KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
QUYỂN 8
I. BA TIỆM-THỨ
TU-HÀNH
1) Là tu tập, trừ các thói quen ĂN UỐNG: hành, hẹ, tỏi,
nén, kiệu, rượu, thịt… làm trợ nhân.
2) Là NGHIÊM TRÌ GIỚI-LUẬT trong-sạch , đoạn trừ bản tánh
của nghiệp là dâm, sát, đạo, vọng.
3) Là tinh tấn tu NHĨ-CĂN VIÊN-THÔNG, để hiện nghiệp không
sanh khởi.
( Có một độ nọ, Phật-tử
giúp một vị Thượng-tọa BỨNG một gốc cây lớn. Nhân đó vị Thượng-tọa
liền khai thị cho Phật-tử rằng:
“ Tu-hành thì phải tu ở GỐC, đừng tu theo CÀNH LÁ.”
Phật-tử hỏi : Sao thấy
THẦY đốn các CÀNH LÁ trước, rồi mới móc GỐC sau. Vị Thượng-tọa ấy nhìn Phật-tử
một hồi, rồi IM LẶNG KHÔNG NÓI. Câu Truyện đến đó rồi cũng qua đi. )
Kinh văn:
阿難。如是 眾 生 一 一 類 中。亦各各具十二顚倒。猶如捏目亂華發生。
A-Nan! Như thị chúng-sanh nhứt nhứt loại trung,
diệc các các cụ thập nhị điên-đảo, do như niết-mục, loạn hoa phát sanh.
( A Nan, như vậy chúng
sinh trong mỗi mỗi loài, cũng đều đủ cả mười hai thứ điên đảo, cũng như dụi con
mắt thì các thứ hoa đốm phát sinh ra. )
Giảng giải:
A Nan, như vậy chúng
sinh trong mỗi mỗi mười hai loài đã nói qua, cũng đều đủ cả mười hai thứ điên đảo.
Tôi đã nói qua về các
loại điên đảo, ở mỗi loại đều có sự liên quan đến mười hai loại điên đảo khác.
Sự vọng niệm và tình trạng điên đảo đều khởi từ nhận thức sai lầm, cũng như dụi con mắt thì các thứ hoa đốm phát sinh
ra.
Nếu quý vị ấn, dụi đầu
ngón tay lên mắt, quý vị sẽ thấy rất nhiều hoa đốm giả tạo chập chờn trước mắt,
nếu buông ra, các hình ảnh ấy biến mất. Chỉ vì quý vị chấp trước
theo vọng niệm điên đảo nên không vượt thoát khỏi vòng luân hồi của mười hai
loại chúng sinh.
Nếu chúng ta đừng đuổi
theo vọng niệm điên đảo, mà trở lại nghe TỰ-TÁNH, thì dù có TIẾNG hay KHÔNG có
TIẾNG, thì TÁNH-NGHE cũng không SINH-DIỆT, TỊCH-DIỆT HIỆN-TIỀN, đây là pháp
“NHĨ-CĂN VIÊN THÔNG”, của Bồ-tát QUÁN-THẾ-ÂM, tu chứng CHƠN TÂM THƯỜNG TRỤ, là
bậc nhất.
Vậy nên, quý
vị sẽ phá vỡ được vô minh, mọi hư giả đều biến mất.
TRĂNG in NƯỚC bích LÒNG THIỀN rạng,
GÍO LỘNG non hồng Ý ĐẠO thanh.
H.T THIỀN-TÂM
Kinh văn:
顚 倒 妙 圓 眞 淨 明 心。具足如斯虛妄亂想。
Điên-đảo diệu-viên chơn-tịnh minh-tâm, cụ túc
như tư hư vọng loạn-tưởng.
( Chân tâm diệu viên
trong sạch sáng suốt mà điên đảo thì đầy đủ những loạn tưởng giả dối như vậy. )
Giảng giải:
Từ nhận thức sai lầm sinh ra điên đảo, làm thành vọng
niệm. Trong tự tính Như Lai tạng, vô minh sinh khởi. Từ căn bản CHÂN TÁNH sinh
ra sai lầm, giả tạo. Tâm thanh tịnh và trong sáng trở nên đầy dẫy những vọng
tưởng không chân thật.
Kinh văn:
汝今修 證 佛 三摩地。於是本因 元 所亂 想。亂 想。立三漸次。方 得 除滅。
Nhữ kim tu chứng Phật Tam-ma-địa, ư thị bản-nhân nguyên sở
( Nay ông tu chứng Tam ma địa của Phật, vậy đối với tư tưởng càn loạn là nguyên nhân cội gốc của các điên đảo, nên lập ra ba tiệm thứ mới diệt trừ được. )
Giảng giải:
Nay ông tu chứng Tam ma địa của Phật, vậy đối với tư tưởng càn loạn là nguyên nhân cộc gốc của điên đảo, nên lập ra ba tiệm thứ.
Ông phải lập ra ba loại tiệm thứ và lần lượt tu tập, vậy mới diệt trừ được mọi loạn tưởng.
Kinh văn:
如Như 淨tịnh 器khí 中trung 除trừ 去khứ 毒độc 蜜mật 。 以dĩ 諸chư 湯thang 水thủy 並tịnh 雜tạp 灰hôi 香hương 。 洗tẩy 滌địch 其kỳ 器khí 。 後hậu 貯trữ 甘cam 露lộ 。
( Cũng như bình đựng trong sạch, trừ bỏ mật độc, dùng nước nóng và các chất tro, chất thơm rửa sạch bình, sau đó mới đựng nước cam lồ. )
Giảng giải:
Cũng như bình đựng trong sạch, trừ bỏ mật độc, dùng nước nóng và các chất tro, chất thơm rửa sạch bình.
“Bình đựng trong sạch” có nghĩa là vật thể đã trở lại trong sạch, tượng trưng cho tính Như Lai Tạng, vốn có trong tất cả chúng ta, không SANH-DIỆT.
“Mật độc” tượng trưng cho vô minh và phiền não của con người.
“Nước nóng” biểu hiện Phật pháp sẽ làm cho chúng ta được trong sạch.
“Rửa sạch” là quay trở lại tự tánh Như Lai Tạng . Sau đó mới đựng nước cam lồ.
NƯỚC CAM-LỘ có thể TRÌ tất cả TRÍ HUỆ chân thật, giúp CHÚNG TA hướng đến đạo giác ngộ - Đây là những gì “nước cam lồ” tượng trựng.
Sutra:
They work in just the way that poisonous honey is removed from a pure vessel that is washed with hot water mixed with the ashes of incense. Afterwards it can be used to store sweet dew.
Commentary:
They work in just the way that poisonous honey is removed from a pure vessel that is washed with hot water mixed with the ashes. "Pure vessel" means that the jar was originally clean. It represents the nature of the treasury of the Thus Come One, inherent in us all, which is neither produced nor extinguished. The "poisonous honey" represents people's ignorance and afflictions. The "hot water" represents the Buddhadharma, which gradually washes us clean. "Washing" means to return the nature of the treasury of the Thus Come One to its original form. Afterwards it can be used to store sweet dew. It can store our genuine wisdom; it can hold the enlightenment to the Way. That's what "sweet dew" represents.
