biển, cài này cái kia có khác nhưng đều từ biển mà ra, rời biển không
có thể riêng. Khi biết toàn biển rồi thì những thứ chìm nổi trên biển cũng
giống hoa đốm trong hư không, không thật. Chúng ta còn mê nên Phật mới phân
tích cho biết cảnh là giả, cái thấy là thật. Chúng ta tu, đối cảnh tâm không
dấy khởi phân biệt, biết tâm cảnh đều ở trong thể giác thanh tịnh nhiệm mầu.
Ngộ được chỗ này thì thấy và cảnh đều là tâm thể giác ngộ viên mãn.
- Văn-thù! Nay ta hỏi
ông, như ông là Văn-thù, lại có Văn-thù phải là Văn-thù và không
phải Văn-thù chăng?
- Bạch Thế Tôn! Đúng
thế, con thật là Văn-thù, không có phải là Văn-thù. Vì sao? Nếu có
phải là Văn-thù thì ắt thành hai Văn-thù. Tuy nhiên hiện nay chẳng
phải là không Văn-thù. Trong đó thật không có hai tướng phải và chẳng
phải.
Văn-thù thật
là Văn-thù thì làm sao có phải hay không phải. Phải là đối với không phải,
đây phải Văn-thù thì kia không phải Văn-thù, như thế thì có
hai Văn-thù. Thực tại là Văn-thù, không có phải và không phải.
Như hiện giờ Thông Không
đang ngồi ở đây, có người hỏi: Thầy phải Thông Không hay không phải Thông
Không? Nếu thấy Thông Không rõ ràng thì không hỏi phải, không phải. Nói phải
tất nhiên có cái không phải, nói thật tức là có giả. Thông Không đang hiện hữu,
thấy hiện hữu thì không có phải hay không phải, còn đặt vấn đề là chưa thấy
hiện hữu. Ví dụ có người chỉ nghe tên Thông Không mà chưa biết mặt, bây giờ gặp
mới hỏi: Phải thầy Thông Không không? Hỏi phải không tức là chưa biết, nếu biết
rồi thì thấy liền biết, ngay đó nhận ra, không còn đặt vấn đề nữa.
Tánh giác trùm cả vạn
tượng mà chúng ta không biết, nên thấy vạn tượng ở ngoài tánh giác, rồi cho là
có tánh giác riêng, sự vật riêng. Vì vậy mới phân chia cái này là phải
tánh giác, cái kia không phải tánh giác. Bởi thấy hai nên không thấy chỗ cứu
cánh.
Phật dạy:
- Tánh thấy nhiệm mầu
sáng suốt này cùng với hư không và trần cảnh cũng lại như thế, vốn là chân tâm
giác ngộ vô thượng thanh tịnh tròn sáng nhiệm mầu, mà dối làm sắc không cùng
với thấy nghe, như là mặt trăng thứ hai. Cái gì là phải mặt trăng, lại cái gì
không phải mặt trăng? Này Văn-thù! Chỉ một mặt trăng thật, trong đó tự
không có phải mặt trăng hay không phải mặt trăng. Do đó nay ông xem cái thấy cũng
với trần cảnh, các thứ phát minh ra gọi là vọng tưởng, không thể ở trong đó chỉ
ra được cái phải và chẳng phải. Bởi do tánh giác chân thật sáng suốt nhiệm mầu
này hay khiến ông vượt ra ngoài nghĩa chỉ bày và không thể chỉ bày.
Như giữa đêm rằm trăng
sáng, chúng ta dụi mắt nhìn lên, thấy như có hai mặt trăng. Vậy mặt trăng thứ
hai nhòe ra là thật hay không thật? Khi con mắt tinh sáng thấy rõ mặt trăng
thật thì mặt trăng thứ hai và bóng mặt trăng dưới nước đều không nghĩa lý, bởi
chúng chỉ là bóng không tồn tại. Còn lầm bóng mặt trăng, lầm mặt trăng thứ hai
là chưa thấy mặt trăng thật. Thấy mặt trăng thật rồi thì không còn đối đãi phải
không phải, ngay đó chân thể hiện bày. Hiểu được chỗ này chúng ta mới thâm nhập
được tinh thần bất nhị của Phật giáo.
Chư Phật và Bồ-tát an
trụ chánh định, thấy tất cả người cảnh là pháp đối đãi không thật, như hoa đốm
trong hư không. Khi an trụ chỗ thật rồi thì không còn đối đãi hai bên nữa. Lý
bất nhị đưa chúng ta đến chỗ chân thật, ý nghĩa thâm trầm này vượt ngoài chỗ
thấy của hàng Thanh văn, nên tới đây phải là Bồ-tát mới thấy được, vì vậy người
đứng ra thưa hỏi là Bồ-tát Văn-thù.
Chúng ta học đạo là để
đạt đến chỗ chân thật, không còn mắc kẹt ở hai bên. Sở dĩ nói phải chẳng phải
là vì còn nghi, chưa thấy được lý thật. Chúng ta chưa an trụ trong chánh định
của chư Phật Bồ-tát nên lúc nào cũng nói phải, chẳng phải. Do còn mê nên thấy
trong là tâm, ngoài là cảnh, có hai cái đối đãi nhau. Như ngủ mộng thấy có
người có cảnh thật trăm phần trăm, nhưng khi giật mình thức dậy thì người và
cảnh trong mộng không còn nữa.
Thông thường chúng ta
không dám buông bỏ tâm cảnh, sợ phủi hết còn gì là mình. Nhưng không ngờ chính
khi bỏ được hai thứ đó, con người chân thật hiện ra sờ sờ. Con người chân thật
đó tức là Bồ-tát Văn-thù, là Căn bản trí, cũng gọi là Bản lai diện mục sẵn có
nơi mỗi người. Đây là chỗ thiết yếu. Chúng ta tu Phật là phải nhận ra và sống
được với tâm chân thật, nếu không thì dù cố gắng tu cũng bị kẹt trong đối đãi,
vẫn trầm luân chưa thoát ra khỏi vòng trói buộc của tâm và cảnh. Ngài Khuê
Phong nhân kinh hiểu được thiền, nhân thiền thấu được lý kinh. Người không hội
thiền nghe kinh này tưởng như nói chuyện xa vời, thật khó hiểu.
Các thiền sư thường quở
chỗ thấy hai. Khi có người đến hỏi đạo, các ngài đưa hai ngón tay. Bởi còn thấy
hai là chưa thấy đạo, dù sáu thời công phu lễ lạy, ngồi thiền suốt ngày, Phật
tổ cũng lánh xa. Người còn thấy hai thì đi đến đâu sẽ có phiền rộn đến đó, tuy
giữ giới luật gắt gao nhưng có khi cũng phạm. Vì con trâu hai sừng còn đủ lại
hung hăng, tránh sao khỏi chạm đông chạm tây!
Chúng ta tu chỉ cần bỏ
thấy hai thì ngồi uống trà, Niết-bàn luôn trước mắt. Vì tuy ở tại thế gian mà
thiên hạ không ai làm rộn mình, giới luật chẳng cần giữ cũng không phạm. Lúc ấy
thong thả, con trâu rụng hết sừng rồi, tâm đã thuần, không còn phạm đông chạm
tây nữa.
9. Tánh thấy không thuộc
nhân duyên và tự nhiên
A-nan bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn, thật như
đấng Pháp vương nói, tánh giác duyên trùm khắp các cõi nước mười phương, lặng
lẽ thường trụ, tánh không sanh diệt. Vậy so với thuyết Minh đế của các Phạm chí
Ta-tỳ-ca-la trước kia nói và các thuyết của chúng ngoại đạo Đầu Khôi v.v... nói
có chân ngã đầy khắp cả mười phương, có gì sai khác?
Tánh giác duyên tức tánh thấy. Ngài A-nan nghi Phật nói tánh thấy đó
đồng như Minh đế và chân ngã của ngoại đạo.
Đức Thế Tôn ở trên núi
Lăng-già, từng vì Bồ-tát Đại Huệ v.v... rộng nói nghĩa này: "Các ngoại đạo
kia thường nói tự nhiên, còn ta nói nhân duyên, không phải là cảnh giới của
họ." Nay con xét tánh giác này tự nhiên, không sanh không diệt, xa lìa tất
cả hư vọng điên đảo, dường như không phải nhân duyên, mà cùng giống thuyết tự
nhiên của ngoại đạo kia. Xin Thế Tôn chỉ dạy thế nào để chúng con khỏi rơi vào
các tà kiến, đạt được tâm tánh chân thật sáng suốt nhiệm mầu.
Ngài A-nan dẫn lời Phật
nói trên hội Lăng-già, để minh chứng: Các ngoại đạo kia thường nói tự
nhiên, còn ta nói nhân duyên, không phải là cảnh giới của họ. Và ngài nghi
rằng, nếu tánh giác sẵn có, thường trụ lặng lẽ, không sanh không diệt thì nó là
tự nhiên chứ không phải nhân duyên, vậy e cũng đồng với chỗ ngoại đạo nói
thuyết tự nhiên? Ngài thỉnh Phật chỉ dạy cho ngài và đại chúng nhận được tâm
tánh chân thật, không rơi vào đường tà. Qua đoạn này chúng ta được biết kinh
Lăng-nghiêm có sau kinh Lăng-già.
Phật bảo A-nan:
- Nay ta đã mở bày
phương tiện như thế, chân thật dạy ông, ông vẫn còn chưa ngộ, lại lầm cho là tự
nhiên. Này A-nan, nếu hẳn là tự nhiên thì phải nêu rõ có thể tự nhiên. Ông hãy
xét xem trong tánh thấy sáng suốt nhiệm mầu này lấy gì làm tự thể? Cái thấy này
dùng sáng làm tự thể hay dùng tối làm tự thể? Dùng rỗng không làm tự thể hay
dùng bít làm tự thể? Này A-nan, nếu lấy sáng làm tự thể, lẽ ra không thấy tối,
nếu lại lấy rỗng làm tự thể, lẽ ra không thấy bít. Như thế cho đến lấy các
tướng tối v.v... làm tự thể thì khi sáng tánh thấy diệt mất, làm sao thấy sáng?
Ở đây Phật bác lý tự
nhiên. Nếu nói tự nhiên thì thể nó sẵn có, vậy tánh thấy lấy gì làm tự thể? Nếu
lấy sáng làm tự thể thì đã là thể sáng, làm sao thấy được tối? Nếu lấy tối làm
tự thể, tới lúc sáng, tối diệt mất thì tự thể của tánh thấy cũng mất, đã mất
làm sao thấy được sáng?... Cho đến các tướng trạng khác cũng vậy, không lấy gì
làm tự thể được. Vì khi sáng thấy, tối cũng thấy, trống thấy, bít cũng thấy,
nên không có một tự thể riêng.
A-nan thưa:
- Tánh thấy nhiệm mầu
này, chắc không phải tự nhiên. Nay con phát minh là nhân duyên sanh. Nhưng tâm
vẫn chưa rõ, xin hỏi đức Như lai, nghĩa ấy thế nào cho hợp với tánh nhân duyên?
Phật bảo: - Ông nói nhân
duyên, ta lại hỏi ông. Nay ông nhân thấy, tánh thấy hiện tiền. Vậy cái thấy này
là nhân sáng có thấy hay nhân tối có thấy, nhân rỗng không có thấy hay nhân
ngăn bít có thấy? Này A-nan, nếu nhân sáng mà có thì lẽ ra chẳng thấy sáng; như
thế cho đến nhân rỗng không, nhân ngăn bít cũng đồng với sáng và tối.
Phật hỏi, lấy gì làm
nhân của tánh thấy? Nếu lấy sáng làm nhân để thấy thì khi nhân sáng mất chẳng
thể thấy. Còn lấy tối làm nhân để thấy thì khi ánh sáng đến, tối mất làm sao
thấy?
Lại nữa A-nan, tánh thấy
này lại duyên nơi sáng có thấy hay duyên tối có thấy, duyên rỗng không có thấy
hay duyên ngăn bít có thấy? Này A-nan, nếu duyên rỗng không có tánh thấy lẽ ra
chẳng thấy ngăn bít, nếu duyên ngăn bít mà có thì lẽ ra chẳng thấy rỗng không.
Như thế cho đến duyên nơi sáng duyên nơi tối cũng đồng với rỗng không và ngăn
bít. Như thế nên biết tánh giác nhiệm mầu sáng suốt không phải nhân không phải
duyên, cũng không phải tự nhiên, không phải chẳng tự nhiên, không có chẳng phải
và không chẳng phải, không có phải và chẳng phải, lìa tất cả tướng, tức tất cả
pháp.
Đức Phật bác về nhân
duyên. Nhân là nhân cái nào? Duyên là duyên cái nào? Nếu nhân cái này thì không
thấy cái kia, duyên cái kia thì không thấy cái này. Sáng và tối là cái thấy của
người thế gian, họ chỉ biết trên sự vật mà không biết được tánh thấy. Nhận được
tánh thấy tức biết tối sáng đều thuộc về cảnh, còn tánh thấy không lúc nào
vắng.
Đạo Phật chủ trương nhân
duyên, nhưng tại sao ở đây Phật nói không phải nhân duyên? Đứng về pháp sanh
diệt, các vật có hình tướng là do hòa hợp mà có, căn cứ trên lý duyên khởi nên
đức Phật nói nhân duyên. Đứng về tánh thấy, không phải là tướng sanh diệt,
không thuộc pháp nhân duyên, cũng không phải tự nhiên, nên Phật nói không phải
nhân duyên, tự nhiên v.v...
Bởi đây là chỗ không thể
dùng ngôn ngữ nghĩ bàn, không còn kẹt trong các tướng đối đãi phải chẳng phải.
Như hư không có hình tướng giống đèn, mõ, chuông... hay tất cả sự vật. Tất cả
hình tướng đều không phải là hư không, nên nói lìa tất cả tướng. Tuy
các tướng không phải hư không, nhưng không tướng nào ngoài hư không, đều có
liên hệ với hư không, cũng vậy tất cả vật không phải là tánh thấy nhưng đều có
liên hệ với tánh thấy, nên nói tức tất cả pháp.
Tóm lại, tánh thấy bao
trùm tất cả nhưng không thuộc hình tướng của tất cả. Do không phải là hình
tướng của tất cả, nên nói lìa tất cả tướng. Tuy không hình tướng nhưng bao hàm
tất cả pháp, nên nói tức tất cả pháp. Tánh thấy chính là tâm thể chân thật nơi
chúng ta, nó không hạn cuộc trong thân mấy chục ký mà thênh thang trùm khắp như
hư không vậy.
Nay ông tại sao ở trong
đó dụng tâm sai lầm, lấy các danh tướng hý luận thế gian mà phân biệt nó, như
lấy bàn tay nắm bắt hư không chỉ thêm tự nhọc nhằn. Hư không làm sao để cho ông
nắm bắt?
Đức Phật quở ngài A-nan
và đưa ra ví dụ cho thấy tánh thấy không hình tướng. Nếu nghĩ nó thuộc hình
tướng đối đãi, đó là sai lầm, là hý luận giả dối không thật, chẳng khác nào lấy
tay bắt hư không, chỉ nhọc công vô ích.
A-nan bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn, tánh
giác nhiệm mầu ắt không phải nhân không phải duyên. Tại sao Thế Tôn thường chỉ
dạy các thầy Tỳ-kheo, nói tánh thấy có đủ bốn thứ nhân duyên: nhân hư không,
nhân ánh sáng, nhân tâm, nhân con mắt, nghĩa ấy thế nào?
Ngài A-nan gạn lại vấn
đề tánh thấy. Tánh giác nhiệm mầu không phải nhân, không phải duyên, tại sao có
khi đức Phật dạy, muốn thấy được sự vật phải có đủ bốn nhân duyên: nhân hư
không, ánh sáng, thức và con mắt?
Trong Duy thức nói rất
rõ vấn đề này. Như khi chúng ta nhìn thấy cây quạt thì trước hết phải có khoảng
không. Có khoảng không mà không có ánh sáng cũng không thể thấy. Khoảng không
là một nhân, ánh sáng là một nhân, nhưng không có con mắt và tâm thức thì cũng
không thể thấy biết đó là cây quạt. Phải đủ bốn điều kiện mới gọi là thấy, như
vậy là do nhân duyên mà có tánh thấy, tại sao Phật nói là không?
Phật bảo:
- A-nan, ta nói các
tướng nhân duyên ở thế gian, chứ không phải là nghĩa đệ nhất. Này A-nan, ta lại
hỏi ông những người thế gian nói "tôi hay thấy", thế nào gọi là thấy,
thế nào là chẳng thấy?
Khi Phật phân biệt về
nhân duyên ở thế gian là nói về tướng thế gian, chứ không phải nói về đệ nhất
nghĩa. Bởi vì đệ nhất nghĩa vượt ngoài tướng nhân duyên. Người tu học cần phải
hiểu vấn đề then chốt này, để thấy được những điều trước kia mình chưa từng
biết. Lâu nay chúng ta cứ thấy lầm theo lối thông thường của thế gian, không hiểu
được nghĩa thâm sâu. Nên mới cho cảnh là mình rồi chạy theo cảnh, gọi là bị vật
chuyển chứ không chuyển được vật.
A-nan thưa rằng:
- Người đời nhân nơi ánh
sáng mặt trời, mặt trăng và đèn mà thấy được các tướng, gọi đó là thấy. Nếu
không có ba thứ ánh sáng này thì không thể thấy.
- A-nan, nếu khi không
sáng gọi là chẳng thấy, thì lẽ ra chẳng thấy tối. Nếu có thấy tối thì đây chỉ
là không sáng, chứ sao gọi là không thấy?
Phật xác định thấy tối
thấy sáng đều là thấy. Khi vào nhà tối chúng ta không thấy, đợi đốt đèn lên mới
thấy, vậy thấy đó là đèn thấy hay mình thấy? Ánh sáng chỉ để hiển vật, còn thấy
là mình. Thấy tối tức là không có ánh sáng chứ chẳng phải không có cái thấy.
Nếu không có thấy thì sao gọi là thấy tối? Có ánh sáng nhìn thấy sự vật, không
ánh sáng thấy tối ở trước, cả hai đều là thấy. Đó là lý lẽ mà lâu nay chúng ta
không biết, cứ thấy tối nói là không thấy, mà không ngờ đó là cái thấy thường
hằng của mình.
Này A-nan, nếu khi ở chỗ
tối không thấy ánh sáng mà gọi là không thấy, nay khi ở chỗ sáng chẳng thấy
tương đối cũng gọi là không thấy. Nếu hai tướng tự lấn đoạt nhau, không phải
tánh thấy của ông trong đó tạm không. Như thế ắt biết cả hai đều gọi là thấy,
tại sao lại nói không thấy?
Ví dụ vào đêm không
trăng chúng ta đang ở trong nhà, bất chợt đèn tắt hết lúc này chỉ thấy tối mịt,
lát sau điện sáng trở lại chúng ta nhìn thấy các vật. Như vậy tướng sáng tối đó
là do có đèn hay không đèn, chứ cái thấy được tối sáng thì không thay đổi,
không mất. Tối sáng bên ngoài thay nhau, còn cái thấy lúc nào cũng hiện hữu.
Nhưng chúng ta lại lầm tưởng khi tối không thấy, lúc sáng mới thấy, tức bị lệ
thuộc vào vật mà quên mất mình. Thấy tối thấy sáng, cả hai đều gọi là
thấy, tại sao nói không thấy?
Thế nên A-nan, nay ông
nên biết, khi thấy sáng, cái thấy không phải là sáng, khi thấy tối, cái thấy
không phải là tối, khi thấy rỗng không, cái thấy không phải là rỗng không, khi
thấy ngăn bít, cái thấy không phải là ngăn bít. Bốn nghĩa đó thành tựu. Ông lại
nên biết, khi thấy cái thấy, thấy chẳng phải là cái thấy, thấy vẫn lìa xa cái
thấy, cái thấy không thể kịp, thì làm sao lại nói là nhân duyên, tự nhiên và
các tướng hòa hợp?
Đoạn trên là thấy đối
với ngoại cảnh, đến đây là thấy đối với nội tâm. Đối với ngoại cảnh thì tánh
thấy không phải là các tướng tối sáng, rỗng bít... Còn hướng về nội tâm thì thế
nào? Như khi chúng ta biết vọng tưởng thì vọng tưởng là cái bị biết, còn cái
hay biết không phải là vọng tưởng. Cho nên kinh nói: kiến kiến chi
thời, kiến phi thị kiến, kiến du ly kiến, kiến bất năng cập. Chữ Kiến
trước là chỉ cho cái hay biết, chữ Kiến sau là cái bị biết. Cái hay biết không
phải là cái bị biết, cái bị biết không thể nào bì kịp cái hay biết.
Đây nói rất rõ về đường
lối tu. Bởi vọng tưởng là các tưởng duyên theo pháp trần dấy động lăng xăng
chợt sanh chợt diệt, còn cái thấy được vọng tưởng không thuộc lăng xăng sanh
diệt. Nên nói, cái hay thấy xa lìa cái bị thấy, cái bị thấy không thể nào bì
kịp. Vọng tưởng là động, còn cái biết vọng không động, hai cái khác nhau xa.
Nhiều người không hiểu
nói biết vọng tức cái biết đó là động. Nhưng đâu phải biết vọng hoài, chỉ khi
có vọng mới biết vọng và không theo. Như ông chủ nhà, lúc khách vừa tới biết
khách tới, khi khách đi biết khách đi, chủ biết khách đến đi chứ chủ đâu có đi.
Khách đến đi chỉ cho cái động ở ngoài, chủ nhà biết rõ khách đến khách đi thì
vẫn ở yên một chỗ.
Chúng ta nên nhớ ở mắt
tai mũi lưỡi thân ý có tánh biết rõ ràng, hằng hữu không động. Mắt nhìn thấy
tất cả tức là có biết, nhưng nếu không khởi tâm phân biệt thì không động. Ví dụ
thấy cái nhà chỉ là cái nhà không thêm tưởng phân biệt gì khác, đó là cái biết
hằng hữu mà không động. Còn vừa thấy liền khởi phân biệt nghĩ xem nhà này làm
bằng gì, gạch hay đất, đẹp hay xấu... đó là dấy động phân biệt.
Như vậy, biết mà có niệm
phân biệt là động, thuộc về cái biết sanh diệt. Còn cái biết như như không động
thì làm sao thuộc sanh diệt được. Cái biết không động đó, ở mắt có, ở tai mũi
lưỡi... cũng đều có. Nếu nghe tất cả tiếng, thấy tất cả hình sắc mà không khởi
niệm nào thêm, tức là hằng biết nhưng không động.
Hiện nay chúng ta tu
theo lối biết vọng, tức tu về ý căn. Thấy được từng niệm vọng tưởng, đó là tánh
biết không sanh diệt. Trở về với tánh biết không sanh diệt tức tiến vào vô
sanh. Người không hiểu cho cái biết đó cũng là đối đãi, là động, nhưng sự thật
không phải. Bởi vì vọng dấy lên, chúng ta biết mà không theo thì đâu có động.
Như nhìn thấy người chạy, biết họ đang chạy chứ mình đâu có chạy. Người chạy là
động, thấy họ chạy đâu phải là động. Cũng thế, thấy được vọng tưởng, cái thấy
đó không phải là vọng. Tánh thấy xa lìa vọng, vọng kia không thể bì kịp nó. Như
vậy làm sao nói nó là nhân duyên, tự nhiên hay là tướng hòa hợp?
Vọng tưởng duyên theo
tướng đối đãi nên thuộc sanh diệt, còn cái thấy được vọng tưởng thì không phải
đối đãi sanh diệt. Nếu lấy tưởng sanh diệt để dụ cho cái thấy không sanh diệt,
hoặc hiểu nó là nhân duyên, là tự nhiên... theo nghĩa đối đãi thì không được.
Các ông là hàng Thanh
văn hẹp hòi không biết, không thể thông suốt được thật tướng thanh tịnh. Nay ta
chỉ dạy ông phải khéo suy nghĩ, không được lười trễ trên đường giác ngộ nhiệm
mầu.
Đường giác ngộ tức là
con đường Bồ-đề. Cách mình bao xa? Khi nào chúng ta rong chơi như chàng cùng tử
thì xa, còn ở nhà làm con trưởng giả thì là Bồ-đề. Chúng ta muốn cái nào? Nếu
muốn làm cùng tử thì cứ đi chơi, còn muốn làm con trưởng giả thì phải ở nhà.
Chúng ta có đủ thẩm quyền để lựa chọn, làm con trưởng giả hoặc làm cùng tử lang
thang, tùy mình.
10. Tánh thấy không phải
là cái thấy
A-nan bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn, như Phật
Thế Tôn vì bọn chúng con nói nhân duyên và tự nhiên, các tướng hòa hợp cùng
chẳng hòa hợp, tâm chúng con còn chưa được khai ngộ, mà nay lại nghe nói
"thấy cái thấy chẳng phải cái thấy" (kiến kiến phi kiến) thì càng
thêm mê muội. Cúi mong Ngài mở rộng lòng từ, bố thí con mắt đại trí tuệ, khai
mở cho chúng con tâm giác ngộ sáng suốt thanh tịnh.
Nói lời ấy rồi buồn tủi
khóc lóc, đảnh lễ chờ nghe lời Phật dạy.
Trong hội này, A-nan đã
khóc bốn lần. Ngài khóc vì tủi thân chỉ một bề học rộng nhớ nhiều, tu hành
chẳng tới nơi nên bị ngoại đạo dùng tà thuật bắt. Khóc vì đã ỷ vào Phật, nghĩ
rằng Phật sẽ cứu độ, sẽ cho chánh định, không ngờ mình phải tự cứu, Phật không
giúp được. Khóc vì còn đem tâm phan duyên nghe Phật dạy chỗ thường trụ viên
mãn. Đến đây nghe Phật nói mù tịt không biết gì nên lại khóc nữa.
Khi ấy Thế Tôn vì thương
xót A-nan và đại chúng, nên sẽ diễn bày pháp đại Tổng trì, là con đường tu hành
chánh định nhiệm mầu, nên bảo A-nan:
- Ông tuy nhớ giỏi nhưng
chỉ thêm phần học rộng, đối với pháp Xa-ma-tha, quán chiếu vi mật, tâm vẫn chưa
rõ. Nay ông lắng nghe ta sẽ vì ông phân biệt chỉ bày, cũng khiến cho hàng hữu
lậu ở tương lai được quả Bồ-đề.
Xa-ma-tha là Chỉ, quán
chiếu vi mật là Quán. Chỉ quán tức là Thiền.
Này A-nan, tất cả chúng
sanh luân hồi trong thế gian, do hai thứ vọng kiến phân biệt điên đảo, ngay đó
mà phát sanh, ngay nơi nghiệp mà luân chuyển. Thế nào là hai thứ thấy sai lầm?
Một là thấy sai lầm theo nghiệp riêng của chúng sanh. Hai là thấy sai lầm theo
nghiệp chung của chúng sanh.
Thế nào gọi là thấy sai
lầm theo nghiệp riêng? Này A-nan, như người thế gian con mắt bị nhặm ban đêm
thấy ánh sáng ngọn đèn, riêng có một bóng tròn, năm sắc chồng lên nhau. Ý ông
nghĩ sao? Bóng tròn hiện ra nơi ngọn đèn sáng ban đêm, đó là sắc của đèn hay
sắc của cái thấy, mà bóng tròn này chỉ có người bệnh mắt mới thấy? Nếu đó là
sắc của cái thấy, cái thấy đã thành sắc rồi vậy người bệnh mắt kia thấy bóng
tròn thì gọi là cái gì?
Như khi chúng ta bị bệnh
nhặm mắt, ban đêm nhìn ngọn đèn thấy có bóng tròn màu xanh đỏ... chồng lên
nhau. Nếu bóng tròn thuộc về đèn thì ai nhìn đèn cũng phải thấy màu sắc đó.
Nhưng người không bệnh mắt không thấy, vậy nó không thuộc đèn. Nếu sắc đó thuộc
cái thấy thì cái thấy đã biến thành sắc, tức thành cái bóng tròn, vậy cái
thấy bóng tròn gọi là gì? Nếu gọi là cái thấy thì thấy không phải là sắc, nếu
là sắc thì không thể thấy được bóng tròn. Như vậy cả hai trường hợp đều không
đúng, bóng tròn không thuộc về đèn cũng không thuộc về cái thấy.
Lại nữa A-nan, nếu bóng
tròn này lìa ngọn đèn riêng có thì khi nhìn những vật bên cạnh như bình phong,
màn, bàn ghế... cũng phải có bóng tròn phát ra. Nếu lìa cái thấy mà riêng có
bóng tròn thì lẽ ra chẳng phải là mắt thấy, tại sao người nhặm mắt lại thấy
bóng tròn? Thế nên phải biết sắc thật ở nơi đèn, do cái thấy của con mắt bệnh
thành ra có bóng tròn. Bóng tròn và cái thấy của con mắt nhặm đều là bệnh, còn
cái thấy bệnh không phải bệnh.
Ngọn đèn thuộc về sắc,
bóng tròn gốc từ con mắt bệnh. Bóng tròn và con mắt thấy bóng đều là bệnh. Khi
biết được bóng tròn là do mắt nhặm thấy, thì cái biết sâu kín này không phải
bệnh.
Trọn không nên nói là
đèn là thấy, trong ấy còn có chẳng phải đèn chẳng phải thấy. Giống như mặt
trăng thứ hai không phải là thể mặt trăng cũng không phải là bóng mặt trăng.
Ở đây muốn nhấn mạnh hai
chữ thị và phi. "Thị đăng thị kiến, phi đăng phi kiến" là đèn
là thấy, không phải đèn không phải thấy, để cho thấy ở chỗ mê lầm hư
dối không thể nói thị không thể nói phi.
Đức Phật dụ bóng tròn từ
bệnh mắt mà ra, không thật, cũng giống như chúng ta dụi mắt rồi nhìn mặt trăng,
thấy có bóng trăng thứ hai nhòe ra bên cạnh mặt trăng thật. Nó không phải là
thể mặt trăng thật và cũng không phải bóng mặt trăng dưới nước. Nó huyễn có,
không phải thật.
Vì sao? Vì thấy mặt
trăng thứ hai là do dụi mắt mà thành. Những người có trí không nên nói mặt
trăng do dụi mắt thấy này là có hình tướng hay không có hình tướng, lìa cái
thấy hay không lìa thấy. Đây cũng như thế, bóng tròn do mắt bệnh mà thành, nay
muốn gọi cái gì là đèn, cái gì là thấy, huống là phân biệt chẳng phải đèn chẳng
phải thấy.
Biệt nghiệp vọng kiến là
do nghiệp riêng của mỗi người chiêu cảm khác nhau. Cũng một ngọn đèn mà người
nhặm mắt thấy có bóng tròn, người không nhặm mắt không thấy. Bóng tròn có với
người bệnh và không có với người không bệnh, đó là nghiệp riêng. Như người bị
bệnh tâm thần, thấy người này hại, người kia hại... lăng xăng lộn xộn đủ thứ,
còn người không bệnh tâm thần thì không thấy. Nếu không thông cảm với người
bệnh, mình thấy không mà họ thấy có thì cãi vã nhau.
Như người có chủng tử tu
mà ít phước, làm gì cũng khó thành công. Ngược lại người vừa có chủng tử tu vừa
nhiều phước, làm gì được nấy, nói gì người ta cũng nghe. Người ít phước làm
không được, nói không ai nghe, nên giận trách người hay tự biết đó là nghiệp
riêng của mình? Kinh A-hàm kể Xá-lợi-phất có một đệ tử đã tu chứng A-la-hán mà
đi khất thực không bao giờ đủ cơm ăn. Tôn giả tìm đủ cách đem cơm về cho ông
ăn. Dù cơm tới miệng nhưng lúc ăn cũng bị rớt đổ không ăn được. Như vậy để
thấy, tuy cùng có chủng tử tu mà nghiệp riêng của mỗi người vẫn khác.
Do có nghiệp riêng nên
mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau, khả năng khác nhau, cho nên đừng bắt người
giống hệt như mình. Người ta không giống mình, ta tức tối là sai rồi. Phải làm
sao trong cuộc sống sai biệt, chúng ta khéo chuyển đừng để sai biệt nhiều. Ví
dụ như mình và người, hai bên có mười thứ khác nhau. Nếu bên nào cũng giữ cái
riêng của mình thì khó hợp tác được. Mình phải giảm đi năm điều, người kia cũng
vậy, chỗ không hợp nhau thì lấy đó làm chuẩn chung để sống, chỗ không hợp thì
bỏ bớt đi, như vậy từ từ sẽ hòa hợp. Đừng đòi hỏi người nào cũng giống mình,
điều đó không thể có trên trần gian này.
Chúng ta thường chủ quan
theo biệt nghiệp. Người khác thấy điều đó, mình không thể thấy nên phủ nhận.
Như kẻ phàm phu thấy dục lạc thế gian là thật là tốt, song đối với người hết
nghiệp thấy những thứ đó không tốt. Phàm phu thấy ngũ dục thật nên say mê, như
con thiêu thân thấy ánh đèn sáng là bay vô để rồi bị thiêu chết. Vì nghiệp nên
nó không thấy bị thiêu cháy mà chỉ thấy sự hấp dẫn của đèn. Chúng ta nhiều khi
biết chỗ đó bước vào là chết mà cũng cứ nhào vô, đến khi thoát được nghiệp rồi
nhìn lại mới thấy mình thật đáng thương.
Phật muốn chỉ cho chúng
ta rõ nghiệp là hư giả, do bệnh lầm mà ra. Đã là hư giả thì không cố định,
chúng ta có quyền chuyển đổi, có quyền thoát ra. Nếu cho nghiệp cố định là lẫm
lẫn lớn, vì tánh nghiệp vốn không.
Thế nào gọi là thấy sai
lầm theo nghiệp chung của chúng sanh? Này A-nan, cõi Diêm-phù-đề này trừ nước
biển cả ra, trong đó đất bằng có ba ngàn châu. Châu lớn ở giữa, từ đông sang
tây gồm chung có tới hai ngàn ba trăm nước lớn. Còn những châu nhỏ khác ở trong
các biển, trong đó có châu hoặc có hai trăm, ba trăm nước, hoặc là mười hai
mươi cho đến ba mươi bốn mươi, năm mươi nước. Này A-nan, lại nếu trong đây có
một châu nhỏ chỉ có hai nước, mà riêng người trong một nước đồng cảm những
duyên ác, thì những chúng sanh ở trong nước đó xem thấy tất cả những cảnh giới
chẳng lành, hoặc là thấy hai mặt trời hoặc thấy hai mặt trăng, cho đến các ác
tướng như quầng sáng hay là quầng tối ở chung quanh mặt trời mặt trăng, hoặc
thấy sao xẹt, hoặc bên cạnh mặt trời mặt trăng có những tướng giống như vòng
ngọc đeo, hoặc là thấy sao chổi chuyển động, thấy cầu vòng... Chỉ có người ở
nước này thấy, còn những chúng sanh ở nước khác vốn không thấy mà cũng không
nghe.
Gọi là đồng nghiệp vì ở
chung một nước, cùng cảm duyên ác nên thấy những hiện tượng lạ giống nhau.
Những hiện tượng lạ đó, người trong nước khác lại không thấy. Ở đoạn trước nói
người bệnh mắt nên thấy đèn có bóng tròn, người không bệnh mắt thì không thấy,
đó là biệt nghiệp. Hai thứ biệt nghiệp và đồng nghiệp đã rõ ràng, đây là cái
thấy theo nghiệp riêng hoặc nghiệp chung, đều gọi là vọng kiến.
Này A-nan, nay ta vì ông
lấy hai việc này kết hợp tới lui để chỉ rõ. A-nan, như chúng sanh kia vì thấy
sai lầm theo nghiệp riêng nên thấy nơi ánh sáng của ngọn đèn hiện ra bóng tròn,
tuy giống như cảnh hiện ở trước, nhưng cái thấy kia trọn do mắt bệnh nhặm mà
thành. Mắt bệnh tức cái thấy lao nhọc, không phải do màu sắc tạo ra. Nhưng
người thấy biết được bệnh, thấy đó trọn không có lỗi. Giống như hiện nay ông
dùng mắt xem thấy núi sông cõi nước và chúng sanh, đều do cái thấy bệnh từ vô
thủy mà thành.
Do con mắt bệnh tự nó
thấy có bóng tròn chứ không phải có một hình sắc thật nào được tạo ra ở bên
ngoài. Như vậy bóng đó là ở ngoài mình hay ở trong mình ra? Thấy bóng tròn rõ
ràng là ở ngoài, nhưng không ngờ chính là từ con mắt nhặm. Chỗ này nghiệm lại
mới thấy ý nghĩa rất sâu xa. Như hiện nay chúng ta thấy núi sông cây cỏ người
vật thì cứ tưởng là cảnh bên ngoài không liên hệ với mình, không ngờ chính từ
tâm thể thanh tịnh của mình do mê lầm hiện ra mà mình không biết. Tất cả sanh
tử thế gian cũng gốc từ mê lầm mà hiện, nhưng chúng ta vẫn tưởng là thật.
Tuy nhiên, bóng tròn do
mắt nhặm mà thấy thì dễ hiểu, còn cảnh giới núi sông cây cỏ người vật, nói do
mê lầm mà hiện ra, thật không dễ hiểu. Tại sao? Đây cũng như người không nhặm
mắt bảo người nhặm "cái thấy của anh không thật". Người đang nhặm mắt
nghe không thể tin được, vì họ đang thấy bóng tròn rõ ràng. Chừng nào hết nhặm
như người kia, lúc đó mới công nhận là chỗ thấy trước không thật.
Cũng vậy, đức Phật đã
giác ngộ, biết do từ gốc mê lầm của chúng sanh mà có những cảnh giới như vậy,
chúng ta còn mê lầm nên nghe khó hiểu. Một mai hết mê thì chuyện đó rõ như ban
ngày. Cho nên Phật với Phật thì thông cảm nhau, còn Phật với chúng sanh khó
thông cảm. Bởi vì người còn nghiệp, làm sao hiểu nổi lời nói của người hết
nghiệp.
Nay tạm lấy thứ có hình
tướng để ví dụ. Chúng ta đang sống trên trái đất, thấy nó chắc thật vô cùng, là
chỗ gá nương an toàn của tất cả chúng sanh, nhưng thật ra nó ở giữa hư không và
đang xoay vùng vụt. Thử tưởng tượng một lúc nào đó, trong lòng trái đất có gì
không ổn, nó nổ tung thì chúng ta ra sao? Trái đất không bền và mạng sống chúng
ta cũng thế. Vậy mà cứ cho là thật, mỗi mỗi tranh hơn tranh thua. Mỗi một vòng
trái đất tự quay quanh nó là một ngày đêm. Mạng sống chúng ta được bao nhiêu
vòng quay của trái đất mà cứ luôn cho là thật?
Thế giới hư giả này do
vọng nghiệp mê lầm của chúng sanh tạo thành. Khi nào hết vọng nghiệp thì cảnh
hư giả này cũng theo đó mà hết. Hiểu vậy rồi chúng ta phải mạnh mẽ buông cái
giả trở về cái thật, đó là tu. Thế nên đạo Phật gọi là đạo giác ngộ, nghĩa là
quay trở về chỗ chân thật. Dù chúng ta làm các Phật sự mà còn chạy theo giả thì
cũng chưa phải Phật tử.
Cái hay thấy và cảnh bị
thấy dường như là cảnh trước mắt mà vốn là từ giác minh của ta do thấy theo
cảnh mà thành bệnh.
Tại sao nói do thấy theo
cảnh mà thành bệnh? Như đoạn trước, trong ví dụ Phật đã dẫn: lìa mặt trăng thật
không có bóng mặt trăng dưới nước và mặt trăng thứ hai, hai cái này không ngoài
thể mặt trăng. Cho nên cái thấy (kiến) cùng với cảnh bị thấy (kiến duyên)
nguyên là thể giác minh, nhưng vì cái thấy chạy theo cảnh (sở duyên) mà thành
bệnh. Do chúng ta không thấy thể mặt trăng, lại nhận bóng trăng dưới nước hoặc
mặt trăng thứ hai mà thành bệnh.
