KINH THỦ-LĂNG-NGHIÊM GIẢNG GIẢI
HT THANH TỪ
PHẦN TÓM KẾT
Tôi tạm tóm kết lại cho
quý vị lãnh hội được rõ ràng hơn, thấy được phương hướng tu hành đức Phật đã
dạy. Kinh Lăng-nghiêm này tuy không nói về các phần Khai, Thị, Ngộ, Nhập như
kinh Pháp Hoa, nhưng chúng ta có thể lấy đó để làm tổng đề, giải thích tổng
quát về bộ kinh.
1. Trong kinh này, đoạn
nào nói về Khai?
Phần Khai là từ chỗ mở
đầu, đức Phật hỏi ngài A-nan nhân gì mà phát tâm xuất gia. Ngài A-nan trả lời:
"Nhân thấy thân tướng đẹp đẽ quý báu của Phật mà phát tâm xuất gia."
Như vậy, có mắt thấy và có tâm, nhưng mắt không
quan trọng, quan trọng là tâm. Tuy nhiên, người ta thường không biết tâm là gì,
tâm ra sao, ở đâu.
Như có ai hỏi: Tại sao
thầy đi tu? Trả lời: Do vì tôi thấy đạo đức là cao quý nên phát tâm đi tu.
Nhưng nếu hỏi tiếp: Tâm đó là cái gì? Thì sẽ lúng túng ngay. Như vậy, khi nghe
ngài A-nan nói phát tâm đi tu, Phật liền gạn: Tâm ở chỗ nào? Mục đích Phật gạn
là để xem ngài A-nan chấp cái gì làm tâm. Bởi vậy qua bảy lần ngài A-nan trả
lời, bảy chỗ chấp tâm đều bị Phật bác.
Thông thường, khai có
nghĩa là mở. Nếu có cửa thì mở, nhưng nếu vách tường bít thì sao? Phải đập! Đập
cho bể mới trống được. Lâu nay ngài A-nan chấp tâm có chỗ nơi, nên mới đáp ở
trong, ở ngoài, nói ở chỗ này chỗ kia. Phật biết cho nên ngài phá dẹp, không cho
còn một chỗ chấp nào hết.
Đó là chặng thứ nhất,
đập tan lầm chấp. Nhưng Phật vẫn biết ngài A-nan chưa hết chấp, nên sau cùng
Phật hỏi: "Ông lấy cái gì làm tâm?" Ngài A-nan thưa: "Cái hay
suy nghĩ là tâm con." Phật quở: "Đó không phải là tâm ông."
Ngài A-nan hoảng hốt, kể
lể: "Tâm con đâu riêng cúng dường Như Lai, cho đến trải khắp cõi nước hằng
sa phụng sự chư Phật và thiện tri thức, phát tâm đại dõng mãnh làm tất cả các
pháp sự khó làm, đều dùng cái tâm này. Dầu cho con có huỷ báng chánh pháp, hằng
lui sụt căn lành cũng nhân cái tâm này. Nếu Phật phát minh đó không phải là
tâm, vậy là con không có tâm, đồng như cây như đất, vì ngoài cái hiểu biết này
đâu còn gì nữa!"
Phật kết thúc: "Ta
không bảo ông chấp là không phải tâm. Nhưng đối với tâm này, ông phải chín chắn
suy xét. Nếu lìa tiền trần mà có tánh phân biệt mới thật là tâm ông. Còn nếu
lìa tiền trần, tánh phân biệt không có tự thể, đây ắt chỉ là sự phân biệt bóng
dáng tiền trần."
Đến đó là kết thúc phần
Khai, nghĩa là dẹp không còn chỗ chấp.
2. Bước qua phần Thị
Thị là gì? Là chỉ. Phần
Thị cũng chia làm hai:
a. Một là chỉ tâm chân,
nhưng không phải là chân thật cứu cánh, chỉ mới gần với tâm chân thật cứu cánh.
Đó là tánh thấy.
Trước tiên Phật dùng
phương tiện đưa bàn tay xòe nắm. Phật hỏi A-nan: "Nay ông thấy gì?"
A-nan thưa: "Con
thấy bàn tay trăm báu của Như Lai ở trong chúng xòe ra rồi nắm lại."
Phật bảo A-nan:
"Ông thấy tay ta ở trong chúng xòe nắm, đó là tay ta có xòe nắm hay cái
thấy của ông có xòe nắm?"
A-nan thưa: "Tay
báu của đức Thế Tôn ở trong chúng xòe nắm. Con thấy tay Như Lai tự xòe nắm, chứ
không phải tánh thấy của con có xòe có nắm."
