KINH THỦ-LĂNG-NGHIÊM GIẢNG GIẢI
HT THANH TỪ
CHƯƠNG II: TU ĐẠO
A-nan và cả đại chúng
nghe Phật chỉ dạy, nghi lầm tiêu trừ, tâm ngộ được thật tướng, thân ý nhẹ
nhàng, được điều chưa từng có. Lại rơi lệ đảnh lễ dưới chân Phật, quỳ gối chắp
tay bạch Phật rằng:
- Đấng bảo vương thanh
tịnh Đại bi Vô thượng khéo khai mở tâm chúng con, hay dùng các thứ nhân duyên
phương tiện như thế, khuyến khích dẫn dắt những người chìm trong tối tăm ra
khỏi biển khổ.
Bạch Thế Tôn, nay con
tuy nhờ được nghe pháp âm như thế, biết Như Lai tạng diệu giác minh tâm trùm
khắp cả thế giới ở mười phương, gồm chứa các cõi Diệu giác vương thanh tịnh bảo
nghiêm, quốc độ của chư Phật mười phương, Như Lai lại trách con nghe nhiều mà
không có công phu, không kịp thời tu tập.
Ngài A-nan lặp lại ý
trước, nhắc lời Phật quở dù nghe nhớ hết kinh điển của chư Phật mười phương,
không bằng một người tu tập pháp vô lậu.
Nay con vẫn như người
khách lang thang chợt được nhà vua tặng cho ngôi nhà đẹp, tuy được ngôi nhà
lớn, cần phải biết cửa vào. Cúi mong đức Như Lai mở lòng đại bi chỉ cho chúng con
là những kẻ còn mờ tối ở trong hội, từ bỏ pháp Tiểu thừa, rốt ráo được Niết-bàn
vô dư của Như Lai, đó là con đường phát tâm từ xưa đến nay, khiến cho hàng hữu
học biết cách để nhiếp phục tâm phan duyên lâu đời, được pháp tổng trì, vào tri
kiến Phật.
Thưa lời đây rồi, năm
vóc gieo xuống đất, ở trong hội nhất tâm chờ nghe lời chỉ dạy của đức Phật.
Đoạn trước ngài A-nan và
đại chúng được đức Phật chỉ cho thấy rõ tất cả năm ấm, mười hai xứ, mười tám
giới cho đến bảy đại, đều từ Như Lai tạng lưu xuất. Tới đó ngài A-nan đại ngộ,
rõ được pháp thân mà không cần phải trải qua vô số kiếp tu. Nhìn lại thấy thân
này chẳng khác nào hạt bụi ở trong hư không hay như hòn bọt trên biển cả. Như
vậy, khi thấy được pháp thân trùm khắp mười phương thì thân này không còn giá trị
gì.
Ngài A-nan ngộ rồi, bèn
trình bày chỗ ngộ của mình và phát lời thệ nguyện. Nhưng rồi ngài Phú-lâu-na
lại khởi nghi. Một là nghi sao Như Lai tạng bản nhiên bỗng sanh ra sơn hà đại
địa. Hai là nghi tứ đại đất nước gió lửa vốn chống nhau, tại sao có thể trùm
khắp. Ba là nghi vọng từ đâu mà khởi. Sau khi đức Phật giải thích cho ngài
Phú-lâu-na và đại chúng nghe, ngài A-nan lại khởi nghi về nhân duyên và tự
nhiên.
Ngài A-nan tuy đã ngộ,
biết từ Như Lai tạng lưu xuất tất cả, nhưng khi nói đến nhân duyên và tự nhiên
thì ngài cũng lại như trước nghi nó là thật. Bởi vậy đức Phật phải một lần nữa
giải thích cho ngài A-nan thấy nhân duyên và tự nhiên đều không thật. Từ đây
ngài A-nan mới tin chắc mình có cái chân thật quý báu, nhưng lại không biết làm
sao mà vào.
Ngộ rồi còn phải Nhập.
Nhiều người không hiểu, khi nghe tu hành có phát minh gì, tưởng đâu là xong
chuyện. Cho nên tới đây, ngài A-nan ví dụ hết sức cụ thể. Như kẻ đi lang thang
không nhà không cửa, chợt được vua thương, ban cho một ngôi nhà quá đẹp mà không
biết từ cửa nào vào. Thấy nhà chưa phải là kẻ vào nhà, cũng vậy tu thiền không
phải ngộ là xong việc. Vậy mà có người thấy được chút ít gì đó, liền thư thả ăn
chơi, cho là mình được tự tại. Đó là bệnh lớn của người tu.
Đến đây ngài A-nan cầu
xin đức Phật chỉ cho con đường hay cái cửa để vào trong căn nhà đẹp đó. Ngài
A-nan đại ngộ tức là thấy được pháp thân, dụ như được ngôi nhà báu. Được ngôi
nhà, biết nó là của mình rồi, nhưng muốn vào không phải đơn giản. Phải từ cửa
nào để vào được trong nhà, đó mới là thiết yếu. Tu hành có những giai đoạn,
kinh Pháp Hoa nói khai thị ngộ nhập Phật tri kiến, còn ở đây là khai thị ngộ
nhập pháp thân.
Phần trước chúng ta đã
học đoạn Thất xứ trưng tâm tức bảy chỗ hỏi tâm, đó là Khai.
Khai là mở, tức là dẹp phả chỗ chấp chặt làm đóng bít cửa, không thấy được pháp
thân. Phật phá lầm chấp đó để khai Phật tri kiến hay là khai pháp thân.
Phần Thị, từ đoạn đức
Phật đưa nắm tay chỉ ra tánh thấy, kế là tám thứ trả về, cho đến chỉ ra năm ấm,
sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới... vốn là Như Lai tạng diệu chân như tánh.
Ban đầu Phật chỉ cho thấy được nơi mình có tánh thấy tánh nghe chân thật. Từ đó
trở về sâu bên trong một chút sẽ nhận được pháp thân trùm khắp. Như vậy phần
Thị là chỉ cho rõ được pháp thân.
Do rõ được pháp thân, nên
cuối phần này ngài A-nan Ngộ. Căn cứ theo tinh thần kinh A-hàm thì Ngộ là phá
được kiến hoặc và Nhập là trừ tư hoặc. Tư hoặc là các mê lầm của ngũ căn đối
với ngũ trần, khởi ra lòng tham ái nhiễm trước, mê mờ chẳng tỉnh. Kiến hoặc là
các mê lầm của ý căn đối với pháp trần, sanh ra các kiến chấp như chấp có chấp
không, chấp thường chấp vô thường…
Phá được kiến hoặc là
vào hàng Nhập lưu, tức vào dòng thánh. Ngày xưa những lúc đức Phật thuyết pháp,
trong hội thường có người chứng quả Tu-đà-hoàn, tức là nhận được đạo một cách
chắc chắn không còn nghi ngờ, đó là Ngộ. Ngộ rồi thì đời đời không còn thối
chuyển, nên gọi vào dòng thánh. Chúng ta học đạo nếu có đủ niềm tin thì không
bao giờ nghi ngờ nữa, đó là đã thẳng vào. Sở dĩ chúng ta tu mà còn thối chuyển
là vì còn nghi ngờ. Nếu xác quyết chắc chắn, một mực đi thẳng, đó gọi là đủ
lòng tin.
Tuy ngộ là rõ được pháp
thân rồi nhưng làm sao vào, đến đây ngài A-nan xin Phật chỉ cho con đường vào,
đó là Nhập.
Nhập dạy cho ngài A-nan
có trình tự thứ lớp, khai thị ngộ nhập rất rõ ràng. Nếu chúng ta nắm vững các
thứ lớp đó thì trên đường tu không bị lầm lẫn. Ví dụ như chúng ta tu biết vọng,
không chạy theo vọng tưởng, tức đang trong giai đoạn phá dẹp vọng, đó là Khai.
Chừng nào nhận được pháp thân trùm khắp tức là Ngộ. Nhưng nhận ra pháp thân
rồi, còn phải trải qua bao công phu tu tập nữa mới Nhập được. Nên từ đoạn này
về sau còn rất dài là nói về Nhập. Nhập cũng cay đắng lắm chứ không phải đơn
giản.
Có người không rõ điều
này, nghe kinh hiểu được chút ít bèn hài lòng tự mãn, cứ bàn luận nói dóc với
nhau. Đó là bệnh lớn. Do chưa vào được chỗ chân thật, đến khi gặp phiền não vẫn
cứ phiền não, y như cũ không hơn không kém. Do đó tu phải thấu suốt đến chỗ tột
cùng, chứ không phải chỉ một chặng là xong. Nếu không nắm vững những điều này
thì trên đường tu chúng ta sẽ lúng túng, không biết đâu là gốc đâu là ngọn,
cũng không biết nhân nào đưa đến quả nào. Cho nên ở đây Phật chỉ rành mạch từng
phần, để khi tu chúng ta biết cách ứng dụng.
I. HAI NGHĨA QUYẾT ĐỊNH
CỦA NGƯỜI MỚI PHÁT TÂM
Khi ấy đức Thế Tôn vì
thương xót hàng Thanh văn Duyên giác trong hội, đối với tâm Bồ-đề chưa được tự
tại, và những chúng sanh phát tâm Bồ-đề trong đời mạt pháp sau này khi Phật đã
diệt độ, mà mở bày con đường tu hành sâu mầu của pháp Vô thượng thừa.
Đức Phật không những
thương xót hàng Duyên giác Thanh văn trong chúng hội, mà còn thương tới những
chúng sanh phát tâm Bồ-đề trong đời mạt pháp về sau. Những lời này Phật không
dạy riêng cho chúng hội ở thời đó mà dạy cả cho chúng ta bây giờ.
Phật chỉ dạy A-nan và cả
đại chúng:
- Các ông quyết định
phát tâm Bồ-đề, đối với pháp tam-ma-đề nhiệm mầu của chư Phật Như Lai không
sanh lòng mỏi mệt, trước cần phải rõ hai nghĩa quyết định lúc bắt đầu phát tâm
cầu giác ngộ.
Diệu-tam-ma-đề chỉ cho con đường viên thông đi tới chỗ chân thật của
chư Phật, cũng gọi là diệu trang nghiêm lộ. Chúng ta tu cầu
giác ngộ thành Phật, nếu không rõ hai nghĩa quyết định thì làm sao thành tựu.
1. Nhân quả tương ưng
Thế nào là hai nghĩa
quyết định của người mới phát tâm? A-nan, nghĩa quyết định thứ nhất là, nếu các
ông muốn xả bỏ pháp Thanh văn, tu Bồ-tát thừa vào tri kiến Phật, phải nên xét
kỹ chỗ nhân phát tâm cùng với chỗ quả giác ngộ là đồng hay khác.
Nhân phát tâm và quả
giác ngộ đạt được phải tương ứng nhau. Chúng ta muốn trồng lúa mà gieo hạt mè
thì không lên được cây lúa. Nhân và quả phải theo nhau thì sự tu hành mới đạt
đến cứu cánh. Nhưng lâu nay chúng ta tu cầu Niết-bàn vô sanh tức không sanh tử,
hoặc cầu thành Phật là giác ngộ viên mãn, mà luôn đem tâm phân biệt sanh diệt
để cầu. Lấy nhân sanh diệt để cầu quả không sanh diệt để cầu. Lấy nhân sanh
diệt để cầu quả không sanh diệt là sai lầm lớn. Do đó Phật dạy chúng ta phải
chọn lựa nhân tương ưng với quả thì sự tu mới thành tựu viên mãn.
Này A-nan, nếu nơi nhân
dùng tâm sanh diệt làm gốc tu hành mà cầu Phật thừa chẳng sanh chẳng diệt thì
thật là vô lý.
Nếu dùng tâm sanh diệt
làm nhân tu thì nhất định kết quả là sanh diệt luân hồi. Sanh diệt thiện thì
luân hồi được phước lành, sanh diệt ác thì luân hồi khổ, dù lành hay khổ đều
vẫn ở trong luân hồi. Đức Phật nêu ra cụ thể cho chúng ta thấy biết rõ để khỏi
lầm lẫn khi tu.
Do nghĩa ấy, ông phải
xem xét rõ các pháp tạo các của khí thế gian đều theo sự đổi thay hoại diệt.
Thế gian gồm có hữu tình
thế gian và khí thế gian. Hữu tình thế gian chỉ cho con người, khí thế gian chỉ
cho ngoại cảnh. Phật dạy ngài A-nan phải dùng trí soi sáng thấy rõ các pháp tạo
tác trong thế gian này đều thuộc về biến diệt.
Này A-nan, ông xem những
pháp tạo tác ở thế gian, có cái gì không hoại, nhưng trọn không nghe nói hư
không bị hư hoại. Vì sao? Vì hư không không phải pháp tạo tác do đó trước sau
không bị hoại diệt.
Tất cả pháp thế gian, dù
to như quả núi cũng đều tan hoại, nhưng chưa bao giờ nghe hư không hoại. Cái gì
có tạo tác, có hình tướng cụ thể thì cái đó bị hư hoại, còn hư không không
thuộc pháp tạo tác nên trước sau không bị hoại diệt. Khi tu tập, nếu dùng tâm
sanh diệt để tu thiện, cũng đều thuộc sanh diệt. Dù là làm phước, tụng kinh
cũng trong sanh diệt.
Thế nào là nhân không
sanh diệt? Ví dụ như khi thấy cành hoa chỉ là thấy chứ không nghĩ suy, thương
ghét. Cái thấy này không do ai làm ra. Có làm ra tức thuộc hư vọng, ngược lại
là không hư vọng. Cho đến cái nghe của tai, nếm của lưỡi, xúc chạm của thân...
trong đó đều có hai phần, một phần sanh diệt và một phần không sanh diệt. Nếu
chúng ta theo phần sanh diệt tức đi trong sanh tử luân hồi, nếu theo phần không
sanh diệt thì được vô sanh diệt. Vô sanh đó chúng ta vốn sẵn có, gọi là bản
giác, bây giờ tu mới thức tỉnh trở về, gọi là thủy giác. Thủy và Bản hợp nhất
là viên mãn.
Khi sáu giác quan tiếp
xúc với sáu trần, nếu hằng sống với tánh bất sanh bất diệt, đó là lấy nhân vô
sanh mà tu. Nhân vô sanh này từ đức Phật đến chúng ta ai cũng có, chỉ vì chúng
ta không nhớ biết. Ngược lại nếu dùng tâm sanh diệt mà tu thì quả sanh diệt
không thể tránh khỏi.
Trong thân ông, tướng
cứng là đất, ẩm ướt là nước, hơi ấm là lửa, dao động là gió. Do bốn thứ trói
buộc này, phân chia Diệu giác minh tâm trong lặng trùm khắp của ông thành thấy
nghe hiểu biết, từ đầu đến cuối tạo nên năm lớp vẩn đục.
Đức Phật chỉ ta nơi bản
thân chúng ta cái gì là sanh diệt, rồi tìm ra trong đó cái không sanh diệt để
ứng dụng tu. Tứ đại là tướng sanh diệt, ràng buộc tâm thể sáng suốt chân thật,
làm cho tâm bị phân chia nơi các căn, có các thấy nghe hiểu biết, năm lớp chất
chồng thành ra vẩn đục. Tuy nhiên, những thấy nghe hiểu biết đó gốc đều từ diệu
giác minh tâm trong lặng trùm khắp, nên trong đó đều có một phần của tâm giác
này.
Tứ đại hoại diệt nhưng
phần tâm tánh sáng suốt thì không hoại diệt. Vì vậy nếu chúng ta biết sử dụng
cái không hoại diệt mà tu thì đó là dùng nhân không sanh diệt để cầu quả không
sanh diệt, nhân quả tương ưng.
Từ đầu đến cuối, năm lớp
chồng chất thành ra ô trược. Trong kinh Di-đà có nói đến ngũ trược ác thế, ở
đây đức Phật lần lượt giải thích cho thấy rõ những gì gọi là năm thứ ô trược.
Thế nào là vẩn đục? Này
A-nan, ví như nước trong vốn sẵn là trong sạch, các thứ bụi đất tro cát kia bản
chất là ngăn ngại. Hai pháp thể như vậy, tánh không hợp nhau. Có người thế gian
lấy đất bụi kia để vào nước trong thì đất mất tánh chất ngăn ngại, còn nước mất
tánh trong sạch. Tướng trạng nhơ bẩn gọi đó là vẩn đục. Năm lớp trược của ông
cũng lại như thế.
Trược là vẩn đục chứ
không phải là xấu xa hèn hạ. Thế nào là vẩn đục? Do hai thứ, nước trong sạch và
bụi bẩn hòa hợp mà mất bản chất sẵn có của nó, gọi là vẩn đục. Đó là năm lớp
trược của mỗi người chứ không phải nói thế gian này trược.
Này A-nan, ông thấy hư
không khắp cả mười phương thế giới mà chẳng phân ra hư không và cái thấy. Có hư
không mà không hình thể, có thấy mà không giác, hai thứ đan dệt với nhau mà
vọng thành, ấy là lớp thứ nhất gọi là kiếp trược.
Như chúng ta nhìn khắp
bầu trời thấy hư không trống rỗng, cái thấy của mình với hư không hòa vào nhau,
bởi hòa nhau nên mới khắp hết. Có hư không mà không hình thể, vì hư
không là rỗng rang không tướng. Cái thấy cũng không có tướng mạo và không thấy
chỉ là thấy chứ không phải là giác. Cái thấy lẫn với hư không, hai cái không có
tướng mạo đó đan kết với nhau vọng thành lớp trược thứ nhất là kiếp trược.
Kiếp trược là kiếp vẩn
đục, không còn trong sạch, vì không còn cái thể riêng biệt, do hư không và cái
thấy của con người đã hòa lẫn vào nhau. Như trong ví dụ trước, nước và đất hòa
nhau nên mất tánh trong của nước và mất chướng ngại của đất. Do không còn thể
riêng nên gọi là trược.
Kiếp thuộc về thời gian,
thời gian không có hình tướng, chỉ do con người tưởng tượng đặt ra. Kinh Kim
Cang nói "quá khứ tâm bất khả đắc". Tâm quá khứ không thể
được, tâm hiện tại không thể được, tâm vị lai không thể được. Nếu phá
được ba thời tức phá được kiếp trược, chưa phá được ba thời là còn mắc kẹt
trong kiếp trược.
Thân ông hiện nắm giữ
bốn đại làm thể. Thấy nghe hiểu biết bị che lấp khiến thành ngăn ngại, còn đất
nước gió lửa lại trở thành có hiểu biết. Hai thứ cùng đan dệt với nhau mà vọng
thành, ấy là lớp thứ hai gọi là kiến trược.
Thân ta gom bốn đại làm
thành hình tướng, cái thấy nghe hiểu biết bị chúng che đậy khiến cho tứ đại trở
lại có những cảm giác hiểu biết. Đất nước gió lửa là vô tri, còn thấy nghe hiểu
biết là hữu tri, cái vô tri hòa với cái hữu tri đan kết với nhau mà vọng thành
lớp thứ hai, gọi đó là kiến trược. Do bị hòa lẫn không còn nguyên vẹn cái thể
riêng biệt nữa nên gọi là trược. Chữ "kiến" là nói chung cho kiến,
văn, giác, tri.
Lại nữa, trong tâm ông
do nhớ, biết, học tập, tánh phát ra thấy biết, dung hợp với sáu trần hiện tại.
Lìa trần thì không có tướng, lìa hiểu biết thì không có tánh. Hai thứ đan dệt
với nhau mà vọng thành, đó là lớp thứ ba gọi là phiền não trược.
Ý thức chúng ta nhớ,
nghĩ, phân biệt, hoặc lặp đi lặp lại, ôn tới nghĩ lui những sự việc đã xảy ra
để ghi nhớ trong lòng, đó là nhớ những tướng của sáu trần. Tánh phát ra thấy
biết, dung hợp với sáu trần. Nếu rời sáu trần thì không có tướng, còn lìa hiểu
biết thì không có tánh. Như vậy ở ngoài là trần, ở trong là hiểu biết, hai thứ
hòa lẫn đan kết với nhau thành lớp trược thứ ba, gọi là phiền não trược.
Tất cả phiền não có đều
từ sáu trần: mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân cảm
xúc, ý duyên theo pháp trần. Nghe nói trái tai thì giận, thấy việc trái mắt
liền giận... Từ thấy nghe mà có phiền não. Như vậy, phiền não là do sáu trần
với tâm thức đan kết nhau mà thành. Không đợi giận buồn yêu ghét mà khi nghĩ
nhớ quá khứ vị lai cũng thuộc phiền não trược.
Phiền não trược là hư
vọng, nhưng nó có mang cái biết, rời tánh giác không có nó, nên khi phiền não
lặng xuống, không còn lẫn với sáu trần thì trở về tánh giác. Nên nói "Vô
minh thật tánh tức Phật tánh".
Lại, ông sớm chiều sanh
diệt không dừng, cái thấy biết thì muốn lưu lại ở thế gian, mà nghiệp vận
chuyển thường đổi dời nơi các cõi. Hai thứ đan dệt với nhau mà vọng thành, đó
là lớp thứ tư gọi là chúng sanh trược.
Mới nghe thấy dường như
khó hiểu, nhưng nghiệm kỹ thì thật là hay. Thân chúng ta sớm chiều đổi thay,
sanh diệt không dừng, nghiệp đẩy đi các cõi, mà tâm thì muốn giữ cho còn mãi ở
thế gian. Hai thứ này mâu thuẫn, đan dệt nhau thành chúng sanh trược.
Tâm chúng ta luôn luôn
mang tính chất mâu thuẫn, mâu thuẫn nội tại, mâu thuẫn với bản thân. Chúng ta
muốn sống hoài, mà mỗi ngày qua thân mỗi già mòn, ngày tháng cứ trôi, tuổi đời
chất chồng rồi cái chết đến. Do không được tự tại, muốn sống mà phải chết, đó
là nỗi đau khổ của chúng sanh, nên gọi là chúng sanh trược. Khi thân tứ đại tan
hoại thì nghiệp lôi đi cõi khác. Cũng do tâm luyến ái muốn giữ thân mà sanh trở
lại. Mang thân nào cũng muốn giữ, rồi lại tạo nghiệp để bị nghiệp cuốn lôi. Cứ
như vậy mà tạo nghiệp sanh tử hoài hoài, chúng sanh trược mãi mãi không dứt.
Như chúng ta có khi hiền lành cũng có lúc hung dữ, có khi nghĩ thiện cũng có
lúc nghĩ ác. Hiền và dữ không hợp nhau, thiện ác đối nghịch không thuận chiều.
Đó là những hiện tượng mâu thuẫn nội tại không bao giờ hết, đưa đến khổ nên gọi
là chúng sanh trược.
Thấy nghe của các ông,
tánh vốn không khác, do các trần làm ngăn cách, vô cớ sanh ra khác. Trong tánh
thì biết nhau, nhưng trong dụng lại trái nhau. Đồng và khác mất đi chuẩn đích,
đan dệt nhau vọng thành lớp thứ năm, gọi là mạng trược.
Các thấy nghe hiểu biết
của chúng ta, tánh không khác nhưng vì các trần cảnh làm ngăn cách rồi vô cớ
thành khác: mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm... Đoạn sau
đức Phật hỏi ngài A-nan: "Nếu sáu căn quyết định là sáu, thì khi ta vì ông
nói pháp, trong sáu căn ông lấy cái gì lãnh thọ?" Ngài A-nan trả lời:
"Con dùng tai nghe." Phật bảo: "Nếu tai tự nghe thì đâu quan hệ
gì đến thân và miệng. Tại sao miệng lại hỏi nghĩa lý, thân đứng dậy kính
vâng?" Như vậy nếu nghe là riêng của lỗ tai thì đâu dính tới mấy căn kia?
Nhưng nghe rồi thì mấy căn kia hoạt động theo, như vậy tánh thật đâu có khác.
Như khi thấy người khác
nhai trái me. Thấy đó là con mắt, con mắt thèm thì con mắt ra nước mắt, tại sao
lưỡi lại chảy nước miếng? Như vậy rõ ràng là có liên hệ với nhau chứ không phải
tách biệt. Trên thể tánh là đồng, còn kẹt nơi tướng thì có phân chia, trong
tánh thì biết nhau nhưng nơi dụng lại trái nhau, mắt không thể nghe, tai không
thể thấy... Mỗi căn có chỗ hợp riêng, rồi có tác dụng khác. Từ đó đồng và khác
mất đi chuẩn đích. Hai cái này mâu thuẫn, vừa đồng vừa khác, đan dệt với nhau
vọng thành lớp trược thứ năm gọi là mạng trược.
Tóm lại, ngũ trược là
năm lớp do hư vọng hòa hợp mà thành: Từ cái thấy và hư không hòa hợp thành kiếp
trược. Tứ đại hòa hợp với thấy nghe hiểu biết thành kiến trược. Ý thức ghi nhớ
việc này việc kia, hợp với sáu trần mà thành phiền não trược. Nghiệp thì dời
đổi, tâm và thân luôn luôn đổi thay, mà trong lòng cứ muốn giữ còn hoài, hai
cái đó kết với nhau thành chúng sanh trược. Tánh thì đồng, dụng lại khác, đan
kết nhau thành mạng trược.
Giải thích ngũ trược
rồi, đức Phật dạy chúng ta tu:
Này A-nan, nay ông muốn
khiến thấy nghe hiểu biết xa hợp với Thường Lạc Ngã Tịnh của Như Lai, trước
phải chọn ra cội gốc sanh tử, nương nơi tánh chẳng sanh diệt, thành tựu tánh
lặng lẽ trùm khắp. Dùng tánh lặng lẽ xoay cái sanh diệt hư vọng kia trở về bản
giác. Được tánh giác không sanh diệt sáng suốt sẵn có làm tâm tu nhân, sau sẽ
thành tựu viên mãn quả địa tu chứng.
Thân và thức là sanh
diệt, nhưng trong đó có mang sẵn tánh viên trạm không sanh diệt. Hiện tại nơi
chúng ta ai cũng có thấy nghe hiểu biết, nếu chạy theo vọng thức phân biệt sự
vật, đó là hòa hợp với ngoại cảnh, là tướng sanh diệt. Vì vọng thức là phân
biệt, mà phân biệt là động, đó là cội gốc của sanh tử.
Bây giờ tu, phải nương
tánh giác không sanh diệt tròn lặng sẵn có. Ngay nơi thấy nghe... đều có phần
không sanh diệt và phần sanh diệt. Như khi mắt nhìn qua thấy tất cả đại chúng,
giai đoạn đó chưa có thức phân biệt, nhìn biết tổng quát đó không động. Rồi
khởi phân biệt đây là A là B, là tốt là xấu... lúc đó là động. Không động gọi
là viên trạm, động gọi là thức. Thức thì sanh diệt, viên trạm không sanh diệt.
Nếu muốn tu đến chỗ
không sanh diệt, phải dùng phần lặng lẽ ở mắt, tai, mũi, lưỡi... làm nhân tu,
xoay cái sanh diệt hư vọng trở về với tánh giác ban đầu. Đó là lấy không sanh
diệt làm nhân tu hành, thì mới chứng được quả không sanh diệt. Nếu dùng thức
sanh diệt để tu, không bao giờ được quả không sanh diệt.
Cho nên các thiền sư
thường nói "thấy như mù, nghe như điếc". Tại sao nghe mà như điếc?
Bởi vì nghe mà không khởi phân biệt, tức không có dụng sanh diệt của thức. Nghe
chỉ là nghe, đó là tánh viên trạm ở tai. Thấy chỉ là thấy, không khởi phân
biệt, đó là tánh viên trạm ở mắt. Các ngài sống với sáu căn trong lặng hồn
nhiên, lấy đó làm nhân tu thì mới đến được quả bất sanh bất diệt. Nên nói các
thiền sư giống như trẻ thơ, nghĩa là hồn nhiên thấy nghe, đói ăn mệt nghỉ.
Ở đoạn trước Phật có nói
mặt trăng thứ hai kế cận với mặt trăng thật, do ấn mắt mà thấy mặt trăng lòe ra
có cái thứ hai. Nếu nhìn xuống bóng trăng dưới nước thì không bao giờ thấy mặt
trăng thật, còn mặt trăng thứ hai kế cận trăng thật, rất gần. Bóng trăng dụ cho
thức phân biệt sanh diệt, còn mặt trăng thứ hai dụ cho tánh sáng suốt trong
lặng bị tứ đại phân cách. Từ tánh viên trạm tròn đầy mà phân cách từng phần.
Bây giờ lấy từng phần của tánh viên trạm đó, xoay trở về hoàn toàn nguyên thể
của nó là được quả chứng. Như vậy nhân với quả mới phù hợp nhau.
Hiểu như vậy mới thấy
thiền rất phù hợp với kinh. Học thiền mà không học kinh là một khuyết điểm lớn,
không biết tu cách nào, không biết đang tu tới đâu. Chúng ta thường nói tánh
thấy tánh nghe là thật, nhưng có khi các thiền sư cũng quở là chưa phải, đó chỉ
là cái nhân thôi, chưa phải chỗ cứu cánh. Dù nhận ra mình có cái thấy nghe
không sanh diệt, cũng chỉ mới là nhân ban đầu, quả cứu cánh vẫn còn xa.
Khi nói về ngũ trược,
đức Phật đã vạch ra trong đó cái gì là hư là thật, là sanh diệt là không sanh
diệt, mỗi người chọn lấy một nhân để ứng dụng tu. Đến đây Phật lại chỉ cách tu
hết sức đơn giản và cụ thể rõ ràng.
Như lóng nước đục, đựng
trong một món đồ để yên, để yên lâu không động thì cát đất tự chìm xuống, nước
trong hiện ra, gọi là bước đầu hàng phục khách trần phiền não.
Đây là chặng thứ
nhất, dẹp khách trần phiền não. Những thấy nghe hiểu biết đan
kết với ngoại trần, thành ra ngàu đục. Tâm duyên theo ngoại cảnh rồi sanh buồn
thương giận ghét, đó là phiền não. Do chạy theo ngoại cảnh mà phiền não khởi,
nên gọi là khách trần phiền não. Khi tu phải dừng vọng, không chạy theo nữa, để
cho nó lặng xuống, yên tĩnh lâu rồi tâm được sáng suốt. Đó là giai đoạn một,
dẹp được lớp phiền não ban đầu, không bị ngoại cảnh lôi cuốn nữa.
Khi ta ngồi yên một lát
mà không có niệm nào, đó là mới tạm lặng, như bụi đất mới lắng xuống đáy lu
thôi, nếu quậy thì nó cũng đục trở lại. Bởi vậy khi ngồi thiền được yên hoặc
lúc ở trong thất tâm an tịnh, thấy tánh thiện quá, cả ngày không có tí phiền
não nào, tưởng đâu là hay rồi. Nhưng sau đó thì đâu cũng vào đấy, gặp việc vẫn
sân si như cũ. Khi không động thì yên lắng, lúc động vọng niệm liền nổi lên,
đây mới là giai đoạn một, chưa được trọn vẹn.
Kế lọc bỏ bùn đất, còn
toàn là nước trong, gọi là hằng đoạn cội gốc vô minh.
Đây là giai đoạn thứ
hai, hằng đoạn cội gốc vô minh. Khi nước đá lóng trong, dưới
đáy là bùn đất, chúng ta gạn nước trong qua một món đồ khác, bỏ đi phần cặn
đục. Bây giờ nước hoàn toàn trong, dù có quậy cũng không đục lại. Đó mới gọi là
dứt được cội gốc vô minh. Đây chỉ cho những người tu tâm đã hoàn toàn thanh
tịnh, mọi thứ phiền não đều tiêu sạch.
Tướng sáng suốt tinh
thuần, tất cả biến hiện mà không bị phiền não, đều hợp với diệu đức thanh tịnh
của Niết-bàn.
Đến giai đoạn thứ ba,
nước hoàn toàn trong, hiện rõ cây cối trời mây. Lúc đó dù làm tất cả Phật sự,
lo tất cả việc thế gian, tâm vẫn không bị phiền não dấy động, hợp với
diệu đức thanh tịnh Niết-bàn. Đây là giai đoạn viên mãn, diệu dụng bất
tư nghì.
Như vậy, phải qua ba
giai đoạn chứ không phải một. Ngồi tu được yên chưa phải là xong, chừng nào
đụng chạm u đầu sứt trán vẫn cười, không một chút phiền não thì khả dĩ được
giai đoạn thứ hai. Đến lúc làm tất cả Phật sự, cứu giúp chúng sanh không mệt
mỏi, làm gì cũng hợp với diệu đức Niết-bàn mới thật là viên mãn.
Ba giai đoạn như vậy,
chúng ta học rồi mới thấy rõ con đường tu của mình, biết mình đang ở chặng nào.
Nếu không học, nhiều khi tu được chút ít đã tưởng mình là thánh rồi hài lòng,
tự khen. Bao nhiêu người tu lạc lối không đến nơi là tại chỗ đó. Do vậy những
ai muốn tu, cần phải học cho thật kỹ lời Phật dạy, để biết rõ đường lối tu, khi
tu mới không ngại, không sợ bị lạc.
2. Cội gốc phiền não
Nghĩa thứ hai là, các
ông ắt muốn phát tâm Bồ-đề, đối với Bồ-tát thừa sanh đại dõng mãnh, quyết định
dẹp bỏ các tướng hữu vi, phải nên xét kỹ cội gốc phiền não. Cội gốc này phát
nghiệp và nhuận sanh, từ vô thủy đến nay, ai làm ai chịu? Này A-nan, ông tu đạo
Bồ-đề, nếu không xem xét cội gốc phiền não thì không thể nào biết căn trần hư
dối điên đảo ở chỗ nào. Chỗ điên đảo còn không biết thì làm sao mà hàng phục để
vượt quả vị Như Lai!
Cội gốc phát ra nghiệp
là vô minh, gọi là phát nghiệp vô minh, tức do mê lầm mà khởi
nghiệp. Khởi nghiệp rồi ái thủ hữu tiếp nối làm cho tương tục gọi là nhuận
sanh vô minh, tức thấm ướt hạt giống của quá khứ khiến chúng hiện hành.
Chúng ta phải biết rõ
căn bản phiền não từ đâu phát, phát ra như thế nào, ai tạo ra và chịu kết quả
của nó? Nếu không biết được cội gốc phiền não thì không thể biết được căn trần
hư dối điên đảo ở chỗ nào. Chỗ điên đảo còn không biết huống là hàng phục được
điên đảo, không hàng phục được điên đảo thì làm sao đạt quả vị Phật.
Này A-nan, ông xem ở thế
gian, người mở gút nếu không thấy được chỗ thắt gút, làm sao biết mở?
Mở là giải, giải được
thì thoát. Kết phược tức phiền não cột trói, giải thoát là mở những cột trói
đó. Chúng ta tu muốn giải thoát cần phải biết cái gì cột trói, cột trói ở chỗ
nào. Nếu không thấy chỗ thắt gút thì không tài nào mở được.
Chẳng từng nghe nói hư
không bị ông làm cho tiêu hoại. Vì sao? Vì hư không có hình tướng nên không có
thắt mở. Hiện nay mắt tai mũi lưỡi thân ý của ông, sáu thứ đó làm môi giới cho
giặc, tự cướp gia bảo của ông. Do đây từ vô thủy chúng sanh trong thế giới sanh
ra những trói buộc nơi khí thế gian, không thể nào vượt khỏi được.
Sáu căn mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân và ý làm môi giới cho giặc, cướp của báu nhà mình. Bản tâm trong
sáng của chúng ta bị sáu thứ này dẫn giặc vào cướp. Mắt vừa thấy hình sắc liền
khởi phân biệt bị sắc dẫn đi. Tai nghe tiếng khởi phân biệt, mũi lưỡi thân ý
duyên theo các trần, bị cột trói nơi trần cảnh quên mất bản tâm viên trạm, nên
nói là mất của báu nhà mình.
Sáu căn đuổi theo sáu
trần là cội gốc phiền não. Nếu không biết cội gốc phiền não thì làm sao tu
được, vì vậy Phật dạy ngay nơi sáu căn mà tu. Mắt thấy sắc không đuổi theo sắc
khởi phân biệt là tu về nhãn căn. Tai nghe tiếng không khởi phân biệt theo
tiếng là tu về nhĩ căn v.v... Đó là trở về, còn đuổi theo là gốc phiền não.
Người nào đuổi theo sắc
thanh hương... thì người đó phiền não dài dài không bao giờ hết. Nghiệm lại xem
tất cả chúng ta vui buồn từ đâu mà ra? Vui từ những điều được thỏa mãn, buồn vì
không như ý. Như mắt vừa thấy sắc đẹp, ý liền khởi ham muốn được có. Được thì
vui, không được thì buồn. Nhưng khi được rồi lại sợ bị mất, nên chăm chăm gìn
giữ sanh lo âu phiền khổ. Nếu mất mát thì phiền não nhiều hơn. Chưa được thì
phiền não, được rồi cũng phiền não, mất đi càng phiền não, cả ba thời đều phiền
não.
Tóm lại, sáu căn là gốc
của phiền não nên phải ngay đó mà mở. Do chỗ thắt gút này mà từ vô thủy cho tới
ngày nay chúng sanh bị trói buộc nơi khí thế gian không gỡ ra được, cứ quanh đi
quẩn lại trong vòng luân hồi, tiếp nối liên tục không dừng, không thể nào vượt
ra khỏi.
Này A-nan, thế nào gọi
là chúng sanh và thế giới? Thế là dời đổi, giới là phương vị (chỗ nơi). Nay ông
nên biết các phương: đông, tây, nam, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc,
phương trên, phương dưới là giới. Quá khứ, hiện tại, vị lai là thế. Phương vị
có mười, số lưu chuyển của thời gian có ba. Tất cả chúng sanh đan dệt các hư
dối mà cùng thành, trong thân đổi dời, thế và giới liên quan nhau. Tánh giới
này tuy đặt ra có mười phương, định vị rõ ràng, nhưng người thế gian chỉ nói
phương đông, phương tây, phương nam, phương bắc. Phương trên, phương dưới vị
trí không rõ ràng, còn ở giữa thì không có chỗ nhất định.
Thế là thời gian, có ba
thời quá khứ, hiện tại và vị lai. Giới là không gian, gồm đủ mười phương, tuy
nhiên người thế gian chỉ sử dụng có bốn phương, còn phương trên phương dưới
không lập, khoảng giữa thì không có vị trí nhất định. Chúng ta thường nghĩ trên
là trời dưới là đất, nhưng trái đất đang quay thì trên và dưới làm sao xác
định, cho nên chỉ nói có bốn phương. Như vậy nói thế giới là gồm cả không gian
và thời gian.
Số bốn ắt đã rõ, hợp
cùng với thế, ba nhân bốn, bốn nhân ba, xoay vần thành mười hai. Chuyển biến ba
lớp: từ một thành mười hai, thành trăm, thành ngàn. Tổng quát trước sau, trong
sáu căn, mỗi căn có một ngàn hai trăm công đức.
Đức Phật chọn căn cho
chúng ta tu, tức là chọn cửa để chỉ chỗ vào. Mỗi căn có một ngàn hai
trăm công đức, căn nào đầy đủ gọi là viên mãn.
Này A-nan, trong sáu căn
đó, ông lại xét định xem chỗ hơn kém. Như con mắt xem thấy phía sau thì tối,
phía trước sáng, phía trước hoàn toàn sáng, phía sau hoàn toàn tối. Nhìn sang
hai bên phải trái thì được hai phần ba. Nói chung, công đức tạo thành không
được hoàn toàn: ba phần là công, còn một phần không có đức. Nên biết nhãn căn
chỉ có tám trăm công đức.
Con mắt chúng ta nhìn
phía trước thấy toàn vẹn, phía sau không thấy gì, nhìn ngang hai bên chỉ thấy
hai phần ba. Vậy nên nhãn căn chỉ được tám trăm công đức.
Như lỗ tai nghe khắp
mười phương không sót, động thì như có gần có xa, tịnh thì không bờ mé. Nên
biết nhĩ căn tròn đầy một ngàn hai trăm công đức.
Tiếng động xa nghe nhỏ,
gần nghe to, yên tịnh thì nghe không giới hạn, đều nghe được tất cả không bị
trở ngại ở phía nào. Vì vậy nhĩ căn đủ một ngàn hai trăm công đức.
Như lỗ mũi ngửi mùi, hơi
thở ra vào thông suốt. Có ra có vào mà thiếu khoảng giữa. Nghiệm xét căn mũi ba
phần thiếu một. Nên biết tỹ căn chỉ có tám trăm công đức.
Khoảng giữa là chỗ dừng
giữa hơi thở ra và hơi thở vào, vì vậy hơi thở ra có vào nhưng thiếu chặng giữa
nên tỹ căn chỉ có tám trăm công đức.
Như cái lưỡi tuyên nói
tột cùng trí tuệ thế gian và xuất thế gian. Lời nói có chừng hạn nhưng nghĩa lý
thì không cùng tận. Nên biết thiệt căn tròn đủ một ngàn hai trăm công đức.
Vì thiệt căn sử dụng
được tròn đủ một ngàn hai trăm công đức, nên những vị tu hành thuyết pháp như
ngài Phú-lâu-na... đều có công đức lớn.
Như thân cảm giác xúc
chạm, biết sự trái thuận, khi hợp thì hay biết, lúc lìa ra không biết. Lìa ra
chỉ có một, hợp thì có hai. Nghiệm xét thân căn, ba phần thiếu một. Nên biết
thân căn chỉ có tám trăm công đức.
Khi tay nắm bả vai thì
tay biết, bả vai cũng biết, đó là hợp thì có hai. Lúc lìa ra không
biết nên nói lìa ra chỉ có một. Thế nên thân căn chỉ
có tám trăm công đức.
Như ý căn thầm lặng dung
chứa tất cả pháp thế gian xuất thế gian trong mười phương ba đời. Dù phàm hay thánh
cũng đều bao dung, tột cùng không có bờ mé. Nên biết ý căn tròn đủ một ngàn hai
trăm công đức.
Ý nghĩ về Phật liền thấy
Phật, nghĩ về chúng sanh liền thấy chúng sanh, ý nghĩ cái gì thì hiện cái ấy
nên nói bao dung, tột cùng không có bờ mé. Vì vậy ý căn có đủ một
ngàn hai trăm công đức.
Phật phân tích kỹ, tai
lưỡi và ý đủ một ngàn hai trăm công đức, còn mắt mũi và thân chỉ có tám trăm
công đức, để chúng ta biết rõ mà chọn căn tu tập.
Này A-nan, nay ông muốn
ngược dòng sanh tử, trở lại cùng tột cội gốc lưu chuyển, đến chỗ không sanh
diệt, thì phải nghiệm xét sáu căn đang thọ dụng này, cái gì hợp cái gì ly, cái
gì sâu cái gì cạn, cá gì viên thông cái gì không viên mãn. Nếu hay nơi đây ngộ
được căn viên thông, ngược dòng nghiệp hư dối đan dệt từ vô thủy, được theo
tính viên thông thì cùng với sự tu tập nơi căn không viên thông kết quả gấp
bội, một ngày bằng một kiếp.
Tu căn viên thông một
ngày bằng tu căn không viên thông một kiếp, cho nên Phật chỉ ra căn nào viên
thông để chúng ta tu không mất thời gian, còn các căn không viên thông tu cũng
được nhưng chậm.
Nay ta hiển bày đầy đủ
số lượng những công đức vốn có của sáu căn lặng lẽ tròn sáng như thế. Tùy ông
khéo chọn lựa cái nào có thể vào, ta sẽ phát minh khiến cho ông tăng tiến.
Học kinh Lăng-nghiêm
chúng ta thấy đường hướng tu hành có cội nguồn rõ ràng, Phật và Tổ chỉ dạy
không khác, đều lấy nhân vô sanh để đi tới quả vô sanh.
Niệm dấy lên liền thấy
biết niệm, niệm là ý sanh diệt còn thấy được niệm là tánh biết. Vọng khởi rồi
mất chứ cái biết vọng không mất, đây là trở lại tánh thật của chính mình, đó là
tu ngay ý căn. Như vậy thiền mà chúng ta đang tu chính là chọn ý căn viên
thông, lấy đó làm nhân để tu cho tới viên mãn hạnh quả.
Ngài Huệ Khả thưa với tổ
Bồ-đề-đạt-ma: Tâm con không an, xin Hòa thượng dạy con pháp an tâm. Tổ bảo: Đem
tâm ra ta an cho. Ngài Huệ Khả sửng sốt, xoay lại tìm tâm bất an không thấy.