Kinh văn:
云Vân 何hà 名danh 為vi 三tam 種chủng 漸tiệm 次thứ 。
一nhất 者giả 修tu 習tập 。 除trừ 其kỳ 助trợ 因nhân 。
二nhị 者giả 真chân 修tu 。 刳khô 其kỳ 正chánh 性tánh 。
三tam 者giả 增tăng 進tiến 。 違vi 其kỳ 現hiện 業nghiệp 。
( Thế nào gọi là ba loại tiệm thứ?
Một là tu tập, trừ các thói quen ĂN UỐNG: hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu, rượu, thịt… làm trợ nhân.
Hai là chân tu GIỚI-LUẬT trong-sạch , đoạn trừ bản tánh của nghiệp là dâm, sát, đạo, vọng.
Ba là tinh tấn tu NHĨ-CĂN VIÊN-THÔNG, để hiện nghiệp không sanh khởi. )
Giảng giải:
Thế nào gọi là ba loại tiệm thứ?
Một là tu tập, trừ các thói quen ĂN UỐNG: hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu, rượu, thịt… làm trợ nhân, đây là các nguyên nhân tạo nên các ác nghiệp.
Hai là chân tu GIỚI-LUẬT trong-sạch , đoạn trừ bản tánh của nghiệp là dâm, sát, đạo, vọng, đây là những nghiệp chướng làm cho tham, sân, si… tăng trưởng.
Ba là tinh tấn tu NHĨ-CĂN VIÊN-THÔNG, để hiện nghiệp không sanh khởi, qua sự tu tập của HÀNH-GIẢ thì không còn tạo thêm nghiệp mới trong cuộc sống hiện tại.
Sutra:
What are the three gradual stages? The first is to correct one's habits by getting rid of the aiding causes; the second is to truly cultivate to cut out the very essence of karmic offenses; the third is to increase one's vigor to prevent the manifestation of karma.
Commentary:
What are the three gradual stages? The first is to correct one's habits by getting rid of the aiding causes. That refers to causes which contribute to the creation of karma. The second is to truly cultivate to cut out the very essence of karmic offenses. That means to sweep clean the nature of karmic offenses that result from greed, hatred, stupidity, and so forth. The third is to increase one's vigor to prevent the manifestation of karma. One progresses in one's cultivation to counteract the creation of any new karma in the present. One does not follow along in the present with one's propensity to create karma.
THẾ NÀO LÀ TRỢ NHÂN ?
( What are aiding causes? )
Kinh văn:
云Vân 何hà 助trợ 因nhân 。
阿A 難Nan 。 如như 是thị 世thế 界giới 十thập 二nhị 類loại 生sanh 。 不bất 能năng 自tự 全toàn 。 依y 四tứ 食thực 住trụ 。 所sở 謂vị 。 段đoạn 食thực。 觸xúc 食thực 。 思tư 食thực。 識thức 食thực 。
是Thị 故cố 佛Phật 說thuyết 一nhất 切thiết 眾chúng 生sanh 皆giai 依y 食thực 住trụ 。
( Thế nào là trợ nhân?
A-Nan, đây là mười hai loại chúng sinh trong thế giới không thể tự toàn, phải nương theo bốn cách ăn mà SỐNG; nghĩa là nương theo đoạn thực, xúc thực, tư thực và thức thực.
Vậy nên Phật bảo tất cả chúng sinh đều nương vào cái ăn mà an trụ. )
Giảng giải:
Thế nào là trợ nhân? Có những trợ nhân tạo nghiệp lành, có trợ nhân tạo nghiệp ác. Ở đây, Đức Phật nói đến các trợ nhân dẫn đến nghiệp xấu.
A Nan, đấy là mười hai loại chúng sinh trong thế giới, như đã nói qua, không thể tự toàn, phải nương theo bốn cách ăn mà SỐNG. Mọi người đều phải ăn để sinh tồn, nghĩa là nương theo đoạn thực, chia cắt thành từng miếng, từng phần để ăn. Đấy là cách ăn của chư Thiên lục dục, A tu la, con người và súc sinh. ( Lấy tiêu hóa làm thức ăn)
Xúc thực - Quỷ và thần ăn theo cách XÚC chạm CĂN và CẢNH làm thức ăn, vài loại ở cõi Trời cũng dùng theo lối này. ( lấy gửi hơi, nếm vị, vui mừng... làm thức ăn)
Tư thực – cách dùng tư duy thiền định làm thức ăn ( THIỀN-LẠC THỰC) , đây là cách ăn của chư Thiên sắc giới.
Và thức thực – lấy THỨC phân biệt làm thức ăn, đây là cách ăn của chúng vô sắc và chư Thiên phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Vậy nên Phật bảo tất cả chúng sinh đều nương vào cái ăn mà an trụ.
Sau khi Phật thành đạo, muốn độ người tu khổ hạnh theo lối nhịn ăn , nên Ngài nói pháp:
“Tất cả chúng sinh phải nương theo cái ăn mà an trụ.”
Các ngoại đạo cười Ngài và bảo:
“Ngay cả Đứa bé cũng biết đều đó.”
Phật hỏi lại: “Vậy các ông nói coi có bao nhiêu cách ăn?”. Các ngoại đạo lặng im không đáp, nhân đó Phật nói về bốn cách ăn mà an trụ.
Sutra:
What are aiding causes? Ananda, the twelve categories of living beings in this world are not complete in themselves, but depend on four kinds of eating; that is, eating by portions, eating by contact, eating by thought, and eating by consciousness. Therefore, the Buddha said that all living beings must eat to live.
Commentary:
What are aiding causes? Some causes aid in the creation of wholesome karma, and some contribute to the creation of unwholesome karma. Here, the Buddha is referring to causes which bring about bad karma.
Ananda, the twelve categories of living beings in this world, just described, are not complete in themselves, but depend on four kinds of eating. They depend on eating to survive. That is, eating by portions: bite by bite, bit by bit, the way beings in the six desire heavens, the asuras, humans, and animals take their food. Eating by contact: the ghosts and spirits eat by contact, and some beings in the heavens also eat this way.
Eating by thought: in the dhyana heavens of the form realm, beings don't have to actually ingest the food. They take the bliss of dhyana as food, they can eat by thinking.
Eating by consciousness: this includes the beings of the formless realm up through those in the Heaven of Neither Thought Nor Non-Thought. They eat by discriminations of consciousness.
In reply the Buddha said, "Well, tell me, then, how many kinds of eating are there?"
At that point the externalists were speechless. They couldn't come up with the answer. Then the Buddha explained the four kinds of eating.
Kinh văn:
阿A 難Nan 。 一nhất 切thiết 眾chúng 生sanh 。 食thực 甘cam 故cố 生sinh 。 食thực 毒độc 故cố 死tử 。 是thị 諸chư 眾chúng 生sanh 求cầu 三tam 摩ma 地địa 。 當đương 斷đoạn 世thế 間gian 。 五ngũ 種chủng 辛tân 菜thái 。
( A-Nan, tất cả chúng sinh, dùng thức ăn lành thì sống, dùng thức ăn độc thì chết. Vậy các chúng sinh cầu Tam-ma-địa, nên dứt bỏ năm loại rau cay trong thế gian. )
Giảng giải:
Bài văn này luận về giai đoạn thứ nhất, loại trừ đi trợ nhân – tức cái nhân giúp đỡ. Năm món cay nồng làm tăng thêm nghiệp xấu, vậy nên bước đầu phải loại bỏ điều này.