Rồi từ lòng bàn tay Phật
phóng ra một đạo hào quang báu đến bên phải A-nan, A-nan liền xoay đầu qua phải
nhìn. Phật lại phóng một đạo hào quang đến bên trái A-nan, A-nan lại xoay đầu
qua trái nhìn. Phật hỏi A-nan: "Đầu ông hôm nay cớ sao dao động?"
A-nan thưa: "Con
thấy Như Lai phóng hào quang báu nhiệm mầu đến bên phải bên trái con, nên con
nhìn sang trái sang phải, khiến đầu tự dao động."
Phật bảo: "A-nan! Ông
nhìn hào quang Phật, đầu xoay qua phải qua trái. Vậy đầu của ông động hay cái
thấy động?"
A-nan: "Bạch Thế
Tôn! Đầu con tự dao động chứ tánh thấy của con còn không có dừng, nói gì là dao
động."
Tay Phật động là chỉ cho
cảnh, cảnh động tức là sanh diệt, cái thấy không sanh diệt. Đầu của ngài A-nan
lắc chứ cái thấy không có lắc; lắc là động, cái không lắc là không động. Như
vậy thân là động, là sanh diệt, cái thấy đâu có sanh diệt. Vậy là Phật đã chỉ
rõ cảnh là sanh diệt, thân là sanh diệt, còn cái thấy không sanh diệt.
Đến đây, để đổi không
khí, vua Ba-tư-nặc đứng dậy hỏi: "Xưa khi con chưa được gặp và nghe Phật
chỉ dạy, thấy Ca-chiên-diên, Tỳ-la-chi-tử đều nói thân này sau khi chết sẽ đoạn
diệt, gọi là Niết-bàn. Con tuy được gặp Phật, nay vẫn còn hồ nghi, làm sao để
sáng tỏ, chứng biết tánh không sanh diệt nơi tâm này."
Phật bảo: "Đại
vương, thân ông hiện đang sống, nay ta lại hỏi ông: Thân thịt của ông đây là
đồng với kim cương thường trụ không hoại, hay là biến hoại?"
Vua đáp: "Bạch Thế
Tôn, thân con hiện nay đây rốt cuộc cũng thay đổi và hoại diệt."
Phật bảo: "Đại
vương, ông chưa từng chết, làm sao biết nó sẽ chết?"
Vua thưa: "Bạch Thế
Tôn, thân vô thường biến hoại của con đây tuy chưa từng chết, nhưng con xem
hiện tiền niệm niệm đổi dời mãi không dừng, như lửa tàn thành tro dần dần tiêu
mất. Vì hoại diệt không dừng, nên con biết chắc chắn thân này sẽ diệt
mất."
... Phật bảo: "Nay
ta chỉ cho ông tánh không sanh diệt. Này Đại vương, lúc ông bao nhiêu tuổi thì
thấy nước sông Hằng?"
Vua thưa: "Khi con
được ba tuổi, mẹ con dẫn đến yết kiến thần Kỳ-bà thiên, đi qua dòng sông này.
Khi ấy, con được thấy nước sông Hằng."
Phật bảo: "Này Đại
vương, như lời ông nói, khi hai mươi tuổi thì già hơn lúc mười tuổi, cho đến
sáu mươi tuổi, năm tháng ngày giờ, niệm niệm dời đổi. Vậy khi ba tuổi ông xem
thấy sông Hằng, đến mười ba tuổi thấy nước sông này thế nào?"
Vua thưa: "Như khi
ba tuổi, rõ ràng không khác. Cho đến hiện nay con sáu mươi hai tuổi cũng thấy
không có khác."
Như vậy, cái thân đổi
thay từng giây từng phút từng giờ, từng ngày từng tháng từng năm, nhưng cái
thấy không hề đổi thay. Như vậy nơi thân này, cái gì là sanh diệt? Cái gì không
sanh diệt? Rõ ràng hình thể vật chất sanh diệt, chứ cái thấy không hề sanh
diệt. Đây là lần thứ hai chỉ cái thấy không sanh diệt. Cho tới những đoạn Phật
chỉ ra người mù cũng vẫn thấy, đều nhắm thẳng vào tánh thấy, để cho ngài A-nan
biết ngay nơi thân này có cái không sanh diệt.