Tâm lăng xăng bất an ấy là ý. Ý dấy niệm là động, còn cái biết tìm lại nó thì
không động. Đây chính là pháp tu ý căn viên thông, nghĩa là thấy rõ những niệm
sanh khởi của ý thức, bởi cái thấy này là phần viên trạm của ý.
Các đức Như Lai trong
mười phương đối với mười tám giới, mỗi giới tu hành đều được viên mãn Vô thượng
Bồ-đề, ở trong các giới kia cũng không có hơn kém. Chỉ vì ông hạ liệt, chưa thể
ở trong đó được tròn đủ tuệ tự tại, nên ta mới nêu bày khiến cho ông chỉ cần
thâm nhập nơi một căn. Vào được một căn không còn vọng tưởng, thì sáu căn hiểu
biết kia đồng thời được thanh tịnh.
Chư Phật trong mười tám
giới, giới nào cũng tu được, viên mãn không trở ngại. Ngài A-nan và chúng sanh
đời mạt pháp do căn tánh hạ liệt nên phải nương một cửa để vào, nơi một căn
không còn vọng tức sáu căn kia đồng thời thanh tịnh. Hiện nay chúng ta tu nhìn
thẳng chỗ niệm khởi, khi niệm lặng rồi ý căn thanh tịnh thì năm căn kia cũng
đồng thanh tịnh. Như nhà có sáu cửa, không thể vào sáu cửa một lượt nên phải
chọn một cửa để vào nhà.
Phật nêu lên hai nghĩa
quyết định, người tu không thể thiếu:
- Nghĩa quyết định thứ
nhất, phải biết lựa chọn nhân bất sanh bất diệt, tương xứng với quả Bồ-đề bất
sanh bất diệt.
- Nghĩa quyết định thứ
hai, phải biết căn bản phiền não xuất phát từ sáu căn. Trong sáu căn mỗi căn
lại có hai phần, một phần là thức sanh diệt đuổi theo sáu trần, một phần là
tánh viên trạm tròn lặng không sanh diệt, gọi là tánh thấy nghe. Nếu chạy theo
thức thì sáu căn là cội gốc của phiền não, còn biết tu thì nơi sáu căn xoay lại
chỗ viên trạm của nó, tức là lấy nhân không sanh diệt làm chỗ tu chứng trở về
giác ngộ, được quả vị Như Lai. Như vậy sáu căn là môi giới của giặc, sáu căn
cũng là chỗ để trở về giác ngộ.
Chúng ta thấu hiểu những
lời Phật dạy liền thấy rõ đường mình đi. Nếu tu mà không biết được nhân nào đưa
đến quả đúng như sở nguyện của mình, không biết cội gốc phiền não ở đâu thì làm
sao tu, làm sao dẹp. Không biết tu không biết dẹp vậy tu để thành cái gì? Cho
nên nói có đầy đủ Bồ-đề Niết-bàn, chân như Phật tánh... nhưng nếu không biết
cội gốc tu hành thì làm sao được Bồ-đề Niết-bàn? Chẳng khác nào nói thức ăn
ngon mà không ăn nên bụng vẫn đói. Vì vậy tu hành phải thực tế, phải nắm vững
đâu là gốc của sự tu.
Ở những kinh khác, Phật
nói cội gốc phiền não là vô minh, tức nhằm vào căn bản vô minh. Trong kinh này
Phật nói cội gốc phiền não là sáu căn, tức nhằm vào nhuận sanh vô minh. Nhuận
là thấm ướt, sanh là phát sanh, tức những phiền não lầm mê thấm ướt hạt giống
của quá khứ, giúp cho tăng trưởng khiến sanh ra hiện hành. Nếu chuyển được sáu
căn thì cội gốc phiền não không còn.
A-nan bạch Phật rằng: -
Bạch Thế Tôn, thế nào là ngược dòng vào sâu trong một căn, hay khiến cho sáu
căn đồng thời thanh tịnh?
Ngược dòng tức không
chạy theo duyên trần bên ngoài, mà trở về với tánh nghe tánh biết của mình, khi
ngược dòng vào sâu trong một căn thanh tịnh thì sáu căn cũng đồng thời thanh
tịnh.
Phật bảo A-nan:
- Nay ông đã được quả
Tu-đà-hoàn, đã diệt trừ những mê lầm kiến chấp của chúng sanh và thế gian trong
ba cõi, do thấy đạo mà dứt (kiến sở đoạn), nhưng vẫn chưa biết những tập khí hư
vọng chứa nhóm trong căn từ vô thủy. Những tập khí hư vọng kia, phải nhân tu
mới đoạn được (tu sở đoạn).
Chứng quả Tu-đà-hoàn
thấy được đạo nên hết những mê lầm kiến chấp. Ngài A-nan nhờ nghe Phật giảng
dạy mà ngộ được pháp thân, đó cũng thuộc về kiến sở đoạn. Nghĩa
là những cái thấy điên đảo từ trước đến ngang đây đứt. Như lâu nay chúng ta thường
nghĩ thân này vô thường hoại diệt là hết, nhưng bây giờ nghe Phật dạy tánh thấy
nghe không mất, chúng ta nhận được liền dứt trừ được chỗ thấy điên đảo, không
còn mê lầm. Đó gọi là đoạn kiến hoặc.
Tuy dứt trừ kiến hoặc
không còn thấy điên đảo mê lầm, nhưng tập khí tham sân si huân tập từ trước đến
nay vẫn chưa hết, tức là tư hoặc chưa đoạn, phải nhờ công phu tu tập mới loại
trừ lần lần, đây gọi là tu sở đoạn. Đoạn được kiến hoặc chứng
Tu-đà-hoàn còn phải bảy lần trở lại tu tập tiếp nữa mới sạch hết phiền não,
chứng A-la-hán.
Huống nữa, trong đây sự
phân chia số mục sanh trụ dị diệt còn rất nhiều.
Trong đây chỉ cho ba cõi thế gian, phân chia số mục của
những pháp sanh, trụ, dị, diệt còn rất nhiều, ngài A-nan cũng
chưa biết.
Nay ông hãy xem xét, sáu
căn hiện tiền là một hay là sáu? Này A-nan, nếu nói là một thì lỗ tai sao chẳng
thấy, con mắt sao chẳng nghe, đầu sao chẳng đi, chân sao chẳng nói? Nếu sáu căn
này quyết định thành sáu, thì như nay ta ở trong hội vì các ông tuyên dương
pháp môn vi diệu, vậy trong sáu căn của ông, cái nào đến lãnh thọ?
A-nan thưa: - Con dùng
lỗ tai để nghe.
Phật bảo: - Tai ông tự
nghe, đâu quan hệ gì đến thân và miệng, mà miệng lại hỏi nghĩa, còn thân đứng
lên cung kính?
Nói một không được, sáu
cũng không được. Lâu nay chúng ta cứ nhìn một chiều, hoặc là một hoặc là sáu.
Nếu sáu căn cách biệt thì cái nào có phận sự cái ấy, nhưng nay tai vừa nghe,
miệng liền hỏi, tức cái này có liên hệ với cái kia, làm sao nói sáu căn riêng
biệt được.
Thế nên phải biết: chẳng
phải một mà trọn là sáu, chẳng phải sáu mà trọn là một. Rốt cuộc các căn của
ông vốn chẳng phải một hay là sáu.
Có thể là một mà cũng có
thể là sáu, không cố định. Nếu chấp cố định là đã sai lầm.
A-nan, nên biết căn ấy
chẳng phải một chẳng phải sáu. Do từ vô thủy đến nay điên đảo trầm luân, nên
nơi tánh viên trạm (lặng lẽ trùm khắp) sanh ra nghĩa một và sáu.
Từ vô thủy đến nay, do
những điên đảo trầm luân, mà nơi tánh viên trạm chân thật trong sạch sáng suốt
của chính mình sanh ra nghĩa sáu. Thế nên phải một cũng không phải sáu. Nói sáu
là nói về dụng, còn nói một là nói trên thể. Nhưng sự thật, thể cũng không phải
là một.
Ông đã chứng quả
Tu-đà-hoàn, tuy đã tiêu được chấp sáu nhưng vẫn chưa quên một. Như hư không
rộng lớn lẫn trong các món đồ, do hình trạng các đồ vật sai khác mà nói hư
không khác nhau. Nếu bỏ các đồ vật, xem hư không, thì nói hư không là một. Hư
không rộng lớn kia làm sao vì ông mà thành đồng hay chẳng đồng, huống nữa lại
gọi là một, chẳng phải một! Ắt ông biết rõ sáu căn thọ dụng cũng lại như thế.
Ngài A-nan tuy đối với
sáu biết là không thật nhưng vẫn còn nghĩ là một, nên đức Phật dùng ví dụ cụ
thể để chỉ. Như hư không rộng lớn, nếu để các đồ vật vuông, tròn, lớn, nhỏ...
thì thấy hư không có vuông, tròn, lớn, nhỏ. Hư không vốn không vuông tròn mà
trở thành vuông tròn vì bị hạn cuộc trong món đồ. Bởi có năm, sáu món đồ nên
thấy năm, sáu hư không khác nhau.
Khi dẹp hết những món đồ
ấy, chúng ta lại nghĩ hư không là một. Đó cũng là tưởng chấp của mình. Do đối
với sáu nên nói một, chứ khi dẹp hết những món đồ thì hư không trùm khắp, không
phải sáu, không phải một. Tánh giác cũng vậy, tròn đầy khắp giáp, nhưng khi bị
cột dính với sáu căn trong vòng luân hồi thì tánh giác thênh thang đó biến
thành những cái biết khác nhau. Biết ở mắt, biết ở tai, biết ở mũi, biết ở lưỡi
v.v... Khi gỡ dính mắc nơi sáu căn rồi thì tánh giác không còn khác nữa. Hiểu
được lý này mới biết tại sao sáu căn là một mà cũng là khác.
Do hai thứ sáng tối hiển
bày nhau, ở trong tánh diệu viên làm dính khắn tánh trong lặng phát ra cái
thấy. Tánh thấy đó soi rọi nơi sắc kết với sắc thành căn. Gốc của căn gọi là tứ
đại thanh tịnh, nhân đó gọi hình thể con mắt, giống như trái nho. Căn thô phù
do bốn trần hợp thành này giong ruổi chạy theo sắc.
Do tối và sáng ở bên
ngoài bày hiện với nhau, làm dính khắn một phần tánh viên diệu, phát ra thành
cái thấy. Như vậy cái thấy có mang một phần của tánh viên diệu. Cái thấy soi
sáng sắc, kết hợp thành nhãn căn, khi thành nhãn căn rồi lại đuổi theo các sắc
trần. Đây lớp dính khắn thứ nhất.
Do hai thứ động tịnh đối
chọi nhau, ở trong tánh diệu viên làm dính khắn tánh trong lặng phát ra cái
nghe. Tánh nghe soi rọi nơi tiếng quyện với tiếng làm thành căn. Gốc của căn
gọi là tứ đại thanh tịnh, nhân đó gọi hình thể lỗ tai, giống như lá non cuộn
lại. Căn thô phù do bốn trần hợp thành này giong ruổi chạy theo tiếng.
Do hai thứ thông bít
phát hiện nhau, ở trong tánh diệu viên làm dính khắn tánh trong lặng phát ra
cái ngửi. Tánh ngửi ánh hiện nơi mùi hương thu nhận mùi mà thành căn. Gốc của
căn gọi là tứ đại thanh tịnh, nhân đó gọi hình thể lỗ mũi, giống như hai ngón
tay duỗi xuống. Căn thô phù do bốn trần hợp thành này giong ruổi chạy theo mùi.
Do hai thứ lạt và có vị
(đắng, ngọt, cay...) xen lẫn nhau, nơi tánh diệu viên làm dính khắn tánh trong
lặng phát ra cái nếm. Tánh nếm rọi sáng nơi vị kết với vị mà thành căn. Gốc của
căn gọi là tứ đại thanh tịnh, nhân đó gọi hình thể của lưỡi, giống như trăng
lưỡi liềm đầu tháng. Căn thô phù do bốn trần hợp thành này giong ruổi chạy theo
vị.
Do hai thứ lìa hợp cọ
xát nhau, nơi tánh diệu viên làm dính khắn tánh trong lặng phát ra cảm giác.
Tánh của cảm giác này soi sáng nơi xúc nắm xúc thành căn. Gốc của căn gọi là tứ
đại thanh tịnh, nhân đó gọi thân thể, như dáng cái trống cơm. Căn thô phù do
bốn trần hợp thành này giong ruổi chạy theo xúc.
Ngày xưa ở phường hát có
cái trống cơm, hai đầu lớn giữa eo nhỏ, nên nói thân mình giống cái trống cơm.
Do hai thứ sanh diệt
tiếp nối nhau, nơi tánh diệu viên làm dính khắn tánh trong lặng phát ra cái
biết. Tánh biết này soi sáng nơi pháp gom pháp trần thành căn. Gốc của căn gọi
là tứ đại thanh tịnh, nhân đó gọi ý suy nghĩ, như cái thấy trong nhà tối. Căn
thô phù do bốn trần hợp thành này giong ruổi chạy theo pháp trần.
Đó là sáu căn thành hình
từ hai cái đối đãi va chạm nhau, làm tánh diệu viên bị dính theo tứ đại phát
thành căn. Tuy có chung một tánh sáng suốt tròn đầy nhưng vì bị dính với trần
nên mỗi bộ phận có cái biết khác nhau, ở mắt thì thấy, ở tai thì nghe v.v...
Còn những ý nghĩ của chúng ta thì thường mờ mờ ảo ảo, như trong nhà tối lờ mờ
không thấy rõ.
Qua phần giải thích này,
đức Phật chỉ rõ cho thấy nơi sáu căn của chúng ta có dính một phần không sanh
diệt của tánh viên trạm. Cho nên đứng về tánh viên trạm thì không phải sáu,
nhưng do bị dính khắn nên có thấy nghe riêng biệt thành sáu. Khi mở được sự
dính khắn của sáu căn thì không còn sáu, nhưng lại tưởng là một. Sự thật sáu và
một là đứng trên đối đãi mà có, về nguyên thể là tánh giác tròn đầy trong lặng.
Phật diễn đạt chỗ này rõ
ràng để chúng ta nhận ra nơi mình có tánh viên trạm bị dính khắn ở sáu nơi. Sáu
căn không khu biệt từng phần mà có liên hệ bên trong. Do đó gỡ một căn thì mấy
căn kia đều thoát được, trở về tánh viên trạm trùm khắp, không còn bị dính khắn
nữa. Chúng ta chỉ có một phần nhỏ xíu của tánh viên trạm bị dính khắn nơi sáu
căn, gọi là thấy nghe hiểu biết. Vậy mà chúng ta hài lòng tự mãn với cái hiểu
biết của mình. Nếu gỡ được cái dính khắn đó, thoát ra thì tánh viên trạm trùm
khắp bất khả tư nghì.
Tu không phải là chuyện
nhỏ nhoi hẹp hòi, chỉ biết làm chút ít điều lành bỏ chút ít điều ác gọi là tu.
Tu không tầm thường như người thế gian thường nghĩ, mà phải làm sao gỡ được cái
dính khắn của sáu căn, trở về tánh viên trạm trùm khắp, đó mới là công phu tu
hành viên mãn. Nên nói, người tu phi thường ở chỗ làm một việc mà thế gian không
bao giờ hiểu nổi.
Người đời cứ hài lòng tự
mãn với chỗ thấy nghe hiểu biết của sáu căn, đến khi chết không biết sáu cái đó
đi về đâu, rồi tưởng là hết. Còn chúng ta biết rõ nơi sáu căn chỉ dính khắn một
phần nhỏ xíu của tánh viên trạm. Từ tánh viên trạm bị dính khắn nên kẹt ở sáu
căn mà có ra sáu cái hiểu biết. Nếu gỡ được thì sáu cái trở về thể của nó, lúc
đó mới trùm khắp nơi nào cũng có. Vậy mới thấy chỗ cứu cánh của đường tu.
Học kinh Lăng-nghiêm nếu
chỉ học suông trên chữ nghĩa thì không thấy cái hay, không biết đường tu, còn
hiểu cho thật thấu đáo sẽ thấy Phật dạy hết sức rõ ràng trong từng phần.
A-nan, như thế sáu căn
do tánh giác minh kia soi lại minh giác, làm mất cái rõ biết trong sáng kia,
dính khắn với vọng mà phát sáng.
Do bỉ giác minh hữu minh
minh giác. Giác minh tức tánh
biết vốn là bản giác, từ bản giác đó dấy vọng soi lại nó, vì vậy mà có năng sở.
Do có năng sở nên mất tánh rõ biết tinh thuần, dính nơi vọng mà phát ra sáng.
Thế nên nay ông lìa tối
và sáng thì không có cái thể thấy, lìa động và tịnh vốn không có nghe, không có
thông và bít thì tánh ngửi không sanh, khôn có vị và lạt thì cái nếm không từ
đâu ra, không có ly và hợp thì cảm xúc vốn không, không có sanh và diệt thì cái
rõ biết nương gá vào đâu!
Ông chỉ không theo động
tịnh, hợp ly, có vị và lạt, thông bít, sanh diệt, sáng tối, mười hai tướng hữu
vi như thế, tùy nhổ được một căn khỏi dính khắn, nhiếp phục vào trong, nhiếp
phục trở về tánh chân thật ban đầu, phát ra tánh sáng suốt sẵn có. Tánh sáng
suốt được phát minh thì năm căn bị dính khắn khác liền được nhổ sạch, hoàn toàn
giải thoát. Không do nơi tiền trần mà khởi thấy biết, cái sáng không theo căn,
chỉ nương nơi căn mà sáng phát ra, do đó sáu căn có thể dùng thay lẫn nhau.
Không theo mười hai
tướng hữu vi, tức là sáu căn không
dính với sáu trần. Nếu nhổ được một căn không chạy theo tiền trần thì trở về
tánh viên trạm liền được thanh tịnh. Trở về tánh viên trạm tức là nhổ được cái
gốc dính khắn từ trước, hễ một căn thông suốt thì năm căn kia cùng được giải
thoát. Lúc đó không đợi tiền trần mới có hiểu biết. Cái sáng đó là tánh chung,
không dính ở căn, chỉ gá nơi căn mà phát ra, nên có thể dùng thay thế lẫn nhau.
Con mắt có thể nghe, lỗ tai có thể thấy... gọi là lục căn hỗ dụng. Sỡ dĩ hiện
nay các căn của chúng ta mỗi cái có phận sự riêng là vì bị dính khắn trong đó.
Khi gỡ được dính khắn, xoay trở về thành cái thể chung rồi thì chỉ mượn căn mà
phát ra diệu dụng.
Đoạn này đức Phật chỉ
cho thấy, toàn thân chúng ta đều bị lệ thuộc vào trần cảnh, khi không có trần
cảnh thì nói là không thấy không nghe. Một khi rõ được tánh biết hằng hữu nơi
tai, có tiếng thì nghe có tiếng, không tiếng cũng nghe không tiếng, không kẹt
trong động và tịnh, đó là thoát ra được cái dính khắn của tai. Đối với mắt cũng
như vậy, không lệ thuộc nơi tối và sáng. Ý không lệ thuộc nơi dấy lên hay lặng
xuống, lúc nào cũng một tánh biết rõ ràng không sanh diệt. Các căn khác cũng
đều như vậy.
Mắt thấy tai nghe mà
không lệ thuộc vào động tịnh, khen chê không dính... Sống được như vậy tức ở
trong tự tánh định, nghĩa là hằng sống với tự tánh mình. Dù đi đâu, làm việc gì
cũng là ở trong định. Không lệ thuộc, không chạy theo trần cảnh cũng không đem
trần cảnh vào, hằng sống với tánh nghe tánh thấy của chính mình... gọi là
nghịch lưu, tức ngược dòng. Lúc ấy tâm luôn thanh tịnh không còn phiền não, lúc
nào cũng là thiền, đó là giải thoát.
A-nan, ông há không biết
hiện nay trong hội này, ông A-na-luật-đà không con mắt mà vẫn thấy.
Ngài A-na-luật-đà mắt mù
mà xem thấy tam thiên thế giới như xem trái cây trong lòng bàn tay. Con mắt hư
rồi làm sao thấy được, vậy ngài thấy bằng cái gì? Không có con mắt vẫn thấy như
thường, để chỉ lúc thoát sự dính khắn rồi thì sáu căn hỗ dụng, thiếu căn này
vẫn sử dụng được căn khác.
Rồng Bạt-nan-đà không có
tai mà vẫn nghe. Thần nữ Căng-già (thần sông Hằng) không có mũi mà vẫn ngửi
được hương. Ông Kiều-phạm-bát-đề lưỡi khác người mà biết vị.
Trong kinh nói
Kiều-phạm-bát-đề chứng A-la-hán, nhưng do đời trước tạo khẩu nghiệp nên lưỡi
ngài giống như lưỡi trâu. Lẽ ra lưỡi trâu thì biết vị theo trâu, vậy mà ngài
vẫn biết vị như mọi người.
Thần Thuấn-nhã-đa không
thân mà có cảm xúc, ở trong ánh sáng của Như Lai khiến tạm hiện ra thân, chứ
bản chất là gió, vốn không có hình thể. Trong hội này những vị Thanh văn đã
được tịch tịnh trong diệt tận định, như ông Ma-ha Ca-diếp từ lâu đã diệt sạch ý
căn mà vẫn rõ biết tròn sáng, không nhân nơi tâm niệm.
Thần Thuấn-nhã-đa là
thần hư không, vốn không có thân, nhờ ở trong hào quang của Phật ánh ra thì tạm
thấy có thân hiện, nhưng chỉ toàn là chất gió, vậy mà vẫn có cảm xúc. Có người
lo ngại, bây giờ còn suy nghĩ thì còn biết, khi tu hết suy nghĩ chắc hết biết
gì. Không ngờ chính do diệt được những sanh diệt của ý căn mà tánh viên minh
hằng rõ ràng sáng tỏ.
Này A-nan, nay các căn
của ông nếu đã nhổ sạch hoàn toàn thì cái sáng suốt bên trong phát sáng. Như
thế các trần thô ở bên ngoài và các tướng biến hóa trong thế gian, giống như
nước sôi làm tiêu băng, liền khi ấy hóa thành tri giác Vô thượng.
Như vậy muốn thành Vô
thượng giác thì chọn một căn viên thông, tu cho tới chỗ thanh tịnh không còn
dính kẹt nữa. Một căn thanh tịnh thì sáu căn kia cũng được thanh tịnh, tức đã
nhổ gỡ hết dính khắn, không còn chạy theo ngoại trần. Lúc đó trong tâm phát ra
sáng suốt, đối với các tướng biến hóa thế gian đều tiêu biến, giống như nước
sôi đổ lên nước đá không có gì chướng ngại ngăn trở, trong một niệm thành tri
giác Vô thượng, không phải chờ đợi xa xôi. Đó là lẽ thật của sự tu.
Sở dĩ chóng được giác
ngộ là vì nơi sáu căn có niêm một phần tánh giác. Phần chân thật bị niêm đó
chính là cái nhân không sanh diệt. Khi tu chúng ta xoay lại gỡ được cái dính
khắn đó thì trở về tánh giác ngay.
Đoạn trên, đức Phật ví
dụ về chư thần và chư vị A-la-hán, đến đây trở lại là nói về người thế gian.
Này A-nan, như người thế
gian kia tụ cái thấy nơi con mắt, nếu bảo họ nhắm mắt lại thì tướng tối hiện ở
trước, sáu căn tối mù, đầu và chân giống nhau. Người kia lấy tay rờ khắp ngoài
thân, tuy không thấy được mà một khi rờ đầu, chân đều biện biệt rõ, tri giác là
đồng.
Người ta thường nói thấy
ở mắt, nhưng nếu nhắm mắt lại rồi lấy tay rờ khắp thân, con mắt tuy không thấy
nhưng tay rờ tới đầu, tới chân đều biết, mà biết tức cũng như thấy. Cái biết
của tay và biết của con mắt không khác nhau. Đức Phật dùng ví dụ đó để chỉ ra
ngay nơi sáu căn có hỗ dụng.
Ngài Viên Trí Đạo Ngô
hỏi thiền sư Vân Nham:
- Đại Bi ngàn tay mắt,
vậy mắt nào là mắt chánh?
Thiền sư Vân Nham bảo:
- Như người ban đêm vói
tay ra sau mò chiếc gối.
- Tôi hội rồi.
- Hội thế nào?
- Khắp thân là tay mắt.
Bồ-tát Quán Thế Âm ngàn
tay ngàn mắt, hay tất cả mọi người chúng ta đều có ngàn tay ngàn mắt. Khi nhắm
mắt rờ đâu cũng thấy biết, như vậy nào phải chỉ mắt mới thấy. Hoặc khi nhắm mắt
nhưng nghe phía đông phía tây có tiếng nói vang lại, chúng ta vẫn biết đó là
tiếng người nam hay nữ, như vậy cũng là thấy. Hoặc như người mù thường có lỗ
tai thính, người điếc thì con mắt nhạy, chỉ cần nhìn miệng người nói là có thể
đoán ra, tức nghe bằng cái thấy. Như vậy khi cơ quan này hư thì cái biết phát
ra ở cơ quan khác.
Duyên của cái thấy nhân
nơi sáng, nên khi tối thành không thấy. Nếu chẳng có sáng mà tự phát cái thấy
thì các tướng tối trọn không thể làm mờ tối được. Căn trần đã tiêu thì làm sao
tánh giác minh không thành nhiệm mầu cùng khắp?
Chúng ta thấy được cảnh
là nhân nơi sáng, nên khi tối gọi là không thấy. Nếu không cần sáng mà tự phát
cái thấy, như khi nhắm mắt lại vẫn tự phát ra thấy biết thì thấy biết đó không
bị các tướng tối làm che mờ. Như khi chúng ta nhắm mắt, rờ tới đâu mình biết
tới đó, dù ở ngoài có đèn hay không đèn chúng ta vẫn biết. Như vậy sáng hay tối
cũng không liên hệ gì, không làm mờ hay tỏ hơn cái biết. Đức Phật chỉ rõ ngay
nơi mình có cái biết, cái biết đó như là cái thấy, không đợi phải có các trần
bên ngoài mới thấy. Khi sáu căn còn đuổi theo trần cảnh thì cái biết hạn chế.
Nếu đối với các trần chúng ta không thọ, không lệ thuộc, biết xoay sáu căn trở
về thì không mắc kẹt nơi trần cảnh, cái biết không còn bị hạn chế.
Khi căn trần đã
tiêu, tức là không còn bị dính kẹt nữa thì tánh giác sáng suốt
tròn khắp nhiệm mầu. Sở dĩ cái biết nơi chúng ta bị chia chẻ, mờ tối
là vì lệ thuộc vào căn trần. Nếu sống với cái hằng thấy hằng nghe... thì dù
sáng hay tối, có tiếng hay không tiếng... tánh biết vẫn thường sáng.
Hiểu chỗ này rồi niềm
tin của chúng ta vững chắc, quyết tâm trở về chỗ chân thật không còn nghi ngờ.
Nếu không hiểu cứ lo sợ không dùng tâm suy nghĩ e sẽ ngu khờ. Sự thật chính
đang suy nghĩ mới là ngu khờ, vì chỉ đuổi theo những tưởng sanh diệt. Khi buông
hết không nghĩ nữa, lúc đó mới rõ được tâm bất sanh bất diệt, đồng thời cũng có
thể tỏ sáng được tất cả. Như đức Phật, khi cần ngài có thể nhắc lại chuyện quá
khứ từ vô lượng a-tăng-kỳ kiếp cho đến bây giờ.
3. Thể nghiệm tánh chân
thường
A-nan bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn, như lời
Phật đã dạy, muốn cầu quả thường trụ, chỗ phát tâm tu nhân, cần phải hợp với
tên gọi của quả vị. Bạch Thế Tôn, như trong quả vị Bồ-đề, Niết-bàn, chân như,
Phật tánh, yêm-ma-la thức, Không Như Lai tạng, Đại viên cảnh trí, bảy thứ tên
gọi tuy có khác mà thể tánh thanh tịnh viên mãn, bền chắc như Kim cang vương,
thường trụ không hoại diệt.
Bồ-đề là
giác. Niết-bàn tức vô sanh. Chân như, chân thật
như như không biến đổi. Phật tánh tức tánh giác sáng
suốt. Yêm-ma-la thức (amala) là âm từ tiếng Phạn, Trung Hoa
dịch là Bạch tịnh thức, còn gọi là đệ cửu thức thứ chín. Trong Duy thức, thức
thứ tám gọi là a-lại-da tức tàng thức, gồm các chủng tử sanh diệt. Thức thứ
chín là Bạch tịnh thức hoàn toàn trong sạch, không còn chủng tử nhiễm tịnh đối
đãi, đến đây mới không sanh diệt. Không Như Lai tạng tức Như
Lai tạng xuất triền. Như Lai tạng được chia làm hai: Một là Như Lai
tạng tại triền, còn bị trói buộc bởi vô minh phiền não. Hai là Như
Lai tạng xuất triền, tức ra khỏi vô minh phiền não. Đại viên cảnh
trí là trí tuệ tròn sáng như gương. Bảy tên gọi này tuy tên khác nhưng
đồng một thế tánh thanh tịnh viên mãn, cứng chắc giống như Kim cang
vương thường trụ chẳng hoại.
Như ở đoạn đầu đức Phật
đã nêu, nếu muốn cầu quả Vô thượng bất sanh bất diệt thì phải từ nhân không
sanh không diệt, tức là nhân địa với quả địa phù hợp nhau. Quả địa thường trụ
thì nhân địa cũng phải thường trụ.
Nếu thấy nghe này lìa
sáng tối, động tịnh, thông bít, rốt ráo không có tự thể, cũng như tâm niệm rời
tiền trần vốn không thể có, tại sao lại đem cái rốt ráo đoạn diệt này dùng làm
nhân tu mà muốn được bảy quả thường trụ của Như Lai?
Phật dạy lấy sáu căn làm
nhân tu sẽ được bảy quả thường trụ. Nhưng sáu căn đợi có cảnh mới có thấy
nghe..., không cảnh thì liền không. Vậy nó là thứ tiêu mất, là đoạn diệt, làm
sao dùng làm nhân tu để đạt được cái không đoạn diệt?
Bạch Thế Tôn, nếu lìa
sáng tối thì cái thấy rốt ráo là không, như không có tiền trần thì tự tánh của
niệm bị diệt mất, tới lui xoay vần, suy xét thật kỹ, vốn không có tâm và tâm sở
của con, vậy đem cái gì để lập làm nhân mà cầu quả Vô thượng giác? Như Lai
trước có nói tánh trong lặng tròn đầy thường hằng; lời nói trái hẳn lẽ thật,
rốt cuộc thành hý luận, làm sao được gọi là lời nói chân thật của Như Lai? Vậy
cúi mong ngài khởi lòng đại từ khai mở chỗ mê lầm cho chúng con.
Ngài A-nan vẫn còn nghi,
sáu căn đợi có trần mới biết, rời trần ra không có biết, tức không thật, không
thường hằng. Nay đức Phật bảo lấy căn này tu để thành quả Phật bất sanh bất
diệt, làm sao có thể lấy cái nhân không thật, không thường để tu thành quả
thường trụ chân thật được? Như vậy lời Phật nói nơi mỗi người có tánh trạm viên
thường trụ là không đúng lẽ thật, trọn thành hý luận? Xin đức Phật thương xót
chỉ dạy cho.
Phật bảo A-nan:
- Ông học rộng nghe
nhiều nhưng các lậu hoặc chưa sạch, trong tâm chỉ biết suông cái nhân điên đảo,
còn điên đảo thật ở trước mắt còn chưa thể biết. Ta e ông vẫn chưa thành tâm
tin phục, nay thử đem các việc trần tục để trừ nghi cho ông.
Liền đó Như Lai bảo
La-hầu-la đánh một tiếng chuông, hỏi A-nan rằng: - Nay ông có nghe chăng?
A-nan và đại chúng đều
thưa: - Con có nghe.
Chuông dứt không còn
tiếng, Phật lại hỏi rằng: - Nay ông nghe chăng?
A-nan và đại chúng đều
thưa: - Không nghe.
Khi ấy La-hầu-la lại
đánh một tiếng chuông, Phật lại hỏi: - Nay ông có nghe chăng?
A-nan và đại chúng thưa:
Đều nghe.
Phật bảo A-nan: - Thế
nào là ông có nghe? Thế nào là ông không nghe?
A-nan và đại chúng đều
bạch Phật rằng:
- Tiếng chuông nếu đánh
lên thì con được nghe, đánh lâu tiếng chuông hết, âm hưởng đều dứt thì gọi là
không nghe.
Trước tiên Phật cho đánh
chuông hai lần để thử nghiệm rồi mới hỏi, kế đến Phật hỏi để ngài A-nan phải
xác nhận sao gọi là nghe, sao gọi là không nghe.
Như Lai lại bảo
La-hầu-la đánh một tiếng chuông, hỏi A-nan: - Hiện giờ có tiếng chăng?
A-nan và đại chúng đều
thưa: - Có tiếng.
Giây lâu tiếng dứt, Phật
lại hỏi:
- Hiện giờ có tiếng
chăng?
A-nan và đại chúng thưa:
- Không tiếng.
Lát sau La-hầu-la lại
đánh một tiếng chuông, Phật lại hỏi: - Hiện giờ có tiếng chăng?
A-nan và đại chúng đều
thưa: - Có tiếng.
Phật hỏi A-nan: - Ông
cho thế nào là có tiếng, thế nào là không tiếng?
A-nan và đại chúng đều
bạch Phật rằng:
- Tiếng chuông nếu đánh
lên thì gọi là có tiếng, đánh lâu tiếng hết, âm hưởng đều dứt thì gọi là không
tiếng.
Phật bảo A-nan và cả đại
chúng:
- Nay tại sao các ông
nói rối loạn như vậy?
Lại thêm hai lần đánh
chuông để xác nhận thật rõ thế nào là có tiếng, thế nào là không tiếng. Nhưng
đối với ngài A-nan và cả đại chúng thì nghe và tiếng cũng chỉ là một, cho nên
bị Phật quở.
A-nan và đại chúng đồng
thời bạch Phật:
- Nay vì sao Thế Tôn bảo
chúng con rối loạn?
Phật bảo: - Ta hỏi ông
về nghe thì ông đáp rằng nghe. Lại hỏi ông về tiếng thì ông đáp là tiếng. Chỉ
nghe với tiếng mà ông trả lời không nhất định, như vậy làm sao chẳng gọi là rối
loạn?
Đến đây chúng ta mới
thấy chỗ lầm lẫn của tất cả người thế gian chứ không chỉ một người. Chuông đánh
boong, hỏi nghe không, nói nghe. Tiếng chuông dứt, hỏi nghe không, nói không
nghe. Lại đánh boong, hỏi có tiếng không, nói có tiếng. Tiếng dứt, hỏi có tiếng
không, nói không tiếng. Như vậy tức là xác nhận nghe và tiếng là một. Nghe là ở
mình, còn tiếng là nơi chuông, nhưng lại lầm hai cái là một, nên Phật quở nói
như vậy là rối loạn.
A-nan, tiếng chuông dứt
không còn âm hưởng, ông nói rằng không nghe. Nếu thật là không nghe thì tánh
nghe đã diệt, đồng với cây khô, đến khi tiếng chuông lại đánh lên, ông làm sao
mà biết tiếng? Biết có biết không, tự là thanh trần hoặc có hoặc không, đâu
phải tánh nghe kia vì ông mà thành có thành không. Tánh nghe thật là không thì
ai biết không tiếng?
Có tiếng hay không tiếng
là thanh trần có hoặc không, còn tánh nghe lúc nào cũng hiện hữu. Nếu tánh nghe
thật là không thì cái gì biết không có tiếng? Có tiếng thì nghe có tiếng, không
tiếng thì nghe không tiếng, chứ đâu phải không có cái nghe. Tánh nghe đó luôn
thường trực không lúc nào vắng mặt.
Như khi ngồi thiền, vọng
tưởng khởi lên chúng ta biết có vọng tưởng, lúc không vọng tưởng biết không có
vọng tưởng. Biết có vọng tưởng là mình biết, vậy biết không vọng tưởng là ai
biết? Cũng là mình biết. Vọng tưởng là cái duyên theo bóng của tiền trần, khi
không duyên với tiền trần thì không có vọng tưởng, còn cái biết có vọng tưởng
và biết không vọng tưởng luôn luôn hiện hữu. Vậy mà khi không có niệm, nhiều
người thấy chới với, không biết lúc đó thế nào. Rõ ràng là mình mà lại không biết!
Đó là chỗ mê lầm của chúng ta, quên mình theo vật.
Đức Phật cố chỉ cho thấy
nơi sáu căn có cái không sanh diệt, hằng hiển lộ mà chúng ta bỏ quên. Như câu
chuyện về Tổ thứ mười tám của thiền tông là Già-da-xá-đa. Một hôm Tổ cùng đồ
chúng du hóa đến nước Nguyệt Chi, có Bà-la-môn Cưu-ma-la-đa hỏi thị giả: Đây là
người gì? Thị giả đáp: Là đệ tử Phật. Cưu-ma-la-đa liền chạy thẳng vào nhà đóng
cửa lại, Tổ đi theo đến nơi gõ cửa. Cưu-ma-la-đa ở trong nhà nói vọng ra: Nhà
này không có người. Tổ hỏi: Đáp không người đó là ai? Cưu-ma-la-đa nghe nói có
vẻ kỳ lạ, nghi là bậc đạo hạnh nên mở cửa ra, thỉnh Tổ vào nhà. Sau đó phát
nguyện xuất gia và được truyền trao giáo pháp.
Ở trong nhà mà nói nhà
không có người, chúng ta cũng vậy, đang biết không có vọng tưởng mà nói là
không có mình. Ai biết không vọng tưởng mà nói là không có mình? Điều này hết
sức cụ thể nhưng nhiều khi chúng ta lại quên, nghĩ rằng có vọng tưởng mới có
mình, khi không vọng tưởng cho là không có mình. Biết không vọng tưởng là đang
có mình hiện hữu, cho nên khi tu chúng ta cần nhận ra được lý chân thật hiện
hữu ngay nơi mình, chẳng phải tìm kiếm đâu xa.
Thế nên A-nan, tiếng ở
trong cái nghe tự có sanh diệt, chẳng phải vì ông nghe tiếng sanh tiếng diệt
khiến cho tánh nghe của ông thành có thành không. Ông còn điên đảo lầm tiếng là
nghe, đâu có lạ gì mê mờ cho thường là đoạn. Trọn không nên nói lìa các thứ
động tịnh, bít lấp, khai thông, nói cái nghe không tánh.
Như người ngủ mê trên
giường gối, trong lúc người kia đang ngủ, trong nhà có người giã gạo, đập sợi.
Người kia trong mộng nghe tiếng giã tiếng đập tưởng là tiếng gì khác, cho là
tiếng đánh trống hay tiếng đánh chuông. Chính khi đang mộng, họ lấy làm
lạ sao tiếng chuông vang như tiếng cây tiếng đá. Khi ấy chợt thức giấc mới biết
đó là tiếng chày, tự nói với người trong nhà là khi tôi còn ở trong mộng lầm
tiếng giã gạo cho là tiếng trống.
Trong khi ngủ tuy không
theo các trần bên ngoài nhưng tánh nghe vẫn hằng hiện hữu, chỉ không sáng bằng
lúc thức mà thôi.
A-nan, người ấy trong
mộng đâu có nhớ động tịnh, mở đóng, thông bít. Thân người kia tuy nằm ngủ nhưng
tánh nghe không mờ. Dù thân ông có tiêu tan, mạng căn có diệt mất, tánh này làm
sao vì ông mà tiêu diệt? Do các chúng sanh từ vô thủy đến nay theo các thứ sắc
thanh, chạy đuổi theo vọng niệm mà lưu chuyển, không từng khai ngộ tánh thanh
tịnh nhiệm mầu thường trụ, không theo chỗ thường trụ mà đuổi theo các thứ sanh
diệt. Do đó mà đời đời bị tạp nhiễm nên phải lưu chuyển.
Nếu bỏ cái sanh diệt,
giữ chân thường thì tánh sáng thường hằng hiện tiền, căn trần thức tâm liền đó
tiêu mất. Tướng của vọng tưởng là trần, thức tình là cấu nhiễm, cả hai đều xa
lìa thì pháp nhãn của ông liền đó được trong sáng, làm sao mà không thành tri
giác Vô thượng?
Đến đoạn này chúng ta
thấy rõ manh mối của sự tu. Ở trước Phật chỉ tánh thấy, tới đây là chỉ tánh
nghe. Tánh thấy tánh nghe thường trụ mà lâu nay chúng ta không nhận ra, chỉ
sống với những hình tướng của tưởng và tình thức phân biệt thương ghét v.v...
Tướng tưởng của trần, thức tình là cấu. Nếu xa lìa hai thứ trần cấu này thì
ngay đó liền được con mắt pháp thanh tịnh, thành tri giác Vô thượng. Thân này
dù còn hay mất cũng không thành vấn đề quan trọng, biết trở về mới là giải
thoát.
II. SÁU CĂN LÀ
ĐẦU GÚT SANH TỬ VÀ BỒ-ĐỀ
A-nan bạch Phật
rằng:
- Bạch Thế Tôn, Như
Lai tuy nói nghĩa quyết định thứ hai, nay xem trong thế gian, người mở gút nếu
không biết chỗ đầu gút kia thì con tin rằng người ấy cuối cùng không thể mở
được. Bạch Thế Tôn, con và hàng Thanh văn hữu học trong hội cũng lại như thế,
từ vô thủy đến nay cũng với các vô minh đồng sanh đồng diệt. Tuy được căn lành
nghe hiểu Phật pháp như thế, gọi là hàng xuất gia, mà giống như người bị bệnh
sốt rét cách ngày.
Như người mở gút
trước hết phải biết đầu gút ở chỗ nào, nếu không biết thì không tài nào mở
được. Ngài A-nan thưa rất thành thật: tuy học nhiều, được xuất gia chứng
Tu-đà-hoàn, nhưng vẫn giống như bệnh sốt rét cách ngày, một ngày nóng lạnh một
ngày mạnh. Dù đã ngộ đạo vẫn còn bị cái mê lấn áp, nên một giờ tỉnh một giờ mê,
chứ chưa hoàn toàn tỉnh hẳn.
Nửa tỉnh nửa mê là
Tu-đà-hoàn, dần dần tỉnh nhiều mê ít tiến lên A-la-hán hay Bồ-tát, đến khi tỉnh
gần trăm phần là Đẳng giác, hoàn toàn hết sạch mê là Diệu giác tức thành Phật.
Ngài A-nan chứng Tu-đà-hoàn còn than như người bị bệnh rét cách nhật, còn chúng
ta có lẽ mười ngày sốt rét một ngày mạnh, vậy mà trong khi tu hành được chút ít
cứ tưởng mình là thánh rồi. Cho nên khi tu chúng ta cố gắng tỉnh, tuy tỉnh rồi
lại mê nhưng dù sao vẫn hơn mê luôn.
Tổ sư thường nói
"niệm khởi tức giác". Niệm khởi là mê, giác đó là tỉnh. Như vậy một
ngày trăm lần mê là chúng sanh, thì có trăm lần tỉnh là trăm ông Phật. Chúng
sanh và Phật đồng nhau, lần lần chúng sanh ngày một bớt chỉ còn Phật. Đó là sự
tu của chúng ta có tiến bộ tốt.
Cúi mong đấng Đại
từ thương xót kẻ chìm đắm! Ngày nay chỉ ra nơi thân tâm con thế nào là gút? Từ
chỗ nào mở ra? Cũng khiến cho những chúng sanh khổ nạn ở đời vị lai được khỏi
luân hồi, không rơi vào ba cõi.
Thưa lời ấy rồi,
khắp cả đại chúng năm vóc gieo xuống đất, nước mắt rơi như mưa, thành kính chờ mong
đức Như Lai chỉ bày pháp môn vô thượng.
Ngài A-nan không
còn nghi về lẽ sanh diệt nữa, lại nghi nơi thân tâm thế nào là gút và làm sao
biết chỗ để mở gút đó. Thưa hỏi rồi tự tủi thân buồn khóc, đây là ngộ rồi cũng
khóc.