A Nan, tất cả chúng sinh, dùng thức ăn lành thì sống, ăn thức ăn độc thì chết.
“Tất cả chúng sinh”, bao hàm mười hai chủng loại. “Thức ăn lành” – nguyên văn “TRONG LÀNH”, chỉ thực phẩm, thức ăn không độc hại, có nhiều dinh dưỡng.
“Thức độc” ở đây không phải là độc dược làm chết người, mà là chỉ năm loại rau cay, loại thực phẩm không có lợi cho sức khỏe, làm giảm đi tuổi thọ, chứ không phải ăn vào là chết ngay.
Vậy các chúng sinh cầu Tam-ma-địa, nên dứt bỏ năm loại rau cay trong thế gian.
Giai đoạn đầu tiên là dứt trừ trợ nhân. Không dùng năm loại cay nồng: tỏi, hành, hẹ, kiệu, nén.
Sutra:
Ananda, all living beings can live if they eat what is sweet, and they will die if they take poison. Beings who seek samadhi should refrain from eating five pungent plants of this world.
Commentary:
This passage discusses the first gradual stage, getting rid of the aiding causes. The five pungent plants aid in the creation of unwholesome karma, and so the first step is to eliminate them from one's diet. Ananda, all living beings can live if they eat what is sweet, and they will die if they take poison. "All living beings" refers to the twelve categories. "Sweet" here really means "edible"; the food is sweet in the sense that it is not poisonous, but is nourishing and palatable.
Kinh văn:
是Thị 五ngũ 種chủng 辛tân 。 熟thục 食thực 發phát 淫dâm 。 生sanh 噉đạm 增tăng 恚khuể 。
( Năm loại rau cay này, ăn chín thì phát lòng dâm, ăn sống thì tăng thêm lòng giận. )
Giảng giải:
Năm loại rau cay này, ăn chín thì phát lòng dâm.
Ăn thịt cũng bị tác động như vậy. Đấy là lý do tại sao người tu hành không nên ăn thịt. Năm món cay kích thích làm sinh khởi lòng ham muốn, đặc biệt ở đây là chỉ sự ham muốn về dâm dục, khoái lạc.
Ăn sống thì tăng thêm lòng giận.
Cách ăn như thế làm cho con người ngốc nghếch hơn. Lý trí và tính cách bị mất đi. Một khi không còn sáng suốt thì không sao phân biệt được phải trái. Các sự việc bất ngờ xảy ra, họ không nhận rõ sự thực. Các vấn đề trở thành chướng ngại, không giải quyết được, và cách duy nhất là tức giận. Ăn thịt cũng bị tác động như vậy, dễ sinh lòng giận dữ. Ăn càng nhiều năm loại rau cay nầy, tính khí nóng giận càng tăng trưởng mạnh.
Sutra:
If these five are eaten cooked, they increase one's sexual desire; if they are eaten raw, they increase one's anger.
Commentary:
If these five are eaten cooked, they increase one's sexual desire. Meat has the same effect. That is one reason why people who cultivate the Way do not eat meat. The five pungent plants also increase desire, but not wholesome desire; rather, they are especially potent in increasing sexual desire, to the point that it is unbearable and one goes crazy with lust. If they are eaten raw, they increase one's anger. They make one more stupid.
Kinh văn:
如Như 是thị 世thế 界giới 食thực 辛tân 之chi 人nhân 。 縱túng 能năng 宣tuyên 說thuyết 。 十Thập 二Nhị 部Bộ 經Kinh 。 十thập 方phương 天thiên 仙tiên 。 嫌hiềm 其kỳ 臭xú 穢uế 。 咸hàm 皆giai 遠viễn 離ly 。
諸Chư 餓ngạ 鬼quỷ 等đẳng 。 因nhân 彼bỉ 食thực 次thứ 。 舐thỉ 其kỳ 唇thần 吻vẫn 。 常thường 與dữ 鬼quỷ 住trụ 。 福phước 德đức 日nhật 消tiêu 。 長trưởng 無vô 利lợi 益ích 。
( Như vậy trong thế giới, những người ăn rau cay đó, DÙ GIẢNG NÓI ĐƯỢC 12 BỘ KINH. Thiên tiên trong mười phương cũng chê là hôi, nên đều tránh xa.
Các loài quỷ ĐÓI, nhân lúc người kia ăn rau cay xong, bèn liếm môi mép người đó. Người ấy thường ở với quỷ một chỗ, phước đức ngày càng giảm, hằng không được lợi ích. )
Giảng giải:
Như vậy trong thế giới, những người ăn rau cay đó, DÙ GIẢNG NÓI ĐƯỢC 12 BỘ KINH. Thiên tiên mười phương cũng chê là hôi, nên đều tránh xa.
Toàn bộ Kinh tạng của Phật giáo cộng chung có mười hai bộ:
1. Bộ Trường hàng: Giữa một bản Kinh không có ngắt đoạn cho nên gọi là Trường hàng.
2. Bộ Trùng Tụng: Lập lại ý nghĩa đã nói trong Kinh; nói lập lại văn Kinh Trường hàng để dễ ghi nhớ.
3. Bộ thọ ký: Trong Kinh điển đề cập đến việc Ðức Phật trước thọ ký cho Ðức Phật sau, ví như nói: "Ông ở kiếp nào đó sẽ được thành Phật tên là gì? Thọ mạng bao lâu? Chúng sanh giáo hóa được nhiều ít? Ở trước quốc độ nào?..." đều là dự báo trước, đó gọi là Thọ ký.
4. Bộ nhơn duyên: Do các thứ nhơn duyên mà nói các thứ pháp.
5. Bộ Thí dụ: Dùng một sự vật nào đó, tỷ dụ cho một sự vật nào đó để thuyết minh chỗ nhiệm mầu của Phật Pháp.
6. Bộ Bổn sự: Hoặc Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni tự thuật việc tiền thân, hoặc thuật lại những sự tích tiền thân của một vị Phật hay một vị Bồ tát nào đó.
7. Bộ Bổn sanh: Nói về sự tích đời này của Phật Thích Ca Mâu Ni, hoặc việc đời này của một vị Bồ tát nào đó.
8. Bộ Phương quảng: Phương là bốn phương, Quảng là rộng khắp, biểu thị pháp được nói ra rất tinh vi rộng lớn.
9. Bộ Vị tằng hữu: Những điều này là từ trước đến nay chưa từng nói ra hay bây giờ mới nói.
10. Bộ Bất vấn tự thuyết: Như Kinh A-Di-Ðà, do vì bộ Kinh này rất trọng yếu, tất cả hàng Thanh văn không thể hiểu được, cho đến các vị Bồ tát cũng chưa có thể đạt đến cảnh giới này, nhơn đó Ðức Phật tự phóng ra ánh sáng chấn động cõi nước để nói ra bộ Kinh này.
11. Bộ Cô khởi: Cũng gọi là Phúng tụng. Trong một bộ Kinh, đó là những bài kệ đứng riêng một mình, không liên quan gì đến kinh văn trước hay sau cả, hoặc nói ra riêng rẽ về đạo lý, như Kinh Kim Cang.