Cái hay thấy và cảnh bị
thấy dường như là hiện tiền, cũng như con mắt bệnh và bóng tròn, dường như hiện
tiền, thật ra vốn từ thể giác minh của ta. Thấy bóng tròn là do con mắt bệnh,
mà mắt bệnh là từ mắt sáng. Trước nguyên là sáng, nhưng do duyên có gì đó mà
thành bệnh. Khi bệnh thấy lòa, lúc trị hết bệnh thì trở lại mắt sáng như cũ.
Nếu trước không có mắt sáng thì nay bị lòa đâu gọi là bệnh, cho nên mắt bệnh
gốc từ mắt sáng, không ngoài mắt sáng. Vậy mắt bệnh không phải là bản hữu, bản
hữu là mắt sáng.
Cũng thế, tất cả mê lầm
của chúng sanh gốc từ bản giác, cho nên thấy cảnh này cảnh kia cũng không ngoài
bản giác. Bản tâm chân thật thanh tịnh là cái sẵn có, còn mê lầm là duyên cớ
sau này, trị hết mê lầm thì trở về bản tâm thanh tịnh. Do đó Phật nói, từ tâm
thể thanh tịnh, do mê lầm mà sanh ra sơn hà đại địa, chúng sanh... Hết mê lầm
thì trở về bản thể thanh tịnh. Chỗ này rõ ràng dễ hiểu, nhưng sống được thật là
khó, bởi vì lỡ bị nhặm. Đang nhặm mà bảo không thấy bóng tròn là khó.
Giác kiến tức là bệnh,
còn bản giác minh tâm biết được các duyên thì không bệnh. Biết được cái thấy
biết bệnh, biết này không ở trong bệnh. Đây thật là tánh thấy hằng thấy (kiến
kiến) vậy, sao gọi đó là thấy nghe hiểu biết được?
Giác kiến là thấy biết theo cảm giác thông thường, duyên theo
cảnh, gọi là vọng giác, vọng tâm, là cái thấy bệnh. Tâm sáng suốt sẵn có hay
biết được các duyên thì không bệnh. Như khi chúng ta biết được vọng tưởng thì
vọng tưởng là sở giác. Vọng tưởng là bệnh, còn thấy biết được vọng tưởng đó
không bệnh. Đây mới thật là nghĩa kiến kiến, giác sở giác vậy.
Chữ kiến trước là năng giác tức bản giác, chữ kiến sau là sở giác. Bản giác là
tâm thường trực, sở giác là tâm vọng tưởng duyên theo bóng của ngoại cảnh. Thấy
được vọng tưởng là năng giác, còn vọng tưởng là sở giác. Sở giác bệnh chứ năng
giác không bệnh, nên không lệ thuộc vào những sự thấy nghe hiểu biết chạy theo
cảnh bên ngoài.
Thế nên nay ông thấy ta
và ông cùng với mười loài chúng sanh ở thế gian, đều là cái thấy do mắt bệnh,
không phải cái thấy bị bệnh. Tánh thấy chân thật kia không phải bệnh, nên chẳng
gọi là thấy.
Hiện giờ chúng ta thấy
người, vật, cảnh ở thế gian cho là thật, đó là thấy theo nghiệp, là thấy do mắt
bệnh. Chúng ta thấy trần cảnh phân biệt hay dở, đó gọi là cái thấy bệnh. Biết
âm thanh sắc tướng kia là giả dối không thật, cái biết này không phải bệnh. Học
đến đây chúng ta mới thấy rõ ràng đường lối tu hành qua lời dạy của Phật. Giác
được cái sở giác là bệnh thì giác đó không bệnh. Biết được vọng tưởng thì cái
biết vọng tưởng đó không phải bệnh. Đây là nghĩa kiến kiến ở
trên. Vọng tưởng là tướng duyên theo bóng dáng của pháp trần. Pháp trần là bóng
thì cái duyên theo cũng là bóng, thuộc về giả dối. Cái biết được vọng tưởng thì
không phải vọng tưởng, không chạy theo bóng nên nói cái giác đó không bệnh.
Nhiều người không rõ,
nghĩ rằng tu biết vọng không theo mà vọng cứ lên hoài chẳng khác nào như lảy lá
cây, bẻ cành nhánh chứ không bao giờ bứng được gốc của nó. Người ta cứ tìm cách
bứng gốc, nhưng gốc có thật không mà bứng? Đó chỉ là tưởng tượng si cuồng. Vọng
tưởng không thật làm sao có gốc mà bứng! Vừa thấy nó là nó mất rồi, còn gì mà
bứng! Cho nên biết nó không thật, không theo nó là đủ rồi.
Hiểu vậy mới thấy điều
chủ yếu của sự tu, bằng không cứ lẩn quẩn tìm kiếm, tưởng như có một pháp thật
để tu. Thiền tông thường nói: "Tông ta không ngữ cú, không một pháp cho
người." Chỉ đừng theo vọng tưởng điên đảo tức là tu rồi. Chính khi học
kinh, được giảng giải rõ ràng, tự mình thấu hiểu, tự ứng dụng tu. Cũng có người
khi tu học được chút ít tưởng là đủ, đến khi gặp chướng có những điều chưa biết
lại bị rối rắm. Do đó không nên tự mãn, đôi khi đi lệch đường không hay.
Này A-nan, như những
chúng sanh kia thấy sai lầm theo nghiệp chung, so với một người thấy sai lầm do
nghiệp riêng thì một người có bệnh mắt cũng đồng như người trong cõi nước kia.
Người thấy bóng tròn kia là do bệnh mắt vọng sanh ra. Còn trong nước kia hiện
ra những điềm không tốt là do nghiệp chung, nên chúng sanh đồng thấy các thứ
chướng ác. Cả hai đều do cái thấy hư vọng từ vô thủy sanh ra. Giống như ba ngàn
châu trong cõi Diêm-phù-đề, gồm bốn biển lớn và thế giới Ta-bà, cùng mười
phương các cõi nước hữu lậu và các chúng sanh, đồng là tâm giác ngộ sáng suốt
vô lậu nhiệm mầu. Các sự thấy nghe hiểu biết là bệnh duyên hư dối, hòa hợp vọng
sanh, hòa hợp vọng tử.
Nghiệp riêng của một
người gọi là biệt nghiệp. Nếu tất cả chúng sanh đồng thấy, hay tất cả người
trong một nước đồng thấy một cảnh thì gọi là đồng nghiệp. Cả hai trường hợp đều
là thấy lầm theo nghiệp. Tất cả người ở trên thế giới Ta-bà này, cho tới mười
phương thế giới, những chúng sanh còn trong hàng hữu lậu, đều không ngoài tánh
giác sáng suốt, tâm vô lậu thanh tịnh, do quên mà chạy theo những thấy nghe,
cảm giác, hiểu biết hư vọng, vốn là bệnh duyên hư dối. Bởi chạy theo đó nên hòa
hợp với nghiệp mà sanh, rồi cũng hòa hợp với nghiệp mà tử, kế tiếp lại sanh chỗ
khác cũng là theo nghiệp.
Sanh và tử này là do
chúng sanh chấp theo vọng kiến của mình, cho nhân duyên hòa hợp là sanh, nhân
duyên ly tán là tử. Thật ra trong đó không có hòa hợp và ly tán thật, chỉ tướng
hư dối do bệnh duyên phát khởi. Nó không thật mà chúng ta cứ chấp là thật. Dù
cho có sanh có tử trăm ngàn lần đi nữa thì cũng không ngoài giác minh vô lậu
diệu tâm. Nếu bây giờ chúng ta biết tất cả đều từ một giác minh vô lậu
diệu tâm mà ra thì sanh hay tử đối với mình có còn quan trọng nữa
không?
Như khi chúng ta ra
biển, thấy toàn thể mặt biển thênh thang, thì những lượn sóng trồi lên hụp
xuống sánh với mặt biển có còn quan trọng không? Những lượn sóng lên xuống ví
dụ cho sanh tử. Trồi lên là sanh, hụp xuống là tử. Những lượn sóng trăm ngàn
lần trồi lên hụp xuống đó, đối với mặt biển nào có giá trị gì. Khi đã biết được
mặt biển thì trăm ngàn lượn sóng trên biển cũng là mặt biển, không ngoài mặt
biển mà có. Do chưa biết mặt biển nên thấy từng lượn sóng là quan trọng, nói
lượn này to lượn kia nhỏ, lượn này dài lượn kia ngắn v.v... Chúng ta tưởng
chúng là thật, nhưng thật ra đều do duyên hợp, có gió thổi thì dậy sóng, gió
lặng thì sóng dừng, không có gì thật.
Cũng vậy, chúng ta mê
muội nên chạy theo duyên trần, cho những duyên hòa hợp là sanh, khi các duyên
ly tán là tử. Chúng ta thử kiểm lại xem đời sống mình có phải do hòa hợp không?
Rõ ràng là sự hòa hợp: hòa hợp của tứ đại, hòa hợp của tâm thức mà có sự sống.
Nếu các thứ hòa hợp này rời ra thì sự sống tìm ở đâu? Như vậy sự sống bảy tám
mươi năm tưởng dài, thật ra không có gì dài ngắn cả. Thời gian cứ cuồn cuộn
trôi không dừng, một đời tưởng là dài đó chỉ do cái thấy mê lầm theo nghiệp mà
ra. Đối với cõi trời thì tuổi thọ con người thật quá ngắn. Con chó, con gà, con
vịt... đời sống ngắn ngủi hơn con người nhiều, nhưng chúng cũng thấy đầy đủ lắm
rồi. Như vậy tùy theo nghiệp mà chúng sanh thấy hoàn cảnh và thọ mạng của mình
vừa với ý muốn.
Do mê muội chấp vào các
tướng sanh diệt, con người bằng lòng thỏa mãn với đời sống của họ. Chúng ta tu
thì không chấp nhận tự mãn với cuộc sống tạm bợ vô thường này, nên nói tu để
giải thoát sanh tử. Giải thoát sanh tử thì trở về đâu? Bao nhiêu sóng lặng
xuống thì về biển. Bao nhiêu vọng tử dừng thì trở về vô lậu diệu tâm. Nên
biết giác minh vô lậu diệu tâm là bản thể trùm khắp bất
sanh bất diệt, đó là giác ngộ trở về chỗ chân thật. Đây là mục tiêu chủ yếu của
người tu.
Nếu hay xa lìa các duyên
hòa hợp và chẳng hòa hợp, là diệt trừ các nhân sanh tử, tánh Bồ-đề viên mãn
không sanh không diệt, bản tâm thanh tịnh, bản giác thường trụ.
Nếu chúng ta xa lìa được
hai thứ hòa hợp và chẳng hòa hợp, tức là sanh và tử, thì không còn nằm trong
các duyên đối đãi nữa. Thoát khỏi đối đãi là trừ được nhân sanh tử, mà trừ được
nhân sanh tử thì quả Bồ-đề tròn đầy.
Con người thường sống
với hai thứ vọng kiến: đồng phần vọng kiến và biệt nghiệp vọng kiến, nói gọn là
đồng nghiệp và biệt nghiệp. Chúng sanh cho những gì mình thấy biết là thật rồi
theo nghiệp mà lưu chuyển. Bây giờ biết rõ tất cả những sai biệt đó đều hư dối
không thật, vốn không rời tâm giác minh vô lậu, tức không bị nghiệp dẫn nữa, đó
là thoát khỏi vọng sanh và vọng tử, Bồ-đề viên mãn, sống trở
lại bản tâm thanh tịnh, bản giác thường trụ.
Phật đánh thức chúng ta
ra khỏi sự mê lầm bị nghiệp làm chủ, thấy các pháp thế gian đều thật. Với Phật,
tất cả những gì có hình tướng đều hư dối. Chúng ta nghe khó hiểu vì mình cũng
như người đang nhặm mắt, thấy đèn có bóng tròn, Phật như người không bị nhặm,
không thấy có bóng tròn. Bởi vậy tu là khéo chuyển những nghiệp cũ, sao cho
càng ngày càng nhẹ nhàng trong sạch thì mọi điều Phật tổ nói ra chúng ta sẽ cảm
thông được hết.
Muốn không còn thấy bóng
tròn phải trị bệnh nhặm, muốn hết lầm mê không gì hơn là trị bệnh vọng tưởng.
Vọng tưởng hết thì lầm mê theo đó sạch. Ngồi thiền chính là trị bệnh, thấy như
tiêu cực mà thật ra là tích cực. Người lo dẹp những thứ bên ngoài, xem như tích
cực nhưng chẳng đến đâu, vì không trị tận gốc, không đúng căn bản.
11. Tánh thấy không
thuộc nghĩa hòa hợp
Này A-nan, tuy ông trước
ngộ bản giác sáng suốt nhiệm mầu, tánh nó không phải là nhân duyên, không phải
tự nhiên, mà vẫn chưa rõ giác nguyên này không phải hòa hợp cũng không phải
chẳng hòa hợp sanh.
Này A-nan, nay ta lại
đem tiền trần mà hỏi ông. Nay ông vẫn lấy tất cả vọng tưởng hòa hợp các tánh
nhân duyên ở thế gian, mà tự nghi lầm rằng chứng được tâm Bồ-đề là do hòa hợp
mà có. Vậy hiện nay tánh thấy sáng suốt nhiệm mầu của ông là cùng với sáng hòa
hay cùng tối hòa, cùng với thông hòa hay cùng bít hòa? Nếu cùng với sáng hòa
thì khi ông thấy sáng, sáng phải hiện ở trước, vậy chỗ nào xen lẫn với cái
thấy? Cái tướng thấy có thể nhận rõ, còn hình dạng cái xen lẫn thì thế nào? Nếu
chẳng phải cái thấy thì làm sao thấy sáng? Còn chính là cái thấy thì làm sao
thấy cái thấy?
Một lần nữa đức Phật nêu
lên, tánh thấy thanh tịnh có phải do hòa hợp mà có không? Như hai món đồ hòa
chung, khi thấy cái này tất phải thấy cái kia, bây giờ chỉ thấy được sáng mà
không thấy được cái thấy thì sao gọi là hòa? Nếu tướng thấy có thể hiện được,
hòa với sáng thì chỗ hòa lẫn đó có hình trạng gì? Nếu chẳng phải là cái thấy
thì chẳng lẽ cái thấy lại hay thấy cái thấy!
Nếu cái thấy tròn đầy
thì chỗ nào hòa với sáng? Còn nếu sáng tròn đầy thì chẳng thể hòa hợp với cái
thấy.
Nếu cái này trùm khắp
thì cái kia đâu có chỗ chen vô, làm sao nói hòa?
Nếu cái thấy khác với
sáng thì khi xen lẫn ắt mất cái tên tánh sáng kia, nếu xen lẫn làm mất tánh
sáng, mà nói hòa với sáng là không đúng nghĩa. Cái tối, cùng các thứ thông và
bít kia cũng lại như thế.
Sáng là sáng, thấy là
thấy, hai cái khác nhau. Nếu thấy với sáng hòa lại thì mất cái tên sáng. Ví dụ
nước trong với sữa đặc, khi đổ sữa hòa đều với nước, có còn gọi là ly nước
trong được không? Vì hai thứ khác nhau mà hòa lẫn thì mất cái tên trước rồi.
Nếu còn tên trước thì không gọi là hòa.
Lại nữa A-nan, hiện nay
tánh thấy trong sạch mầu nhiệm của ông là cùng với sáng hợp hay cùng tối hợp,
là cùng với thông hợp hay cùng bít hợp? Nếu cùng với sáng hợp thì đến khi tối
tướng sáng đã mất, cái thấy này không cùng tối hợp thì làm sao thấy tối?
Hòa trộn lẫn nhau, còn
hợp là cái này với cái kia khít nhau. Cái thấy hợp với sáng nên thấy được sáng,
khi sáng mất thì cái thấy cũng theo đó mất, tức chẳng cùng tối hợp, làm sao thấy
được tối?
Nếu khi thấy tối mà
chẳng cùng tối hợp thì khi cùng với sáng hợp lẽ ra không thấy sáng. Đã không
thấy sáng thì làm sao hợp với sáng, biết rõ ràng là sáng chẳng phải tối. Các
thứ tối, thông và bít cũng lại như thế.
Khi thấy tối mà không
cùng tối hợp, tức phải cách ly mới thấy, như bao kính để ở ngoài này ta thấy,
để sát vào mắt thì chẳng thể thấy. Nếu vậy khi hợp với sáng lẽ ra không thể
thấy sáng vì nó kề nhau, khi không hợp mà thấy thì khi hợp lẽ ra phải không
thấy. Đã không thấy sáng thì làm sao gọi là hợp với sáng, để biết rõ ràng là
sáng chứ không phải tối?
A-nan bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn, như con
suy nghĩ thì nguồn giác nhiệm mầu này, cùng các duyên trần và tâm niệm nhớ nghĩ
không phải hòa hợp chăng?
Phật bảo:
- Nay ông lại nói tánh
giác không hòa hợp, ta lại hỏi ông: tánh thấy nhiệm mầu này chẳng phải hòa hợp,
là chẳng hòa với sáng hay chẳng hòa với tối, chẳng hòa với thông hay chẳng hòa
với bít? Nếu chẳng hòa với sáng thì cái thấy cùng với sáng ắt có ranh giới. Ông
hãy xem kỹ, chỗ nào là sáng, chỗ nào là thấy? Nơi cái thấy, nơi sáng, lấy từ
đâu làm ranh giới? Này A-nan, nếu ở bên sáng ắt không có cái thấy, thì không
đến với nhau, tự chẳng biết tướng sáng kia ở chỗ nào thì làm sao thành lập ranh
giới được? Những cái tối, thông và bít kia cũng lại như thế.
Như thửa đất này của
mình, thửa đất kia là của người khác, thì ở giữa phải có bờ ranh để phân chia
hai phần đất. Nếu sáng và cái thấy không hòa hợp nhau, thì giữa hai cái phải có
ranh giới. Nếu đã có ranh giới, thì trong cái sáng, cái thấy không chen vô
được, vậy có thấy được sáng không? Không thấy được sáng thì làm sao phân biệt
được ranh giới của nó?
Lại nữa, tánh thấy nhiệm
mầu nếu không phải hòa hợp, là không hợp với sáng hay không hợp với tối, không
hợp với thông hay không hợp với bít? Nếu chẳng hợp với sáng thì cái thấy cùng
với sáng có tánh trái nhau, như lỗ tai cùng với sáng rõ ràng là không xúc chạm
nhau. Vả lại, cái thấy cũng chẳng biết được tướng sáng ở chỗ nào, làm sao phân
biệt rõ được lý hợp và chẳng hợp? Đối với các thứ tối, thông và bít kia cũng
lại như thế.
Phật phá nghĩa hòa hợp
và chẳng hòa hợp. Đã là tướng hư dối không thật, thì nói cách này hay cách kia
cũng đều không đúng.
III. THU VỀ NHƯ LAI
TẠNG
Này A-nan, ông vẫn
chưa rõ tất cả phù trần là các tướng huyễn hóa, chính nơi đó sanh ra rồi từ nơi
đó mà diệt mất. Các thứ huyễn vọng gọi là tướng, nhưng tánh chân thật là thể
giác sáng suốt nhiệm mầu. Như thế cho đến ngũ ấm lục nhập, từ thập nhị xứ đến
thập bát giới đều do nhân duyên hòa hợp hư dối có sanh, nhân duyên biệt ly hư
dối gọi là diệt, mà chẳng biết sanh diệt đi lại vốn là Như Lai tạng thường trụ
sáng suốt nhiệm mầu, là diệu chân như tánh không động trùm khắp. Trong tánh
chân thường mà tìm cầu những thứ đi, lại, mê, ngộ, sanh, tử trọn không thể
được.
Tất cả tiền trần,
mọi sự sanh diệt do mắt thấy tai nghe, những cảm giác của chúng ta, đều là
tướng hư vọng huyễn hóa, nhưng tánh thật của nó là thể giác, tức Như Lai tạng
thường trụ diệu minh chứ không gì khác. Ví như sóng từ biển sanh, khi diệt lại
trở về biển. Chính nơi đó sanh ra rồi tùy nơi
đó mà diệt mất. Như những lượn sóng trên biển, nổi lên gọi là
sanh, lặn xuống gọi là diệt. Sự sanh diệt của những lượn sóng đó không rời mặt
biển. Biển dụ cho Như Lai tạng thường trụ sáng suốt nhiệm mầu. Những lượn sóng
sanh diệt đó dụ cho các thứ sanh diệt đó dụ cho các thứ sanh diệt, đến đi, nhân
duyên, hòa hợp, hoặc ngũ ấm lục nhập, thập nhị xứ thập bát giới v.v... Tất cả
muôn sự muôn vật đều là hư dối, nhưng không rời bản thể chân thật.
Hoặc như tất cả cây
cỏ mọc lên từ đất, khi hoại cũng về đất, nên nói chính nơi đó sanh ra, rồi tùy nơi đó mà diệt
mất. Các cây trên mặt đất thì sanh diệt không biết bao nhiêu lần,
nhưng đất vẫn luôn là đất. Đất dụ cho thể chân như thường trụ, còn cây cối mọc
trên mặt đất dụ cho các tướng nhân duyên, hòa hợp, sanh tử, là ngũ ấm, lục
nhập, thập nhị xứ, thập bát giới v.v... thảy đều hư dối không thật. Phần nhiều
chúng ta khi vào vườn, thường chỉ lo xem cành, kiếm trái, ít khi nhớ cái gốc là
từ đất. Chúng ta chỉ thấy các tướng sanh diệt mà quên cái thể thường hằng, nên
gọi là mê lầm, không thấy được lẽ thật.
Ngũ ấm, lục nhập,
thập nhị xứ, thập bát giới là những danh từ trong nhà Phật dùng để nói các pháp
thế gian. Lục căn hay lục nhập mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý chỉ cho thân. Ngũ
ấm gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Trong đó sắc uẩn là hình thức vật chất, còn
bốn uẩn kia thuộc phần tâm. Lục nhập là chỉ vào sáu cơ quan của thân. Thập nhị
xứ là chung cả sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý và sáu trần sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp. Thập bát giới gồm luôn sáu căn, sáu trần và sáu thức,
nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.
Thân, cảnh và tâm
thức, ba thứ này bao gồm tất cả các pháp thế gian. Đức Phật dùng mọi ví dụ lặp
đi lặp lại rằng thân, cảnh và tâm thức đều không thật, nguyên từ Như Lai tạng diệu chân như tánh mà
ra. Lâu nay chúng ta cho các tướng hư dối đó là thật và theo đuổi, quên mất Như
Lai tạng thường trụ diệu minh, giống như mình nhìn từng lượn sóng rồi phân tích
lượn sóng này to lượn sóng kia nhỏ mà quên mất mặt biển thênh thang vốn không
động kia.
Trong thể tánh chân
thường lại tìm cầu những thứ đi, lại, mê, ngộ, sanh, tử thì trọn không thể
được. Thể
tánh chân thường không còn đối đãi, không hư dối. Cho nên nói nhân duyên hay tự
nhiên, hòa hợp hay phi hòa hợp v.v... đều là nói hai bên, không thấy được chỗ
chân thật. Phật bác tất cả để chúng ta nhận lại thể thật nơi mình.
Đức Phật đã nói vạn
vật trên thế gian đều do chúng sanh thấy sai lầm mà hiện khởi, đến đây ngài
chia ra từng phần để chúng ta dễ nhận hơn. Trước hết Phật phân tích ngũ ấm
không thật, tức chúng sanh không thật. Kế đến Phật phân tích thập nhị xứ, thập
bát giới không thật, tức chúng sanh và ngoại cảnh không thật. Nếu thấy ngũ ấm,
thập nhị xứ, thập bát giới không thật thì tất cả thế gian người, vật... không
có gì là thật, đều từ Như Lai tạng mà ra.
1. Thu năm ấm
Này A-nan, thế nào
là năm ấm vốn là Như Lai tạng diệu chân như tánh? A-nan, ví như có người dùng
mắt trong trẻo xem hư không trong sáng thì chỉ thấy một khoảng không trong vắt
không có gì khác. Người kia vô cớ nhìn sững không chớp mắt, nhìn lâu nên phát
sanh mỏi mệt, riêng thấy trong hư không có hoa đốm lăng xăng, lại có tất cả
tướng lộn xộn, không có hình dáng cố định. Nên biết sắc ấm cũng lại như thế.
Như chúng ta nhìn
sững vào trời nắng chừng năm phút không chớp mắt thì sẽ thấy hoa đốm trong hư
không. Nó chớp chớp chứ không dừng ở chỗ nào, không có tướng mạo gì. Sắc ấm
dưới con mắt Phật cũng giống như hoa đốm cuồng loạn không thật.
Nói thân mấy chục
ký này là hoa đốm thì thật khó tin. Bởi cái nhìn của chúng ta là cái nhìn của
kẻ mê, nên thấy sắc thân là thật, tứ đại hòa hợp là thật. Đức Phật với cái nhìn
của người giác ngộ thấy thân là tướng hư dối tạm bợ không cố định, nên dùng
hình ảnh hoa đốm lăng xăng không có hình dáng cố định để dụ cho nó.
Nếu chúng ta hiểu
thân này tạm bợ như hoa đốm lăng xăng thì không còn gì để chấp, không còn tự
cao ngã mạn, khen chê v.v..., sự còn mất của nó không nghĩa lý gì. Do vậy nếu
bệnh ta cũng không quá lo lắng, sợ sệt, hoặc ai nói gì chướng tai cũng chỉ cười
tự tại. Thân này dù cực nhọc, khó khăn bao nhiêu mà vì lợi ích chúng sanh,
chúng ta sẵn sàng làm. Ngược lại nếu xem thân quý như kim cương, ai động tới
liền sân, đó là lầm mê.
Này A-nan, các hoa
đốm lăng xăng ấy chẳng phải từ hư không lại, chẳng phải từ con mắt ra. Như thế
A-nan, nếu hoa đốm từ hư không đến, đã từ hư không đến thì lại trở vào hư
không, nếu có ra vào tức chẳng phải là hư không. Hư không nếu chẳng trống rỗng
thì không thể dung được những tướng hoa đốm khởi diệt trong ấy, như thân thể
ông A-nan không thể dung chứa một A-nan nữa.
Sở dĩ hư không dung
được hoa đốm là vì nó trống rỗng. Nếu có ra vào thì hư không cũng như cái nhà
hay cái hang chuột, không thể dung được những thứ khác. Như ngài A-nan có hình
tướng rồi, không thể dung ngài A-nan thứ hai. Như vậy trường hợp hoa đốm từ hư
không ra không hợp lý.
Nếu hoa đốm từ con
mắt ra, đã từ mắt ra thì lại phải trở vào con mắt. Vì tánh hoa đốm này từ con
mắt ra nên phải có cái thấy. Nếu có cái thấy thì khi ra ngoài làm hoa đốm trong
hư không, quay trở lại phải thấy con mắt. Còn nếu không thấy thì khi ra đã che
tối hư không, lúc quay trở về phải che con mắt. Lại khi thấy hoa đốm, lẽ ra con
mắt không mờ, vì sao thấy hư không trong trẻo, mới gọi là con mắt trong sáng?
Do đây nên biết, sắc ấm hư dối vốn không phải nhân duyên, không phải là tánh tự
nhiên.
Con mắt thì thấy,
nếu hoa đốm từ mắt ra thì nó phải thấy. Khi ra ngoài làm hoa đốm trong hư
không, vậy lúc trở về nó hẳn phải thấy được con mắt. Nếu hoa đốm không thể
thấy, như cục bột hay đám mây gì đó, thì khi ra ngoài nó phải che mờ hư không,
và quay trở lại cũng sẽ che mờ con mắt. Nay con mắt chẳng mờ, nên khi thấy hoa
đốm, con mắt đáng lẽ không có bệnh. Tại sao chỉ khi thấy hư không trong trẻo
mới gọi là mắt sáng?
Phật lý luận quá
chi tiết, nhận thật kỹ mới thấy hay. Như vậy hoa đốm từ đâu ra? Nói từ hư không
chẳng được, từ con mắt ra cũng không phải. Ví dụ này cho biết rõ, sắc ấm chúng
ta đang mang đây, tức thân tứ đại này với cái nhìn của đức Phật là tạm bợ giả
dối, không thật. Nó giả dối không thật nên không phải nhân duyên, không phải tự
nhiên, không thể nói là cái gì được, nó không thuộc về cái gì, bởi nó giả tạm
như hoa đốm trong hư không. Đó là giải thích sắc ấm từ Như Lai tạng mà ra.
Này A-nan, ví như
có người tay chân yên ổn, thân thể điều hòa, chợt như quên mình, không thấy có
gì là trái thuận. Người kia vô cớ đưa hai bàn tay xoa nhau trong hư không, ở
trong lòng hai bàn tay dối sanh các tướng trơn, rít, lạnh, nóng... Nên biết thọ
ấm cũng lại như thế.
Như khi chúng ta
nằm yên thư giãn, thân thể an ổn, tưởng như quên mình đang sống, rồi vô cớ đưa
hai tay lên xoa một hồi thì trong tay có cảm giác trơn, rít hoặc ấm, lạnh.
Này A-nan, các cảm
xúc giả dối ấy không từ hư không đến cũng chẳng từ bàn tay ra. Như thế A-nan,
nếu từ hư không đến đã có thể xúc chạm bàn tay, tại sao không xúc chạm nơi
thân? Chẳng lẽ hư không biết lựa chọn chỗ để xúc chạm. Nếu từ bàn tay ra thì
đáng lẽ chẳng đợi hai tay hợp lại. Lại nữa nếu từ trong bàn tay ra, thì khi hai
tay hợp lại ắt có cảm xúc, khi tay rời ra cảm xúc phải trở vào, thì cánh tay,
cổ tay, xương, tủy lẽ ra cũng phải biết dấu vết khi nó trở vào. Ắt có tâm cảm
giác biết nó ra biết nó vào. Tự có một vật qua lại trong thân thì đâu đợi hai
tay hợp lại xoa mới biết, mà gọi là cảm xúc? Vậy nên phải biết, thọ ấm hư dối
vốn không phải nhân duyên cũng không phải tánh tự nhiên.
Nếu cảm xúc từ hư
không lại thì lẽ ra phải chạm mặt, chạm thân... trước, chẳng lẽ nó biết chọn
lòng bàn tay để chạy vào. Nếu do hai tay chắp lại xoa mà có cái nóng ở trong
ra, thì khi hai tay rời ra, cái nóng phải quay trở vào. Dấu vết của cái nóng đi
tới đâu, ẩn ở đâu, cánh tay, cổ tay hay xương, tủy đều phải biết. Nếu đã tự cảm
giác thì không đợi hai tay xoa lại mới có cảm xúc. Như vậy, từ ngoài hư không
đến không hợp lý mà từ trong bàn tay ra cũng chẳng phải.
Thọ ấm không thuộc
nhân duyên cũng không phải tự nhiên, vì nó là giả dối. Trong các kinh khác, có
khi Phật dạy thọ phát sanh là do nhân duyên, còn ở đây Phật phá nhân duyên. Vì
nói đến pháp nhân duyên là nói tới sự hòa hợp, cái này có nên cái kia có, cái
này không nên cái kia không, tức là có hai. Ở đây đang nói về đệ nhất nghĩa, về
tâm thể bất sanh bất diệt vượt ngoài nhân duyên đối đãi.
Các cảm xúc của
mắt, tai, mũi, lưỡi v.v... cũng đều như vậy. Do xúc mà có thọ. Vậy thọ ấm có
thật không? Không thật, nhưng chúng ta lại bị nó chỉ huy. Nếu bắt cái lưỡi ăn
rau muống chừng một tháng, nó liền đòi cái khác! Từ cái lưỡi có cảm thọ ngon
dở, và cũng vì muốn ăn ngon nên mọi người phải làm lụng cực khổ. Muốn nghe nhạc
hay là thọ lỗ tai. Muốn thấy đẹp là thọ của con mắt v.v... Khi những cảm thọ
được vừa ý thì gọi là hạnh phúc. Nhưng tất cả cảm thọ đều không bền, không
thật. Khi đang đối xúc dường như có, hết đối xúc thì không còn gì, có chăng chỉ
trong ảo tưởng. Vậy mà người ta bị các cảm thọ chỉ huy, lôi cuốn quay mòng mòng,
đem hết đời mình phục vụ cho cảm thọ, thật vô lý làm sao! Với con mắt Phật, các
cảm thọ là giả dối huyễn hóa, gốc từ diệu chân như tánh mà ra.
Này A-nan, lời nói
vè me đó không phải từ trái me sanh, cũng không phải từ miệng vào. Như thế
A-nan, nếu từ me sanh thì me nên tự nói, đâu đợi người nói. Còn nếu từ miệng
vào thì miệng nên tự nghe, đâu cần đến lỗ tai. Nếu riêng lỗ tai nghe thì nước
miếng này sao chẳng từ trong lỗ tai chảy ra? Tưởng đứng trên bờ vực cheo leo
cũng giống như lời nói me chua. Vì thế nên biết tưởng ấm hư vọng, vốn không
phải nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
Nghe nói me chua
hay nghĩ mình đang đứng ở bờ vực cheo leo, chưa phải là sự thật mà trong miệng
đã chảy nước miếng, lòng bàn chân đã nghe rờn rợn, nên gọi là tưởng. Tưởng này
không từ trái me đến hay từ miệng vào, không có chỗ y cứ, vốn là giả dối không
thật. Hoặc khi nhớ về quá khứ, những hình ảnh quá khứ hiện ra, khi nghĩ tới
tương lai, những hình ảnh tương lai xuất hiện trong trí, đó là tưởng. Tưởng như
huyễn hóa hư dối, vốn từ diệu chân như tánh mà ra.
Chúng ta luôn chấp
tưởng ấm là thật, khi lý luận với ai thường nói: "Tôi thiết tưởng việc này
phải thế này, việc kia phải thế kia...". Hoặc khi có thành kiến không tốt
với ai, bất kể họ có nói gì làm gì, mình cũng tưởng đến điều xấu của họ. Dù họ
nói với mình những lời hiền lành tốt đẹp, mình cũng cho là giả dối. Cho nên
tưởng rất nguy hiểm, gây ra biết bao khổ đau cho con người. Đời sống chúng ta
bị tưởng chi phối rất nhiều, mà tưởng là hư dối không thật, vốn từ diệu chân như
tánh mà ra.
A-nan, ví như dòng
thác, các lượn sóng tiếp nối nhau, lớp trước lớp sau không vượt thứ lớp. Nên
biết hành ấm cũng lại như thế.
Hành ấm là nhũng
suy tư, niệm này sanh niệm kia diệt, tiếp nối không dừng nghỉ nên gọi là hành.
Nó trôi chảy liên tục ví như dòng thác. Tuy luôn ầm ầm nhưng lớp trước lớp sau
chảy xuống thứ tự, không có đợt sau nhảy tới trước, đợt trước nhảy lui
sau.
Này A-nan, tánh
dòng nước như thế không nhân nơi hư không sanh ra, không nhân nơi nước mà có,
cũng không phải tách nước, cũng chẳng lìa hư không và nước. Như thế A-nan, nếu
nhân hư không mà sanh thì mười phương hư không vô tận thành dòng nước vô tận,
tự nhiên thế giới đều bị chìm đắm. Nếu nhân nước có thì dòng thác này lẽ ra
tánh nó không phải là nước. Nếu dòng thác tức là tánh nước thì khi nước trong
lặng lẽ, lẽ ra chẳng phải là thể của nước. Nếu lìa hư không và nước mà có thì
không có cái gì ở ngoài hư không, và ngoài nước không thể có dòng thác. Vì thế
nên biết hành ấm hư dối, vốn không phải nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
Chúng ta thấy, các
dòng thác thường từ những bậc trên cao đổ xuống khoảng không phía dưới, vậy mới
thành thác, nếu không có khoảng không thì chỉ gọi là suối. Như vậy khoảng thác
đổ là khoảng hư không, nên đặt vấn đề từ hư không mà ra hay do nước mà có. Nếu
từ hư không ra thì hư không sanh nước, khắp cả bầu hư không sẽ ngập tràn nước,
cả thế giới tự nhiên đều phải chịu chìm đắm. Như vậy nghĩa nhân hư không mà có
thác là không hợp lý.
Nếu nhân nước mà có
thì tất cả nước đều là thác và thác phải có tướng dòng nước chảy. Nếu nói dòng
thác là tánh nước thì khi nước dừng lóng lại ắt không phải là thể của nước. Bởi
vì thác là đổ ầm ầm mà thể của nước là dừng lặng. Nếu thể nước là tuôn đổ thì
khi nước ở trong lu nó cũng chảy ào ào hoài. Vậy nước nguyên là dừng, còn đổ đó
là thác, như vậy nếu gọi dòng chảy ầm ầm đó là nước, thì khi nước yên lặng tức
không phải là nước. Nói cách khác, nếu cho tướng động là nước thì tướng tịnh
không phải là nước, còn nếu tướng tịnh là nước thì động không phải là nước.
Nước nguyên thể là không động, do duyên có gió mà thành sóng. Dấy động lên
xuống là do duyên chứ không phải là thể của nước. Nếu thể nước là động thì ở
chỗ nào nó cũng động, như con cá, khi ở dưới biển bơi lội, bỏ trong lu nó cũng
bơi lội.
Nếu nói lìa hư
không và lìa nước mà có dòng thác cũng không được. Bởi vì dòng thác đổ xuống
trong khoảng không, có cái gì ở ngoài hư không đâu! Còn nếu lìa nước cũng không
thể có được dòng thác. Phật nêu lên hình ảnh dòng thác đổ là để nói cái không
thật, không có thực thể, chỉ là giả danh thôi.
Hành ấm của chúng
ta cũng vậy. Khi mình suy nghĩ, niệm trước niệm sau theo thứ lớp trôi chảy, dài
một mạch giống như dòng thác đổ. Chúng ta chấp cho suy nghĩ của mình là thật:
tôi nghĩ thế này, tôi nghĩ thế kia... Thật ra suy nghĩ đó không thật, nên hành
ấm không thật. Chúng ta cứ theo dòng suy nghĩ lăng xăng sanh diệt nên quên mất
bản tâm vốn yên lặng thanh tịnh. Chấp nhận tâm sanh diệt là mình, là bỏ quên
bản tâm bất sanh bất diệt.
Này A-nan, ví như
có người lấy bình Tần-già, bít hai lỗ lại, rồi vác bình chứa đầy hư không, đi
xa ngàn dặm, đến cho một nước khác. Nên biết thức ấm cũng lại như thế.
Này A-nan, hư không
đó không phải từ phương kia đến, cũng không phải đưa vào phương này. Như thế
A-nan, nếu từ phương kia đến, trong bình đã chứa hư không đem đi, thì ở chỗ để
bình trước đó nên thiếu một ít hư không. Còn nếu đem vào phương này thì khi giở
nắp bình trút ra, đáng lẽ phải thấy hư không ra, đáng lẽ phải thấy hư không ra.
Do đó nên biết, thức ấm hư dối, vốn không phải nhân duyên, không phải tánh tự
nhiên.
Bình Tần-già hình
dáng như con chim ca-lăng-tần-già, nó có hai lỗ ở hai đầu. Thức ấm cũng như hư
không ở trong bình mang đi vậy, không có thật. Hư không ở trong bình, nếu từ
chỗ kia mang lại thì ở đó phải thiếu một ít hư không và khi đến phương này sẽ
thấy hư không từ trong bình chạy ra.
Thể của tâm thức
trùm khắp như hư không, không có tướng mạo, kinh Lăng-già gọi là chân thức. Còn
thức ấm hay vọng thức, tức tâm phân biệt, chỉ là một chút xíu của cái biết này,
sánh với tâm thể giác ngộ không có nghĩa lý gì. Cũng như hư không trong bình
sánh với toàn thể hư không chỉ là một tí xíu trong cái vô biên. Chúng ta mê
lầm, chấp sự phân biệt của sáu căn, sáu thức là thật, nhận cái nhỏ xíu cho là
mình, quên mất tánh giác hay là diệu giác trùm khắp thênh thang không bờ mé
kia.
Qua ngũ ấm, đức
Phật đưa ra năm ví dụ:
- Sắc ấm dụ như hoa
đốm trong hư không, không có thật.