Khi ấy đức Thế Tôn
thương xót A-nan và hàng hữu học hội chúng, cũng vì tất cả chúng sanh đời vị
lai muốn tu nhân xuất thế, làm con mắt cho đời sau, Phật duỗi cánh tay sáng
chói như vàng Diêm-phù-đàn xoa đảnh A-nan. Liền khi ấy khắp cả thế giới chư
Phật trong mười phương, sáu thứ chấn động. Các đức Như Lai số như vi trần, ở
thế giới đó, mỗi vị có hào quang báu từ nơi đảnh phát ra. Hào quang ấy từ thế
giới kia đồng thời phóng đến rừng Kỳ-đà, chiếu trên đảnh đức Như Lai. Các đại
chúng đây được điều chưa từng có.
Khi ấy A-nan và các
đại chúng đều nghe chư Phật mười phương như số vi trần, tuy khác miệng nhưng
đồng lời bảo A-nan rằng:
- Lành thay, A-nan!
Ông muốn biết rõ câu sanh vô minh, cái gốc cột trói khiến ông luân chuyển sanh
tử, chỉ là sáu căn của ông chứ không phải vật gì khác. Ông lại muốn biết Bồ-đề
vô thượng khiến ông chóng chứng an lạc giải thoát, tịch tịnh diệu thường cũng
là sáu căn của ông, lại không vật gì khác.
Tại sao đức Phật
xoa đầu ngài A-nan thì sáu thứ chấn động, chư Phật mười phương đồng soi ánh
sáng lên đảnh đức Phật là ý nghĩa gì?
Hào quang tượng
trưng cho trí tuệ. Trí tuệ của đức Phật Thích-ca và trí tuệ của chư Phật mười
phương đồng nhau, nên đến chỗ chỉ thẳng điều này, không phải riêng đức Phật
Thích-ca mà chư Phật mười phương nhiều như số vi trần đồng thấy như vậy, đồng
nói như vậy. Lời nói này của đức Phật là chân lý tuyệt đối. Chân lý đó có giá
trị ngàn đời chứ không riêng một đời, của khắp tất cả cõi Phật chứ không riêng
một cõi nào. Thế nên chấn động cả tam thiên đại thiên thế giới, cùng khắp cõi
nước chư Phật mười phương cũng đều chấn động.
Cội gốc luân hồi là
từ sáu căn, mà cội gốc Bồ-đề cũng từ sáu căn. Các kinh A-hàm nói điều này: Từ
sáu căn sanh cảm xúc, do cảm xúc mà nhiễm vị. Nếu lìa cấu nhiễm thì được giải
thoát Niết-bàn. Như vậy lời chư Phật dạy không hai, từ thấp lên cao đều chỉ rõ
gốc từ sáu căn. Nếu sáu căn chạy giong ruổi theo trần cảnh bên ngoài thì đó là
gốc phiền não, trầm luân muôn kiếp. Cũng với sáu căn, nếu không bị kẹt vào tiền
trần, xoay trở về bản tánh viên trạm thì đó là gốc Bồ-đề tịch tĩnh, giải thoát
Niết-bàn.
Lâu nay chúng ta tu
thường chỉ lo tụng niệm hoặc trông mong về cõi Phật xa xôi nào, mà không biết
gốc Bồ-đề ở đâu, gốc phiền não ở đâu. Bây giờ đã thấy rõ, ngay nơi gốc phiền
não là gốc Bồ-đề, không đâu xa xôi. Đoạn này rất thâm trầm, chỉ ra rõ ràng để
cho chúng ta biết cội gốc của sự tu.
Trong phần Quyết
Nghi ở trước Phật dạy, cội gốc sanh tử là do mê bỏ quên chân tánh chạy theo
vọng trần, còn cội gốc Bồ-đề là do bỏ vọng trở về chân. Đến đoạn này Phật lại
dạy, cội gốc sanh tử là sáu căn mà cội gốc Bồ-đề Niết-bàn cũng là sáu căn. Có
mâu thuẫn không?
Phần trước đức Phật
chỉ gốc mê từ vô thủy, do quên chân mà khởi vọng, là căn bản vô minh. Phần này
thuộc câu sanh vô minh, tức vô minh có mặt cùng lúc với con người khi mới sanh
ra, và nhuận sanh vô minh, nghĩa là thấm ướt hạt giống của quá khứ khiến tiếp
tục sanh ra hiện hành. Như vậy sáu căn là cội gốc phiền não sanh tử đang tiếp
tục trong hiện đời, còn cái gốc mê mờ chân tánh tức vô minh từ vô thủy là thuộc
về quá khứ. Hiện nay chúng ta tu không thể đoạn ngay căn bản vô minh từ vô
thủy, mà chỉ có thể dứt trừ từ câu sanh vô minh. Khi sáu căn tiếp xúc sáu trần
không chạy theo vọng tưởng phân biệt, đó là trở về thể tánh tinh minh bất sanh
bất diệt.
Thiền sư thường
dùng hình ảnh uống trà để chỉ dạy điều này. "Uống trà khen ngon chê dở là
phàm phu, còn uống trà mà không biết trà thì như cây đá." Phải uống thế
nào? Chỉ là uống trà. Đó là chỗ tế nhị, vừa có dấy niệm phân biệt là sai rồi.
Tai nghe tiếng cũng vậy, nếu nghe tiếng mà không biết gì thì như trâu đá, người
gỗ; còn nghe mà phân biệt tiếng khen chê tức là phàm phu. Con mắt thấy sắc,
khởi phân biệt đẹp xấu là chạy theo trần, nhưng nhắm mắt lại cho khỏi thấy cũng
chẳng đúng. Không phải nghe nói sáu căn là lục tặc rồi chúng ta đóng các căn
lại gọi đó là tu, mà chính ngay khi sáu căn tiếp xúc sáu trần khéo biết thì
luôn luôn ở trong Bồ-đề Niết-bàn.
Chúng sanh đau khổ
vì đi theo chiều của nghiệp, chạy theo các phân biệt đẹp xấu, ngon dở v.v...
rồi khởi yêu ghét, phải quấy, hơn thua, bị quay cuồng theo nghiệp. Ngay nơi sáu
căn nếu chúng ta chuyển được nghiệp, khi thấy nghe... dừng ngang chỗ không đẹp
không xấu, không hay không dở... đó là chuyển lục tặc thành lục thông, tâm liền
được tịch tĩnh thanh tịnh, là Niết-bàn hiện tại. Đây là cái vui tự tại trong
bình thản lặng lẽ, là cái vui vô sanh chân thật giải thoát.
A-nan tuy nghe pháp
âm như thế mà tâm vẫn chưa sáng, cúi đầu bạch Phật:
- Tại sao khiến con
luân hồi sanh tử hay an lạc diệu thường đều là sáu căn, không phải vật gì khác?
Phật bảo A-nan:
- Căn và trần đồng
một nguồn, trói buộc hay cởi mở không hai. Thức tánh hư dối giống như hoa đốm ở
hư không.
Trong ba thứ căn
trần thức thì thức là gốc cột trói. Nhưng thức vốn không thật, chỉ do chúng ta
chạy theo nó nên thấy bị cột trói. Ngài Đạo Tín lúc ấy là một chú sa-di mười
bốn tuổi, đến lễ Tam tổ Tăng Xán, thưa: Xin Hòa thượng từ bi ban cho con pháp
môn giải thoát. Tổ hỏi: Ai trói buộc ngươi? Ngài thưa: Không ai trói buộc. Tổ
bảo: Đã không trói buộc, đâu cần cầu giải thoát. Ngay đó ngài Đạo Tín liền đại
ngộ.
Câu chuyện nghe lạ
lùng tưởng như có thuật gì kỳ đặc, nhưng sự thật đó là chỉ thẳng. Sáu căn nếu
cứ giong ruổi theo sáu trần là trói buộc, trầm luân. Cũng ngay nơi sáu căn nếu
thức tỉnh biết không có gì trói buộc mình thì liền giải thoát. Giải thoát và
sanh tử không hai nguồn. Cho nên ngài Đạo Tín một phen sửng sốt tìm lại, thấy
không có ai trói buộc thì ngay đó được giải thoát. Chư Tổ tùy căn cơ, lời các
ngài như nhát búa đập cho tan nát chỗ lầm chấp, chứ không như Phật vỗ vê khuyên
lơn an ủi.
Này A-nan, do trần
mà phát ra cái biết, nhân căn mà có tướng. Tướng và kiến (cái thấy) không có
tánh, giống như bó lau. Thế nên nay ông thấy biết mà lập thấy biết là gốc vô
minh, thấy biết mà không lập thấy biết, đây tức là Niết-bàn vô lậu chân thật
thanh tịnh. Tại sao trong ấy lại còn có vật nào khác!
Lẽ ra do trần có
tướng, nhân căn phát ra cái biết. Nhưng sao Phật nói ngược lại, do trần mà phát ra cái biết, nhân căn mà có
tướng? Chúng ta biết là biết ngoại cảnh, mắt nhìn thấy vật,
tai nghe tiếng v.v... Như vậy thấy vật nghe tiếng là do trần mà phát ra cái
biết. Tướng bên ngoài phản ảnh vào căn nên mới nhận ra tướng ấy, biết được
tướng ấy. Đó là nhân căn mà có tướng.
Tướng là các trần,
kiến là cái thấy, cả hai không có tánh nhất định, giống như lau sậy cột lại thành
bó. Khi mở dây ra nó rã rời không có gì cố định. Nếu chia ra từng cây, có còn
cái gọi là bó lau không? Không có bó lau thật, chỉ là do duyên hợp tạm có, tạm
gọi. Cũng vậy, căn trần không thật, thức như hoa đốm trong không lại càng không
thật.
Thấy biết mà lập
thấy biết là gốc vô minh, thấy biết mà không lập thấy biết, đây tức là Niết-bàn
vô lậu chân thật thanh tịnh. Nguyên văn chữ Hán là "Tri kiến lập tri,
tức vô minh bản. Tri kiến vô kiến, tư tức Niết-bàn."
Tri kiến lập
tri là
thấy biết mà lập thấy biết. Nghĩa là từ thấy biết của sáu căn, thức liền theo
đó để phân biệt lập thêm nhiều hiểu biết. Lập thấy biết là gốc vô minh, là cột
trói. Còn thấy biết mà không khởi vọng thức phân biệt, đó là không lập thấy
biết, tức là Bồ-đề Niết-bàn vô lậu chân thật thanh tịnh. Cũng ngay thấy biết đó
mà một bên là vô minh, một bên là Niết-bàn.
Niết-bàn không ở
đâu xa, chỉ thấy biết mà không lập thấy biết thì
Niết-bàn ngay đó. Niết-bàn là trở về tánh không sanh diệt của mình, đang bị
dính khắn ở mắt tai mũi lưỡi thân ý. Chúng ta không phải đi kiếm tìm cái gì xa
vời, mà chính ngay nơi cuộc sống này, khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần đừng
cho vọng thức dẫn đi, sống với cái thanh tịnh sẵn có đó là trở về Niết-bàn, còn
nếu chạy theo thức tình phân biệt là đi trong sanh tử. Hết sức đơn giản!
Như vậy trong sáu
cái gút đó thì thức là đầu gút, mở được thức rồi thì căn và trần không có lõi
thật. Tri kiến lập tri, tri đó chính là thức. Lập tri là gốc vô minh, không lập
tri là Bồ-đề, Niết-bàn. Không lập tri là không khởi phân biệt, chứ không phải
bỏ cái thấy biết. Vẫn thấy vẫn biết nhưng không thành vô minh mà thành
Niết-bàn. Như vậy, làm sao trong đó có vật nào khác nữa. Không cần tìm cái gì
thêm. Bồ-đề Niết-bàn luôn hiện hữu không lúc nào vắng, chỉ tại chúng ta đang
mê, chạy theo các trần nên quên nó thôi. Niết-bàn ở ngay đây, khi sáu căn không
dính với sáu trần; còn sáu căn dính với sáu trần đó là phiền não.
Khi ấy đức Thế Tôn
muốn lặp lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Chân tánh hữu vi
không,
Duyên sanh nên như
huyễn.
Vô vi không khởi diệt,
Chẳng thật, như
không hoa.
Đứng về mặt chân
tánh thì các pháp hữu vi là không, duyên sanh nên có, tuy có mà như huyễn như
hóa. Pháp vô vi là đối với các pháp hữu vi, mà hữu vi đã không thật thì vô vi
cũng không thật. Pháp vô vi không có khởi diệt, chỉ có tên gọi. Vì vậy mà nó
không thật, giống như hoa đốm ở hư không.
Điều này có trái
với những gì lâu nay chúng ta học không? Thông thường nói pháp hữu vi là sanh
diệt còn pháp vô vi là không sanh diệt. Cái gì sanh diệt là hư dối, cái gì
không sanh diệt là chân thật. Pháp vô vi không sanh diệt lẽ ra nó chân thật,
tại sao đây nói không chân thật như hoa đốm ở hư không? Như đoạn trên nói:
"Sáu mất thì một cũng không còn". Ví dụ để sáu món đồ vuông tròn dài
ngắn khác nhau chúng ta thấy hư không nơi sáu món đồ có tướng trạng khác nhau.
Nếu dẹp hết sáu món đồ thì sáu phần hư không đó là một. Nhưng thật ra một cũng
không có, vì có sáu nên mất sáu gọi là một. Hư không không phải sáu cũng không
phải một, sáu và một chỉ là giả danh không có thật. Hư không trước sau vẫn
nguyên vẹn không hề mất, chỉ mất ngôn ngữ lập sáu lập một mà thôi.
Ở đây cũng vậy, do
đối với pháp hữu vi sanh diệt mà lập pháp vô vi, chứ thật ra vô vi cũng là giả
danh không thật, như hoa đốm trong không. Như vậy pháp hữu vi pháp vô vi đều
không thật, do đối đãi giả lập; còn chân tánh là thể trùm khắp, không đối đãi
nên không thuộc vô vi hay hữu vi.
Nói vọng để bày
chân,
Vọng, chân đều là
vọng.
Bởi có vọng nên mới
nói chân, hiển bày chân, nhưng thật ra chân là do đối với vọng mà nói, vọng hết
thì chân cũng không còn. Vì vậy cả vọng lẫn chân đều hư dối không thật.
Còn không chân, phi
chân,
Sao có kiến, sở
kiến?
Chân đối với vọng
không thành, mà chân tự lập chân cũng không có thì làm sao còn có cái đối đãi
đây là năng kiến, tức người hay thấy, và kia là sở kiến, tức đối tượng bị thấy.
Cái hay thấy không thật thì cái bị thấy cũng không thật, ngược lại cái bị thấy
không thật thì cái hay thấy cũng không thật.
Khoảng giữa không
tánh thật
Thế nên như bó lau,
Lau sậy cột lại
thành bó, nếu cắt dây ra thì các cây lau nghiêng ngả rã rời, không có cái gì
thật ở bên trong. Như vậy bó lau chỉ là giả tướng tạm hợp, chứ nó không có
tướng thật.
Cột mở đồng một
nhân,
Thánh phàm không
hai lối.
Cái gì gọi là sở nhân? Cột là từ một sợi
dây hay từ cái khăn mà cột gút lại, muốn mở cái gút đó ra thì cũng y cứ trên đó
mà mở chứ không phải hai. Nói cột hay mở là đứng trên phương diện cái gút, nếu
trên sợi dây hay cái khăn thì cột mở cũng đồng một sở nhân.
Sợi dây hay khăn là
dụ cho sáu căn. Sáu căn nếu bị cột bị niêm dính khắn thì đi trong luân hồi sanh
tử, gọi đó là gốc phiền não. Mở được sáu căn thì gọi là Bồ-đề, giải thoát. Như
vậy cột hay mở đều y cứ trên sáu căn.
Do cột và mở đồng
một sở nhân nên thánh phàm không hai đường, bởi
nơi phàm có sáu căn, nơi thánh cũng có sáu căn. Nếu sáu căn bị cột thì gọi
phàm, sáu căn được mở gọi là thánh, chẳng có đường nào riêng khác. Chúng sanh y
sáu căn mà cột nên làm kẻ phàm ngu, chư thánh ngay sáu căn mà mở nên giải
thoát. Vậy chúng ta muốn thành Phật hay làm chúng sanh? Nếu muốn làm chúng sanh
thì cứ cột chặt rồi tha hồ mà đi trong sanh tử.
Ông xem tánh bó
lau,
Không cả hai không
có.
Tánh của bó lau là
không thật. Cột lại thấy có bó lau trước mắt, nhưng nếu cắt bỏ dây ra, lau ngã
rã ra từng cây thì tướng bó lau không còn. Vì vậy nói có nói không đều sai, chỉ
là tướng duyên hợp hư dối, không có tánh cố định.
Thân chúng ta cũng
vậy, thấy hiện có đây tưởng như thật, nhưng khi hơi thở bị cắt đứt thì thân
liền tan rã. Chúng ta luôn nhìn sự vật với con mắt phàm phu mê muội, cái không
thật mà tưởng là thật. Cho nên phải quán thật kỹ tánh chất của bó lau, chẳng
thể nói là có cũng chẳng thể nói là không. Có và không cả hai đều chẳng phải.
Mê tối là vô minh
Phát sáng liền giải
thoát.
Mê lầm thì gọi vô
minh, nếu phát sáng liền là giải thoát. Giải thoát và vô minh kế cận nhau không
xa. Như nơi sáu căn, nếu chấp cảnh thấy nghe là thật rồi chạy theo cảnh thì mê
tối. Khi sáu căn duyên với cảnh liền biết cảnh bên ngoài không thật, xoay trở
về tánh thấy nghe của chính mình, gọi là phát minh, dần dần được giải thoát.
Cột mở nhân thứ
lớp,
Sáu mở, một cũng
mất.
Mở gút phải theo
thứ lớp, gút thứ nhất đến gút thứ hai, thứ ba... Sáu cái mở thì một cũng không
còn. Sáu gút dụ cho sáu căn. Sáu căn mở được rồi, nếu thấy còn một chân tâm,
Phật tánh, Bồ-đề, Niết-bàn thì đó là cái thấy giả dối không thật, gọi là còn
chấp pháp. Vì vậy cần phải thấy thật rõ, nhận cho đúng.
Chọn lựa căn viên
thông
Vào dòng thành
Chánh giác.
Phật dạy trong sáu
căn đó, lựa chọn một căn viên thông, đi thẳng vào dòng, tức là đi sâu trở về
nguồn cội chân thật của nó thì liền thành Phật. Như chúng ta hiện nay đang tu
về ý căn, biết vọng tưởng là giả thì cái biết vọng đó không phải giả. Buông hết
tất cả vọng tưởng, sống với cái không giả đó tức là nhập lưu. Cái không giả khi
đã thuần thục, tức không còn cái giả nào chen lẫn nữa là thành chánh giác.
Thức đà-na vi tế,
Tập khí như dòng
thác,
Sợ lầm chân, phi
chân,
Ta thường không
diễn nói.
Duy thức học gọi
thức thứ tám là a-lại-da, cũng có khi gọi là a-đà-na. A-đà-na Trung Hoa dịch là
Chấp trì, tức nắm giữ. Gọi a-đà-na hay tàng thức là tùy theo nghĩa. Tàng thức
mang nghĩa chứa đựng, còn a-đà-na chỉ cho thức có một phần chân và một phần
không phải chân. Thức a-đà-na rất vi tế, những tập khí tức là những chủng tử
thiện ác chúng ta đã huân vào trong đó rất nhiều, chảy như dòng thác đổ, sanh
diệt liên miên. Nhiều thói quen chừng nào thì dòng thác a-đà-na đổ mạnh chừng
nấy, muốn dừng cũng khó.
Thể của thức
a-đà-na là chân thật, nhưng nó có hàm chứa những tập khí trôi chảy liên miên
trong đó, những tập khí này không phải chân. Như vậy cái chân thật và cái phi
chân gần kề với nhau, e người ta hiểu lầm cho nên Phật thường không nói tới.
Tự tâm chấp tự tâm
Chẳng huyễn thành
pháp huyễn.
Như đoạn trước nói,
do giác minh khởi ra minh giác, tức là khởi soi lại tánh giác. Cũng như chúng
ta nghe nói mình có chân tâm, rồi dấy niệm tìm xem chân tâm ra làm sao. Khi tìm
như vậy thì chân tâm tự trở thành đối tượng bị tìm kiếm, chẳng khác nào chính
tâm mình trở lại tìm và chấp giữ tâm mình. Do đó pháp không phải huyễn trở thành
huyễn.
Theo Duy thức thì
thức thứ bảy mạt-na chấp kiến phần của thức thứ tám a-lại-da làm ngã, đó cũng
là tự tâm giữ tự tâm. Cho nên pháp không phải huyễn mà thành ra pháp huyễn.
Không chấp không
phi huyễn,
Phi huyễn còn chẳng
sanh,
Pháp huyễn làm sao
lập?
Nếu không khởi chấp
thì không có cái phi huyễn, phi huyễn còn không thì huyễn làm sao lập? Nếu
chúng ta không khởi chấp thủ, không móng tâm vọng tìm kiếm thì pháp phi huyễn
không thành. Do có chấp, có khởi niệm mới nói cái này cái kia không, cho nên
mới thành huyễn và phi huyễn. Nếu không chấp, không khởi niệm thì có gì là
huyễn và phi huyễn. Huyễn và phi huyễn đều không thì pháp huyễn làm sao thành
lập được?
Ấy gọi Diệu liên
hoa
Bảo giác Kim cang
vương
Như huyễn
tam-ma-đề,
Búng tay vượt Vô
học.
Nếu không khởi chấp
như vậy thì gọi là Diệu liên hoa, tức Tri kiến Phật, hay Bảo giác Kim cang
vương, đó cũng chính là chánh định Như huyễn, chỉ cần một búng tay liền vượt
khỏi bậc Vô học.
Trong Tứ quả Thanh
văn thì ba quả đầu thuộc hàng hữu học, quả A-la-hán là hàng vô học. Nếu không
khởi chấp thì chỉ trong khoảng khảy móng tay vượt khỏi cả hữu học và vô học,
tức lên bậc Bồ-tát.
Đây là pháp vô tỷ,
Một đường đến
Niết-bàn
Của chư Phật mười
phương.
Phật, tiếng Phạn là
Bạc-già-phạm (Bhagavat). Vô tỷ pháp hay đối pháp, tiếng Phạn là A-tỳ-đạt-ma
(Abhidharma) là tạng Luận. Hợp chung với tạng Kinh (Sutra) và tạng Luật
(Vinaya) thành ra Tam tạng.
Trí chân thật thấy
được chân lý là cửa của con đường đi thẳng tới Niết-bàn của chư Phật mười
phương. Đó ngầm ý chỉ, ngài A-nan muốn biết rõ vô minh căn bản, cái gốc cột
trói khiến ngài luân chuyển sanh tử chỉ là sáu căn của ngài, lại không có vật
gì khác. Ngài lại muốn biết Bồ-đề vô thượng khiến ngài chóng chứng an lạc giải
thoát tịch tịnh diệu thường, cũng là sáu căn của ngài, lại không vật khác.
Người tu Phật nếu
quyết chí cầu giác ngộ giải thoát như Phật thì phải đi thẳng con đường của chư
Phật mười phương đã đi, không có con đường nào khác. Như có vị tăng hỏi thiền
sư Càn Phong: Chư Phật mười phương chỉ một con đường thẳng tới Niết-bàn, chưa
rõ đầu đường ở chỗ nào? Thiền sư cầm gậy vạch một đường, bảo: Đây! Chỗ này.
Chỗ này là chỗ nào?
Ngay cửa sáu căn mà vào, đó là con đường duy nhất chứ không có con đường nào
khác. Nhưng đặc biệt của thiền sư là không cần nói, không cần giải. Các ngài
không nói bằng lời, vì e chúng ta không tin. Đầu đường Niết-bàn ngay chỗ này
sao? Vô lý quá, nhưng đó là thật chỉ đầu đường Niết-bàn.
III. CỘT KHĂN CHỈ
GÚT
Khi ấy A-nan và đại
chúng nghe lời chỉ dạy từ bi Vô thượng của Phật Như Lai, kệ tụng đều thông
suốt, diệu lý thấu triệt, tâm mắt được mở sáng, khen ngợi là pháp chưa từng có.
A-nan chắp tay đảnh
lễ bạch Phật:
- Nay con nghe Phật
vì lòng đại bi vô ngại dạy câu pháp chân thật, chỉ ra tánh tịnh diệu thường,
nhưng tâm vẫn còn chưa thấu suốt được nghĩa sáu mở thì một cũng mất và thứ lớp
mở cột. Vậy cúi mong đấng Đại từ lại thương xót chúng con trong hội này và
những chúng sanh đời sau, bố thí pháp âm để rửa sạch những cấu nhiễm sâu nặng.
Kỳ-dạ (Geya) là
tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là trùng tụng. Sau khi Phật nói một đoạn kinh, ngài
kết thúc bằng bài tụng lặp lại ý trước. Già-đa dịch là kệ, Phật thấy những lý
gì hay, ngài chỉ nói vài câu kệ để diễn đạt riêng lý đó, không phải lặp lại một
ý nào trước.
Đức Phật từ bi nói
bài kệ trùng tụng tóm lại ý chính và những lời giảng rộng ở trước, làm cho
nghĩa lý được rõ ràng sáng sủa. Do đó, tâm mắt ngài A-nan và đại chúng mở sáng,
thông hiểu diệu lý, được việc chưa từng có. Tuy nhiên trong tâm vẫn còn chưa thấu suốt được nghĩa
sáu mở thì một cũng mất và thứ lớp mở cột, nên xin Phật từ bi
chỉ dạy thêm.
1. Cột gút
Liền khi đó Như Lai
ngồi trên tòa sư tử, sửa Niết-bàn-tăng, vén y tăng-già-lê, vịn bàn bảy báu, đưa
tay lên bàn lấy khăn hoa do trời Dạ-ma (Kiếp-ba-la) dâng cúng. Trước đại chúng,
ngài cột thành một gút, đưa lên cho A-nan xem và hỏi:
- Đây gọi là gì?
A-nan và đại chúng
đều bạch Phật rằng:
- Đây gọi là gút.
Đây diễn tả lúc đức
Phật đang nói pháp, ngài lấy chiếc khăn trên bàn cột lại thành gút. Phật khéo
léo sử dụng những hình ảnh cụ thể thực tế để giảng dạy chứ không lý thuyết
suông.
Khi ấy đức Như Lai
ở trên khăn hoa lại cột chồng thêm một gút nữa, rồi hỏi A-nan:
- Đây gọi là gì?
A-nan và đại chúng
lại bạch Phật:
- Đây cũng gọi là
gút.
Như thế thứ lớp
Phật cột chồng lên khăn hoa, tổng số thành sáu gút. Mỗi khi cột xong một gút,
Phật đều cầm cái gút đã cột trong tay đưa lên hỏi A-nan: Đây gọi là gì? A-nan
và đại chúng cũng lại thứ lớp đáp lời Phật như vầy: Đây gọi là gút.
Phật bảo A-nan:
- Khi ta mới cột
khăn, ông gọi là gút. Khăn hoa này trước thật chỉ có một tấm vải, cột đến lần
thứ hai thứ ba, tại sao ông cũng gọi là gút?
Chiếc khăn trước
chỉ có một tấm vải, cột một gút thì gọi là gút, cột lần thứ hai, thứ ba... tại
sao cũng đều gọi là gút?
A-nan bạch Phật
rằng:
- Bạch Thế Tôn! Cái
khăn hoa báu do đan dệt mà thành này, tuy vốn là một thể, nhưng theo con suy
nghĩ, Như Lai cột một lần được gọi là một gút, nếu cột tới trăm lần thị trọn
gọi là trăm gút. Huống chi khăn này chỉ có sáu gút, không đến bảy mà cũng chẳng
dừng ở năm. Tại sao Như Lai chỉ nhận cái ban đầu là gút, còn cái thứ hai thứ
ba... chẳng gọi là gút?
Phật bảo A-nan:
- Ông biết khăn hoa
báu này vốn chỉ là một cái, khi ta cột sáu lần gọi là sáu gút. Ông xem xét kỹ,
thể của khăn là đồng, nhân cột các gút mà có khác. Ý ông nghĩ sao? Cái gút ban
đầu khi cột thành gọi là gút thứ nhất, như thế cột đến gút thứ sáu, nay ta muốn
gọi gút thứ sáu là gút thứ nhất được chăng?
- Thưa không, bạch
Thế Tôn! Nếu còn sáu gút thì cái gọi là thứ sáu này trọn không phải là cái thứ
nhất. Dù cho con trọn đời biện minh lẽ này, làm sao khiến cho sáu gút này đổi
tên được?
Phật bảo: - Đứng
thế! Sáu gút chẳng đồng nhau, tuy tìm xét nhân ban đầu là từ một cái khăn tạo
ra, nhưng khiến cho các gút lẫn lộn thì trọn không thể được. Sáu căn của ông
cũng lại như thế, trong thể rốt ráo đồng sanh ra rốt ráo khác.
Đức Phật khéo dùng
ví dụ, cái khăn trước vốn là một, cột thành sáu gút. Sáu gút khi đã thành thì
gút một là gút một, gút hai là gút hai, có thứ tự nhất định không thể đảo lộn
được. Khi những gút đó mở hết rồi thì không còn sáu gút mà chỉ còn lại một
chiếc khăn. Chiếc khăn gọi là một, vậy một đó là đối với cái gì? Như sáu gút,
nếu mở hết năm gút thì còn một gút, đó là một đối với năm. Sáu gút mở hết rồi,
đâu còn gì để đối mà gọi là một hay sáu? Chiếc khăn chỉ là khăn, không nói là
một nữa.
Sáu gút dụ cho sáu
căn bị cột, cái khăn dụ cho tánh diệu minh viên trạm. Tánh giác diệu minh
nguyên trước không phải một không phải sáu, do bị dính khắn mà thành ra sáu.
Lúc thành sáu rồi thì mắt chỉ thấy, tai chỉ nghe... không thể lộn xộn được. Khi
chúng ta giải được sáu căn bèn nói là một, nhưng thật ra một cũng không có, chỉ
là tánh giác mà thôi.
Sáu căn cũng lại
như thế, trong thể rốt ráo đồng sanh ra rốt ráo khác. Rốt ráo đồng, dụ
chiếc khăn là một, là đồng. Khi thành sáu gút rồi thì gút một, gút hai, gút
ba... khác nhau, gọi là rốt ráo. Tánh giác là đồng nhưng khi bị dính khắn ở sáu
căn bèn thành khác. Nếu gỡ sáu cái khác đó thì trở lại thể đồng.
2. Mở gút
Phật bảo A-nan:
- Chắc hẳn ông
không muốn sáu gút này thành, nhưng lại mong thành một thể, làm sao có thể
được?
Khi sáu hết rồi thì
một cũng không còn, nhưng chúng ta quen cho rằng hết sáu gút còn chiếc khăn là
còn một. Sáu gút đó là giả tướng cột lại từ chiếc khăn, nếu mở hết sáu gút đó
rồi thì khăn nguyên là khăn, không nói một cũng không nói sáu. Ngài A-nan muốn
hết sáu mà vẫn nghĩ còn một, đó là chưa thông suốt.
A-nan thưa: - Những
gút này nếu còn thì phải quấy đua nhau khởi. Ở trong ấy tự sanh gút này không
phải gút kia, gút kia không phải là gút này. Ngày nay Như Lai mở hết các gút,
gút nếu chẳng sanh thì không còn kia đây nữa. Còn chẳng gọi là một, sáu làm sao
thành?
Khi còn gút thì
chia gút một, gút hai, gút ba... mỗi cái có phần vị riêng không thể nào lẫn lộn
được, thành ra phải quấy đua nhau khởi.
Cũng như nói con mắt không phải lỗ tai, lỗ tai không phải là con mắt. Ví dụ lúc
chúng ta đang nhắm mắt, chợt có người ở trước mặt nói chuyện, nghe tiếng biết
người đó quen, mình nói: Tôi thấy biết anh quen. Người ấy liền bảo: Anh nhắm
mắt đâu thấy gì! Chỉ nghe tiếng, làm sao nói là thấy biết quen. Như vậy người
ta cho rằng hình tướng là phải thấy chứ không thể nghe được, nhưng thật ra cái
thấy cái nghe đâu có hạn cuộc.
Phật bảo: - Nghĩa
mở sáu gút, một mất cũng lại như thế. Do ông từ vô thủy tâm tánh cuồng loạn,
vọng phát sanh thấy biết. Bởi phát vọng không dừng nên cái thấy lao nhọc phát
ra các trần cảnh, như con mắt mỏi mệt ắt thấy có hoa đốm lăng xăng. Trong chỗ
lặng lẽ trong sáng kia, không nhân gì mà dấy khởi lộn xộn, tất cả tướng thế
gian nào núi sông đất đai, sanh tử Niết-bàn đều là tướng hoa đốm, do cuồng nhọc
điên đảo mà sanh.
Tại sao Niết-bàn
cũng từ cuồng nhọc phát ra? Bởi khăn thật không phải một, nói một chỉ là chấp
suông. Hết sanh tử nên nói Niết-bàn, Niết-bàn đó cũng chỉ là giả danh không
thật. Nên nói sanh tử Niết-bàn cũng đều giả danh không thật. Nên nói sanh tử
Niết-bàn cũng đều là tướng hoa đốm, do cuồng nhọc điên đảo phát ra thôi.
A-nan thưa:
- Lao nhọc này
giống như cái gút, làm sao cởi bỏ?
Đức Như Lai đưa tay
cầm cái khăn có gút, kéo mối bên trái, hỏi A-nan rằng:
- Thế này mở được chăng?
- Thưa không, bạch
Thế Tôn.
Phật lại lấy tay
kéo đầu mối bên phải rồi hỏi A-nan: - Thế này mở được chăng?
- Thưa không, bạch
Thế Tôn.
Hai hình ảnh này
thật hay! Kéo mối gút qua bên này hay bên kia chỉ làm gút chặt thêm chứ không
thể mở. Phật đâu phải không biết mở gút, nhưng ngài kéo qua bên trái hỏi, kéo
lại bên phải hỏi, để chỉ cho thấy nếu nghiêng qua bên này, hay bên kia là gút
càng chặt, chẳng thể mở được. Cũng vậy, chúng ta còn chấp bên này, chấp bên
kia, có không, phải quấy v.v... càng chấp thì gút càng chặt, không thể nào mở
được.
Phật bảo A-nan: -
Nay ta lấy tay kéo mối bên trái, bên phải trọn không thể mở gút, ông thử dùng
cách nào để mở được?
A-nan bạch Phật
rằng: - Bạch Thế Tôn, phải ngay giữa gút mà mở thì bung ra ngay.
Phật bảo A-nan: - Đúng
vậy! Đúng vậy! Nếu muốn mở gút phải mở ngay giữa lòng gút.
Chẳng phải Phật
không biết mở, nhưng Phật hỏi ngài A-nan để A-nan xác định rõ ràng cách mở gút.
Khi căn tiếp xúc với trần, nghiêng bên cảnh hoặc nghiêng bên căn đều không dẹp
được. Như mắt thấy cảnh, muốn dẹp hết cảnh để chúng ta đừng chấp, không được;
muốn con mắt đừng thấy cũng không được. Phải ở ngay giữa mà mở, tức dẹp thức,
đừng phân biệt theo cảnh. Tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi... cũng vậy.
Này A-nan, ta nói
Phật pháp từ nhân duyên sanh, không phải lấy những tướng thô phù hòa hợp của
thế gian mà nói. Như Lai phát minh các pháp thế gian và xuất thế gian, biết rõ
nhân gốc kia theo duyên gì mà phát ra. Như thế cho đến một hạt mưa ở ngoài thế
giới hằng sa cũng có thể biết rõ số mục. Hiện tiền các thứ, cây tùng thì thẳng,
cây gai thì cong, cò thì trắng, quạ thì đen, đều rõ nguyên do của nó.
Đoạn này đức Phật
đi sâu hơn nữa, không nói những nhân duyên thô của thế gian, như đất nước gió
lửa hòa hợp lại thành thân người, cây cối, các loài... Mà Phật nói đến bản
nhân, tức là gốc của nhân duyên.
Nhân duyên là căn
cứ trên các pháp thế gian và xuất thế gian mà lập, còn chân tánh không thuộc
nhân duyên. Như những gút cột trên khăn, cột là nhân duyên, mở cũng là nhân
duyên, nhưng thể của chiếc khăn thì không thuộc nhân duyên, đó là tạm mượn ví
dụ để hiểu. Khi mê vọng nên sanh ra tất cả, đó là nhân duyên. Từ sanh ra tất
cả, bây giờ muốn trở về không cũng là nhân duyên, nhưng khi thể nhập được vô
sanh rồi thì vượt ngoài nhân duyên. Đây là chỗ đức Phật muốn nói.
Bản nhân là nhân gốc
của pháp, tức tánh giác tròn đủ. Sáu căn là sở duyên, là phương tiện để quay về
tánh giác. Phật chỉ cho chúng ta từ nơi sáu căn biết quay về tánh giác, đó là
trở về bản nhân. Trở về bản nhân đó rồi thì diệu dụng không thể lường, thế giới
như hằng sa có từng hạt mưa chúng ta cũng biết, tất cả những gì có hình tướng ở
thế gian này chúng ta đều biết nguyên do manh mối sanh khởi, không còn nghi
ngờ.
Muôn pháp từ Như
Lai tạng khởi xuất, cũng trở về Như Lai tạng. Trở về được thể Như Lai tạng trùm
khắp thì có gì trong đó mà không biết. Như chủ nhà biết rõ các vật trong nhà
của mình, nên nói hạt mưa rơi
ngoài hằng sa thế giới cũng rõ sổ mục.
Thế nên A-nan, tùy
trong tâm ông chọn lựa sáu căn. Gút căn nếu mở được thì trần tướng tự diệt, các
vọng đều tiêu mất, còn đợi gì mà chẳng phải chân!
Rõ ràng khi mở hết
các gút, không còn dính cảnh bên ngoài thì các vọng đều diệt mất. Chính lúc đó
là chân, không còn tìm cái chân thật nào khác nữa.
Này A-nan, nay ta
hỏi ông, cái khăn kiếp-ba-la này hiện có sáu gút, nếu đồng thời mở ra có thể
đồng thời trừ dẹp được chăng?
- Thưa không, bạch
Thế Tôn! Những gút này trước do thứ lớp mà cột, nay cần phải theo thứ lớp để
mở. Sáu gút tuy đồng thể nhưng khi cột không cùng lúc thì khi mở gút làm sao
đồng trừ dẹp được!
Phật hỏi A-nan thêm
về thứ tự mở gút. Khăn đã cột thành sáu gút rồi, có thể mở hết sáu gút một lượt
được không? Ngài A-nan trả lời, khi đã cột thành sáu gút rồi, muốn mở phải theo
thứ tự mà mở. Cột từng gút, từng gút thì khi mở cũng phải từng gút từng gút.
Phật bảo: - Cởi mở
sáu căn này cũng lại như vậy. Căn này khi bắt đầu mở, trước được nhân không,
tánh không tròn sáng thì giải thoát được pháp chấp. Giải thoát pháp chấp rồi,
cả hai nhân pháp đều không, tức chẳng sanh. Đó gọi là Bồ-tát từ tam-ma-địa
chứng được vô sanh nhẫn.
Đức Phật nói rõ thứ
lớp tu tập. Tu hành là khéo từ nơi chỗ gút mà mở, mở được một gút thì các gút
kia cũng theo đó hết, tức được Nhân không. Nhân không là quả vị A-la-hán. Tánh
không tròn sáng thì được Pháp không. Nhân không, pháp không là quả vị Bồ-tát.
Bồ-tát từ nơi chánh định mà được vô sanh nhẫn, tiến lên Phật quả.
Đã rõ ý nghĩa sáu
hết thì một cũng không còn, đến đây ngài A-nan cầu xin Phật vấn đề khác.
IV. HỎI ĐẠI CHÚNG
VỀ VIÊN THÔNG
A-nan và đại chúng
nhờ Phật chỉ bày, tuệ giác được viên thông không còn gì nghi hoặc, đồng thời
chắp tay đảnh lễ sát hai chân Phật và bạch Phật rằng:
- Ngày nay chúng
con thân tâm rỗng suốt, vui mừng được điều vô ngại. Tuy ngộ biết nghĩa một và
sáu đều mất, nhưng vẫn chưa thấu suốt được bản căn viên thông. Bạch Thế Tôn,
bọn chúng con trôi giạt bơ vơ từ nhiều kiếp, tâm nghĩ do đâu mà được dự vào
dòng dõi nhà Phật, như đứa bé mất sữa chợt gặp mẹ hiền! Nếu nhân cơ hội này mà
được thành đạo, chỗ được nghe những lời dạy sâu kín lại đồng với bản ngộ, thì
cùng với người lúc chưa nghe cũng không có sai khác. Cúi mong đấng Đại bi
thương bọn chúng con, ban cho pháp trang nghiêm bí mật, thành tựu lời chỉ bày
rốt sau của Như Lai.
Thưa lời đây rồi,
năm vóc gieo xuống đất, lui ẩn nơi chỗ vi diệu sâu kín, chờ mong được Phật thầm
truyền.
Ngài A-nan và đại
chúng chưa rõ nên dùng căn gốc nào được viên thông để tu cho thích hợp, nên
đoạn này A-nan muốn nhờ Phật chỉ ra căn nào thuộc về viên thông. Ngài vừa than
thở mà cũng vừa vui mừng. Đã trôi giạt lang thang nhiều đời, nay không biết do
duyên cớ gì được làm đệ tử Phật, như đứa bé mất sữa được gặp mẹ hiền, thật là
mừng vui vô kể. Khi ở trong hội này được nhân duyên gặp Phật, nghe Phật nói
pháp mà thấu suốt lẽ đạo, nơi những lời nói sâu mầu của Phật ngài nhận ra, đồng
với chỗ ngộ gốc chân thường bất sanh bất diệt ắt cùng với người chưa nghe không
có gì sai biệt.
Ngài A-nan thấy
Phật lấy chiếc khăn cột sáu gút rồi lại dạy cách mở sáu gút ấy. Chiếc khăn
trước không có sáu gút, Phật cột sáu gút nay mở rồi cũng trở lại chiếc khăn như
ban đầu. Như vậy khăn có cột có mở cũng đồng như khăn không cột không mở. Người
ngộ gốc chân thường cũng đồng như chưa ngộ, bởi vì người chưa nghe pháp cũng
vẫn có tâm thể đó. Thế nên ngài A-nan xin Phật thương xót chỉ dạy cho pháp bí
mật trang nghiêm, để thành tựu được lời dạy rốt sau của Phật.
Trọng tâm ở đây là
câu hỏi: Làm sao thấu suốt được trong sáu căn, cái nào viên thông nhất để tu
tập.
Khi ấy đức Thế Tôn
bảo khắp các vị đại Bồ-tát và các vị vô lậu đại A-la-hán ở trong chúng rằng:
- Các ông là hàng
Bồ-tát và A-la-hán sanh trong pháp của ta, được thành tựu vô học. Nay ta hỏi
các ông, lúc ban đầu phát âm, các ông ngộ trong mười tám giới, cái nào là viên
thông? Từ phương tiện gì được vào chánh định?
Phật bảo các vị
Bồ-tát và A-la-hán trình chỗ sở ngộ ban đầu của các ngài, xem trong mười tám
giới: sáu căn, sáu trần và sáu thức, chọn ra căn nào thích hợp.
1. Viên thông về
thanh trần
Ông Kiều-trần-na
trong nhóm năm vị Tỳ-kheo liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật,
bạch Phật rằng:
- Con nơi Lộc Uyển
và Kê Viên được gặp đức Như Lai khi mới thành đạo, chúng con nhân nghe pháp âm
của Phật, ngộ được pháp Tứ đế. Phật hỏi trong hàng Tỳ-kheo thì con được gọi là
nhận hiểu trước tiên, Như Lai mới ấn chứng cho con tên là A-nhã-đa (Giải đệ
nhất). Do diệu âm sâu kín tròn đủ, con từ nơi âm thanh mà được quả A-la-hán.
Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, âm thanh là trên hết.
Ngài Kiều-trần-na
do nghe pháp âm của Phật mà ngộ đạo, nên cho âm thanh là trên hết. Trong mười
tám giới, âm thanh thuộc thanh trần.