12. Bộ Luận nghị: Nghiên cứu luận nghị về nghĩa lý của một loại Phật pháp.
Có bài kệ về 12 bộ Kinh:
Trường-Hàng, Trùng-tụng và Thọ-ký,
Cô-khởi, Vô-vấn mà tự thuyết,
Nhân-duyên, Thí-dụ với Bổn-sự,
Bổn-sanh, Phương-quảng, Vị-tằng-hữu,
Luận-nghị cộng thành mười hai bộ.
Kinh Phật Thuyết A Di Ðà
Hán Văn: Dao Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập.
Giảng giải: Vạn Phật Thánh Thành, Tuyên Hóa Thượng Nhân.
Đây là nói về những người ăn rau cay, hoặc uống rượu, ăn thịt. Nói khác đi, chư Thiên Tiên sẽ không hộ vệ người ăn uống như vậy. Thân thể họ sẽ bốc mùi các thức ăn thịt bò, hành, tỏi; nách tiết ra mùi hôi khiến không ai dám đến gần họ.
Có một số người giảng nói được mười hai bộ kinh như là một bậc Đại trí huệ, nhưng nếu họ dùng thức ăn không trong sạch, thì lắng nghe họ chỉ có bọn quỷ, còn chư Thiên Tiên thì tránh xa.
Các loài Quỷ đói và rất nhiều loại sinh vật không có gì để ăn, nhân lúc người kia ăn rau cay xong – tức năm loại rau cay, bèn liếm môi mép người đó.
Sau khi người đó ăn xong các thức ăn nặng mùi, mùi vị tăng nồng ấy kích thích các quỷ tiến tới, bọn chúng sẽ ngửi và thưởng thức năm vị nồng của rau cay. Quỷ ăn bằng cách xúc chạm giữa CĂN và CẢNH làm thức ăn , như chúng ta đã học qua, chúng sẽ chụm lại quanh người dùng thức ăn bất tịnh và dùng tay sờ soạng vào người ấy.
Quý vị không nhìn thấy, nhưng thực sự là chúng hành động như vậy.
Người ấy thường ở với quỷ một chỗ, phúc đức ngày càng giảm, hằng không được lợi ích.
Rất rõ ràng và đơn giản, đoạn này xác định người ăn năm loại rau cay, cuối cùng cũng họp chung với quỷ. Quỷ thường xuyên bám theo, mặc dù mọi người không để ý tới sự thực ấy. Phước đức cũng vì vậy mà giảm đi nhiều.
Sutra:
Therefore, even if people in this world who eat pungent plants can expound the twelve divisions of the sutra canon, the gods and immortals of the ten directions will stay far away from them because they smell so bad.
However, after they eat these things the hungry ghosts will hover around and kiss their lips. Being always in the presence of ghosts, their blessings and virtue dissolve as the days go by, and they experience no lasting benefit.
Commentary:
Therefore, even if people in this world who eat pungent plants can expound the twelve divisions of the sutra canon, the gods and immortals of the ten directions will stay far away from them because they smell so bad. This refers to people who eat the five pungent plants or drink wine or eat meat. On the other hand, the gods and immortals will protect someone who does not ingest these things.
Body odors come largely from what one eats. People who enjoy eating beef, onions, and garlic have strong body odors. Their armpits often stink so badly that they can be smelled a long way off, and no one wants to get near them.
There are a number of people who are able to expound on the canon with all its twelve divisions:
Repeating verses and predictions,
Interjections and what was spoken without request;
Past events, analogies, causes and conditions,
This life, expansions, and what never before existed;
With discussion, that is twelve all together,
As in Great Wisdom Shastra's thirty-third chapter.
Memorize the verse and you know the twelve divisions of the canon.
But if one's eating is not pure, one's sole listeners will be hungry ghosts. The gods and immortals will not listen. The hungry ghosts are creatures that don't have anything to eat. But after people who don't hold to pure eating eat these things, meaning the five pungent plants and the like, the hungry ghosts will hover around and kiss their lips. After people eat these strong-smelling foods, the odor lingers around them and attracts ghosts. The ghosts boldly go up and kiss those who partake of the five pungent plants, in an attempt to taste what they've eaten.
Ghosts eat by contact, as we have learned, so those who eat these impure things are literally in the hands of ghosts who hang around and keep touching them. You may not be one who can see them, but they are really there doing just that. Being always in the presence of ghosts, their blessings and virtue dissolve as the days go by, and they experience no lasting benefit.
Plain and simple, this passage says that people who eat the five pungent plants end up in the company of ghosts. Ghosts are their constant companions, even though the people themselves may be oblivious to the fact. Their blessings and virtue thereby decrease, and they end up with no advantages at all.
Kinh văn:
是Thị 食thực 辛tân 人nhân 修tu 三tam 摩ma 地địa 。 菩Bồ 薩Tát 天thiên 仙tiên 。 十thập 方phương 善thiện 神thần 。 不bất 來lai 守thủ 護hộ 。 大đại 力lực 魔ma 王vương 得đắc 其kỳ 方phương 便tiện 。 現hiện 作tác 佛Phật 身thân 。 來lai 為vi 說thuyết 法pháp 。 非phi 毀hủy 禁cấm 戒giới 。 讚tán 婬dâm 怒nộ 癡si 。
( Người ăn rau cay đó tu pháp Tam-ma-địa, các vị Bồ-tát, Thiên, Tiên, mười phương Thiện thần chẳng đến bảo hộ. Đại lực Ma Vương được phương tiện đó, hiện làm thân Phật, đến thuyết pháp cho người ấy, chê phá giới cấm, ngợi khen dâm dục, nóng giận, si mê. )
Giảng giải:
Người ăn rau cay đó tu pháp Tam-ma-địa, Bồ-tát, Thiên, Tiên, mười phương Thiện thần, chẳng đến bảo hộ.
Đoạn này ám chỉ người nào? Đấy là những người dùng năm loại rau cay – Người đó có thể là quý vị là tôi. Tại sao Hộ pháp và Thiện thần lại không bảo vệ những người như thế?
Đây là vì họ có mùi hôi khó chịu. Các Hộ pháp ưa thích trong sạch, họ tránh mùi hôi nên không đến hộ vệ những người TU HÀNH như thế. Tuy nhiên, các vị thần Hộ pháp là rất cần thiết cho người tu TAM-MA-ĐỊA, nơi các vị ấy trú ngụ thì không có ma quỷ, nơi không có Hộ pháp thì ma quỷ được nhiều thuận lợi. Hộ pháp và Thiện thần CÔNG VIỆC là bảo vệ và gia hộ người tu hành, nhưng trong trường hợp này họ không đến giúp.
Đại lực Ma Vương được phương tiện đó, hiện làm thân Phật, đến thuyết pháp cho người ấy.
Khi thấy không có Hộ pháp, Đại lực Ma Vương sẽ hiện đến nhóm họp cùng người ấy. Đại lực của Ma Vương như thế nào? Đó là họ có thể hiện ra thân Phật! Tôi có lời khuyên, nếu sau này quý vị đạt được Phật nhãn, quý vị sẽ thấy Phật, hoặc Bồ tát, hoặc Thiện thần hiện đến.
Nếu các vị đó là thật, thì ánh sáng của họ rất thanh tịnh và mát lạnh, khi ánh sáng ấy chạm vào người, quý vị sẽ cảm thấy rất thư thái, dễ chịu mà không sao diễn tả được – Đấy là bậc Thánh chân thật.