Đó là giai đoạn đầu Phật
muốn chỉ nơi sáu căn của chúng ta có cái chân thật. Cái chân thật đó, Phật ví dụ
như mặt trăng thứ hai, không phải bóng trăng dưới nước, cũng không phải mặt
trăng thật. Mặt trăng thứ hai kế cận mặt trăng thật. Do dụi mắt thấy lòe ra nên
có mặt trăng thứ hai. Nếu con mắt hết lòe thì sẽ thấy mặt trăng thật ngay đó.
Như vậy để rõ tánh thấy, tánh nghe tuy là chân thật, nhưng chưa phải là chân
thật rốt ráo.
b. Tới chặng Phật chỉ
lần hai. Sau khi ngài A-nan nhận biết mình có tánh thấy bất sanh bất diệt rồi,
Phật liền chuyển qua ngũ ấm, lục nhập, thập nhị xứ, thập bát giới, thất đại,
đều từ Như Lai tạng lưu xuất. Đến đây Phật không còn chỉ cái tạm ở tai ở mắt
nữa, mà chỉ thẳng thể cứu cảnh là từ Như Lai tạng lưu xuất. Nhận được thể cứu
cánh đó rồi mới thấy thân này, cảnh này, kể cả hư không là hư dối tạm bợ, không
có nghĩa lý gì hết. Bởi vậy khi qua thất đại rồi, ngài A-nan bừng ngộ.
3. Bước qua phần Ngộ
Ngài A-nan trình bày chỗ
ngộ của mình. Khi nhận ra được pháp thân trùm khắp, thấy hư không trong mười
phương như xem chiếc lá trong bàn tay. Nhìn lại thân do cha mẹ sanh giống như
một hạt bụi ở trong hư không, hoặc còn hoặc mất, chẳng khác hòn bọt nổi trên
mặt biển không có gì quan trọng. Khi ngộ rồi, ngài A-nan khởi tâm tán thán Tam
bảo và phát nguyện cứu độ chúng sanh, diệt trừ các hoặc vi tế.
4. Sau khi Ngộ là tới
Nhập
Trước khi Nhập, ngài A-nan
trình bày: "Nay con vẫn như người khách lang thang, chợt được vua tặng cho
ngôi nhà đẹp. Tuy được nhà lớn đẹp, cốt yếu là nhân cửa nào vào."
a. Thấy nhà, được làm
chủ cái nhà mà không biết làm sao vào, đó là chuẩn bị cho Nhập. Đức
Phật liền chỉ cho cách vào, nhưng trước tiên đức Phật muốn cho thấy được cái
cửa thuận hợp với ngài A-nan, nên dùng phương tiện đánh chuông để chỉ tánh
nghe.
Như Lai bảo La-hầu-la
đánh một tiếng chuông, hỏi A-nan rằng: "Nay ông có nghe chăng?"
A-nan và đại chúng đều
thưa: "Con có nghe."
Chuông dứt không còn
tiếng, Phật lại hỏi rằng: "Nay ông có nghe chăng?"
A-nan và đại chúng đều
thưa: "Không nghe."
Khi ấy, La-hầu-la lại
đánh một tiếng chuông, Phật lại hỏi: "Nay ông có nghe chăng?"
A-nan và đại chúng thưa:
"Đều nghe."
Phật bảo A-nan:
"Thế nào là ông có nghe? Thế nào là ông chẳng nghe?"
A-nan và đại chúng đều
bạch Phật rằng: "Tiếng chuông nếu đánh lên thì con nghe, đánh lâu tiếng
chuông hết, âm hưởng đều dứt thì gọi là không nghe."
Như Lai bảo La-hầu-la
lại đánh một tiếng chuông, hỏi A-nan: "Hiện giờ có tiếng chăng?"
A-nan và đại chúng đều
thưa: "Có tiếng."
Giây lâu tiếng dứt, Phật
lại hỏi: "Hiện giờ có tiếng chăng?"
A-nan và đại chúng thưa:
"Không tiếng."
Lát sau, La-hầu-la
lại đánh một tiếng chuông, Phật lại hỏi: "Hiện giờ có tiếng chăng?"
A-nan và đại chúng đều
thưa: "Có tiếng."
Phật hỏi A-nan:
"Ông cho thế nào là có tiếng, thế nào là không tiếng?"
A-nan và đại chúng đều
bạch Phật rằng: "Tiếng chuông nếu đánh lên thì gọi là có tiếng, đánh lâu
tiếng hết, âm hưởng đều dứt thì gọi là không tiếng."
Phật bảo A-nan và cả đại
chúng: "Nay tại sao các ông nói rối loạn như vậy?"
A-nan và đại chúng đồng
thời bạch Phật: "Nay vì sao Thế Tôn bảo chúng con nói rối loạn?"