2. Viên thông về
sắc trần
Ông Ưu-ba-ni-sa-đà
liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng:
- Con cũng được gặp
Phật khi mới thành đạo. Con quán tướng bất tịnh, sanh lòng rất nhàm chán muốn
xa lìa, ngộ được tánh các sắc; do từ quán bất tịnh, tướng xương trắng, vi trần,
đều trở về hư không, sắc và không không hai, thành được đạo vô học. Như Lai ấn
chứng cho con tên là Ni-sa-đà. Do trần sắc đã hết thì diệu sắc sâu kín tròn đủ.
Con từ sắc tướng mà được quả A-la-hán. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng
của con thì nhân nơi sắc trần là trên hết.
Quán bất tịnh là
quán thân này gồm ba mươi sáu phần: tóc, lông, móng, răng, da v.v... cái nào
cũng ô uế bất tịnh. Hoặc dùng Cửu tưởng quán: thân chết sình trương, máu mủ hôi
thối, dòi bọ đục khoét v.v... Quán cho đến khi thấy rởn người thì chuyển qua
quán xương trắng: lấy một phần trong cơ thể, như sống mũi, xương đầu... tưởng
xẻ ra, quán từ lúc màu ngà ngà, đến trong, rồi phát hào quang... Quán xương
trắng xong thì quán tất cả thành tro bụi... Từ quán bất tịnh, xương trắng, bụi
nhỏ, rốt cuộc trở thành không. Lúc đó, sắc và không không hai, rốt cuộc trở
thành A-la-hán. Đó là nơi sắc trần cũng có thể ngộ đạo, không phải ngoài những
thứ ấy mà tìm được đạo.
3. Viên thông về
hương trần
Đồng tử Hương
Nghiêm liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng:
- Con nghe đức Như
Lai dạy con phải quán sát kỹ các tướng hữu vi. Khi ấy con từ giã Phật, đêm về
ngồi yên ở phòng thanh trai, thấy các thầy Tỳ-kheo đốt hương trầm thủy, mùi
hương lặng lẽ bay vào trong mũi con. Con quán mùi hương này không phải từ cây,
không phải từ hư không, không phải từ khói cũng không phải từ lửa, đi không
dính mắc chỗ nào, đến cũng không từ đâu. Do đây mà ý niệm được tiêu sạch, phát
minh tánh vô lậu. Như Lai ấn chứng cho con hiệu là Hương Nghiêm. Trần khí
(hương trần) đã tiêu diệt, diệu hương sâu kín tròn đủ. Con do mùi hương trang
nghiêm được chứng A-la-hán. Phật hỏi về viên thông thì như chỗ chứng của con,
lấy mùi hương để trang nghiêm là trên hết.
Mùi hương thuộc về
sáu trần nên nói là trần khí. Đồng tử thường là chỉ cho trẻ con khoảng mười hai
mười ba tuổi, nhưng đồng tử ở đây là chỉ cho Bồ-tát mới giác ngộ ít phần, chưa
được tròn đủ. Đứng về mặt giác ngộ thì Phật là bậc giác ngộ viên mãn, còn
Bồ-tát chỉ mới có phần giác. Giác ngộ viên mãn dụ như ông già, phần giác ví như
đứa trẻ.
Sao gọi là lấy mùi
hương để trang nghiêm? Bởi vì khi ngửi thấy mùi hương, ngài liền dùng trí tuệ
quán: Mùi hương này không phải từ cây, không phải từ hư không, không phải từ
khói, không phải từ lửa, đi không có mục tiêu, đến cũng không có chỗ nơi. Như
vậy, mùi hương này không thật, không nơi chốn, không cố định. Quán như vậy rồi
liền tiêu hết những vọng tưởng, phát minh được tánh vô lậu.
Người xưa ngửi mùi
hương cũng tu được, còn chúng ta không biết dùng trí tuệ quán chiếu là hư dối
không thật, trái lại cứ tìm kiếm phân biệt. Căn bệnh đó làm chúng ta khó ngộ
đạo, chỉ tăng thêm vọng tưởng, ở trong vọng thức chứ không đi đến vô lậu.
4. Viên thông về vị
trần
Hai vị Pháp vương
tử là Dược Vương và Dược Thượng, cùng với năm trăm vi Phạm thiên ở trong hội,
liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng:
- Chúng con từ kiếp
vô thủy làm lương y ở thế gian, trong miệng thường nếm vàng, đá, cỏ cây ở thế
giới Ta-bà này, danh số có tới mười muôn tám ngàn (108.000) vị. Như thế thảy
đều biết các vị đắng, chua, mặn, lạt, ngọt, cay v.v... cùng với các thứ vị câu
sanh hòa hợp, biến đổi là lạnh, là nóng, có độc, không độc, con đều biết rõ cả.
Câu sanh là bản
chất của nó sẵn như vậy. Ví dụ huỳnh liên bản chất có vị đắng, gừng bản chất là
cay. Hòa hợp nghĩa là vị này vị kia hòa hợp lại thành một vị khác. Biến dị là
đổi thay, trước chưa có vị sau khi pha chế rồi vị đó mới thành.
Chúng con vâng theo
lời dạy của Như Lai, rõ biết tánh của vị chẳng phải không, chẳng
phải có, chẳng phải
tức nơi thân tâm, chẳng phải lìa thân tâm.
Vị chẳng phải
không, vì
nếm biết rõ ràng làm sao nói không được. Chẳng
phải có, vì vị đắng chua... đợi để vào lưỡi mới biết, còn
riêng nó không tự biết đắng chua. Chẳng phải
tức thân tâm, vì nếu nó ở thân tâm thì thân tâm tự ra vị, đâu đợi
phải có cây cỏ. Chẳng phải lìa thân tâm, vì
nếu lìa thân tâm thì ai biết đắng, ai biết ngọt. Các thứ vị đều là duyên hợp hư
dối, không có tự thể, không phải từ cái này, không phải từ cái kia. Do biết rõ
ràng vị không thật có nên được khai ngộ.
Do phân biệt nhân
của vị trần, từ đây mà được khai ngộ, nhờ Phật Như Lai ấn chứng cho anh em
chúng con danh hiệu Bồ-tát Dược Vương và Dược Thượng, nay trong hội này làm
Pháp vương tử. Chúng con nhân nơi vị mà được giác ngộ sáng suốt, tiến lên bậc
Bồ-tát. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, nhân vị trần là hơn cả.
Trong thời quá khứ,
hai vị Bồ-tát này do nhân duyên cúng dường thuốc cho chúng tăng và tất cả mọi
người, nên được hiệu là Dược Vương và Dược Thượng. Bây giờ Phật lại lấy hiệu ấy
mà gọi tên hai ngài.
Pháp vương tử là
con của đấng Pháp vương. Do các ngài chuyên môn về vị, nên trong chỗ tu chứng
vị trần là trên hết. Như vậy, tu hành tùy theo thói quen, tùy theo sở tập.
Người nào tập quen cái gì, tu theo đó thì mau ngộ đạo, không phải cố định ai
cũng tu giống như nhau.
5. Viên thông về
xúc trần
Bạt-đà-bà-la cùng
đồng bạn là mười sáu vị khai sĩ, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân
Phật, bạch Phật rằng:
- Trước kia ở chỗ
đức Phật Oai Âm Vương, chúng con do nghe pháp mà xuất gia. Vào giờ tắm của
chúng tăng, con theo thường lệ vào nhà tắm, chợt ngộ được nhân của nước không
phải rửa bụi cũng không phải rửa thân, trong khoảng giữa đó an nhiên, được
không có gì. Do chỗ tu tập xưa không quên, cho đến ngày nay theo Phật xuất gia
được quả vô học. Đức Phật ấy gọi con là Bạt-đà-bà-la, do diệu xúc phát sáng,
được ở trong hàng Phật tử. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, nhân
xúc trần là hơn cả.
Chúng ta thường nói
nước là để rửa, nhưng nước là nước, không phải để rửa bụi, cũng chẳng để rửa
thân. Vì bụi dính nơi thân nên lấy nước dội lên, rồi nước trôi đi cuốn theo
bụi, chứ nước không phải dành để rửa bụi. Chỉ do quan niệm của mọi người, cứ
nghĩ cái gì cũng để cho mình dùng, nước để uống, để tắm, để rửa... Tùy chỗ sử
dụng của mỗi người mà thấy có những công dụng ấy. Đây là quan niệm chủ quan
điên đảo của con người. Sự thật nước chỉ là nước, chứ nước không để cho mình
làm gì. Thể của nước là lặng lẽ.
Lại nữa, đất nước
gió lửa gọi là tứ đại, tứ đại thuộc về trần. Nước thuộc tứ đại, tức cũng là
trần. Chẳng lẽ lấy bụi rửa bụi? Nhưng tại sao chúng ta phải tắm? Chẳng qua là
vì trong chỗ đối đãi tạm dùng vậy thôi, chứ trên lẽ thật thì nước không phải để
rửa cũng không phải để tắm. Nước là nước chứ nó không để làm cái gì. Khi quán
như vậy, ở trong khoảng giữa đó tâm an nhiên lặng lẽ, được chỗ không có gì là
thật.
Như vậy, khi tắm
các ngài cũng quán tưởng, thấy được đạo ngay trong khi tắm. Thấy lẽ thật của
các pháp gọi là ngộ đạo, rõ được các pháp thế gian đều do tâm mê vọng hư dối
của chúng sanh biến hiện. Thể của các pháp vốn tịch nhiên lặng lẽ, không có cái
dụng gì riêng cho ai.
Ngài Bạt-đà-bà-la
đã xuất gia từ thời đức Phật Oai Âm Vương là vị Phật đầu tiên ở thế giới này.
Trải qua không biết bao nhiêu đức Phật rồi, nay mới gặp Phật Thích-ca được quả
vô học. Tuy rất lâu xa nhưng nhân đời trước không mất, chỗ tu tập đời trước
không quên. Do vậy ngày nay chúng ta tu hành, dù không thể thành Phật liền cũng
phải dài lâu, nhưng xưa tu hạnh gì thì nay cứ tiếp nối, trải qua bao nhiêu đời
kiếp cũng không quên. Đi một bước là gần một bước. Cứ vậy mà bước tiếp tục,
càng tiếp tục càng gần. Tuy lâu xa nhưng có ngày sẽ tới không nghi ngờ.
6. Viên thông về
pháp trần
Ma-ha Ca-diếp và
Tỳ-kheo-ni Tử Kim Quang liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch
Phật rằng:
- Ở kiếp xa xưa
trong thế giới này có đức Phật ra đời tên là Nguyệt Đăng, chúng con được thân
cận nghe pháp, tu học. Sau khi Phật diệt độ, chúng con cúng dường xá-lợi, đốt
đèn sáng liên tục, dùng vàng tía sáng bóng để tô thếp hình tượng Phật. Từ đó
đến nay đời nào sanh ra thân thể cũng thường sáng ngời viên mãn như vàng tía.
Tỳ-kheo-ni Tử Kim Quang này là quyến thuộc của con, đồng thời phát tâm.
Con quán sát sáu
trần ở thế gian đều biến đổi, chỉ dùng không tịch tu mà được diệt tận, thân tâm
mới có thể vượt trăm ngàn kiếp như là khảy móng tay. Con do quán pháp không mà
thành A-la-hán. Thế Tôn bảo con là người tu hạnh đầu-đà bậc nhất, diệu pháp
khai sáng tiêu diệt các lậu. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con,
nhân pháp trần là hơn cả.
Ngài Ca-diếp là vị
Tổ ban đầu của Thiền tông. Ngài quán về pháp trần thấy không thật, hư dối, do
đây tâm được thanh tịnh. Pháp trần là bóng của năm trần còn rơi rớt lại trong
tâm thức, nó là tướng biến hoại, là không, rỗng lặng. Sau khi quán pháp trần
được không rồi thì thành bậc A-la-hán. Pháp trần là nhân hữu lậu, do khéo tu mà
diệt hết. Vì vậy ngài nói nhân nơi pháp trần là hơn cả.
Nhân tu của ngài
Ca-diếp có liên hệ với chỗ tu của chúng ta. Thay vì gọi pháp trần, chúng ta gọi
là vọng tưởng. Vọng tưởng là hư dối, do chạy theo bóng của năm trần mà có. Hiện
nay chúng ta tu ý căn, dẹp hết những pháp trần lăng xăng, tức cũng nương theo
hướng của ngài Ca-diếp.
7. Viên thông về
nhãn căn
A-na-luật-đà liền
từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:
- Khi con mới xuất
gia thường thích ngủ nghỉ, Như Lai quở con là loài súc sanh. Con nghe Phật quở
khóc lóc tự trách, suốt bảy ngày không ngủ, mù cả hai mắt.
Một hôm Phật đang
thuyết pháp cho chúng Tỳ-kheo nghe, thấy ngài A-na-luật-đà ngủ gục. Phật bảo:
- A-na-luật, Thầy
sợ phép vua và sợ giặc cướp mà tu hành chăng?
- Thưa không, bạch
Thế Tôn.
- Vì sao Thầy xuất
gia học đạo?
- Con chán ngán
sanh lão bệnh tử, sầu lo khổ não nên muốn bỏ nó, vì thể xuất gia học đạo.
Phật bảo:
- Thầy là con nhà
quý tộc, có lòng tin kiên cố, xuất gia học đạo. Hôm nay đích thân ta thuyết
pháp, tại sao Thầy ngủ gục giống như con sò, con hến?
Tôn giả A-na-luật
liền từ chỗ ngồi đứng dậy bày vai bên phải, quỳ xuống chắp tay bạch Phật:
- Từ nay về sau, dù
thân hình tan nát, con trọn không ở trước Như Lai ngủ gục.
Tôn giả A-na-luật
suốt bảy ngày không ngủ, mắt bị hư, Phật bảo:
- Người chuyên cần
tinh tấn thì cùng trạo cử tương ưng, còn nếu giải đãi lại cùng kiết sử tương
ưng. Nay Thầy nên hành vừa chừng ở giữa.
A-na-luật bạch
Phật:
- Khi trước con đã
ở trước Như Lai phát thệ, nay không thể làm trái bản nguyện mình.
Phật cho mời thầy
thuốc nổi tiếng ở nước Ma-kiệt-đà là ngự y Kỳ-bà đến trị liệu cho Tôn giả.
Kỳ-bà thưa:
- Nếu thầy
A-na-luật chịu ngủ một chút, con sẽ trị mắt được.
Phật khuyên tôn giả
A-na-luật nên ngủ một chút thì trị mới lành bệnh, nhưng Tôn giả cương quyết
không ngủ nên mắt bị mù luôn.
Đây là một hình ảnh
về sự cương quyết của một người học đạo. Ban đầu ngài cũng không hơn gì chúng
ta, khi nghe pháp có lúc cũng ngồi lim dim, cũng ngủ. Tuy nhiên, một lần ngài
bị rầy thì từ đó về sau nhất định không tái phạm, chết cũng không phạm, chấp
nhận bị mù chứ không đổi lời hứa. Đó là từ dở mà chuyển thành hay. Còn chúng ta
ngày nay cũng dở mà ít chịu chuyển nên cứ dở hoài. Chúng ta phạm lỗi, được nhắc
nhở rồi ít ngày lại phạm nữa, là vì mình không tôn trọng lời hứa, thiếu cương
quyết, thiếu nghị lực để thực hiện điều mình hứa, đó là cái dở. Ai cũng có dở,
nhưng nếu biết chuyển thì thành hay. Câu chuyện này là một kinh nghiệm lớn, cho
chúng ta thấy người học đạo phải có ý chí như vậy.
Đức Thế Tôn dạy con
tu chánh định Kim cang nhạo kiến chiếu minh. Con không do con mắt mà xem thấy
mười phương, rỗng suốt tinh tường, như xem trái cây ở trong lòng bàn tay.
Nhạo kiến chiếu
minh là
ưa thấy sáng, đây không phải là thấy sáng ở con mắt mà thấy sáng từ trong tâm.
Khi ngài A-na-luật đắc đạo rồi, tuy không có mắt sáng mà ngài nhìn khắp cả tam
thiên đại thiên thế giới rõ ràng, rỗng suốt như xem trái cây ở trong lòng bàn
tay. Như vậy là thấy bằng tâm, thấy trùm khắp.
Một hôm ngài ngồi
vá chiếc y rách, không thấy đường xỏ kim, ngài nghĩ: "Chư A-la-hán đắc đạo
trong thế gian hãy xâu kim giúp tôi." Bấy giờ Phật dùng thiên nhĩ nghe
được, đi tới nói:
- Thầy đưa kim đây
ta xâu cho.
A-na-luật bạch
Phật:
- Vừa rồi con gọi
các vị muốn cầu phước ở thế gian xâu kim cho con.
- Người cầu phước ở
thế gian không ai hơn ta.
- Thân Như Lai là
thân chân pháp, lại còn muốn cầu pháp nào nữa? Như lai đã qua khỏi biển sanh
tử, lại thoát khỏi ái trước, nay còn cố cầu làm phước.
Phật bảo:
- Đúng vậy,
A-na-luật, đúng như lời Thầy nói.
Qua câu chuyện,
chúng ta mới thấy chỗ mình không biết kiệm phước. Đức Phật phước đức vô lượng
vô biên vẫn còn bòn mót từng chút phước xỏ kim, chúng ta thiếu phước mà còn xài
phí, để đồ đạc hư hao là hủy hoại phước đức của mình. Của Tăng chúng làm ra là
của chung, của Phật tử cúng là của đàn-na thí chủ, chúng ta phải ráng cẩn thận
dè dặt đừng phí phạm mà tổn đức. Bởi vậy người tu phải luôn tỉnh táo sáng suốt,
cần mẫn, tiết kiệm.
Như Lai ấn chứng
cho con thành A-la-hán. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, xoay cái
thấy trở về nguồn gốc, đây là đệ nhất.
Không phải thấy ra
ngoài mà xoay trở về tánh thấy trạm viên, đó là bậc nhất.
8. Viên thông về tỹ
căn
Châu-lợi-bàn-đặc-ca
liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:
- Do con thiếu sự
trì tụng, không có tánh đa văn, lúc đầu con gặp Phật, nghe pháp xuất gia, cố
ghi nhớ một câu kệ của Như Lai, mà trong một trăm ngày nhớ được câu trước thì
quên câu sau, nhớ sau thì quên trước, Phật thương con ngu tối mới dạy con an cư
điều hòa hơi thở ra vào. Khi ấy con quán hơi thở vi tế, cùng tột sanh trụ dị
diệt biến đổi trong từng sát-na, tâm con rỗng suốt được đại vô ngại, cho đến
sạch hết các lậu, thành A-la-hán. Dưới tòa của Phật được ấn chứng thành bậc vô
học. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, xoay hơi thở trở về không,
đây là trên hết.
Ngài
Châu-lợi-bàn-đặc-ca còn chậm lụt hơn mình, một câu kệ học hoài không thuộc.
Phật dạy ngài quán hơi thở ra vào, khi mới sanh khởi, dừng trụ, biến đổi, đến
khi lặng mất, từng sát-na đều thấy rõ ràng, lâu ngày bỗng dưng tâm sáng ra,
được đại vô ngại.
Như vậy không chỉ
người thông minh mới tu được, người dù chậm lụt ngu tối bao nhiêu, nếu khéo tu
khéo quán cũng có thể tiến lên đạt được đạo quả. Những người đời trước có duyên
học tập nhiều thì đời này thông minh nhớ lâu, ai đời trước học hỏi sơ sài thì
nay học chậm mà mau quên, nhưng vẫn có thể tu bằng phương tiện khác. Quan trọng
là ý chí và sự bền bỉ tu hành rồi cũng tới chỗ giác ngộ.
Người tu cần đủ
niềm tin, tu một pháp tức thông tất cả pháp. Người không có niềm tin dù tu cả
ngàn pháp cũng không thành tựu được pháp nào. Cho nên khi tin nhận được một
pháp môn nào, cứ như vậy mà tiến, đừng sợ mình tối dốt hoặc thua sút người
khác. Chú tâm tu hoài sẽ ngộ đạo, được lậu tận A-la-hán.
Chuyện ở đây khác
trong kinh Tăng Nhất A-hàm. Kinh nói ngài tối dốt, anh của ngài là Đại Bàn-đặc
bảo:
- Nếu em không thể
tu được thì trở về làm cư sĩ.
Ngài nghe lời này xong,
đến ngoài cửa tinh xá Kỳ-hoàn khóc ròng. Đức Phật thấy hỏi, ngài nói bị anh
đuổi không cho tu nữa nên buồn khóc. Phật bảo ngài chớ lo sợ, rồi nắm tay dẫn
đến tịnh thất, dạy cầm chổi quét. Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc nhớ chữ
"quét" lại quên chữ "chổi", nhớ chữ "chổi" lại
quên chữ "quét". Trải qua mấy ngày, ngài sực nghĩ Phật dạy mình quét
là quét những bụi bặm phiền não sâu xa trong tâm mình. Tôn giả lại nghĩ:
"Buộc kết là dơ, trí tuệ là trừ. Nay ta có thể lấy chổi trí tuệ quét trói
buộc này." Ngài tiếp tục quán sát cho đến khi chứng được trí giải thoát,
thành A-la-hán.
9. Viên thông về
thiệt căn
Kiều-phạm-bát-đề từ
chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:
- Con mắc khẩu
nghiệp từ kiếp quá khứ, do khinh chê chế giễu các vị Sa-môn nên nhiều đời sanh
ra bị bệnh lưỡi giống lưỡi trâu. Như Lai chỉ dạy con pháp môn tâm địa "một
vị trong sạch". Con diệt được thức tâm, vào chánh định, quán cái biết vị
không phải thân thể, không phải vật, liền đó được vượt khỏi các lậu của thế
gian. Trong thì giải thoát thân tâm, ngoài thì vượt khỏi thế giới, xa lìa ba
cõi, như chim ra khỏi lồng. Xa lìa cấu nhiễm, tiêu diệt hết các trần, được pháp
nhãn thanh tịnh, thành A-la-hán. Chính Như Lai ấn chứng cho con được đạo vô
học. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, xoay các vị trở về tánh
biết, đây là bậc nhất vậy.
Ngài
Kiều-phạm-bát-đề quán biết các vị không phải thân cũng không phải là vật. Nếu
vị từ thân ra thì lưỡi tự biết ngon, đâu cần phải có đồ ăn ngon để vào. Nếu vị
có từ vật thì vật tự biết ngon, đợi gì cái lưỡi nếm. Do đó vị không cố định,
không có thật. Ngài liền đó siêu việt các lậu ở thế gian. Như vậy từ một phương
tiện này hoặc một phương tiện khác, nếu khéo tu đều được ngộ đạo.
10. Viên thông về
thân căn
Tất-lăng-già-bà-ta
liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:
- Khi con mới phát
tâm theo Phật vào đạo, thường nghe Như Lai nói các việc không vui ở thế gian.
Lúc con đi khất thực trong thành, tâm suy nghĩ về pháp môn Phật dạy, bất chợt
giữa đường bị gai độc đâm vào chân, toàn thân đau nhức. Con nghĩ về pháp môn
Phật dạy, bất chợt giữa đường bị gai độc đâm vào chân, toàn thân đau nhức. Con
nghĩ có cái biết, biết được cái rất đau này. Tuy biết được cảm giác đau nhức,
nhưng tâm biết thanh tịnh không đau mà biết được đau. Con lại suy nghĩ, như thế
một thân đâu thể lại có hai cái biết. Nhiếp niệm chưa bao lâu, thân tâm con
bỗng nhiên rỗng không. Trong khoảng hai mươi mốt ngày, các lậu đều dứt sạch
thành A-la-hán. Chính Phật ấn ký cho con thành bậc vô học. Phật hỏi về viên
thông, như chỗ chứng của con, thuần một tánh biết thì quên thân, đây là bậc
nhất vậy.
Ngài
Tất-lăng-già-bà-ta nhân đạp gai đau nhức mà ngộ đạo. Ngày nay chúng ta nhức
răng hay đạp gai có ngộ không? Khi chúng ta đau quá thì rên la, kêu người nhổ
răng hoặc lấy gai ra giùm v.v... chứ không dùng trí quán. Ngài
Tất-lăng-già-bà-ta khi đạp gai đau liền khởi quán: mình có cái biết biết được
cảm giác đau. Như vậy thành ra có hai cái biết: cảm giác đau đó là của thân,
còn biết được cảm giác đau đó là tâm thanh tịnh. Nếu chúng ta sống với cái biết
được cảm giác đau đó thì thanh tịnh, bằng không mình sẽ rên la. Như vậy hiện
nay chúng ta đang sống với cái nào?
Thiền sư Đức Sơn có
bệnh, Tăng hỏi: Lại có cái chẳng bệnh chăng? Sư đáp: Có. Tăng hỏi: Thế nào là
cái chẳng bệnh: Sư bảo: Ôi da! Ôi da!
Như vậy cái biết
được cảm giác bệnh, cái đó không bệnh; cũng như cái biết được cảm giác đau, cái
đó không đau. Vậy khi đang đau, chúng ta sống với cái biết được cái đau tức là
sống với cái không đau, tự nhiên ra khỏi đau khổ.
Như thế giả sử có
những bệnh chướng của thân thì coi như trò chơi, không có gì quan trọng. Đó là
cảm giác đau của tứ đại, còn mình thật thì không đau. Ngược lại nếu thấy cái
đau là mình, có gì hơi chạm đến thân thì không chịu nổi. Chính do không coi cái
đau là mình, mà bệnh gì rồi cũng qua. Biết thân giả hợp thì không thấy gì quan
trọng. Trở về tánh giác chân thật thì quên thân. Nếu gan dạ chúng ta chuyển
được nghiệp, yếu đuối quá thì nghiệp chuyển mình.
Mỗi vị đều có một
công hạnh riêng, tùy theo cảnh duyên, lợi dụng cảnh duyên đó để tu, để quán
chiếu thì trí tuệ phát sáng. Do trí tuệ phát sáng nên được giác ngộ, thoát khỏi
mê lầm, ra khỏi trầm luân trong tam giới.
11. Viên thông về ý
căn
Tu-bồ-đề liền từ
chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:
- Từ nhiều kiếp đến
nay, tâm con được vô ngại, tự nhớ thọ sanh nhiều như số cát sông Hằng. Khi còn
trong thai mẹ, con liền biết được lý không tịch. Như thế cho đến mười phương
đều thành rỗng không, cũng khiến cho chúng sanh chứng được tánh không. Nhờ Như
Lai chỉ dạy con phát minh tánh giác là chân không, tánh không tròn sáng, được
quả A-la-hán, chóng vào biển Không Bảo Minh của Như Lai, thấy biết đồng như
Phật. Phật ấn chứng cho con thành bậc vô học, về tánh rỗng không giải thoát,
con là bậc nhất vậy. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, các tướng
đều vào Không, năng không và sở không đều hết, xoay các pháp trần trở về Không,
đó là trên hết.
Lúc ngài Tu-bồ-đề
còn ở trong thai mẹ đã thâm nhập lý không, biết được các pháp là không nên khi
sanh ra trong nhà tự nhiên trống rỗng. Đây là nói về căn ý, ý duyên với pháp
trần, biết được các pháp không nên ý cũng không.
12. Viên thông về
nhãn thức
Xá-lợi-phất liền từ
chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:
- Từ nhiều kiếp đến
nay, tâm thấy (nhãn thức) của con thanh tịnh. Tuy con thọ sanh nhiều đời như số
cát sông Hằng như vậy, nhưng đối với tất cả sự biến hóa của thế gian hay xuất
thế gian, một phen thấy liền được thông suốt không chướng ngại. Ở giữa đường
con gặp anh em Ca-diếp-ba, cùng đi theo nghe họ tuyên nói về lý nhân duyên, con
ngộ được tâm không bờ mé. Con theo Phật xuất gia, kiến giác tròn sáng, được đại
vô úy, thành A-la-hán, làm trưởng tử của Phật, từ miệng Phật sanh, do pháp Phật
hóa sanh. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, do tâm thấy phát sáng,
sáng cùng tột tri kiến, đây là bậc nhất vậy.
Phật tử là con Phật. Đây là
con trong chánh pháp, khác với con ngoài đời. Nhân nghe pháp từ miệng Phật nói
mà hiểu đạo tu hành, được sanh trong chánh pháp nên gọi là con Phật, do từ miệng Phật sanh, từ pháp của Phật mà hóa
sanh.
Nhiều người thắc
mắc tại sao trong đạo có nhiều vị lớn tuổi hơn Thầy mà vẫn xưng con với Thầy.
Như ngài Xá-lợi-phất lớn tuổi hơn Phật, lại nói là trưởng tử của Phật. Cũng như
bây giờ, tăng ni do nghe quý thầy dạy rồi làm đệ tử xuất gia cũng gọi là con.
Đây là con trong chánh pháp. Vì từ lời nói của Thầy mà mình ngộ hiểu, nhờ Thầy
chỉ dạy dẫn đường mà mình sáng phần nào, được khai mở trí tuệ. Trí tuệ người
học mới được khai mở là nhỏ, còn trì tuệ của người thầy dạy mình là lớn, trí
tuệ nhỏ đối với trí tuệ lớn xem như là con, là mới sanh.
13. Viên thông về
nhĩ thức
Bồ-tát Phổ Hiền
liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:
- Con đã từng làm
Pháo vương tử của các đức Như Lai nhiều như số cát sông Hằng. Như Lai mười
phương dạy những đệ tử có căn cơ Bồ-tát, tu hạnh Phổ Hiền, do tên con mà lập
hạnh. Bạch Thế Tôn! Con dùng tâm nghe (nhĩ thức) phân biệt những thấy biết của
chúng sanh. Nếu ở phương khác, cách ngoài thế giới như cát sông Hằng, có một
chúng sanh trong tâm phát minh hạnh Phổ Hiền, khi ấy con liền cỡi voi sáu ngà,
phân thân thành trăm ngàn, đến chỗ người kia. Dù người kia nghiệp chướng sâu
dày chưa thể thấy được con, cong cũng thầm xoa đảnh, ủng hộ an ủi họ, khiến cho
họ thành tựu được hạnh Phổ Hiền. Phật hỏi về viên thông, con nói về bản nhân
của con, do tâm nghe mà được phát minh, phân biệt tự tại, đây là bậc nhất vậy.
Hạnh Phổ Hiền là
lấy tên của Bồ-tát Phổ Hiền mà đặt. Đối với những người còn nghiệp chướng sâu
dày, không thể trực tiếp thấy Bồ-tát được thì ngài có thể thầm xoa đầu an ủi ấn
chứng cho họ.
14. Viên thông
về tỹ thức
Tôn-đà-la-nan-đà
liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:
- Khi con mới xuất
gia theo Phật vào đạo, tuy giữ đủ giới luật, nhưng khi tu chánh định tâm con
thường tán loạn chưa được vô lậu. Thế Tôn dạy con và Câu-hy-la quán chót mũi
trắng. Ban đầu con quán sát kỹ, trải qua hai mươi mốt ngày, thấy hơi thở trong
mũi ra vào như khói. Thân tâm bên trong sáng suốt, soi khắp cả thế giới, trong
sạch rỗng không giống như lưu ly.
Đây là những chặng
tu quán tướng trắng chót mũi. Ngài Tôn-đà-la-nan-đà quán suốt hai mươi mốt
ngày, thấy hơi thở vô ra tinh tế như làn khói, tâm ngài rỗng sáng thấu suốt như
lưu ly. Lúc này tâm đã vào định.
Tướng khói dần tiêu
mất, hơi thở ở mũi thành màu trắng. Tâm con khai ngộ, các lậu hết sạch. Các hơi
thở ra vào hóa thành hào quang, sáng soi khắp cả thế giới mười phương, được quả
A-la-hán. Thế Tôn ấn ký cho con sẽ được quả Bồ-đề. Phật hỏi về viên thông, con
do tiêu dung được hơi thở, dừng lặng lâu được phát sáng, sáng suốt tròn đầy,
diệt hết các lậu, đây là bậc nhất vậy.
Đây tới chặng thứ
hai, hơi thở hóa thành màu trắng, dứt hết các lậu. Rồi dần dần thấy hơi thở như
hào quang sáng chiếu khắp, chứng quả A-la-hán.
15. Viên thông về
thiệt thức
Phú-lâu-na-di-đa-la-ni
Tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:
- Từ nhiều kiếp đến
nay, con có biện tài vô ngại, tuyên nói về lý khổ, không, thấu suốt được thật
tướng. Như thế cho đến pháp môn bí mật của Như Lai nhiều như số cát sông Hằng,
con ở trong chúng khéo léo chỉ bày, được không chút sợ sệt. Thế Tôn biết con có
đại biện tài, nên đem âm thanh pháp luân dạy con tuyên dương. Con ở trước Phật,
giúp Phật chuyển pháp luân, nhân phát tiếng sư tử rống mà thành A-la-hán. Thế Tôn
ấn chứng cho con là thuyết pháp hơn cả. Phật hỏi về viên thông, con dùng pháp
âm để hàng phục ma oán, tiêu diệt các lậu, đây là đệ nhất vậy.
Trong thời Phật còn
tại thế, ngài Phú-lâu-na thường trợ giúp Phật trong việc giáo hóa. Những khi
đức Phật giảng tóm tắt quá, đại chúng thường thưa hỏi ngài để được giải thích
rộng thêm. Sau khi ngài hoặc ngài Xá-lợi-phất triển khai thành một bài giảng
cho chúng, được Phật ấn chứng là đúng, thì bài kinh đó được lưu truyền như
chính lời Phật dạy.
Như vậy, thuyết
pháp cũng được đắc đạo. Nhưng ở đây thuyết pháp có hai mặt, hàng phục ma oán ở
ngoài và hàng phục ma oán bên trong. Trong ngoài đều hàng phục hết mới đắc đạo.
Bởi vậy nên nói tiêu hết các lậu mới thành A-la-hán.
16. Viên thông về
thân thức
Ưu-ba-ly liền từ chỗ
ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:
- Chính con theo
Phật vượt thành xuất gia. Chính con xem thấy Như Lai sáu năm siêng tu khổ hạnh.
Chính con thấy Như Lai hàng phục ma quân, chế phục các ngoại đạo, giải quyết
khỏi các lậu tham dục ở thế gian. Con nhờ Phật dạy răn, như thế cho đến ba ngàn
oai nghi tám muôn tế hạnh, tánh nghiệp giá nghiệp thảy đều thanh tịnh.
Theo kinh điển
Pa-li, ngài Ưu-ba-ly là thợ hớt tóc cho Phật khi ngài đang là thái tử, còn theo
Phật vượt thành xuất gia là Xa-nặc.
Trong năm
giới, tánh nghiệp là
sát sanh, trộm cướp, tà dâm và nói dối. Khi được sanh ra, con người đã mang sẵn
những tánh chất đó rồi, nên gọi là tánh nghiệp. Như tánh thích sát hại, thấy
chim thì muốn bắn, thấy con vật gì cũng muốn lấy đá chọi, đó là tánh ác đã sẵn.
Giá nghiệp là nghiệp sáu này
mới tạo. Giống như uống rượu. Con nít ba bốn tuổi không biết ghiền rượu, uống
rượu là do mình mới tập. Cho nên Phật cấm không cho tạo, gọi là giá, nghĩa là
ngăn lại.
Thân tâm được tịch
diệt, thành quả A-la-hán. Con là người kỷ cương ở trong chúng của Như Lai.
Chính Như Lai ấn chứng cho tâm con, về trì giới tu thân, con là trên hết trong
chúng. Phật hỏi về viên thông, con do giữ thân, thân được tự tại, kế đó giữ
tâm, tâm được thông suốt. Về sau, tất cả thân tâm đều thông suốt, đây là bậc
nhất.
Ngài Ưu-ba-ly ban
đầu giữ thân thanh tịnh, kế xoay về giữ tâm, tâm được không động, sáng suốt mới
chứng quả A-la-hán. Nếu chỉ biết giữ giới ở thân mà không xoay về giữ tâm thì
cũng khó chứng quả.
17. Viên thông về ý
thức.
Đại Mục-kiền-liên
liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:
- Lúc ban đầu, con
đang đi khất thực ngoài đường bỗng gặp ba anh em ông Ca-diếp-ba là
Ưu-lâu-tần-loa, Già-gia và Na-đề tuyên nói nghĩa nhân duyên sâu xa của Như Lai.
Con chóng phát tâm, được rất thông suốt. Như Lai ban cho con chiếc y ca-sa để
đắp vào thân, râu tóc tự rụng. Con dạo đi mười phương được không chướng ngại,
thần thông phát sáng, trong chúng con được suy tôn là bậc nhất, thành quả
A-la-hán. Đâu chỉ có Thế Tôn, mà Như Lai mười phương đều khen thần lực của con,
tròn sáng thanh tịnh, được tự tại không sợ sệt. Phật hỏi về viên thông, con do
xoay tâm về chỗ yên lặng, tâm phát ra sáng suốt, như là lóng dòng nước đục, lâu
ngày thành trong sáng, đây là bậc nhất.
Thần thông của ngài
Đại Mục-kiền-liên là do thiền định mà được, nên ngài nói do xoay tâm trở về chỗ
yên lặng mà tâm phát sáng. Như vậy do ý thức yên định, phát ra được ánh sáng,
thành diệu dụng, gọi đó là thần thông.
18. Viên thông về
hỏa đại
Ô-sô-sắt-ma đối
trước đức Như Lai chắp tay đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:
- Con thường nhớ
trước kia nhiều kiếp lâu xa, tánh nhiều tham dục. Có đức Phật ra đời hiệu là
Không Vương, nói người nhiều dâm dục sẽ thành đống lửa lớn, dạy con quán khắp
thân, các hơi lạnh nóng nơi trăm vóc tứ chi. Nhờ quán vậy, thần quang bên trong
ngưng đọng, hóa tâm đa dâm là Hỏa Đầu. Con do sức Hỏa quang tam-muội mà thành
A-la-hán, trong tâm phát đại nguyện khi chư Phật thành đạo, con sẽ thân cận làm
lực sĩ để hàng phục ma oán. Phật hỏi về viên thông, con do quán kỹ các cảm xúc
hơi ấm nơi thân tâm, lưu thông không chướng ngại, các lậu đã tiêu hết, sanh ra
ngọn lửa trí tuệ quý báu lớn, lên bậc Vô thượng giác, đây là bậc nhất vậy.
Tâm da dâm như đống
lửa mạnh, nếu khéo quán trở lại nơi thân, để cho thần quang lóng đứng, thì tâm
nhiều dâm dục đó thành lửa trí tuệ. Do khéo quán mà các lậu hết, sanh ra ngọn
lửa trí tuệ sánh lớn thành bậc giác ngộ. Như vậy tất cả xấu dở nếu khéo tu biết
chuyển đều có thể từ xấu thành hay tốt. Con người thường chỉ chấp nơi xấu tốt,
chạy theo lấy bỏ, không biết khéo chuyển, lóng gạn nước đục để thành nước
trong.
Phật pháp không rời
thế gian. Hiểu rõ và khéo chuyển thì tất cả pháp đều là Phật pháp. Không biết
chuyển, dù suốt năm này tháng nọ đi tìm Phật pháp cũng không thể gặp. Cho nên
người xưa không sợ những xấu dở, chỉ sợ không biết tu. Con người do duyên
nghiệp nhiều đời, hoặc nặng về bệnh này, hoặc nặng về bệnh nọ. Nếu biết tu thì
bệnh chướng chuyển thành giác ngộ, phiền não thành Bồ-đề.
19. Viên thông về
địa đại
Bồ-tát Trì Địa liền
từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:
- Con nhớ thuở xưa
khi đức Như Lai Phổ Quang ra đời, con là Tỳ-kheo, thường ở nơi tất cả những con
đường quan yếu, bến đò và những chỗ đất hiểm trở eo hẹp, có các việc trở ngại,
làm tổn hại ngựa xe, con đều đắp cho bằng phẳng, hoặc là bắc cầu, hoặc gánh đất
cát.
Ở những con đường
quan trọng, mọi người qua lại nhiều, nếu bị lở hay lầy lội v.v... thì Bồ-tát
Trì Địa đổ thêm đất, sửa sang cho bằng phẳng. Nơi những bến đò nếu bị gập ghềnh
thì ngài sửa sang cho an toàn dễ đi. Chỗ đất đai hiểm yếu trở ngại, như những
chỗ bị đá lăn, ngăn trở đường sá, ngài đều dọn dẹp cho xe ngựa tới lui được yên
ổn.
Như thế siêng năng
khổ nhọc, trải qua vô lượng đức Phật ra đời. Hoặc có chúng sanh ở chỗ chợ búa cần
người khuân vác đồ vật, trước tiên con vì họ mang vác đến nơi, để đồ vật xuống
liền đi, không lấy tiền thù lao. Khi đức Phật Tỳ-xá-phù ra đời, người đời phần
nhiều bị đói kém, con gánh vác giùm, chẳng kể xa gần chỉ lấy một tiền. Hoặc có
xe, trâu bị mắc lầy, con dùng thần lực đẩy bánh xe lên, cho thoát khổ não.
Vị Đại vương trong
nước thời đó thiết trai cúng dường Phật, khi ấy con làm đường bằng phẳng chờ
Phật đi qua. Đức Phật Tỳ-xá-phù xoa đảnh đầu con, bảo rằng: "Phải bình đất
tâm thì tất cả đất trong thể giới đều bình." Tâm con liền được khai mở,
thấy vi trần nơi thân cùng với vi trần tạo thành thế giới đều bình đẳng không
sai biệt. Tự tánh vi trần không xúc chạm nhau, cho đến đao binh cũng không thể
xúc chạm. Con nơi pháp tánh ngộ được vô sanh nhẫn thành A-la-hán, ngày nay hồi
tâm vào vị Bồ-tát.
Đức Phật Tỳ-xá-phù
dạy Bồ-tát Trì Địa quan trọng là đất tâm, đất tâm bằng phẳng thì đất trên thế
giới tự nhiên bằng phẳng. Tâm ngài khai mở, thấy đất bên ngoài và đất trong
thân không khác. Giả sử chúng ta ra vườn hái rau trái vào ăn, rau trái đó chính
do rễ cây hút các dưỡng chất từ đất nuôi sống. Tuy chúng ta không trực tiếp ăn
đất, nhưng gián tiếp ăn những thứ rau trái có từ đất, đem tất cả những thứ ấy
vào thân, bồi đắp cho thân. Rồi cũng chính nơi thân mình cho ra những thứ bồi
lại cho đất, cứ thế đảo đi lộn lại. Vậy mà chúng ta vẫn thấy đất nơi mình là
quý, còn đất bên ngoài không sạch, nên khi thân mình dính một chút đất, vội
phủi lia phủi lịa hoặc kiếm nước rửa, không ngờ mình cũng là đất. Đất mà lại chê
đất!
Khi tâm ngài đã
được khai mở, giả sử có người cầm dao bén đâm ngài cũng không thể làm hại được.
Vì ngài đã thấy được các trần là bình đẳng, tự tánh vi trần không xúc chạm
nhau. Ngài chứng A-la-hán, rồi hỏi tâm về Bồ-tát thừa nên gọi Bồ-tát.
Khi nghe chư Phật
nói về tri kiến Phật trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, con sáng tỏ chứng ngộ trước
tiên, nên làm thượng thủ. Phật hỏi về viên thông, con do quán sát kỹ hai thứ vi
trần nơi căn thân và thế giới đều bình đẳng không sai biệt, vốn là Như Lai
tạng; do hư vọng mà phát sanh ra trần, trần tiêu hết thì trí tuệ tròn đủ, thành
tựu đạo Vô thượng, đây là bậc nhất vậy.
Như vậy do quán đất
mà ngài ngộ đạo. Quán đất là quán các vi trần của thân và thế giới bình đẳng
không sai biệt, là Như Lai tạng, do đó mà thấy đạo.
20. Viên thông về
thủy đại
Đồng tử Nguyệt
Quang liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:
- Con nhớ nhiều
kiếp xa xưa như số cát sông Hằng có đức Phật ra đời hiệu là Thủy Thiên, dạy các
Bồ-tát tu tập quán về nước để vào chánh định. Quán tánh nước ở trong thân không
lấn đoạt nhau. Ban đầu từ nước mũi nước miếng, như thế tất cả các thứ tân dịch,
tinh huyết, đại tiểu tiện, xoay vần trong thân đồng là một tánh nước. Thấy nước
trong thân cùng với nước trong các biển Hương Hải, nơi cõi Phù Tràng Vương ở
ngoài thế giới, đều bình đẳng không có sai biệt.
Lối quán này có chỗ
đặc biệt. Bồ-tát không quán nước ở ngoài mà quán nước ở ngay trong thân mình.