Còn như với Quỷ, chúng chỉ tỏa ra sức nóng. Tuy nhiên, phải cần có trí huệ mới phân biệt được sự khác biệt ấy. Dĩ nhiên, sức nóng ấy không phải nóng như lửa, mà đấy là hơi nóng của ánh sáng Quỷ, trong khi ánh sáng Phật không như vậy.
Một cách phân biệt nữa là lời pháp của Phật và Quỷ. Đại lực Ma Vương sẽ hiện đến chê phá giới cấm, ngợi khen dâm dục, nóng giận, si mê. Chúng sẽ nói:
“Đừng giữ giới, đó chỉ là hạnh của Tiểu thừa. Những giới cấm của Đại thừa như tà dâm, sát sinh, trộm cắp, chẳng là gì cả. Nếu các người sát sinh cũng chẳng phá giới gì, cả trộm cắp, tà dâm cũng vậy. Đừng vướng mắc vào điều nhỏ nhặt ấy. Đừng phân biệt tốt xấu. Phá giới không hại gì”.
Khi chưa thọ giới, quý vị có làm điều gì cũng không kể là phạm giới. Nhưng một khi đã thọ giới, chẳng hạn, giới cấm sát sinh, nếu chúng ta có hành động sát sinh, tất nhiên là phạm giới rồi. Tại sao? Vì quý vị biết rõ hành động đó là sai lầm nhưng vẫn phạm phải. Nếu biết giới cấm trộm cắp, nhưng lại đi trộm cắp – vậy là phá giới.
Quý vị có tà dâm trước khi thọ giới, cũng không xem là phá giới – đây là hành vi PHẠM-TỘI NHƯ CHƯA PHÁ GIỚI, VÌ CHƯA THỌ GIỚI. Nhưng khi quý vị đã THỌ GIỚI thì hành vi đó là phạm giới. Hành vi nói dối cũng như vậy.
Nhìn chung, tất cả những gì nếu quý vị biết, thì nói là biết, và nếu không biết, thì nói là không biết. Quý vị không thể nói không biết khi mình biết, hoặc nói biết điều mình không biết. Quý vị không thể nói quanh co này nọ. Cái tâm thẳng thắn chính là đạo tràng vậy.( TRỰC TÂM LÀ ĐẠO TRÀNG )
Có vài người sẽ nghĩ: Vâng, vậy nếu tôi không THỌ GIỚI thì tôi không phạm giới, đúng không? Đúng vậy, vì Qúy-vị chưa thọ giới, nhưng PHẠM-TỘI cho những HÀNH VI đã làm.
Cho nên, quý vị đã biết THỌ GIỚI nên làm, nếu như không thọ giới thì việc tu học của quý vị sẽ không thể tăng tiến được, cho dù có học Phật đạo cả đời cũng vậy. Do đó, biết thọ giới là điều tốt, chúng ta nên thọ giới và giữ GIỚI LUẬT cho thật cẩn thận.
Đối với Ma vương, bọn chúng chỉ ra sức HỦY BÁNG giới cấm, ngăn trở quý vị thọ giới. Chúng tán dương sự dâm dục. “Đó là đại sự”, chúng nói: “Càng dâm, thì QỦA VỊ BỒ-TÁT của qúy vị càng cao. Chẳng hạn như Ucchushma, mỗi ngày phải có từ hai trăm đến ba trăm phụ nữ, nhưng sau đó tu tập cũng trở thành Hỏa đầu Kim Cang.
Vậy là thế nào?”. Thực ra, ngay khi Ma vương lên tiếng khen ngợi sự dâm dục thì quý vị biết đó không phải là Phật chân chính rồi. Sự giả dối, lừa đảo, là hành vi si mê điên đảo. Phần trước chúng ta đã bàn qua.
Nhân trong thế giới có ngu độn luân hồi, điên đảo về si nên hòa hợp với ngoan, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng khô cảo.
Và các LOẠI vô tưởng ấy hóa làm đất, cây, vàng, đá. Dĩ nhiên, không phải chúng vô tưởng nào cũng hóa ra như vậy – điều đó chỉ thỉnh thoảng xảy ra trong thời kỳ, giai đoạn nào đó. Ở đây, Ma vương khen ngợi sự hư giả, dối trá, chúng cho rằng ngu si là điều tốt, có như vậy chúng mới dễ dàng sai khiến. Khi quý vị tin tưởng chúng tất sẽ trở thành quyến thuộc của bọn ma quỷ ấy.
Gần đây, ở Ấn Độ xuất hiện cuốn sách đề cao pháp tu mật trong quan hệ nam nữ. Đây là sách của quỷ viết ra. Bọn chúng tán dương sự hành dâm và không muốn con người từ bỏ điều ấy. CHÚNG BẢO HÀNH DÂM SẼ ĐƯỢC THÀNH PHẬT. Thế nhưng Phật là thanh tịnh, là trong sạch, không tạp nhiễm những hỗn loạn, nhơ bợn.
Trong ngôn ngữ Trung Quốc, chữ “Hôn” trong kết hôn, gồm chữ nữ (女) ghép với chữ hôn (昏), có nghĩa là hỗn loạn, hôn ám. Như vậy, từ kết hôn cũng đã hàm ý sự đánh mất trí huệ. Đời sống con người như tiêu phí trong đêm, trong bóng tối và bất tịnh. Điều đó cũng như ngủ ngày, khi ngủ thì hầu như quên hết mọi sự. Đấy là si, là mê, và từ kết hôn trong tiếng Trung có ý nghĩa biểu tượng như vậy.
Tuy nhiên, khi tôi nói về kết hôn, không phải mọi trường hợp đều như vậy. Quý vị phải nhìn vấn đề linh động hơn, không thể cứ chết cứng theo quan điểm của mình. Mặc dù tôi nói kết hôn là sự phức tạp, rối rắm, thì quý vị phải cố gắng hiểu rõ sự phiền tạp ấy. Quý vị có thể dấn vào mọi sự phiền tạp, nhưng đừng để bị quay cuồng trong việc hỗn độn ấy. Đức Thích Ca Mâu Ni kết hôn, nhưng Ngài vẫn sáng suốt hơn người. (ĐÂY LÀ THỊ HIỆN CÓ VỢ CON, CŨNG NHƯNG NHÀ ẢO SƯ, VÌ AI THÀNH PHẬT, ĐỀU LÀ VỊ BỒ-TÁT NHẤT SANH BỔ XỨ, NHƯ DI-LẶC BỒ-TÁT VẬY, KHÔNG CÒN CÓ TÁNH DÂM-DỤC .)
Khi quý vị nghe nói người ăn năm loại rau cay sẽ có quỷ đến hôn lên môi miệng người đó, quý vị có cảnh giác không? Nếu không sợ hãi, các vị sẽ thấy điều đó chẳng là gì cả. Còn như xem đấy là lời nhắc nhở cảnh tỉnh, hãy dừng ăn năm loại rau ấy. Nếu không dùng, Thiện thần sẽ gia hộ quý vị, còn bọn quỷ thần thì lánh xa. Nếu quý vị kết hôn và luôn cảnh giác, luôn thức tỉnh, quý vị sẽ không sa vào những mê mời hỗn loạn và phức tạp. Quý vị cũng đừng hiểu lầm rằng tôi, phản đối sự kết hôn của mọi người – Không phải vậy. Ở đây, tôi chỉ nói qua vài điểm cơ bản trong vấn đề kết hôn mà thôi.