- Thọ ấm dụ như hai
bàn tay xoa có ấm, lạnh, trơn, rít, khi rời tay ra thì cảm giác này mất, tức
không thật.
- Tưởng ấm dụ như
nói me chua hay tưởng như mình đứng chỗ cheo leo, cũng không thật.
- Hành ấm dụ như
thác nước đổ, không có tự thể.
- Thức ấm dụ như hư
không trong bình, không thật.
Năm thứ này là hư
dối huyễn hóa mà mình chấp là thật, mất nó thì đau khổ, liền chụp năm ấm khác.
Cứ vậy mà đời này sanh tử, đời sau sanh tử, cứ tiếp nối trong vòng sanh tử,
Phật gọi đó là luân hồi. Bây giờ không chấp năm ấm hư dối nữa, biết rõ là từ
Như Lai tạng, diệu chân như tánh lưu xuất, thì tâm được an lành tự tại, sống
trở lại với tánh giác thường trụ bất sanh bất diệt thênh thang không bờ mé.
Hiểu được ý này, chúng ta mới thấy tu là vượt lên phàm tục. Phàm tục mê lầm,
chúng ta tu là để thoát khỏi mê lầm đó.
2. Thu lục nhập
Lại nữa A-nan, vì
sao sáu nhập vốn là Như Lai tạng, diệu chân như tánh?
Sáu nhập này đều là
hư giả, cũng phát nguồn từ Như Lai
tạng, diệu chân như tánh, chứ không riêng tự có. Mỗi đoạn đức Phật
đều nêu gốc của nó là Như Lai tạng, diệu chân như tánh.
Này A-nan, con mắt
kia nhìn sững nên sanh lao nhọc. Con mắt và sự lao nhọc đều là thể Bồ-đề, do
nhìn sững phát ra tướng lao nhọc.
Khi đứng lâu đi
lâu, chúng ta nghe nhọc, con mắt chăm chăm nhìn sững một hồi cũng nhọc, lỗ tai
lắng nghe lâu cũng nhọc. Hễ chăm chú quá, tự nhiên phát ra lao nhọc, liền có
những tướng cuồng loạn khác thường. Những cảnh sắc sai biệt do nhìn sững phát
sanh, gốc từ con mắt sáng ban đầu mà ra. Con mắt sáng chưa lao nhọc dụ cho tánh
thấy, nên nói gốc từ Bồ-đề.
Cái thấy chạy theo
ngoại trần của chúng sanh vốn là thể Bồ-đề, do lao nhọc mà phát ra tướng duyên
theo trần cảnh lăng xăng sanh diệt. Tại sao mỗi đoạn đều có câu này? Để nói
rằng ngay nơi sáu căn của chúng ta có sẵn tánh giác, tức là tri giác thường
hằng, nhưng vì đuổi theo lục trần nên có tướng lao nhọc từ tri giác phát sanh.
Năm căn đối trước năm trần, nếu chưa dấy niệm phân biệt, lúc đó là tánh giác.
Như chúng ta nhìn thấy cảnh vật, thấy đó là Bồ-đề. Nhưng khi chú tâm để theo
dõi, phân tích thì mới có vọng phân biệt này nọ. Đó là tướng lao nhọc, vốn
không ngoài thể Bồ-đề, do chú tâm theo dõi ngoại cảnh nên có tướng lao nhọc,
thành ra mất Bồ-đề. Để thấy nơi sáu căn, gốc là giác chứ không phải mê, nhưng
chúng ta lại đuổi theo mê, tức theo tướng lao nhọc, bỏ quên gốc Bồ-đề thật.
Nhân nơi hai thứ
vọng trần sáng và tối phát sanh cái thấy ở trong, thu nạp các trần tướng, gọi
đó là thấy. Cái thấy này lìa hai trần sáng và tối kia rốt ráo không có tự thể.
Sáng và tối, tuy
không có tướng mạo nhưng đây vẫn gọi là trần, vì hai tánh cướp đoạt lẫn nhau,
hễ có sáng thì không có tối, có tối thì không có sáng, tức thuộc về động, nên
gọi là trần. Sáng và tối thuộc về mắt thấy, nên thuộc sắc trần.
Thật vậy A-nan, nên
biết cái thấy này không phải từ sáng hay tối đến, không phải từ con mắt ra,
cũng không phải từ hư không sanh. Vì sao? Nếu cái thấy từ sáng đến tối thì lúc
tối đã theo sáng mà diệt, lẽ ra không thấy được tối. Nếu từ tối đến thì lúc
sáng cũng theo tối mà diệt, lẽ ra không thấy sáng. Nếu từ con mắt sanh ắt không
cần có sáng và tối. Như thế cái thấy vốn không tự tánh. Nếu từ hư không mà
ra thì trước xem thấy trần cảnh, xoay trở lại phải thấy con mắt. Lại hư không
tự xem, đâu quan hệ gì với con mắt của ông? Thế nên phải biết, nhãn nhập là hư
vọng, vốn không phải nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
Nếu cái thấy từ
sáng đến, nghĩa là do sáng mà sanh, thì khi tối, sáng đã mất, tức cái thấy cũng
theo đó mất, không thể thấy tối. Nếu từ tối sanh ra cái thấy, thì lúc sáng, tối
mất, cái thấy cũng theo đó mà diệt, không thể thấy sáng. Nếu không có sáng và
tối thì đâu thành cái thấy, vì vậy nên nói thể
của cái thấy vốn không có tự tánh. Nếu từ hư không ra, thì cái
thấy ở giữa tầng không này, khi nhìn ra ngoài thấy được cảnh, xoay trở lại nó
phải thấy con mắt.
Đức Phật nêu lên
cái thấy của chúng ta không thật, gốc từ Bồ-đề, do lao nhọc mà phát ra. Nó thu
nạp những trần cảnh bên ngoài, chung hợp thành cái thấy, vốn không có thật. Bởi
vậy không thể xác định được chỗ nơi nó phát sanh, không phải từ sáng hay tối,
không phải từ hư không, cũng không phải từ con mắt, mà đợi đủ duyên mới có
thấy. Vì vậy nên nói không có tự tánh, không phải
nhân duyên, không phải tự nhiên.
Chúng ta có thể
hoang mang, sao trước Phật nói tánh thấy không mất, rồi đến đây lại nói nó hư
dối không thật. Do vì cái thấy này đợi có cảnh duyên mới phát sanh, đối với tối
sáng, ngoại cảnh mà có phân biệt, đây gọi là tướng lao nhọc. Tuy nó hư dối
nhưng không rời cái thấy chân thật là tánh giác. Tánh thấy chân thật không nhân
tối sáng mà có, nên khi rời tối sáng nó vẫn không mất.
A-nan, ví như có
người lấy hai ngón tay bít kín hai lỗ tai, do lỗ tai lao nhọc nên trong đầu
phát ra có tiếng. Lỗ tai cùng với lao nhọc đồng là Bồ-đề, do chăm chú mà phát
ra tướng lao nhọc.
Nếu dùng ngón tay
nhét kín hai lỗ tai, tự nhiên nghe ù ù hay lùng bùng ở bên trong, đây là do
chăm chú mà phát ra tướng lao nhọc.
Nhân hai thứ vọng
trần động và tịnh mà phát ra cái nghe ở trong, thu nạp trần tượng, gọi đó là
tánh nghe. Cái nghe này lìa hai trần động và tịnh kia rốt ráo không có tự thể.
Thật vậy A-nan, nên biết cái nghe này chẳng phải từ động hay tịnh đến, chẳng
phải từ lỗ tai ra, cũng không phải từ hư không sanh. Vì sao? Nếu từ tịnh đến
thì khi động liền theo đó mà diệt, lẽ ra không nghe được động. Nếu từ động đến
thì khi tịnh liền theo đó mà diệt, lẽ ra không biết được tịnh.
Thông thường khi
động mới gọi là có nghe, lúc tịnh nói không nghe, nhưng sự thật khi không tiếng
chúng ta vẫn nghe, nếu không nghe làm sao biết lúc đó không tiếng. Khi có tiếng
động mình nghe tiếng này tiếng nọ, khi không có tiếng động thì nghe yên tịnh,
cũng là nghe chứ không phải đợi có tiếng mới nghe. Nếu cái nghe từ tịnh đến, do
tịnh sanh thì khi động, tịnh đã mất lẽ ra cái nghe cũng diệt, làm sao biết được
động. Ngược lại nếu cái nghe từ động đến, tức do động sanh ra thì khi yên tịnh
cái động đã mất, lẽ ra cái nghe cũng diệt, làm sao biết được tịnh.
Nếu từ lỗ tai mà
sanh ắt không có động và tịnh, như vậy thể của cái nghe vốn không tự tánh. Nếu
từ hư không mà ra thì đã có tánh nghe tức không phải hư không. Lại nữa, hư
không tự nghe thì đâu quan hệ gì với lỗ tai của ông. Thế nên phải biết nhĩ nhập
hư vọng, vốn không phải nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
Nếu từ lỗ tai mà
nghe thì không đợi có động, có tịnh. Nhưng thật ra không động tịnh thì đâu có
nghe, nên nói thể của cái nghe này vốn không tự tánh. Nếu hư không mà nghe được
thì không còn là hư không nữa. Đức Phật nêu lên cho chúng ta biết tánh giác từ
lỗ tai do nhọc nhằn phát ra tướng rồi chạy theo trần cảnh bên ngoài, cái nghe
này không thật, không có tự tánh. Bởi vậy nó không phải nhân duyên, không phải
tự nhiên.
Này A-nan, ví như
có người nắm chặt lỗ mũi, lỗ mũi bị nắm lâu thành nhọc, ắt là trong mũi nghe có
cảm xúc lạnh. Nhân có cảm xúc mà phân biệt được thông, bít, hư, thật, cho đến
các mùi thơm, hôi. Mũi cùng với mệt nhọc đồng là Bồ-đề, do chăm chú mà phát ra
tướng lao nhọc. Nhân hai thứ vọng trần thông và bít phát ra cái ngửi ở trong,
thu nạp những trần tượng gọi đó là tánh ngửi. Cái ngửi này lìa hai trần thông
và bít kia rốt ráo không có tự thể.
Thử nắm kín lỗ mũi
một lát, nước mũi muốn tươm ra, chúng ta có cảm giác lành lạnh ở trong mũi. Nơi
mũi cũng có tánh giác, vì chú tâm theo cảnh nên phát sanh lao nhọc, có các cảm
xúc. Cái ngửi chạy theo trần cảnh bên ngoài, thường là các mùi hương, nhưng ở
đây nói thông và bít, vì từ thông bít mới ngửi được mùi thơm hoặc hôi.
Nên biết cái ngửi
ấy không phải từ thông và bít đến, không phải từ lỗ mũi ra, cũng không phải từ
hư không sanh. Vì sao? Nếu từ thông đến, khi bít thì ngửi đã diệt, làm sao biết
được bít. Nếu nhân bít mà có, khi không thì không có ngửi, làm sao biết rõ được
các mùi thơm hôi v.v... Nếu từ lỗ mũi sanh ắt không đợi đến thông và bít. Như
thế cơ quan ngửi vốn không có tự tánh.
Cơ là cái máy. Mắt,
tai, mũi, lưỡi... gọi là các cơ quan. Thân này cũng là một cái máy, gọi là cơ
thể. Máy khi chế xăng dầu vào, ấn nút thì chạy, không có xăng dầu thì không
hoạt động. Máy chạy, thu hút được ngoại cảnh thì có cái biết, nó hư rồi thì cơ
quan đó không biết nữa. Rõ ràng chúng ta cũng chỉ là cái máy, có gì thật đâu mà
vỗ ngực xưng tên. Chúng ta chấp vào cái không thật, tự cho là mình, rồi quan
trọng đủ thứ, đó là điều sai lầm.
Nếu từ hư không mà
ra, cái ngửi này tự phải xoay lại ngửi lỗ mũi ông. Nếu hư không tự có cái ngửi
thì đâu quan hệ gì lỗ mũi của ông? Thế nên phải biết, tỹ nhập này hư vọng, vốn
không phải nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
Cái ngửi không từ
đâu sanh, không có tánh thật. Đức Phật nêu lên cho chúng ta rõ cái ngửi không
thật, do duyên theo trần cảnh mà có nên không cố định, không có tự thể, không
phải nhân duyên, không phải tự nhiên.
Này A-nan, ví như
có người dùng lưỡi liếm lên môi, liếm mãi khiến cho mệt nhọc. Người kia nếu
bệnh thì thấy có vị đắng, người không bệnh có cảm giác hơi ngọt. Do vị đắng và
ngọt mà hiển bày cái biết của căn lưỡi này. Khi không động thường có vị lạt.
Cái lưỡi cùng với mệt nhọc đồng là Bồ-đề, do chú tâm mà phát ra tướng lao nhọc.
Nhân hai thứ vọng trần đắng ngọt và lạt mà phát ra cái biết ở trong, thu nạp
các trần tượng này gọi là biết vị. Tánh biết vị này lìa hai trần đắng ngọt và
lạt kia rốt ráo không có tự thể.
Phân ra thành hai
trần: khi động, lưỡi nghe đắng hay ngọt là có vị; khi không động, nghe lạt là
không vị. Nhân hai thứ đó phát ra cái biết ở trong, thu nạp những trần tượng ở
bên ngoài mà thành ra tánh biết vị.
Thật vậy A-nan, nên
biết cái nếm biết được đắng hay lạt không phải từ vị đắng ngọt đến, không nhân
nơi vị ngọt mà có, lại không phải từ lưỡi ra, cũng chẳng do hư không sanh. Vì
sao? Nếu từ vị đắng vị ngọt lại, thì khi vị lạt ắt cái biết đã mất, làm sao
biết được vị lạt? Nếu từ vị lạt ra, lúc vị ngọt ắt cái biết đã mất, làm sao
biết được hai tướng đắng và ngọt? Nếu từ lưỡi sanh, ắt không có các trần ngọt,
lạt và đắng, thì căn biết vị này vốn không có tự tánh.
Nếu từ vị ngọt vị
đắng đến thì lúc lạt, vị ngọt và đắng mất, tức cái nếm biết cũng mất, làm sao
biết được lạt? Nếu từ lưỡi sanh thì không cần có các vị. Do tiếp xúc với các vị
mà có sự nếm biết, nay không có đắng, ngọt, lạt thì cái lưỡi cũng không biết
vị, nên nói không có tự tánh.
Nếu từ hư không ra
thì hư không tự biết vị, chẳng phải là miệng ông biết. Lại hư không tự biết thì
đâu quan hệ gì lưỡi của ông. Thế nên phải biết thiệt nhập hư vọng, vốn không
phải nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
Phật nêu lên thiệt
nhập, tức cái lưỡi tiếp xúc với các trần là vị đắng ngọt và lạt, vốn không
thật, từ lao nhọc phát sanh, nhưng gốc là từ tánh giác.
Này A-nan, ví như
có người dùng một tay lạnh xúc chạm một tay nóng. Nếu thế của lạnh mạnh, tay
nóng phải lạnh theo. Nếu thế của nóng thắng thì tay lạnh trở thành nóng.
Điều này rất cụ
thể, như tay mình cầm cục nước đá một hồi, rồi nắm lấy bàn tay kia, lát sau bàn
tay kia cũng lạnh theo. Nếu tay này hơ lửa cho ấm rồi nắm tay kia thì tay kia
thành ấm. Như vậy tùy theo thế lực bên nào mạnh thì bên kia bị ảnh hưởng theo.
Như thế, do xúc
chạm mà biết lúc hợp lại thì nên nhận biết rõ khi rời xa. Cái thế tương quan
nếu thành thì nhân nơi nhọc mệt mà phát ra cảm xúc.
Khi xúc chạm chúng
ta biết có cảm giác thì khi buông ra cũng có cái biết. Ví dụ như khi cầm món đồ
nóng, buông ra thì cảm thấy tay mát. Hoặc khi nắm vật lạnh, buông ra cũng biết
tay mình bớt lạnh. Nhân nơi thế tương quan can thiệp lẫn nhau, tức là tay nóng
nắm tay lạnh, hoặc tay lạnh nắm tay nóng, phát sanh nhọc mệt mà có cảm xúc.
Thân cùng với lao
nhọc này đồng là Bồ-đề, do chăm chú mà phát ra tướng lao nhọc. Nhân nơi hai thứ
vọng trần hợp và lìa phát ra cảm giác ở trong, thu nạp những trần tượng này,
gọi là tánh biết cảm giác. Thể biết cảm giác này lìa hai trần hợp ly trái thuận
rốt ráo không có tự thể.
Thể biết cảm giác
này lìa hai thứ hợp ly, trái thuận, cứu cánh không tự thể. Bốn thứ sao
nói có hai? Vì hợp và ly là một, trái và thuận là một, cộng lại thành hai trần.
Hợp và ly là một, tức là khi nắm lại hoặc buông ra đều có biết nên là một. Trái
và thuận là một. Khi tay chúng ta đang lạnh mà xúc chạm hơi ấm thì vừa ý, đó là
thuận. Nếu tay đang lạnh lại cho thêm cục nước đá nữa, tức là nghịch. Như vậy
tùy theo nhu cầu mà thành thuận hay nghịch, không cố định nên không tự thể.
Thật vậy A-nan,
phải biết cảm giác này chẳng từ hợp ly đến, chẳng từ trái thuận có, chẳng từ
trong thân ra, lại cũng chẳng phải từ hư không sanh. Vì sao? Nếu từ hợp đến thì
khi ly nó đã diệt rồi, làm sao biết được ly. Hai tướng trái thuận cũng lại như
thế. Nếu từ thân ra ắt không có bốn tướng hợp ly trái thuận, thì cái biết của
thân ông vốn không có tự tánh. Nếu từ hư không ra thì hư không tự có tri giác,
đâu quan hệ gì thân nhập của ông. Thế nên phải biết thân nhập là hư vọng, vốn
không phải nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
Thân nhập là cảm
giác của thân. Cảm giác đó không có tự tánh cố định, đợi duyên mới có cho nên
không thật. Bởi không thật nên nó không thuộc về nhân duyên hay tự nhiên.
Này A-nan, ví như
có người nhọc mệt thì ngủ, ngủ mãn giấc liền thức. Xem thấy trần cảnh thì nhớ,
không nhớ gọi là quên. Những thứ sanh trụ dị diệt điên đảo kia, thu nạp chứa
nhóm vào bên trong, không vượt thứ lớp nhau, gọi là căn ý biết.
Ý căn trong Duy
thức học là thức thứ bảy. Ở đây chỉ thức thứ sáu có công năng thu nhiếp các
trần vào trong, gọi là nhớ, khi không nhớ là quên. Lâu nay chúng ta không biết
sinh hoạt của ý như thế nào. Đức Phật chỉ đó là cái sinh hoạt điên đảo. Điên
đảo là sao? Là đảo ngược. Sanh trụ dị diệt là các tướng ở bên ngoài lại thu nạp
trở ngược vô trong. Như cây, khi mới trồng là sanh, cây đang tăng trưởng là
trụ, cây hơi khô héo là dị, cây hoàn toàn khô là diệt. Đó là chúng ta thấy ở
ngoài, nhưng ý lại thu nạp trở vô trong, khi nhớ lại thì những hình ảnh đó hiện
ra. Cảnh sanh trụ dị diệt ở ngoài, thu nạp trở ngược vô trong nên gọi là điên
đảo.
Khi thu vô trong
cũng có thứ tự, chứ không vượt thứ lớp. Giả sử hôm qua thấy bốn tướng sanh trụ
dị diệt hôm nay nhớ lại, nó cũng hiện ra sanh trụ dị diệt thứ lớp đàng hoàng.
Đó là công năng của ý, thu nạp các tướng sanh trụ dị diệt bên ngoài vào, rồi
phát ra thành cái cảm biết, gọi là ý căn hay ý tri căn.
Ý và mệt nhọc đồng
là Bồ-đề, do chăm chú nên phát ra tướng lao nhọc. Nhân nơi hai thứ vọng trần
sanh và diệt, nhóm hợp cái biết ở trong, thu nạp trần vào, có cái thấy nghe
ngược dòng, mà dòng không đến nơi, gọi là tánh giác tri.
Ý nhân nơi hai thứ
vọng trần sanh diệt - bốn thứ vọng trần sanh trụ dị diệt ở trên, góp lại
thành hai thứ sanh diệt - nhóm hợp cái
biết ở trong, thu gom các trần vào nên có cái thấy nghe ngược dòng. Thông
thường, khi tiếp xúc với trần cảnh, cả năm căn đều hướng ra ngoài, trái lại, ý
gom góp bóng dáng của tiền trần, chứa giữ bên trong. Khi cần nhớ lại, các hình
ảnh tuần tự hiện ra, gọi là pháp trần. Cái nhớ biết của ý trở ngược vô trong,
nên nói ngược dòng.
Tuy nhiên, lưu bất cập địa, trôi chảy
mà không đến nơi. Nó ngược dòng, nhưng chỗ nào là chỗ cùng của nó? Nếu nói theo
Duy thức là tới tàng thức, là chỗ chứa, nhưng ý tự nó nhớ ra, chứ không có chỗ
nào là gốc để nó tìm tới. Vì vậy nên nói ngược
dòng mà không đến nơi, gọi đó là tánh
giác tri, tức là cái biết về pháp trần.
Tánh giác tri này
lìa hai trần thức ngủ và sanh diệt rốt ráo không có tự thể. Thật vậy A-nan, nên
biết căn giác tri như thế không phải từ thức ngủ đến, không phải từ sanh diệt
có, chẳng phải từ ý căn ra, cũng không phải từ hư không sanh. Vì sao? Nếu từ
thức đến thì khi ngủ đã theo thức mà diệt, lấy gì làm ngủ? Nếu khi sanh mới có
thì lúc diệt tức đồng với không, lấy cái gì nhận ra là diệt? Nếu từ diệt có thì
khi sanh không có diệt, lấy cái gì biết là sanh? Nếu từ ý căn ra, thì hai tướng
ngủ và thức tùy theo thân khai hợp, lìa hai tướng đó giác tri này đồng với hoa
đốm trong hư không, rốt ráo không tánh. Nếu từ hư không sanh thì tự hư không
biết, đâu quan hệ gì với cái ý của ông. Thế nên phải biết, ý nhập là hư dối,
vốn không phải nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
Khi thức thì con
mắt mở, gọi là khai. Các căn tai mũi lưỡi v.v... trong tình trạng hoạt động,
tức là mở. Khi ngủ con mắt nhắm lại nên nói đóng. Tai mũi... cũng vậy, khi ngủ,
có ai đưa mùi thơm mùi hôi đến mình không hay, hoặc ai nói nho nhỏ mình không
nghe, tức là đóng, gọi là hợp. Bởi có khai có hợp nên mới có thu nạp ngoại
trần, lìa hai thứ này thì giác tri đồng như hoa đốm trong hư không, rốt ráo là
không tánh, không có tự thể.
Kết thúc phần Lục nhập, chúng ta cần nhớ ngay
nơi sáu nhập tức sáu căn đã có sẵn tánh Bồ-đề, nhưng khi lao nhọc thì duyên
theo trần cảnh. Cái biết duyên theo trần cảnh là hư dối không thật, còn Bồ-đề
là thể chân thật không sanh diệt. Hiện nay chúng ta sống với tướng lao nhọc hay
sống với Bồ-đề? Bởi sống với tướng lao nhọc nên sáu nhập của mình thành điên
đảo. Vậy mà chúng ta lại hài lòng tự mãn với cái điên đảo, hư dối đó.
Phần lục nhập này
thấy như tầm thường, nhưng thật hết sức thiết yếu cho sự tu. Hiện giờ chúng ta
tu là đang chuyển, đang gỡ những dính mắc của lục nhập để được giải thoát.
Người không biết tu thì từ lục nhập mà dính với sáu trần, thích ăn ngon mặc
đẹp, chạy theo dục lạc thế gian, gọi là điên đảo. Hằng ngày chúng ta thường bị
tam bành lục tặc quấy phá. Đó là ba độc tham sân si và sáu nhập. Sở dĩ những
thứ này hằng phá chúng ta tan hoang sự nghiệp, do vì mình chấp nó là thật rồi
sanh yêu ghét, dấy khởi loạn tưởng, che mờ tánh giác. Nay biết nó không thật
thì không còn đắm nhiễm, nên nó không thể phá hoại được mình.
Sáu nhập là hư dối
thì cái biết của sáu nhập có đáng tin không? Mọi người thường nói: "Mắt
tôi thấy rõ ràng, tai tôi nghe rõ ràng... ". Cái gì mắt thấy, tai nghe đều
cho là sự thật. Nhưng đối với Phật thì đó là tướng hư dối không thật. Hư dối mà
tưởng là thật, đó là mê lầm. Cho nên cãi hoài không thôi! Thấy nghe không thật
thì lấy đâu làm căn cứ để biện ra lẽ thật mà cãi. Hiểu vậy thì không còn cố
chấp, tự nhiên được nhẹ nhàng. Tuy nhiên nói thì dễ, đến khi đụng cảnh mới thấy
không dễ. Cũng như Phật dạy thân này như hoa đốm, nhưng chúng ta thấy nó như
kim cương quý chắc, lâu dài.
Khi biết lục nhập
hư dối không thật, chỉ là cái bóng, thì không còn lệ thuộc vào nó, không bị các
trần cảnh hư dối lừa gạt mà chạy theo, đó chính là tu. Dù vậy, khi tỉnh táo thì
không chạy, lúc mê chạy hồi nào không hay. Biết các lãnh thọ là không thật,
nhưng khi lãnh thọ rồi buông bỏ không dễ. Thông thường khi mắt thấy, tai nghe,
mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm, ngay ở sát-na đầu, tánh Bồ-đề luôn sáng tỏ;
đến sát-na kế, có ý thức chen vào, tánh Bồ-đề bị ẩn đi. Cho nên sự tu thiết
thực nhất, căn bản nhất chính là tu nơi sáu căn của mình. Bởi vì chúng ta luôn
tiếp xúc với trần cảnh, bằng mắt, hoặc bằng tai, mũi, lưỡi... Trong mọi tiếp
xúc đó, đều thấy là huyễn hóa, không quan trọng một thứ gì, đó chính là thiết
yếu, là huyết mạch sự tu.
Như vậy, trong tu
tập cần yếu phải thấy cho thật rõ. Đức Phật cố tình chia chẻ để chúng ta nhận
ra lục nhập là tướng hư vọng không thật, không
phải nhân duyên, không phải tự nhiên. Nếu chạy đuổi theo trần
thì lục nhập là mấu chốt làm cho con người khổ đau. Không theo lục nhập là trở
lại với Bồ-đề, tức Như Lai tạng diệu chân như tánh, sống với cái chân thật viên
mãn sẵn có nơi mình.
3. Thu mười hai xứ
Lại nữa A-nan, thế
nào là mười hai xứ, vốn là Như Lai tạng diệu chân như tánh? Này A-nan, ông hãy
xem rừng cây Kỳ-đà này và các ao suối. Ý ông nghĩ sao? Những thứ này từ sắc
sanh ra cái thấy của con mắt, hay mắt sanh ra sắc tướng? Này A-nan, nếu lại từ
mắt sanh ra sắc tướng, thì khi thấy hư không chẳng phải sắc, lẽ ra tánh sắc
phải tiêu mất. Tánh sắc tiêu mất thì rõ ràng tất cả đều không. Sắc tướng đã
không thì cái gì rõ được bản chất của hư không? Đối với hư không cũng lại như
thế.
Đoạn này nêu lên
sắc trần và nhãn căn, cái nào sanh ra cái nào? Mới nghe thấy như vô lý nhưng
chúng ta lại hay kẹt trong đó. Ví dụ như đưa tay lên hỏi "thấy
không", trả lời "thấy", rút tay lại hỏi "thấy không",
trả lời "không". Như thế là cho rằng có tay (sắc trần) mới có thấy,
vậy sắc trần sanh ra cái thấy. Rút tay lại tức mất sắc trần, nói không thấy.
Hầu hết người thế gian thường chấp nhận như vậy, có sắc trần gọi là có thấy,
không sắc trần là không thấy. Nhận lầm mà vẫn chấp là đúng.
Nếu cái thấy của
mắt sanh ra sắc tướng thì khi nhìn chỗ không có sắc tướng, cái thấy cũng theo
đó mất, như thế tất cả đều là không, vậy cái gì biết được tướng không này? Đối
với hư không cũng vậy, nếu cái thấy từ mắt sanh ra hư không, thì khi nhìn các
sắc tướng, cái không đã mất, thấy cũng theo đó mất, thì không thể phân biệt
được các sắc.
Lại nếu sắc trần
sanh ra cái thấy của con mắt, thì khi xem hư không chẳng phải sắc, cái thấy ắt
tiêu mất. Cái thấy mất thì tất cả là không, vậy cái gì rõ được sắc và không?
Thế nên phải biết cái thấy, sắc tướng và hư không đều không có xứ sở, tức sắc
tướng cùng với cái thấy, hai xứ đó là hư dối, vốn không phải nhân duyên, không
phải tánh tự nhiên.
Nếu từ sắc sanh ra
cái thấy của con mắt, thì khi thấy hư không, chẳng phải là sắc, cái thấy cũng
tiêu mất. Cái thấy mất rồi thì làm sao phân biệt được là sắc là không. Thế nên
biết rằng sắc xứ và nhãn xứ, cả hai đều là hư dối, không phải nhân duyên, không
phải tự nhiên.
Này A-nan, ông lại
nghe trong vườn Kỳ-đà này, khi dọn cơm xong liền đánh trống, khi họp chúng thì
đánh chuông, tiếng chuông tiếng trống trước sau nối nhau. Ý ông nghĩ sao? Những
âm thanh này là từ tiếng đến bên lỗ tai hay lỗ tai đến chỗ có tiếng? A-nan, lại
nếu những tiếng này đến bên lỗ tai, như ta đi khất thực nơi thành
Thất-la-phiệt, tại rừng Kỳ-đà ắt không có ta. Những tiếng này đã đến chỗ tai
A-nan thì Mục-kiền-liên, Ca-diếp lẽ ra không cùng nghe. Huống chi trong đây có
tới một ngàn hai trăm năm mươi vị Sa-môn, một khi nghe tiếng chuông đồng đến
chỗ ăn cơm.
Chỗ này làm cho
chúng ta có một nghi vấn. Ở Ấn Độ không có đánh trống, mà đây nói đánh trống
họp chúng. Lại đi khất thực thì đâu có dọn cơm, như ở chùa nấu ăn rồi dọn lên,
dọn xong đánh bảng để chúng đến thọ trai. Những điều này là ảnh hưởng Trung
Hoa, có lẽ người xưa mượn hình ảnh này làm ví dụ, để chỉ ra cái nghe không
thật, không có cội gốc.
Đức Phật cụ thể hóa
âm thanh giống như con người, hễ có mặt chỗ này thì vắng mặt chỗ kia, âm thanh
đến tai ngài A-nan thì không đến tai ngài Mục-kiền-liên v.v... Thời nay, chúng
ta đã biết âm thanh là sóng, vang ra khắp nơi. Nhưng ở đây Phật muốn cụ thể
hóa, để chỉ ra nó hư dối không thật. Khi học kinh, chúng ta cần biết cái nào là
phương tiện, dùng để giải thích hoặc để phá chấp, cái nào là chân lý Phật muốn
chỉ ra. Không nên chấp lời Phật dạy là vàng ngọc, là chân lý, cũng không nên
mắc kẹt nơi phương tiện rồi cho là lời Phật nói trái với khoa học. Cần thấu
được lẽ thật Phật muốn chỉ bày.
Lại nếu lỗ tai ông
đến bên tiếng kia, như ta khi trở về ở trong rừng Kỳ-đà, thì tại thành
Thất-la-phiệt không có mặt ta. Ông nghe tiếng trống, lỗ tai ông đã đến chỗ
tiếng trống thì tiếng chuông đồng thời phát ra đáng lẽ không đồng nghe. Huống
gì trong đó còn có những thứ âm thanh của voi, ngựa, trâu, dê? Còn nếu không
cái nào đến với cái nào thì cũng lại không nghe. Thế nên phải biết, cái nghe
cùng với tiếng, hai xứ đều là hư dối, vốn không phải nhân duyên, không phải
tánh tự nhiên.
Đức Phật chỉ cái
nghe và tiếng, cả hai đều không thật, đừng nên chấp.
Này A-nan, ông lại
ngửi chiên-đàn trong lò này, hương này nếu đốt chừng một thù (đơn vị đo lường
thời cổ Trung Quốc, 24 thù là một lượng) thì
cả thành Thất-la-phiệt trong vòng bốn mươi dặm đồng thời đều ngửi được mùi
thơm. Ý ông nghĩ sao? Mùi hương này sanh từ cây chiên-đàn hay sanh từ lỗ mũi
của ông, hay sanh từ hư không?
Này A-nan, lại nếu
mùi hương này sanh từ lỗ mũi ông, gọi là do mũi sanh thì phải từ lỗ mũi mà ra.
Lỗ mũi không phải là chiên-đàn, vì sao trong mũi lại có mùi chiên-đàn? Gọi là
ông ngửi mùi hương thì mùi hương phải vào trong mũi, còn từ trong lỗ mũi bay ra
mùi hương, nói ngửi là không đúng nghĩa.
Ngửi là hít vô, nay
từ lỗ mũi bay ra mùi hương, nếu nói ngửi là vô lý.
Nếu sanh từ hư
không, tánh hư không là thường hằng thì mùi hương nên thường còn, đâu cần đốt
cây khô chiên-đàn trong lò. Nếu sanh từ cây chiên-đàn thì chất hương này nhân
đốt cây chiên-đàn mà thành khói, nếu lỗ mũi ngửi được mùi thơm là nhờ hơi khói
xông đến mũi. Vì sao khói này bay lên hư không chưa được bao xa, thì trong vòng
bốn mươi dặm đều đã ngửi được mùi thơm? Thế nên phải biết mùi hương, lỗ mũi
cùng cái ngửi đều không có xứ sở, tức ngửi và mùi hương, hai xứ đó đều là hư
dối, vốn không phải nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
Nếu mùi hương theo
khói thì chỗ nào khói bay tới, chỗ đó mình mới ngửi được. Nhưng nay tại sao
khói bay lên chưa bao xa mà trong vòng bốn mươi dặm mọi người đều ngửi được?
Đức Phật nêu lên cho thấy hai xứ đều là tướng hư dối không thật.
Này A-nan, ông
thường hai thời ở trong chúng mang bình bát đi khất thực, trong ấy hoặc gặp
được tô lạc, đề hồ thì gọi là thượng vị. Ý ông nghĩ sao? Vị này sanh ra từ hư
không, từ trong lưỡi hay do thức ăn? A-nan, nếu vị này sanh từ lưỡi của ông,
trong miệng ông chỉ có một cái lưỡi, khi ấy lưỡi đã thành vị tô lạc, thì lúc
gặp đường phèn lẽ ra vị không dời đổi, nếu không biết đổi thì không gọi là biết
vị. Còn nếu biến đổi thì cái lưỡi chẳng phải nhiều thể, làm sao một cái lưỡi mà
biết được nhiều vị? Nếu sanh từ thức ăn, thức ăn không có tánh biết, làm sao tự
biết vị? Lại nếu thức ăn tự biết đồng với người khác ăn, đâu có liên hệ gì đến
ông mà gọi ông biết vị.
Phật đưa ra ba
trường hợp: vị ngon của đề hồ, tô lạc sanh từ hư không? Sanh từ cái lưỡi? Sanh
từ thức ăn? Vậy trả lời sanh từ cái nào? Nếu nó sanh từ trong lưỡi, thì lưỡi là
một hay nhiều cái? Nếu chỉ một cái lưỡi thì khi nó biết vị đề hồ ngon, ắt không
biết vị đường phèn ngon. Nếu vị nào cũng biết ắt có nhiều thể, tức là nhiều cái
lưỡi. Như vậy sanh từ lưỡi không hợp lý. Thế thì nó sanh ở đâu? Sẽ có người trả
lời sanh từ thức ăn. Cái vị ngon đó nếu sanh từ thức ăn thì tô lạc tự biết
ngon, đâu đợi để vô lưỡi mới biết ngon. Rõ ràng vị không phải sanh từ thức ăn.
Hai trường hợp trên đều không hợp lý, chẳng lẽ sanh từ hư không?
Nếu sanh từ hư
không thì ông thử nếm hư không coi sẽ là vị gì. Hư không kia nếu là vị mặn, đã
làm mặn được lưỡi ông thì lẽ ra cũng làm mặn luôn mặt ông. Như vậy người trong
thế giới này giống như cá ở trong biển. Đã thường nhận cái mặn thì trọn không
biết được vị lạt. Nếu không biết được lạt tức cũng không biết được mặn. Không
có chỗ biết thì làm sao gọi là biết vị? Thế nên phải biết, vị, cái lưỡi và sự
nếm đều không có chỗ nơi, tức nếm cùng vị trần, cả hai đều hư dối, vốn không
phải nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
Do có biết mặn biết
được lạt, nếu không biết cái này thì không biết cái kia. Đã không chỗ biết thì
không gọi là biết vị. Phật phá luôn hai xứ vị trần và thiệt căn.
A-nan, ông thường
sáng sớm lấy tay xoa đầu. Ý ông nghĩ sao? Do xoa mà có biết, là cái gì biết cảm
xúc? Cái biết cảm xúc ở nơi tay hay ở đầu? Nếu ở tay thì đầu ắt không biết, làm
sao thành xúc? Nếu ở đầu thì tay ắt vô dụng, sao gọi là xúc? Còn nếu mỗi bên
đều có xúc thì ông A-nan lẽ ra có hai thân.
Phật dạy các vị
Tỳ-kheo buổi sáng ngủ dậy phải lấy tay xoa đầu, để nhớ rằng mình là người xuất
gia, không còn theo đuổi danh lợi tài sắc gì nữa. Người thế tục có quyền nghĩ
cái này cái nọ, nhưng người xuất gia chỉ nghĩ việc bổn phận của mình.
Đoạn này Phật dùng
hình ảnh lấy tay xoa đầu làm ví dụ. Khi xúc, nếu cái biết đã ở nơi tay thì
không ở đầu, mà biết ở đầu thì không có ở tay. Nhưng xúc là chạm nhau, nếu một
bên biết, một bên không biết tức không thành nghĩa xúc. Nếu bên nào cũng biết
thì có nhiều cái biết, ắt có nhiều thân.
Nếu đầu và tay đều
do một cảm xúc sanh ra thì tay với đầu chỉ có một thể. Nếu là một thể, nghĩa
xúc ắt không thành. Còn nếu là hai thể thì xúc ở bên nào? Nếu ở bên năng thì
không tại sở, mà tại sở thì không ở bên năng. Không lẽ hư không cùng với ông
làm thành xúc.
Khi mình lấy tay
xoa đầu, tay xoa là năng, cái đầu là sở, lúc ấy cảm xúc ở tại chỗ nào? Nếu ở
bên năng có, bên sở cũng có tức là hai thể, mà hai thể thì cảm xúc thuộc về bên
tay hay bên đầu? Nếu bên năng thì không ở bên sở, mà bên sở thì không ở bên
năng.
Thế nên phải biết,
cảm xúc và thân đều không có xứ sở, tức thân cùng với xúc, cả hai đều hư dối,
vốn không phải nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
Những cảm xúc mà
chúng ta cho là có thật, đối với Phật là không thật. Thấy không thật và thấy
thật có lợi có hại thế nào? Nếu thấy cảm xúc là thật, chúng ta dễ mê đắm, còn
nếu biết cảm xúc là hư dối thì không đắm nhiễm, thoát được các nghiệp duyên về
xúc. Cho nên Phật chỉ ra sáu căn, thập nhị xứ, thập bát giới là hư dối không
thật, những cảm xúc nhận biết rốt cuộc đều là giả dối, để chúng ta không còn
đắm nhiễm.
Sở dĩ chúng ta đắm
nhiễm là từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Nếu tất cả xúc, nhất là từ năm căn
duyên với cảnh bên ngoài, đều cho là thật thì khổ dài dài. Chẳng hạn muốn ăn
thật ngon là kẹt cảm xúc của lưỡi. Vì muốn ăn ngon nên phải chịu tốn tiền, chịu
cực nhọc... Như vậy mới thấy khi bị lệ thuộc vào xúc là khổ.