Nghĩa là quán sát trong thân từ nước miếng nước mũi đến mồ hôi máu mủ... những
chất ướt đều thuộc về nước, đồng một thể tánh trong mát, chứ không có tướng sai
biệt như máu là đỏ, nước miếng là trắng... Kế đó quán nước ngoài biển cả, thể
tánh cũng đồng như ở trong thân. Đó là giai đoạn thứ nhất về quán nước.
Khi ấy con mới
thành tựu pháp quán này, chỉ thấy được nước mà chưa được không thân. Con đang
làm Tỳ-kheo, ngồi thiền trong thất, có đứa đệ tử ngó qua cửa sổ nhìn vào thất,
thấy khắp cả thất chỉ toàn nước trong, trọn không thấy gì khác. Nó nhỏ dại
không biết, lấy hòn gạch ném vào trong nước nghe tiếng bõm, ngó qua rồi bỏ đi.
Sau khi con xuất định, chợt thấy đau tim, như ngài Xá-lợi-phất bị quỷ Vi Hại
đánh.
Một lần nọ ngài
Xá-lợi-phất ngồi thiền nơi chỗ trống với cái đầu vừa cạo. Có con quỷ Vi Hại đi
ngang, đánh trên đầu ngài một cái. Lúc ấy ngài đang nhập định. Ngài
Mục-kiền-liên ngồi thiền gần đó trông thấy giật mình, vì cái đánh của quỷ có
sức làm bể hai trái núi. Vậy mà sau khi ngài Xá-lợi-phất xả thiền, ngài
Mục-kiền-liên hỏi thăm, ngài nói chỉ nghe hơi ê đầu.
Con tự suy nghĩ,
nay mình đã được đạo A-la-hán, đã lâu xa lìa duyên bệnh, tại sao ngày nay chợt
sanh ra đau tim, không lẽ bị thối thất chăng? Khi ấy, chú đệ tử nhỏ liền đến
gặp con thuật lại việc như trên. Con liền bảo rằng: Nếu sau ngươi lại thấy nước
thì mở cửa vào, lấy hòn gạch trong nước ra. Chú đệ tử nhỏ vâng lời. Sau đó khi
con nhập định, lại thấy nước và hòn gạch rõ ràng, chú đệ tử liền mở cửa vào lấy
hòn gạch ra. Sau khi xuất định, thân con trở lại như cũ.
Theo pháp quán
thông thường thì chỉ người đang quán thấy nước, nhưng khi sức quán mạnh thì
người đang quán tưởng cái gì, người ngoài cũng thấy cái ấy. Khi ngài Nguyệt
Quang quán nước thì cả thất thấy đầy nước. Nước này ở đâu lại đây? Rồi khi ngài
xuất định nước không còn nữa, vậy nước đi đâu? Rõ ràng tất cả từ tưởng mà ra.
Trước đây chúng ta
đã học về tưởng uẩn, khi nghe nói me chua, tâm tưởng đến me thì nước miếng
trong miệng tươm ra. Ở đây khi tưởng nước trong thân đầy khắp thì đất, lửa, gió
mất, chỉ còn thuần là nước, nước tràn đầy cả thất. Đây là được định. Vậy mà vẫn
chưa quên thân, nên chú đệ tử ném hòn gạch vào, khi xuất định ngài bị đau tim.
Phải qua một thời gian lâu sau nữa mới được quên thân, thấu rõ tánh nước là
chân không, tánh không là nước thật (tánh thủy chân không, tánh không chân
thủy).
Ngài Nguyệt Quang
tu pháp quán nước đến mức ấy vẫn chưa quên thân, vậy mà ngày nay có người tu,
quán thấy một chút gì, đã nói tôi được đạo rồi, rất là sai lầm! Đó là lạm xưng,
chưa tới mà tưởng mình đã tới, nói là Phật Bồ-tát, vỗ ngực xưng tên... toàn là
tưởng tượng chứ chưa tới đâu cả. So với các ngài, trong triệu phần chúng ta
chưa được một, tự xưng này kia là tai họa. Người đời không biết vì họ không
học, chúng ta có học rồi mới thấy công phu tu phải rất lâu dài.
Con được gặp vô
lượng đức Phật, như thế cho đến đức Phật Sơn Hải Tự Tại Thông Vương, mới được
quên thân, cùng với nước của các biển Hương Thủy ở thế giới mười phương, tánh
hợp với chân không không hai không khác. Nay ở nơi Như Lai được tên là Đồng
Chân, dự vào hội Bồ-tát. Phật hỏi về viên thông, con do quán tánh nước một vị lưu
thông, được vô sanh nhẫn viên mãn đạo Bồ-đề, đây là bậc nhất vậy.
Hợp với thể tánh
chân không tức là Như Lai tạng. Đến đây Đồng tử Nguyệt Quang mới thành Bồ-tát,
viên mãn đạo Bồ-đề. Chúng ta thấy các vị A-la-hán và Bồ-tát đều nói: "Con
nhở thuở xưa, trải qua số kiếp như cát sông Hằng..." Mới biết các ngài tu
rất nhiều đời mới viên mãn công hạnh. Bởi vậy mỗi người phước duyên không đồng,
kẻ mỏng người dày, kẻ sâu người cạn nên hiện đời có người học ít mà biết nhiều,
kẻ học nhiều mà quên hết. Đó đều do duyên đời trước mình tạo mỏng hay dày mà có
sai biệt. Tuy nhiên, chỗ tu tập không hề quên mất, bao nhiêu đời vẫn tiếp tục
công phu của mình cho đến ngày viên mãn.
Các vị tu Nguyên
thủy cũng có lối tu quán nước. Lấy một bát nước trong vừa đầy, để trong thất hay
một nơi kín đáo yên tịnh. Ngồi an ổn chú tâm vào bất cứ danh từ nào chỉ
"nước", cho đến khi tướng nước hiện ra như quạt lớn bằng pha lê, như
mặt gương tròn lớn giữa hư không, tức là được định. Đây là quán nước ở ngoài,
khác với Bồ-tát quán nước ở trong thân mình, cùng với nước ở các biển mười
phương đồng một thể chân không, mới được đạo Bồ-tát.
IV. HỎI ĐẠI CHÚNG
VỀ VIÊN THÔNG
21. Viên thông về
phong đại
Lưu Ly Quang pháp
vương tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:
- Con nhớ thuở xưa
trải qua số kiếp như cát sông Hằng, có đức Phật ra đời hiệu là Vô Lượng Thanh,
chỉ dạy Bồ-tát về bản giác sáng suốt nhiệm mầu, quán thấy thế giới này và thân
chúng sanh đều là do sức gió vọng duyên chuyển. Con khi ấy quán sát sự an lập
của thế giới, quán sự chuyển đổi của thời gian, quán sự động dừng nơi thân,
quán những động niệm nơi tâm. Quán các thứ động không hai bình đẳng không sai
khác.
Pháp quán này rất
đặc biệt. Người ta thường nói sống là động, không động là không sống. Cái động
này từ gió mà ra: hít hơi vào thì phổi nở, thở ra thì xẹp, rồi quả tim đập,
mạch chảy máu huyết mới lưu thông... Như vậy cuộc sống của con người do động mà
ra. Động đó là từ gió, vậy gió là chủ của sự sống. Không có gió thì không có
động, không động là không có sự sống. Không có gió thì không có động, không
động là không có sự sống. Như vậy thân này là từ vọng duyên, do sức gió chuyển
chứ không có thật. Cho nên khi gió trong thân dừng, thở ra mà không hít vào là
tắt thở chết. Rõ ràng sự sống là từ gió chứ không có gì thật. Vậy mà chúng ta
cứ cho là thật, nói tôi sống thế này thế nọ, thật ra chỉ là một mớ vọng duyên
hư dối, do sức chuyển.
Sau đó ngài khởi
quán thế giới an lập, quán thời gian đổi dời, quán sự động dừng nơi thân, những
động niệm trong tâm. Tất cả cái động đó đều là một, bình đẳng không sai biệt.
Khi ấy con giác ngộ
rõ ràng các thứ động này, đến không từ đâu, đi không chỗ đến. Những chúng sanh
điên đảo như số vi trần trong mười phương, đều đồng một hư vọng. Như thế cho
đến có những chúng sanh trong một thế giới của tam thiên đại thiên thế giới của
tam thiên đại thiên thế giới, như trong một món đồ chứa hàng trăm muỗi mòng kêu
vo ve loạn xạ, ở trong phân tấc mà ầm ỹ cuồng náo.
Các thứ động này
vốn không thật, như cái động của hơi thở, hít vào không biết nó từ đâu đến, thở
ra không biết nó đi về đâu, chỉ là duyên hợp hư dối. Mọi sinh hoạt trong thế
giới này, ngài thấy như là ruồi muỗi kêu trong chai hũ vậy thôi. Chỉ là những
cuồng náo trong một phân một tấc, không có nghĩa lý gì.
Con gặp Phật chưa
bao lâu, được vô sanh nhẫn. Khi ấy tâm con được khai ngộ, mới thấy cõi Phật Bất
Động ở phương đông, làm Pháp vương tử phụng thờ chư Phật mười phương, thân tâm
con phát sáng, rỗng suốt không ngăn ngại. Phật hỏi về viên thông, con do quán
sát sức gió không có chỗ nương, ngộ được tâm Bồ-đề, vào chánh định, hợp với một
diệu tâm của chư Phật mười phương đã truyền, đây là bậc nhất vậy.
22. Viên thông về
không đại
Bồ-tát Hư Không
Tạng liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:
- Con ở chỗ Phật
Định Quang Như Lai chứng được vô biên thân. Khi ấy tay con cầm bốn hạt châu báu
lớn chiếu sáng cõi Phật khắp mười phương như số vi trần, hóa thành hư không.
Lại nơi tự tâm hiện ra Đại viên cảnh, trong phóng ra mười thứ hào quang báu vi
diệu, chiếu tột cùng hư không khắp mười phương. Các cõi Tràng Vương đều hiện
trong gương và nhập vào thân con. Thân con đồng như hư không, không có chướng
ngại nhau. Thân con hay khéo vào các cõi nước như số vi trần, làm nhiều Phật
sự, được đại tùy thuận.
Đại viên cảnh
trí là
trí tròn sáng như gương lớn. Do Bồ-tát Hư Không Tạng dùng trí tuệ quán tất cả
cõi nước đều không có tự tánh, không có tướng thật, nên nói tất cả cõi nước hòa
thành trống không, vào trong gương của ngài và lẫn hòa trong thân ngài.
Thần lực lớn này là
do con quán kỹ tứ đại không có chỗ nương, vọng tưởng sanh diệt và hư không
không có hai, cõi Phật cũng vốn đồng, con do phát minh được tánh đồng mà chứng
vô sanh pháp nhẫn. Phật hỏi về viên thông, con do quán sát hư không vô biên mà
vào chánh định, diệu lực được tròn sáng, đây là bậc nhất.
Bồ-tát Hư Không
Tạng cầm bốn hạt châu lớn, soi các cõi Phật đều hóa thành hư không, rồi từ đại
trí tuệ nơi tự tâm soi tột hư không, lẫn với thân ngài cũng đồng hư không. Sức
đại thần lực này là do khéo quán bốn đại không chỗ nơi. Cả thế giới và thân này
đều từ tứ đại, mà tứ đại thì không có chỗ tựa, không có căn cứ nên giống như hư
không. Những vọng tưởng sanh diệt cùng với hư không là không hai, vọng tưởng
cũng không chỗ tựa, giống như hư không. Như vậy các cõi Phật, vọng tưởng, tứ đại
và hư không cũng đồng là không thật. Do quán tứ đại, vọng tưởng, hư không và
cõi Phật tất cả đồng nhau, không hai không khác mà ngài đạt được vô sanh nhẫn,
thành Bồ-tát.
23. Viên thông về
thức đại
Bồ-tát Di-lặc liền
từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:
- Con nhớ thuở xưa
trải qua số kiếp như vi trần, có đức Phật ra đời hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh.
Con được theo đức Phật kia xuất gia, nhưng tâm con còn nặng danh lợi thế gian,
ưa giao du với nhà quyền quý. Khi ấy đức Thế Tôn dạy con tu tập về định Duy tâm
thức, được chánh định. Trải nhiều kiếp đến nay, dùng chánh định này thờ phụng
chư Phật nhiều như số cát sông Hằng, tâm cầu danh thế gian tiêu diệt không còn.
Đây là lối tu Duy
thức quán của ngài Di-lặc. Ngài kể, thuở xưa tuy xuất gia mà còn tâm cầu danh
thế gian nên Phật dạy quán Duy thức, là pháp quán về các thứ danh tướng. Ngài
quán mãi thành định, tâm cầu danh tự hết.
Tương truyền ngài
Vô Trước mộng thấy lên cung trời Đâu-suất, được Bồ-tát Di-lặc dạy cho Luận
Du-già Sư Địa. Sau ngài đem những điều đã học được giảng dạy lại cho đại chúng.
Hai anh em Vô Trước và Thế thân đã trước tác nhiều bộ luận Duy thức, có công
lớn trong việc phát triển tông này.
Đến khi đức Phật
Nhiên Đăng ra đời, con mới thành tựu được chánh định Vô thượng diệu viên thức
tâm. Cho đến cõi nước của chư Phật cùng tận hư không, sạch dơ, có không đều do
tâm thức của con biến hóa hiện ra. Bạch Thế Tôn! Vì con rõ Duy tâm thức như
thế, từ thức tánh lưu xuất vô lượng Như Lai. Nay được Phật thọ ký, kế đây sẽ
được bổ xứ làm Phật cõi này. Phật hỏi về viên thông, con nhờ quán sát kỹ mười
phương đều do thức, thức tâm tròn sáng, vào được tánh viên thành thật, xa lìa
tánh y tha khởi và biến kế chấp, được vô sanh nhẫn, đây là bậc nhất.
Các cõi nước chư
Phật cùng khắp hư không, những thứ tịnh uế, có không, tất cả đều từ tâm thức
biến hóa ra chứ không thật. Đây là lý Duy thức. Chẳng những thế giới của chúng
ta, mà thế giới của chư Phật trong mười phương nhiều vô số trong hư không cũng
đều do tâm thức biến ra. Do quán duy thức ngài phá chấp biến kế, lìa được y tha
khởi mà vào viên thành thật tánh.
Chúng ta xét kỹ tất
cả các pháp sạch dơ... trên thế gian có thật không? Ví dụ như máu trong thân là
quý. Nhưng giả sử có ai chích máu nhỏ ra chén rồi uống lại thì có gớm không?
Như vậy ở trong thân là quý mà ra ngoài là tiện. Vậy thì quý hay tiện do từ
đâu? Do tâm tưởng tượng mà ra, nên nói tất cả đều từ thức tâm biến hiện, chứ
không có thật. Chúng ta luôn cho mọi thứ là thật, chấp sai lầm nên không thấu
được lẽ thật.
Biến kế sở chấp
tánh là
lối chấp sai lầm, do thấy lầm rồi khởi ra chấp trước. Y tha khởi tánh là phân biệt
nơi các duyên khác mà phát ra. Viên thành
thật tánh là tánh tròn sáng hoàn toàn chân thật, do xa lìa
biến kế sở chấp và y tha khởi mà hiện. Như vậy, biến kế sở chấp là chấp sai
lầm, y tha khởi là chấp theo nhân duyên, đến viên thành thật mới trở về chỗ
chân thật viên mãn.
Ví dụ ban đêm trên
đường có một đoạn dây nuộc nằm ngoằn ngoèo, vì không có đèn chúng ta nghĩ đó là
con rắn nên hoảng sợ la lên bỏ chạy. Sợi dây mà tưởng lầm là con rắn. Cái hiểu
biết này không đúng, tức là chấp sai lầm, gọi là biến kế sở chấp. Khi đốt đèn soi
ra mới biết đó là sợi dâu. Sợi dây đó không tự có, mà do xơ dừa hoặc gai bố bện
lại mà thành. Đây gọi là y tha
khởi, tức là biết do nhân duyên mà tạo thành sợi dây. Biến kế
và y tha là hai tánh còn ở trong chặng đường của phàm phu. Đến giai đoạn sau
cùng là biết tất cả những nhân duyên hòa hợp mà thành đó cũng không thật, tánh
nó là không, đó là viên thành
thật hoàn toàn chân thật.
Hiện giờ chúng ta
đang sống với cái nào? Biến kế sở chấp! Tại sao? Do vì chúng ta thường không
thấy được chỗ duyên khởi, chỉ chấp sự vật một cách sai lầm. Tại sao chấp sai
lầm? Vì mê tối. Như trong ví dụ kia, vì ban đêm nên sợi dây tưởng là con rắn.
Ban đêm tượng trưng cho sự mê tối. Khi còn mê tối thì nhận lầm không đúng với
lẽ thật, gọi là biến kế sở chấp.
Chúng ta nhận lầm
một cách điên đảo về thân. Nói thân này là thân của mình, đó là nhận lầm, vì
thân này là tứ đại hòa hợp, đâu có cái gì của mình. Lại mang một cái tên Nguyễn
Văn Mít hay Nguyễn Thị Xoài gì đó, tự thấy tên đó là mình. Nếu ai động tới tên
thì nổi sân si lên ngay. Như vậy thân này thực chất ra sao chúng ta không biết,
chỉ biết bám vào những giả tướng, những ngôn ngữ hư dối, chấp làm thân mình.
Biến kế sở chấp làm
chúng ta sống hết sức sai lầm. Ví dụ có người nói sẽ cho mình một thỏi vàng,
nói hoài nhưng không cho, chúng ta sẽ đánh giá lời nói này là vô nghĩa, có ngữ
mà không có nghĩa. Dù họ nói trăm ngàn lần, mình cũng cười thôi, biết lời nói
đó không có giá trị. Nhưng ngược lại, nếu có người nói mình là con chó, có giận
không? Người ta nói mình là con chó, mà có thành chó đâu. Lời kia chỉ có ngữ,
không có nghĩa cũng là lời không giá trị. Vậy mà nếu ai nói mình là chó một lần
thì giận ít, hai lần giận nhiều, tới mười lần thì giận hết cỡ.
Lời vô nghĩa dù nói
một ngàn lần cũng là vô nghĩa, tại sao lại giận? Đây là biến kế sở chấp. Lời
nói không có lẽ thật nhưng do chấp nên cứ giận nhau đùng đùng, mới thấy mình
ngu si đáo để. Những ngôn ngữ người đời nói qua nói lại trong lúc cuồng dại
nóng nảy đều là vô nghĩa. Vậy mà do chấp những lời đó rồi sân si với họ. Rõ
ràng chúng ta đang sống trong sự lầm chấp, không có lẽ thật. Cái không đáng
chấp mà chấp, thật quá dại khờ. Ba chặng đường mà chúng ta giậm chân hoài ở
chặng số một, bước qua không nổi.
Kế đến, khi biết
các pháp do nhân duyên sanh là đã tiến bộ hơn, có được một chút sáng suốt. Tuy
nhiên cũng chưa tới nơi, chừng nào thấu suốt được duyên sanh này cũng không
thật, lúc đó mới đi tới chỗ viên mãn chân thật. Như vậy lý Duy thức đưa chúng
ta từ chỗ nhận định sai lầm đến lý nhân duyên, từ lý nhân duyên đến chỗ chân
thật cứu cánh, gọi là viên thành
thật, được vô sanh nhẫn.
24. Viên thông về
kiến đại
Đại Thế Chí pháp
vương tử cùng với năm mươi hai vị Bồ-tát đồng tu, liền từ chỗ ngồi đứng dậy
đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:
- Con nhớ những
kiếp xa xưa nhiều như số cát sông Hằng có đức Phật ra đời hiệu là Vô Lượng
Quang, tiếp tục có mười hai đức Như Lai ra đời trong một kiếp, đức Phật rốt sau
hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang, Ngài dạy con niệm Phật tam-muội.
Đức Phật Di-đà cũng
gọi là Vô Lượng Thọ Phật hay Vô Lượng Quang Phật. Chữ "niệm" ở đây có
nghĩa là nhớ. Niệm Phật tức là nhớ Phật. Mình nhớ Phật như đức Phật nhớ mình.
Ví như có hai
người, một người chuyên nhớ, một người chuyên quên. Hai người như thế dù gặp
nhau cũng như không gặp, dù thấy cũng như không thấy. Nếu hai người cùng nhớ
nhau, cả hai nhớ nhau sâu đậm, như thế từ đời này cho đến đời khác, giống như
hình với bóng không hề cách xa. Chư Như Lai mười phương thương xót nhớ nghĩ đến
chúng sanh nhớ Phật niệm Phật thì hiện giờ và đời sau nhất định sẽ thấy Phật,
cách Phật không xa, không nhờ phương tiện mà tự tâm được khai mở. Như người ướp
hương, thân có mùi thơm. Đây gọi là dùng hương quang để trang nghiêm.
Bồ-tát Đại Thế Chí
ứng dụng phương pháp nhớ Phật
niệm Phật. Chư Phật không bao giờ bỏ chúng sanh, nhưng nếu
chúng sanh bỏ Phật thì dù Phật có nhớ cũng không làm gì được. Cũng như mẹ
thương con mà con bỏ mẹ thì mẹ không làm gì được. Trong pháp tu niệm Phật, phải
luôn luôn có cảm ứng với nhau, sự tu mới có kết quả. Phật thương chúng sanh thì
chúng sanh cũng phải thiết tha hướng về Phật. Cũng như thầy tổ thương mình,
mình cũng thiết tha hướng về thầy tổ thì mọi việc mới kết quả tốt.
Phật không quên
chúng sanh, chỉ là chúng sanh quên Phật. Có hai ông Phật, một ở trong và một ở
ngoài. Chúng ta từ xưa bỏ quên ông Phật bên trong nên cho là mất Phật. Như
chàng Diễn-nhã-đạt-đa ở đoạn trên, trong khi phát cuồng cho đầu mình là yêu
quái, chạy lang thang đầu này đầu kia, nhưng cái đầu thật nào có giận mà bỏ đi.
Nó vẫn nguyên vẹn ở đó, cho đến bao giờ Diễn-nhã-đạt-đa thức tỉnh hết cuồng,
nhìn lại thấy đầu hiện còn không mất.
Khi chúng ta nhớ
Phật, muốn trở về thì sớm muộn gì cũng gặp Phật. Niệm là nhớ, còn Phật là tánh
giác. Niệm Phật tức là nhớ tánh giác vậy.
Bản nhân của con do
tâm niệm Phật vào được vô sanh nhẫn. Nay ở thế giới này con nhiếp độ những
người niệm Phật trở về cõi Tịnh độ. Phật hỏi về viên thông, con không có chọn
lựa, đều do nhiếp sáu căn, niệm thanh tịnh liên tục được vào chánh định, đây là
bậc nhất.
Chữ nhiếp là dẫn dắt. Bồ-tát
Quán Thế Âm và Bồ-tát Quán Thế Âm và Bồ-tát Đại Thế Chí là hai vị trợ hóa với
đức Phật A-di-đà dẫn dắt những người niệm Phật về cõi Cực lạc. Phương pháp niệm
Phật của Bồ-tát Đại Thế Chí là phải nhiếp cả sáu căn khiến cho niệm thanh tịnh
liên tục không dừng, như vậy mới được vào chánh định. Vậy Bồ-tát Đại Thế Chí tu
phương pháp gì? Ngài dùng niệm Phật tâm mà nhập vô sanh nhẫn. Niệm Phật tâm là
niệm Phật của tự tâm chứ không niệm Phật bên ngoài. Giờ chúng ta có niệm Phật
tâm không? Tuy mình không chủ trương niệm Phật, nhưng luôn nhớ tánh giác của
mình là niệm Phật chứ gì!
25. Viên thông về
nhĩ căn
Khi ấy Bồ-tát Quán
Thế Âm liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn, con
nhớ thuở xưa vô số kiếp như cát sông Hằng, khi đó có đức Phật ra đời hiệu là
Quán Thế Âm. Con ở chỗ đức Phật kia phát tâm Bồ-đề, đức Phật kia dạy con tu từ
văn, tư, tu mà vào chánh định.
Nhân tu của Bồ-tát
Quán Thế Âm là văn tư tu, gọi là Tam tuệ học. Đối với chúng sanh ở cõi Ta-bà,
tất cả phương pháp tu hành đều không qua ba môn này. Người học đạo đều bắt đầu
từ nghe, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp qua sách vở, đây gọi là Văn tuệ. Nghe
rồi dùng trí tuệ suy xét thấu đáo, xem có hợp lý lẽ, đúng chân lý không rồi mới
tin nhận, gọi là Tư tuệ. Khi thấu đúng liền đem ứng dụng tu, đó là Tu tuệ. Văn
tư tu là ba điều thiết yếu, được đầy đủ mới đi đến công hạnh viên mãn. Ba môn
này không những quan trọng đối với người học đạo mà cả thế gian.
Văn mà thiếu tư,
nghe mà không suy xét sẽ đưa đến mê tín, thiếu tinh thần khoa học. Nếu cứ người
xưa nói người nay làm, không biết nói trong trường hợp nào thì sự học không
chín chắn. Người thấu đáo nói, mình nghe theo có thể tiến được, người không
thấu đáo nói bướng, mình nghe theo rồi sau mang họa. Tu mà không học, không suy
nghĩ kỹ, mười người dễ lầm hết chín, vì không biết đường mà cứ đi thì làm sao
khỏi lạc. Người biết rõ đường ít khi bị lầm. Nếu văn tư đầy đủ mà không chịu
ứng dụng thì chỉ là học suông.
Bồ-tát Quán Thế Âm
trình chỗ tu nhân đưa đến kết quả giác ngộ giải thoát, có được ba mươi hai ứng
thân. Chúng ta nếu muốn được như ngài thì phải tu tập theo đó.
Ban đầu ở trong
tánh nghe, vào dòng rồi thì quên tiếng, chỗ vào đã lặng lẽ thì hai tướng động
tịnh rõ ràng chẳng sanh. Như thế lần lần tăng lên, năng văn và sở văn đều hết.
Không dừng ở chỗ hết năng văn sở văn mà tiến đến năng giác cũng không. Không
giác tròn đầy cùng tột thì năng không và sở không đều diệt. Sanh diệt đã diệt
thì tịch diệt hiện tiền. Bỗng nhiên vượt khỏi thế gian và xuất thế gian, mười
phương đều tròn sáng, được hai việc thù thắng. Một là trên hợp với tâm bản giác
sâu mầu của chư Phật mười phương, cùng với chư Phật Như Lai đồng một sức từ.
Hai là dưới hợp tất cả chúng sanh trong sáu đường ở khắp mười phương, cùng các
chúng sanh đồng một bi ngưỡng.
Khi thấy trong kinh
đức Phật khen ngợi pháp tu này hoặc ngài Văn-thù tán thán, nhiều người đã ứng
dụng tu pháp này. Nhưng do không biết được cội nguồn sự tu nên có khi sanh ra
bệnh hoạn hoặc tu mà không đạt kết quả gì.
Bồ-tát Quán Thế
Âm, ban đầu ở trong tánh nghe, khi
vào được dòng của tánh nghe (nhập lưu) thì quên các tiếng ở ngoài. Thói quen
của mọi người là khi nghe liền chạy theo tiếng bên ngoài. Nay tu là không chạy
theo tiếng mà nhớ lại tánh nghe. Ở đoạn trên đức Phật dạy phải lựa nhân không
sanh diệt mà tu thì mới đạt được quả không sanh diệt, đó là nghĩa quyết định
thứ nhất. Hiện nay ngay nơi tai mình có tánh nghe không sanh diệt, nếu sống trở
về với nó gọi là nhập lưu. Khi
sống với tánh nghe thuần thục thì không còn chạy theo tiếng nữa, lần lần quên
các tiếng bên ngoài, gọi là vong
sở. Sở là tiếng bị nghe,
gọi là sở văn, còn
hay nghe là tánh
nghe, gọi là năng văn. Như
vậy chỉ một chút này đã là vấn đề tu hành quan trọng rồi.
Khi tâm được lặng
lẽ thì hai tướng động và tịnh (tức sở văn)
chẳng sanh. Đây là chặng thứ nhất quên trần, không còn bị thanh trần ở ngoài
quấy nhiễu nữa, chỉ còn một tánh nghe. Qua chặng thứ hai, như ở đoạn trước Phật
đã nói, cái nghe này là một bộ phận nhỏ của tánh viên trạm bị dính khắn lại ở
tai, chứ không phải là toàn bộ. Cho nên đến đây cũng phải phá vỡ năng văn và sở
văn. Ở chặng một chỉ là quên tiếng, nhớ lại cái nghe, bây giờ cũng thoát luôn
cái nghe đó (gọi là thoát niêm),
không còn dính ở cái nghe nữa, tức được sáu căn đồng dùng.
Ngang đây cũng
không dừng, cần tiến lên bước thứ ba là năng giác và
sở giác đều không. Do thoát được cái dính ở căn, trí tuệ phát
sáng, rõ được tánh giác. Rõ tánh giác tức có năng giác và sở giác, vẫn còn
trong đối đãi giới hạn nên cũng chưa phải là cứu cánh. Năng giác và sở giác
cũng phải đều không, đó là chuyển vị.
Cái không đó cũng
không kẹt, thì năng không và sở không đều diệt. Đến
đây tánh giác tròn đầy cùng tột trùm khắp mười phương, năng không và sở không
diệt hết, trở về bản giác. Cuối cùng, khi tất cả cái sanh diệt không còn thì
tướng tịch diệt hiện tiền, lặng lẽ thênh thang, vượt lên cả thế và xuất thế
gian, mười phương tròn sáng viên mãn pháp thân. Đến đây trên đối với chư Phật
thì luôn kính thờ, dưới đối với chúng sanh thì có lòng từ bi giống như chư
Phật. Đó là tâm của người đạt đạo viên mãn.
Đoạn này hết sức hệ
trọng mà người học Phật ít chịu học tới nơi. Do đó khi tu được chút ít liền tự
mãn, khoe mình có thần thông, phép lạ. Đó đều là bệnh, chẳng tròn đủ mấy chặng
đường như trên mới khỏi bị lỗi lạm xưng, tức là chưa chứng mà tưởng mình chứng.
Người biết đạo rất dè dặt, chín chắn nhìn từng chặng đường tu hành của những vị
Bồ-tát trước, xem mình đang đứng ở đâu, đã được cái gì. Biết rõ rồi mới khiêm
tốn, còn không biết rõ nhiều khi tự hào tưởng mình đã tới nơi nên nói ra những
lời quá đáng.
Có nhiều người tu
lầm lẫn, ngồi quán tánh nghe hoặc nhớ cái nghe trong lỗ tai. Hậu quả là bị nặng
đầu, ù tai, tim đập... Dồn tinh thần trở vào trong quá sức đều là bệnh. Lại có
người quán tánh nghe trùm khắp mười phương, đó là tưởng, chẳng phải là phản
văn. Những lối này đều sai, không phải pháp tu Phật dạy.
Đoạn trên, sau khi
ngài A-nan thấy được ngôi nhà, tức thấy pháp thân trùm khắp mười phương, mới
xin Phật chỉ cho cửa vào. Chúng sanh chưa thấy nhà mà muốn vào, đó là bệnh. Cho
nên điều kiện số một khi muốn vào nhà là phải giác, tức là phải ngộ được pháp
thân trùm khắp. Điều kiện thứ hai là nhận ra nơi mình có tánh nghe, tức là một
phấn của tánh viên trạm chân thật đang gá ở tai. Sống với tánh nghe là trở về
với tánh thật đang hiện hữu, chứ không phải ngó vô trong chăm chăm, cũng không
phải ngó ra ngoài tưởng trùm khắp.
Pháp tu này là pháp
tiến tới giác ngộ chứ không phải tầm thường. Chúng ta phải ứng dụng thấu đáo,
biết được ngọn ngành mới khỏi bị lầm lẫn.
1. Ba mươi hai ứng
thân
Bạch Thế Tôn, do
con cúng dường đức Quán Âm Như Lai, nhờ đức Như Lai kia trao cho chon chánh
định Kim cang như huyễn văn huân tu, cùng với Phật Như lai đồng một từ lực,
khiến thân con thành ba mươi hai ứng thân vào các cõi nước.
Nhờ Phật chỉ dạy,
Bồ-tát Quán Thế Âm tu trở về được với thể giác tròn sáng cùng tột mười phương,
nên mới có diệu dụng ba mươi hai ứng thân, lấy lòng từ làm gốc, tùy loại chúng
sanh mà giáo hóa không chướng ngại. Giả sử người nào có lòng từ mạnh mẽ, có đủ
sức tự tại, khi cần làm Tăng giáo hóa thì làm Tăng, khi cần làm cư sĩ giáo hóa
thì làm cư sĩ v.v... Như vậy ngay trong đời này cũng có thể tùy duyên ứng hiện
theo sở thích của người để giáo hóa độ sanh.
Bạch Thế tôn, nếu
các vị Bồ-tát vào chánh định, tiến tu vô lậu, thắng giải hiện được tròn đủ, con
liền hiện thân Phật vì họ mà nói pháp khiến họ được giải thoát.
Nếu các Bồ-tát có
khả năng tu hành vô lậu, thắng giải được viên mãn thì ngài liền hiện thân Phật
thuyết pháp, khiến cho họ được giải thoát.
Nếu các hàng hữu
học tâm lặng lẽ sáng suốt nhiệm mầu, chỗ thắng diệu hiện tròn đủ, con liền ở
trước họ hiện thân Độc giác vì họ mà nói pháp khiến cho được giải thoát.
Nếu các hàng hữu
học đoạn mười hai nhân duyên, do các duyên đã đoạn mà được thắng tánh, họ hiện
thân Duyên giác vì họ nói pháp khiến cho được giải thoát.
Nếu các hàng hữu
học được pháp không của Tứ đế, tu Đạo đế nhập được Diệt đế, thắng tánh hiển
hiện tròn đủ, con liền ở trước họ hiện thân Thanh văn vì họ nói pháp khiến cho
được giải thoát.
Nếu các hàng hữu
học đoạn mười hai nhân duyên, do các duyên đã đoạn mà được thắng tánh, chỗ
thắng diệu hiển hiện tròn đủ, con liền ở trước họ hiện thân Duyên giác vì họ
nói pháp khiến cho được giải thoát.
Nếu các hàng hữu
học đoạn mười hai nhân duyên, do các duyên đã đoạn mà được thắng tánh, chỗ
thắng diệu hiển hiện trò đủ, con liền ở trước họ hiện thân Duyên giác vì họ nói
pháp khiến cho được giải thoát.
Nếu các hàng hữu
học được pháp không của Tứ đế, tu Đạo đế nhập được Diệt đế, thắng tánh hiển
hiện tròn đủ, con liền ở trước họ hiện thân Thanh văn vì họ nói pháp khiến cho
được giải thoát.
Quán Tứ đế đến chỗ
không còn chấp nữa gọi là dược không
của Tứ đế.
Nếu các chúng sanh
muốn tâm được sáng suốt giác ngộ, không phạm những dục trần, muốn thân được
thanh tịnh, con liền ở trước họ hiện thân Phạm vương vì họ nói pháp khiến cho
được giải thoát.
Thông thường, do tu
hạnh thanh tịnh không ưa dục, được sanh lên cõi trời Phạm thiên. Phạm vương hay
Đại Phạm thiên là vị trời ở tầng ba thuộc Sơ thiền hay cõi Sắc.
Nếu các chúng sanh
muốn làm Thiên chủ để thống lãnh chư thiên, con liền ở trước họ hiện thân
Đế-thích vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.
Nếu các chúng sanh
muốn thân tự tại dạo đi khắp mười phương, con liền ở trước họ hiện thân trời Tự
Tại vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.
Nếu các chúng sanh
muốn thân tự tại, bay đi trong hư không, con liền ở trước họ hiện thân trời Đại
Tự Tại, vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.
Nếu các chúng sanh
ưa thống lãnh quỷ thần, cứu hộ cõi nước, con liền ở trước họ hiện thân Thiên
đại tướng quân vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.
Nếu các chúng sanh
ưa thống lãnh thế giới, bảo hộ chúng sanh, con liền ở trước họ hiện thân Tứ
thiên vương, vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.
Nếu các chúng sanh
ưa sanh ở thiên cung, sao sử quỷ thần, con liền ở trước họ hiện thân thái tử
cõi Tứ thiên vương, vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.
Nếu các chúng sanh
ưa làm vua cõi người, con ở trước họ hiện thân vua vì họ nói pháp khiến cho
được thành tựu.
Nếu các chúng sanh
ưa làm chủ gia tộc lớn, được người đời kính nhường, con ở trước họ hiện thân
trưởng giả vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.
Nếu các chúng sanh
ưa bàn nói những lời hay, tự ở yên thanh tịnh, con ở trước họ hiện thân cư sĩ
vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.
Nếu các chúng sanh
ưa trị nước, phân chia các bang các ấp, con ở trước họ hiện thân tể quan vì họ
nói pháp khiến cho được thành tựu.
Nếu các chúng sanh
ưa các số thuật, ở yên gìn giữ Vệ-đà, con ở trước họ hiện thân Bà-la-môn vì họ
nói pháp khiến cho được thành tựu.
Nếu có người nam ưa
học hạnh xuất gia, giữ các giới luật, con ở trước họ hiện thân Tỳ-kheo vì họ
nói pháp khiến cho được thành tựu.
Nếu có người nữ
muốn học hạnh xuất gia, giữ gìn các cấm giới, con ở trước họ hiện thân
Tỳ-kheo-ni vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.
Nếu có người nam ưa
giữ năm giới, con ở trước họ hiện thân ưu-bà-tắc vì họ nói pháp khiến cho được
thành tựu.
Nếu có người nữ tự
giữ gìn năm giới, con ở trước họ hiện thân ưu-bà-di vì họ nói pháp khiến cho
được thành tựu.
Nếu có người nữ lập
thân trong nội chính để sửa trị nước nhà, con ở trước họ hiện thân nữ chúa hoặc
quốc phu nhân, mệnh phụ, người giàu có, vì họ nói pháp khiến cho được thành
tựu.
Nếu có chúng sanh
không hoại nam căn, con ở trước họ hiện thân đồng nam vì họ nói pháp khiến cho
được thành tựu.
Nếu có người nữ
trinh bạch ưa giữ thân trong sạch, chẳng muốn người xâm phạm, con ở trước họ
hiện thân đồng nữ vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.
Nếu có chư thiên
muốn ra khỏi loài trời, con liền hiện thân trời vì họ nói pháp khiến cho được
thành tựu.
Nếu có các loài
rồng muốn thoát khỏi loài rồng, con liền hiện thân rồng vì họ nói pháp khiến
cho được thành tựu.
Nếu có các dược-xoa
thoát khỏi gốc dược-xoa, con ở trước họ hiện thân dược-xoa vì họ nói pháp khiến
cho được thành tựu.
Nếu có càn-thát-bà
muốn ra khỏi dòng càn-thát-bà, con ở trước họ hiện thân càn-thát-bà vì họ nói
pháp khiến cho được thành tựu.
Nếu có a-tu-la muốn
ra khỏi loài a-tu-la, con ở trước họ hiện thân a-tu-la vì họ nói pháp khiến cho
được thành tựu.
Nếu có các
khẩn-na-la muốn ra khỏi loài khẩn-na-la, con liền ở trước họ hiện thân
khẩn-na-la, vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.
Nếu có các
ma-hô-la-già muốn ra khỏi loài ma-hô-la-già, con ở trước họ hiện thân
ma-hô-la-già, vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.
Nếu có các chúng
sanh muốn làm người, tu hành để được làm người, con ở trước họ hiện thân người
vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.
Nếu có các chúng
sanh muốn làm người, tu hành để được làm người, con ở trước họ hiện thân người
vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.
Nếu có phi nhân có
hình, không hình, có tưởng, không tưởng muốn ra khỏi loài của họ, con ở trước
họ hiện các thân kia, vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.
Ấy gọi là ba mươi
hai ứng thân thanh tịnh nhiệm mầu, vào trong các cõi nước, đều do chánh định
Văn huân văn tu, sức mầu vô tác, thành tựu tự tại.
Sở dĩ Bồ-tát Quán
Thế Âm được ba mươi hai ứng thân, tùy loại ứng hiện giáo hóa chúng sanh là do
ngài tu ba hạnh Văn Tư Tu. Từ đó vào được chánh định nên có hiệu dụng tự tại
như vậy.
Chúng ta học kinh
mới thấy các chặng đường tu học đều được chỉ dạy tường tận, đi từ thấp đến cao.
Học kinh Lăng-nghiêm chủ yếu là phải biết điều căn bản: nhân tu khế hợp với quả
chứng. Muốn tu quả vô sanh thì phải chọn nhân vô sanh. Khi nói "phản văn
tự tánh" nghĩa là phải nhận ra nhân vô sanh ở tai. Từ nhân vô sanh đó tiến
lần lên, cho đến khi thoát khỏi các dính khắn của nhân đó thì mới được thấu
suốt.
Cũng như khi tu
biết vọng thì không phải chỉ biết vọng là đủ. Vọng tưởng tức là pháp trần, là sở,
còn cái hay biết là năng. Không theo vọng tưởng, nhưng cái hay biết đó cũng còn
là cái vô sanh đang bị dính khắn chứ chưa tròn đầy.
Hạnh tu của đức
Quán Âm rõ ràng ứng hợp với mười mục chăn trâu trong nhà thiền. Người ứng dụng
tu phản văn này đã thấy được pháp thân, nên không còn những mục ban đầu Tìm
trâu, Thấy dấu, Mới chăn v.v…
- Trâu đã hết lung
lăng nên chỗ đầu tiên ở đây là nhập lưu,
vong sở (vào dòng rồi thì quên tiếng), sở đó là trâu, tương
đương mục thứ sáu là Quên trâu.
- Quên trâu nhưng
còn chăn, là mục thứ bảy.
- Đến giai đoạn kế,
trâu và chăn không còn tức là năng văn và
sở văn đều hết, năng giác sở giác đều không, là mục thứ tám,
cái vòng tròn không.
- Cái không đó cũng phải vượt
qua nữa. Đến sanh diệt đã diệt thì tịch diệt
hiện tiền, vượt khỏi thế gian và xuất thế gian, mười phương đều tròn sáng là
nhập Phật quốc, thể nhập pháp thân, tức mục thứ chín.
- Rốt sau, trên đồng sức từ, dưới đồng một lòng bi
ngưỡng, tức là mục thứ mười, xách con cá chép, bầu rượu đi vào
trần lao. Ở đây Bồ-tát ứng thân chỗ này chỗ kia, hoặc những vị ngộ đạo được đại
từ đại bi có thể làm đủ các hạnh, bửa củi gánh nước đều là ứng thân để giáo hóa
chúng sanh.
Như vậy, tu hành
thứ lớp rất rõ ràng chứ không phải chuyện mơ màng. Hiểu thấu đáo thì tu không
sai lệch, bằng không dễ bị lầm lạc. Có khi tu lầm không biết lại tưởng là đắc
đạo. Tự mình lầm còn có thể, làm lầm người khác là họa lớn, cho nên phải dè
dặt.
Kiểm qua hai mươi
lăm vị Bồ-tát và A-la-hán, mỗi vị đều có nhân tu riêng, từ ban đầu phát tâm tu,
dần dần tiến lên thành Bồ-tát hay A-la-hán. Tuy từ chúng sanh tiến tới Phật lâu
xa, nhưng nếu chúng ta gieo nhân nào thì từ từ quả sẽ đến, chứ không đi đường
khác. Đó là một nguồn an ủi lớn lao cho chúng ta, vì nếu tu mà không biết đời
sau có còn tiếp tục tu được nữa không, điều đó sẽ làm mình hoang mang lo lắng.
2. Mười bốn công
đức vô úy
Phẩm Phổ Môn trong
kinh Pháp Hoa có nói đến mười bốn thứ công đức vô úy nhưng không giải thích.
Kinh Lăng-nghiêm này Bồ-tát Quán Thế Âm giải thích rõ ràng từng phần.
Bạch Thế Tôn, lại con
do sức mầu vô tác của chánh định Kim cang văn huân văn tu này, cùng với mười
phương ba đời tất cả chúng sanh trong sáu đường đồng một bi ngưỡng, khiến
các chúng sanh ở nơi thân tâm con được mười bốn thứ công đức vô úy.