Sutra:
People who eat pungent plants and also cultivate samadhi will not be protected by the Bodhisattvas, gods, immortals, or good spirits of the ten directions; therefore, the tremendously powerful demon kings, able to do as they please, will appear in the body of a Buddha and speak dharma for them, denouncing the prohibitive precepts and praising lust, rage, and delusion.
Commentary:
People who eat pungent plants and also cultivate samadhi will not be protected by the Bodhisattvas, gods, immortals, or good spirits of the ten directions. Who is referred to here? Whoever eats the five pungent plants. If you eat them, it's referring to you. If I eat them, it's referring to me. The text leaves the matter open. Why don't dharma protectors and good spirits guard such people? Because they smell too bad.
Preferring purity, the protectors avoid the stench and do not come around to guard such people. However, protectors are essential in cultivation, for where the proper resides, the deviant does not, but where the proper is lacking, the deviant will win the advantage. The "proper" refers to the Dharma protectors and good spirits who guard and aid cultivators of the Way.
But in this case, where they do not come around, the tremendously powerful demon kings, able to do as they please, will appear in the body of a Buddha and speak dharma for them. Seeing an unprotected cultivator, the powerful demonic kings come on the scene and gather him into their retinue. They will enter when they catch you off guard. How great is their power? They can turn into Buddhas!
I've advised you that if in the future you obtain the Buddha eye, you may see Buddhas come or Bodhisattvas come or gods and immortals come or spirits come. But if they are for real, they will have a light about them that is pure and cool, and when it shines on you, you will experience extreme comfort, such as you have never known. That, then, is a true Sage.
If it's a demon, it puts out heat. However, it requires a lot of wisdom to make this distinction. If you lack sufficient wisdom, you will not notice the power of his heat. Of course, the heat is not hot like a fire, but it is the case that the light of a demon carries heat, while the light of a Buddha does not.
Another way you can tell the difference between a demon appearing as a Buddha and an actual Buddha appearing is to look at the dharma they propound. Demon kings will go about denouncing the prohibitive precepts and praising lust, rage, and delusion. They will say, "Don't hold the precepts, that's a small vehicle practice. Those of the great vehicle kill, but it's not killing; steal, but it's not stealing; engage in lust, but it's not lust. So it's no problem. If you kill, you haven't broken any precept. The same goes for stealing and lust. Don't cling to such a small state. Don't hold to such fine distinctions in your conduct. Violations don't matter."
What you do before you receive the precepts does not count as a violation of them. But once you have taken a precept, for example, the precept against killing, it is then a violation of the precept if you commit the act of killing. Why? Because you clearly knew it was wrong but intentionally violated the prohibition.
If you receive the precept against stealing and you go out and steal, you have violated that precept. You may have indulged in sexual misconduct before receiving the precept against it, but that doesn't count as an offense, because it's over and done. But if you conduct yourself in this way after taking the precept, then you violate it.
Before you take the precept against lying, you are not in violation of the precept no matter what you say, but once you receive the precept you can't be irresponsible in what you say. Whatever it is, if you know, you know, and if you don't know, you don't know. You can't say you don't know when you really do; or say you know when you really don't. You can't beat around the bush when you speak. The straight mind is the Bodhimanda.
Someone may think; well, then, if I don't take them, I won't commit any violations, right? But now you know that it is better to take them, and if you don't you are missing the opportunity. If you do not receive the precepts, you will not be able to make any progress, either in your personal life or with regard to the Buddhadharma.
You certainly should continue to make progress. Since we know it is a good thing to do, we should receive the precepts and then carefully uphold them.
But the demon kings do nothing but slander and tear down the precepts and encourage you not to receive them. They praise sexual desire. "It's great," they say. "The more sexual desire you have, the loftier the level of Bodhisattvahood you will realize. Just take Ucchushma, who had to have two to three hundred women a day, but then later cultivated and became Fire-head Vajra. So what's the problem?" And so they go on.
Actually, as soon as he begins praising sexual desire, you should know immediately that he is not a genuine Buddha. As to rage, he says, "Having a temper doesn't matter. The bigger your temper, the bigger your Bodhi. After all, affliction is just Bodhi, so it follows that the more affliction you have, the more Bodhi you'll get. It doesn't matter. Lose your temper whenever you feel like it." The demon king praises rage in this way. "Delusion" just means being stupid and doing things that are upside down. We discussed it earlier:
Through a continual process of dullness and slowness, the upside-down state of stupidity occurs in this world. It unites with obstinacy to become eighty-four thousand kinds of random thoughts that are dry and attenuated.
And the beings without thought turn into earth, wood, metal, or stone. Of course, this doesn't happen to every stupid being. It does happen occasionally, however. But here the demon king praises delusion; he tells you that the stupider you are, the better it is, because if you are stupid it will be easier for him to get you to obey his instructions. You'll fall right in with him. You'll become one of the retinue of the demon kings.
Recently a book came out of India that specializes in praising the tantric practice of men and women cultivating together. This is a book written by demons. Demons praise sexual desire and do not instruct people to put a stop to it. They say that without cutting off sexual desire one can become a Buddha.
But Buddhas are pure, whereas the filthiest thing, the most turbid emotion, is sexual desire. In Chinese the word for marriage (hun) contains a character which is a combination of the word for "woman" (nu) and the word for "confusion" (hun), or "dark delusion." So the very word marriage itself says that as soon as one gets married, one loses wisdom. One's life is spent as if in perpetual night, in darkness and impurity. It is as if one were sleeping the days away, and when one is asleep, one is totally oblivious to everything. Just that is stupidity. Chinese characters often shed insight on the meanings they represent.
On the other hand, what I just said about marriage is not always the case. You have to be flexible when you view things. You can't be too rigid in your opinions. Although I said that marriage is confusion, you can try to gain understanding within that confusion. You can enter that confusion but not get muddled. Shakyamuni Buddha married, and yet he was the wisest of people.
When you just heard that people who eat the five pungent plants are kissed by ghosts, did it alarm you? If you weren't frightened, then you must see it as no problem. If it alarmed you, then stop eating the five pungent plants. If you don't eat them, the gods and immortals will protect you and the ghosts will leave you alone.
Kinh văn:
命Mạng 終chung 自tự 為vi 魔ma 王vương 眷quyến 屬thuộc 。 受thọ 魔ma 福phước 盡tận 。 墮đọa 無Vô 間Gián 獄Ngục 。
( Đến khi mệnh chung, tự người ấy làm quyến thuộc của Ma vương, khi hưởng thụ phúc Ma đã hết, thì đọa địa ngục vô gián. )
Giảng giải:
Đến khi mệnh chung, tự người ấy làm quyến thuộc của Ma vương.
Đây là nói đến người ăn năm loại rau cay. Bởi vì ăn như thế, các Thiện thần, Bồ tát sẽ không ủng hộ họ. Do đó, các Ma vương có thế lực sẽ tiến đến bên họ. Ma vương biến làm thân Phật và nói pháp của quỷ, ngợi khen dâm dục, tức giận và ngu si.