Này A-nan, ông
thường trong ý duyên với ba tánh thiện, ác và vô ký, sanh ra các pháp tắc (pháp
trần). Pháp này là từ tâm sanh ra hay lìa tâm riêng có nơi chốn? Này A-nan, nếu
tức tâm thì pháp trần không phải là trần, không phải là chỗ duyên của tâm, thì
làm sao thành xứ?
Pháp trần là những
cái bóng của trần cảnh bên ngoài rơi rớt vào tâm, khi chúng ta ôn lại, nó hiện
ra rõ ràng. Ví dụ hôm qua mình thấy hai người đánh lộn, hôm nay ngồi ôn lại,
hình ảnh của hai người hôm qua hiện ra rõ ràng. Nếu nói pháp trần từ tâm sanh
ra thì nó là tâm rồi, đâu còn là trần. Không thành trần làm sao thành xứ? Vì ở
trong có căn, ở ngoài có trần mới thành xứ.
Nếu lìa tâm riêng
có nơi chốn thì tự tánh pháp trần là có biết hay không biết? Nếu có biết thì
gọi là tâm. Nếu khác với ông, cũng không phải trần cảnh thì giống như tâm lượng
người khác. Nếu pháp trần tức là ông cũng tức là tâm, thì làm sao tâm ông lại
thành hai được?
Nếu khác với ngài
A-nan tức không phải tâm ngài, cũng không phải là trần cảnh, mà nó là cái biết.
Là cái biết mà không phải tâm mình tức là tâm của người khác. Lại nữa khi mình
nhớ lại, pháp trần hiện ra, nó từ mình hiện nên nói "tức là ông". Nó
cũng là cái biết nên nói "tức là tâm". Như vậy làm sao tâm ngài A-nan
lại có hai cái? Một là ngài - cái biết pháp trần, hai là pháp trần - cũng là
cái biết. Vậy thì ngài có hai cái biết!
Nếu không có biết,
thì pháp trần này đã không phải sắc, thanh, hương, vị, ly, hợp, lạnh, nóng và
tướng hư không, vậy nó sẽ ở chỗ nào? Nay nơi sắc và không trọn không chỉ bày
được, chẳng lẽ ở nhân gian này lại có cái ngoài hư không? Nếu pháp trần là tâm
thì chẳng phải sở duyên, xứ do đâu mà lập? Thế nên phải biết, pháp trần và tâm
đều không chỗ nơi, thì ý căn cùng với pháp trần, cả hai đều hư dối, vốn không
phải nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
Nếu pháp trần không
phải là ông, cũng không phải tâm vì không có biết, thì nó là trần cảnh ở ngoài.
Vậy trong tất cả các trần bên ngoài, kể cả hư không, nó thuộc về cái nào? Nó
không thuộc cái nào hết, cho nên mới nói chẳng lẽ ở nhân gian này lại có cái
ngoài hư không. Lại pháp trần và ý căn, mỗi thứ mỗi phần riêng mới gọi là xứ.
Nếu pháp trần là tâm thì nó không phải là sở duyên, tức không phải trần thì
không thể lập thành xứ được.
Thế nên biết mười
hai xứ không có thật. Bởi không thật nên đừng chấp vào đó. Từ ngũ ấm lục nhập
đến thập nhị xứ, thập bát giới đều gốc từ Như Lai tạng diệu chân như tánh, tức
từ tâm thể chân thật mà phát sanh. Cũng như sóng và bọt trên mặt biển đều từ
biển mà ra. Sóng và bọt dù có tan tụ nổi chìm trăm ngàn muôn ức lần, biển vẫn y
nguyên. Cũng vậy, thân chúng ta và ngoại cảnh đều do mê lầm mà hiện. Do mê lầm
nên có sanh tử trăm ngàn muôn kiếp, nhưng thể giác tức Như Lai tạng thì không
bao giờ mất. Các tướng sanh tử hư dối này vốn không rời tâm thể chân thật bất
sanh bất diệt. Nếu không bị sanh tử chi phối thì sẽ trở về với cái bất sanh bất
diệt, tức là Như Lai tạng hay diệu chân như tánh.
Như vậy bỏ cái giả
để sống với cái thật là mục tiêu của người tu. Người không biết tu thì cứ đuổi
theo cái giả để rồi luân hồi sanh tử không có ngày cùng. Biết nó là giả, không
chấp nhận nó nữa, quay trở về cái thật, đó là thoát ly sanh tử. Như vậy thoát
ly sanh tử không phải là lên thiên đàng hay về với Đại Phạm thiên, mà chỉ là
không đuổi theo cái giả, trở về cái thật chính mình. Nếu muốn trở về cái thật
mà vẫn còn quý cái giả thì làm sao trở về được!
Trên thực tế, chúng
ta vẫn thấy thân căn là quan trọng, là đáng quý, căn và trần đang dính khít
khao với nhau, cho nên bị cuốn mãi trong hư dối không có chừng ngằn giới hạn.
Cái hư dối này tan hoại thì tiếp tới cái hư dối khác. Ví như sóng biển xô vào
bờ tạo nên những đám bọt. Gió thổi đám bọt này vừa tan lại có đám bọt khác nổi
lên. Tan rồi nổi, nổi rồi tan, không biết tới đâu dừng. Cuộc sống của những hòn
bọt đó có giá trị gì không? Hễ sóng còn bủa thì bọt còn nổi, nổi rồi lại tan.
Thân và cảnh này
cũng hư dối như hòn bọt trên biển. Nếu chấp vào đó để tự mãn thì chẳng khác nào
chấp vào những hòn bọt nổi tan. Phật thấy chúng sanh vô cùng đáng thương, quá
khờ dại ngu si, chấp hoài những hòn bọt. Cuộc sống này tạm bợ mấy mươi năm rồi
mất, so với cái chân thật không có tuổi thì không nghĩa lý gì, chẳng khác nào
đám bọt nước hợp tan. Vì vậy mà ở mỗi đoạn kinh đức Phật đều lặp lại: tất cả
các pháp thế gian là hư dối, vốn từ Như Lai tạng, diệu chân như tánh thường
hằng bất biến.
Chúng ta không học
lý thuyết suông, mà phải ứng dụng làm sao để thấy rõ thân và cảnh này tạm bợ
như bọt như bóng. Tuy nhiên trong giai đoạn đang có nó, chúng ta phải làm được
cái gì cho xứng đáng, chứ không ngồi đợi đến ngày nó tan. Ngay nơi căn cảnh này
phải khéo tu để chuyển từ hư dối trở về chân thật. Người tu Phật là cốt làm sao
được giác. Giác là nhận ra cái thật, không chạy theo cái giả, còn chạy theo cái
giả quên cái thật thì gọi là mê.
4. Thu mười tám
giới
Thập bát giới bao
gồm sáu căn, sáu trần và sáu thức. Khi căn tiếp xúc với trần thì sanh ra thức.
Căn trần thức hòa hợp mới có phân biệt hiểu biết. Như vậy căn trần thức là gồm
cả thân tâm và ngoại cảnh, tức tất cả các pháp. Cả mười tám giới Phật nói đều
không có thực thể, chỉ là huyễn hóa, giả danh, vốn từ Như Lai tạng diệu chân
như tánh phát sanh. Tuy nói mười tám giới nhưng nhắm thẳng vào phá thức giới.
Thức giới không lập thì căn và trần cũng không thể lập, vì căn ở trong, trần ở
ngoài, thức giới ở giữa, cái giữa không có thì trong và ngoài cũng không.
Lại nữa A-nan, thế
nào mười tám giới vốn là Như Lai tạng diệu chân như tánh? Này A-nan, như ông đã
rõ, con mắt và sắc trần làm duyên sanh ra nhãn thức. Thức này là nhân con mắt
sanh ra, lấy mắt làm giới hay nhân nơi sắc trần sanh ra, lấy sắc trần làm giới?
Giới là giới hạn,
ranh giới. Nhãn thức giới là giới hạn của nhãn thức, phạm vi của nhãn thức. Hỏi
từ con mắt sanh ra hay từ sắc trần sanh ra là để xác định phạm vi giới hạn của
nhãn thức.
Này A-nan, nếu nhân
con mắt sanh, mà không có sắc và không thì không thể phân biệt, dù có thức của
ông thì dùng vào việc gì?
Nếu nói nhãn thức
từ mắt sanh ra, lấy con mắt làm giới hạn của nó, nếu không có sắc trần, không
có hư không, lúc đó nhãn thức biết được cái gì, lấy đâu làm giới hạn? Con mắt
chúng ta muốn nhìn thấy sự vật phải qua một khoảng không. Ví dụ miếng giấy nếu
ép sát mắt thì không thể thấy được, phải cách xa một chút mới có thể thấy. Như vậy
trong có con mắt, ngoài có sắc trần, lại có một khoảng trống ở giữa là hư
không, ba thứ hợp lại mới có nhãn thức, tức cái thấy có phân biệt. Bây giờ nếu
sắc trần không có, hư không cũng không thì nhãn thức lúc đó phân biệt cái gì?
Dùng vào việc gì? Nó trở thành vô dụng.
Cái thấy của ông
lại không phải xanh, vàng, đỏ, trắng, không có chỗ chỉ bày thì do đâu mà lập
giới? Nếu nhân nơi sắc trần mà sanh, thì khi chỉ có hư không không có sắc, thức
của ông lẽ ra phải diệt, làm sao nhận biết đó là tánh hư không?
Giới là ranh giới
để phân biệt đây kia. Nhưng cái thấy không có hình sắc, không có chỗ chỉ bày
thì lấy gì làm ranh giới? Làm sao lập ra giới hạn của nó được. Nếu từ sắc trần
sanh thì nhãn thức thuộc về sắc trần, tức khi có sắc trần là có nó, không có
sắc trần là không có. Như vậy việc nhìn hư không, không có sắc trần, sắc trần
diệt thì thức cũng diệt, đã diệt thì làm sao biết đó là hư không?
Nếu khi sắc trần
biến đổi, ông cũng biết sắc tướng ấy biến đổi, thức của ông không đổi thì giới
từ đâu mà lập? Nếu theo sắc biến đổi mà biến đổi, thì tướng giới tự không lập
được, còn không biến đổi tức là thường hằng. Thức đã từ sắc sanh, lẽ ra chẳng
biết hư không tại chỗ nào.
Sắc trần luôn luôn
biến đổi sanh diệt, còn thức thì không biến đổi. Một bên biến đổi, một bên
không biến đổi. Nếu từ sắc sanh thì phải lập giới từ sắc, nay sắc trần dời đổi
khi có khi không, còn thức phân biệt thì không biến đổi, khi thấy hư không nó
cũng có, khi thấy sắc trần nó cũng có, vậy thì từ đâu mà lập được chỗ giới hạn
của nhãn thức?
Nếu thức theo sắc
trần mà biến đổi thì tướng giới dời đổi luôn, làm sao lập ranh giới được. Còn
nếu thức không biến đổi tức là thường còn, như thế một bên biến đổi một bên
không biến đổi, lập giới cũng được. Nếu đã từ sắc sanh tức lệ thuộc vào sắc,
khi nhìn hư không thì sắc đã mất, thức cũng theo đó mất, làm sao biết được hư
không? Đó là hai trường hợp, lập giới ở căn tức con mắt không được, ở sắc trần
cũng không được.
Nếu gồm cả hai thứ,
sắc trần và con mắt chung hợp sanh ra nhãn thức, hợp thì ở giữa lìa, lìa ra thì
hợp hai bên, thể tánh lộn xộn làm sao thành giới? Thế nên phải biết, con mắt và
sắc trần làm duyên sanh ra nhãn thức giới, ba chỗ đều không. Vậy cả ba thứ: con
mắt, sắc trần và sắc giới vốn không phải nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
Bên trong là con
mắt, bên ngoài là sắc trần, hai cái hợp lại thì ở giữa phải trống, vì nhãn thức
sanh ra ở giữa. Như hai tay chắp lại, ở giữa có khoảng hở trống, nên nói hợp thì ở giữa lìa. Còn khi lìa
ra thì nhãn thức ở giữa ắt phải chia ra, phân nữa hợp với sắc, phân nữa hợp với
con mắt, nên nói lìa thì hợp
hai bên.
Lối lý luận thật
đặc biệt. Thường chúng ta cứ nghĩ căn và trần hợp nhau sanh ra thức. Nhưng Phật
nêu lên ba trường hợp:
- Nhãn thức sanh từ
con mắt, không được.
- Nhãn thức sanh từ
sắc trần, không được.
- Nhãn thức sanh
giữa con mắt và sắc trần, tức hai cái hợp nhau sanh, cũng không được.
Này A-nan, lại như
ông đã rõ, nhĩ căn và thanh trần làm duyên sanh ra nhĩ thức. Thức này là nhân
nhĩ căn sanh ra, lấy nhĩ căn làm giới hay nhân thanh trần sanh ra, lấy thanh
trần làm giới? Này A-nan, nếu nhân nơi nhĩ căn sanh ra mà không có hai tướng
động tịnh hiện tiền, thì cái biết của nhĩ căn không thành, ắt là không biết gì.
Biết còn không thành thì thức có hình tướng gì?
Tai nghe tiếng động
gọi là động, hoặc không nghe động gọi là tịnh. Từ hai tướng động tịnh mà có cái
biết của tai. Nếu không có động tịnh thì lỗ tai nghe biết cái gì? Đã không có
chỗ biết thì làm sao có thức?
Nếu cho là lỗ tai
nghe, vì không có động tịnh, thì cái nghe cũng không thành. Làm sao lấy lỗ tai
có hình sắc lẫn lộn với xúc trần mà gọi là nhĩ thức giới? Vậy nhĩ thức giới lại
từ đâu mà lập?
Lỗ tai là da thịt,
có tướng mạo nên thuộc sắc trần. Nếu có xúc chạm, có cảm xúc, thì gọi là xúc
chứ làm sao gọi là thức? Thức là phân biệt, phải từ cái biết mới phân biệt
được, còn lỗ tai là sắc trần làm sao biết phân biệt. Sắc trần này lẫn lộn với
xúc trần, sao lại có cái phân biệt của thức, thành nhĩ giới được? Như vậy nói
nhĩ thức giới sanh từ lỗ tai là không đúng.
Nếu sanh ở thanh
trần, thức nhân thanh trần mà có thì không quan hệ gì với cái nghe. Đã không
nghe thì không biết tướng thanh trần ở chỗ nào. Nếu nhĩ thức từ thanh trần
sanh, dù cho thanh trần nhân nghe mà có tướng thì cái nghe lẽ ra phải nghe được
nhĩ thức. Nếu không nghe được thì không phải là giới, còn nếu nghe được thì nhĩ
thức đồng với thanh trần. Nhĩ thức đã bị nghe thì cái gì biết nghe thức? Nếu
không biết thì đồng như cây cỏ.
Âm thanh thuộc về
bên ngoài. Nếu từ tiếng sanh ra cái biết (thức) thì tiếng tự biết, đâu quan hệ
gì với cái nghe của tai, đã không nghe thì tướng tiếng cũng mất. Nếu nói thức
từ tiếng sanh thì khi chúng ta nghe tiếng cũng là nghe thức luôn. Nhưng thức
thì không thể nghe được, không nghe thì làm sao lập giới? Nếu thức từ thanh
trần sanh, mà thanh trần là tướng động, thì thức đó cũng biến thành một loại
như thanh trần, tức là đồng với tiếng. Nếu thức đã là cái bị nghe thì cái gì
biết nghe thức? Còn nếu không biết được thức thì lúc đó mình đã thành như cây
cỏ rồi. Như vậy nên biết nhĩ thức giới là không thật.
Không thể tiếng và
nghe xen lẫn mà thành nhĩ thức giới ở giữa. Giới không có vị trí ở giữa thì
tướng trong và ngoài lại từ đâu mà thành? Thế nên phải biết, tai và thanh trần
làm duyên sanh ra nhĩ thức giới, ba chỗ đều không. Vậy cả ba thứ: tai, thanh
trần và thanh giới, vốn không phải nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
Giới không lập được
ở giữa thì tướng bên trong bên ngoài lại do đâu mà lập? Khi chúng ta nói một
người ở trong nhà hay ở ngoài nhà là vì có cái vách ở giữa. Ở đây trong là căn,
ngoài là trần, giữa là thức, nếu thức ở giữa không lập được, làm sao lập trong
và ngoài? Như vậy căn trần và thức đều không phải nhân duyên, không phải tự
nhiên. Phật dùng lý luận phá cho dứt hết mọi lầm chấp cho rằng ba thứ đó là
thật, mới biết thảy đều từ Như Lai tạng lưu xuất.
Này A-nan, lại như
ông đã rõ, tỹ căn và hương trần làm duyên sanh ra tỹ thức. Thức này là nhân tỹ
căn sanh ra, lấy tỹ căn làm giới hay nhân hương trần sanh ra, lấy hương trần
làm giới? Này A-nan, nếu nhân nơi tỹ căn sanh thì trong tâm ông lấy cái gì làm tỹ
căn? Lấy cái hình thịt như tướng hai móng tay hay lấy tánh biết ngửi dao động
làm tỹ căn?
Phật hỏi ý ngài
A-nan lấy gì làm tỹ căn, lấy hình tướng cái mũi thịt như hai đầu ngón tay duỗi
xuống hay lấy cái biết mùi làm tỹ căn?
Nếu lấy hình tướng
mũi thịt thì chất thịt là thân và cái biết của thân là xúc, gọi là thân thì
chẳng phải tỹ căn, gọi là xúc tức thuộc về xúc trần. Tỹ căn còn không có tên,
làm sao mà lập giới?
Da thịt thuộc về
thân, cho nên gọi là thân chứ không gọi lỗ mũi. Cái biết của thân gọi là xúc,
tức là cảm xúc với các trần bên ngoài. Lỗ mũi còn không có được cái tên thì làm
sao mà lập giới?
Nếu ông lấy ngửi
biết làm tỹ căn thì trong tâm ông nghĩ lấy cái gì làm biết? Nếu lấy phần lỗ mũi
thịt làm biết thì cái biết của da thịt vốn là xúc trần chứ không phải tỹ căn.
Nếu lấy trống không làm biết thì trống không tự biết, da thịt lẽ ra không biết.
Như thế hư không phải nên là ông. Thân ông nếu không biết thì ngày nay A-nan
không còn nữa?
Lỗ mũi, phía ngoài
là da thịt, bên trong trống gọi là không. Nếu hư không này biết thì da thịt lẽ
ra không biết. Da thịt tức là thân, như vậy hiện giờ thân ngài A-nan biết hay
không biết? Nếu ngài biết thì ngài là hư không rồi. Nếu không biết thì ngài
A-nan hiện giờ là gì, ở đâu? Đức Phật dùng những lý luận tế nhị để phá lầm chấp
cho rằng từ lỗ mũi sanh ra nhĩ thức.
Nếu lấy mùi hương
làm biết, biết thuộc về hương trần thì đâu có can dự gì với ông. Nếu mùi thơm
hôi thật sanh ra từ mũi ông thì hai thứ mùi thơm hôi bốc lên kia, không phải
sanh từ cây y-lan và cây chiên-đàn.
Nếu lấy mùi làm cái
biết thì mùi tự biết, đâu can dự gì tới ông. Nếu hai thứ mùi thơm hôi sanh từ
trong có quan hệ gì đến cây y-lan hay cây chiên-đàn. Y-lan là cây có mùi hôi,
còn gọi là cực xú thụ, chiên-đàn là cây có hương thơm.
Nếu hai mùi thơm
hôi không đến, ông tự ngửi lỗ mũi ông là thơm hay hôi? Nếu hôi thì không phải
thơm, còn thơm thì không phải hôi. Nếu hai thứ thơm hôi đều có thể ngửi biết
được, thì một người ông lẽ ra phải có hai lỗ mũi. Đối trước ta hỏi đạo phải có
hai A-nan, vậy cái nào là thể của ông?
Nếu nói mùi thơm
hôi từ mũi ra, thì khi không có cây y-lan và chiên-đàn, ngài A-nan tự ngửi lỗ
mũi của ngài xem thơm hay là hôi? Nếu mùi thơm mùi hôi đều từ lỗ mũi của ngài
ra và ngài đều biết, vậy ngài đối trước Phật đang hỏi đạo, người nào là người
thật của A-nan?
Nếu có một lỗ mũi,
thơm hôi không hai thì hôi đã là thơm, thơm lại thành hôi, hai tánh chẳng có
thì giới từ đâu mà lập? Nếu nhân hương trần sanh, tỹ thức nhân hương trần mà
có, như con mắt có cái thấy nhưng không thể thấy được con mắt, thì tỹ thức nhân
mùi hương mà có, lẽ ra chẳng biết được hương. Nếu biết được hương tức không
phải từ hương trần sanh ra, còn không biết được hương thì chẳng phải là thức.
Nếu thơm hôi lẫn
lộn thì làm sao lập được ranh giới đây là hương trần, đây là tỹ căn, đây là tỹ
thức? Nếu mùi hương sanh ra tỹ thức, tức tỹ thức thuộc mùi hương thì làm sao
ngửi được mùi hương? Giống như con mắt sanh ra cái thấy, cái thấy không thể
thấy được con mắt. Nếu tỹ thức biết mùi hương thì nó không phải từ mùi hương
sanh ra. Vì nhân mùi hương sanh ra thì chẳng biết được mùi hương, bây giờ ngược
lại nó biết mùi hương thì không phải từ hương trần sanh. Thức là phân biệt, nếu
không phân biệt được mùi hương thì không phải là thức.
Nếu không ngửi biết
có mùi hương thì giới của hương trần không thành. Tỹ thức không biết mùi hương
thì tỹ thức giới ắt không nhân nơi hương trần mà kiến lập.
Nếu không ngửi biết
có mùi thì hương giới không thành, tức không có ranh giới để lập ra hương trần.
Thức ở giữa căn (lỗ mũi) và trần (mùi hương), nếu hương trần không có thì tỹ
căn và tỹ thức cũng không thể có được. Tỹ thức không biết mùi hương thì đâu gọi
là thức, nên việc nhận nơi mùi hương mà sanh ra thức giới đó ắt không dựng lập
được.
Đã không có khoảng
giữa thì trong và ngoài không thành. Tánh ngửi kia rốt ráo là hư dối. Thế nên
phải biết, tỹ căn và hương trần làm duyên sanh ra tỹ thức giới, ba chỗ đều
không, thì cả ba thứ tỹ căn, hương trần và hương giới vốn không phải nhân
duyên, không phải tánh tự nhiên.
Đức Phật nêu lên
cho thấy rõ rằng chẳng phải nhân nơi hai lỗ mũi thịt sanh ra thức giới, chẳng
từ hư không, cũng chẳng từ thơm hôi sanh ra thức giới. Thức giới không lập được
thì căn giới, trần giới cũng không thể lập, vì không có cái giữa (tức là cái
trung gian) thì ngoài và trong cũng không thành. Tánh ngửi kia rốt ráo là hư
dối.
Này A-nan, lại như
ông đã rõ, thiệt căn và vị trần làm duyên sanh ra thiệt thức. Thức này là nhân
thiệt căn sanh ra, lấy thiệt căn làm giới hay nhân vị trần sanh ra, lấy vị trần
làm giới? Này A-nan, nếu nhân thiệt căn sanh thì các thứ trong thế gian như mía
(ngọt), ô mai (chua), huỳnh liên (đắng), muối (mặn), tế tân, gừng, quế (cay)
đều không có vị. Ông tự nếm cái lưỡi là ngọt hay đắng? Nếu tánh lưỡi là đắng
thì cái gì đến nếm cái lưỡi? Lưỡi không tự nếm thì lấy cái gì mà hay biết? Tánh
lưỡi không phải đắng, vị trần tự chẳng sanh, làm sao mà lập giới?
Nếu thiệt thức sanh
từ thiệt căn thì những thứ vị ngọt mặn chua cay v.v... đều không có, vì từ lưỡi
sanh ra đủ rồi, đâu cần vị bên ngoài. Như vậy thử nếm cái lưỡi của mình coi có
vị gì, ngọt hay là đắng? Nếu lưỡi đắng thì cái gì đến nếm lưỡi mà biết đắng?
Nếu không tự nếm được thì lấy cái gì mà tri giác? Không có vị thì làm sao lập
ranh giới thiệt căn, vị trần và thiệt thức? Như vậy không thể nhân nơi lưỡi
sanh thiệt thức.
Nếu nhân nơi vị
sanh thiệt thức tự là vị, đồng với thiệt căn, nên không tự nếm, làm sao biết rõ
đây là vị hay không phải vị. Lại tất cả vị không phải một vật sanh, vị đã do
nhiều thứ sanh thì thiệt thức cũng nên có nhiều thể.
Nếu nói vị trần
sanh ra cái biết thì cái biết đã thành vị rồi, làm sao nó nếm biết được vị này
vị nọ. Vị có chua, cay, mặn, lạt v.v... nếu thức từ vị sanh thì nó thuộc về thứ
nào? Vị có nhiều thứ lẽ ra thiệt thức cũng phải nhiều thể.
Nếu thức thể là
một, thể ấy phải do vị sanh, thì mặn, lạt, ngọt, cay hòa hợp cùng sanh, các
tướng khác nhau đồng là một vị, lẽ ra không có phân biệt. Đã không phân biệt
thì không gọi là thức, làm sao gọi là vị thiệt thức giới? Không lẽ hư không
sanh ra tâm thức của ông. Thiệt căn và vị trần hòa hợp, trong ấy vốn không có
tự tánh, làm sao sanh ra thiệt thức giới? Thế nên phải biết, thiệt căn, vị trần
làm duyên sanh ra thiệt thức giới, ba chỗ đều không thì ba thứ thiệt căn, vị
trần và thiệt thức giới vốn không phải nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
Phật nêu trường hợp
thức chỉ một thể thì phải từ vị sanh ra. Như trong một món ăn có ba bốn vị chua
cay mặn ngọt hòa lại thành, nếu thiệt thức từ vị ngọt sanh thì chỉ biết vị
ngọt, mấy vị kia không biết, tức không có phân biệt, đã không phân biệt thì
không gọi là thức, làm sao lập các giới hạn của thiệt căn và vị trần hòa hợp
vốn không có tự tánh, không cố định, làm sao đặt thành giới?
Này A-nan, lại như
ông đã rõ, thân căn với xúc trần làm duyên sanh ra thân thức. Thức này là nhân
nơi thân sanh ra, lấy thân làm giới hay nhân nơi xúc trần sanh ra, lấy xúc trần
làm giới? Này A-nan, nếu nhân nơi thân sanh ra thì không có hai duyên giác quán
hợp và ly, thân làm sao có chỗ biết?
Thân phân biệt được
ngoại trần là nhờ có xúc chạm. Ví dụ thân chạm cái gì trơn hoặc nhám gọi là xúc,
rồi mới phân biệt ưa thích, đó là thức. Như vậy có thân và xúc rồi mới có thức.
Thức này từ thân ra
hay từ xúc ra? Thông thường, thân này có biết là do hợp và ly. Khi có vật gì
trơn hoặc nhám chạm tới thân, thân biết, đó là hợp, khi dời vật đó đi, mình
biết nó đã rời ra, đó là ly. Còn khi không hợp không ly, thân không có biết.
Bởi vậy nên nói lìa hai giác quán hợp và ly thì thân không chỗ biết.
Nếu nhân nơi xúc
trần sanh ắt không có thân ông, vậy có ai không thân mà biết được hợp và ly?
Này A-nan, vật không biết cảm xúc, thân biết nên có cảm xúc. Cái biết nơi thân
tức là cảm xúc, biết cảm xúc tức là thân. Tức cảm xúc không phải thân, tức thân
không phải cảm xúc.
Ví như có vật gì
chạm tới thân mình hay tay rờ cái đĩa, thì thân mình biết chứ món đồ đâu có
biết, nên nói vật không có cảm xúc, thân mới biết cảm xúc. Thân biết tức là
xúc, do có thân này mới biết có xúc chạm. Biết
xúc tức là thân, như mình đưa tay rờ thân, chính do xúc chạm này mà
có biết thân. Tức xúc không phải
thân, vì xúc là cái gì bên ngoài chạm tới, nên không phải là
thân. Tức thân không phải xúc,
vì thân là tự thân chứ không phải xúc, có gì chạm đâu mà gọi là xúc? Tức như
xúc không phải thân, tức như thân thì không phải xúc.
Hai tướng thân và
xúc vốn không có chỗ nơi. Xúc hợp với thân tức là tự thể của thân, lìa thân thì
như các tướng hư không v.v... Trong ngoài không thành thì thức ở giữa làm sao
lập? Giữa không thể lập thì trong ngoài là tánh không. Vậy thức của ông từ đâu
sanh mà lập giới? Thế nên phải biết, thân và xúc làm duyên sanh ra thân thức
giới, ba chỗ đều không, thì thân cùng xúc và thân thức giới, ba thứ vốn không
phải nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
Xúc là khi có cái
gì chạm tới gọi là hợp, hợp với thân thì cái biết xúc chạm là của thân. Nếu rời
thân, tức là ly thì ở ngoài hư không. Xúc lìa thân thì ở ngoài hư không, còn
nếu ở trong thân thì thuộc về thân, làm sao có khoảng giữa để thành thức? Thức
ở giữa không có thì thân căn trong và xúc trần ngoài cũng không thành.
Ví dụ như tay tôi
cầm cây viết. Nhân sự xúc chạm này, tôi cảm thấy cây viết hơi láng. Vậy cái
biết láng đó từ thân có hay từ cây viết mà có? Nếu từ thân có thì khi có cây
viết hay không, cái biết láng lẽ ra vẫn có hoài. Nếu từ cây viết có thì cây
viết tự biết láng, cần gì tay tôi chạm tới mới biết láng.
Chúng sanh khổ vì
xúc, vui cũng do xúc, bởi theo sau xúc là thọ. Trong guồng máy mười hai nhân
duyên, do xúc mà có thọ, do thọ mà có ái, ái sanh ra thủ, thủ duyên hữu. Ái và
thủ là hai nhân gây ra sanh tử đời sau. Bây giờ ngay nơi xúc này biết là hư giả
thì thọ cũng không thật, vậy thì ái và thủ làm gì có. Nhân sanh tử đời sau ta
không tạo thì quả cũng không, guồng máy mười hai nhân duyên kéo chúng ta trôi
lăn trong luân hồi ngay đây đã bị chặt đứt.
Đức Phật không chỉ
thẳng chỗ tu cho chúng ta, ngài chỉ phân tích cho biết căn, trần, thức là giả.
Khi biết giả, tự nhiên không còn dính mắc thì hết trôi lăn trong luân hồi. Mỗi
đoạn kinh, đức Phật đều chỉ cho thấy ý nghĩa giải thoát. Tuy nhiên giải thoát
được hay không cũng còn tùy thuộc nơi chúng ta. Biết giả rồi, phải gan dạ dám
buông bỏ, hằng tỉnh hằng giác thì được giải thoát. Nếu biết giả mà vẫn hay
quên, để cho dính mắc thì cũng chẳng tới đâu.
Này A-nan, ông đã
rõ ý căn và pháp trần làm duyên sanh ra ý thức. Thức này là nhân ý căn sanh ra,
lấy ý làm giới hay nhân pháp trần sanh ra, lấy pháp trần làm giới? Này A-nan,
nếu nhân ý căn sanh ra thì trong ý ông ắt có chỗ suy nghĩ phát minh được ý của
ông. Nếu không có pháp tiền trần thì ý không có thể sanh, lìa duyên trần ý
không hình tướng, thức dùng vào chỗ nào?
Thông thường ý sanh
khởi trong hai trường hợp: Một là chạy theo ngũ căn duyên với ngũ trần. Hai là
khi đóng ngũ căn thì nó duyên với pháp trần ở trong. Ví dụ hôm qua mình thấy
hai huynh đệ cãi vã, bây giờ ngồi lại yên tĩnh, nhớ rõ ràng hình ảnh hai vị ấy
cãi nhau, đó gọi là pháp trần. Khi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân không tiếp xúc với
bên ngoài, thì ý duyên với pháp trần. Nếu không có pháp trần thì ý không có chỗ
duyên, tức không có chỗ sanh. Như khi chúng ta ngồi thiền, nếu không có một
hình bóng nào của quá khứ, không một pháp trần thì nó tự yên lặng, yên lặng tức
là không có bóng tiền trần. Lìa các duyên ngoài thì ý không hình tướng, làm sao
mà có ý thức sanh ra, dùng vào chỗ nào? Ý đã không thật làm sao lập ra ý thức
giới?
Lại thức tâm của
ông cùng với các tư lương và tánh liễu biệt là đồng hay khác? Nếu đồng với ý
căn tức là ý căn, làm sao do ý căn sanh ra? Nếu khác với ý căn, tức không đồng
thì lẽ ra không có chỗ biết. Nếu không chỗ biết, làm sao nói từ ý căn sanh? Còn
nếu có chỗ biết thì làm sao biết được ý? Chỉ hai tánh đồng và khác đã không
thành, giới làm sao lập?
Thức tâm ở đây là
Như Lai tạng tâm hay tàng thức. Tư lương là thức thứ bảy, là ý căn. Liễu biệt
là sáu thức trước. Ba cái đó là đồng hay khác? Nếu đồng với ý căn thì thuộc về
ý căn rồi, mà ý căn là tư lương, nếu đồng với tư lương thì gọi là tư lương chứ
sao gọi là liễu biệt? Nếu khác với ý thì lẽ ra không có chỗ biết, vì ý là suy
lường hiểu biết, nếu khác với hiểu biết tức là không có biết. Nếu không có biết
thì làm sao nói từ ý sanh? Như vậy ý căn và ý thức không có nơi chốn cố định để
lập ranh giới.
Nếu nhân pháp trần
sanh thì các pháp thế gian chẳng lìa năm trần. Ông xem sắc pháp và thanh pháp,
hương pháp, vị pháp cùng với xúc pháp, có tướng trạng phân biệt rõ ràng, do đối
với năm căn, không nhiếp thuộc về ý.
Năm trần là đối với
năm căn chứ đâu thuộc về ý. Không thuộc về ý thì làm sao nói ý sanh, để từ đó
sanh ra thức?
Nếu ý thức của ông
quyết định nương nơi pháp trần sanh, nay ông xem xét kỹ mỗi pháp có tướng trạng
gì? Nếu lìa sắc không, động tịnh, thông bít, hợp ly, sanh diệt, vượt ngoài các
tướng này thì trọn không có pháp nào. Sanh thì các pháp sắc không v.v... đều
sanh, diệt ắt là các pháp sắc không v.v... đều diệt. Cái nhân đã không thì thức
nhân đây sanh có hình tướng gì? Hình tướng không có thì làm sao lập thành giới?
Sắc không chỉ cho
sắc trần, động tịnh là thanh trần, thông bít là hương trần, hợp ly là vị trần
và xúc trần, sanh diệt chỉ cho pháp trần. Các pháp này vốn không cố định, nếu ý
thức sanh từ đó thì lấy gì làm tướng trạng? Tướng trạng chẳng có thì giới không
thể thành.
Thế nên phải biết,
ý căn và pháp trần làm duyên sanh ra ý thức giới, ba chỗ đều không thì ba thứ ý
căn, pháp trần và ý thức giới vốn không phải nhân duyên, không phải tánh tự
nhiên.
Đức Phật có phân
tích cho chúng ta thấy rõ sáu căn, sáu trần và sáu thức không cố định, giả dối
không thật, đều từ Như Lai tạng tâm lưu xuất. Mười tám giới bao gồm tất cả các
pháp trên thế gian. Mười tám giới không thật thì cả thế gian này đều là huyễn
hóa. Nếu chúng ta thấy thân này, thức phân biệt và các cảnh bên ngoài đều là hư
giả, thấy rõ như thấy chỉ tay trong lòng bàn tay, thì sự tu tập tự có kết quả.
Gốc của sự tu hành không phải ở việc ngồi thiền tụng kinh, làm Phật sự nhiều mà
chính là chỗ có trí tuệ, biết rõ cái gì giả đừng lầm chạy theo và biết rõ cái
gì thật để sống với nó.
Có người nghĩ sao
Phật không dạy tu, cứ lý luận loanh quanh khó hiểu, nói cái này chẳng phải nhân
duyên, cái kia chẳng phải tự nhiên. Họ không biết rằng chính đó là chỗ Phật dạy
tu. Vì chúng ta không biết các pháp hư giả, cứ cho là thật nên lầm mê dính mắc.
Nay qua lời Phật dạy, thấy rõ ràng là giả thì tự nhiên không còn tâm nhiễm
trước dính mắc. Lúc ấy không tu cũng thành tu. Nhận được lý này thì khi học
kinh chúng ta hết nghi ngờ.
Đạo Phật là đạo
giác ngộ. Giác ngộ là rõ lẽ thật, không lầm mê cái giả. Luôn rõ biết như vậy
thì dù ở đâu lúc nào, đi đứng nằm ngồi, ăn ngủ... chúng ta đều tu. Nếu lầm cho
thân và cảnh là thật, rồi tranh được mất hơn thua thì dù có cạo đầu mặc áo
nhuộm cũng chưa hẳn là tu. Vì vậy chỗ tối thiết yếu trong sự tu là hằng giác.
Phải hằng tỉnh hằng giác, không lầm mê theo cái giả thì trong hoàn cảnh nào
cũng được an nhiên tự tại.
5. Thu bảy đại
A-nan bạch Phật
rằng:
- Bạch Thế Tôn, Như
Lai thường nói nhân duyên hòa hợp, tất cả các thứ biến hóa trong thế gian đều
nhân tứ đại hòa hợp mà phát sanh. Tại sao Như Lai bác bỏ hết cả hai lý nhân
duyên và tự nhiên? Nay con không biết nghĩa này thuộc về đâu. Cúi mong Ngài
thương xót chỉ bày cho chúng sanh nghĩa rốt ráo trung đạo, không còn các pháp
hý luận.
Ngài A-nan nghi:
Lúc trước Phật nói rằng tất cả các pháp ở thế gian đều do nhân duyên hòa hợp mà
sanh, luôn luôn đổi thay. Tất cả đổi thay biến hóa đó đều từ tứ đại hòa hợp mà
phát sanh. Như vậy Ngài đã thừa nhận lý nhân duyên. Tại sao đến đây ngài bác cả
nhân duyên và tự nhiên?
Khi ấy, đức Thế Tôn
bảo A-nan rằng:
- Ông trước đã chán
lìa các pháp Tiểu thừa Thanh Văn Duyên giác, phát tâm siêng cầu Vô thượng
Bồ-đề, nên nay ta vì ông mà chỉ dạy đệ nhất nghĩa đế. Tại sao ông lại đem vọng
tưởng nhân duyên, hý luận của thế gian mà tự trói buộc? Ông tuy là đa văn,
giống như người nói tên thuốc, đến khi thuốc thật ở trước mắt thì không thể
phân biệt. Như Lai nói thật là đáng thương xót vậy! Nay ông lắng nghe, ta sẽ vì
ông phân biệt chỉ bày, cũng khiến cho những người tu Đại thừa ở đời sau thông
suốt được thật tướng.
A-nan lặng thinh
chờ nghe lời Phật chỉ dạy.
Phật quở ngài A-nan
muốn cầu Vô thượng Bồ-đề mà đến khi Phật chỉ dạy cho đệ nhất nghĩa đế, tức là
pháp cứu cánh Đại thừa, lại đem những vọng tưởng nhân duyên, hý luận của thế
gian mà tự trói buộc, lẩn quẩn trong đó không thoát nổi. Giống như người nói
tên thuốc vanh vách, đến khi thuốc để trước mắt lại không biết gì. Ngài A-nan
thuộc làu các kinh nhưng khi Phật nói tới pháp thật thì ngài không biết, vẫn
còn ngờ vực. Vì vậy Phật rất thương xót.