Văn huân là huân tập ở tánh
nghe, văn tu là tu tập
tánh nghe, do đây mà được chánh định vững chắc như kim cang và có sức mầu nhiệm
không do tạo tác mà được. Do Bồ-tát tu phản văn tự tánh thành tựu nên đối với chúng sanh trong lục đạo đồng một bi
ngưỡng, tức là lòng hâm mộ kính thờ. Do vậy chúng sanh ở nơi
thân tâm ngài được mười bốn công đức không sợ sệt.
Một là, do con
không tự quán âm thanh mà dùng quán để quán trở lại tánh nghe của mình, khiến
cho những chúng sanh khổ não trong mười phương kia quán âm thanh liền được giải
thoát.
Sở dĩ Bồ-tát có
được diệu dụng khi chúng sanh khổ não, là do ngài không đuổi theo âm thanh mà
xoay lại tánh nghe, nhớ mình đang nghe.
Thói quen của chúng
ta, nghe là đuổi theo âm thanh. Nay tu là nghe tất cả âm thanh mà không đuổi
theo tiếng, chỉ nhớ mình đang nghe. Người ta nói gì làm gì, động tịnh gì ở
ngoài cũng mặc, nghe tất cả nhưng không chú ý, chỉ nhớ mình đang nghe. Đuổi
theo tiếng bên ngoài gọi là chạy theo thanh trần, còn nhớ mình có cái đang nghe
gọi là phản văn, là nghe trở lại.
Chúng sanh khổ não
là vì đuổi theo trần cảnh ở ngoài. Nay không đuổi theo trần cảnh nữa mà luôn
xoay lại thì mọi khổ não liền hết. Cho nên những chúng sanh khổ não kia nếu
biết quán âm thanh liền được giải thoát. Quán âm thanh là nhớ lại tánh nghe của
mình. Như vậy cùng nghe tiếng mà một bên giải thoát, còn một bên trầm luân.
Ví dụ có người nói
nặng mình, mình nhớ cái đang nghe, họ nói gì mặc kệ, không chú ý lời đó, thì
tuy có nghe mà không giận. Bởi không giận nên trở về tánh thanh tịnh, gọi là
giải thoát. Trái lại, nghe nói nặng liền phân biệt suy nghĩ rồi nổi sân lên, đó
là chạy theo tiếng, đưa tới sân hận là nhân trầm luân. Như vậy cùng một cái
nghe mà đuổi theo tiếng thì làm chúng sanh khổ não, còn biết quán lại tánh nghe
liền được giải thoát. Khác nhau ở chỗ biết tu hay không biết tu.
Nếu hướng về nội
tâm mà nói, những chúng sanh khổ não này là những chúng sanh vọng tưởng. Khi
không chạy theo trần cảnh, trở về với chân tánh thì các vọng tưởng sanh diệt
nhiều vô số liền tự mất, tức được giải thoát.
Hai là, do con xoay
thấy biết trở lại, khiến các chúng sanh dù vào trong lửa lớn, lửa cũng không
thể đốt cháy.
Ngài tu hạnh xoay
hiểu biết trở về tự tánh, không chạy theo các trần ở ngoài. Tánh thấy tánh nghe
không có tướng mạo cho nên lửa không thể đốt cháy. Vì vậy chúng sanh nào gặp
lửa lớn muốn không bị hại, niệm danh hiệu ngài thì lửa không thể đốt.
Thân chúng ta là
tướng tứ đại, còn lửa là tướng lửa, nên tướng lửa đốt tướng tứ đại. Nếu xoay
hiểu biết trở về tự tánh thì trong Như Lai tạng, tánh lửa là chân không, tánh
không là thật lửa, thanh tịnh bản nhiên, khắp giáp cả pháp giới. Tánh tứ đại
đều là chân không nên không lấn đoạt nhau mà trùm khắp mười phương, không cái
nào xâm hại cái nào.
Ba là, do con quán
cái nghe xoay trở lại tánh nghe, khiến các chúng sanh bị nước lớn cuốn trôi,
nước không thể làm chìm.
Chúng sanh trôi
trên mặt nước mà nước không làm chìm. Như vậy lửa lớn không đốt cháy được, nước
lớn không làm chìm được, đó đều do xoay cái nghe, xoay cái thấy biết trở lại
thể tánh của nó, cho nên mọi thứ lửa nước bên ngoài đều không hại được.
Bốn là, do con đoạn
diệt các vọng tưởng, tâm không sát hại, khiến cho chúng sanh vào trong các nước
quỷ, quỷ cũng không thể hại.
Nếu dứt vọng tưởng
thì quỷ không thể phá. Giả sử ban đêm chúng ta đi trên đoạn đường vắng, nhớ lại
người ta đồn ở đây có ma, liền tưởng tượng ra con ma rồi hoảng sợ bỏ chạy. Như
vậy mọi sợ hãi về ma quỷ gốc từ vọng tưởng mà ra. Tưởng ma nên sợ ma, không
tưởng thì không sợ. Dẹp hết vọng tưởng thì ma quỷ làm sao hại mình được.
Khi dẹp hết vọng
tưởng, tâm không còn niệm sát hại ai, nhân không còn thì quả không có, nên dù
đến những nước ma quỷ cũng không bị hại. Chúng ta phải niệm Bồ-tát Quán Thế Âm
theo đúng chỗ tu nhân của ngài, tức xoay sáu căn trở về tự tánh, sống với Như
Lai tạng tánh. Đây à ý căn bản của kinh. Không nên chấp theo ngôn ngữ, niệm
suông danh hiệu ngài, mà cần phải tu theo nhân tu của ngài mới có hiệu dụng.
Năm là, do con huân
cái nghe thành tựu tánh nghe, sáu căn đều được tiêu dung, đồng với tiếng về cái
nghe, hay khiến cho chúng sanh đang khi bị hại, đao kiếm kia gãy từng đoạn,
hoặc khiến cho binh khí của kẻ hại như chặt dưới nước, cũng như thổi ánh sáng,
tánh nghe không dao động.
Bồ-tát huân cái
nghe trở về bản tánh thành tựu rồi thì những căn kia cũng tiêu dung như vậy,
nên nói cũng đồng như tiếng và cái nghe. Do thoát được niêm hay dính khắn của
sáu căn nên không bị sắc thanh hương vị xúc pháp làm rối loạn hay lôi kéo nữa.
Vì vậy chúng sanh niệm tới danh hiệu ngài thì đao kiếm muốn hại họ sẽ gãy từng
đoạn, và nếu có chặt hay chém thì cũng như chặt chém xuống nước, hoặc giống như
thổi ánh sáng, chẳng xao động chút nào. Như vậy kết quả của người niệm danh
hiệu Bồ-tát là quả thừa do công tu của ngài một căn thành tựu, sáu căn đều tiêu
dung.
Sáu là, do con huân
tánh nghe được thuần thục sáng suốt, sáng khắp cả pháp giới thì các tối tăm
không thể còn. Hay khiến cho chúng sanh, các loài quỷ dược-xoa, la-sát,
cưu-bàn-trà, tỳ-xá-giá, phú-đơn-na v.v... tuy ở gần bên cạnh mà mắt chúng không
thể xem thấy.
Khi trở về được
tánh nghe hoàn toàn thanh tịnh, sáng suốt trùm khắp pháp giới, thì ma quỷ là
những loài u tối, không hợp với cái sáng nên không thể thấy, không làm hại
được.
Bảy là, do các âm
thanh hoàn toàn tiêu hết, quán cái nghe xoay trở vào, lìa các trần cảnh hư
vọng, hay khiến cho chúng sanh, gông cùm xiềng xích không thể trói buộc.
Do vì Bồ-tát Quán
Thế Âm biết tiêu dung hết những âm thanh bên ngoài, trở về tánh nghe sáng suốt,
không bị ngoại cảnh hay sáu trần chi phối, nên người bị xiềng xích gông cùm
niệm danh hiệu ngài thì tức có khả năng thoát khỏi các trần cảnh, nên hay khiến
cho chúng sanh không còn bị cùm chân hay trói tay gì nữa.
Tám là, do con diệt
các âm thanh ở ngoài, tánh nghe được tròn đầy nên phát sanh sức từ cùng khắp,
hay khiến cho chúng sanh khi đi qua những con đường hiểm giặc không thể cướp.
Đây là công tu diệt
hết các thanh trần ở ngoài, trở về với tánh nghe tròn đủ, lúc đó mới sanh ra từ
lực cùng khắp. Nhờ vậy nên chúng sanh đi qua đường hiểm gặp giặc cướp cũng
không bị chúng làm hại.
Chín là, do con
huân cái nghe lìa các trần, không bị sắc trần cướp hại, hay khiến cho tất cả
chúng sanh có nhiều dâm dục xa lìa tham dục.
Sở dĩ bị dâm dục
lôi cuốn là vì chạy theo sắc bên ngoài. Nay Bồ-tát đã lìa được các trần nên sắc
trần không còn cướp hại được. Vì vậy những người có tâm tham dâm muốn xa lìa
nó, niệm danh hiệu ngài thì liền được xa lìa.
Mười là, do con
thuần thục được các âm thanh không theo trần cảnh, căn và cảnh viên dung không
còn năng đối sở đối, hay khiến cho tất cả chúng sanh sân giận xa lìa được các
nóng giận.
Bồ-tát do đối với
âm thanh đã được thuần thục nên không còn dính mắc các trần cảnh. Căn và trần
đã viên dung thì không còn hai bên năng và sở đối đãi. Công năng tu hành của
Bồ-tát ảnh hưởng tới chúng sanh ở bên ngoài, do đó những chúng sanh nào hay
nóng giận, niệm danh hiệu ngài liền lìa được nóng giận.
Thường chúng ta hay
nóng giận là tại sao? Vì thấy có đối tượng dễ ghét, dễ bực. Nếu không còn đối
tượng để cho mình giận ghét thì còn gì nóng giận. Còn năng và sở đối đãi thì
còn sân hận, nếu dung được mình và người không hai thì tâm sân không thể sanh.
Ví dụ như có lúc chúng ta làm điều quấy, khi bình tâm lại giật mình hối hận, tự
trách mình ngu si, sao lại làm những việc đáng chê trách như vậy. Mình tự rầy
mình nên không giận những lời rầy mắng đó. Nên nói khi căn và cảnh viên dung,
năng sở đối đãi không còn thì tâm sân hận không còn.
Mười một là, do con
tiêu hết các trần, xoay về tánh giác tròn sáng nên thân tâm và pháp giới đều
như lưu ly sáng suốt không chướng ngại, hay khiến cho tất cả những kẻ ngu tối
ám chướng xa lìa được sự si mê tăm tối.
Do Bồ-tát tu thuần
thục rồi, không còn dính mắc nơi trần cảnh, trở về tánh giác sáng suốt, nên
thân tâm cùng cả pháp giới đều rỗng suốt như lưu ly, có công năng khiến những
kẻ bị si mê nghiệp chướng che đậy nhưng vừa niệm danh hiệu ngài, si mê ám
chướng liền tiêu tan.
Mười hai là, do con
tiêu dung các hình tướng, trở về tánh nghe, không rời khỏi đạo tràng mà lẫn vào
trong thế gian nhưng không làm hoại thế giới, cúng dường chư Phật Như Lai ở
khắp mười phương như số vi trần, gần bên mỗi đức Phật làm Pháp vương tử, hay
khiến cho những chúng sanh không có con ở trong pháp giới muốn cầu con trai
liền sanh được con trai có phước đức trí tuệ.
Do tiêu dung tất cả
các hình tướng đối đãi, tâm rỗng suốt không còn bị chướng ngại bởi sắc tướng,
nên Bồ-tát có thể vào tất cả thế giới mà không làm hoại thế giới. Thông thường
muốn đi vào các thế giới phải rời đạo tràng, đây không cần rời đạo tràng mà
cũng có thể đi vào trong thế gian được. Lại cúng dường chư Như Lai khắp mười
phương như số vi trần, ở bên mỗi đức Phật làm con của đấng Pháp vương, nên hay
khiến cho những chúng sanh không con muốn cầu con trai liền sanh con trai đầy
đủ phước đức, trí tuệ.
Mười ba là, do sáu
cắn được viên thông, soi sáng không hai, trùm cả mười phương thế giới, lập
thành Đại viên cảnh Không Như Lai tạng, vâng theo pháp môn bí mật của Như Lai ở
mười phương như số vi trần, nhận lãnh không thiếu sót, hay khiến những chúng
sanh không con trong pháp giới muốn cầu con gái liền sanh được con gái, có
tướng tốt đoan chánh phước đức nhu thuận, mọi người đều yêu kính.
Bồ-tát áp dụng
phương pháp tu sáu căn viên thông không còn ngăn ngại, mình chỉ cho thể tịch và
chiếu không hai, thấy mười phương thế giới đều ở trong Đại viên cảnh trí hay
Không Như Lai tạng tức kho Như Lai trống rỗng, tuy thể không mà hàm dung tất
cả. Ngài thuận theo những pháp môn bí mật của tất cả mười phương Như Lai. Do
tánh tùy thuận đó mà người nào muốn cầu con gái thì sanh được con gái đoan
chánh dịu dàng...
Mười bốn là, trong
tam thiên đại thiên thế giới này có trăm ức mặt trời mặt trăng, có những vị
pháp vương tử hiện ở thế gian, nhiều như số cát sáu mươi hai sông Hằng, tu theo
Phật pháp, làm gương mẫu để giáo hóa chúng sanh, tùy thuận chúng sanh, phương
tiện và trí tuệ mỗi vị không đồng nhau. Do con được bản căn viên thông, phát ra
tánh nhiệm mầu của nhĩ căn, về sau thân tâm nhiệm mầu dung chứa khắp cả pháp
giới, hay khiến cho chúng sanh trì danh hiệu con, với người trì danh hiệu tất
cả các vị Pháp vương tử nhiều như số cát sáu mươi hai sông Hằng kia, hai người
đó phước đức bằng nhau không khác.
Bạch Thế Tôn, do
con được viên thông, tu chứng đạo Vô thượng, lại khéo được bốn đức vô tác nhiệm
mầu không thể nghĩ bàn.
Một là, ban đầu do
con đạt được tâm nghe rất mầu nhiệm, tâm đó tinh thuần, bỏ cái nghe; thấy nghe
hiểu biết không còn phân cách, thành một Bảo giác thanh tịnh viên dung.
Chúng ta khi nghe
thường chạy theo trần, bỏ quên tánh nghe. Còn ngài, tâm nghe được nhiệm mầu,
đến chỗ tinh ba sáng suốt thì bỏ cái nghe, đó gọi là thoát niêm.
Có hai chặng đường
khi tu chúng ta hay bị mắc kẹt:
- Chặng thứ nhất,
phàm phu cứ chạy đuổi theo các trần, nghĩa là tai đuổi theo thanh trần, mắt
theo sắc trần... Nay Phật dạy phải phản quan, nghĩa là đừng chạy theo thanh sắc
bên ngoài nữa mà trở về tánh nghe tánh thấy của mình. Sống bằng tánh nghe tánh
thấy tức là khi nghe tiếng không chạy theo tiếng mà nhớ mình đang nghe, khi
thấy cảnh không chạy theo cảnh mà nhớ mình đang thấy. Nhớ cái đang nghe đang
thấy của mình hiện hữu, gọi là trở về tánh nghe tánh thấy, quên hết các trần
cảnh bên ngoài.
Đây là một bước
tiến vượt bậc, nhưng tánh biết không sanh diệt vẫn còn bị dính khắn ở mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, ý, còn riêng từng bộ phận chứ chưa phải là thể chung.
- Chặng thứ hai là
gỡ cái dính khắn đó, tức trở về bản tâm sáng suốt, không bị dính khắn bởi thấy
nghe hiểu biết riêng nữa, mà chỉ còn một tánh giác chung. Tánh giác chung đó
gọi là Bảo giác thanh tịnh viên dung.
Lúc này sáu căn hỗ dụng, có thể sử dụng chung với nhau chứ không còn riêng rẽ
nữa. Đây là đến chỗ thâm nhập sâu xa của người đạt đạo.
Cho nên con có thể
hiện ra rất nhiều hình dung nhiệm mầu, hay nói vô số thần chú bí mật. Trong ấy
hoặc hiện một đầu, ba đầu, năm đầu, bảy đầu, chín đầu, mười một đầu, như thế
cho đến một trăm lẻ tám đầu, ngàn đầu muôn đầu, tám muôn bốn ngàn đầu kiên cố.
Hoặc hai tay, mười bốn, mười sáu, mười tám, hai mươi, cho đến hai mươi bốn tay,
như thế nhẫn đến một trăm lẻ tám tay, ngàn tay muôn tay, tám muôn bốn ngàn tay
bắt ấn. Hoặc hai mắt, ba mắt, bốn mắt, một ngàn mắt, một muôn mắt, tám muôn bốn
ngàn mắt báu thanh tịnh. Hoặc hiện từ, hoặc uy, hoặc định, hoặc tuệ, để cứu hộ
chúng sanh được đại tự tại.
Bồ-tát Quán Thế Âm
hiện nhiều đầu, nhiều mắt, nhiều tay để cứu độ chúng sanh khỏi những khổ ách
đau đớn, đều được tự tại. Ngài hiện được như vậy do vì đã thoát được cái niêm
của sáu căn, trở về tánh giác hay là bảo giác, có đầy đủ diệu dụng. Trong bài
chú Đại Bi, câu mở đầu là "Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi", tức
ngàn tay ngàn mắt, tất cả chỗ đều là tay là mắt. Đây là ý nghĩa thoát được cái
niêm của sáu căn, toàn thân là giác.
Bồ-tát đã viên dung
được sáu căn, không còn phân cách riêng rẽ nữa, cho nên tùy ý muốn mà hiện, tự
tại vô ngại. Còn chúng ta hiện nay bị ngại là do không biết trở về với tánh
thấy tánh nghe, cứ chạy theo trần, bị cột dính trong đó nên không được vô ngại.
Như vậy tay, mắt, đầu của ngài nhiều vô số là để nói lên tánh giác viên dung
không chướng ngại. Ở đâu cũng là tánh giác, ở đâu cũng là mắt là tay.
Trong nhà thiền có
câu chuyện. Thiền sư Đạo Ngô Viên Trí hỏi thiền sư Vân Nham Đàm Thạnh:
- Đức Đại Bi ngàn
tay ngàn mắt, con mắt nào là mắt chánh?
Sư Vân Nham đáp:
- Như ban đêm người
vói tay lại sau mò chiếc gối.
Sư Đạo Ngô nói:
- Tôi hội rồi!
Quý vị hội chưa?
Ngàn tay ngàn mắt để làm gì? Tay nào chánh? Mắt nào chánh? Tay thì có cảm giác,
mắt thì thấy, cả hai đều biết.
Ban ngày chúng ta mở mắt thì thấy cái gối, trong đêm tối mình vói tay lại phía
sau, cũng biết cái gối ở chỗ nào để lấy. Vậy tay có thấy không? Nếu không thì
sao biết để lấy cái gối? Như vậy nói nhiều tay nhiều mắt để tượng trưng rằng
khi tu tới chỗ thoát sự dính khắn của sáu căn, lúc đó khắp thân đều là tai mắt,
đều giác biết, chứ không phải chỉ có một phần nơi đầu mới giác biết. Nơi thân
chỗ nào cũng giác, chỗ nào cũng tri. Đây là diệu dụng toàn phần chứ không phải
một bộ phận hay cục bộ nữa.
Hai là, do cái nghe
và suy nghĩ của con thoát khỏi sáu trần, như tiếng qua tường vách không bị
chướng ngại, nên con khéo hay hiện mỗi mỗi thân hình, tụng mỗi mỗi chú. Hình
kia chú kia hay dùng sức vô úy bố thí cho các chúng sanh. Thế nên cõi nước ở
mười phương như số vi trần, đều gọi con là người bố thí vô úy.
Bồ-tát do cái nghe,
suy nghĩ đã thoát khỏi sáu trần, nên trùm khắp không chướng ngại. Ngài hiện ra
nhiều thân, tụng các thần chú là vì muốn bố thí vô úy để cứu độ chúng sanh. Vì
vậy chúng sanh ở nhiều cõi đều tán thán, gọi ngài là Người bố thí vô úy.
Ba là, do con tu
tập bản căn (nhĩ căn) thanh trần vốn mầu nhiệm viên thông, nên dạo đi trong thế
giới nào, điều khiến chúng sanh xả trân bảo nơi thân để cầu con thương xót.
Trong kinh Pháp Hoa
phẩm Phổ Môn, khi Bồ-tát Quán Thế Âm kể những diệu dụng của ngài cho Phật và
chúng Bồ-tát nghe rồi, Bồ-tát Vô Tận Ý liền cởi xâu chuỗi anh lạc cúng dường,
xin ngài Quán Thế Âm thương xót mà nhận cho. Do Bồ-tát Quán Thế Âm tu tập đến
được chỗ diệu viên thông, tức trở về tánh viên trạm, nhĩ căn được thanh tịnh,
nên ngài dạo đi trong các thế giới không có gì chướng ngại, hay cảm được những
chúng sanh nào gặp ngài, thường đem của báu nơi thân cúng dường, cầu xin thương
xót.
Bốn là, con được
tâm Phật chứng được cứu cánh, hay dùng các thứ trân bảo cúng dường chư Như Lai
ở mười phương, cả đến những chúng sanh trong sáu đường ở khắp pháp giới, nếu
cầu vợ được vợ, cầu con được con, cầu chánh định được chánh định, cầu sống lâu
được sống lâu, như thế cho đến cầu Đại Niết-bàn được Đại Niết-bàn.
Bồ-tát Quán Thế Âm
có hạnh tu, hạnh nguyện thường đem trân bảo cúng dường chư Như Lai. Như khi
ngài Vô Tận Ý cúng dường chuỗi anh lạc, ngài đem chia hai: phân nửa cúng dường
đức Phật Thích-ca, phân nửa cúng dường tháp Phật Đa Bảo. Do hạnh nguyện của
ngài như vậy, cảm đến những người chung quanh đều được hưởng phước theo. Nên
những chúng sanh niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm thì cầu gì được nấy. Tu là
nhân, đạt được diệu dụng là quả. Công tu thế nào thì quả chứng cũng tương ưng theo
đó, do công ngài tu như vậy nên đưa tới kết quả như sở nguyện.
Chúng ta đọc trong
kinh thấy nói cầu con trai được con trai, cầu con gái được con gái v.v... Dễ
quá! Nhưng đây là diệu dụng của ngài, ân đức của ngài phụ trợ cho mình. Nếu
chúng ta không chịu tập theo hạnh, y theo pháp của ngài mà tu, chỉ cầu suông
phước thừa, đợi ơn huệ của Bồ-tát thì không bảo đảm.
Cầu vợ con được như
sở cầu thì còn dễ tin, nhưng cầu Đại Niết-bàn được Đại Niết-bàn thì thế nào?
Bây giờ mình niệm Bồ-tát Quán Thế Âm cầu Đại Niết-bàn có được không? Nếu niệm
đến nhất tâm bấn loạn thì chắc chắn sẽ được.
Phật hỏi về viên
thông, con từ nơi nhĩ căn được chánh định chiếu soi tròn đầy, duyên tâm tự tại,
nhân tướng nhập lưu mà được chánh định, thành tựu quả Bồ-đề, đây là bậc nhất.
Bồ-tát Quán Thế Âm
được viên thông từ nhĩ căn. Từ nhĩ căn, ngài nhập lưu rồi vào được chánh định,
đây là bậc nhất vậy.
Bạch Thế Tôn, đức
Phật kia (đức Phật Quán Thế Âm) khen ngợi con khéo được pháp môn viên thông, ở
trong đại hội thọ ký cho con hiệu là Quán Thế Âm. Do con quán tánh nghe tròn
sáng khắp mười phương, nên danh Quán Âm cũng khắp cả thế giới mười phương.
Đây nói về diệu
dụng Bồ-tát đã đạt được từ của nghe. Từ cửa nghe, do không chạy theo tiếng,
ngài trở về dòng bất sanh bất diệt của căn tai. Rồi sau thoát luôn cái giới hạn
của căn mà đi thẳng vào tánh giác sáng suốt trùm khắp cả thế giới mười phương.
Như vậy, qua hai
mươi lăm vị thánh, mỗi vị trình bày chỗ ngộ của mình. Các ngài chứng ngộ từ sáu
căn, sáu trần, sáu thức và bảy đại. Mỗi vị tu chứng từ mỗi căn cảnh riêng
biệt.
V. CHỈ PHÁP VIÊN TU
1. Phóng quang hiện
điềm lành
Khi ấy đức Thế Tôn
nơi tòa sư tử, từ năm vóc của ngài đồng phóng hào quang báu, xa rọi đến trên
đảnh chư Như Lai mười phương nhiều như số vi trần và trên đảnh các vị
Pháp vương tử, các vị Bồ-tát. Chư Phật kia cũng từ năm vóc đồng phóng hào
quang báu, từ các cõi nước như vi trần kia rọi đến trên đảnh Phật cùng rọi trên
đảnh những vị đại Bồ-tát và A-la-hán trong chúng hội. Rừng cây, ao hồ đều diễn
nói pháp. Hào quang xen lẫn nhau như lưới tơ báu. Các đại chúng nơi đây được
điều chưa từng có, tất cả đều được Kim cang tam-muội.
Liền khi đó trời
mưa hoa sen trăm báu, màu xanh vàng đỏ trắng xen lẫn nhau, hư không mười phương
thành sắc bảy báu. Thế giới Ta-bà này: đất liền, núi sông đều đồng thời chẳng
hiện, chỉ thấy có các cõi nước mười phương như số vi trần hợp thành một thế
giới. Những tiếng ca hát chúc tụng tự nhiên cất lên.
Từ đầu kinh tới
đây, Phật đã phóng quang:
- Lần thứ nhất ở
cửa mặt, tức giữa hai chân mày, tượng trưng cho trí tuệ, khi ngài sắp chỉ tánh
thấy.
- Lần thứ hai từ
chữ Vạn trên ngực, tượng trưng cho Như Lai tạng tâm, soi rọi khắp cả chư Phật,
chỉ cho tâm thể trùm khắp.
- Lần thứ ba, chư
Phật mười phương phóng quang từ đảnh đầu, đồng nói: sáu căn là gốc sanh tử,
cũng là gốc Bồ-đề.
- Lần thứ tư, Phật
phóng quang từ năm vóc (đầu, hai tay và hai chân), tức phóng quang toàn bộ.
Trước kia là phóng quang bộ phận: ở cửa mặt, hoặc ở ngực, trên đảnh; còn đây là
phóng quang toàn bộ, tức sắp nói pháp viên thông. Hào quang của chư Phật bên
này phóng qua, bên kia phóng lại xen lẫn nhau như lưới tơ báu sáng rỡ, là điều
mà đại chúng chưa từng thấy, và mọi người đều được chánh định cứng chắc như kim
cương.
Từ trời, mưa rơi
các hoa sen đủ màu, khắp mười phương đều là hình sắc bảy báu. Những lời ca, tán
tụng trong trẻo tự nhiên phát ra vang rền, không phải do dụng công sức. Thật là
một cảnh tượng huy hoàng! Cảnh tượng đó cho thấy khi đến chỗ viên thông rồi,
không còn chướng ngại nhau, đồng một trí tuệ không khác. Chỗ cứu cánh của sự tu
hành kế đây sẽ được chọn lựa, cũng là chỗ mà chư Phật chư Bồ-tát mười phương
đồng đi, đồng đến. Cho nên ở sau mới nói đây là "đường vào cửa Niết-bàn".
Hào quang chỉ rọi
trên đảnh chư Phật Bồ-tát và A-la-hán mà không rọi hết cả chúng hội, vì hàng
phàm phu sáu căn chưa viên thông, chưa hỗ dụng, chưa trở về tánh chân. Thế giới
Ta-bà không còn hiện nữa, thấy mười phương thế giới như số vi trần hợp thành
một thế giới, nghĩa là tới chỗ tột cùng, không còn những tướng riêng biệt, tất
cả đồng một thể. Pháp sắp nói ở đây là pháp viên thông nhất trong hai mươi lăm
vị tu chứng. Viên là tròn, thông là suốt, viên thông là tròn suốt, không riêng
biệt, cho nên chỉ còn thấy một thế giới.
2. Bồ-tát Văn-thù
chọn căn viên thông
Khi ấy đức Như Lai
bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử rằng:
- Nay ông xem trong
hai mươi lăm vị vô học thuộc hàng Bồ-tát và A-la-hán, mỗi người trình bày
phương tiện ban đầu đưa đến thành đạo, đều nói tu tập pháp chân thật viên
thông. Những phương tiện tu hành kia trước sau khác nhau, thật không có hơn
kém. Nay ta muốn khiến A-nan được khai ngộ, trong hai mươi lăm hạnh phúc đó,
hạnh nào sẽ thích hợp với căn cơ kia? Cùng với sau khi ta diệt độ, chúng sanh ở
thế giới này muốn vào Bồ-tát thừa cầu đạo Vô thượng, dùng cửa phương tiện nào
được dễ thành tựu?
Đức Phật ủy thác
cho Bồ-tát Văn-thù chọn lựa trong hai mươi lăm pháp tu của chư Bồ-tát và
A-la-hán đã trình bày ở trước, coi pháp nào, phương tiện nào tu dễ thành tựu,
chứng quả, thích hợp với căn cơ ngài A-nan và cũng hợp căn cơ chúng sanh sau
này, khi Phật đã diệt độ, muốn được vào Bồ-tát thừa, cầu đạo Vô thượng.
Ở phần mở đầu quyển
kinh, ngài Văn-thù đã xuất hiện, đem thần chú đến cứu ngài A-nan mắc nạn
Ma-đăng-già. Lần thứ hai ở đoạn: Văn-thù là Văn-thù chứ không phải thật là
Văn-thù hay không Văn-thù (phần Chỉ ra tánh thấy không hai). Lần thứ
ba này Bồ-tát Văn-thù xuất hiện để chọn lựa căn viên thông. Ngài Văn-thù tượng
trưng cho trí căn bản. Chính trí căn bản cứu chúng ta ra khỏi biển ái. Cũng
chỉ có trí căn bản mới có thể gạn lọc, chọn lựa đúng, giúp chúng ta
dễ giác ngộ, trở về chỗ chân thật.
Bồ-tát
Văn-thù-sư-lợi vâng lời chỉ dạy từ bi của Phật, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh
lễ nơi chân Phật, nương oai thần của Phật, nói kệ đáp lại:
Chúng ta thấy sự
khiêm nhường của các vị Bồ-tát đối với Phật. Khi Phật bảo ngài Văn-thù chọn lựa
căn viên thông, đáng lý tự ý ngài chọn, nhưng lại nói nương oai thần của Phật, nói bài kệ đáp lại,
nghĩa là các vị có làm việc gì đều là nương sức của chư Phật. Cũng như chư tăng
ni khi đi giảng dạy thường nói: Nhờ sự giáo hóa của Thầy nên chúng tôi mới hiểu
biết được đạo lý. Nếu tự cao ngạo mạn vỗ ngực xưng tên "tôi thông minh,
tôi thông thái, tôi tự thấy biết" thì thiếu tư cách của người tu hành, rất
trái với đạo lý đã được hấp thụ đã được giáo huấn.
Bài kệ dưới đây tóm
tắt từ thủy tới chung, từ khi đức Phật nói về nguyên do sanh ra thế giới chúng
sanh cho đến lựa chọn sáu căn viên thông.
Biển giác tánh lặng
tròn,
Tròn lặng, giác vốn
mầu.
Nguyên minh, chiếu
sanh sở,
Sở lập, tánh chiếu
mất.
Từ ban đầu, thể gốc
của tất cả chúng sanh là tánh giác thênh thang như biển, lóng lặng tròn sáng.
Các thiền sư muốn diễn bày chân tánh thường vẽ một vòng tròn là do ý
này. Bởi lóng lặng tròn sáng nên tánh giác vốn nhiệm mầu.
Rồi từ cái sáng đó
chiếu soi lại tánh giác, sanh ra có năng chiếu và sở chiếu. Một khi sở đã lập
thì tánh chiếu mất đi. Đây là mầm lưu chuyển trong tam giới. Như chúng ta nghe
Phật nói mình có tánh giác có chân tâm. Vậy tánh giác, chân tâm hiện giờ ở đâu?
Vừa khởi nghĩ tìm tánh giác, chân tâm thì tánh giác, chân tâm đã thành cái bị
tìm, còn tâm mình thánh cái hay tìm. Như vậy tánh giác biến thành sở mất rồi,
mà đã biến thành sở thì tánh sáng không hiện, nên nói sở lập thì tánh chiếu mất. Đó là
diễn tả buổi ban đầu, từ tánh giác trùm khắp, do vọng khởi chiếu soi lại nó nên
tánh giác bị ẩn, bị mờ đi. Nếu không tìm thì vọng tưởng không dấy, chân tâm
hiện tiền.
Mê vọng có hư
không,
Nương không lập thế
giới.
Do quên tánh giác
nên mê vọng mà có hư không, rồi nương nơi hư không mới sanh ra thế giới. Như
vậy hư không có sau tánh giác, do mê vọng mà có, còn tánh giác là thể trùm
khắp. Hư không chỉ là một phần nhỏ xíu ở trong tánh giác.
Tưởng lặng thành
cõi nước,
Hiểu biết là chúng
sanh.
Những cái tưởng
lặng xuống, cô đọng kết tụ lại thành ra cõi nước; còn tri giác, tức hiểu biết
thì làm chúng sanh.
Hư không sanh trong
giác
Như bọt nổi trong
biển.
Cõi hữu lậu vi trần
Đều nương không mà
sanh.
Trước nói về tánh
giác, kế đó là hư không, kế là thế giới, rồi chúng sanh. Bây giờ mới so sánh
lại: Hư không sanh ở trong tánh đại giác, giống như một hòn bọt ngoài biển,
huống là các cõi nước hữu lậu như số vi trần từ hư không mà ra. Ví dụ như thân
thể mình sánh với đất nước Việt Nam thì cân lượng chỉ như hạt bụi. Nếu đem thân
so với bao nhiêu cõi nước trong hư không, chứ đừng nói là so với hư không thì
thân này không có nghĩa lý gì hết. Mà hư không ở trong tánh giác chỉ như là một
hòn bọt thôi. Như vậy tánh giác rộng lớn cỡ nào?
Vậy mà chúng ta
đành bỏ quên, không chịu sống với cái to lớn dường ấy, lại nhận cái nhỏ bé
dường này, để rồi tiếc từng cái nhà, từng mảnh đất, tiếc từng cái nhỏ tí ti...
Bởi vậy, nên con ông trưởng giả khi trở về nhà, kêu hốt phân thì chịu, chứ
không dám nghĩ mình là con trưởng giả. Vì điều đó quá sức tưởng
tượng.
Do đó Phật dạy phải
gỡ được cái dính khắn của sáu căn mới thể nhập tánh giác. Tánh giác thênh
thang, không phải đồng như hư không mà là trùm cả hư không. Hư không ở trong
tánh giác chỉ như hòn bọt trên biển. Thật là quá sức tưởng tượng! Chúng ta sẵn
có cái thênh thang không thể nghĩ lường mà lại bỏ quên, đi nhận một chút xíu
sanh diệt lăng xăng, xẹt lên rồi mất như dòng điện, không có gì thật, cho là
tâm mình. Từ đó mà giành hơn thua, nói phải quấy, tranh chấp lẫn nhau nên đi
mãi trong lục đạo, vui ít mà khổ nhiều. Thật là đáng thương!
Như vậy hư không,
thế giới, cõi nước, chúng sanh gốc vốn từ mê vọng mà ra, chẳng khác nào một
giấc chiêm bao! Chiêm bao là do ngủ mê thất có người có cảnh đủ thứ, đến khi
thức giấc thì cảnh chiêm bao không còn. Các cảnh hiện có của chúng ta đây cũng
từ gốc mê. Hai cái mê này không khác gì nhau. Do đó người nào thâm ngộ được lý
này thì biết rõ thân này cảnh này, hư không thế giới đều là một chuỗi mê vọng
mà thành, chứ không có gì thật. Nên nói: một người trở về nguồn chân thì cả đại
địa không còn tấc đất.
Bọt tan, hư không
mất,
Huống lại là ba
cõi.
Hòn bọt dụ cho hư
không, tánh giác dụ cho biển cả, hư không đối với tánh giác như hòn bọt trong
biển cả. Nói bọt tan tức là hư không chẳng còn. Hư không còn là không huống chi
bao nhiêu cõi nước ở trong hòn bọt hư không đó! Ba cõi Dục giới, Sắc giới, Vô
sắc giới đều không có nghĩa lý gì.
Về nguồn, tánh
không hai,
Phương tiện có
nhiều cửa.
Nay chúng ta trở về
cái gốc ban đầu thì tánh vốn không hai, nhưng phương tiện tu hành có nhiều cửa.
Tánh thánh đâu
chẳng thông,
Thuận nghịch đều
phương tiện.
Đối với các vị
thánh thì cửa nào cũng thông, nhưng nói thuận hay nghịch, cửa này tiện hơn cửa
kia, đều là phương tiện.
Sơ tâm vào chánh
định
Nhanh chậm không
giống nhau.
Các vị thánh tu
pháp nào cũng vào chánh định được, nhưng người mới tu muốn vào chánh định thì
nhanh chậm không đồng, nên phải chọn pháp phù hợp. Do đó tùy theo công đức các
căn mà chọn lựa. Căn nào đầy đủ công đức thì tu mau, căn nào kém thiếu thì
chậm.
a. Lựa ra những căn
không viên thông
Sáu trần:
Sắc tưởng kết thành
trần,
Tinh thuần không
thể thấu.
Làm sao không rõ
suốt
Tu hành được viên
thông?
Sắc do tưởng kết
lại mà thành trần. Vì là trần nên phần thuần túy sáng suốt không thể thấu triệt
được. Không thấu triệt, không sáng thì làm sao mà được viên thông! Đây là pháp
tu về sắc trần của ngài Ưu-ba-ni-sa-đà. Bồ-tát Văn-thù không chọn vì không viên
thông.
Âm thanh lẫn ngôn
ngữ,
Chỉ nương tên, câu,
vị.
Một chẳng gồm tất
cả
Sao tu được viên
thông?
Đây nói về thanh
trần. Âm thanh cùng lời nói, nương tên gọi, câu lời mà kết thành. Mỗi câu
riêng, mỗi lời riêng, nên một không thể gồm tất cả, thì làm sao được viên
thông?
Hương do hợp mới
biết
Lúc lìa vốn chẳng
có
Chỗ hay biết không
thường,
Làm sao được viên
thông?
Về hương trần, do
chỗ hợp mà biết, vì mùi phải liên hệ, tiếp xúc với lỗ mũi mới biết mùi thơm
hôi. Nếu lìa thì không có cái biết của mũi. Do không có cái biết thường xuyên
thì làm sao được viên thông?
Tánh vị không có
sẵn,
Cần nếm mới có vị,
Cảm giác không hằng
nhất,
Làm sao được viên
thông?
Về vị trần, tánh vị
không phải sẵn có, khi có vị tới lưỡi thì mới biết ngon dở. Cảm giác không
thường hằng, duy nhất, cho nên không phải là viên thông.
Xúc do chỗ chạm
biết
Không chạm không rõ
xúc.
Tánh hợp lìa chẳng
định
Làm sao được viên
thông?
Về xúc trần, có xúc
chạm mới biết, ví dụ như tay mình tiếp xúc chạm với lửa mới biết là nóng, chạm
với nước đá mới biết là lạnh. Như vậy đợi có sở xúc, do chỗ xúc chạm mới biết
cảm giác. Hợp hay lìa, tánh không nhất định, thì làm sao được viên thông?
Pháp gọi là nội
trần,
Nương trần ắt có
sở,
Năng sở không dung
khắp,
Làm sao được viên
thông?
Pháp trần gọi là
nội trần, vì những hình bóng do mắt tai mũi lưỡi thân, duyên vào còn lưu lại
trong tâm thức, mỗi khi nhớ lại thì cảnh đó hiện ra. Cảnh đó là bóng của tiền
trần còn lưu lại trong tâm, là sở, tức đối tượng để vọng tưởng duyên theo. Như
vậy sở (bóng dáng sáu trần) là bị biết, còn năng là hay biết, tức ý. Ý hay biết
pháp trần. Hai thứ năng và sở này không dung nhau khắp thì làm sao mà được viên
thông?
Năm căn:
Cái thấy tuy rỗng
suốt,
Thấy trước chẳng thấy
sau,
Bốn phía thiếu một
nửa
Làm sao được viên
thông?
Cái thấy
này chỉ cho nhãn căn. Tuy nó rỗng suốt nhưng chỉ thấy phía trước mà không
thấy phía sau; ngó bên này thì chỉ nhìn được nửa bên này, ngó bên kia cũng vậy,
nên nói thiếu phân nửa. Vì vậy mà căn mắt không được viên thông.
Mũi thở ra vào
thông,
Hiện tiền không
khoảng giữa,
Tách rời
không dung nhập,
Làm sao được viên
thông?
Đến tỹ căn,
hơi thở ra vào thông suốt nhưng hiện tiền không có khoảng giữa. Lẽ ra có ba
chặng: chặng ra, chặng vào, chặng giữa, nhưng chúng ta chỉ thấy chặng ra chặng
vào, không thấy chặng giữa. Hít vô rồi dừng lại, thở ra, cái khoảng giữa đó
không được thông. Hơi thở ra hơi thở vào riêng biệt, tách rời nhau, không lẫn
vào nhau, thì làm sao mà được viên thông?
Lưỡi không vị, không
duyên,
Nhân vị sanh rõ
biết,
Vị mất, cái biết
không,
Làm sao được viên
thông?
Về căn lưỡi, nếu
không có vị để vào thì không có duyên để biết. Nhân nơi vị mới sanh rõ biết.
Nếu vị mất thì cái biết về vị không có. Như lưỡi mình lúc không nếm thì đâu có
biết vị. Vậy làm sao mà được viên thông.
Thân cùng sở xúc
đồng,
Đều chẳng biết
thông suốt,
Chừng hạn, không
thầm hợp,
Làm sao được viên
thông?
Thân căn cùng với
đối tượng xúc chạm là giống nhau, đều không thể quán viên giác, tức
không biết tròn suốt, vì khi có chạm mới có cảm xúc, không chạm thì không cảm
xúc. Do đó, cảm xúc có chừng hạn chứ không thầm hợp với nhau. Ví dụ, như chân
mình đạp gai thì có cảm giác ở chân, hoặc tay mình bị phỏng thì có cảm giác nơi
tay. Cái xúc chạm, cảm giác có chừng ngằn, có nơi chốn chứ không thầm hợp
tất cả. Vậy nên không phải là viên thông.
Ý căn xen loạn
tưởng,
Dừng lặng trọn
chẳng thấy.
Tưởng niệm không
giải thoát,
Làm sao được viên
thông?
Ý căn lẫn lộn với
suy nghĩ loạn tưởng. Khi ý dấy lên lăng xăng, chúng ta nói ý tôi nghĩ thế này,
ý tôi nghĩ thế kia, nhưng khi lặng xuống hết thì trọn không thấy có ý. Còn
tưởng niệm thuộc sanh diệt, không phải là giải thoát, vậy nên chẳng phải viên
thông.
Sáu thức:
Nhãn thức lẫn ba
hòa,
Tìm gốc không có
tướng,
Tự thể không nhất
định,
Làm sao được viên
thông?
Ba cái hòa hợp là
căn, trần và thức. Ngoài có sắc trần, trong có căn là con mắt, thức
nương đó mà khởi. Thức do hòa hợp mới có nên không thật. Gạn tìm nguồn gốc thì
không có tướng, vì hòa hợp làm sao thành tướng riêng được. Tự thể trước đã
không nhất định, làm sao được viên thông?
Tâm nghe suốt mười
phương
Sanh từ sức nguyện
lớn,
Sợ tâm không thể
vào,
Làm sao được viên
thông?
Tâm nghe chỉ cho
nhĩ thức, rỗng khắp mười phương. Ngài Phổ Hiền tu về tâm nghe, trong mười
phương nếu có người nào tu hạnh này, ngài đều đến để ủng hộ. Pháp này người
phàm tu không nổi, nên nói phải từ nhân đại nguyện mới được. Người sơ tâm không
thể vào, làm sao được viên thông?
Tưởng mũi, phương
tiện tạm,
Chỉ để nhiếp tâm
trụ.
Trụ thành tâm sở
trụ
Làm sao được viên
thông?