Sự hỗn loạn của quỷ làm con người đánh mất đi trí tuệ chân chính, thay vào đó là tà kiến, tà đạo. Ma vương bảo dâm là điều tốt, hãy tin như vậy:
“Phật đã nói với tôi như thế! Ngài bảo chẳng hề gì đâu!”. Cái đó gọi là NHẬN kẽ cướp làm con . Đấy là nhận Ma vương thành ra Đức Phật. Vậy nên: “Khi mệnh chung, họ sẽ trở thành quyến thuộc của Ma vương”. Khi phúc báo thế gian đã hết, họ chết đi và ngoan ngoãn theo bọn ma.
Có người tu niệm danh hiệu Phật A Di Đà, nhưng người này đặc biệt rất ham thích vàng bạc. Anh ta niệm danh hiệu Phật chỉ vì nghe nói nơi Tịnh độ, đất toàn bằng vàng, y hình dung khi được ở nơi đó, mình sẽ có vô số vàng. Ngày nọ, anh ta thấy Phật A Di Đà đến, bảo: “Hôm nay ngươi vãng sinh Cực lạc, hãy lấy vàng, bạc của ngươi mang theo”. Vì vậy, anh ta đặt bốn trăm đến năm trăm lạng vàng lên tòa sen của đức Phật A Di Đà đang cầm. Nhưng trước khi anh ta có cơ hội lên tòa sen, thì tất cả đều biến mất – “Ồ!”. Người đó nghĩ: “Thì ra Phật Di Đà cũng ham tiền. Ông ấy lấy hết vàng của mình rồi!”.
Trong khi đó, trong gia đình anh ta có một con lừa mới sinh ra đã chết. Mọi người thấy bụng con lừa căng cứng và nặng, khi mổ ra xem thì lạ thay! Vàng, bạc từ bụng con lừa đổ ra. Đến lúc ấy mới biết rõ lòng tham của mình nặng thế nào, và anh ta vui mừng vì chưa đi theo Phật A Di Đà, vì nếu anh ta đi, thì đã biến thành con lừa nhỏ đó rồi. Hẳn nhiên, anh ta biết hình ảnh Phật A Di Đà kia hiện đến không phải là Phật thật.
Nhiều chuyện lạ như thế, vậy Phật Di Đà có thật không? Hẳn nhiên là có thật rồi. Nhưng vì tri kiến con người lệch lạc nên không phân biệt được đâu là thực, đâu là giả. Trong trường hợp đó chúng ta phải làm thế nào? Phải hết sức cẩn thận đừng tham lam. Bất cứ ai có tư tưởng vãng sinh Cực lạc để có được vàng sẽ chẳng được gì hết. Mặc dù đất Tịnh độ toàn vàng ròng, quí vị cũng chẳng sở hữu cho riêng mình được tí gì. Tu hành là buông bỏ mọi ý tưởng sở hữu.
Đoạn Kinh văn này nói về người ăn năm loại rau cay, tri kiến lệch lạc, sa vào tà kiến, đầu tiên họ trở thành quyến thuộc của Ma vương, sau đó thì đi vào địa ngục. Đoạn lại đi dâu nữa? Không ai biết được.
Sutra:
When their lives end, these people will join the retinue of demon kings. When they use up their blessings as demons, they will fall into the Relentless Hell.
Commentary:
When their lives end, these people will join the retinue of demon kings. This refers to people who eat the five pungent plants. Because they eat such things, the gods, immortals, Bodhisattvas, and good spirits do not protect them. Therefore, the demon kings who possess great power can have their way with them. The demon king appears as a Buddha and speaks demonic dharma to them, praising sexual desire, anger, and stupidity. Having been confused by the demons, these people lose their proper knowledge and proper views and any real wisdom. Instead, they harbor deviant knowledge and deviant views.
The demon king says sexual desire is good, and they believe it. "The Buddha told me so! He said it's no problem." That's called mistaking a thief for one's own son. One mistakes the demon king for the Buddha. Therefore, "When their lives end, these people will join the retinue of demon kings." When their worldly blessings are used up, they die and obediently go over to the retinue of the demon king. When they use up their blessings as demons, they will fall into the Relentless Hell. Demons also have their own kind of blessings.
Once there was a cultivator who recited the name of Amitabha Buddha. However, he was particularly greedy, especially for silver and gold. He did recite the Buddha's name, but that's because he had heard that the Land of Ultimate Bliss had ground made of gold, and he figured he could amass a pile of it when he got there.
Then one day he saw Amitabha Buddha come. The Buddha said to him, "Today you should be reborn in the Happy Land, and you can take your gold and silver with you." So he put his four or five hundred ounces of gold on the lotus flower that Amitabha Buddha was holding. But before he had a chance to hop on the flower himself, it disappeared, as did the Buddha holding it. "Oh," thought the man, "Amitabha Buddha likes money, too. He's run off with all my gold!"
At just about that time, in the household of the donor where he was living, a new-born donkey died. They noticed that the belly of the young donkey was hard and heavy, and when they cut it open, lo and behold, the old cultivator's gold and silver were tucked away inside! At that point the old cultivator realized how heavy his greed was, and he rejoiced that he had not gone off with "Amitabha Buddha," for had he gone, he would have become that small donkey. And he knew that the "Amitabha Buddha" who had come was not a genuine state.
Someone wonders, is there really an Amitabha Buddha? Of course there is. But because people have deviant knowledge and deviant views, there are also demons who can appear in the likeness of Amitabha Buddha. Clearly, we should aim to be straight and proper. But how do you do that? Be extremely careful not to be greedy. Anybody who has the idea he can go to the Land of Ultimate Bliss and mine for gold had better wake up fast.
Kinh văn:
阿A 難Nan 修tu 菩Bồ 提Đề 者giả 永vĩnh 斷đoạn 五ngũ 辛tân 。
是thị 則tắc 名danh 為vi 第đệ 一nhất 增tăng 進tiến 修tu 行hành 漸tiệm 次thứ 。
( A Nan, người tu đạo Bồ đề phải đoạn hẳn năm loại rau cay, đấy gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ nhất.)
Giảng giải:
A Nan, ông nghe đấy chứ? Người tu đạo Bồ đề bất cứ người nào theo đạo Bồ đề - phải đoạn hẳn năm loại rau cay. Quý vị phải quyết định dứt khoát không dùng tỏi, hành, hẹ, kiệu, nén. Nếu cứ ăn các thứ ấy, cuối cùng quý vị sẽ cùng Ma vương ở cùng một nơi, còn tránh đi, tất sẽ cùng chư Phật hội tụ một chỗ.
Đấy gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ nhất. Bước tăng tiến thứ nhất trong việc tu hành. Trong tu tập, phải dứt bỏ mọi căn nguyên sinh ra nghiệp ác. Năm loại rau cay là trợ lực cho các Ma vương. Quý vị đừng coi thường, ngũ tân sẽ khiến quý vị mê mờ, hỗn loạn, nó làm chúng ta thành bất tịnh, sự bất tịnh đó càng làm Ma vương thêm thích thú.
Sutra:
Ananda, those who cultivate for Bodhi should never eat the five pungent plants. This is the first of the gradual stages of cultivation.