Chúng ta học đạo
cũng có bệnh giống hệt như vậy, nói rành rẽ muốn trị bệnh tham sắc thì dùng
pháp quán bất tịnh, tham danh lợi nên quán vô thường v.v... nhưng khi gặp bệnh
đó thì lại không biết làm sao! Như vậy là thuộc tên mà không thấy được nghĩa
thật của nó. Như chúng ta thuộc làu bài kinh Bát-nhã mà không biết ứng dụng để
tu. Đó gọi là thuộc lòng toa thuốc mà không chịu hốt thuốc uống, nên bệnh mình
và bệnh người đều không trị được.
Này A-nan, như lời
ông đã nói, tứ đại hòa hợp phát sanh ra các thứ biến hóa trong thế gian. A-nan,
nếu thể tánh các đại kia chẳng hòa hợp thì không thể cùng vói những đại khác
hòa lẫn nhau, cũng như hư không không hòa với các sắc tướng. Còn nếu hòa hợp
thì đồng với biến hóa, trước sau thành nhau, sanh diệt tiếp nối, sanh rồi tử,
tử rồi sanh, sanh sanh tử tử như vòng lửa quay chưa từng thôi dứt. A-nan, như
nước thành băng, băng trở lại thành nước.
Đức Phật nêu lên
cho chúng ta biết luân hồi sanh tử gốc từ lầm chấp các tướng duyên sanh là
thật. Nếu chúng ta nhận các đại hòa hợp biến hóa là thật, cho nó là mình, như
vậy cái trước làm thành cái sau, cái sau làm thành cái sau nữa; bị các tướng
sanh diệt tiếp nối dẫn đi, từ sanh đến tử, hết tử đến sanh, đời đời không dứt,
giống như vòng lửa quay; như nước thành băng, băng trở lại thành nước, không có
chỗ dừng.
Do quý thân tứ đại
hòa hợp này nên khi có hoại mình liền chụp thân khác, sanh rồi tử, tử rồi sanh. Khi
quan thân khác lại cũng quý, cũng chấp vào đó. Ví dụ như làm thân chó là khổ, nhưng
đối với nó thân chó cũng quý, nếu ai muốn giết, nó cũng hoảng sợ, chạy xa. Cứ
như vậy mà sanh diệt liên tục không có ngày cùng. Hiện nay ai còn quý thân này
thì biết ngày sau còn trở lại nữa. Khi trở lại dù mang thân tốt hay xấu, đều
chấp vào thân hòa hợp đó mà luôn gìn giữ. Như những người mang bệnh tật hiểm
nghèo, biết không thể sống nhưng họ cũng sợ chết. Chúng sanh còn chạy theo vòng
sanh tử liên tục là còn khổ. Dù cho sanh ra được đủ cơm ăn áo mặc, mọi sự như ý
nhưng thân cũng bị khổ già bệnh chết. Như vậy một lần sanh tử là một lần khổ
đau, trăm lần sanh tử thì trăm lần khổ đau, nếu sanh tử vô cùng vô biên thì khổ
đau tới mức nào? Như vậy, chúng ta chịu dừng hay muốn tiếp tục?
Khi không còn lệ
thuộc vào các pháp hòa hợp thì sẽ trở về chỗ chân thật là Như Lai tạng diệu
chân như tánh. Nếu còn bám chặt vào các pháp hòa hợp thì khó mong trở về. Bám
hay không bám là quyền chọn lựa của mỗi người, không ai ép mình cả. Nếu bám vào
thân thì khi nó hoại, chụp thân khác chưa biết tốt hơn hay xấu hơn. Nếu buông
thì sẽ được thanh thản, trùm khắp, không còn gì ngăn ngại.
Lâu nay nghe Phật
nói nghĩa nhân duyên hòa hợp, rằng thân do tứ đại hòa hợp, chất cứng là đất,
ướt là nước, động là gió, ấm là lửa, chúng ta thấy dễ hiểu dễ tin. Khi nói nhân
duyên, nói hòa hợp là dường như chấp nhận đất có thật, nước, lửa, gió có thật,
những thứ đó hòa lại thành tướng người hoặc tướng sự vật. Nhưng bây giờ Phật
nói không phải nhân duyên, không phải hòa hợp nữa, chúng ta có tin không?
Sở dĩ trước Phật
nói nhân duyên hòa hợp là đứng về mặt đối đãi, căn cứ trên lý luân hồi, trên
chân lý phổ biến của thế gian mà nói, là thế đế, chẳng phải chân lý cứu cánh đệ
nhất nghĩa đế. Đến đây Phật muốn chỉ cái vượt ngoài luân hồi, không thuộc nhân
duyên hòa hợp. Chúng ta học mười hai nhân duyên là để vượt ra ngoài mười hai
nhân duyên, chứ không phải để chấp đó là chân lý rồi đi mãi trong đó.
Ví dụ như sóng là
do có gió thổi, nước động mà sanh. Rồi nhân sóng bủa mà vỗ thành bọt. Như vậy
gió, sóng, bọt v.v... do nhân duyên hòa hợp mà thành. Nhưng sóng, bọt... đều từ
nước mà có. Nước là cái thể thật, còn sóng và bọt là những thứ dấy lên rồi tan
mất, giả dối không thật, đều là tướng tạm bợ sanh diệt. Nhưng nếu gió chưa dừng
thì sóng và bọt vẫn còn tiếp tục. Chúng ta cũng vậy, nếu cứ chạy theo nhân duyên
hòa hợp rồi bị gió nghiệp đưa đẩy, thì hết sanh lại tử, hết tử lại sanh, tử
sanh tiếp nối, như những lượn sóng dấy lên lặng xuống.
Tuy nhiên, nước thì
chỉ một thể nước. Nước không phải là sóng, không phải là bọt, không dấy không
lặng. Người nhìn sóng dấy lên lặng xuống rồi tưởng nước là dấy là lặng thì
không phải là người trí. Gió thổi dậy sóng là nhân duyên sanh diệt, tiếp nối
không có ngày cùng. Chỉ có rõ biết ngay nơi tất cả sóng đó là nước, thì dù sóng
còn vỗ ầm ầm, mình vẫn biết thể nước không động. Như thế tuy chưa làm cho mặt
nước lặng yên, nhưng biết rõ vậy thì sóng không có gì quan trọng nữa, đó là đã
tỉnh phần nào. Cũng vậy, ngay trong sanh tử này, mang thân luân hồi sanh tử
tiếp nối liên tục, chúng ta vẫn biết cái chân thật bất sanh bất tử, là đã tu
tiến.
Vì ngài A-nan chấp
tứ đại hòa hợp, nên đến đây Phật chỉ rõ thất đại là không thật, để phá nghĩa
hòa hợp.
Ông xem tánh địa
đại, lớn là địa cầu, nhỏ là hạt bụi, cho đến lân hư trần. Nếu phân tích hạt bụi
thật nhỏ thì cái tướng bên bờ mé của sắc do bảy phần làm thành. Lại phân tích
lân hư trần thì thật là hư không.
Hạt bụi cực nhỏ đó
do bảy phần mà thành, nên nói là ở bờ mé của sắc. Chẻ hạt bụi thật nhỏ đó ra
bảy phần thành lân hư trần. Lân hư trần là hạt bụi nhỏ tí ti gần bên cạnh hư
không, đập bể hạt bụi đó là thành hư không chứ không còn gì khác nữa. Nó là sắc
kế bên cái không, đập ra thì thành không. Nhà Phật nói rằng một hạt bụi được
kết tụ bởi một hạt ở chính giữa và sáu hạt nhỏ chung quanh, cho nên bảy hạt mới
thành một hạt bụi. Bởi vậy, con số bảy trong nhà Phật rất quan trọng, vì thế
gian này kết tụ từ vi trần, mà vi trần gốc từ số bảy.
Này A-nan, nếu lân
hư trần này phân tích thành hư không, thì nên biết hư không cũng sanh ra sắc
tướng. Nay ông hỏi do hòa hợp mà sanh ra các tướng biến hóa ở thế gian. Ông hãy
xem một lân hư trần này dùng bao nhiêu hư không hòa hợp lại mà có? Chẳng lẽ lân
hư trần hợp thành lân hư trần? Lại lân hư trần phân tích thành hư không, vậy
dùng bao nhiêu sắc tướng hợp lại để thành hư không?
Hạt bụi đập nát trở
thành không, vậy thì hư không cũng sẽ kết thành sắc tướng. Thế thì dùng bao
nhiêu hư không để thành một hạt lân hư trần? Thật ra không bao giờ hư không
thành bụi được. Vậy chẳng lẽ lân hư trần hợp thành lân hư trần? Mà ngoài lân hư
trần cũng không còn một hạt bụi nào nhỏ hơn nữa, thì cái gì hợp lại thành lân
hư trần. Phải có cái gì hợp lại thành, chứ lân hư trần không thể hợp thành lân
hư trần.
Nếu lân hư trần đập
nát thành hư không, vậy thì dùng bao nhiêu hạt bụi, bao nhiêu hình sắc để thành
hư không? Trước nói chia chẻ lân hư trần thành không, kế hư không thành bụi.
Đập hạt bụi thành hư không, hợp bao nhiêu hư không thành bụi? Đó là những vấn
đề khó nói.
Nếu khi sắc hợp
lại, thì hợp sắc tướng chẳng thể là hư không. Nếu khi hư không hợp lại, thì hợp
hư không chẳng thể là sắc tướng. Sắc còn có thể chia chẻ chứ hư không làm sao
mà hợp được? Ông vốn không biết trong Như Lai tạng, tánh sắc vốn là chân không,
tánh không là chân sắc, thanh tịnh sẵn vậy, trùm khắp pháp giới. Tùy tâm chúng
sanh ứng với chỗ hiểu biết, theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết lầm
cho là nhân duyên và tánh tự nhiên, đều do thức tâm phân biệt tính toán, chỉ có
lời nói, trọn không có nghĩa thật.
Khi hợp sắc thì
thành sắc, không thể thành không, hợp hư không thì thành không chứ đâu thể
thành sắc. Như vậy mới minh chứng rằng sắc và không đều không có thật tánh, mà
lâu nay chúng ta vẫn lầm chấp là thật. Do đó Phật nói sắc và không đều gốc từ
Như Lai tạng, nên tánh sắc là
chân không, tánh không là chân sắc. Nghĩa là tột cùng của sắc,
tánh nó là chân không, lại chính trong chân không đó là chân sắc. Sắc tức là
không, không tức là sắc, không còn có hai, đó là thể Như Lai tạng. Sắc và không
chỉ là tướng hư giả bên ngoài. Nếu không theo, không kẹt thì trở về Như Lai
tạng. Như bọt nước và sóng gốc từ nước. Tuy chúng ta thấy bọt khác, sóng khác
nhưng gốc đều từ nước.
Chân không, chân
sắc đều do Như Lai tạng mà ra, là thanh tịnh
sẵn vậy, trùm khắp pháp giới, không có hạn lượng không có chỗ nơi.
Sở dĩ có ra những cảnh tượng sai biệt đều là tùy theo tâm lượng hư vọng của
chúng sanh mà ứng khởi, rồi theo nghiệp mà phát hiện. Người thế gian lầm cho đó
là nhân duyên, là tự nhiên, không biết đều từ thức
tâm phân biệt tính toán mà ra. Nói nhân duyên hay tự nhiên chỉ
là tên gọi, lời nói, chứ không có
nghĩa thật.
Ví dụ như chúng ta
phác họa một cái nhà, rồi mua vật liệu về xây cất. Như vậy cái nhà đó là từ
tâm lượng của mình mà ra, tốt hay xấu là do mình khéo hay vụng. Tất cả
đá, gạch, ngói, cát, xi-măng v.v... không phải là nhà nhưng theo tâm lượng,
nghiệp duyên của người cất mà thành cái nhà. Cũng như thân này, chúng ta cho là
quý trọng, nhưng nó có thật không? Thân mong manh, cái gì va chạm sẽ bị thương
tổn ngay, khó mà bảo tồn. Nếu nó là thật thì dễ bảo tồn, nhưng nó mỏng manh tạm
bợ, động tới là hư nát, khó giữ được. Vậy mà mọi người cứ ngầm tưởng sẽ sống
dai, đó là tưởng khờ dại. Vì vậy Phật chỉ rõ đó là những tướng hư dối không
thật, tu là bỏ một thứ mỏng manh không ra gì, để trở lại cái chân thật tuyệt
vời.
Học Đại thừa chính
là học trí tuệ để biết sắc và không đều là hư giả, nhận cho được Như Lai tạng
tánh, tức là tánh Như Lai nơi mỗi người, vốn trùm khắp pháp giới. Sắc và không
gốc từ Như Lai tạng tánh, do vọng tưởng điên đảo dấy lên mà phát hiện. Khi vọng
tưởng điên đảo hết thì sắc và không theo đó mà sạch, trở về Như Lai tạng tánh
thanh tịnh trùm khắp. Thấy được thể đại, dụng đại là thấy Như Lai tạng, đó mới
gọi là Đại thừa.
Này A-nan, tánh lửa
không có ngã (chủ thể), do gá nơi các duyên. Ông xem trong thành, những nhà
chưa ăn cơm, khi họ muốn nhóm lửa thì tay cầm cái kính lấy lửa, đưa lên trước
mặt trời để lấy lửa. A-nan, gọi là hòa hợp đó, như ta cùng với ông và một ngàn
hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo nay hợp lại thành một chúng. Chúng tuy là một, gạn
xét cội gốc, mỗi người đều có thân khác, đều có chỗ sanh, dòng họ, tên tuổi
khác. Như ông Xá-lợi-phất dòng Bà-la-môn, ông Ưu-lâu-tần-loa dòng Ca-diếp-ba,
cho đến A-nan là dòng Cù-đàm.
Này A-nan, nếu lửa
này nhân hòa hợp mà có, thì khi tay người kia cầm kính đưa lên mặt trời lấy
lửa, lửa này là từ trong kính mà ra hay từ bổi bay ra, hay từ mặt trời đến?
A-nan, nếu từ mặt trời đến, tự hay đốt được cái bổi trong tay ông, thì những
chỗ nó đi qua như rừng cây, lẽ ra đều bị đốt cháy.
Nếu lửa từ mặt trời
đến thì nó ở trên đó cháy dài xuống, lẽ ra gặp cái gì lửa bắt cháy cái ấy rồi
mới cháy tới bổi ở dưới kính.
Nếu từ trong kính
ra, lửa ấy đã từ trong kính ra đốt bổi thì tại sao kính không bị chảy? Cho đến
cái tay ông cầm kính còn không thấy nóng, làm sao kính chảy được.
Như vậy là lửa
không phải từ mặt trời đến, cũng không phải từ cái kính ra.
Nếu sanh từ bổi thì
đâu cần nhờ ánh sáng mặt trời và kính tiếp nhau rồi sau mới sanh lửa. Ông lại
xét kỹ: kính thì nhân tay cầm, mặt trời từ trên trời soi đến, còn bổi vốn từ
đất sanh, vậy lửa từ phương nào du lịch đến đây? Mặt trời và kính cách xa nhau,
chẳng phải hòa chẳng phải hợp, không lẽ ánh lửa không từ đâu mà tự có? Ông vẫn
không biết trong Như Lai tạng, tánh lửa là chân không, tánh không là thật lửa,
thanh tịnh sẵn vậy, trùm khắp pháp giới, tùy tâm chúng sanh mà ứng với chỗ hiểu
biết của họ.
Ánh sáng mặt trời,
kính và bổi tính chất khác nhau, chẳng phải hòa chẳng phải hợp, vậy lửa đó do
đâu mà có? Có lửa là do pháp giới duyên khởi, mà pháp giới duyên khởi là như
huyễn không có tự tánh, lúc nào đủ nhân duyên thì phát sanh, không nhất định ở
chỗ nào.
Đứng về phương diện
bản tánh mà nói, thì pháp giới tánh của hỏa đại là pháp giới tánh của không
đại, pháp giới tánh của không đại là pháp giới tánh của hỏa đại, không có sai
khác. Tùy theo nghiệp thức của chúng sanh nhận định, khi đủ nhân duyên lửa sẽ
hiện ra thế ấy. Như đối với người, cầm kính tập trung ánh sáng mặt trời, đốt
cháy bổi thì gọi là có lửa. Đối với con giun đất, khi bò lên mặt đất, gặp ánh
sáng mặt trời liền lăn ra chết. Vậy với giun, ánh nắng mặt trời cũng có thể là
lửa.
A-nan, phải biết
người thế gian, hễ một chỗ cầm kính thì một chỗ đó phát lửa, khắp cả pháp giới
cầm kính thì cả thế gian lửa sanh. Lửa cháy khắp cả thế gian đâu có nơi chốn,
chỉ theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm cho là nhân duyên và tánh
tự nhiên, đều là do thức tâm phân biệt tính toán, chỉ có lời nói, trọn không có
nghĩa thật.
Tánh lửa trùm khắp.
Thế gian không biết nên lầm cho là nhân duyên, là tự nhiên, thật ra đều do thức
tâm theo nghiệp biến hiện, chỉ là ngôn thuyết không có thật nghĩa. Thế nên, khi
có người hỏi các thiền sư "thế nào là nghĩa chân thật", các ngài
khoanh tay làm thinh. Đó chính là nghĩa chân thật, là nghĩa cứu cánh, vì còn có
nói năng thì đâu phải nghĩa chân thật! Hiểu vậy, mới thấy các thiền sư là những
người trung thực với kinh, chẳng phải bác bỏ kinh.
Này A-nan, tánh
nước không nhất định, chảy dừng không thường. Như trong thành Thất-la-phiệt
những vị đại huyễn sư như Ca-tỳ-la tiên, Chước-ca-la tiên và Bát-đầu-ma,
Ha-tát-đa v.v... muốn tìm nước Thái âm tinh để hòa với thuốc huyễn thuật. Các
vị huyễn sư ấy vào đêm trăng sáng, tay cầm ngọc phương chư hứng lấy nước trong
ánh trăng. Nước này từ trong hạt châu ra, do hư không tự có hay từ mặt trăng
đến?
Đức Phật nêu lên
rằng, có những vị tiên luyện các thứ thuốc làm cho người ta sống lâu hoặc được
những lợi ích tùy theo sở nguyện, họ phải lấy nước từ mặt trăng để hòa với
thuốc thì mới hiệu nghiệm. Bởi vậy đến kỳ trăng sáng, giữa đêm các vị ấy cầm
ngọc phương chư cầu nước. Giống như cái kính lấy lửa đưa ra trước ánh nắng mặt
trời có lửa tụ lại làm cháy bổi, ngọc phương chư đưa trước ánh nắng mặt trăng,
nước từ từ tụ lại chảy xuống thau chậu. Như vậy nước này là từ trong hạt châu
mà ra, trong hư không tự có, hay là từ mặt trăng lại?
Này A-nan, nếu từ
mặt trăng đến, thì từ phương xa còn có thể khiến hạt châu chảy ra nước, vậy
những rừng cây nó đi qua lẽ ra đều phải tràn nước. Nếu nước tràn ra thì đâu đợi
có hạt châu phương chư mới ra được. Còn nếu không tràn nước thì rõ ràng nước
không phải từ mặt trăng xuống.
Nếu nước từ trên mặt
trăng chảy xuống đây, gặp rừng cây cản lại thì nước phải tràn ra, đâu cần đến
có châu mới có nước. Như vậy nước từ mặt trăng đến là không hợp lý.
Nếu từ hạt châu ra
thì trong hạt châu này thường chảy ra nước, đâu đợi giữa đêm hứng ánh sáng mặt
trăng mới có nước. Nếu từ hư không sanh, tánh hư không vốn không ngằn mé, nước
phải không có bờ bến, thì từ cõi người cho đến cõi trời đều bị chìm ngập, làm sao
lại còn có thủy, lục, không hành?
Thủy, lục, không
hành là có những đường đi trên mặt nước, trên đất hoặc trên không. Như lý luận
trên đây thì nước ở trong hạt châu ra cũng không hợp lý.
Ông lại xét kỹ, mặt
trăng từ trên trời cao, hạt châu thì nhân tay cầm, nương hạt châu để thau hứng
nước là do người sắp đặt. Nước từ phương nào trôi chảy đến đây? Mặt trăng và
hạt châu cách xa nhau, không phải hòa không phải hợp, không lẽ nước này không
từ đâu mà tự có! Ông còn không biết trong Như Lai tạng, tánh nước là chân
không, tánh không là thật nước, thanh tịnh sẵn vậy, trùm khắp pháp giới, tùy
theo tâm của chúng sanh ứng với chỗ hiểu biết của họ.
Nếu một chỗ cầm hạt
châu thì chỗ đó có nước chảy ra, khắp cả pháp giới cầm hạt châu thì đầy cả pháp
giới sanh nước. Nước sanh ra đầy cả thế gian thì đâu có nơi chốn, chỉ theo
nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm cho là nhân duyên và tánh tự
nhiên, đều do thức tâm phân biệt so tính, chỉ có lời nói, trọn không có nghĩa
thật.
Đức
Phật dùng hình ảnh lấy nước từ mặt trăng, để nói lên ý nghĩa nước không phải do
hòa không phải do hợp, chỉ tùy nghiệp tùy tâm lượng của chúng sanh mà phát
hiện. Thật ra là từ Như Lai tạng lưu xuất chứ không cố định, nên nói không phải
nhân duyên, không phải tự nhiên.
Này A-nan, tánh gió
không có tự thể, động tịnh không thường. Ông thường khi sửa y vào trong đại
chúng, góc y tăng-già-lê của ông chạm đến người bên cạnh thì có một chút gió
phất nhẹ qua mặt người kia. Gió này phát ra từ góc ca-sa, từ hư không hay là
sanh từ mặt người kia? Này A-nan, nếu gió này phát ra từ góc ca-sa thì ông đã
đắp gió, lẽ ra cái y kia phải bay ra rời khỏi thân ông. Hiện nay ta ở trong hội
nói pháp, rũ y xuống, ông xem cái y của ta gió ở chỗ nào? Chẳng lẽ ở trong y
lại có chỗ chứa gió?
Chúng ta dễ chấp
nhận gió từ góc y phát ra. Nhưng như vậy đắp y tức là đắp gió, và cái y gió đó
đáng lẽ bay bổng khỏi thân. Lại chẳng lẽ trong y có kho chứa gió, nếu không có
thì sao phát ra gió được? Như vậy từ góc y sanh ra gió là không hợp lý.
Nếu gió sanh từ hư
không, khi y của ông không động vì sao không phất gió? Tánh hư không thường trụ
lẽ ra gió phải thường sanh. Nếu khi không có gió, hư không phải diệt. Gió diệt
mất thì có thể thấy, hư không diệt có tướng trạng gì? Nếu có sanh diệt thì
không gọi là hư không, còn gọi là hư không thì làm sao nói gió từ đó ra được?
Nếu nói gió sanh từ
hư không thì tại sao đợi cái y ngài A-nan động mới có gió phất? Hư không lúc
nào cũng có, lẽ ra lúc nào cũng có gió, đâu đợi cái y động mới có gió phất. Gió
diệt thì có thể thấy, lá cây đang lay lắc biết có gió, lá đứng im phăng phắc
thì biết là gió dừng, còn hư không diệt có tướng trạng gì? Lại nếu gió từ đó ra
thì đã gọi là gió, đâu gọi là hư không.
Nếu gió tự sanh nơi
mặt người bị phất, đã từ mặt người kia sanh thì lẽ ra gió phải phất lại ông; vì
sao tự ông sửa y, gió phất ngược lại người kia? Ông phải xem xét chín chắn, sửa
y là ở ông, mặt thuộc về người kia, hư không lặng lẽ không có lay động. Gió từ
phương nào chuyển động đến đây? Gió và hư không tánh cách biệt, chẳng phải hòa
chẳng phải hợp, chẳng lẽ tánh gió không từ đâu mà tự có. Ông vẫn chẳng biết
trong Như Lai tạng, tánh gió là chân không, tánh không là thật gió, thanh tịnh
sẵn vậy, trùm khắp pháp giới, tùy theo tâm lượng của chúng sanh ứng với chỗ
hiểu biết của họ.
Này A-nan, như một
mình ông đắp y có một chút động nhẹ thì có một chút gió nhẹ phát ra, khắp cả
pháp giới đều phất thì đầy cả cõi nước sanh gió, trùm khắp thế gian nào có nơi
chốn, chỉ theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết lầm cho là nhân duyên
và tánh tự nhiên, đều là do thức tâm phân biệt so tính, chỉ có lời nói, trọn
không có nghĩa thật.
Đức Phật dùng những
hình ảnh ví dụ để thấy gió không từ đâu ra, không có thực thể, chỉ tùy theo tâm
lượng của chúng sanh mà phát ra chứ không cố định. Cho nên nói tánh gió là chân không, tánh không là thật
gió, vì đều từ Như Lai tạng lưu xuất.
Đất nước gió lửa
gọi là tứ đại, bốn cái lớn, vì đâu đâu cũng có, trùm khắp nhân gian. Khi nhìn
xuyên qua ánh nắng, ở đâu chúng ta cũng thấy bụi. Bụi thuộc về đất, như vậy
tánh đất đầy khắp. Tương tự, tánh nước tánh gió tánh lửa cũng đầy khắp. Như vậy
làm sao định được vị trí của nó, làm sao nói nó từ đâu sanh. Không từ cái này
cái kia sanh nên không thuộc nhân duyên. Chính thức tâm phân biệt, tạo thành
nghiệp mà hình thành các duyên.
Trong mỗi con người
có đủ đất nước gió lửa, mà chủ động là tâm thức. Trong vũ trụ cũng vậy, tánh
đất nước gió lửa trùm khắp, đều do tánh của tâm thức chủ động. Xét kỹ cái chủ
động nhỏ của thân tứ đại này thì biết chủ động lớn của vũ trụ. Khoa học khám
phá và chế ngự thiên nhiên, còn người học Phật thì rõ biết mình là chủ vũ trụ.
Người tu Phật không nên coi thường những việc mình làm, phải biết tầm quan
trọng trong sự nghiệp tu tập của mình. Quan trọng vì mình làm chủ cả thế gian.
Nhưng không vì thế mà tự cao tự đắc. Như vậy mới không lầm.
Này A-nan, hư không
không hình tướng, nhân nơi sắc mà hiển bày. Như trong thành Thất-la-phiệt, chỗ
cách xa sông, những người dòng Sát-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà-la cùng với
Phả-la-đọa, Chiên-đà-la v.v... khi làm nhà mới thì đào giếng để lấy nước. Khi
đào ra một thước đất, trong đó có một thước hư không. Như thế cho đến đào ra
một tượng đất, trong khoảng đó lại có một trượng hư không. Hư không cạn hay sâu
tùy theo chỗ đào nhiều hay ít. Hư không này là nhân đất mà ra hay nhân đào mà
có, hay không nhân mà tự sanh?
Hư không trùm khắp nên gọi
là không đại. Hư không không có hình tướng, chỉ nhân nơi hình sắc mà hiển bày.
Ví dụ đây là cái bàn, chỗ không có bàn thì gọi là không.
Bà-la-môn còn gọi là Tịnh
hạnh hay Phạm chí, là giai cấp cao nhất trong bốn giai cấp ở Ấn Độ, chủ trì
việc cúng tế.
Sát-lợi hay Sát-đế-lợi là
giai cấp thứ hai trong bốn giai cấp, gồm những người thuộc vương tộc, quý tộc,
nắm giữ việc chính trị, quân sự.
Tỳ-xá hay Phệ xá, giai
cấp thứ ba, gồm những người bình dân buôn bán, công nhân v.v...
Thủ-đà hay Thủ-đà-la là
những người thuộc giai cấp thứ tư chuyên làm ruộng, làm mướn v.v...
Chiên-đà-la thuộc giai cấp thấp
nhất, dưới cả bốn giai cấp chính thức trong xã hội Ấn Độ, chuyên làm những nghề
hạ tiện nhất như hốt phân, khiêng gánh tử thi, đồ tể v.v...
Phả-la-đọa là tiên nhân
lợi căn, là một trong sáu họ Bà-la-môn, hoặc một trong mười tám họ Bà-la-môn ở
Ấn Độ cổ đại.
Này A-nan, nếu hư
không này không nhân mà tự sanh thì trước khi chưa đào đất sao có chướng ngại,
chỉ thấy toàn là đất, không một chút thông suốt?
Hư không là rỗng,
không có chướng ngại, còn đất có chướng ngại. Nếu hư không từ đất ra thì khi
chưa đào đất sao không tự trống rỗng, không ngại? Khi chưa đào chỉ thấy một
mạch đất liền, không thông suốt. Như vậy tức không phải không nhân mà tự sanh.
Nếu nhân nơi đất
ra, thì khi bỏ đất ra đáng lẽ phải thấy hư không vào. Nếu đất ra trước, không
có hư không vào, thì làm sao nói hư không nhân đất mà ra? Nếu không ra vào thì
lẽ ra hư không và đất vốn không khác nhau. Không khác thì đồng, vậy khi đào đất
ra, hư không sao chẳng thấy ra?
Nếu lấy một ít đất
ra thì phải thấy một ít hư không vào thế chỗ đất ra đó. Nhưng chỉ thấy đất ra
mà không thấy hư không vào, nên không thể nói hư không nhân đất mà có. Nếu
không có ra vào thì hai thứ là một, khi đào phải ra một lượt, nhưng đất ra mà
không thấy hư không ra.
Nếu nhân đào mà ra,
đáng lẽ đào phải ra hư không chẳng ra đất. Còn chẳng nhân đào mà ra thì đào tự
ra đất, sao lại thấy hư không? Ông hãy xem xét chín chắn kỹ lưỡng, đào là từ
tay người, tùy nơi mà vận chuyển, đất thì nhân đất liền dời đi. Như thế hư
không nhân cái gì mà ra? Đào và hư không, một bên rỗng một bên thật, không thể
dùng chung với nhau được, không phải hòa không phải hợp chẳng lẽ hư không không
đâu mà tự ra?
Đào là thật còn hư
không là rỗng, một cái thật với một cái rỗng không thể dùng chung với nhau
được, cũng không phải hòa không phải hợp.
Nếu hư không này
tánh tròn đầy trùm khắp, vốn không dao động, phải biết hiện tiền hư không cùng
đất nước lửa gió đều gọi là năm đại, tánh thật viên dung, đều là Như Lai tạng,
vốn không sanh diệt.
Đến đây đức Phật
kết thúc, đất nước gió lửa và hư không, năm đại vốn là viên dung, không trái
ngược nhau cũng không sanh diệt, gốc từ Như Lai tạng lưu xuất.
Này A-nan, tâm ông
mê muội không ngộ được tứ đại vốn là Như Lai tạng. Phải xem xét hư không này là
ra hay vào hoặc chẳng ra vào? Ông hoàn toàn không biết trong Như Lai tạng, tánh
giác là chân không, tánh không là chân giác, thanh tịnh sẵn vậy, trùm khắp cả
pháp giới, tùy theo tâm chúng sanh ứng với lượng hiểu biết của họ.
Này A-nan, như một
cái giếng trống không thì hư không sanh trong một giếng. Mười phương hư không
cũng lại như thế, tròn đầy cả mười phương, đâu có nơi chốn, chỉ theo nghiệp mà
phát hiện. Thế gian không biết, lầm là nhân duyên và tánh tự nhiên, đều do thức
tâm phân biệt so tính, chỉ có lời nói, trọn không có nghĩa thật.
Nếu chúng ta đào
một cái giếng thì có một giếng hư không. Nếu khắp tất cả chỗ đào giếng thì hư
không cùng khắp. Như vậy hư không không cố định, không có thực thể, tùy theo
tâm lượng của chúng sanh mà biến hiện, đều từ Như Lai tạng mà lưu xuất.
Từ trước đến đây
những chỗ thấy biết và nghi ngờ của ngài A-nan gần với chúng ta, nhưng từ đây
sẽ chia đường, phải ráng tịnh tâm sáng trí mới thấy kịp ngài A-nan!
Này A-nan, cái kiến
giác vô tri, nhân nơi sắc và không mà có.
Tại sao thấy biết
mà lại vô tri? Vì thấy tất cả sự vật mà không khởi thức phân biệt, không phân
tích từng phần. Cái thấy này nếu không nhân nơi sắc và không thì không thể có,
bởi vì thấy là thấy cái gì, hoặc thấy sắc hoặc thấy không.
Như nay ông ở trong
rừng Kỳ-đà, sớm mai thì sáng, ban đêm thì tối. Nếu ở giữa đêm, có trăng thì
sáng, không trăng thì tối. Những thứ tối sáng v.v... nhân cái thấy mà phân
tích.
Ấn Độ chia tháng
thành bạch nguyệt và hắc nguyệt. Bạch nguyệt tính từ ngày trăng mới mọc cho đến
trăng tròn, hắc nguyệt từ ngày trăng tròn đến không trăng. Sở dĩ chúng ta nói
đây sáng kia tối, hoặc sắc hoặc không là do từ cái thấy mà phân biệt ra.
Cái thấy này lại
cùng tướng sáng tối và hư không là đồng một thể hay chẳng đồng một thể? Hoặc
đồng cũng chẳng đồng, hoặc khác cũng chẳng khác? Này A-nan, cái thấy này nếu
cùng sáng tối và hư không vốn là một thể, thì hai thể sáng và tối nó tiêu diệt
nhau, khi tối thì không sáng khi sáng thì không tối, nếu cái thấy cùng với tối
là một thể thì khi sáng cái thấy đã mất, nếu cái thấy thật là một thể với sáng
thì khi tối đến cái thấy cũng phải mất. Mất thì làm sao thấy tối thấy sáng?
Nếu sáng và tối
khác nhau, cái thấy không sanh diệt, thì làm sao thành một thể? Nếu cái thấy
này cùng sáng và tối chẳng đồng một thể, thì lìa sáng tối và hư không, ông phân
tích coi cái thấy này là hình tướng gì? Lìa sáng tối và hư không, cái thấy này
vốn đồng như lông rùa sừng thỏ. Sáng tối và hư không, ba việc đều khác, từ cái
nào mà lập ra cái thấy?
Đức Phật nêu lên
hai vấn đề là cái thấy cùng với sáng tối và hư không là đồng một thể hay không
đồng, là một hay khác? Sáng với tối hai hướng đuổi nhau, hễ tối thì không sáng,
sáng thì không tối. Cái thấy không sanh diệt thấy cả sáng và tối, như vậy làm
sao nói đồng một thể được? Nếu chẳng đồng một thể thì lìa hư không, tối và
sáng, cái thấy phải có tướng mạo giới hạn riêng biệt của nó. Nhưng lìa sáng tối
và hư không thì đâu có thấy gì, nên nói giống như lông rùa sừng thỏ. Sáng tối
và hư không, ba việc khác nhau, vậy cái thấy từ chỗ nào lập?
Sáng và tối trái
nhau, làm sao nói là đồng? Lìa ba việc đó cái thấy vốn không, làm sao thành
khác? Bên không, bên thấy vốn không có bờ mé, làm sao mà chẳng phải đồng? Thấy
tối thấy sáng, tánh không dời đổi, làm sao chẳng phải khác?
Sáng tối và hư
không, ba cái khác nhau thì làm sao nói đồng. Nếu lìa sáng tối và hư không ra,
tìm cái thấy không có, làm sao nói khác! Nếu khác thì phải có ranh giới rõ
ràng, như đây là cái đĩa, đây là cái ly. Còn hư không và cái thấy không có bờ
mé, không thể phân ranh giới bên này là hư không, bên kia là cái thấy. Ngay hư
không có cái thấy, cái thấy ở hư không, không có ranh giới thì làm sao mà chẳng
phải đồng? Lại cái thấy thấy được tối thấy được sáng, nhưng tối sáng đổi nhau luôn
luôn, có tối không có sáng, có sáng không có tối, mà cái thấy sáng và tối thì
không đổi. Như vậy tối và sáng khác với cái thấy, làm sao mà chẳng khác?
Ông lại xét kỹ,
chín chắn mà xem cho rõ ràng, quan sát thật kỹ lưỡng: sáng là từ mặt trời, tối
là từ đêm không trăng, thông thuộc về hư không, bít thì quy về đất liền, như
thế tánh thấy nhân đâu mà ra? Cái thấy có giác biết, hư không thì không biết
gì, chẳng phải hòa hợp, không lẽ tánh thấy không từ đâu mà tự có?
Nếu tánh thấy nghe
biết tròn đầy trùm khắp, vốn không dao động, thì phải biết hư không vô biên
chẳng động, cùng với những thứ dao động đất nước lửa gió kia đều gọi là sáu
đại, tánh nó chân thật viên dung, đều là Như Lai tạng, vốn không sanh diệt.
Này A-nan, tánh ông
chìm đắm không ngộ được thấy nghe hiểu biết của ông vốn là Như Lai tạng. Ông
phải xem xét thấy, nghe, hiểu, biết này là sanh hay diệt, là đồng hay khác, là
chẳng sanh chẳng diệt, là chẳng đồng chẳng khác? Ông chưa từng biết trong Như
Lai tạng, tánh kiến giác minh, giác tinh minh kiến (tánh thấy biết
sáng suốt) thanh tịnh sẵn vậy, khắp cả pháp
giới, tùy theo tâm của chúng sanh ứng với chỗ hiểu biết của họ.
Như một căn thấy,
thấy khắp cả pháp giới, cái biết nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, cảm xúc, giác tri,
diệu đức sáng rỡ trùm khắp pháp giới, tròn đầy cả hư không mười phương đâu có
nơi chốn, theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết lầm là nhân duyên và
tánh tự nhiên, đều do thức tâm phân biệt so tính, chỉ có lời nói, trọn không có
nghĩa thật.
Một căn thấy, thấy
khắp cả pháp giới, nơi một người có cái thấy của một người, rồi trăm người ngàn
người... những cái thấy đó khắp cả pháp giới, không có chỗ nơi, đều là diệu đức
sáng rỡ. Phật cố chỉ cho chúng ta rõ cái thấy không có chỗ nơi, cũng không cố
định, gốc đều từ Như Lai tạng lưu xuất chứ không có tướng riêng biệt.
Đây chỉ cho chúng
ta cái gốc của sự tu. Ngay nơi sáu căn: mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm,
thân xúc chạm và ý biết, đều là diệu đức sáng rỡ. Khi không có vọng tưởng,
chúng ta vẫn thấy vẫn nghe, vẫn hiểu biết, đó chính là sống với diệu đức sáng
rỡ, tức tánh Bồ-đề của sáu căn. Diệu đức này khi còn chia ra từng phần của mắt,
tai, mũi, lưỡi v.v... thì gọi là lục hòa hợp. Tuy cũng là chân nhưng chưa phải
thật chân nên gọi là mặt trăng thứ hai, do ấn mắt mà thành, khi nào chúng ta
sống trở về chỗ chân thật thuần thục rồi, không còn mắc kẹt ở sáu căn nữa thì
gọi là đức tướng lục căn hỗ dụng, tức trở về với nhất tinh minh hay Như Lai
tạng.
Khi Phật nói kiến tinh, đó là mặt trăng
thứ hai chưa phải mặt trăng thật, cũng không phải bóng trăng dưới nước. Thức
tâm phân biệt so tính, tức tâm vọng là bóng trăng đáy nước. Diệu đức sáng rỡ
này là mặt trăng thứ hai, còn Như Lai tạng là thể của mặt trăng thật. Từ nơi
sáu căn diệu đức sáng rỡ này, chúng ta sống thuần thục, nghĩa là hằng ngày thấy
nghe hiểu biết mà không có vọng tưởng phân biệt, thì nhập vào Như Lai tạng, tức
từ lục hòa hợp trở về nhất tinh minh. Ngược lại nếu cứ chạy theo thức tâm phân
biệt so tính thì càng xa rời thể chân thật.
Này A-nan, thức
tánh không cội nguồn, nhân nơi sáu thứ căn trần mà dối sanh. Nay ông xem khắp
Thánh chúng trong hội này, dùng mắt nhìn qua. Mắt kia nhìn khắp chỉ như bóng
trong gương, không có phân tích riêng.
Nơi sáu căn có cái
biết chân thật thường hiển lộ. Như khi nhìn qua tất cả đại chúng, chúng ta thấy
khắp. Nhưng cái thấy biết đó không có chia chẻ phân tích riêng biệt, chỉ thấy
biết một cách tổng quát và không động. Đó là cái thấy chân thật.