Phật bảo: "Ta hỏi
ông về nghe thì ông đáp rằng nghe. Lại hỏi ông về tiếng thì ông đáp là tiếng.
Chỉ nghe với tiếng mà ông trả lời không nhất định. Như vậy làm sao chẳng gọi là
rối loạn?"
Chỉ nghe với tiếng mà
không phân biệt được. Nghe thì thuộc về mình, còn tiếng thuộc
về thanh trần ở bên ngoài. Không phân biệt được cái nào là mình, cái nào là bên
ngoài, ấy là chỗ rối loạn. Đó là hướng Phật chỉ cho ngài A-nan chuẩn bị Nhập,
để xác nhận một lần nữa cho thấy tánh nghe này từ thủy chí chung không bao giờ
vắng, dù có tiếng hay không tiếng nó vẫn luôn hằng hữu, không phải đợi có tiếng
mới có.
Ngài A-nan lại hỏi Phật:
"Hiện nay thân tâm con thế nào là gút? Từ chỗ nào gọi là mở?" Khi ấy
chư Phật mười phương đồng thời nói lên ý nghĩa sáu căn là gốc Bồ-đề, sáu căn là
gốc sanh tử. Kế đó Phật bảo các vị Bồ-tát và A-la-hán trình bày chỗ ngộ của
mình, để chọn lựa một căn nào thích ứng với người ở thế giới Ta-bà này để nương
đó mà nhập.
Qua phần trình bày của
hai mươi lăm vị thánh, ngài Văn-thù chọn nhĩ căn, tức pháp tu của Bồ-tát Quán
Âm là viên thông hơn cả. Đó là chỉ chỗ Nhập. Chặng thứ nhất là nhập bằng nhĩ
căn.
b. Tới chặng thứ hai của
Nhập, theo tinh thần kinh Lăng-nghiêm vừa Thiền vừa Mật, Phật chỉ cho lập đàn,
trì chú.
c. Qua chặng thứ ba của
Nhập, ngài A-nan hỏi về thứ lớp tiến tu của chư Bồ-tát, Phật
chỉ dạy: Muốn tiến tu thì phương tiện đầu tiên là phải giữ giới. Trong giữ giới
Phật nhấn mạnh dâm, sát và đạo. Đó là ba cái cội gốc, nếu muốn tu để giải thoát
mà ba thứ đó không dẹp thì chỉ thành quỷ thần.
Kế đó Phật chỉ tiến
sâu vào từng ấm, qua từng ấm có những ma chướng. Biết rõ ma chướng để
vượt qua mỗi ấm. Cuối cùng đến thức ấm, thân tâm và cảnh đều sáng như lưu ly.
Qua được thức ấm mới tiến lên Đẳng giác, Diệu giác. Đó là chặng Nhập cuối cùng.
Qua mấy phần Khai, Thị,
Ngộ, Nhập, chúng ta có thể nắm được chủ yếu của bộ kinh. Trọng tâm bộ kinh này
buộc chúng ta phải biết rõ hai thứ căn bản: căn bản phiền não và căn bản Bồ-đề
Niết-bàn. Muốn biết căn bản Bồ-đề Niết-bàn thì phải lựa nhân khế hợp với quả.
Phải nên xét kỹ nhân phát tâm ban đầu với quả địa giác ngộ là đồng hay khác.
Lựa nhân vô sanh mà tu thì mới được quả vô sanh. Nếu chỗ tu nhân dùng tâm sanh
diệt làm gốc tu hành mà cầu Phật thừa chẳng sanh chẳng diệt thì không hợp lý.
Do đó chỗ tu của kinh Lăng-nghiêm là phải lấy nhân vô sanh của sáu căn để làm
chỗ tựa, rồi từ đó mà tiến thẳng vào thì mới tới được chỗ cứu cánh chân thật.
Chúng ta học kinh
Lăng-nghiêm phải nắm vững phương hướng tu có lợi ích lớn cho mình. Nếu học
suông để cho biết chữ biết nghĩa, hoặc để trả lời khi có người hỏi, thì không
lợi ích gì. Chúng ta phải biết cái hướng tu của kinh Lăng-nghiêm dạy là phải
làm sao đạt đến chỗ bất sanh bất diệt. Muốn tiến tới chỗ bất sanh bất diệt, tức
là Niết-bàn, thì phải lựa nhân bất sanh bất diệt mà tu. Những kinh khác ít nói
tới điểm này, ở đây chỉ rất rõ.
Comments
Post a Comment