Đây nói
về tỹ thức. Ngài Tôn-đà-la Nan-đà quán chót mũi trắng, chỉ là phương
tiện tạm để nhiếp tâm an trụ. Nếu có trụ thì thành ra tâm sở trụ. Như khi quán
chót mũi trắng, dùng nó để trụ tâm, liền có năng trụ và sở trụ. Vậy
làm sao được viên thông?
Thuyết pháp dùng
lời tiếng,
Trước người được
khai ngộ.
Câu chữ chẳng vô
lậu,
Làm sao được viên
thông?
Do thiệt thức mới
phát được lời lẽ hay, là phương tiện ban đầu để cho người khai ngộ, thành
tựu. Khai ngộ tiên thành giả là
muốn khai ngộ cho người thì lời và tiếng đi trước để thành tựu. Nhờ nghe thuyết
pháp họ mới hiểu đạo và tu, văn rồi
mới tư, tu. Đó là phương
tiện ban đầu để được ngộ đạo. Nhưng danh cú, câu lời không phải là vô lậu, thì
làm sao được viên thông?
Giữ giới chỉ buộc
thân,
Không thân chẳng
chỗ buộc,
Vốn chẳng khắp tất
cả,
Làm sao được viên
thông?
Trì giới chỉ là
phương tiện thúc liễm thân. Nếu không có thân thì không có chỗ thúc liễm, nghĩa
là nếu thấy thân không thật thì còn gì thúc liễm. Vốn không phải khắp tất cả,
làm sao được viên thông?
Thần thông, nhân
đời trước,
Dính gì pháp phân
biệt.
Niệm duyên chẳng
lìa vật
Làm sao được viên
thông?
Thần thông đây chỉ
cho ngài Mục-kiền-liên thần thông đệ nhất. Đó vốn là nhân đời trước, không quan
hệ gì pháp thân phân biệt. Do ý thức, niệm tưởng duyên ngoại cảnh, chú tâm
duyên vào cảnh đó nên nó không lìa vật, thì làm sao được viên thông?
Bảy đại:
Nếu quán tánh của
đất,
Cứng ngại không
thông suốt,
Hữu vi chẳng tánh
thánh
Làm sao được viên
thông?
Nếu quán tánh của
đất, thì đất là cứng chắc, ngăn ngại, không thông suốt. Đất là tướng bị sanh
diệt nên thuộc về hữu vi, không phải tánh thánh, thì làm sao được viên thông?
Nếu quán tánh của
nước,
Tưởng niệm không
chân thật,
Như như chẳng giác
quán,
Làm sao được viên
thông?
Dùng nước để quán
là do tưởng niệm, tưởng niệm thì không phải chân thật. Vì chỗ như như chân thật
đó không có tưởng, không có quán, không phải do giác quán mà được, vậy làm sao
được viên thông?
Nếu quán tánh của
lửa,
Chán có, chẳng thật
lìa,
Cách không hợp sơ
tâm,
Làm sao được viên thông?
Ngài Ô-sô-sắt-ma
quán lửa mà được thần quang bên trong ngưng đọng, hóa tâm đa dâm thành lửa trí
tuệ. Đây là từ chác các pháp hữu vi hữu lậu mà được lìa. Chán cái này mong cầu
cái kia, cũng chưa phải chân thật xa lìa, không phải là phương tiện của người
mới tu, làm sao được viên thông?
Nếu quán tánh của
gió,
Động tịch là đối
đãi,
Chẳng phải Vô
thượng giác
Làm sao được viên
thông?
Nếu quán về tánh
gió là do có động có dừng, chẳng phải là không đối đãi. Do có đối đãi nên không
phải Vô thượng giác, thì làm sao được viên thông?
Nếu quán tánh của
không,
Mờ tối không có
giác,
Không giác, khác
Bồ-đề,
Làm sao được viên
thông?
Hư không vốn mờ
tối, vô tri vô giác. Không giác tức trái với Bồ-đề, làm sao được viên thông?
Nếu quán tánh của
thức,
Quán thức chẳng thường
trụ,
Còn tâm là hư vọng
Làm sao được viên
thông?
Nếu quán về thức
thì thức không phải thường trụ. Còn tâm, còn quán cũng là hư vọng. Đã hư vọng
không thật thì làm sao được viên thông?
Các hạnh là vô
thường
Tánh niệm vốn sanh
diệt
Nhân quả nay cảm
ứng
Làm sao được viên
thông?
Đây là hạnh niệm
Phật của Bồ-tát Đại Thế Chí. Niệm vốn là sanh diệt, như niệm Nam-mô A-di-đà
Phật, vừa có chữ Nam thì tới chữ Mô, chữ A... vừa có chữ này sanh thì chữ kia
diệt, nên nó thuộc về sanh diệt, mà sanh diệt thì vô thường. Nhân là chỉ cho
người niệm, quả chỉ cho Phật độ; hoặc nhân chỉ cho sự phát tâm tu
hành của mình, quả là Phật nhớ lại mình. Nhân quả có cảm ứng qua lại như nói mẹ
nhớ con, con nhớ mẹ, chúng ta nhớ Phật, Phật nhớ chúng ta. Có Phật có mình là
còn đối đãi, vì vậy không được viên thông.
Nay con bạch Thế
Tôn
Phật xuất hiện
Ta-bà,
Chân giáo thể
phương này,
Thanh tịnh nơi
tiếng, nghe.
Muốn vào được chánh
định,
Thật do nơi nghe
vào.
Bồ-tát Văn-thù nói
hết phần của hai mươi bốn vị thánh rồi, trước khi nói tới vị thứ hai mươi lăm
là Bồ-tát Quán Thế Âm. Ngài bạch Phật trước, Phật ra đời ở thế giới Ta-bà, giáo
thể chân thật ở cõi này thanh tịnh từ cái nghe và tiếng. Tại sao? Dù chúng ta
không tu phản văn tự tánh đi nữa, nếu muốn học đạo hiểu đạo thì cũng phải từ
Văn Tư Tu, chính là phương tiện tu của Bồ-tát Quán Thế Âm. Muốn tu
thì trước phải nghe, nghe rồi suy nghĩ, suy nghĩ rồi mới tu hành. Sở dĩ tu được
thanh tịnh là trước nhờ nghe. Muốn vào chánh định thì phải từ nghe mà vào.
Có những thế giới
dùng hào quang làm Phật sự, có thế giới dùng việc ăn cơm làm Phật sự. Còn thế
giới này là do giảng kinh thuyết pháp làm Phật sự, cho nên người nhập đạo là từ
nghe mà vào đạo, từ nghe mà quên tiếng, trở về nguồn.
Lìa khổ được giải
thoát,
Hay thay! Quán Thế
Âm,
Trong hằng sa số kiếp
Vào cõi Phật vi
trần,
Được sức đại tự
tại,
Vô úy thí chúng
sanh.
Đó là
tán thán Bồ-tát Quán Thế Âm có thần lực tự tại lớn, bố thí vô úy cho chúng
sanh.
Diệu âm, Quán thế
âm,
Phạm âm, Hải triều
âm,
Cứu đời thảy an ổn,
Xuất thế, được
thường trụ.
Diệu âm là tiếng nhiệm
mầu. Quán thế âm là
xem xét các tiếng của thế gian. Phạm âm là
tiếng trong sạch. Hải triều
âm là tiếng vang lên như sóng biển. Đối với người đời thì
Bồ-tát cứu giúp cho họ được an ổn, còn với người tu giải thoát thì đưa họ tới
chỗ thường trụ bất sanh bất diệt. Đó là tán thán hạnh tu của ngài
Quán Thế Âm. Đây là cửa phương tiện thích hợp với cõi đời này, hạnh
tu của đức Quán Thế Âm làm lợi ích cho cả thế gian và xuất thế gian.
Đoạn trên khen ngợi
Bồ-tát Quán Thế Âm, mà nói về ngài Quán Thế Âm tức là nói về ai? Quán Thế Âm
nghĩa là xem xét các tiếng của thế gian. Tai hằng nghe tiếng thế gian, để xoay
trở lại tánh viên trạm, như vậy chính mình có phải là Quán Thế Âm hay không?
Học theo phương pháp của ngài Quán Thế Âm là xoay cái nghe trở về tự tánh, tức
là nơi căn tai thể nhập chân tánh thường trụ, phát sanh diệu dụng. Đó là hết
khổ, gọi là được Bồ-tát Quán Thế Âm cứu độ.
b. Nhĩ căn viên
thông nhất
Nay con bạch Như
Lai,
Như Quán Âm đã nói:
Ví như người chỗ
vắng,
Mười phương đồng
đánh trống,
Mười chỗ đồng thời
nghe,
Đây viên thông chân
thật.
Ví dụ chúng ta ở
đây mà mười phía trên dưới chung quanh người ta đều đánh trống, cùng một lúc
chỗ nào cũng nghe. Vì vậy, gọi là viên thông chân thật. Như vậy, xác nhận lời
của Bồ-tát Quán Thế Âm nói lúc ban đầu, để thấy rằng chỉ có nhĩ căn là viên
thông.
Kế đây Bồ-tát
Văn-thù tạm so sánh lại với các pháp tu trước.
Mắt bị ngăn chẳng
thấy,
Miệng, mũi cũng như
thế.
Thân do hợp mới
biết,
Tâm lăng xăng không
mối.
Con mắt không thể
thấy phía ngoài vật che ngăn. Ví dụ, phía trước chúng ta có che một tấm màn,
mình không thấy gì bên ngoài tấm màn. Rồi miệng, mũi cũng thế, cũng bị những
chướng ngại. Thân thì có hiệp mới biết, còn tâm niệm lăng xăng không có mối
manh. Như vậy năm căn này đều bị giới hạn, không viên thông.
Cách vách vẫn nghe
tiếng,
Xa gần đều nghe
được,
Năm căn không thể
bằng,
Đây viên thông chân
thật.
So sánh với các căn
kia thì nhĩ căn có thể nghe được âm vang ngoài tấm vách và chỗ xa chỗ gần cũng
đều nghe, năm căn kia không thể bằng được. Như vậy nhĩ căn là viên thông chân
thật.
Âm thanh có động
tịnh,
Trong nghe thành có
không,
Không tiếng gọi
không nghe,
Chẳng phải không
tánh nghe.
Tiếng thì có động
và tịnh, nên trong cái nghe thành ra có và không. Khi có tiếng động thì có nghe
gọi là có, khi không có tiếng động thì không nghe gọi là không. Không có tiếng,
nghe không có tiếng chứ chẳng phải không nghe. Tiếng có sanh có diệt, sanh là
động, diệt là tịnh, còn cái nghe không có động không có tịnh. Tánh nghe trùm cả
động và tịnh, hằng hữu không sanh không diệt.
Không tiếng đã
không diệt,
Có tiếng cũng chẳng
sanh.
Sanh diệt thảy trọn
lìa,
Đây hẳn thường chân
thật.
Khi không có tiếng
thì tánh nghe cũng không mất. Khi có tiếng cũng không phải tánh nghe mới sanh.
Tánh nghe hoàn toàn lìa cả hai sanh và diệt, nó thường trụ, nên nói tánh
nghe thường chân thật.
Dù là trong mộng
tưởng,
Không chẳng nghĩ mà
không,
Giác quán ngoài suy
nghĩ,
Thân tâm
không bì kịp.
Trong lúc chúng ta
ngủ mơ mộng tưởng, chẳng phải vì lúc ấy không làm gì, không nghĩ gì mà không
tánh nghe. Như đoạn trước nói, dù trong mộng tánh nghe vẫn không mất. Giác quán, tức cái biết, chỉ
cho tánh nghe, vượt ngoài sự suy nghĩ. Thân tâm không thể bì kịp nó.
Đây là phương tiện
ngài Văn-thù chọn lựa. Đứng về mặt phương tiện thì nói nhĩ căn là viên thông,
nên chọn nhĩ căn mà tu. Nhưng sự thật, tu thiền chân chánh thì sáu căn đều phải
nhiếp phục. Sáu căn đều nhiếp phục là sao? Ví dụ, đang ngồi chợt nghe tiếng ca
hát hoặc tiếng nói chuyện xa xa, chúng ta đừng lệ thuộc vào tiếng, mà chỉ lắng
lặng, không để nó lôi cuốn. Đang ngồi mà ngửi mùi hương lạ, tâm phóng theo mùi
hương cũng liền phải tu. Hoặc khi thấy dáng người mình ưa thích đi qua, vừa
sanh tâm thì cũng phải liền đó tu. Khi năm căn bên ngoài không hoạt động, chúng
ta tu nơi ý căn đang duyên với pháp trần.
Nếu nghĩ chỉ tu ở
tai thôi, đến khi mắt thấy cảnh gì là lạ, cảnh đó cứ vương theo mình hoài, nếu
cư lấy căn tai để tu thì làm sao điều phục! Cho nên sáu căn đều phải nhiếp
phục.
Chúng ta thường bị
ám ảnh bởi ngôn ngữ. Bồ-tát Văn-thù chọn nhĩ căn làm phương tiện là vì chúng
sanh cõi Ta-bà đa số nhân tai nghe pháp mà ngộ đạo. Khi đức Phật còn tại thế,
ngài cũng giảng kinh thuyết pháp, năm vị Tỳ-kheo đầu tiên ngộ đạo cũng là nhờ
nghe Phật giảng dạy. Đây là nhân đầu tiên, cũng là gốc của sự tu hành, do đó
chọn nhĩ căn là viên thông. Tuy nhiên cả sáu căn đều sẵn đủ tánh trạm viên, tức
là tánh giác thường hằng. Người tu thiền không chỉ riêng hướng vào nhĩ căn, mà
vận dụng hết các căn để trở về tánh viên trạm của nó, nhất là ý căn. Đó là đồng
thời trở về nguồn. Nơi sáu căn biết trở về nguồn tức là biết tu. Tuy nhiên, sáu
căn cũng là sáu đứa giặc, hễ không có duyên thì nó tạm yên, đến khi có duyên nó
dẫn giặc vào nhà. Do đó, không chỉ riêng phản
văn - xoay trở lại cái nghe - đối với tai tiếng, mà khi
mắt thấy hình sắc, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị... cũng đều phải xoay trở lại tánh biết.
Nay cõi Ta-bà này,
Dùng tiếng luận bàn
rõ,
Chúng sanh quên gốc
nghe
Theo tiếng nên lưu
chuyển.
Ngày nay, ở thế
giới Ta-bà này, chúng ta dùng âm thanh để bàn luận, nhờ đó mà rõ được các lý lẽ.
Chúng sanh sở dĩ lưu chuyển là do quên gốc nghe mà chạy theo thanh trần ở bên
ngoài. Trần cảnh là tướng sanh diệt, tiếng thì có động có tịnh, động là sanh,
tịnh là diệt, còn tánh nghe là hằng hữu. Thế nhưng chúng ta lại chạy theo động
tịnh mà quên tánh nghe. Chạy theo động tịnh là theo sanh diệt nên phải trầm
luân.
A-nan dù nhớ giỏi,
Không khỏi mắc tà
niệm
Đâu chẳng theo chỗ
chìm,
Xoay dòng được
không vọng.
Đây là chê ngài
A-nan, dù cho có nhớ giỏi cũng không khỏi rơi vào những suy nghĩ tà, đâu chẳng
phải theo chỗ trầm luân! Nếu cứ ghi nhớ những thứ bên ngoài, thì suy nghĩ đó
cũng là tà thôi, cũng bị chìm đắm. Dù nghĩ thiện cũng là nghĩ tà, vì còn nằm
trong cái động, sanh diệt. Vậy nghĩ thế nào mới gọi là chánh? Trở về tánh viên
trạm trong lặng tròn khắp nơi mình mới là chánh. Tức xoay trở về dòng chân thật
của tánh nghe, chừng đó mới hết vọng tưởng.
A-nan! Ông lắng
nghe,
Tôi nương oai lực
Phật
Tuyên nói Kim cang
vương
Như huyễn chẳng
nghĩ bàn
Chân tam-muội, Phật
mẫu.
Đây là chánh định chân thật, mẹ của chư Phật. Tại
sao gọi chánh định này là mẹ chư Phật, lớn hơn Phật quá vậy? Bởi vì muốn thành
Phật thì từ đó mà ra. Từ đó là từ đâu? Từ trở
về dòng của tánh nghe. Chư Phật đều do trở về tánh nghe, không
chạy theo các tướng sanh diệt của sáu trần mà được thành Phật, nên gọi là mẹ của chư Phật.
Ông nghe môn bí mật
Chư Phật như vi
trần,
Trước không trừ dục
lậu
Chứa nghe thành lỗi
lầm.
Dù có nghe được tất
cả pháp môn bí mật của chư Phật nhiều như số vi trần, mà trước không dẹp trừ
các dục lậu, thì tích chứa cái nghe chỉ thành ra lỗi lầm. Dục lậu là tâm sanh
diệt, chúng sanh ta dù nghe thuộc bao nhiêu kinh sách, mà tâm sanh diệt không
trù thì càng nghe càng thêm lỗi lầm.
Dùng nghe nhớ lời
Phật,
Sao không nghe tánh
nghe?
Dùng cái nghe ghi
nhớ pháp môn bí mật của bao nhiêu đức Phật mười phương, đâu bằng tự nghe lại
tánh nghe. Như vậy, thuộc kinh nhiều tốt hơn hay là trở về tánh nghe mình tốt
hơn? Trở về nghe lại tánh nghe hay hơn. Nghe lại bằng cách nào? Lắng nghe nó,
phải không? Tánh nghe có tiếng không mà lắng? Như vậy nghe lại là nhớ lại tánh nghe của
mình, gọi đó là văn văn, vương tử là phản văn. Ở đây ngài Văn-thù
chỉ rõ, dù có nhớ giỏi bao nhiêu lời chư Phật dạy, không bằng tu trở lại tánh
nghe của mình, nhập vào dòng đó rồi mới thoát ly được vọng tưởng.
Ngồi nghe kinh hai
giờ và ngồi thiền tỉnh táo không vọng hai giờ, giá trị có khác nhau không? Dù
nghe vô lượng pháp môn của chư Phật cũng là nghe cái bên ngoài, tức thuộc sanh
diệt. Còn ngồi thiền thấy như không làm gì, không lợi ích cho ai, nhưng nghe
lại tánh nghe của mình, thể nhập được rồi tức là vô sanh.
Nếu ngồi thiền
trong một giờ mà tâm loạn động liên miên, chỉ được chừng ba phút lặng lẽ không
một niệm sanh diệt nào, tuy chỉ ba phút trong một giờ ngồi thiền, nhưng đó là
ba phút vô sanh. Trái lại, ngồi nghe giảng kinh hay tụng kinh liên miên hết
niệm này đến niệm kia. Chỉ khi ngồi thiền chúng ta mới thấy rõ các tâm niệm thô
và tế. Chừng nào không còn niệm thô niệm tế, thật là yên lặng, lúc đó mới thấy
vô sanh.
Có người ngồi thiền
thấy vọng tưởng lăng xăng liên tục, tưởng đâu khi làm việc không có vọng, ngồi
thiền mới có. Sự thật là khi làm việc quá lăng xăng, những vọng tưởng nho nhỏ
liên tục mình khó thấy. Do không thấy nên tưởng như không có. Trái lại khi
chúng ta ngồi thì yên lắng hơn, nên những dấy động trong tâm đều thấy rõ. Cũng
như ban ngày tiếng xe chạy ầm ầm nên mình không nghe những tiếng côn trùng,
tiếng đồng hồ... Đến nửa đêm yên tịnh, tiếng đồng hồ tích tắc, tiếng thằn lằn
chắt lưỡi, dế gáy... thảy đều nghe rõ. Ban ngày những tiếng ấy chẳng phải không
có, chỉ vì quá ồn nên không thể nghe. Cho nên ngồi yên lặng lẽ mới biết tâm
mình động nhiều hay ít, từ đó mới chế ngự, điều phục, dần dần sẽ thanh tịnh.
Nếu không tự điều phục thì không bao giờ được thanh tịnh. Không có đức Phật
Thích-ca tự nhiên và cũng không có đức Phật Di-lặc trời sanh. Tất cả đều do
dụng công huân tu mới được.
Tu là trở về tự
tánh chân thật. Khi ngồi thiền hoặc làm việc gì mà tâm không chạy theo sáu
trần chính là trở về tự tánh. Nên nói "một niệm hiện tiền",
nghĩa là đang ở ngay đây, chỉ cần không theo ngoại cảnh thì tự tánh hiển lộ;
chẳng phải là xoay vào tìm tự tánh trong tim trong phổi... Tự tánh vốn không ở
trong không ở ngoài không ở chặng giữa, làm gì có trong tim phổi. Nghe các
tiếng bên ngoài, khen cũng mặc chê cũng mặc, đều không dính mắc, không nhân nơi
tiếng mà động tâm, đó là trở về nghe lại tánh nghe.
Nghe chẳng tự nhiên
sanh,
Nhân tiếng có danh
tự.
Xoay nghe thoát
được tiếng,
Hay thoát, gọi tên
gì?
Một căn đã về
nguồn,
Sáu căn thành giải
thoát.
Tánh nghe là hằng
như vậy, không phải tự nhiên sanh. Do âm thanh bên ngoài mới thành tên này tên
nọ. Xoay cái nghe trở về tự tánh, liền thoát được, không còn lệ thuộc vào tiếng
bên ngoài nữa. Cái hay thoát được thanh trần, nay muốn gọi đó là gì? Cái đó
không có danh tự. Nó là thể tánh chân thật của mình chứ không phải danh tự bên
ngoài. Nếu lúc nào cũng nhớ tánh nghe, thành tựu được vậy rồi thì tâm thênh
thang, không còn dính mắc gì. Cho nên nói một
căn đã trở về nguồn thì sáu căn đều được giải thoát.
Thấy nghe, bệnh mắt
huyễn,
Ba cõi như không
hoa.
Thấy, nghe, hiểu,
biết của chúng ta từ sáu căn mà phát lộ, cộng thêm vọng thức phân biệt. Do bị
vọng thức chi phối, những thấy nghe hiểu biết thông thường theo phàm tình của
sáu căn này, giống như bị bệnh nhặm mắt thấy hoa đốm huyễn hóa. Ba cõi này
không thật cũng giống như hoa đốm trong hư không.
Nghe lại, bệnh mắt
trừ,
Trần tiêu, giác
viên tịnh.
Bệnh của con mắt
này vừa là dụ vừa là pháp. Chạy theo thanh trần hay sắc trần, cũng giống như
người bệnh mắt nhìn thấy hoa đốm nhưng không có thật. Nếu xoay cái nghe lại thì
bệnh mắt hết, không còn thấy hoa đốm trong hư không. Các trần đã tiêu hết thì
tánh giác hoàn toàn tròn sạch tức là viên mãn thanh tịnh.
Sạch tột, sáng
thông suốt,
Tịch chiếu trùm hư
không.
Khi hoàn toàn trong
sạch thì ánh sáng thông suốt, lặng lẽ mà hằng sáng suốt chiếu soi, trùm khắp cả
hư không.
Trở lại xem thế
gian
Giống như việc
trong mộng.
Khi được giác ngộ
thanh tịnh rồi, nhìn lại thế gian thấy giống như việc trong mộng, không có gì
quan trọng hết.
Ma-đăng-già trong mộng,
Ai giữ được thân
ông?
Như vậy,
Ma-đăng-già cũng là người ở trong giấc mộng thôi, làm sao giữ được thân ngài
A-nan được. Khi trở về được tánh giác, nhìn lại thế gian như mộng. Thế gian còn
như mộng huống nữa Ma-đăng-già! Ma-đăng-già chỉ là người huyễn mộng.
Đã là người huyễn mộng làm sao mà bắt được ông!
Do thấy các pháp là
thật nên có cái này chướng cái kia. Nếu thấy tất cả là mộng ảo thì còn cái gì
hại được cái gì. Đây là lời ngài Văn-thù chỉ cho chúng ta thấy tường tận sự tu
hành.
Huyễn sư giỏi ở đời
Huyễn tạo ra nam
nữ.
Tuy thấy các căn
động,
Cốt do một máy
giật.
Như ông thầy huyễn
giỏi khéo làm ra người nam người nữ, tuy thấy các bộ phận cử động, nhưng cốt
tại máy giật sợi dây. Hồi xưa tổ chức những trò vui chơi, người ta làm những
hình nộm có sợi dây, khi nào muốn hình nộm múa may thì người ta giật sợi dây
đó. Như vậy cử động múa may là do sự điều khiển sợi dây mà ra chứ không có gì
thật hết.
Máy dừng, về yên
lặng,
Các huyễn thành
không tánh.
Khi ngộ rồi thấy rõ
các pháp thế gian là huyễn hóa, như các vật huyễn sư biến ra đều không thật.
Các huyễn dứt rồi, lặng rồi, rốt cuộc không còn gì là thật.
Con người cũng là
một cái huyễn, khi tắt nút trở thành vô dụng. Lúc ấy còn nói gì nam nữ. Vậy mà
khi các bộ phận còn hoạt động thì phân biệt phải quấy đủ thứ. Một khi tắt máy,
mọi việc trở thành không, không còn gì. Tuy nói thân mình là quan trọng, nhưng
khi lỗ mũi không còn hơi thở ra vào thì tất cả đều hết, Cũng như cái máy khi
hết nổ là chấm dứt!
Vậy cái gì là mình?
Cái gì là quý? Cái gì đẹp? Tất cả chỉ là trò mộng ảo, không có gì thật. Còn hơi
thở thì còn nói hơn nói thua, trọng mình khinh người, tính phải tính quấy...
Đến khi hơi thở khì khịt trong lỗ mũi không còn thì mọi việc đều buông hết, tất
cả là không.
Sáu căn cũng như
thế,
Vốn nương một tinh
minh
Phân thành sáu hòa
hợp,
Một thôi dứt trở về
Sáu dụng không
thành lập.
Một tinh minh chỉ có thể giác
tròn đầy trùm cả hư không. Hư không sanh trong biển đại giác như hòn bọt. Từ
một thể hoàn toàn sáng suốt đó, lại bị dính khắn ở sáu căn mắt tai mũi lưỡi... trở
thành sáu hòa hợp. Sáu
hòa hợp này cũng là thật, không sanh không diệt, nhưng nó chỉ là mỗi bộ phận
nhỏ của một tinh minh thôi. Nếu trong sáu hòa hợp, một căn thôi dứt được, không
còn dính mắc với trần, trở về chỗ chân thật của nó thì sáu dụng ngay đó không
còn riêng biệt nữa. Bây giờ sở dĩ thấy khác với nghe, ngửi khác với
nếm v.v... là vì sáu căn của mình còn bị niêm ở sáu chỗ. Nếu một căn gỡ
được cái dính khắn đó rồi thì các căn kia cũng đồng thời trở thành viên dung
hay viên thông, không còn chướng ngại nhau. Vì vậy mà không còn cái dụng riêng
của sáu chỗ.
Như vậy, chỗ này
Phật dạy tu gỡ cái dính khắn của sáu căn để trở về một tinh minh. Nếu còn thấy
sáu dụng riêng, dù là thấy tánh thật của nó cũng chưa đúng, mà phải trở về thể
chân thật. Nên nói, trở về được một thể chân thật rồi thì sáu dụng không thành
nữa.
Trần cấu liền đó
tiêu,
Thành tròn sáng
sạch mầu,
Còn trần còn hữu
học
Sáng tột là Như
Lai.
Nếu trở về được một
căn rồi, sáu dụng đều thông suốt. Ngay đó các trần cấu đều tiêu hết, thành tựu
thể tròn sáng trong sạch nhiệm mầu. Nếu còn một chút trần nào tức còn trong
vòng hữu học, vì còn trần là còn tu, còn tu thì còn học. Nếu sáng đã tột thì đó
là Phật chứ không gì khác.
Như vậy chúng ta
thấy rõ, còn là phàm hay vào hàng thánh tùy theo trần cấu còn hay hết. Nếu còn
trần cấu thì còn phải tu hành, hết trần cấu thì đó là thánh, là sáng.
Đại chúng và A-nan,
Xoay ngược lại máy
nghe
Nghe lại tự
tánh nghe,
Tánh thành, đạo Vô
thượng.
Viên thông thật như
vậy.
Đây là ngài dạy:
Phải khéo xoay ngược lại cái nghe trở về nghe lại tánh nghe của mình. Tánh nghe
mà thành tựu rồi, tức đi vào dòng thanh tịnh của tánh nghe, thì đó là đạo Vô
thượng chứ không gì khác. Viên thông thật là như thế.
Có người nghe
nói xoay lại, tưởng
đâu thay vì nghe ra ngoài, nay nghe ngược vô trong. Đó là lầm! Xoay lại nghĩa là trước đây
chúng ta chạy theo ngoại trần, nay dừng lại không chạy theo ngoại trần mà nhớ
tánh nghe của mình. Bởi vì chạy theo trần là phóng ra ngoài, nhớ lại tánh nghe
của mình là trở về trong. Nên gọi là phản
văn, nghe trở lại tánh nghe của mình.
Đường vào của
Niết-bàn
Của chư Phật vi
trần.
Cửa phương tiện này
không riêng cho một ai, chư Phật nhiều như số vi trần cũng từ con đường này mà
vào cửa Niết-bàn, chứ không có con đường nào khác.
Chư Như Lai quá khứ
Từ cửa này thành
tựu.
Chư Bồ-tát hiện tại
Nay đều vào viên
minh.
Người tu học vị lai
Phải y pháp như
thế.
Tôi cũng trong ấy
chứng,
Không chỉ Quán Thế
Âm.
Chư Phật quá khứ,
chư Bồ-tát hiện tại, những người tu học vị lai đều từ cửa này mà được thành
tựu. Bồ-tát Văn-thù xác chứng là ngài cũng từ đó mà chứng, chứ không riêng gì
Bồ-tát Quán Thế Âm. Nhưng ngài Văn-thù có tu phản văn tự tánh không, mà nói từ
đò chứng? Thật ra trong các căn, căn nào nếu xoay lại như vậy thì đều
chứng được, nên các ngài tuy tu có khác nhưng cũng trở về đó.
Thật như Phật Thế
Tôn
Hỏi con các phương
tiện,
Để cứu người mạt
pháp
Cầu ra khỏi thế
gian,
Thành tựu tâm
Niết-bàn,
Quán Thế Âm bậc
nhất.
Đức Thế Tôn dạy con
tìm các phương tiện để cứu độ những người trong đời mạt pháp, cầu ra khỏi cõi
thế gian này, những người tu thành tựu tâm Niết-bàn, thì pháp tu của Quán Thế
Âm là cửa vào hơn hết.
Còn các phương tiện
khác
Đều nhờ oai thần
Phật.
Ngay sự, bỏ trần
lao,
Chẳng phải thường
tu học.
Sâu cạn đồng nói
pháp.
Chỉ cửa này là
chính. Ngoài môn này ra, những phương tiện khác đều do oai thần của Phật tạo
ra. Ngay nơi sự việc mà xả bỏ trần lao, như ngài Tất-lăng-già-bà-ta đi giữa
đường bị gai độc đâm vào chân, toàn thân đau nhức, ngay đó quán chiếu liền sạch
lậu hoặc, thành A-la-hán. Đó chẳng phải là pháp tu học lâu dài. Trong khi Phật
dạy pháp tu có sâu có cạn khác nhau, nhưng phương tiện của Quán Thế Âm là tối
thắng.
Đảnh lễ Như Lai
tạng
Vô lậu chẳng nghĩ
bàn,
Nguyện gia bị đời
sau
Nơi môn này không
lầm.
Phương tiện dễ
thành tựu
Đem chỉ dạy A-nan,
Người trầm luân mạt
kiếp
Chỉ dùng căn này
tu,
Viên thông hơn tất
cả,
Tâm chân thật như
thế.
Như vậy ngài
Văn-thù nghe lời Phật dạy, trong hai mươi lăm vị thánh, ngài chọn Bồ-tát Quán
Thế Âm tu về phản văn tự tánh, tức
là trở lại tánh nghe của
mình. Tánh nghe là sẵn có, không phải đợi có tiếng mới nghe. Nó không do tiếng
mà sanh, không do tiếng mà diệt. Cái không sanh không diệt đó là thể đưa mình
tới Niết-bàn. Bất cứ ai tiến vào cửa đó đều có thể đi tới Niết-bàn. Do vậy mà
Bồ-tát Văn-thù chọn nhĩ căn là viên thông. Chẳng những ngài A-nan mà chúng sanh
đời mạt pháp cũng nương phương tiện đó tu được.
Khi ấy A-nan và đại
chúng thân tâm sáng tỏ, nhận được sự chỉ bày rõ ràng, xem Đại Niết-bàn và Bồ-đề
của Phật cũng giống như người có việc đi xa chưa trở về được, nhưng đã biết rõ
con đường về nhà rồi. Khắp cả đại chúng, thiên long bát bộ, hàng Nhị thừa hữu
học và tất cả những người mới phát tâm Bồ-tát, số lượng bằng mười số cát sông
Hằng đều được bản tâm, xa lìa trần cấu được pháp nhãn thanh tịnh.
Ngài A-nan và đại
chúng nghe Phật và ngài Văn-thù chọn lựa, chỉ dạy căn viên thông rồi, các ngài
giống như kẻ đi xa lạc đường không biết lối về, bây giờ được chỉ rõ con đường
về nhà, tuy chưa về tới nhưng thấy rõ con đường đó không còn nghi ngờ nữa, nên
gọi là được pháp nhãn thanh tịnh.
Ví dụ như kẻ đi
rừng lạc đường, loanh quanh lẩn quẩn trong rừng tìm lối ra để về nhà,
mà không biết lối nào nên khổ sở điêu đứng. Bất chợt có ai đó biết đường chỉ
cho lối về. Người lạc đường mừng vô kể, biết được lối đi về không còn nghi ngờ
nữa. Nhưng lúc đó tới nhà chưa? Biết lối về chưa phải là kẻ tới nhà. Nhớ vậy!
Cho nên bây giờ tu, giả sử có ai đó bất chợt phát minh được tâm địa, thấy
nó, biết nó có, chẳng qua cũng là kẻ thấy đường về chứ chưa phải đã
tới nhà. Do vậy phải dùng nhiều công sức tu hành nữa mới có ngày về đến nhà.
Tuy nhiên, thấy
đường là đã mừng vì khỏi bị lạc, không còn bị đau khổ như lúc trước nữa và có
hy vọng một ngày nào đó sẽ về tới nơi. Đó là chỗ ngài A-nan và đại chúng trong
hội gọi là được con mắt pháp trong sạch. Chúng
ta thấy những cảnh vật trước mắt, đó là mắt thịt, còn ngộ bằng trí tuệ, hiểu
được chánh pháp rõ ràng gọi là mắt pháp thanh tịnh.
Thấy đường về tức
là hiểu một cách đúng đắn không còn ngờ vực nghi ngờ gì nữa, nhưng chưa đi được
bao nhiêu. Mới thấy rõ đường về là đã được pháp nhãn tịnh. Khi nghe nói pháp
nhãn tịnh, chúng ta tưởng như cái gì cao lắm nhưng không phải, chính
là thấy được đường về không còn nghi, đối với sự tu hành sáng tỏ không có
gì che mờ nữa.
Bây giờ quý vị nghe
Phật dạy, nghe Bồ-tát giải thích, chọn lựa rồi, đã biết con đường về nhà mình
không còn ngờ vực, chỉ còn có mỗi việc là phải đi. Đi thì mới tới, chứ chỉ biết
rồi hài lòng ngồi đó vui chơi thì dù mười năm hai mươi năm cũng không thể tới
nhà.
Tánh Tỳ-kheo-ni
nghe nói bài kệ rồi, liền được quả A-la-hán. Chúng sanh vô lượng đều phát tâm
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Tánh Tỳ-kheo-ni là
bà Ma-đăng-già.
Nghe xong bài kệ
chọn lựa các căn của ngài Văn-thù rồi, những vị lớn trong hội chúng thì thấy rõ
được con đường về, còn những người thấp nhất cũng phát tâm Bồ-đề, thảy đều được
kết quả tốt.
VI. KHUÔN PHÉP TU
HÀNH
A-nan chỉnh sửa y
phục, ở trong đại chúng chắp tay đảnh lễ Phật, dấu tâm tròn sáng, buồn vui lẫn
lộn, vì muốn làm lợi ích cho các chúng sanh đời sau, cúi đầu bạch Phật:
Thường tâm chúng ta
tự sáng, nhưng tại sao đây lại nói dấu tâm tròn
sáng? Bởi vì ngài A-nan trước kia đã quên, đã bỏ sót nó, giờ
đây thấy lại dấu tâm tròn sáng. Được vậy lẽ ra phải mừng vui chứ sao lại có
buồn? Vui là thấy được đường về, không nghi ngờ gì nữa. Còn buồn là tủi thân
bấy lâu nay chỉ lo học không chịu tu, cho nên tới bây giờ mới thấy đường về,
chưa đi được bước nào.
- Bạch Thế Tôn đấng
Đại bi, nay con đã ngộ được pháp môn thành Phật, trong ấy tu hành không còn
nghi ngờ gì nữa. Con thường nghe Như lai nói thế này: mình chưa được độ, trước
lo độ người là Bồ-tát phát tâm; còn chính mình đã được giác ngộ viên mãn, rồi
hay giác ngộ cho người khác là Phật ra đời. Con tuy chưa được độ mà nguyện độ
tất cả chúng sanh ở đời mạt pháp.
Bạch Thế Tôn, các
chúng sanh này cách phật dần xa, tà sư nói pháp nhiều như số cát sông Hằng.
Muốn nhiếp tâm người kia vào chánh định, làm sao khiến họ an lập được đạo
tràng, xa lìa các ma sự, đối với tâm Bồ-đề được không thối chuyển?
Đó là ngài A-nan
chưa được độ mà nghĩ tới độ người. Câu này rất hay những cũng thường bị người
ta lạm dụng. Ngài A-nan tuy nói chưa được độ nhưng ngài đã ngộ được pháp thân,
đường đi đã thấy rõ ràng không còn nghi ngờ gì nữa. Biết được pháp thân là thấy
nhà rồi nhờ Phật chỉ, ngài còn thấy rõ từ cửa nào vào nhà nữa. Như vậy ngài là
người đã ngộ mà chưa được viên mãn, chưa về đến nhà, nên nói là chưa được độ. Tuy đi chưa
đến nơi nhưng đã rõ đường, nên có thể chỉ cho người khác đi được.
Do vậy, ngài A-nan
thương chúng sanh đời sau này, những người chưa ngộ bị tà sư gạt gẫm, chỉ dạy
sai lầm, nên yêu cầu Phật chỉ cho lối tu thế nào, lập đàn tràng ra sao để khỏi
phải lầm lẫn, đó gọi là độ người. Còn người bây giờ hau mượn câu nói Mình chưa được độ mà độ người là Bồ-tát phát
tâm, rồi đường tu còn mù mịt, sáu căn dính đầy sáu trần mà lo
độ người, rốt cuộc bị người ta độ mình! Cũng chẳng khác nào chưa biết lội mà
cứu người chết đuối, có đúng là Bồ-tát chưa? Như vậy là mình ứng dụng câu nói
của người xưa vào trường hợp không đúng.
Chúng ta cũng có
quyền chọn câu nói khác: Chính mình
đã được giác ngộ viên mãn, rồi hay giác ngộ cho người khác là Phật ra
đời. Giả sử mình không làm Bồ-tát mà làm Như Lai thì càng tốt.
Vì có nhiều người nói ai chỉ lo ngồi tu là ích kỷ, không phải Bồ-tát hạnh. Tuy
chưa độ người mà muốn làm Phật viên mãn rồi mới độ người thì có lỗi gì? Như vậy
hiểu cho thấu đáo chúng ta khỏi nghi và cũng khỏi lầm lời nói của người xưa.
Khi ấy đức Thế Tôn
ở trong đại chúng khen ngợi A-nan:
- Lành thay! Lành
thay! Như lời ông hỏi về cách an lập đạo tràng để cứu độ chúng sanh chìm đắm ở
trong đời mạt kiếp. Nay ông lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói.
A-nan và đại chúng
lặng yên chờ nghe Phật dạy.
Như vậy do lời hỏi
của ngài A-nan, từ đây Phật mới chỉ dạy.
1. Nghĩa quyết định
về đoạn tâm dâm
Phật bảo A-nan:
- Ông thường nghe
ta ở trong giới luật tuyên nói tu hành có ba nghĩa quyết định, đó là: nhiếp tâm
là giới, nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ. Đây gọi là ba Vô lậu học.
Tỳ-nại-da là tiếng Phạn, dịch
là luật nghi, cũng dịch là điều phục. Ba Vô lậu học này là ba nghĩa quyết định
mà trong giới luật đức Phật thường nói tới. Người tu Phật nếu thiếu một trong
ba thì quyết định không thể tiến tới chỗ viên mãn đạo quả được. Vì vậy mà nói
ba nghĩa quyết định:
- Thứ nhất là Giới.
- Thứ hai là Định.
- Thứ ba là Tuệ.
Này A-nan, thế nào
là nhiếp tâm, ta gọi là Giới?
Đây nói về giới ở
tâm chứ không phải giới nơi thân nữa. Các phần trước dạy giữ giới nơi thân, đó
là phần thô thuộc giới tướng, đến đây là phần tế thuộc giới tánh, tức đi tới
chỗ giải thoát nên nói giới ở tâm. Nếu tâm niệm không thanh tịnh thì mầm ô
nhiễm trầm luân vẫn còn, có cơ hội thuận tiện liền nảy mầm, sanh khởi. Do vậy
muốn được giải thoát hoàn toàn thì mầm nhân phải dứt sạch.
Nếu chúng sanh
trong sáu đường ở các thế giới, tâm họ chẳng khởi dâm dục thì không theo đó mà
sanh tử tiếp nối.
Tâm thật không có
dâm. Niệm khởi về ái dục gọi là tâm dâm. Nếu tâm đó dứt thì nhất định không còn
tiếp tục sanh tử.
Ông tu chánh định,
vốn để ra khỏi trần lao, nếu tâm dâm dục không trừ thì không thể ra khỏi được.
Phật dạy phải dứt tâm
dâm, vì dâm gốc từ ái, mà ái là trói buộc. Chúng ta muốn thoát ra mà lại buộc
thì làm sao ra! Cho nên Phật chỉ rõ: nếu muốn ra khỏi trần lao thì phải dứt tâm
dâm.
Dù có nhiều trí
tuệ, thiền định hiện tiền, nếu như chẳng đoạn tâm dâm thì chắc hẳn rơi vào
đường ma. Hạng trên là ma vương, hạng giữa là ma dân, hạng thấp là ma nữ.
Tôi nhớ lại những
năm dạy học ở Trà Vinh 1958 - 1959, chùa Lưỡng Xuyên cũng có một số chúng tăng
ở. Ma nữ nhập vào một thầy, nó tuyên bố dứt khoát rằng: Ở chỗ nào nhiều chư
tăng thì ma nữ tới phá, còn chỗ nào có chư ni thì ma nam tới phá, bởi vậy, nay
ma nữ theo phá mấy thầy. Nó nói rõ ràng như vậy. Do đây, chúng ta thấy trong
kinh nói ma nữ không phải là không có.
Có hai kiểu ma nữ:
ma vô hình và ma hữu hình. Về ma hữu hình, nhiều thanh niên ở thế gian có dáng
vẻ tốt đẹp mà ít ai theo đuổi, trái lại có nhiều thầy, dầu xấu xí vẫn bị người
theo. Tại sao? Đó là do ma nữ dựa vào những cô gái kia, xúi giục họ. Vậy nên
khi thấy người ta theo đuổi đừng vội mừng, tưởng người ta thương mình, phải
biết đó là ma phá.
Vì vậy rất khó cho
người tu, nhất là mấy ông thầy trẻ. Nếu bị ma nữ phá, nó dựa vào người này
người kia nói ra thì mình còn biết để sợ. Còn ma dựa mà không nói, cứ xúi người
đó thương, đó mới thật là khó lường. Nhiều khi mình hãnh diện, tưởng đâu mình
có duyên được người thương, không ngờ chính đó là họa. Ma nó muốn lôi mình đi,
làm chướng con đường Bồ-đề của mình. Hiểu vậy rồi phải cẩn thận dè dặt.
Như vậy có những
loài ma phá phách ngăn trở con đường Bồ-đề, khiến cho người tu khó thành đạo
quả.
Những loại ma kia
cũng có đồ chúng. Mỗi mỗi loại ma đều tự cho là thành đạo Vô thượng rồi.
Ma cũng có đồ đệ.