Trong thức của ông
theo thứ lớp chỉ ra: đây là Văn-thù, đây là Phú-lâu-na, đây là Mục-kiền-liên,
đây là Tu-bồ-đề, đây là Xá-lợi-phất... Cái thức hiểu biết này sanh ra từ cái
thấy hay sanh nơi tướng, hay sanh nơi hư không, hay không có nhân đột nhiên mà
phát sanh?
Khi mới nhìn tổng
quát, thấy khắp mà không có phân tích, cái thấy này không động. Lúc khởi phân
tích đây là người này đây là người kia, đó là việc làm của thức. Như vậy ngay
trong cái thấy có hai phần:
- Phần thứ nhất gọi
là hiện lượng, cũng gọi là tánh thấy, thấy khắp mà không động.
- Phần thứ hai là
có thức phụ họa để phân tích chia chẻ.
Cái thấy trước không
động nên không sanh diệt, còn thức khởi phân biệt thì động và sanh diệt. Đó
chính là chỗ đức Phật nói với vua Ba-tư-nặc: "Thân ông thì có già trẻ, còn
cái thấy của ông thấy sông Hằng không có già trẻ, không hề dời đổi. Cái biến
đổi thì phải chịu hoại diệt, còn cái không biến đổi kia vốn không sanh
diệt." Phật chỉ tánh thấy là chỉ cái thấy của hiện lượng ban đầu chứ không
phải cái thấy có thức phụ họa sau.
Chúng ta tu thiền,
những lời Phật dạy này làm sáng thêm đường lối tu. Lúc không khởi phân biệt, sáu
căn chúng ta vẫn hằng sáng, đâu phải là chẳng biết gì. Biết mà biết với cái
hằng hữu chứ không phải biết với cái thức phân biệt. Vì vậy nên nói "phân
biệt mà không phải thức". ở đây đức Phật dùng ví dụ cái gương phản ảnh tất
cả hình bóng, trắng ra trắng, đen ra đen, nhưng không khởi phân tích. Các thiền
sư cũng nói giống như vậy, khi sống được với cái chân thật hiện tiền thì giống
như gương. Hồ đến hiện Hồ, Hán đến hiện Hán. Nếu sống với thức thì cứ phân tích
người này người kia, đó là đi theo sanh diệt.
Này A-nan, nếu thức
tánh của ông sanh từ trong cái thấy, như khi không có sáng tối cùng với sắc
không, bốn thứ đã không có thì cái của ông vốn cũng không có. Tánh thấy còn
không có thì từ đâu mà thức phát ra?
Phật nêu lên, khi
không có sáng tối, không có sắc tướng, không có hư không thì lúc đó thấy cái
gì? Có cái gì đâu mà thấy! Cái thấy đã không thì thức từ đâu mà sanh?
Trong phần Tánh
thấy biết chính là tâm, đức Phật có dạy: Tiền trần có tối có sáng, chứ tánh
thấy của ngài A-nan không bao giờ mất. Dù cho con mắt có mù tánh thấy vẫn không
mất. Cảnh trước có hay không, không thành vấn đề, cái thấy lúc nào cũng có. Ở
đây Phật lại nói: Rời bốn thứ tối sáng sắc không thì không có cái thấy. Như vậy
có mâu thuẫn không?
Đoạn trước đức Phật
cố chỉ ra cái thấy của tự tánh bất sanh bất diệt sẵn có nơi mình, không thuộc
về cảnh. Tối và sáng là cảnh bên ngoài, dù có hay không tánh thấy vẫn không
mất. Còn ở đây đức Phật dùng lý lẽ để bác thức là hư giả không thật, nên nói
cái thấy đã không thì thức từ đâu mà sanh. Đây là thấy theo cảnh, vọng thấy
vọng biết, nghĩa là có cảnh thì có thấy, không cảnh thì không thấy.
Nếu thức tánh của
ông sanh ra từ các tướng, không phải sanh từ nơi cái thấy, thì đã không thấy
sáng cũng không thấy tối, sáng tối đã không thấy tức chẳng có sắc và không.
Những tướng kia còn không thì thức từ đâu mà phát?
Đức Phật bác trường
hợp thức sanh từ sắc tướng, như do thấy hình tướng các ngài Mục-kiền-liên,
Phú-lâu-na v.v... mà sanh ra thức. Tướng có hình sắc và tướng rỗng không, do có
sáng và tối mà chúng ta thấy biết. Nếu không thấy sáng tối thì làm sao biết
tướng sắc không. Tướng sắc và không còn không có thì thức từ đâu mà có?
Nếu thức sanh từ hư
không, chẳng phải các tướng, chẳng phải cái thấy. Nếu chẳng phải cái thấy thì
không thể biện biệt, tự nó chẳng thể biết được sáng tối sắc không. Không có sắc
tướng thì duyên cũng mất, thấy nghe hiểu biết không có chỗ an lập.
Nếu không có cái
thấy thì không có phân biệt sáng tối sắc không. Không có phân biệt hư không thì
làm sao nói thức sanh từ hư không. Còn không có tướng thì không có các duyên.
Không có tướng, không có duyên thì thấy nghe hiểu biết cũng không từ đâu mà an
lập được.
Nơi hai thứ chẳng
phải này, nếu là không thì thức đồng với không có, còn có thì thức chẳng đồng
với vật. Dù cho thức của ông có phát ra thì phân biệt được gì?
Thông thường, có
thấy tướng thì mới có phân biệt, nay không phải tướng cũng không phải thấy thì
phân biệt cái gì? Nếu nó là không thì đồng với rỗng như hư không, còn có thì
thức vốn không phải là vật, vậy nó sẽ phân biệt cái gì?
Nếu không có nguyên
nhân, thức bỗng nhiên phát ra, thì tại sao khi ở giữa trưa lại không riêng biết
mặt trăng sáng.
Nếu bỗng dưng không
có nguyên nhân mà thức tự có ra, tức lúc nào muốn phân biệt thì phân biệt, lúc
nào muốn biết thì biết chứ không đợi có nhân duyên, thì giữa trưa có thể thấy
biết mặt trăng sáng không?
Ông phải suy nghĩ
chín chắn, xem xét kỹ lưỡng, cái thấy thì gá nơi con mắt ông, các tướng thuộc
về tiền cảnh, cái có hình tướng thì thành có, không có tướng thì thành không.
Như vậy thức duyên này nhân cái gì mà ra? Thức thì động, cái thấy thì lặng,
chẳng phải hòa chẳng phải hợp. Ngửi, nghe, cảm giác, hiểu biết cũng lại như
thế. Không lẽ thức duyên không từ đâu mà ra.
Thức thì động còn
cái thấy thì lặng.
Nhãn thức thì động mà nhãn kiến là lặng. Cái động có sanh diệt, cái lặng thì
không sanh diệt. Một bên động và một bên lặng, nên không phải hòa không phải
hợp.
Ngay nơi cái thấy
đã mang hai tướng trạng, một động một tĩnh. Tĩnh là cái sẵn có, còn động thì
phát xuất sau. Nếu chúng ta chạy theo động là theo sanh diệt, còn sống được với
tĩnh thì không sanh diệt. Cái nghe cũng vậy, như khi chúng ta ngồi thiền, ở
ngoài có tiếng xe mình cũng nghe, tiếng kèn tiếng gió tiếng mưa... cũng nghe.
Cái nghe đó là tĩnh, còn nghe tiếng kèn nghĩ tiếng kèn này của xe gì, loại
nào... thì đó là động.
Như vậy nơi sáu
giác quan chúng ta mang hai tướng trạng tĩnh và động. Nếu chạy theo động tức
sanh diệt thì đi trong luân hồi, còn sống với cái không sanh diệt thì giải
thoát. Như vậy đức Phật đã phân tích quá kỹ, không hề giấu giếm, chỉ cho thấy
rõ ràng cái không sanh diệt ở ngay nơi sáu căn của mình.
Nếu thức tâm này
vốn không từ đâu ra thì phải biết cái phân biệt rõ ràng (thức đại) và cái thấy
nghe, cảm giác, hiểu biết (kiến đại) lặng lẽ trùm khắp, tánh nó không do đâu mà
có. Hai đại đó cùng với hư không, đất nước lửa gió, gọi chung là thất đại, tánh
thật viên dung, đều là Như Lai tạng vốn không sanh diệt.
Như vậy không chỉ
cái thấy nghe hiểu biết của chúng ta, mà luôn cả những thứ bên ngoài như đất
nước gió lửa v.v... cũng gồm trong Như Lai tạng.
Này A-nan, tâm ông
thô phù không ngộ được, phát minh ra cái thấy nghe hiểu biết vốn là Như Lai
tạng. Ông nên quán sát sáu thức tâm này là đồng hay khác, là không hay có, là
chẳng đồng hay chẳng khác, là chẳng không hay chẳng có?
Ông vốn chẳng biết
trong Như Lai tạng, tánh thức là rõ biết sáng suốt (minh tri), tánh biết sáng
suốt (giác minh) là chân thức, tánh biết nhiệm mầu lặng lẽ trùm khắp pháp giới,
bao gồm cả mười phương đâu có phương hướng nơi chốn, chỉ theo nghiệp mà phát hiện.
Thế gian không biết, lầm là nhân duyên và tánh tự nhiên, đều là thức tâm phân
biệt so tính, chỉ có lời nói, trọn không có nghĩa thật.
Gọi là tâm thô phù
là vị chạy theo cái động.
Đức Phật phân tích
rõ từ nhãn căn cho tới nhĩ căn, tỹ căn v.v... cái nào cũng có thức và biết. Khi
thấy, nghe, ngửi v.v... trong đó có một phần động và một phần tịnh. Ban đầu là
tịnh, vừa khởi phân biệt là động. Nhà thiền thường nói sáu căn không dính với
sáu trần, chính là chỗ không khởi sáu thức phân biệt. Khởi thức phân biệt tức
là dính mắc. Nếu cũng thấy cũng nghe mà không khởi thức phân biệt là không dính
mắc.
Tất cả những cái
thấy nghe ngửi nếm xúc biết hằng ngày của chúng ta đều không có nơi chốn cố
định, là dụng của Như Lai tạng. Như Lai tạng trùm khắp thì nó cũng trùm khắp.
Nhưng tại sao hiện nay lại riêng rẽ thành sáu cái? Đó là do nơi nghiệp mà ứng
hiện theo chỗ hiểu biết so tính. Nếu dứt hết nghiệp thì tự nhiên không còn ứng
theo chỗ so tính nữa mà trùm khắp viên mãn, tức trở về Như Lai tạng.
Đức Phật đã giải
thích cho ngài A-nan và đại chúng hiểu rõ từ Ngũ ấm đến Lục nhập, Thập nhị xứ,
Thập bát giới, gồm luôn cả Thất đại, tất cả là không thật, đều từ Như Lai tạng
diệu chân như tánh lưu xuất, trùm khắp pháp giới. Nếu trở về bản tánh thì thấy
tất cả viên dung với nhau: sắc tức là không, không tức là sắc, thủy tức là
không, không tức là thủy, hỏa tức là không, không tức là hỏa... Bởi viên dung
nên không chướng ngại nhau. Tâm chúng ta cũng vậy, khi trở về tánh thì viên
dung trùm khắp không chướng ngại nhau.
Nghe Phật giảng kỹ
như vậy nên đến đây ngài A-nan và đại chúng liền được khai ngộ.
1.
A-NAN GIÁC NGỘ PHÁT
NGUYỆN
Khi ấy A-nan và các đại
chúng nhờ Phật Như Lai khéo léo chỉ bày, thân tâm rỗng rang không còn ngăn
ngại. Các đại chúng ấy mỗi người tự biết tâm trùm khắp mười phương, thấy hư
không mười phương như xem chiếc lá hay đồ vật trong bàn tay. Tất cả sự vật có
trong thế gian đều là tâm Bồ-đề sáng suốt nhiệm mẫu sẵn có.
Khi giác ngộ rồi mỗi
người tự biết tâm trùm khắp, thấy hư không mười phương chỉ như chiếc lá trong
lòng bàn tay. Bàn tay dụ cho Như Lai tạng trùm khắp. Nghĩa là tất cả sự vật
trong thế gian không có gì ngoài giác tâm sáng suốt.
Tâm tinh viên mãn trùm
khắp gồm cả mười phương, trở lại xem cái thân cha mẹ sanh ra, như thổi một hạt
bụi nhỏ trong hư không mười phương, hoặc còn hoặc mất, cũng giống như hòn bọt
nổi trôi trên biển cả lặng yên, dầu nổi dầu tan không biết từ đâu.
Tâm tinh là tâm tinh ba
rộng lớn trùm khắp, gồm cả mười phương. Nhận được tâm thể này rồi, thấy thân
cha mẹ sanh ra giống hạt bụi nhỏ trong hư không, như hòn bọt ngoài biển cả,
không chỗ nơi căn cứ, không có nghĩa lý gì, do đó phá được chấp ngã và chấp
pháp. Hư không và biển cả dụ cho Như Lai tạng.
Tự biết được rõ ràng,
bản tâm nhiệm mầu thường trụ không diệt. A-nan chắp tay lễ Phật được điều chưa
từng có, ở trước Như Lai nói bài kệ tán thán Phật:
Diệu trạm tổng trì bất
động tôn
Thủ-lăng-nghiêm vương
thế hy hữu
Tiêu ngã ức kiếp điên
đảo tưởng
Bất lịch tăng-kỳ hoạch
pháp thân.
Bốn câu trên tán thán
Tam bảo, trình bày chỗ sở ngộ của ngài A-nan.
Trước tiên tán thán Phật
là đấng lặng lẽ nhiệm mầu, gồm nhiếp, không động. Kế tán thán Pháp, kinh
Thủ-lăng-nghiêm là vua của các kinh, ở đời rất ít có. Đến tán thán Tăng, nhờ
nghe kinh này mà các tưởng điên đảo từ muôn ức kiếp của con được tiêu trừ, không
trải qua vô số kiếp mà được pháp thân.
Theo tinh thần kinh điển
Đại thừa, người tu từ khi phát tâm cho tới thành Phật trải qua ba vô số kiếp.
Bắt đầu vào Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng là một vô số kiếp, kế
đến Thập địa thì từ Sơ địa đến Bát địa là vô số kiếp thứ hai, từ Bát địa cho
tới Đẳng giác Diệu giác là vô số kiếp thứ ba.
Đoạn này nói lên tinh
thần đốn ngộ. Ngài A-nan nghe Phật giảng tới đây bỗng dưng sạch hết các tưởng
điên đảo, không cần trải qua vô số kiếp mà nhận được pháp thân. Pháp thân tức
là Như Lai tạng. Nhận được pháp thân rồi, từ đó lưu xuất tất cả.
Nguyện kim đắc quả thành
Bảo vương
Hoàn độ như thị hằng sa
chúng
Tương thử thâm tâm phụng
trần sát
Thị tắc danh vi báo Phật
ân.
Ngài A-nan phát nguyện,
được chứng quả thành Phật trở lại độ chúng sanh nhiều như cát sông Hằng,
đem thân tâm này phụng thờ chư Phật các cõi nước nhiều như số bụi, ấy mới gọi
là đền ơn chư Phật.
Đây là đại nguyện thượng
cầu hạ hóa. Trên phụng thờ chư Phật, dưới hóa độ tất cả chúng sanh.
Phục thỉnh Thế Tôn vị
chứng minh
Ngũ trược ác thế thệ
tiên nhập
Như nhất chúng sanh vị
thành Phật
Chung bất ư thử thủ
Nê-hoàn.
Trên là phát nguyện, đến
đây là lời thệ của ngài A-nan. Xin Phật chứng minh, con xin thề trong đời ác
ngũ trược này con nguyện vào trước. Nếu như có một ngày chúng sanh nào chưa
thành Phật, con không bao giờ ở nơi đây nhận Niết-bàn.
Ngài A-nan thệ sẽ xông
pha vào cõi đời ngũ trược, còn chúng ta tu mong mình được giải thoát sớm, mặc
kệ bao nhiêu chúng sanh đang lặn hụp. Thọ ơn chúng sanh mà đòi giải thoát một
mình, chúng ta chẳng khác nào kẻ lỡ đường định về nhà mà hết tiền xe, gặp người
quen muốn hỏi mượn tiền nên đề cao khen ngợi họ, khi mượn được tiền rồi lên xe
đi thẳng không thèm trở lại.
Tinh thần Đại thừa khác
Nhị thừa ở chỗ này. Ngài A-nan phát nguyện khi thành Phật rồi thì trở lại cõi
đời ngũ trược cùng lăn lộn với chúng sanh. Tuy mình đã giác nhưng vì thương
chúng sanh nên vẫn vào trong cảnh trần, gọi là hòa quang đồng trần, tức đem ánh
sáng hòa với bụi. Đó là sức mạnh của người tu Đại thừa.
Đại hùng đại lực đại từ
bi
Hy cánh thẩm trừ vi tế
hoặc
Linh ngã tảo đăng Vô
thượng giác
Ư thập phương giới tọa
đạo tràng.
Đại hùng đại lực đại từ
bi, mong ngài xem xét kỹ để trừ dẹp những mê lầm vi tế, khiến cho con sớm lên
quả vị Vô thượng giác, ngồi đạo tràng khắp thế giới mười phương.
Câu này và câu trước có
mâu thuẫn không? Chúng ta phải hiểu, giác ngộ không có nghĩa là nhập Niết-bàn,
mà giác ngộ rồi lại ngồi đạo tràng trong mười phương. Như tôi hiện nay đang
giảng pháp cho mọi người nghe, có phải cũng ngồi đạo tràng không? Duy-ma-cật
nói, đâu cũng là đạo tràng. Đạo tràng đây là ở mười phương cõi để giáo hóa
chúng sanh, chứ không phải lên tòa sen ngồi lim dim.
Thuấn-nhã-đa tánh khả
tiêu vong
Thước-ca-la tâm vô động
chuyển.
Thuấn-nhã-đa là hư
không, thước-ca-la là kiên cố như kim cương. Hai câu này có nghĩa là hư không
có thể tiêu mất nhưng tâm kiên cố của con không hề động chuyển.
Người thế gian hay thề
"dù cho non mòn biển cạn, lòng vẫn không dời đổi". Non có khi mòn,
biển có lúc cạn, còn hư không chẳng bao giờ tan hoại. Ngài A-nan mượn so sánh
này để nói lên ý nghĩa, khi đã ngộ được tâm chân thật, dù có biến cố nào ngài
cũng không lay chuyển, không thối Bồ-đề tâm. Chúng ta bây giờ ngược lại, chùa
chưa cũ vườn chưa tàn mà tâm mình đã thay đổi rồi!
Lúc ban đầu ngài A-nan
đi khất thực bị nạn Ma-đăng-già, chúng ta thấy ngài cũng tầm thường, nhưng chỉ
một khoảng thời gian ngắn nghe Phật dạy, không phải qua tu tập lâu sao ngài lại
dũng mãnh như vậy? Bởi khi đã ngộ được pháp thân, nhìn thấy chúng sanh mê lầm
bỏ cái lớn như đại dương, chấp hòn bọt nhỏ cho là mình, nên ngài vì thương
chúng sanh mà phát khởi lòng đại bi nguyện độ thoát tất cả. Ngang đây ngài
A-nan đốn ngộ, cũng là triệt ngộ.
Chúng ta tu thiền nghe
nói ngộ nhưng nhiều khi không biết tới đâu gọi là triệt ngộ, tới đâu là đại ngộ
hay tiểu ngộ. Chỗ này cần phải hiểu cho chín chắn kẻo không dễ lầm.
Trong kinh Lăng-nghiêm,
trước hết Phật phá chấp lầm lẫn cho suy nghĩ hư vọng là tâm mình. Kế ngài chỉ
ra cái thật tương đối, đó là tánh thấy không sanh diệt sẵn có nơi thân sanh
diệt, nhưng mới là mặt trăng thứ hai chưa phải mặt trăng thật. Sau cùng Phật
mới chỉ ra cái thật cứu cánh, nói thẳng ngũ ấm, lục nhập, thập nhị xứ, thập bát
giới và thất đại đều gốc từ Như Lai tạng diệu chân như tánh. Như Lai tạng trùm
khắp tất cả, đó là mặt trăng thật. Khi nhận được chỗ chân thật cứu cánh này,
ngài A-nan thấy rõ thân đối với Như Lai tạng tâm giống như hạt bụi ở trong hư
không, như hòn bọt ngoài biển cả không nghĩa lý gì. Thấy vậy là triệt ngộ chứ
không phải ngộ tầm thường. Nếu giải ngộ hay tiểu ngộ thì mới thấy một phần nào
thôi chứ chưa phải thấu suốt hoàn toàn như vậy.
Các thiền sư khi nhận ra
tâm mình trùm khắp mười phương, gọi là đại ngộ hay triệt ngộ. Còn như chúng ta
tu, khi nghe giảng dạy hoặc đọc kinh điển cũng có thể nhận được nơi thấy nghe
của mình có cái chân thật, đây chỉ mới ngộ mặt trăng thứ hai, chưa phải thấy
mặt trăng thật. Nghĩa là không còn lầm bóng trăng vọng dưới nước, nhưng vẫn
chưa thấy được mặt trăng thật, tức chưa nhận ra Như Lai tạng tâm trùm khắp pháp
giới.
Kinh Lăng-nghiêm là
phương tiện khéo léo của Phật chỉ cho chúng ta tới chỗ triệt ngộ cứu cánh, đúng
như tinh thần "kiến tánh khởi tu", đốn ngộ rồi mới khởi tu. Như vậy
học kinh này chính là học thiền. Người học thiền mà không hiểu kinh Lăng-nghiêm
sẽ không biết chỗ cứu cánh ra sao. Giả như ngộ được mình có tâm chân thật bất
sanh bất diệt, nhưng cái thấy vẫn còn giới hạn nơi các căn thì ngã vẫn còn; như
biết trong nhà có người, nhưng vẫn còn thấy cái nhà. Chừng nào thấy nhà vô
nghĩa, nhận ra cái trùm khắp không ngằn mé, chừng đó mới thấy được lẽ thật.
Cũng vậy, chúng ta tu phải thấy thân cảnh không có giá trị gì, phá được ngã và
ngã sở, triệt ngộ tới chỗ cứu cánh mới không còn thối chuyển.
V. QUYẾT NGHI
1. Nguyên nhân vọng
thấy có tướng thế giới và chúng sanh
Khi ấy
Phú-lâu-na-di-đa-la-ni Tử ở trong đại chúng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, bày vai
áo bên phải, quỳ gối phải sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật rằng:
- Đức Thế tôn đại
oai đức, khéo vì chúng sanh diễn bày đệ nhất nghĩa đế của Như Lai. Thế Tôn
thường khen trong nhóm người nói pháp, con là bậc nhất, mà nay con nghe Như Lai
nói pháp âm vi diệu, giống như người điếc ở cách xa ngoài trăm bước lắng nghe
tiếng muỗi mòng, vốn đã không thấy, huống là được nghe. Phật tuy chỉ dạy rõ
ràng, khiến con dứt trừ mê lầm, nhưng nay con vẫn chưa rõ được chỗ cứu cánh
không còn nghi lầm nghĩa này. Bạch Thế Tôn, như nhóm ông A-nan tuy đã khai ngộ
nhưng chưa trừ hết tập khí hữu lậu, còn chúng con ở trong hội này đã lên hàng
vô lậu, tuy đã dứt hết các lậu mà nay nghe pháp âm của Như lai nói vẫn còn
nhiều nghi ngờ.
Phú-lâu-na-di-đa-la-ni
Tử, thường gọi tắt là Phú-lâu-na, Hán dịch là Mãn Từ Tử. Mãn là tên ngài, nghĩa
là đầy đủ, quả mãn. Từ là họ mẹ, Tử là con, Từ Tử là con của bà họ Từ. Ngài là
một trong mười đại đệ tử của Phật, người Ca-tỳ-la-vệ, thuyết pháp bậc nhất. Lại
có một chàng trai Ca-tỳ-la-vệ, thuyết pháp bậc nhất. Lại có một chàng trai cũng
tên Phú-lâu-na, con nhà giàu có ở Nam Ấn, quy y Tam bảo và được Phật thọ ký cho
về sau thành Phật.
Ngài A-nan và đại
chúng đã lãnh hội được chỗ Phật dạy, tuy ngộ đạo mà những tập khí vi tế chưa
sạch. Đến đây ngài Phú-lâu-na đại diện cho hàng vô học A-la-hán đứng ra thưa
hỏi. Ngài nói hết sức khiêm nhường, rằng tuy là A-la-hán mà nghe pháp âm Phật
nói hoàn toàn mờ mịt.
Tại sao các vị đã
được lậu tận mà lại chưa ngộ, trong khi ngài A-nan và đại chúng chưa dứt các
lậu lại lãnh hội được chỗ Phật dạy? Có thể ngài Phú-lâu-na vì lòng từ bi nên ẩn
đi chỗ ngộ của mình mà đứng ra thưa hỏi, cầu xin Phật chỉ dạy thêm cho những người
chưa ngộ. Một lý nữa là người đã được lậu tận, vào định tánh Thanh văn, khi
nghe pháp Đại thừa khó mà chuyển được, vì vậy nên khó ngộ, ngài A-nan chưa được
quả vô lậu nên nghe pháp Đại thừa dễ lãnh hội. Những người đang tu theo pháp
môn không phải Tối thượng thừa, khi nghe đến pháp môn Tối thượng thừa sẽ cảm
thấy nghi chướng, là do sở tập của họ không dễ bỏ.
Bạch Thế Tôn, nếu
lại tất cả căn, trần, ấm, xứ, giới v.v... ở thế gian này đều là Như Lai tạng
thanh tịnh bản nhiên, vì sao chợt sanh các tướng hữu vi, núi sông đất liền, thứ
lớp đổi dời, cuối rồi lại bắt đầu?
Đây là câu hỏi rất
hệ trọng. Phật nói tất cả các pháp như lục căn, lục trần, ngũ ấm, thập nhị xứ,
thập bát giới v.v... tức là thân, tâm và cảnh thảy đều từ Như Lai tạng thanh
tịnh bản nhiên, vậy tại sao không thanh tịnh như thế luôn, lại chợt sanh ra núi
sông đất đai, rồi có các tướng hữu vi đổi dời, cuối rồi trở lại bắt đầu, đầu
rồi lại cuối, cứ như vậy mà tiếp nối không cùng?
Lại, Như Lai nói
đất nước lửa gió bản tánh viên dung trùm khắp pháp giới, lặng lẽ thường trụ.
Bạch Thế Tôn, nếu tánh đất trùm khắp thì làm sao dung được nước? Còn tánh nước
trùm khắp thì lửa không thể sanh. Lại làm sao rõ biết được hai tánh nước và lửa
đều khắp cả hư không mà không lấn diệt nhau?
Nếu đất trùm khắp
thì chỉ toàn là đất chứ đâu có nước. Nếu nước trùm khắp thì làm sao có lửa?
Nước và lửa nếu trùm khắp hư không thì làm sao không lấn diệt nhau? Có thể nào
lửa đang cháy, rồi cho nước vào một khoảng riêng được chăng? Hay là có nước thì
lửa tắt, còn có lửa thì nước phải khô? Nếu có cái này thì không có cái kia. Như
vậy làm sao hai thứ nước và lửa, cái nào cũng có đầy khắp được? Vậy mà Phật nói
tánh lửa trùm khắp pháp giới, nước cũng trùm khắp pháp giới, hư không, đất cũng
đều trùm khắp cả pháp giới. Làm sao hiểu được?
Bạch Thế Tôn, tánh
đất là chướng ngại còn tánh hư không thì rỗng suốt, làm sao cả hai đều trùm
khắp pháp giới? Nay con không biết nghĩa này thế nào, cúi mong Như Lai mở rộng
lòng từ bi vén đám mây mờ cho con và cả đại chúng.
Thưa lời ấy rồi,
năm vóc gieo xuống đất, trông chờ lời dạy từ bi vô lượng của Như Lai.
Ngài Phú-lâu-na đưa
ra hai câu hỏi thuộc về bản thể luận, hay là duyên khởi luận. Tìm xem bản thể
nó là cái gì, rồi từ bản thể khởi lên những hiện tượng thế nào? Vấn đề này rất
khó, quá tầm hiểu biết thông thường của chúng ta. Bởi vậy hàng A-la-hán chỉ mới
dứt mầm sanh tử mà chưa chứng được pháp thân, chưa thấy thiệt được pháp nên còn
nghi. Chúng ta thấy tinh thần thưa hỏi của ngài Phú-lâu-na, tuy là người được
Phật khen là thuyết đệ nhất mà lời nói rất khiêm nhường, trình bày chỗ không
hiểu của mình, cầu xin Phật từ bi vén mây mờ cho ngài và đại chúng được thấy.
Khi ấy đức Thế Tôn
bảo ông Phú-lâu-na và các vị A-la-hán lậu tận vô học trong hội rằng:
- Ngày nay Như Lai
vì khắp hội chúng này, nói lên tánh chân thắng nghĩa trong thắng nghĩa, khiến
cho ở trong hội, hàng định tánh Thanh văn và tất cả những vị A-la-hán chưa được
hai Không, hướng về Thượng thừa đều được cảnh giới Nhất thừa tịch diệt, là chỗ
tu hành chân chánh, hoàn toàn tịch tĩnh. Nay ông lắng nghe, ta sẽ vì ông mà
nói.
Phú-lâu-na... im
lặng cung kính, chờ nghe lời Phật dạy.
Chân thắng nghĩa
trong thắng nghĩa là nói cái chân thật thù thắng trong nghĩa thù thắng. Tuy các
ngài tu chứng A-la-hán được lậu tận rồi, tức là đã được thắng nghĩa, nhưng chưa
phải là thắng nghĩa cứu cánh. Ở trong hội này Phật nói tánh thắng nghĩa chân
thật cứu cánh. Hai Không là ngã
không và pháp không. A-luyện-nhã còn
gọi là a-lan-nhã, có nghĩa là nơi tu hành tịch tĩnh. Chân a-luyện-nhã là chỗ
hoàn toàn tịch tĩnh, tức ngã pháp đều lặng hết không còn đối đãi. Đến đây đức
Phật bắt đầu nói về bản thể luận, rồi tới duyên khởi luận.
Phật bảo:
- Này Phú-lâu-na,
như lời ông hỏi thanh tịnh bản nhiên tại sao chợt sanh núi sông đất liền? Ông
chẳng thường nghe Như Lai tuyên nói tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu
sao?
Tánh giác diệu minh chỉ cho bản
giác hay là Như Lai tại triền, tức là còn ở trong trói buộc của phiền não và vô
minh. Tánh này vốn là giác nhưng không phải là cái sáng phân chia soi tỏ các sự
vật. Đây là sáng trong cái diệu, chỗ khác gọi là Bát-nhã vô tri.
Bản giác minh diệu chỉ cho thủy
giác, cũng gọi là Như Lai, không còn bị trói buộc nữa. Cái sáng của thủy giác
rất là nhiệm mầu cho nên gọi là vô sở bất
tri.
Tánh giác là diệu
minh, còn bản giác là minh diệu. Đó là đức Phật nêu lên cái gốc của sự giác
ngộ. Phật thường dạy mọi người sẵn có tánh giác, tức là bản giác, từ đây phát
tâm tu hành dẹp bỏ phiền não sẽ được giác ngộ, gọi là thủy giác. Như vậy từ bản
giác mà có thủy giác, thủy giác là giác trở lại bản giác đó.
Phú-lâu-na thưa: -
Đúng vậy, bạch Thế Tôn! Con thường nghe Phật giảng nói nghĩa này.
Phật bảo: - Ông gọi
là giác minh, là tánh này minh nên gọi là giác, hay là giác đó chẳng minh gọi
là minh giác?
Đức Phật nêu lên
hai vấn đề: Ông gọi giác minh là tánh nó sáng nên gọi là giác; hay là giác đó
chẳng sáng, phải minh lại nó, tức soi sáng nó rồi mới giác, nên gọi là minh
giác?
Phú-lâu-na thưa: -
Nếu cái chẳng sáng này gọi là giác thì không có sở minh (chỗ soi sáng).
Ví dụ cái gương,
bản chất của nó là sáng hay là không sáng? Nếu bản chất của gương là sáng, thêm
cái sáng bên ngoài nữa ắt thành hai. Phải thấy rõ bản chất của gương chỉ là
trong trẻo. Do trong trẻo nên khi phản ánh mặt trời thì nó phát sáng, chư
nguyên nó chỉ là trong. Ngay nơi trong đã có sáng, nhưng sáng này đợi duyên bên
ngoài mới hiện bày.
Như để một cái
gương rồi đốt đèn lên, gương sẽ phản quang lại chỗ khác. Như vậy nó sáng hay là
không sáng? Nếu gương sáng thì không đợi có đèn tự nó cũng phát sáng. Vậy sáng
của phản quang là dụng, còn thể gương không phải sáng mà là trong trẻo. Từ cái
trong đó nên có gì chiếu vào thì phát sanh dụng sáng soi.
Ngài Phú-lâu-na
nghe Phật hỏi tánh giác đó tự sáng nên gọi là giác, hay là không sáng, đợi cái
sáng khác soi nó mới gọi là giác? Ngài Phú-lâu-na đã trả lời nếu tánh giác đó
không sáng thì không thể soi sáng được. Chính đây là chỗ sai lầm của ngài. Vì
tánh giác giống như thể của gương, nguyên là trong trẻo, còn sáng là do phản
quang từ ngoại cảnh chứ không phải tự nó có. Bởi vì thể nó trong trẻo nên mới có
phản quang. Ngài Phú-lâu-na đã lầm cái dụng sáng cho là thể.
Khi có ánh đèn hay
mặt trời chiếu thẳng vào gương thì gương phản quang. Lúc gương bị cái khác
chiếu vào thì nó là năng hay sở? Như vậy nó là thể gốc mà nay biến thành sở
minh, cái bị soi chiếu. Ngài Phú-lâu-na nói nếu tánh giác không sáng thì không
có sở minh, tức là ngài không nhìn thấu được thể trong của nó, mà tưởng là phải
có dụng sáng mới gọi là giác, không có dụng sáng thì không gọi là giác.
Phật dạy thể giác
là trong, có duyên chiếu soi thành sáng. Như vậy sáng đó thuộc về sở, tức thuộc
vọng chứ không phải thật. Điều này trong Triệu Luận cũng nói: Bát-nhã vô tri,
vô sở bất tri. Nghĩa là Bát-nhã
không biết mà không chỗ nào chẳng biết. Bát-nhã vô tri là chỉ cho
thể trong trẻo của nó, là tánh giác diệu minh. Nếu có cái gì chiếu đến thì nó
soi sáng, nên nói vô sở bất tri, tức cái gì cũng biết, là bản giác minh diệu.
Phật bảo: - Nếu
không có sở minh thì không có minh giác. Có sở minh thì chẳng phải giác, không
sở thì chẳng phải minh. Nếu không minh thì lại chẳng phải tánh giác trạm minh.
Nếu không có sở
minh thì không có soi sáng lại tánh giác (minh giác). Nếu có sở, tức là tánh
giác bị soi sáng, thì không phải là giác rồi. Còn nếu không có sở thì không
minh, tức là không bị soi thì không sáng. Nếu không minh thì chẳng phải là tánh
giác trạm minh.
Ở đây Phật muốn nêu
rõ, vừa chấp nhận cái sáng soi lại tánh giác thì tánh giác trở thành sở thành
sở, còn cái sáng soi đó là năng. Như vậy từ thể tánh lặng lẽ biến thành đối
đãi. Ví như gương, nếu có đèn soi sáng thì nó trở thành sở, cái bị soi, còn đèn
trở thành năng, tức có hai cái đối đãi. Đây là gốc sanh ra tất cả manh mối sau
này.
Tánh giác hẳn là
minh, do vọng minh lại tánh giác.
Tánh giác tự nó
trong sáng nhưng cái sáng này không có chiếu. Bây giờ soi lại nó thì nó trở
thành cái bị chiếu.
Tánh giác không
phải là sở minh, nhân minh mà lập sở. Sở đã vọng lập thì sanh ra vọng năng nơi
ông.
Tánh giác nguyên
thể là chủ, không phải là cái bị soi sáng, bởi do vọng soi sáng lại nó mà nó
trở thành cái bị soi. Như vậy từ thể không năng không sở mà trở thành có năng
sở đối đãi, vọng lại thành chủ, còn chân biến thành khác. Đây là bước đầu mê
lầm.
Ngày nay chúng ta
cũng thường có bệnh giống hệt như vậy. Khi ngồi tu muốn thấy được chân tâm của
mình. Chân tâm là mình, là thể của mình, bây giờ muốn thấy nó thì chân tâm biến
thành cái bị soi sáng. Chúng ta nhận cái soi sáng lại chân tâm là năng, thì
chân tâm trở thành sở. Như vậy vọng niệm biến thành năng niệm, còn chủ thể
thanh tịnh lại thành sở, vọng kiến biến thành năng kiến còn tánh giác trở thành
sở. Năng sở đã lập, đó là gốc mê lầm. Vậy là từ thể, chân tâm trở thành dụng.
Nhận cái dụng làm mình mà bỏ quên thể, nên mới dấy ra đủ thứ chuyện.
Bây giờ muốn trở về
tánh giác phải buông bỏ vọng tưởng để tâm thanh tịnh. Khi tâm thanh tịnh dừng
dấy niệm "mình đang thanh tịnh". Dấy niệm là bệnh. Cái gốc của mê lầm
vô thủy cũng do dấy niệm soi lại tánh giác, từ đó mà lập chúng sanh, sơn hà đại
địa v.v…
Trong chỗ không
đồng khác, bỗng nhiên thành khác. Khác với các khác kia, nhân nơi khác mà lập
ra đồng. Đã phát minh ra đồng khác, nhân đây lại lập cái không đồng không khác.
Như thế mà rối loạn, đối đãi nhau sanh ra lao nhọc. Lao nhọc lâu ngày phát ra
các trần, tự làm vẩn đục nhau, do đó mà dấy khởi trần lao phiền não. Dấy khởi
làm thành thế giới, tĩnh lặng thì thành hư không. Hư không là đồng, thế giới là
khác. Cái không đồng khác kia thật là pháp hữu vi.
Bởi có năng có sở
nên trong chỗ không đồng không khác bỗng dưng thành có khác: năng khác sở, cái
bị soi sáng khác cái hay soi sáng. Hư không là đồng, thế giới là khác, vì dù có
ngàn triệu hư không ở vùng này vùng kia cũng không khác nhau. Thế giới, hành
tinh này với hành tinh khác. Có năng sở đối đãi nên có các pháp, chúng sanh từ
đây mà sanh. Chúng sanh có tình thức tức có biết, cái biết không hình tướng nên
không thể nói đồng hay khác, đây gọi là pháp hữu vi.
Như vậy thế giới
theo quan niệm nhà Phật là từ mê lầm nên khởi vọng soi lại bản giác. Bản giác
biến thành khách còn cái vọng soi lại thành chủ, sanh ra đối đãi. Do đối đãi mà
có hư không, thế giới và chúng sanh. Theo khoa học bây giờ thì dù nhỏ như hạt
nguyên tử cũng có điện âm và điện dương. Mấu chốt thành lập vũ trụ và chúng
sanh đều nằm trong cái hai. Tất cả các mầm sanh sôi biến hóa đều từ trong cái
hai mà ra, cho nên nó là gốc của sanh diệt. Tâm vừa dấy niệm hai bên là đi
trong luân hồi.
Dứt hai bên, trở về
tánh không hai là dứt mầm sanh diệt, là vô sanh. Đây là gốc giải thoát. Cho nên
khi tu, định tâm là để dứt các niệm dấy khởi, trở về tánh giác, cũng gọi là
pháp thân. Đức Phật đã chỉ rõ manh mối, khi trở về nguồn chân tức pháp thân thì
đại địa không còn tấc đất. Khi dấy niệm theo tình thức thì đại địa hiện muôn
thứ dẫy đầy.
Giác thì sáng suốt,
hư không thì mờ tối, đối đãi nhau thành ra dao động, nên có phong luân gìn giữ
thế giới.
Đây nói sự hình
thành thế giới. Thể giác nguyên là sáng vì ngầm có cái giác, còn hư không vốn
mờ tối. Khi nhìn hư không thấy sáng, sáng đó là do mặt trời mặt trăng chiếu chứ
không là tối. Hai thứ sáng và tối đối đãi nhau thành ra dao động. Từ dao động
mà có phong luân gìn giữ thế giới. Ngày nay khoa học có nói đến lớp khí quyển
bao bọc trái đất. Như vậy đức Phật xuất hiện cách nay lâu xa, mà lời ngài dạy
rất phù hợp với khoa học bây giờ.
Nhân hư không mà
sanh ra dao động. Cái sáng kiên cố mà lập thành chướng ngại. Kim bảo kia do
minh giác lập ra tính cứng chắc nên có kim luân bảo trì cõi nước.
Nhân hư không mà
sanh dao động nên có phong luân. Từ minh giác mà lập ra kim bảo là kim luân
trong lòng quả địa cầu. Minh giác là vọng của tánh giác nên sáng, lập thành
cứng chắc, kết cấu lại thành ra vật ngại, là các thứ báu như vàng, bạc v.v...
tức là kim luân giữ gìn cõi nước. Như vậy bên ngoài là vòng khí quyển, còn
trong lòng đất là kim bảo cứng chắc.
Cái giác kiên cố
thì thành kim bảo. Do dao động cái sáng mà có gió phát ra. Gió và các chất kim
bảo ma sát nhau nên có lửa sáng làm thành tánh biến hóa.
Cái giác có tính
cách sáng suốt, khi cô đọng thì thành các thứ báu. Gió với các chất báu ma sát
nhau nên có lửa sanh ra.
Ánh sáng kim bảo
sanh đượm ướt, lửa sáng xông lên nên có thủy luân, gồm cả thế giới mười phương.
Lửa bốc lên, nước chảy xuống, giao nhau lập thành chất cứng, chỗ ướt là biển cả
kia thường bốc lên hơi nóng, trong lục địa và cồn đảo thì có sông ngòi thường
chảy. Thế nước yếu hơn thế lửa thì kết thành núi cao. Vậy nên đá núi khi chọi
vào nhau thì nháng lửa, nung thì chảy ra nước.
Trong biển cả, lâu
lâu có hỏa diệm phát ra. Trên núi cao có suối chảy, trong đất liền lại có những
dòng sông v.v... Sở dĩ có núi cao là vì thế nước yếu hơn thế lửa, bị sức nóng
trong lòng trái đất thổi bùng lên thành những ngọn núi cao. Như vậy núi chịu
ảnh hưởng của lửa nhiều, cho nên đập đá núi thì nháng lửa. Nhưng khi đá bị nung
đến một độ nào đó thì sẽ chảy thành nước, vậy đá mang hai bản chất: lửa và
nước. Do thế lửa mạnh hơn nên đá rắn và dễ phát lửa. Những lẽ ấy mới nghe thấy
lạ, nhưng rất thực tế.
Thế đất kém thế
nước thì rút lên thành cây cỏ. Thế nên trong các rừng cây, gặp lửa đốt thì
thành đất, ép thì thành nước. Do vọng tưởng xen lẫn mà phát sanh, thứ lớp làm
hạt giống cho nhau. Bởi nhân duyên đó, thế giới tiếp nối.
Chỗ nào ẩm ướt mới
có cây cỏ mọc. Cây cỏ đem đốt thì thành đất, nếu còn tươi, cắt nó thì nhựa chảy
ra, đem ép thì ra nước. Như vậy trong cây cỏ có rất nhiều nước.
Trên đây là nói về
vũ trụ luận, lý do sanh ra phong luân, hỏa luân, thủy luân, tất cả son hà đại
địa để lập thành thế giới.
Lại nữa, này
Phú-lâu-na, minh vọng không phải gì khác mà do giác minh làm thành lỗi. Sở minh
hư vọng đã lập thì minh lý (lý sáng) không vượt khỏi thứ lớp. Do nhân duyên đó,
nghe không ngoài tiếng, thấy không khỏi sắc. Sáu thứ vọng sắc hương vị xúc
v.v... thành tựu. Do đó mà phân ra có thấy nghe hiểu biết.
Đoạn trước nói về
sự hình thành thế giới, đoạn này nói về con người. Minh vọng là vọng soi lại
tánh giác, không phải là gì khác, chính từ giác minh, do không giữ được tự tánh
dấy lên thành lỗi. Cũng như ánh sáng của gương, ánh sáng không ngoài gương. Vậy
nên minh vọng cũng không ngoài tánh giác. Từ giác minh mà khởi vọng, nên thấy
nghe đều có mang một phần sáng nhưng bị hạn cuộc trong phạm vi sáu căn, chứ
không vượt khỏi thứ lớp. Nghĩa là sáng ở mắt chỉ để thấy, sáng ở tai chỉ để
nghe... Chúng ta tu, khi dứt sạch mê lầm, trở lại chỗ gốc là giác minh tức bản
giác thì sáu căn hỗ dụng.
Bởi đồng nghiệp
trói buộc nhau, nên có hợp ly, có thành hình hay biến hóa. Có thấy, ánh sáng
thì sắc phát hiện. Có ánh sáng, khi thấy thì có các tưởng. Nếu khác với cái
thấy của mình thì thành ghét, còn đồng với cái tưởng của mình thì thành yêu.
Dòng ái chảy làm hạt giống, thu nhận các tưởng làm thành thai.
Do có cái thấy và
ánh sáng mà chúng ta nhìn được cái hình sắc. Nếu chỉ có cái thấy mà không có
ánh sáng thì sắc không phát hiện. Cho nên, dù có một trăm người ngồi đây mà tắt
đèn và không có mặt trời thì không thấy ai cả. lại do có tánh sáng ở trong nên
khi nhìn sự vật mới có các tưởng, để đặt tên vật này vật kia hoặc phân biệt đẹp
xấu. Nếu có ai thấy khác với cái thấy của mình thì ghét, còn đồng với cái tưởng
của mình thì yêu. Từ mầm ái mà thành hạt giống, rồi thu nạp các tưởng mà thành
thai. Đây là nguyên nhân gốc đưa tới chỗ sanh nở, thành có chúng sanh.
Do giao cấu phát
sanh, hấp dẫn đồng nghiệp. Cho nên có nhân duyên sanh ra yết-la-lam, át-bồ-đàm
v.v... Thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh tùy theo đó mà ứng hiện. Noãn
chỉ do tưởng sanh, thai nhân nơi tình mà có, thấp do hợp mà cảm, hóa do ly mà
ứng.
Yết-la-lam còn gọi
là phôi, trạng thái của thai nhi trong bảy ngày đầu sau khi thức gá thai, tinh
cha huyết mẹ mới hòa hợp tạo thành hợp tử, hợp tử phân chia nhiều lần tạo thành
phôi. Át-bồ-đàm là trạng thái trong giai đoạn tuần hai của thai nhi, dần dần
đông lại thành màng mỏng như sữa đặc, làm tổ, hình thành và phát triển phôi
thai.
Ban đầu cũng do mê
(vô minh), thần thức theo hành nghiệp đi đến cha mẹ để vào thai. Trước đó nó chỉ
là phàm thức, tức thức do mê mà có, đến khi vào thọ thân liền thành hai, một
bên là sắc một bên là tâm (danh sắc). Từ đó hình thành sáu căn (lục nhập). Rồi
từ lục nhập mà có xúc, thọ, ái v.v... Cái thân con người còn gọi là tiểu vũ
trụ. Ở ngoài thế giới, chỗ khô nóng thì thành núi, ướt nhiều thành biển, sông;
còn trong thân chỗ khô thành xương cứng, ướt thành máu chảy, hơi ấm là lửa, hít
thở động là gió. Bên ngoài có cây cối..., thân người có lông tóc... Như vậy
trong thân cũng có đủ đất nước gió lửa như vũ trụ bên ngoài.
Các loài sanh từ
thai, noãn, thấp, hóa, tùy theo nghiệp duyên mà có chỗ ứng hợp. Noãn sanh là loài sanh bằng
trứng, do tưởng sanh. Loài thai
sanh nhân tình mà có. Những loài thấp sanh do hợp với chỗ ẩm
thấp, có nước đọng mà tự có, như các loại trùng. Loài hóa sanh do ly mà ứng, nghĩa
là phải lìa cái cũ mới hóa ra cái mới được; như con lăng quăng phải rời xác
lăng quăng mới biến thành muỗi, hoặc như con sâu muốn hóa thành bướm phải bỏ
xác sâu mà bay ra.
Bốn loài chúng sanh
đều từ gốc mê lầm, do nghiệp báo tương ưng, tùy theo chỗ cảm thông riêng, đồng
với nghiệp thì ưa thích mà đến, khác với nghiệp thì không đến. Cho nên thông
thường cha mẹ và con cái tuy có điểm khác nhau nhưng cũng có nhiều điều giống
nhau. Theo thế gian, người ta cho là máu huyết di truyền, nhưng theo lý luận
của kinh là do đồng nghiệp. Nghiệp khi đã thành thì cứ đi trong sanh tử liên
miên, thọ sanh trong các loài. Tạo nghiệp thiện thì sanh chỗ lành, tạo nghiệp
ác thì sanh chỗ dữ.
Vậy người hết
nghiệp, thọ sanh ở đâu? Hết nghiệp rồi, không còn gì lôi kéo đi thọ sanh nữa.
Do đó người tu cần phải dứt nghiệp. Không còn nghiệp thiện ác thì hết chỗ sanh,
gọi là vô sanh. Muốn dứt nghiệp phải phá vọng tưởng thấy hai. Gốc mê hết thì
danh sắc không còn, thức không còn bị hành nghiệp lôi đi, tự nhiên trở về tánh
giác thanh tịnh.
Tình, tưởng, hợp,
ly thay đổi lẫn nhau. Những loài thọ nghiệp theo đó mà có lên xuống. Bởi những
nhân duyên ấy mà chúng sanh tiếp nối.
Tình chỉ cho thai,
tưởng chỉ cho trứng, hợp chỉ cho thấp, ly chỉ cho hóa. Các loài chúng sanh theo
nghiệp tiếp tục thọ sanh.
Này Phú-lâu-na,
tưởng và ái trói buộc lẫn nhau, ái không thể lìa thì cha mẹ, con cháu trên thế
gian này nương nhau sanh mãi không dứt. Những việc ấy là do dục tham làm gốc.
Hai thứ tưởng và ái
kết lại hoặc cột trói nhau, bởi có ái nên không thể lìa. Vì thương nhau nên
muốn gặp nhau. Cho nên mất thân này tìm thân nọ, mất thân nọ tạo thân kia, liên
tục không dứt. Do bị ái cột, cứ tiếp tục làm cha mẹ, con cháu đời đời kiếp kiếp
không dứt được. Đây do dục tham làm gốc. Bởi vậy Phật dạy chúng ta nếu muốn
đừng bị trói buộc nữa, dứt dòng sanh tử thì phải "cát ái ly gia"
nghĩa là cắt ái, lìa gia đình, sống đời không ràng buộc.
Tham, ái đồng tăng
trưởng, tham không thể dừng thì các loài noãn sanh, hóa sanh, thấp sanh, thai
sanh ở thế gian này, tùy theo sức mạnh yếu mà ăn nuốt lẫn nhau. Những điều ấy
là do sát tham làm gốc.
Từ tham ái mà có
thân, rồi lại tham mến thân, muốn nuôi dưỡng nó cho tốt đẹp nên phải ăn ngon.
Do đó con vật gì có thể bắt giết được thì giết ăn. Như nuôi heo gà, ngày thường
săn sóc thấy nó dễ thương, nhưng lúc nào muốn ăn cho ngon miệng thì đè xuống
cắt cổ. Vì thương cái thân mình quá, nên dù con vật đó có dễ thương hay đau
khổ, mình cũng không màng, miễn sao được ngon miệng thôi.
Các loài chúng sanh,
từ loài lớn đến loài nhỏ cũng vậy, con lớn bắt con nhỏ ăn. Cũng vì yêu mến thân
mà giết những loài khác để nuôi sống bản thân, gốc từ ái ngã mà ra. Ái ngã quá
nặng thì tham không dừng được, nên trong thế gian mới có mạnh hiếp yếu, ăn nuốt
lẫn nhau. Đó là do sát tham làm gốc.
Do người ăn thịt
dê, dê chết thành người, người chết làm dê, như thế cho đến mười loài chúng
sanh, sanh tử tử sanh, ăn nuốt lẫn nhau, ác nghiệp cùng sanh ra, tột đời vị
lai. Những điều ấy là do đạo tham làm gốc.
Cùng tột đời vị lai là không có
chỗ dứt. Đạo là trộm. Câu sanh là cùng sanh, nghĩa là sanh ra đời đã mang
nghiệp ác đó rồi. Nói người ăn
thịt dê, dê chết thành người, người chết thành dê... đây chỉ
là lối dùng chữ cho xuôi tai, chứ có khi người ăn thịt dê mà chết không phải thành
dê, còn dê bị ăn thịt có khi chết thành loài khác, không thành người. Chủ yếu
là cho chúng ta thấy sanh tử tử sanh liên miên, sanh ra rồi ăn nuốt lẫn nhau,
trực tiếp hoặc gián tiếp.
Ví dụ bây giờ chúng
ta ăn thịt chó thịt heo, khi mình chết nếu đừng đem chôn thì mấy con chó đó có
ăn lại mình không? Nếu chết dưới sông thì cá rỉa, chết trên đất thì chó, heo...
lại cũng ăn thịt mình. Như vậy rõ ràng là ăn nuốt nhau. Khi con người đang mạnh
hơn thì lấn hiếp, ăn thịt nó, nó phải nhịn mình. Nếu mình thất thế, yếu hơn nó
thì nó lấn hiếp, ăn thịt mình. Cứ vậy mà ăn nuốt lẫn nhau!
Đó gọi là gốc trộm
tham. Tại sao ăn thịt nhau mà gọi là trộm? Đây là trộm mạng sống của chúng
sanh. Như chim đang bay trên trời, lấy ná, súng bắn, cướp mạng sống của chúng
để ăn. Con thú đang ở trong rừng, đem dao súng bắn giết, cướp mạng sống của
chúng để ăn. Khi bắt con gà đem cắt cổ, nó giãy la mà mình vẫn cướp mạng sống
của nó. Loài vật không cho mà mình vẫn cướp mạng của chúng nên gọi là trộm. Ăn
trộm còn lén lút, đàng này chúng ta công khai, ngang nhiên ỷ mạnh cướp mạng
sống muông thú.
Ngươi mắc nợ ta, ta
trả nợ lại cho ngươi, do nhân duyên ấy trải qua trăm ngàn kiếp thường ở
trong sanh tử. Người yêu tâm của ta, ta mến sắc của ngươi, do nhân duyên ấy
trải qua trăm ngàn kiếp thường ở trong trói buộc. Chỉ ba thứ sát đạo dâm làm
căn bản, do nhân duyên đó mà nghiệp quả tiếp nối.
Chúng sanh do nhân
duyên nợ mạng mà trải qua trăm ngàn kiếp thường ở trong sanh tử, nợ nần vay trả
nhau. Nay muốn hết nợ nần thì phải đừng ăn thịt các loài, ăn rau cũng sống
được. Lại do gốc ái mà bị trói buộc từ đời này sang đời nọ. Chỉ vì sát, đạo,
dâm mà nghiệp quả tiếp nối không cùng.
Vì vậy Phật cấm
người xuất gia không được dâm dục, là muốn cho họ dứt nợ nần yêu mến, để khỏi
bị ràng buộc trong sanh tử. Lại cấm người xuất gia cố ý ăn thịt chúng sanh, để
tránh cho họ hai tội sát và đạo, tức là tội giết mạng sống và cướp mạng sống.
Này Phú-lâu-na, ba
thứ điên đảo như thế tiếp nổi, đều từ giác minh do soi trở lại tánh mà rõ biết,
nhân rõ biết mà phát ra tướng, từ vọng kiến sanh núi sông đất liền, các tướng
hữu vi thứ lớp đổi dời, nhân hư vọng này mà sau rồi trở lại trước.
Đức Phật kết thúc
ba thứ điên đảo đó gốc từ giác minh. Do soi trở lại (minh) tánh giác nên nó
không còn nguyên thể trong trẻo mà trở thành cái dụng rõ biết, phân biệt sự
vật, từ đó phát ra các tướng. Rồi từ vọng kiến hiểu biết hư vọng sanh ra tất cả
sơn hà đại địa, các tướng hữu vi, luân chuyển đổi dời trên thế gian này.
Đoạn này cho chúng
ta thấy rõ vũ trụ nhân sinh gốc từ một niệm mê lầm. Thể giác nguyên là trong
trẻo, chúng ta cứ nghĩ giác là phải sáng, không biết sáng chỉ là dụng của tánh
giác. Rồi lại tưởng sáng đó phải soi lại thể giác. Như khi chúng ta ngồi thiền,
thấy vọng khởi hoài, bèn nghĩ tìm xem chân tâm ở đâu để trở về. Nhưng chân tâm
là mình hay không phải mình? Nếu mình kiếm chân tâm thì nó đã trở thành sở, còn
cái hay kiếm trở thành năng. Như vậy là đã thành hai, mà thành hai là gốc của
vọng tưởng điên đảo, từ đó sanh ra bao nhiêu thứ luân chuyển đổi dời trên thế
gian này.
Vọng tưởng mê lầm
đối đãi đó không ai đem đến, chỉ vì tánh giác không tự bảo vệ gìn giữ bản tánh
(chân như bất thủ tự tánh) nên dấy hiện. Như khi ngồi thiền, chúng ta thường tự
nhủ "không cho nó nghĩ bậy", vậy mà nó khởi nghĩ hồi nào không hay.
Do đâu mà suy nghĩ bậy xen vô chỗ mình định không cho nghĩ bậy? Không nhân cái
gì hết, nó bỗng tự khởi nghĩ thôi.
2. Giác chẳng sanh
mê
Phú-lâu-na thưa:
- Nếu diệu giác bản
diệu giác minh này, cùng với tâm Như Lai không thêm không bớt, bỗng dưng sanh
ra núi sông đất liền, các tướng hữu vi, vậy nay Như Lai đã được diệu không minh
giác, khi nào lại sanh núi sông đất liền, những tập lậu hữu vi?
Diệu không minh
giác cũng
là bản diệu giác minh hay diệu chân như tánh.
Ngài Phú-lâu-na
nghi, nếu từ Như Lai tạng diệu chân như tánh mà chợt sanh núi sông đất liền thì
nay đức Phật tu, trở về diệu chân như tánh, không khác với bản diệu giác minh
đã nêu ở trước, vậy bao giờ từ diệu chân như tánh của Phật lại sanh núi sông
đất liền nữa?
Tương tự, nhiều
người đã đặt câu hỏi: Phật dạy từ tánh giác thanh tịnh bỗng vọng động rồi sanh
năng sở, từ năng sở đó mà có luân hồi sanh tử tiếp nối. Vậy nay chúng ta tu, bỏ
hết những mầm sanh tử tiếp nối, trở về bản giác, chừng nào chúng ta lại khởi
vọng, luân hồi sanh tử nữa?
Phật bảo
Phú-lâu-na: - Ví như có người mê, ở nơi xóm làng, lầm phương nam làm phương
bắc, vậy lầm này là nhân mê có hay nhân ngộ mà ra?
Phú-lâu-na thưa: -
Người lầm như thế không nhân mê cũng chẳng nhân ngộ. Vì sao? Mê vốn không có
cội gốc làm sao nhân mê được? Còn ngộ thì chẳng sanh mê, làm sao mà nhân ngộ?
Ví dụ phía mặt trời
mọc là đông, phía mặt trời lặn là tây, mà chúng ta lại quên, chỉ phía tây cho
là phía đông, vậy lầm lẫn đó từ đâu mà ra? Ngài Phú-lâu-na trả lời không do mê, vì mê vốn không có
gốc, bất chợt quên lửng thấy lầm vậy thôi. Cũng chẳng do ngộ, sự sáng suốt tỉnh
ngộ đâu làm nhân cho mê được.
Phật nói:
- Người mê kia,
chính khi đang mê bỗng có người ngộ tới chỉ bày khiến cho được ngộ. Này
Phú-lâu-na, ý ông nghĩ sao? Người này trước dù bị mê, giờ nơi xóm làng này lại
còn sanh mê nữa chăng?
- Bạch Thế Tôn,
không.
- Phú-lâu-na, Như
Lai mười phương cũng lại như thế. Mê này không có gốc, tánh rốt ráo là không.
Xưa vốn không mê, mà in tuồng có mê có giác. Khi giác được cái mê rồi thì mê
diệt, giác không sanh mê.
Từ trước thể giác
vốn không mê, nói mê tánh giác là do quên tánh giác nên gọi là mê. Khi giác
được mê rồi thì mê diệt. Giác không sanh ra mê. Như ví dụ lầm hướng tây cho là
đông ở trên, mê lầm đó không phải từ mê cũng không phải từ giác, vì nó không
gốc rễ, nên nói cứu cánh là không. Khi được người chỉ cho hết lầm rồi thì đâu
còn mê nữa. Đức Phật dùng ví dụ này để diễn ý khi thành Phật rồi không trở lại
làm chúng sanh nữa.
Cũng như người bị
nhặm mắt thấy trong hư không có hoa đốm, bệnh nhặm khi đã được lành thì hoa đốm
trong hư không kia liền diệt. Chợt có người ngu, ở nơi chỗ hoa đốm diệt trong
hư không đó chờ đợi hoa đốm sanh trở lại. Ông xem người này là ngu si hay trí
tuệ?
Đến ví dụ thứ hai:
Khi mắt nhặm, nhìn trong hư không, trời nắng thấy có đốm chớp chớp, gọi là hoa
đốm. Đến khi mắt lành bệnh, nhìn trong hư không không còn thấy hoa đốm nữa. Có
ai ngồi đó mà chờ hoa đốm sẽ sanh ra trong hư không nữa chăng? Người đó là ngu
hay trí?
Phú-lâu-na thưa:
- Hư không vốn
không có hoa đốm, do hư vọng thấy có sanh diệt. Thấy hoa đốm diệt ở trong hư
không đã là điên đảo rồi, lại muốn cho hoa đốm kia xuất hiện lại thì thật là kẻ
cuồng si. Làm sao còn hỏi người điên cuồng như thế là ngu hay trí?
Do bệnh mà thấy hoa
đốm sanh, thấy hoa đốm diệt, chứ nguyên hư không nào có hoa đốm. Người mắt lành
từ thủy chí chung có bao giờ thấy hoa đốm đâu. Thấy hoa đốm diệt mất đã là điên
đảo rồi, huống là muốn cho hoa đốm kia xuất hiện lại. Người đó là người cuồng,
chứ không nói là ngu hay trí được.
Phật bảo:
- Ông đã hiểu như
thế, vì sao còn hỏi tánh diệu giác minh không của chư Phật Như Lai đến bao giờ
lại sanh ra núi sông đất liền?
Nếu hỏi như vậy thì
giống hệt người trông chờ hoa đốm ở hư không sanh trở lại, dù đã hết bệnh mắt.
Đó là ví dụ thứ hai, cho thấy rõ ngộ rồi không trở lại mê.
Lại như quặng vàng
xen lẫn với vàng ròng. Một khi đã luyện thành vàng ròng rồi thì không trở lại
lẫn tạp nữa. Như cây đã đốt thành tro thì không trở lại làm cây. Bồ-đề Niết-bàn
của chư Phật Như Lai cũng lại như thế.
Như vàng trong mỏ
thường lẫn với cát sỏi hoặc các kim loại khác, dù có lấy được quặng cũng phải
luyện lọc mới có thể dùng. Sau khi luyện lọc trở thành vàng ròng rồi thì không
trở lại thành lẫn tạp trong mỏ như trước. Tánh giác sẵn có, nhưng trong kinh
thường nói, nó không giữ tự tánh nên dễ dấy sanh vọng động, từ đó mà có sơn hà
đại địa. Chúng ta tu là luyện đọc cho hết vọng động, sau đó không bao giờ trở
lại tạp nhạp như trước.
Ví như nước dưới
sông, mùa mưa bị vẩn đục, có người cần nước trong mà không biết lấy ở đâu.
Người trí chỉ cho biết nước sông đó vẫn trong chứ không đục, nếu người này tin,
múc nước sông lên, chịu khó lắng bỏ cặn cáu thì được nước sông đó vẫn trong chứ
không đục, nếu người này tin, múc nước sông lên, chịu khó lắng bỏ cặn cáu thì
được nước trong. Nước đó trước nguyên không trong thì chẳng thể lóng trong. Nếu
tánh giác không thanh tịnh sáng suốt thì làm sao tu trở thành thanh tịnh sáng
suốt được!
Phật dùng bốn ví
dụ, để nói rõ tánh giác tuy có sẵn nhưng chưa thuần chân. Khi nói tánh giác vốn
thanh tịnh sáng suốt là để chúng sanh tỉnh thức, biết mình có sẵn tánh giác mà
phát tâm tu. Giác và vô minh hòa lẫn nhau, như các chất bụi đất hòa lẫn trong
nước. Vì muốn cho người không bỏ nước đục, biết lấy đó lóng thành nước trong,
nên nói "ngay nước đục là nước trong" hoặc "nước nguyên là trong".
Khi đã lóng trong thì nước không trở lại đục, trừ khi chúng ta lóng chưa sạch,
còn cặn, nên khi quậy lên nước đục trở lại. Như lúc chúng ta ngồi thiền, lóng
tâm chừng vài tiếng đồng hồ, xả ra gặp việc "đục" trở lại, phải biết
là việc mình chưa xong. Trái lại, chư Phật lóng lọc đã xong, không trở lại đục
nữa. Nên nói chư Phật khi đạt được Bồ-đề Niết-bàn rồi, không trở lại phàm tục
nữa.
Trong khi tu tập,
chúng ta lóng lọc, buông bỏ tập khí quá khứ, nhưng điều thiết yếu là đừng thêm
những hư vọng hiện tại. Ví như trong một cái kho, dù chứa trăm ngàn triệu giạ
lúa mà mỗi ngày đều lấy đem ra, không cho vào thì đến một ngày nào đó kho sẽ
sạch. Trái lại, nếu cửa bên đông chúng ta đem ra mà cửa bên tây lại vác vào,
thì dù có lao nhọc cả đời, kho vẫn không trống sạch.
Làm sao để ngay
hiện tại đừng đem vào. Khi người ta nói ngay bên tai mình, đứng ngay trước mặt
mình, cần biết tất cả đều là huyễn vọng. Do biết huyễn vọng nên xả liền chứ
không thâu vào, không chất chứa. Nếu không khéo chiếu soi các pháp như huyễn
thì rất dễ đem vào. Người biết tu, ai bình phẩm mặc ai, mình cứ nghe như gió
thoảng qua tai, như vậy là không nhập kho, không thâu giống mới. Đó là đóng cửa
kho bên thâu. Đồng thời cửa bên xuất chúng ta cứ buông bỏ hoài, chắc chắn sẽ có
ngày kho trống sạch. Tập như thế đến khi đã thuần, ít bị dính mắc, thấy như
không thấy, nghe như không nghe thì khỏi cần quán sát nữa.
3. Các đại viên
dung
Này Phú-lâu-na, ông
lại hỏi đất nước gió lửa bản tánh viên dung khắp cả thế giới, nên nghi tánh
nước và lửa sao không lấn diệt nhau. Ông lại gạn hỏi hư không và cái đại địa
cũng khắp pháp giới mà không dung hợp nhau.
Ngài Phú-lâu-na
nghi đất nước gió lửa mỗi đại bản tánh đều trùm khắp pháp giới, mà nước với lửa
không hợp nhau, nếu lửa trùm khắp thì lẽ ra không có nước, còn nếu nước trùm
khắp thì nên không có lửa. Đất với hư không cũng vậy, hư không thì rỗng còn đất
thì chướng ngại, nếu đất trùm khắp thì lẽ ra không có hư không, nếu hư không
trùm khắp thì lẽ ra không có đất.
Này Phú-lâu-na, ví
như hư không, thể nó không phải các tướng nhưng không ngăn các tướng phát huy.
Đầu tiên Phật dụ hư
không, thể nó không phải là các tướng như cái nhà, cây mít, cây tùng... nhưng
tất cả mọi thứ đều có thể có mặt và phát huy trong hư không, chẳng bị trở ngại.
Vì sao? Này
Phú-lâu-na, hư không rộng lớn kia khi mặt trời soi thì sáng, mây tụ thì u tối,
gió thổi thì động, dừng lặng thì trong, hơi ngưng đọng thì mờ đục, bụi đất nhóm
thành mù, nước lóng đứng thành sáng. Ý ông nghĩ sao? Các tướng hữu vi khác nhau
như thế, nhân nơi các tướng kia sanh hay nhân hư không mà có?
Tất cả các tướng
hữu kia nhân nơi bản thân của sự vật đó sanh ra hay nhân hư không mà có?
Phú-lâu-na, nếu do
các tướng kia sanh ra, khi mặt trời soi, đã là mặt trời sáng thì thế giới mười
phương đồng thành sắc mặt trời, tại sao trong hư không lại thấy vầng mặt trời
tròn?
Nếu nói ánh sáng từ
mặt trời phát ra thì mặt trời đã biến thành ánh sáng bủa ra khắp nơi. Các nơi
có ánh sáng tức các nơi là mặt trời, thì đâu còn một mặt trời riêng. Ví dụ để
một thỏi mực tàu vào ly nước, khi ly nước trở thành đen thì thỏi mực không thể
còn nguyên. Nó đã rã và hòa tan trong nước. Cũng vậy, mặt trời đã biến thành
ánh sáng khắp thì mặt trời không còn nguyên. Nay mặt trời còn nguyên, không thể
nói mặt trời sanh ra ánh sáng được.
Nếu là hư không
sáng thì hư không nên tự soi sáng. Tại sao lúc giữa đêm hay mây mù lại không
chiếu sáng? Phải biết cái sáng ấy không phải mặt trời, không phải hư không mà
chẳng khác mặt trời chẳng khác hư không.
Nói ánh sáng từ mặt
trời ra không được, từ hư không ra cũng không được. Nhưng nếu không có mặt trời
thì chẳng có ánh sáng, không có hư không thì chẳng bủa khắp. Như vậy nói là một
cũng không được, là khác cũng không được, nên Phật kết thúc:
Xét xem các tướng
vốn là hư không dối không thể chỉ bày, cũng như mong hoa đốm trong hư không kết
thành quả hư không. Tại sao ông lại hỏi nghĩa các tướng kia lấn diệt lẫn nhau?
Tất cả tướng hiện
có đều là hư dối, làm sao xác định là thế này hay thế kia, từ đây ra hay từ kia
ra. Như chúng ta trồng mít trồng xoài, rễ cây hút những chất gì ở dưới đất mà
khi hái trái xoài trái mít ăn nghe ngon ngọt? Thử bươi đất kiếm coi chỗ nào có
chất ngọt? Không có chất ngọt, vậy tại sao trái xoài trái mít lại ngọt? Nó hút
từ đất chứ đâu phải bỗng dưng có vị đó.
Như vậy không thể
xác định một nguyên nhân cố định nào được, chỉ là do duyên hợp hư dối huyễn
hóa, chúng ta nói từ cái này hay từ cái kia ra là sai lầm. Như hoa đốm trong hư
không, đã không thật mà còn mong kết thành trái nữa thì thật dại khờ! Tất cả
các pháp vốn không thật mà bảo nó lấn diệt nhau thì không có lý.
Quán tánh các pháp
vốn là chân, chỉ là tâm diệu giác minh. Tâm diệu giác minh vốn không phải là
nước hay lửa, làm sao lại hỏi không dung nhau? Chân diệu giác minh cũng lại như
thế.
Trước quán về tướng
các pháp, nguyên là hư vọng, không có gì nhất định, nên không có chuyện lấn
diệt nhau. Nay quán trở lại tánh các pháp vốn là chân, tâm diệu giác minh là gốc.
Tâm diệu giác minh này không phải nước, không phải lửa, vì sao không dung
nhau? Chân diệu giác minh là
thể tánh chân thật, giác ngộ sáng suốt, đến chỗ tột cùng chỉ còn thể này, nên
đất cũng không rời nó, nước lửa cũng không rời nó, tất cả đều không rời nó, thì
có gì mà chẳng dung.
Ví như cái gương
lớn, đưa lên thì tất cả cảnh tượng phía trước đều hiện bóng trong gương. Gương
chừng năm tấc vuông mà hiện bóng cả một bầu trời. Vậy những cảnh tượng hiện
bóng trong gương có lấn ép nhau không? Cây mít, cây xoài trong đó không chướng
ngại nhau, vì chúng là bóng. Đó là quán tướng
nguyên vọng, vốn là giả dối.
Quán tánh nguyên
chân, thấy
tánh vốn là chân thì sao? Tướng thì trăm thứ sai biệt, còn tánh thì chỉ là một
mặt gương. Mặt gương không có tướng nào nhưng không ngăn ngại các tướng hiện
trong đó. Ví như trong gương hiện người, nhà cửa, cây cối v.v... Thử hỏi người,
cây cối có phải là gương không? Không. Nhưng tất cả bóng ảnh đó không rời, mặt
gương riêng có. Như vậy phi tất cả mà tức tất cả, chẳng phải tất cả mà chính là
tất cả. Hiểu được chỗ này thì nghĩa phi và tức ở đoạn sau sẽ rõ ràng.
Nếu ông phát minh
hư không thì có hư không hiện, phát minh đất, nước, lửa, gió thì mỗi mỗi đều
hiện. Nếu cùng phát minh thì cùng có hiện.
Cũng như người cầm
gương, muốn soi cái nhà thì trong gương hiện nhà, muốn soi cây tùng thì trong
gương hiện cây tùng. Tất cả tùy duyên mà hiện, nhưng không có thật.
Tại sao đều hiện?
Này Phú-lâu-na, như trong hồ nước hiện bóng mặt trời, hai người đồng xem bóng
mặt trời trong nước. Rồi một người đi về hướng đông, một người đi về hướng tây.
Hai người đi, mỗi người đều có bóng mặt trời đi theo, một về phương đông một về
phương tây không có chuẩn đích trước.
Đức Phật dùng những
ví dụ cụ thể, ai cũng có thể chứng nghiệm được, để nêu lên đất, nước, gió
lửa... cũng giống như vậy. Chúng không có thực thể, nên tùy duyên mà hiện theo
tâm lượng của chúng sanh. Như bóng mặt trời hay mặt trăng nguyên không còn thực
thể, nó là bóng nên tùy theo duyên chúng ta đi đâu thì thấy bóng hiện đó. Nói
một không được, nói nhiều cũng không được. Giả sử cả trăm ngàn người đi thì
cũng thấy trăm ngàn mặt trăng đi theo. Như vậy không có chuẩn đích trước, không
có tiêu chuẩn nào nhất định. Ví dụ này cho thấy rõ các pháp là hư huyễn, tùy
theo nghiệp của chúng sanh mà hiện ra thiên hình vạn trạng.
Không nên gạn hỏi
mặt trời này là một, tại sao theo mỗi người đi? Mặt trời đã thành hai thì làm
sao hiện chỉ là một? Hư dối xoay vần không thể lấy gì làm bằng cứ được.
Hai người đi mỗi
người mỗi ngả khác nhau, cả hai đều thấy mặt trời, không thể nói là một. Như
vậy mặt trời đã thành hai, làm sao hiện chỉ có một. Thấy một thấy hai vốn là hư
dối không thật, không có gì làm chứng cứ.
Này Phú-lâu-na, ông
cho là sắc-không lấn diệt lẫn nhau nơi Như Lai tạng, Như Lai tạng thì tùy đó mà
thành sắc - không khắp cả pháp giới. Thế nên trong ấy, gió thì động, hư không
thì lặng, mặt trời thì sáng, mây thì tối.
Trong Như Lai tạng,
ngài Phú-lâu-na cho rằng tướng sắc và không cướp đoạt lẫn nhau. Nhưng thật ra
trong Như Lai tạng, các tướng sắc và không chỉ tùy theo tâm lượng chúng sanh mà
ứng hiện chứ không có gì cố định. Cho nên nếu có gió thì động, còn hư không thì
lặng, có mặt trời thì sáng, có mây thì tối. Tất cả đều là tướng huyễn hóa tùy
hiện. Nếu chạy theo các tướng huyễn chấp cho là thật, vô tình đã bỏ mất Như Lai
tạng.
Chúng sanh mê muội,
trái với tánh giác, hợp theo trần tướng, nên phát ra trần lao có các tướng thế
gian.
Tất cả chúng sanh
đều có Như Lai tạng tức là tánh giác, mà quên tánh chạy theo tướng, là những
bóng dáng hư vọng của sáu trần, từ Như Lai tạng hiện ra. Vậy nên bị các tướng
chi phối. Phật gọi đó là bối giác hợp
trần, ngược với tánh giác, chạy theo trần cảnh. Từ đó phát ra những
lăng xăng lộn xộn các tướng thế gian.
Trong Như Lai tạng
không có tất cả các tướng mà cũng có tất cả các tướng. Các tướng tùy nghiệp
chúng sanh do mê lầm mà ứng hiện. Như những con kiến nhỏ, chúng ta nhìn thấy
con nào cũng như con nào, nhưng tự chúng phân biệt được giống loại của nhau.
Con nào khác bầy khác giống đi lạc vào sẽ bị cắn xé. Đó là nghĩa tùy nghiệp mà
ứng hiện. Khi đã ứng hiện thì mỗi mỗi cái riêng biệt của nó, đều là những hiện
tượng hư dối không thật.
4. Như Lai tạng lìa
hai nghĩa phi và tức
Ta dùng tánh diệu
minh không sanh không diệt hợp với Như Lai tạng, mà Như Lai tạng chỉ là tánh
diệu giác minh, chiếu khắp pháp giới. Thế nên trong đó, một làm vô lượng vô
lượng làm một, trong nhỏ hiện lớn trong lớn hiện nhỏ. Không rời đạo tràng mà
hiện khắp thế giới mười phương, thân trùm cả hư không vô tận mười phương. Trên
đầu một sợi lông hiện cõi Bảo vương, ngồi trong tướng, hợp tánh giác nên hiện
bày tánh chân như diệu giác minh.
Đức Phật ngược với
chúng sanh, ngài trở về với tánh diệu
giác minh không sanh không diệt, hợp với Như Lai tạng, tức là từ
thủy giác hợp với bản giác. Vì vậy trong Như Lai tạng của ngài, thuần là diệu giác minh. Bởi thuần
diệu giác minh nên soi khắp pháp giới, diệu dụng không thể nghĩ lường.
Đây chỉ rõ, bên mê
thì bị giới hạn trong các tướng sanh diệt, bên ngộ thì có đầy đủ diệu dụng bất
khả tư nghì. Mê là chúng sanh, ngộ là Phật. Mê là bối giác hợp trần, ngộ là đem
tánh diệu minh hợp với Như Lai tạng. Trái tánh giác, hợp với trần cảnh nên đi
mãi trong vòng luân hồi không có bờ bến, càng ngày càng xa, không biết chừng
nào dừng. Hợp với giác thì sẽ có ngày trở về với bản nguyên sẵn có của mình,
không nghi ngờ.
Nhưng Như Lai tạng
vốn là tâm diệu viên, không phải là tâm không phải hư không, không phải đất
nước gió lửa, không phải mắt tai mũi lưỡi thân ý, không phải sắc thanh hương vị
xúc pháp, không phải nhãn thức giới, như thế cho đến không phải ý thức giới.
Không phải minh, vô minh, không phải hết minh vô minh, như thế cho đến không
phải lão tử, không phải hết lão tử. Không phải khổ tập diệt đạo, không phải
trí, đắc. Không phải bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí
tuệ, không phải ba-la-mật-đa. Như thế cho đến không phải Như Lai, Ứng cúng,
Chánh biến tri. Không phải đại Niết-bàn, không phải thường lạc ngã tịnh. Do đó
Như Lai tạng bản diệu minh tâm này đều chẳng phải pháp thế gian và xuất thế
gian.