Hiện nay vẫn có những con ma đang kiếm mấy ông thầy trẻ dụ dỗ phá phách. Nó nói
đạo rất hay, mình khó bẻ nổi. Nó thương mấy ông thầy, thường nói "Thầy tu
còn trẻ sợ gặp khó khăn nên đi theo ủng hộ mọi mặt". Đó là loại ma nữ hiện
tại vẫn có. Loại ma này đẹp đẽ, dễ coi chứ không xấu xí. Vì vậy quý vị muốn đi
đến nơi đến chốn trên đường Bồ-đề phải ráng dè dặt, đừng xem thường mà có khi
bị ma lẫn vào trong đó lôi kéo, rồi nguyện lớn của mình không thành.
Sau khi ta diệt độ,
trong thời mạt pháp có nhiều loại ma dâm này hưng thịnh ở thế gian. Phần nhiều
làm việc tham dâm mà cho là thiện tri thức, khiến các chúng sanh rơi vào hầm ái
kiến, mất con đường Bồ-đề.
Những loại ma này
đầy tràn ở thế gian chứ không phải ít. Nó khen những người làm việc tham dâm,
cho đó là thiện tri thức, khiến cho những chúng sanh phát tâm tu hành rơi vào
ái kiến, mất con đường Bồ-đề.
Ông dạy người đời
tu về chánh định, trước phải đoạn tâm dâm. Đây gọi là lời dạy sáng suốt thanh
tịnh, quyết định đệ nhất của Như Lai, Phật Thế Tôn trước.
Nêu ba danh hiệu để
nói lên sự quan trọng: Phật, Thế Tôn, Như Lai đều dạy như vậy. Chư Phật đời này
đời trước đều chỉ dạy như vậy.
Thế nên A-nan, nếu
người không đoạn dâm mà tu thiền định thì giống như nấu cát đá mà muốn thành
cơm. Dù trải qua trăm ngàn kiếp cũng chỉ gọi là cát đá nóng thôi. Vì sao? Vì đó
là cát đá, không phải là bản nhân của cơm. Ông dùng thân dâm để cầu diệu quả
Phật thì dù được diệu ngộ cũng đều là gốc dâm mà thôi. Cội gốc đã thành dâm thì
phải luân chuyển trong ba đường ắt không thể ra khỏi, vậy quả Niết-bàn của Như
Lai do con đường nào mà tu chứng?
Nếu đã đi trong ba
đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì không còn có con đường nào để tiến đến
được Niết-bàn của Như Lai.
Hẳn phải khiến thân
tâm đều đoạn hết gốc dâm, tánh đoạn cũng không thì đối với Bồ-đề Phật, người
này có thể hy vọng được.
Đoạn đây nói không
chỉ đoạn ở thân mà cả nơi tâm. Muốn trừ sạch tâm dâm phải dùng trí quán, luôn
nỗ lực chiếu soi thấy thân mình, thân người đều là huyễn ảo, thân nam thân nữ
cũng chỉ là cái máy thôi. Cái máy còn động thì còn sinh hoạt, hết động thành
thây chết không nghĩa lý gì, có gì mà gọi là nam là nữ để sanh ra ái. Do quán
sát như vậy, có thể dứt được niệm tham ái.
Thân và tâm đều
đoạn dứt, rồi ý nghĩ đoạn đó cũng không còn nữa. Ví dụ như có người do tham
tiền tham của nên nghĩ đến trộm cắp. Khi tay lấy của người, đó là thân phạm
giới trộm. Do còn lòng tham nên thân hoặc tâm có phạm giới ăn trộm. Nhưng nếu
người kia biết tu, nghĩ phải dứt tâm tham đó, nên vừa dấy niệm khởi tham là rầy
nó chặn nó. Khởi niệm dứt đó để chặn đứng tâm tham, khi tâm tham hết rồi thì ý
nghĩ chặn đứng đó cũng không còn. Nếu còn nghĩ chặn đứng là vẫn còn tâm tham.
Cho nên khi tâm tham hoàn toàn không khởi nữa thì ý nghĩ chặn đứng cũng dứt
không còn, gọi là tánh đoạn
cũng không.
Như vậy để thấy,
ban đầu là bỏ lỗi lầm, xa lìa được lỗi lầm rồi thì niệm xa lìa cũng phải hết.
Khi chúng ta còn dấy niệm răn nhắc mình, tức là còn có cái dở nhỏ nhiệm ở
trong, đến khi thật sạch rồi thì không còn có niệm nào gọi là xa lìa nữa, vì
tới chỗ đó đã hoàn toàn tự tại. Được như vậy người đó mới hy vọng có phần đối
với Bồ-đề Phật.
Như lời ta nói đây
gọi là Phật nói, không như lời nói này tức là ma Ba-tuần nói.
Chúng ta tu phải
lấy lời Phật dạy làm gương soi. Điều nào đúng như Phật dạy thì tin, không đúng
thì không tin. Người học Phật phải lấy kinh luật làm dây mực, không thể làm sai
rồi ngụy biện cho việc làm của mình là ngoại lệ. Trong kinh luật Phật không có
những trường hợp ngoại lệ đó. Dù người nói Phật pháp hay thế nào mà phạm những
lỗi này thì cũng không thể gọi là thuần chất Phật pháp được.
Trong giới của cư
sĩ, giới thứ nhất là giới sát, còn trong giới của người xuất gia, thứ nhất là
giới dâm. Do vì xuất gia là để giải thoát sanh tử, muốn dứt mầm sanh tử luân
hồi thì đừng gieo nhân sanh tử nên trước cần dứt tâm dâm.
2. Nghĩa quyết định
về đoạn tâm giết hại
Này A-nan, lại
chúng sanh trong sáu đường trên các thế giới, không có tâm sát hại thì không
theo đó mà tiếp tục sanh tử. Ông tu chánh định vốn muốn ra khỏi trần lao, không
trừ tâm sát hại thì không thể ra khỏi trần lao. Dù có nhiều trí tuệ, thiền định
hiện tiền, nếu không dứt trừ tâm sát ắt rơi vào thần đạo. Người bậc trên thành
đại lực quỷ, bậc giữa làm phi hành dược-xoa, các loài quỷ soái v.v..., bậc dưới
làm địa hành la-sát.
Đây cũng là quỷ
nhưng gọi là thần. Thần và quỷ đều là người âm, nếu ít phước thì gọi là quỷ,
còn có phước và có uy lực hơn gọi là thần. Ví dụ những người đi đánh giặc thắng
trận chết được phong thần. Đó cũng là quỷ thôi, ở trong nghiệp quỷ nhưng có uy
lực, có đồ đệ sai khiến được.
Phi hành
dược-xoa là
loài dược-xoa bay đi trong không. Địa hành
la-sát là loài la-sát đi dưới đất không bay được.
Các loài quỷ thần
kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi đều tự cho là đã thành đạo Vô thượng. Sau khi ta
diệt độ, ở trong đời mạt pháp, phần nhiều các loại quỷ thần này hưng thịnh ở
thế gian, tự nói ăn thịt được đạo Bồ-đề.
Qua những kinh
nghiệm trên thế gian, chúng ta thấy có những người tu thành quỷ thần, người ta
hay gọi là bề trên, ở cõi trên. Những người đó tự cho mình đã được đạo, họ tự
mãn trong cảnh của họ chứ không thấy rằng mình là quỷ thần. Do vậy họ cũng thâu
đồ đệ, khi dựa ai, bắt ai, phá ai, họ cũng nói đi theo con đường của họ sẽ được
an vui sung sướng.
Như hôm rồi, có một
cô tự xưng là mẹ trên sai xuống, dựa vào một người đàn bà, đến chỗ tôi nói rằng
cô muốn đi giáo hóa những người này người kia, hướng dẫn họ về hầu mẹ. Như vậy
những người trên kia sai đồ đệ họ xuống. Họ tưởng là họ đang giáo hóa mọi
người, cho về trên kia hưởng cảnh thanh nhàn sung sướng, chứ không nghĩ họ cũng
đang đi trong đường quỷ thần. Vì vậy rất dễ bị lầm. Quý vị nào có nghiên cứu kỹ
các tôn giáo ở Việt Nam, sẽ thấy có những lối tu này.
Này A-nan, ta cho
phép các thầy Tỳ-kheo ăn ngũ tịnh nhục. Thịt này đều do thần lực của ta biến
hóa mà sanh ra, vốn không có mạng căn. Xứ Bà-la-môn các ông đất phần nhiều nóng
ướt, lại thêm cát sỏi nên rau cỏ không thể sanh sống. Ta do lòng đại bi, dùng
sức thần lực mà gia bị. Nhân lòng đại từ bi giả gọi là thịt, các ông mới được
cái vị kia.
Trong giai đoạn ban
đầu Phật mới thành đạo, có một số thầy Tỳ-kheo đi khất thực, Phật cho ăn ngũ tịnh nhục là năm thứ
thịt thanh tịnh: không thấy giết, không nghe giết, không nghi giết cho mình ăn,
con vật tự chết, thịt còn thừa do những con thú khác giết ăn còn dư lại. Do các
thầy Tỳ-kheo đi tới xứ của Bà-la-môn, đất đai khô cằn. Những vùng ở gần sa mạc
không có rau cải nên không có đồ chay để ăn, Phật mới hóa ra những con cá chết,
nai chết, dân lấy đó xẻ thịt cúng dường chư tăng. Chư tăng tuy ăn thịt cá,
nhưng đó là do oai thần của Phật hóa hiện chứ không phải thật.
Tại sao, sau khi
Như Lai diệt độ, người ăn thịt chúng sanh mà gọi là Thích tử! Các ông phải
biết, người ăn thịt ấy dù tâm được khai mở, giống như được chánh định, đều là
đại la-sát. Khi báo thân mạng chung, ắt chìm trong biển khổ sanh tử, không phải
là đệ tử của Phật. Người như thế giết nhau, ăn nuốt lẫn nhau chưa thôi dứt, làm
sao người ấy được ra khỏi tam giới?
Phật quở nặng quá!
Người ăn thịt chúng sanh sẽ chìm trong biển sanh tử. Vì còn giết nhau, ăn nuốt
nhau chưa thôi thì làm sao ra khỏi tam giới. Do vì nợ trả không xong, làm sao
ra khỏi ba cõi.
Kinh này nặng về
Đại thừa, lấy đại bi làm trên. Do lòng đại bi, đối với tất cả chúng sanh đều
thương, muốn cho chúng sanh thảy được giải thoát an lạc. Vì vậy không vì sự
sống của mình mà dùng tới sinh mạng hay dùng thịt của chúng sanh. Đức Phật đại
bi nên đệ tử Phật cũng học theo tâm đại bi đó.
Ông dạy người đời
tu chánh định, kế đó phải dứt trừ sát sanh. Đây gọi là lời dạy rõ ràng, thanh
tịnh, quyết định thứ hai của Như Lai, Phật Thế Tôn trước. Thế nên A-nan, nếu
người không dứt trừ giết hại mà tu thiền định, cũng giống như có người tự bít
kín lỗ tai của mình rồi lớn tiếng kêu to mà mong người khác chẳng nghe. Những
người này gọi là muốn ẩn mà càng lộ ra.
Lấy tay bít hai tai
lại rồi la lớn, mình không nghe lại tưởng mọi người không nghe, đây gọi là muốn
ẩn lại càng lộ, muốn kín mà lại bày.
Những Tỳ-kheo thanh
tịnh và các vị Bồ-tát đi trên con đường nhỏ còn không đạp cỏ tươi, huống là lấy
tay nhổ. Tại sao người có lòng đại bi lại lấy máu thịt của chúng sanh mà ăn cho
no?
Nếu các vị Tỳ-kheo
không mặc tơ lụa phương đông và dùng những giày dép, áo lông cừu, sữa, tô lạc, đề-hồ
v.v... cõi này, những Tỳ-kheo như thế ở trong đời này thật là giải thoát, trả
xong nợ đời trước rồi thì không còn đi trong tam giới nữa.
Ở Ấn Độ, nói phương
đông tức chỉ Trung Hoa. Ngày xưa tơ lụa làm bằng tơ tằm, là sanh mạng của chúng
sanh. Giày dép làm bằng da súc vật, cho tới sữa, tô lạc... cũng là những phần
trong thân chúng sanh.
Vì sao? Dùng những
phần của thân chúng sanh đều chịu duyên nợ với chúng. Như những người ăn trăm
thứ cốc gạo ở trong đất thì chân họ cũng không rời đất. Quyết khiến thân tâm
đối với các chúng sanh, hoặc toàn thân hoặc bộ phận của thân, hai đường thân
tâm đều không mặc không ăn, ta nói người ấy thật là giải thoát.
Như lời ta nói đây
gọi là Phật nói, không như lời nói này tức là ma Ba-tuần nói.
Khi tu phải lấy lời
Phật dạy làm kỷ cương. Nếu người nào làm trái lời Phật, dù họ cho là hay mình
cũng đừng vội theo. Vì tin theo thì một ngày nào đó sẽ bị dẫn vào đường tà.
Muốn giải thoát khỏi trần lao, ra khỏi ba cõi thì đừng có nợ gì trong cõi này,
cũng như muốn dứt sanh tử thì đừng gieo mầm sanh tử. Ăn thịt chúng sanh tức là
vay nợ chúng sanh, đền trả mãi không thôi, làm sao thoát ly được!
Tuy nhiên, bên Phật
giáo nguyên thủy, các sư ăn mặn cũng có lý do. Trong sử nói, lúc ban đầu Phật
không bắt buộc ăn chay, nên ngày nay các ngài tu theo những hạnh ban đầu đó.
Hơn nữa các ngài lấy điều này làm y cứ rất vững chắc: Đề-bà-đạt-đa đưa ra
năm điều yêu cầu Phật thực hành, trong đó có điều "không ăn thịt cá",
Phật không chấp nhận lời đề nghị đó. Do vậy các ngài cho rằng ăn chay là theo Đề-bà-đạt-đa,
chứ không phải theo Phật.
Có nhiều gia đình
Phật tử nhà ở thôn quê. Họ cũng tu nhưng lâu lâu có khách tới, nhà không có sẵn
thức ăn mà có nuôi gà vịt, nên phải giết gà vịt để làm cơm. Người giữ giới nói:
"Tôi không cắt cổ gà vịt, ai cắt thì người đó phạm giới." Tuy nhiên,
nấu nướng xong thì cùng ăn. Mình không tự tay cắt cổ chúng nhưng người khác làm
rồi mình hưởng. Như vậy người cắt cổ chịu tội hết còn những người cùng ăn không
có tội gì, vậy thì có công bình và hợp đạo lý không?
Bởi vậy nếu chúng
ta không muốn cho người ta cắt cổ gà vịt, tốt hơn hết là mình đừng ăn. Còn nếu
đã đồng ý ăn thì phải chia sớt với người ta một phần tội lỗi. Người ta làm cho
mình ăn, để rồi phải chịu tội hết thì lòng từ bi bình đẳng đâu có. Mình muốn
thảnh thơi mà để ai khổ mặc họ thì không được. Không thể nói rằng "Ai làm
gì không biết, miễn đem lên thì tôi ăn, không có tội", e chưa được hợp lý
lắm.
3. Nghĩa quyết định
về đoạn tâm trộm cắp
Lại nữa này A-nan,
chúng sanh trong sáu đường trên các thế giới, tâm họ không trộm thì không theo
đó mà tiếp tục sanh tử. Ông tu chánh định vốn muốn ra khỏi trần lao, nếu không
trừ tâm trộm thì không thể ra khỏi trần lao được. Dù có nhiều trí tuệ, thiền
định hiện tiền, nếu không dứt trừ tâm trộm cắp ắt rơi vào đường tà. Hạng trên làm
tinh linh, hạng giữa làm yêu mỵ, còn hạng dưới làm người tà, bị các loài quỷ mỵ
dựa. Những bọn tà kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự bảo là thành đạo Vô thượng.
Phật dạy đoạn lòng
trộm cắp, là không có tâm gian tham lừa dối để lấy của người. Gian tham lừa dối
bằng cách này cách nọ, cho tới trá hình người tu để lừa gạt thế gian. Như bậc
dưới chúng ta dễ thấy, có nhiều người ợ ngáp mà cũng có đồ đệ, người ta cũng
kính nể quỳ lạy, cũng theo cũng phục. Nếu căn cứ theo kinh Lăng-nghiêm này thì
đó là do họ tu mà không giữ giới trộm. Bởi không giữ giới trộm tức tâm còn tham
lam nên bị ma quỷ dựa, lại cho là mình hay, có những điều mầu nhiệm, có đồ đệ
theo, tự cho mình được Vô thượng đạo. Họ không bao giờ nói tu theo họ là sai,
là lạc đường tà.
Sau khi ta diệt độ,
trong đời mạt pháp phần nhiều loài yêu tà này hưng thịnh ở thế gian. Chúng ẩn
nấp gian dối xưng là thiện tri thức, mỗi người tự nói đã được pháp thượng nhân,
lừa gạt người không biết, khủng bố khiến cho tâm sợ sệt. Chỗ họ đi qua, những
nhà kia thường hao tài tốn của.
Pháp thượng
nhân là
pháp cao hơn người, là pháp thánh. Những người bị loài yêu mỵ dựa đi tới nhà
nào, nhà đó đang bình an nhưng bọn họ dọa nhà này nếu không cúng rồi đây sẽ bị
tai nạn... Họ khủng bố cho người ta sợ phải cúng, rồi bày ra mua sắm đủ thứ đồ
cúng, làm hao tài tốn của. Những điều này trong thế gian xảy ra khá nhiều,
người ta cũng dễ tin theo. Bọn này thường ăn mặc sang trọng ra vẻ bà này ông
kia.
Chúng ta nên hiểu
thật kỹ, dạy Phật tử biết rõ ràng, đừng lầm những việc này. Phải biết đó là có
những loài tà mỵ dựa vào rồi xưng thánh xưng thần này nọ. Như Tề Thiên Đại
Thánh là nhân vật tiểu thuyết, nhưng những người lên đồng có khi cũng xưng là
Tề Thiên Đại Thánh. Vậy đâu có gì là thật, chỉ là mạo xưng. Lại còn xưng Phật
Di-lặc, Phật Bà Quan Âm v.v... Phật và Bồ-tát đủ ba mươi hai ứng thân, khi nào
cần độ người thì ứng hiện thân người để độ chứ đâu cần dựa ai, dựa vào cái thân
hôi hám làm gì? Chỉ có ma mỵ không tự ứng thân được, mới dựa vào người khác rồi
xưng là những bậc trên, khủng bố cho người ta sợ.
Bọn ma này thường
nói, theo ta thì ta cứu cho sống, không theo ta thì chết. Nó cũng bảo phải ăn
chay phải tu hành, nói một vài câu nghe có vẻ đạo lý. Người đời nghe vậy tưởng
là hay, vì thấy họ cũng dạy làm lành, chứ không ngờ đó là bọn phá hoại, làm cho
mọi người mất hết tâm chân chánh, rồi phải đọa trong đường tà. Đó là mối hiểm
họa của người tu hiện giờ.
Chúng ta không biết
thì thôi, nếu biết thì ráng chỉ dạy, nhắc nhở cho người thế gian hiểu điều sai
điều bậy, điều tà. Dầu cho chúng xưng ông bà gì đi nữa cũng là mạo xưng. Người
ta hay nói "mưu thần chước quỷ", nghĩa là mưu phá hay là mưu của mấy
ông thần, còn mẹo chước tài tình nhất là của quỷ, nó dùng mọi cách khéo léo để
lường gạt mà mình không biết.
Ví dụ như có người
cầu cơ, mới vô luôn xưng là bậc cao, hoặc là thánh, hoặc là nhà thơ... cho
người ta quý. Có khi họ nói lành cũng có khi nói dữ, phần nhiều nói những
chuyện sắp tới, hoặc nói "sắp tận thế rồi ráng mà tu"... Nhưng thỉnh
thoảng lại bảo phải làm theo họ để được cứu. Chúng lại còn phong chức phong
tước cho. Người theo họ, thấy mình tu chưa bao lâu mà được phong chức phong
thánh thì rất thích. Có nhiều người không bị cái danh ở thế gian lừa mà lại bị
danh của quỷ thần lừa. Có nhiều điều rất sai lầm, không thể nào nói hết cho mọi
người được.
Ở thế gian, dầu cho
người khôn ngoan mấy cũng vẫn bị gạt như thường. Còn đường đạo thì chỉ cho
chúng ta lẽ thật, không bị người gạt gẫm. Ma quỷ thường tìm cách này mưu kia để
lường gạt mọi người. Với kẻ hiếu danh, nó nói cũng như vậy thì chức quyền không
mất, người hiếu sắc thì nó đưa sắc ra dụ, kẻ ham tài lợi thì đem tài lợi lừa...
Những trường hợp này không thiếu. Rất nhiều người vì kẹt trong danh lợi tài sắc
mà bị chúng lừa gạt dẫn đi.
Ta dạy các thầy
Tỳ-kheo theo thứ lớp đi khất thực, khiến bỏ lòng tham để thành đạo Bồ-đề.
Người đi khất thực
thì không chứa chấp, tức bỏ lòng tham để được đạo Bồ-đề; còn người cúng, nhường
phần ăn của họ cũng bỏ lòng tham. Phật sợ mọi người nghi chư Tỳ-kheo đi đến đâu
thí chủ cũng hao tài tốn của, vậy cũng giống như bọn ma mỵ sao? Cho nên Phật
giảng rõ đệ tử Phật là những Tỳ-kheo đi khất thực, thí chủ cúng dường cũng phải
hao tốn, nhưng hao tốn để bỏ lòng tham, thành đạo Bồ-đề. Người làm việc bố thí,
do bỏ lòng tham mới đem ra bố thí được; còn cúng cho quỷ thần là tăng thêm lòng
tham, nghĩ cúng sẽ được cái này cái kia.
Các thầy Tỳ-kheo
không tự nấu ăn, gửi đời tàn này làm người khách tạm đi trong tam giới, hiện
thân một lần qua lại, đi rồi không trở lại. Tại sao kẻ giặc giả mượn y phục của
ta mà mua bán Như Lai? Tạo các thứ nghiệp đều nói là Phật pháp, lại chê bai
những người xuất gia thọ giới Cụ túc làm Tỳ-kheo là đạo Tiểu thừa. Do đó làm vô
lượng chúng sanh nghi lầm, đọa trong địa ngục Vô gián.
Câu này Phật quở
nặng quá: Người xuất gia rồi, chỉ mượn gá cái thân tàn, tạm đến cõi này để tu
một đời cuối, nghĩa là tới đây một phen không còn trở lại nữa, chứ không phải ở
đây đời đời để lập sự nghiệp trong tam giới. Vậy thì tại sao được đắp y ca-sa
đàng hoàng mà lo tính toán chuyện làm giàu, thấy chỗ nào có thí chủ đạo tâm kha
khá thì tới đó xin, hoặc tổ chức cái này cái kia để cầu lợi. Gây những việc tội
lỗi lại nhân danh người tu để làm. Đó là mượn y phục của Như Lai mà mua bán
Phật.
Nhiều người nói
mình làm việc này việc kia là vì đạo, trong khi ngầm tính tiền lời lỗ. Đó là
bệnh của chúng sanh bây giờ, mượn danh Phật pháp, mượn chiếc áo của Phật mà làm
chuyện buôn bán. Lại chê bai người xuất gia, làm Tỳ-kheo thọ giới Cụ túc là đạo
Tiểu thừa, còn ta đây mới là Đại thừa. Ngày nay gạt được mọi người nhưng sau sẽ
lãnh quả báo.
Sau khi ta diệt độ,
nếu có những Tỳ-kheo phát tâm quyết định tu thiền định, hay ở trước hình tượng
Như Lai, đốt thân làm một ngọn đèn, hoặc đốt một ngón tay hay ở trên thân đốt
một liều hương. Ta nói người ấy, nợ trước từ vô thủy một lúc đều trả xong, từ
biệt thế gian, vĩnh viễn thoát khỏi các lậu.
Đức Phật muốn cho
chúng ta biết người quyết tu thì coi thường thân này. Thân còn không tiếc huống
là ăn mặc hay những nhu cầu khác. Cho nên nói đốt thân, đốt ngón tay, đốt liều,
ý là không tiếc thân, người đó mới là người xá dài thế gian, từ giã ba cõi mà
đi luôn.
Người có tinh thần
xả thân sẽ ra khỏi tam giới một cách dễ dàng, người nào còn nặng về thân, quý
tiếc thân thì khó ra khỏi tam giới. Có người nghe nói vậy liền phát tâm đốt
thân, đốt thì đốt mà động tới thân vẫn còn quý tiếc, đó là chưa phải. Hoặc bị
bắt buộc đốt liều, đốt để cho mình thành Tỳ-kheo, không đốt thì bị hiểu lầm
mình không phải Tỳ-kheo, đều là những quan niệm không đúng lẽ thật.
Người ấy tuy chưa
sáng tỏ con đường Vô thượng giác, nhưng đối với pháp đã có tâm quyết định. Nếu
chẳng làm cái nhân nhỏ xả thân này thì dù có thành tựu vô vi ắt cũng còn trở
lại sanh làm người để trả nợ đời trước, như ta bị nạn mã mạch, thật không sai
khác. Ông dạy người thế gian tu về chánh định, sau khi phải dứt trừ trộm cắp.
Đây gọi là lời dạy rõ ràng, thanh tịnh, quyết định thứ ba của Như Lai, Phật Thế
Tôn trước.
Đức Phật cũng còn
phải trả quả báo ăn lúa ngựa. Có Bà-la-môn tên A-kỳ-đạt rất giàu có, được
Tu-đạt giới thiệu đến gặp Phật và nghe thuyết pháp. A-kỳ-đạt vui mừng thỉnh
Phật và chư tăng đến chỗ ông là xứ Tùy Lan Nhiên giáo hóa trong ba tháng. Nhưng
khi Phật cùng năm trăm vị Tỳ-kheo đến đó, A-kỳ-đạt bị thiên ma mê hoặc, chìm
đắm trong ngũ dục, không tiếp khách trong ba tháng.
Vùng đó đang bị đói
kém nên Phật và chư tăng không khất thực được thức ăn. Có một người làm nghề
huấn luyện ngựa, lấy bớt phần lúa mạch của ngựa dâng cúng Phật và chư tăng. Sau
ba tháng, Phật dạy tôn giả A-nan đến nhà ông Bà-la-môn báo tin sẽ đi nơi khác.
A-kỳ-đạt ân hận, đến chỗ Phật xin sám hối vì bị si ám không nhớ lời hứa và xin
Phật ở lại bảy ngày để được cúng dường. Phật nhận lời và kể cho các Tỳ-kheo
nghe nhân duyên trước.
Trong thời quá khứ
có vua Tần Đầu, chuẩn bị trai lễ hết sức trang nghiêm để cúng dường đức Phật
Duy Vệ. Có vị Phạm chí cùng năm trăm đệ tử trông thấy sanh tâm tật đố, vị Phạm
chí nói: "Người đời thật mê muội, dâng món ăn cao sang cho người ấy làm
gì. Ông ấy chỉ xứng được ăn lúa mạch của ngựa." Năm trăm đệ tử cũng nói
theo thầy.
Vị Phạm chí thuở ấy
chính là tiền thân Phật, năm trăm đệ tử là năm trăm Tỳ-kheo cùng bị ăn lúa
ngựa. Do nhân xấu xưa, dù đã thành đạo đức Phật vẫn phải trả quả báo trước.
Thế nên A-nan, nếu
không dứt trừ trộm cắp mà tu thiền định thì giống như có người rót nước vào cái
chén lủng, mong cho nó được đầy, dù trải qua số kiếp như vi trần trọn không thể
đầy được.
Phật xác định rõ
ràng người tu thiền định phải đoạn tâm trộm cắp.
Nếu các Tỳ-kheo,
ngoài y bát ra, một phân một tấc gì cũng không được tích chứa. Khất thực phần
còn dư, nên bố thí cho các chúng sanh đói. Ở những chỗ chúng tăng nhóm họp đông
đảo thì nên chắp tay lễ cúng. Nếu có người đánh chửi mình thì coi như là khen
ngợi.
Phật dạy Tỳ-kheo
chỉ có ba y và một bình bát, nếu có dư một phân một tấc cũng không chứa, khất
thực nếu có dư thì cho chúng sanh ăn. Chúng ta phải biết rõ để bớt lòng tham.
Ngày nay không thể hành hạnh khất thực như thời Phật, là vì có chùa, có nơi
chốn ăn ở, do đó phải để dành. Nhưng phải giữ tâm mình, thấy đó là của đại
chúng, của chung chứ không phải của riêng. Mình giữ cho chúng chứ không phải
giữ cho mình. Khi xài cũng tiết kiệm, vừa phải vừa đủ, không phung phí, đó cũng
là biết giữ theo lời Phật dạy.
Chúng ta đừng hiểu
lầm, nghe Phật dạy như vậy, nhìn lại bây giờ mình có chùa chiền, có lúa gạo
sẵn, cho là trái với đạo hoặc đi sai đường. Thật ra thời đức Phật, tại Ấn Độ
người dân không trọng những người tu có chùa ở, nấu ăn tại chỗ mà lại trọng
những người đi khất thực. Hai hoàn cảnh khác nhau. Nếu chúng ta lấy đó làm mẫu
thì không được. Phải cần thấu rõ trọng tâm của lời dạy đó, hiểu đúng tinh thần
Phật dạy chúng ta là đừng tham, đừng chất chứa, đừng lo riêng cho mình.
Khi chúng tăng nhóm
họp đông đảo, chúng ta trông thấy phải chắp tay đảnh lễ đại chúng chứ không nên
ngạo mạn. Chúng ta hay có bệnh tự cao, coi thường người khác, nên Phật dạy phải
khiêm hạ đối với mọi người, trong chỗ đông đảo luôn luôn kính nhường. Ai đánh
đập mắng chửi mình thì coi như là lời tán thán khen ngợi chứ đừng thù giận.
Điều này mình làm được chưa? Đừng nói đánh, chỉ mắng chửi thôi mà mình không
giận không thù cũng là bậc ưu rồi.
Bây giờ chúng ta
tu, những gì Phật dạy phải cố gắng làm, được tới đâu mừng tới đó, chứ đừng cho
rằng làm không nổi rồi bỏ luôn. Dù chưa làm được trọn vẹn cũng phải gắng hết
sức. Giả sử người ta mắng chửi nhè nhẹ thì mình ráng nhịn, còn họ mắng chửi hơi
nặng, nếu có cãi lại cũng ít ít thôi. Khi họ đánh đập mình thì chạy đi, chứ
đừng phản ứng hung dữ với họ.
Quyết buông bỏ cả
thân và tâm. Xem thân thịt xương máu mình cùng giống với chúng sanh. Không đem
lời dạy bất liễu nghĩa của Như Lai lại làm chỗ hiểu của mình, khiến người mới
học lầm lạc. Phật ấn chứng người này được chánh định chân thật. Như lời ta nói
gọi là Phật nói, không như lời này tức là ma Ba-tuần nói.
4. Nghĩa quyết định
về đoạn trừ đại vọng ngữ
Này A-nan, như thế
những chúng sanh trong sáu đường trên các thế giới, tuy thân tâm không sát
sanh, trộm cắp, dâm dục, ba hạnh đã tròn, nếu đại vọng ngữ tức chánh định không
được thanh tịnh, thành ma ái kiến, mất hạt giống Như Lai. Nghĩa là chưa được
nói đã được, chưa chứng nói đã chứng. Hoặc mong người thế gian tôn trọng mình
bậc nhất, ở trước người, nói: Nay ta đã được quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả
A-na-hàm, đạo A-la-hán, thừa Bích-chi Phật, hoặc các vị Bồ-tát Thập địa, trước
Thập địa... Mong những người kia lễ sám, tham sự cúng dường của họ. Đây là một
kẻ ngu si, tiêu diệt hạt giống Phật. Như người dùng dao chặt cây đa-la, Phật ấn
ký người này mất hẳn căn lành, không còn chánh tri kiến, chìm trong ba biến
khổ, không thành được chánh định.
Đại vọng ngữ là
chưa được nói được, chưa chứng nói chứng... Ví dụ như trong chúng bốn năm mươi
người, gặp ai mình cũng khoe là tôi đắc đạo, đắc Tu-đà-hoàn v.v... để mọi người
thấy trong chúng này chỉ có mình là người đắc đạo số một, muốn mọi người tôn
trọng mình hơn cả. Đây là một bệnh lớn.
Trong các bậc tu
của Bồ-tát có: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, và Tứ gia hạnh
gọi là địa tiền, nghĩa là trước Thập địa, và từ Sơ địa trở lên là địa hậu.
Cây đa-la như cây
dừa cây cau, chặt ngang ngọn thì không còn lên lại nữa. Người gạt gẫm người
khác bằng cách tự xưng mình là thánh để được cung kính, sẽ mất đi hạt giống
Phật, không thể có căn lành trở lại. Những người này chìm trong ba đường khổ:
địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
Ta dạy các Bồ-tát
và A-la-hán sau khi ta diệt độ, ứng thân sanh trong đời mạt pháp kia, hiện các
hình tướng để độ những người trầm luân. Hoặc làm Sa-môn, bạch y cư sĩ, vua
quan, đồng nam đồng nữ, như thế cho đến làm dâm nam dâm nữ, quả phụ, kẻ gian
dối, trộm cắp, đồ tể, buôn bán, cùng làm việc với họ, nhưng tán thán Phật thừa
khiến cho thân tâm những người kia được vào chánh định. Trọn không tự nói ta
thật là Bồ-tát, thật là A-la-hán, tiết lộ mật nhân của Phật, khinh xuất nói với
những người chưa học, chỉ trừ khi sắp chết thầm có những lời di chúc, làm sao
nói người này lừa gạt chúng sanh, thành tội đại vọng ngữ?
Như vậy trong mọi
trường hợp mọi hoàn cảnh, các vị Bồ-tát, A-la-hán có thể thị hiện làm hạnh đồng
sự, tức cùng làm chung một công việc với đủ hạng người mà không bị nhiễm, cốt
làm sao thức tỉnh cho mọi người biết có Phật thừa để phát tâm tu hành đạt được
chánh định. Những người đó làm như vậy mà không bao giờ tự xưng mình là Bồ-tát
là A-la-hán, tiết lộ mật nhân, tức
để lộ nhân duyên Phật thầm giao phó, nói với những người chưa học. Chỉ khi nào
sắp chết mới để lại một vài câu gì đó cho người đời biết.
Vậy nên trên đời
này, có ai xưng Bồ-tát hoặc xưng này nọ thì chúng ta biết thuộc loại gì rồi.
Bồ-tát thật thì khi vừa bị khám phá là đi liền chứ không ở lại. Trong sử có câu
chuyện Hàn Sơn và Thập Đắc. Ngài Hàn Sơn từ trong núi lạnh Thiên Thai chạy ra,
xin ở chùa Quốc Thanh. Vì không rõ tên ngài nên người ta gọi là Hàn Sơn (núi
lạnh). Sa-môn Phong Can ở chùa Quốc Thanh, nhân đi qua Xích Thành gặp một đứa
bé bị bỏ rơi, ngài đem về và đặt tên là Thập Đắc (Thập là lượm, Đắc là được).
Chùa Quốc Thanh
thời đó rất thịnh, có cả trăm chúng. Hàn Sơn Thập Đắc rất thân nhau, thường
ngày hai vị tỏ ra khờ khờ khạo khạo giống như kẻ điên khùng không ra gì. Đến
bữa ăn, hai vị tự xưng xuống bếp kiếm cơm thừa canh cặn. Hôm nào không có thì
lượm cơm rơi rớt ở sàn nước mà rửa ăn, khiến ai cũng khinh thị, cho là hai ngài
bị điên. Suốt mấy năm trời như vậy. Thỉnh thoảng hai ngài nói hoặc làm thơ rất
hay, ý nghĩa hợp đạo lý mà cũng không ai biết.
Trong chùa có thờ
thần hộ trì già-lam, hàng ngày cúng thức ăn đều bị chim ăn hết. Thập Đắc dùng
gậy đánh tượng thần, nói: "Đồ ăn của ông, ông còn không giữ được thì làm
sao giữ được già-lam?" Đêm đó thần báo mộng cho tăng chúng cả chùa biết:
"Thập Đắc đánh tôi." Đến sáng, chúng tăng kể lại mộng đều giống như
nhau. Bèn đến xem tượng thần thấy có chỗ bị bể, ai nấy đều hoang mang.
Sau đó ngài Phong
Can tịch, theo giả thuyết thì cho ngài là Di-lặc thường cỡi cọp đi đây đó, có
chỗ nói là Di-đà. Thứ sử Lư Khâu Dận bị bệnh nan y, các thầy thuốc đều bó tay.
Một hôm ông ngủ nằm mộng thấy ngài Phong can cho ông bài thuốc và dặn sau khi
lành bệnh nên vô chùa Quốc Thanh đảnh lễ hai vị Bồ-tát Văn-thù Phổ Hiền, hiện
là Hàn Sơn và Thập Đắc. Thức dậy, ông theo lời ngài Phong Can chỉ dẫn, uống
thuốc liền hết bệnh.
Sau khi hết bệnh
ông đến chùa, được thầy trụ trì tiếp rước đàng hoàng. Ông nài nỉ cho gặp hai
ngài Hàn Sơn và Thập Đắc. Thầy trụ trì không muốn cho Thứ sử gặp gai gã điên
này, nhưng ông cứ nài nỉ nhất định phải cho gặp. Túng quá, thầy trụ trì cho người
xuống nhà sau kêu hai vị ra. Gặp hai ngài, Lư Khâu Dận liền quỳ lạy. Hai vị
nói: "Phong Can lắm lời, Di-đà đó mà chẳng biết, đến lạy ta làm gì!"
Hai vị nắm tay nhau cười vang, chạy ra khỏi chùa, sau không ai biết tịch ở đâu.
Như vậy, khi mật
nhân bị bày lộ các ngài liền đi. Bồ-tát ở với mình, mình không biết, tới chừng
biết thì đã đi mất. Do đó chúng ta phải có tâm kính những người chung quanh như
Bồ-tát, để lỡ khinh Bồ-tát thì có tội. Các vị Bồ-tát đôi khi giả những hạnh làm
cho người ta khinh, đó là do không muốn bày mật nhân. Vậy mình cứ cung kính mọi
người để giữ phần chắc, chứ đừng để sau hối hận không kịp.
Như chuyện ngài Hàn
Sơn và Thập Đắc, nếp sống các ngài như vậy là để cảnh tỉnh chư tăng đừng phung
phí của Tam bảo, nên các ngài ăn mót cơm rồi cơm đổ. Đến lúc biết rồi chúng
tăng mới giật mình hối hận, sống với Bồ-tát bao nhiêu năm mà không biết, tưởng
đâu là kẻ tầm thường không ra gì. Nên nói chỉ
trừ khi sắp chết thầm có những lời di chúc. Như Hòa thượng Bố
Đại khi sắp tịch để lại một bài kệ:
Di-lặc chân Di-lặc
Hoá thân thiên bách
ức
Thời thời thị thời
nhân
Thời nhân thường
bất thức.
Dịch:
Di-lặc thật Di-lặc
Hóa thân trăm ngàn
ức
Thường thường dạy
người đời
Người đời lại chẳng
biết.
Nói kệ xong ngài an
nhiên thị tịch. Người đương thời cho ngài là hóa thân của Bồ-tát Di-lặc. Hồi
còn sống thì không ai biết, đọc bài kệ mới biết là Di-lặc. Đó là chỗ đặc biệt
của các ngài.
Tuy nhiên, nếu ai
tự xưng là Bồ-tát thì chúng ta nên bái họ rồi lui đi, vì coi chừng đó là giả
hiệu. Cho nên người xưng Bồ-tát thì mình tránh, còn những người không xưng
Bồ-tát mà có tật này tật kia thì phải dè dặt, biết đâu là Bồ-tát thật, đừng vội
khinh thường, chừng biết thì Bồ-tát đã đi mất, hối hận không kịp.
Ông dạy người đời
tu chánh định, về sau lại đoạn trừ các đại vọng ngữ. Ấy gọi là lời dạy rõ ràng,
thanh tịnh, quyết định thứ tư của Như Lai, Phật Thế Tôn trước. Thế nên A-nan,
nếu không đoạn đại vọng ngữ kia thì như kẻ lấy phân người làm hình chiên-đàn,
mong muốn có mùi thơm, điều đó không bao giờ được.
Lấy phân người phơi
khô rồi nhồi nặn thành hình cây chiên-đàn, để mong được mùi thơm thì chẳng bao
giờ được. Cũng như mình là phàm phu mà tự xưng là Bồ-tát, A-la-hán... mong cho
người ta cúng dường cung kính, điều đó là ngu si.
Ta dạy các thầy
Tỳ-kheo tâm ngay thẳng là đạo tràng. Nơi bốn oai nghi, trong tất cả hạnh còn
không được giả dối, thì làm sao tự xưng đã được pháp thượng nhân?
Thế nào là bốn oai
nghi giả dối? Ví dụ khi không có ai thì vừa đi vừa nhảy nhót, vừa thấy khác quý
liền đi nghiêm chỉnh, ra vẻ đạo đức lắm vậy. Đó là những oai nghi giả dối. Hoặc
khi không có ai thì thổi sáo ca hát, có Phật tử tới thì lấy kinh ra đọc nghiêm
chỉnh. Đó là những việc giả dối để cho người khác lầm tưởng mình tu nhiều.
Ví như người nghèo
khó mà dối xưng mình là đế vương, tự chuốc tội tru diệt, huống là Pháp vương,
vì sao mà dám dối xưng? Nhân không chân chánh thì phải chuốc lấy quả cong vạy.
Những người đó mà cầu Bồ-đề của Phật thì giống như người muốn cắn rốn mình, làm
sao mà thành tựu! Nếu các Tỳ-kheo tâm như sợi dây đàn thẳng, tất cả đều chân
thật vào chánh định, hằng không có các ma sự. Ta ấn chứng cho người này sẽ
thành tựu tri giác Vô thượng của Bồ-tát. Như lời ta nói gọi là Phật nói, không
như lời này tức là ma Ba-tuần nói.
Người tu hành tâm
phải thẳng như dây đàn, tất cả đều chân thật: nói chân thật, làm chân thật,
không lừa dối ai. Tuy nói chân thật có những trường hợp không tốt cho mình
nhưng vẫn nói thật. Người chân thật tu về chánh định được an ổn, không bị trục
trặc do những ma sự. Người gặp nhiều ma sự là do trước tạo những nghiệp không
ngay thẳng, không chân thật nên bây giờ mới bị các chướng đó. Bởi vậy cùng tu
mà có người rất thuận duyên, êm xuôi không trở ngại gì, lại có người tu nay bị
chướng này mai tật nọ, ba hồi đau bốn hồi sợ, đủ thứ bệnh tật là tại sao? Tại
tâm không thẳng như dây đàn nên mới bị ma sự rối rắm. Đó là vì nhân không chánh
nên khi tu có những việc điên đảo xảy đến. Như vậy, tu hành phải ngay thẳng
đừng cong vạy. Nhiều khi hình thức là người tu mà tâm không chân thật, điều này
có xảy ra trong hiện tại. Vậy nên người tu phải vì đạo Bồ-đề chứ không vì lợi
dưỡng quanh co.
Trong năm giới, ở
đây Phật chỉ nói bốn giới: dâm, sát, trộm và đại vọng ngữ. Không chỉ giới ở
thân mà luôn cả giới tâm, nghĩa là muốn được hoàn toàn thanh tịnh thì chẳng
những thân không phạm lỗi mà tâm cũng phải thanh tịnh. Được như vậy thân tâm
đều thanh tịnh, người đó tu hành không bị chướng. Trái lại trong bốn giới này,
người nào chưa được thanh tịnh thì tu có nhiều chướng, vì nghiệp chưa trong
sạch, ma chướng sẽ hiện ra.
Như vậy, trên đường
tu muốn được đến nơi đến chốn thì giới luật là đầu. Đây không nói những giới
chi tiết mà là giới căn bản. Bốn giới này gọi là giới tánh sẵn ở mọi người, có
mặt mình là có nó rồi. Vậy nên bốn điều này rất sâu đậm, thấm trong xương trong
máu thịt mỗi người, loại ra rất khó. Vì vậy Phật dạy phải tập bốn điều này cho
thanh tịnh thì sự tu hành mới chóng được giải thoát, không có gì khó khăn.
Comments
Post a Comment