Tâm diệu viên không phải là thất
đại, không phải là sáu căn, sáu trần, thập nhị xứ, thập bát giới, không phải
mười hai nhân duyên và diệt mười hai nhân duyên, không phải tứ đế, không phải
Bồ-tát, không phải lục độ, không phải là Phật, không phải Niết-bàn và bốn đức
của Niết-bàn. Đứng về mặt Như Lai tạng thì tất cả đều chẳng phải, như mặt gương
không phải tất cả bóng hiện trong gương.
Tức Như Lai tạng
vốn là tâm minh diệu, tức là tâm, tức là không, tức là đất nước gió lửa. Tức là
nhãn nhĩ tỹ thiệt thân ý, tức là sắc thanh hương vị xúc pháp, tức là nhãn thức
giới, như thế cho đến ý thức giới. Tức là minh, vô minh, tức hết minh vô minh,
như thế cho đến tức lão tử, tức hết lão tử. Tức là khổ, tập, diệt, đạo. Tức là
trí, đắc. Tức là bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ,
tức ba-la-mật-đa. Như thế cho đến tức Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri. Tức
đại Niết-bàn, tức thường lạc ngã tịnh. Do đó tất cả pháp thế gian và xuất thế
gian đều tức là như Lai tạng bản diệu minh tâm.
Tức đây có nghĩa
"chính là". Tâm diệu viên chính là tứ đại hoặc thất đại, chính là
thập nhị xứ, thập bát giới, mười hai nhân duyên, chính là tứ đế, Bồ-tát, lục
độ, Phật, Niết-bàn và bốn đức của Niết-bàn.
Như vậy nó phi tất cả pháp thế gian và
xuất thế gian, mà nó cũng tức tất
cả pháp thế gian và xuất thế gian. Nghĩa là sao? Cũng như mặt gương chẳng phải
là tất cả bóng (phi), mà nó cũng tức là tất cả bóng vì có bóng nào ở ngoài mặt
gương đâu! Đứng về mặt phủ nhận thì nó phi tất
cả. Nhưng đứng về mặt xác định thì nó là tức tất
cả.
Vì vậy, trong nhà
thiền có hai lối tu: Lối "loại ra" thì cái gì cũng không phải, để
không bám chấp, trở về Như Lai tạng. Lối "thâu vào" thì cái gì cũng
là Như Lai tạng nên rất an nhiên tự tại. Các thiền sư khéo ứng dụng rất đúng
với kinh điển. Nếu chúng ta biết được điều căn bản này thì cũng ứng dụng được
vô ngại. Mọi thứ đều từ Như Lai tạng lưu xuất, không có cái nào ngoài mình nên
không có gì để nhiễm, không có gì để khen chê buồn ghét, đó là tức. Lại thấy các pháp đều hư giả
nên không chấp nhận cái gì, không thương không ghét, xả bỏ hết, đó là phi.
Hiểu rõ rồi mới
thấy tu hành không khó. Khó chỉ vì chúng ta chưa nhận ra chỗ then chốt cứu
cánh, nên cứ lẩn quẩn trong đối đãi, không tìm được lối đi. Nếu chúng ta nhìn
bóng chỉ thấy bóng mà quên mặt gương, cũng như bỏ quên Như Lai tạng, chạy theo
các giả tướng thiên sai vạn biệt. Do chấp vào đó nên chúng ta có bao nhiêu thứ
thấy biết khác nhau, đó là bối giác hợp
trần. Nếu trở lại với mặt gương, chỉ biết mặt gương thì quên bóng,
tức trở về Như Lai tạng thì không còn thấy sai biệt, đó là bối trần hợp giác.
Như hiện nay sáu
căn chúng ta đuổi theo sáu trần, cho tất cả những thứ hư giả là thật nên bối
giác hợp trần. Nếu nơi sáu căn không chạy theo thức mà sanh khởi phân biệt, dần
dần sống trở về chỗ nguyên minh thì gọi là bối trần hợp giác. Cho nên các thiền
sư nói "thấy như mù, nghe như điếc", chính là trái với trần để hợp
tánh giác. Chỗ chấp hư giả dần mất, sẽ có diệu dụng bất khả tư nghì. Hai bên
khác nhau từ nhận định tất cả các pháp là thật hay giả. Ngài Phú-lâu-na cho các
pháp là thật nên nghĩ lửa không dung được nước, đất không dung được hư không...
Nay biết tất cả đều là tướng hư giả, từ trong Như Lai tạng, thì không có gì
chướng ngại nhau.
Lìa tức lìa phi, là
tức là chẳng phải tức. Tại sao chúng sanh ở ba cõi trong thế gian và hàng Thanh
văn Duyên giác xuất thế gian lại dùng tâm sở tri mà đo lượng Vô thượng Bồ-đề
của Như Lai, dùng ngôn ngữ thế gian mà vào tri kiến Phật?
Mặt gương hiện tất
cả bóng mà bóng chẳng phải là mặt gương nên không phải nghĩa tức, tất cả bóng
cũng không lìa mặt gương nên cũng không phải nghĩa phi, bóng và mặt gương tưởng
như hai (chẳng phải tức), mà cũng chẳng phải hai (tức). Biết đó là bóng liền
thấy được mặt gương. Như vậy nói tức nói ly đều không được, vì đối đãi không
thật. Không thể dùng tâm hiểu biết phân tích so sánh đối đãi của phàm phu, luôn
cả tâm Thanh văn Duyên giác, mà biết được Như Lai Vô thượng Bồ-đề cũng không
thể dùng lời nói thế gian kẹt hai bên mà vào tri kiến Phật.
Ví như đàn cầm, đàn
sắt hay không hầu, tỳ bà, tuy có tiếng hay, nếu không có ngón tay khéo trọn
không thể phát ra tiếng hay được.
Phật dùng ví dụ như
chúng ta mỗi người đều có cây đàn cùng làm một kiểu, một thứ cây một thứ dây,
nhất định gảy lên có tiếng hay như nhau, nhưng gặp người không biết đàn thì gảy
không ra gì, còn gặp người tay khéo gảy nhuần nhuyễn thì người nghe mê say.
Cũng vậy tất cả chúng sanh đều có tánh giác, Phật cũng có tánh giác, nhưng
chúng sanh có mà không sử dụng được còn Phật sử dụng được nên ngài có đầy đủ
diệu dụng. Không nên có mặc cảm chỉ Phật mới có tánh giác còn chúng ta mê muội
chẳng có. Chỉ tại mình không khéo tu nên tánh giác bị ẩn đi còn Phật khéo tu
nên ngài phát huy được nó, như người tài tử khéo sử dụng đàn nên tiếng đàn đầy
đủ âm ba khiến người nghe ưa thích.
Cũng đừng nghe Phật
nói mọi chúng sanh đều có tánh giác rồi ỷ lại không cần tu, cứ thả trôi, chừng
nào tánh giác mới hiện! Như người được cho cây đàn, muốn sử dụng thì phải chịu
khó học đánh đàn. Học giỏi thì đàn hay, học không tốt thì đàn dở, không học thì
có cây đàn cũng bằng thừa. Cho nên người tu là người biết trở về tánh giác chân
thật, sẽ có diệu dụng không thể nghĩ bàn.
Ông cùng chúng sanh
cũng lại như thế. Tâm giác chân thật quý báu mỗi người đều tròn đủ. Nhưng như
ta ấn ngón tay thì hải ấn phát quang, còn các ông vừa dấy tâm thì trần lao khởi
trước. Do không siêng cầu đạo giác vô thượng, ưa thích Tiểu thừa, được chút ít
đã cho là đủ.
Ai cũng có tâm giác
chân thật quý báu, nhưng đức Phật khéo bỏ trần hợp giác nên ngài vừa ấn ngón
tay thì Hải ấn tam-muội phát ra ánh sáng. Cử động nào của Phật cũng là của
người giác trở về thể giác, còn chúng sanh vừa dấy niệm thì bụi bặm mịt mù, vì
dấy niệm là chạy theo phải quấy hơn thua được mất... Tất cả những thứ đó đều là
bụi.
Sở dĩ chúng ta lôi
thôi như vậy là do không siêng cầu đạo Vô thượng giác, lại mến thích Tiểu thừa,
được chút ít cho là đủ. Như có người tu thiền, tối và khuya ngồi thiền hai ba
giờ, tự hài lòng cho là đủ, rồi cả ngày nói chuyện tầm phào, nay xách gói đi
chỗ này mai đi chỗ nọ. Hoặc có nhiều vị ở chùa, tối tụng một thời Tịnh độ,
khuya tụng một thời công phu, nghĩ là đủ đền ơn thí chủ rồi. Chỉ chút ít đó mà
cho là đủ, còn của báu vô lượng lại không chịu nhận, không chịu hưởng cho trọn
vẹn. Đó là khờ dại!
5. Mê vốn không
nhân, hết mê là Bồ-đề
Phú-lâu-na thưa:
- Tâm giác quý báu
thanh tịnh chân thật nhiệm mầu tròn sáng của con cùng Như Lai đều viên mãn
không hai. Nhưng con trước kia bị vọng tưởng vô thủy nên ở lâu trong luân hồi.
Nay nhờ Phật chỉ dạy vẫn chưa được cứu cánh. Đức Thế Tôn thì tất cả vọng tưởng
đều hoàn toàn dứt sạch, chỉ còn tánh diệu chân thường. Dám hỏi Như Lai, tất cả
chúng sanh nhân đâu mà có vọng, tự che lấp tánh diệu minh để phải chịu chìm đắm
luân hồi như vậy
Đây cũng là điều
nghi của chúng ta. Ngài Phú-lâu-na nêu lên để Phật trừ dẹp cho. Phật có Bảo giác diệu tâm, chúng ta
cũng có Bảo giác diệu tâm. Nhưng
Phật thì dứt hết vọng nên ngài chỉ sống với diệu giác, còn chúng ta thì bị vọng
tưởng lâu đời che lấp nên phải chịu luân hồi. Vì vậy ngài Phú-lâu-na mới hỏi
Phật, tại sao có vọng tưởng dấy lên như vậy? Vọng đó từ đâu mà ra?
Phật bảo
Phú-lâu-na:
- Tuy ông đã trừ
được nghi nhưng còn sót lại những mê lầm chưa dứt hết. Nay ta lấy những việc
hiện tiền của thế gian để hỏi lại ông. Ông há chẳng nghe trong thành
Thất-la-phiệt có Diễn-nhã-đạt-đa, một sáng sớm lấy gương soi mặt, chợt ưa thích
cái đầu trong gương, lông mày con mắt có thể thấy. Rồi giận trách cái đầu của
mình sao không thể thấy được mặt mày mình, cho là yêu quái, bỗng dưng phát
cuồng bỏ chạy?
Câu chuyện
Diễn-nhã-đạt-đa là có thật trong thời đức Phật, chứ không phải ví dụ. Khi xem
gương, ông thấy đầu mặt rõ ràng trong gương, rồi ưa thích, trách sao đầu mình
không thấy mặt mày của mình. Nếu của mình thì mình phải thấy, mà nay không thấy
thì đó là cái gì, chứ không phải đầu mình, là yêu quái chăng? Tưởng rằng cái
đầu trong gương là thật, còn cái đầu này không thật. Khi úp gương lại, đầu mặt
trong gương mất tiêu, hoảng hốt ôm đầu chạy, la mất đầu!
Câu chuyện nghe
thật vô lý mà quá hữu lý! Nơi chúng ta luôn có tâm giác chân thật sáng suốt mầu
nhiệm. Đó thật là mình mà không thấy, chỉ thấy những buồn thương giận ghét suy
nghĩ tính toán... nên cho những thứ này là mình. Phật nói chừng nào hết những
suy nghĩ lăng xăng hư vọng mới thấy cái chân thật kia. Vô lý quá! Cái chân thật
kia ở đâu? Nếu là của tôi sao tôi không thấy? Còn những suy nghĩ lăng xăng, nói
không phải của tôi, sao tôi suy nghĩ đủ thứ được, tôi biết được, không phải tôi
là gì? Do đó mà hoảng hốt phát cuồng.
Tất cả chúng ta đều
quên cái thật nơi mình mà chạy theo cái giả, cũng như Diễn-nhã-đạt-đa quên cái
đầu thật, lại nhận bóng làm đầu. Khi phát cuồng la mất đầu, đầu có mất không?
Tới chừng hết cuồng rờ lại cái đầu còn nguyên, có phải là mới được không? Như
vậy khi phát cuồng chạy, đầu vẫn ở đó, khi tỉnh lại, đầu cũng như xưa, có thêm
bớt gì đâu! Hình ảnh này quá khéo. Như hiện nay chúng ta mê, đang luân hồi lặn
lội ỳ ạch nơi cõi trần tục, khổ sở, khóc cười mà viên giác diệu tâm cũng vẫn
nguyên vẹn tròn đủ. Mai kia chúng ta tỉnh giác, tu thành Phật, viên giác diệu
tâm nào có thêm gì!
Ý ông nghĩ sao?
Người này do nhân gì vô cớ phát cuồng bỏ chạy?
Phú-lâu-na thưa: -
Do tâm người này cuồng, không có lý do nào khác.
Phật bảo: - Tánh
diệu giác minh viên vốn tròn sáng nhiệm mầu. Đã gọi là vọng thì sao có nhân?
Tánh giác tròn sáng
không bao giờ mất, không bao giờ thiếu vắng. Chúng ta có sẵn mà không nhận được
không sống được, lại dấy niệm chạy theo vọng. Đã gọi là vọng thì đâu có nhân.
Nên khi tu, niệm dấy khởi liền biết là vọng không theo, không cần phải tìm xem
nó từ đâu ra. Bởi nó đâu có nhân mà tìm, biết là vọng thì nó tự lặng tự mất.
Mong muốn diệt vọng là khờ khạo, đã là vọng làm sao diệt! Còn tìm cách diệt
vọng là tưởng như vọng có thật. Cái gì thật thì phải có nhân, nay vọng không
nhân tức là không thật. Không thật mà muốn diệt, muốn đè thì đó là bệnh. Chỉ
cần biết nó là vọng, không theo là đủ. Lối tu này nhẹ nhàng nhưng cần tỉnh
sáng, tế nhị.
Ví như có người
nghe nói ăn trộm nên sợ mất đồ, đêm nào cũng bắc ghế ngồi nhìn lom lom ra
ngoài. Như vậy chỉ tốn công nhọc sức. Biết có ăn trộm thì chỉ cần cảnh giác,
khi nào nghe động, nghe chó sủa liền vụt dậy xem. Cách tu ở đây cũng vậy, biết
là vọng thì khi nó dấy lên, chúng ta đừng theo. Đừng cố đè để tiêu diệt nó, nó
có thật đâu mà tiêu diệt! Do tu sai một chút mà mệt mỏi lại không hiệu nghiệm.
Tập khí vọng tưởng
nhiều đời tích lũy nên vọng này lặng lại hiện ra vọng khác. Giả sử vọng khởi
trăm lần, lần nào chúng ta cũng biết là vọng, không theo thì không có gì hại.
Cũng như ăn trộm đến một trăm lần, lần nào chúng ta cũng cảnh giác, tuy có trộm
đến nhưng không mất đồ. Trái lại nếu cứ cố kìm, lâu ngày sẽ sanh nhức đầu, đó
mới là họa.
Nếu có nguyên nhân
thì sao gọi là vọng? Tự các vọng tưởng lần lượt làm nhân cho nhau. Từ mê
tích chứa mê, do đó trải qua số kiếp nhiều như bụi. Tuy được Phật chỉ bày mà
vẫn không biết trở lại.
Như người làm trò
ảo thuật. Bất thần họ hóa hiện ra một con người, chúng ta không nên hỏi người
đó từ đâu ra. Nếu thật có từ đâu ra thì không phải là người hóa. Đã là người
hóa tức không thật, làm sao có chỗ nơi! Từ vọng tưởng này tiếp khởi vọng tưởng
kia, nó làm nhân cho nhau chứ không có cái thật nào làm nhân cho vọng. Từ vọng
này bồi thêm các vọng khác, do vậy mà tử đi sanh lại, sanh lại tử đi, luân hồi
trong tam giới không biết bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp. Nay nghe Phật chỉ rõ
mỗi người đều có bản giác chân tâm, các pháp vọng trần là hư dối, nhưng chúng
ta có thể bỏ vọng trần hư dối trở về với bản giác được chăng? Tuy được chỉ bày
mà chưa trở lại được.
Như thế nguyên nhân
của mê là do mê tự có. Biết mê không nhân thì vọng không có chỗ nương tựa. Sanh
còn không có, muốn diệt cái gì?
Biết tất cả cảnh
đều là cảnh trong mê không thật thì vọng theo đó hết. Nếu chấp thân này cảnh
này là thật, thì vọng tưởng theo đó tăng chứ không thể nào bớt được. Vọng đã
không thật thì đâu có sanh, không sanh mà muốn diệt là diệt cái gì? Vậy nên
chúng ta tu chỉ cần biết đó là vọng, không theo là đủ. Tu như vậy rất nhẹ
nhàng.
Người được Bồ-đề,
như người khi thức nói việc trong mộng, tâm dù tỉnh sáng nhưng đâu có nhân
duyên gì để lấy vật trong mộng. Huống nữa mê không có nhân, vốn không thật có.
Như trong thành kia Diễn-nhã-đạt-đa đâu có nhân duyên gì tự sợ cái đầu mà bỏ
chạy. Bỗng nhiên hết điên cuồng, cái đầu chẳng phải từ ngoài mà được. Dù chưa
hết cuồng, cái đầu cũng đâu có mất!
Ví như có người ngủ
mộng, thấy được cho một thỏi vàng, đem cất trong tủ. Khi thức dậy, rõ ràng tỉnh
sáng, có lấy đưa người khác coi được không? Chúng ta mê nên thấy cảnh thật
người thật, tất cả đều thật, khi tỉnh tất cả đều là mộng. Cảnh trong mộng vốn
không có nhân, không thật, làm sao đưa ra hoặc chỉ bày.
Diễn-nhã-đạt-đa sợ
cái đầu mà chạy, nào có nhân duyên, chẳng qua do cuồng tâm phát ra. Khi hết
cuồng, đầu vẫn sẵn đây chứ không phải từ đâu mà được, không phải ai cho. Ngay
cả lúc đang cuồng bỏ chạy đó, đầu cũng đâu có mất. Cũng vậy, hết mê thì nhận
lại tánh giác, vốn sẵn đó chứ nào phải từ đâu mới được. Ngay cả khi chúng ta
đang mê muội lăn lộn trong luân hồi, tánh giác vẫn không mất.
Này Phú-lâu-na,
tánh của vọng như thế, đâu nhân cái gì mà có! Ông chỉ không theo phân biệt ba
thứ tương tục: thế gian, nghiệp quả, chúng sanh. Vì ba duyên đoạn nên ba nhân
chẳng sanh, ắt tánh cuồng Diễn-nhã-đạt-đa trong tâm ông tự hết. Hết cuồng tức
tâm Bồ-đề thù thắng thanh tịnh sáng suốt vốn trùm khắp pháp giới, không từ
người khác mà được, thì đâu nhờ siêng năng khó nhọc tu chứng.
Ba thứ tương tục: Thế gian là tất cả cảnh thế
gian. Nghiệp quả là
nghiệp tốt xấu lành dữ v.v... Chúng sanh là
người. Đây là Phật chỉ cách tu cho hết tánh cuồng
Diễn-nhã-đạt-đa. Đối với người, đối với những thứ hơn thua,
mọi sự vật ở thế gian tương tục, chúng ta đừng tùy theo mà phân biệt. Khi thấy
người thấy vật, chúng ta thấy tất cả biết tất cả mà không phân biệt người này
hay người kia dở, người này đẹp người kia xấu... Không dùng thức để đuổi theo
các thứ tương tục. Không đuổi theo ngoại cảnh, không đuổi theo nghiệp quả và
chúng sanh, tự nhiên chúng ta sống trở lại với tinh minh sẵn có, tức là tánh
thấy tánh nghe nơi mình.
Nếu ba duyên ở ý là
tham sân si đoạn thì ba nhân ở thân: giết hại, trộm cướp, dâm dục chẳng sanh.
Ba duyên hết, ba nhân không sanh thì cái điên cuồng Diễn-nhã-đạt-đa trong tâm
tự hết. Sở dĩ chúng ta có tham sân si là vì chạy theo phân biệt các cảnh,
nghiệp báo, con người trong thế gian. Vừa thấy là liền dấy lên niệm phân biệt,
vừa có phân biệt liền có thương ghét... Do vậy nên cứ chìm đắm trong luân hồi.
Nếu thấy tất cả
cảnh, người mà không theo đó phân biệt thì tham sân si không còn, tánh cuồng hư
vọng Diễn-nhã-đạt-đa tự nhiên hết. Tánh cuồng hết tức là Bồ-đề vốn khắp cả pháp
giới, không từ người khác mà được, cũng đâu nhờ siêng năng cần khổ tu chứng.
Thật là đơn giản.
Nếu chúng ta bỏ
ngay được cái điên cuồng của minh thì cần gì phải tu. Sở dĩ nay phải tu,
ngồi thiền đau chân v.v... là vì điên cuồng quá mạnh kìm không nổi, như những
con ngựa chứng, cho nên ngồi thiền lấy thế mạnh để kìm chế. Nếu chúng ta thật
biết nó là đồ bỏ, là hư vọng cuồng dại thì ngay đó là Bồ-đề, khỏi cần nói tu
nói chứng. Vậy nên chủ yếu của đạo Phật là phải dứt hết mê để tự giác, chư
không tìm kiếm ở đâu khác.
Ví dụ có người nặng
về nóng giận, được khuyên nên dùng từ bi quán để trừ. Sau khi trừ xong nóng
giận, trong tâm vẫn còn tánh si. Lại được khuyên nên giới phân biệt quán để
trị. Trị hết si, vẫn còn tham. Có người bảo hãy dùng vô thường quán để trị bệnh
tham danh lợi. Khi trị hết bệnh tham danh lợi, vẫn còn bệnh tham sắc. Lại được
khuyên dùng bất tịnh quán để trị... Để trị hết các bệnh đó mất thời gian bao
lâu? Trị hết các bệnh đó rồi lại còn bệnh ngã mạn... Vậy chừng nào mới thật hết
bệnh?
Đó là lối tu đối
trị, theo bệnh mà cho thuốc, cũng là phương pháp hay cho những người thích hợp.
Tuy nhiên, tâm vương tâm sở chúng ta có quá nhiều thứ, nếu mỗi một thứ đều là
bệnh, phải trị từng món thì biết bao giờ hết bệnh! Thiền tông có lối tu đơn
giản, gọi là một toa thuốc trị được bá chứng, dứt được gốc bệnh.
Chúng ta xét lại
tại sao mình có tham sân si, cùng tất cả các bệnh xấu khác? Căn nguyên là từ vô
minh vọng tưởng mà ra. Do vô minh nên chấp thân tâm cảnh này là thật, bao nhiêu
phiền não theo đó phát sanh. Bây giờ chỉ cần rõ biết thân tâm cảnh này là không
thật, đều do vọng tưởng sanh. Chỉ cần dứt vọng thì các bệnh theo đó dứt hết.
Xưa do vọng tưởng
si mê dẫn chúng ta đi trong luân hồi, nay trở lại phá ngay chỗ vọng tưởng si mê
đó là trở về bản giác. Lúc mê thì hết bệnh này đến bệnh kia sanh, vì cái gốc
chưa dứt, khi giác rồi thì không còn bệnh gì nữa. Xưa từ bản giác chúng ta bỏ
quên, trôi lăn sanh tử, nay biết quay trở về là đến nơi. Giống như sau cơn
chiêm bao thức giấc là hết mộng ngay. Quên mình theo vọng, chấp thân và cảnh
nên lầm lẫn đi hoài. Chỉ cần biết được những tướng đó là hư giả tức trở về cái
thật chính mình. Đơn giản và rõ ràng như vậy, không phải nhọc nhằn tìm kiếm đâu
xa, nên nói không nhọc tu chứng.
Lối tu biết vọng,
nghe như tầm thường nhưng lại có thể trị tất cả bệnh và trị tận gốc bệnh. Biết
vọng chính là tu, không nói đoạn vọng, diệt vọng, bởi vọng là hư giả, làm sao
mà đoạn mà diệt? Cũng như không thể đấm cái bóng hay chặt bỏ cái bóng cho nó
hết được. Nói đoạn nói diệt là người chưa biết vọng.
Ví như có người
trong áo mình có buộc một hạt châu như ý mà không tự hay biết, chịu nghèo khổ
đi tha phương lang thang xin ăn. Tuy thật nghèo khổ nhưng hạt châu chưa từng
mất. Chợt có người trí chỉ cho hạt châu kia, thì chỗ mong muốn đều được như ý,
trở nên rất giàu có, mới biết hạt thần châu không phải từ ngoài mà được.
Dụ này giống trong
kinh Pháp Hoa. Đức Phật có hạt châu như ý và đã lấy xài nên ngài là người giàu
có nhất, gọi là đấng Bảo vương, ông vua báu. Chúng ta cũng có hạt châu đó mà
quên không biết để đâu nên lang thang nghèo khổ. Ngày nay nhờ Phật tổ chỉ,
chúng ta thấy được nó, đem ra sử dụng thì giàu như Phật. Như vậy mới biết hạt
châu đó sẵn có nơi mình, không phải từ đâu đem đến.
Khi chúng ta nghèo,
lang thang nơi này nơi nọ xin ăn, hạt châu chưa từng mất. Như hiện nay chúng ta
đang mê, còn lầm nhận vọng làm mình, biết đó là vọng tức là đã giác rồi. Bởi
giác nên không theo nó, không bị nó dẫn. Để nhận ra hạt châu sẵn trong chéo áo
mình, cần công phu nhiều hay ít? Chỉ là quên và nhớ. Quên thì lang thang trong
luân hồi khổ não, nhớ thì tỉnh giác, ngay đó hết luân hồi.
Chủ yếu của đạo
Phật là giác ngộ. Chỉ cần đánh tan mê ngay đó liền là giác, đâu nói công phu
cực khổ gì. Khi biết vọng chính là giác. Cũng như khi chúng ta ngủ mê, ăn trộm
tới không biết, nên nó lấy đồ của mình hết. Trái lại nếu đêm đó có trộm đến
mười lần, mình đều biết rõ thì không bị mất đồ. Mỗi lần biết là mỗi lần tỉnh,
mà tỉnh thì dù cho mình không bắt được trộm, đồ mình vẫn không mất.
6. Phá nhân duyên
và tự nhiên
Liền khi ấy, A-nan
ở trong đại chúng đảnh lễ dưới chân Phật, đứng dậy bạch Phật:
- Đức Thế Tôn hiện
nói nghiệp sát đạo dâm, vì ba duyên đoạn nên ba nhân chẳng sanh, tánh cuồng
Diễn-nhã-đạt-đa trong tâm tự hết, cuồng hết tức là Bồ-đề, không từ người khác
được. Đây là nghĩa nhân duyên rõ ràng minh bạch, tại sao Như Lai lại vội bỏ lý
nhân duyên?
Ngài A-nan khởi
nghi: Phật dạy rằng ba duyên
đoạn thì ba nhân không sanh, đây là lý nhân duyên, duyên đoạn
thì nhân không sanh. Như vậy ngài nói nhân duyên rất rõ ràng, tại sao lại không
chấp nhận nhân duyên?
Con từ nhân duyên
mà tâm được khai ngộ. Bạch Thế Tôn, nghĩa này đâu riêng chúng con là hàng nhỏ
tuổi hữu học Thanh văn, mà nay trong hội này các ngài Đại Mục-kiền-liên,
Xá-lợi-phất, Tu-bồ-đề v.v... đều từ hàng trưởng lão Phạm chí, nghe Phật nói
nhân duyên mà phát tâm khai ngộ, được thành vô lậu. Nay Phật nói Bồ-đề không từ
nhân duyên thì thuyết tự nhiên của nhóm Câu-xá-lê trong thành Vương Xá lại
thành nghĩa đệ nhất. Vậy cúi mong đức Thế Tôn thương xót vạch bày chỗ mê lầm
đó.
Trước đây ngài
A-nan ngộ lý nhân duyên, kể cả những vị trưởng lão như Đại Mục-kiền-liên,
Xá-lợi-phất, Tu-bồ-đề v.v... trước kia là những vị Phạm chí, nghe Phật nói về
nhân duyên, tâm liền khai ngộ rồi tu hành được chứng vô lậu. Bây giờ Phật lại
nói Bồ-đề không từ nhân duyên. Nếu không nhân duyên tức là tự nhiên, giống như
ngoại đạo nói tự nhiên, vậy thuyết tự nhiên của nhóm ngoại đạo trở thành đệ
nhất nghĩa?
Phật bảo A-nan:
- Như Diễn-nhã-đạt-đa
trong thành, nếu nhân duyên tánh cuồng được diệt trừ thì tánh chẳng cuồng tự
nhiên xuất hiện. Lý nhân duyên và tự nhiên, cùng tột là như thế.
Nếu tánh cuồng là
nhân duyên thì khi được diệt trừ, tánh không cuồng tự nhiên sẽ hiện ra. Lẽ cùng
tột của nhân duyên và tự nhiên là như vậy thôi, hết nhân duyên tức là tự nhiên,
hết tự nhiên tức là nhân duyên chứ không có gì lạ, hai cái đó không tách rời
nhau.
Này A-nan, đầu
Diễn-nhã-đạt-đa vốn là tự nhiên. Trước tự nó sẵn như thế, nếu không sẵn vậy thì
chẳng gọi là tự. Vậy do nhân duyên gì mà sợ đầu phát cuồng bỏ chạy?
Nếu đầu là tự nhiên
thì vốn sẵn vậy, không đợi nhân duyên mới có đầu. Vậy do nhân duyên gì bỗng
nhiên lại sợ chạy? Tự nhiên là trước sau như một không hề thay đổi. Nếu trước
đây nó thế này nay lại thay đổi khác đi thì chẳng phải là tự nhiên.
Nếu cái đầu là tự
nhiên, do nhân duyên phát cuồng, thì sao chẳng tự nhiên do nhân duyên mà mất?
Đầu vốn không mất, cuồng sợ là hư dối phát ra. Vốn không từng biến đổi, đâu nhờ
đến nhân duyên.
Nếu đầu là tự
nhiên, rồi do nhân duyên mà sanh cuồng, tức cuồng là nhân duyên, còn đầu là tự
nhiên. Khi tự nhiên thì chẳng phải nhân duyên, còn khi có nhân duyên thì tự
nhiên phải mất. Như vậy cái đầu tự nhiên đó sao không do nhân duyên mà mất đầu
đi? Khi phát cuồng bỏ chạy, cái đầu cũng không hề biến đổi, thì đâu do nhân
duyên mà mất đầu.
Nếu tánh cuồng vốn
là tự nhiên thì trước đã sẵn có cuồng sợ. Vậy khi chưa cuồng, cuồng núp ở chỗ
nào? Nếu chẳng cuồng là tự nhiên, thì đầu vốn không hư dối, sao lại phát cuồng
bỏ chạy? Nếu ngộ được cái đầu sẵn có, biết được do cuồng mà chạy thì nghĩa nhân
duyên và tự nhiên đều là hý luận.
Khi biết rõ cái đầu
trước đã như vậy, rồi bỗng dưng phát cuồng chứ không có lý do không có nguyên
nhân, thì lý tự nhiên hay nhân duyên không còn nữa. Nhân duyên hay tự nhiên
chẳng qua là do lập đối đãi, không thật có, chỉ là hý luận thôi.
Thế nên ta nói, vì
ba duyên đoạn tức là tâm Bồ-đề, tâm Bồ-đề sanh thì tâm sanh diệt diệt, đây cũng
chỉ là sanh diệt. Diệt sanh đều hết mới đến chỗ vô công dụng đạo.
Tâm vọng thuộc về
sanh diệt. Dùng trí để dứt vọng cũng còn trong sanh diệt. Cả hai đều bặt mới là
vô công dụng đạo, tức đệ bát địa của Bồ-tát gọi là Bất động địa. Ví dụ lâu nay
mình thân thiết với một người bạn, coi như ruột rà, nhưng kẻ đó lại thâm độc hại
mình. Chợt gặp thiện tri thức bảo cho biết, ta tỉnh ngộ chỉ người kia nói
"Ông là người hại tôi". Ngón tay mình chỉ người đó là cái dụng biểu
lộ sự không chấp nhận. Người đó đi rồi, ta không còn chỉ nữa, cái dụng đó không
dùng, mình vẫn nguyên vẹn là mình.
Ngày xưa chúng ta
nhận vọng làm mình, là ruột rà thân thiết. Nay biết nó dẫn mình đi trong luân
hồi, nên phát khởi biết vọng. Đây là dụng của trí. Khi vọng lặng mất, dụng đó
cũng không còn, trở lại tâm thể thường hằng.
Nếu có tự nhiên,
như thế rõ ràng tâm tự nhiên sanh thì tâm sanh diệt diệt, đây cũng là sanh
diệt. Phải không sanh diệt mới gọi là tự nhiên.
Sanh diệt thuộc về
nhân duyên, không sanh diệt mới gọi là tự nhiên.
Ví như các tướng
thế gian hòa hợp lẫn nhau thành một thể, gọi là tánh hòa hợp, còn cái không hòa
hợp thì gọi là tánh bản nhiên. Bản nhiên không phải có sẵn, hòa hợp không phải
hợp. Hợp và sẵn đều lìa, lìa và hợp đều chẳng phải. Câu nói này mới gọi là pháp
không hý luận.
Nói hòa hợp tức là
nhân duyên, nói sẵn vậy tức là tự nhiên, còn có sẵn vậy, còn có hòa hợp đều là
hai bên, mà còn hai bên là pháp hý luận. Khi hòa hợp và không hòa hợp đều lìa,
thoát ngoài nhân duyên và tự nhiên mới gọi là không hý luận, là pháp chân thật.
Bồ-đề Niết-bàn còn
xa xôi, nếu ông chẳng trải qua nhiều kiếp siêng năng khổ nhọc tu chứng, thì tuy
có ghi nhớ điệu lý thanh tịnh trong mười hai bộ kinh của các đức Như Lai ở mười
phương nhiều như số cát sông Hằng, cũng chỉ tăng thêm hý luận mà thôi.
Phật quở ngài
A-nan: Nếu không nhiều kiếp khổ nhọc tu chứng mà chỉ siêng năng cố gắng ghi nhớ
mười hai bộ kinh nhiều như số cát sông Hằng của chư Phật mười phương, cũng
không thể đạt được Bồ-đề Niết-bàn. Nhớ nhiều như vậy cũng chỉ tăng thêm hý luận
chứ không phải giải thoát, bởi vì đó là ngôn thuyết, thuộc về sanh diệt.
Tuy ông bàn luận về
nhân duyên, tự nhiên, quyết định rõ ràng, người thế gian gọi ông là đa văn bậc
nhất, nhưng dùng sự học rộng tích lũy nhiều kiếp này cũng không thể thoát khỏi
nạn Ma-đăng-già. Phải đợi ta dùng thần chú Phật đảnh, lửa dâm trong lòng Ma-đăng-già
liền hết, chứng được A-na-hàm. Ở trong pháp của ta thành rừng tinh tấn, sông ái
khô cạn, khiến ông được giải thoát. Thế nên A-nan, tuy ông trải qua nhiều kiếp
nhớ giữ bí mật diệu nghiêm của Như Lai, không bằng một ngày tu nghiệp vô lậu xa
lìa hai khổ yêu và ghét ở thế gian.
Bí mật diệu nghiêm
của Như Lai chỉ
cho mười hai bộ kinh. Đây không phải là lời chỉ trích những người học rộng, mà
là một kinh nghiệm thực tế. Dù chúng ta học hiểu nhiều bộ kinh, nhưng khi gặp
các cảnh tương ưng với những tập khí tham ái sân si thì chưa chắc đã vượt qua
được. Tâm trí đã vọng mà học là dồn thêm nhiều vọng nữa, nên càng học càng phân
tán. Tâm phân tán thì tinh thần yếu chứ không thể mạnh, khi gặp cảnh dễ bị cảnh
chuyển. Ngược lại có những người học không nhiều lắm nhưng biết chuyên tâm ứng
dụng, tự nhiên có đạo lực, được giải thoát.
Ví dụ như trong nhà
có năm sáu cảnh cửa đều mở tung ra, lại có dăm ba chứ ăn cướp đến. Nhà có tám,
chín anh em nhưng không thuận với nhau, mỗi người đều có công việc riêng của
mình, không có ý hợp tác để trị bọn cướp. Vậy thì chỉ có lợi cho bọn cướp mà
thôi. Tâm chúng ta nếu lo chuyện này nghĩ chuyện kia, học đủ thứ thì sức tập
trung đâu còn mạnh nữa, kẻ cướp vào lấy hết gia bảo cũng không hay.
Người tu thiền chỉ
chú ý một việc biết vọng, tâm chỉ gom vào đó nên đạo lực ngày càng tăng tiến.
Đó là sức mạnh của tâm giúp chúng ta đủ sức từ bỏ những sở thích của mình. Đồng
thời khi gặp điều gì cần hiểu rõ có thể hiểu được dễ dàng. Nên nói một ngày tu
vô lậu quý hơn học bao nhiêu kinh điển.
Thế nào là tu nghiệp vô lậu? Bố thí,
làm các việc thiện... là tu nghiệp hữu lậu. Dù tụng kinh trì chú niệm Phật
nhưng còn chạy theo tâm sanh diệt là hữu lậu. Vô lậu là không theo tâm sanh
diệt. Vọng tưởng là gốc tạo nghiệp hữu lậu, biết vọng không theo là tu nghiệp vô
lậu. Chúng ta cần phủi hết, phủi sạch hết... không chấp nhận những thứ bên
ngoài đưa vào. Như vậy đến khi gặp việc mới thấu hiểu dễ dàng. Đạo lực là chỗ
đó. Nên người tu gặp cảnh thì hóa giải được, trong khi người học gặp cảnh khó
hóa giải. Học chỉ để thêm kiến thức còn tu là thực hành những điều học được.
Thế nên dù nhiều kiếp ghi nhớ kinh điển cũng không bằng
một ngày tu nghiệp vô lậu, được xa lìa hai khổ yêu và ghét ở thế gian. Khổ
là từ yêu ghét, không chỉ đối với người mà luôn cả với mọi sự vật. Thấy cái gì
đẹp, tâm ưa thích, đó là yêu. Ví dụ cái xe mình cũ quá, thấy người khác đi xe
mới êm ái làm sao, mình ghét cái xe của mình và muốn được xe mới. Do đó phải
chạy ngược chạy xuôi kiếm tiền để mua xe mới như người ta. Yêu ghét người còn
khổ hơn thế nữa. Tất cả khổ gốc từ yêu ghét mà ra, nếu bỏ được yêu ghét thì hết
khổ. Dù không thể dễ bỏ một lần thì mỗi ngày cũng phải mỗi giảm.
Dù cho chúng ta học
nhiều nhớ giỏi bao nhiêu mà không biết tu nghiệp vô lậu, không bỏ được hai thứ
khổ ở thế gian thì cũng như người chưa học đạo vậy.
Như Ma-đăng-già xưa
là dâm nữ, do sức thần chú mà tiêu được ái dục. Nay ở trong phát Phật gọi là
tánh Tỳ-kheo-ni, cùng với mẹ La-hầu-la là Da-du-đà-la đồng ngộ được nhân đời
trước, biết nhiều đời do tham ái mà khổ. Do một niệm huân tu pháp thiện vô lậu,
người thì được ra khỏi vòng trói buộc, người được Phật thọ ký. Tại sao ông còn
tự khinh mình, vẫn bị ngăn trệ trong vòng thấy nghe?
Bao nhiêu đời chúng
ta khổ là vì tham ái. Hai bà Da-du-dà-la và Ma-đăng-già là người nữ, trước kia
từ nhân ái dục mà tỉnh giác, tu pháp thiện vô lậu, người được giải thoát, người
được Phật thọ ký sẽ thành Phật sau này. Phật đề cao hai bà rồi quở ngài A-nan
sao lại tự khinh, không tu nhân vô lậu mà cứ giữ đa văn, còn thua phụ nữ.
Comments
Post a Comment