Commentary:
Ananda, have you been listening? Those who cultivate for Bodhi, anybody on the path to Bodhi, should never eat the five pungent plants. You definitely must stop eating onions, garlic, leeks, scallions, and chives. If you eat these things, you can end up in the company of the demon kings. If you don't eat these things, you can join the Buddha's retinue. This is the first of the gradual stages of cultivation. This is the first step of progress for a cultivator of the Way.
In cultivation, one must get rid of the causes which aid in the creation of bad karma. The five pungent plants are one cause which aids the demon kings. You should not regard them as unimportant. The five pungent plants make you turbid and confused. They make you impure, and your impurity puts you together with the retinue of demon kings, for the more impure one is, the better they like it.
THẾ NÀO LÀ TÁNH CỦA NGHIỆP ?
( What is the essence of karmic offenses? )
Kinh văn:
云Vân 何hà 正chánh 性tánh 。
阿A 難Nan 。 如như 是thị 眾chúng 生sanh 入nhập 三tam 摩ma 地địa 。 要yếu 先tiên 嚴nghiêm 持trì 清thanh 淨tịnh 戒giới 律luật 。
( Thế nào là tánh của nghiệp ?
A Nan, chúng sinh muốn nhập vào Tam-ma-địa, chủ yếu trước tiên là phải nghiêm trì giới luật cho thật thanh tịnh.)
Giảng giải:
Giai đoạn tiệm thứ đầu tiên là dứt trừ trợ nhân, chẳng hạn như thích ĂN UỐNG: hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu, rượu, thịt…. Giai đoạn thứ hai là tánh của nghiệp.
Thế nào là tánh của nghiệp ? A Nan, chúng sinh muốn nhập vào Tam-ma-địa, chủ yếu trước tiên là phải nghiêm trì giới luật cho thật thanh tịnh.
“Tánh của nghiệp” tức là do NGHIỆP THỨC PHÂN BIỆT sanh khởi . Khi nghiêm trì giới luật, thì chuyển THỨC thành TRÍ . “Chủ yếu” là phải bền lâu, lấy giới luật làm THẦY để tu hành.
Bất cứ điều gì quý vị đã làm trước khi thọ giới đều không kể là phạm giới, vì quý vị chưa thọ giới, nhưng PHẠM TỘI cho việc làm của mình. Chưa thọ giới thì không phải là phạm giới. Nhưng một khi mình đã thọ giới rồi thì dứt khoát không bao giờ cố ý sai phạm.
Trước khi thọ giới, quý vị có thể thích LÀM những gì theo Ý MÌNH, nhưng khi đã thọ giới thì chúng ta không nên phạm phải những sai lầm như trước đó.
Sutra:
What is the essence of karmic offenses? Ananda, beings who want to enter samadhi must first firmly uphold the pure precepts.
Commentary:
The first gradual stage consists of getting rid of the aiding causes, which are eating meat and the like. The second gradual stage concerns the essence of karmic offenses. What is the essence of karmic offenses? Ananda, beings who want to enter samadhi must first firmly uphold the pure precepts. The "essence of karmic offenses" refers to the workings of the karmic consciousness. The karmic consciousness must be transformed, and that is done by holding the precepts. "Firmly uphold" means one is firm with oneself. One is not the least bit casual or sloppy. One relies on the precepts in cultivation.
Anything you did before receiving the precepts does not count as a violation of them, because you were in ignorance. If one doesn't know one is committing an offense, then one hasn't committed one. But once you receive the precepts, you can't perpetuate your offenses. Before you heard about the precepts, you may have enjoyed indulging in things which are not in accord with the rules. But once you learn about the precepts, you should receive them and then not indulge in such activities any more.
Kinh văn:
永Vĩnh 斷đoạn 婬dâm 心tâm 。 不bất 餐xan 酒tửu 肉nhục 。 以dĩ 火hỏa 淨tịnh 食thực 。 無vô 噉đạm 生sanh 氣khí 。 阿A 難Nan 。 是thị 修tu 行hành 人nhân 。 若nhược 不bất 斷đoạn 婬dâm 及cập 與dữ 殺sát 生sanh 。 出xuất 三tam 界giới 者giả 。 無vô 有hữu 是thị 處xứ 。
( Đoạn hẳn TÂM dâm, chẳng dùng rượu thịt, chỉ ăn thức ăn trong sạch nấu chín, không ăn đồ sống. A-Nan, người tu hành đó, nếu không đoạn DÂM dục và SÁT sinh mà ra khỏi được ba cõi thì không thể nào có lẽ như vậy. )
Giảng giải:
Đoạn hẳn TÂM dâm.
Qúy-vị phải đoạn trừ những Ý-NGHĨ dâm dục trong tâm. “TÂM dâm” là yêu thích và ham muốn các điều sai quấy, nó xuất phát từ vô minh. Lòng yêu thương KHÔNG bắt nguồn từ vô minh là loại tình cảm như của người chồng, người vợ, hoặc người con... – đây là tình cảm xuất phát từ BỔN PHẬN trong NHÂN LUÂN muốn người khác được vui vẻ, hoàn toàn không có tính ích kỷ, vui theo THAM DỤC.
Họ phải chẳng dùng rượu thịt.
Họ chỉ dùng các thức chay trong sạch. Cái hại của RƯỢU, THỊT là gì? Rượu và các chất cồn thường làm tâm tính hỗn loạn. Khi dùng chất cồn, quý vị sẽ không tập trung tinh thần được, nhất là khi chúng ta ưa thích uống thức này.
Trước đây, tôi có kể qua câu chuyện một người dùng chất say mà phạm các giới. Một người nếu không uống rượu, tâm trí anh ta sẽ không hỗn loạn, không có những hành động điên đảo. Một lý do khác nữa là mùi rượu, cồn, có tính hấp dẫn người, quỷ, nhưng các Bồ tát, Thiện thần đều lánh xa. Họ không thích mùi hăng nồng như thế. Bồ-tát và các A-la-hán xem mùi rượu cũng như chúng ta đối với mùi nước tiểu vậy.
Đối với họ đó là mùi hôi hám rất khó chịu. Con người không thích gần gũi nhà vệ sinh, hầm phân, cống, rãnh, thế nhưng họ lại dành nhiều thời gian thưởng thức các món ăn rất hôi hám, khó chịu. Hơn nữa, rượu và thịt rất kích dục. Người tu hành chắc chắn sẽ lánh xa các thức ăn uống ấy.
Họ chỉ ăn thức ăn trong sạch nấu chín, không ăn đồ sống.
Các thức ăn phải được nấu chín, ngay cả rau cải cũng phải vậy, vì ăn rau sống dễ sinh lòng nóng giận.
A Nan, người tu hành đó, nếu không đoạn dâm dục và sát sinh mà ra khỏi được ba cõi thì không thể nào có lẽ như vậy.
“Dâm dục” ở đây là nói người XUẤT-GIA, còn người TẠI-GIA thì gọi là TÀ-DÂM, là tư tưởng bất chính đối với người học Phật. Còn lại nghĩ, DÂM-DỤC cũng có thể trở thành PHẬT, là người PHÁ KIẾN, khó mong được SÁM HỐI.
Sutra:
They must sever thoughts of lust, not partake of wine or meat, and eat cooked rather than raw foods. Ananda, if cultivators do not sever lust and killing, it will be impossible for them to transcend the triple realm.
Commentary:
They must sever thoughts of lust. "Lust" refers to love and desire, which are born of ignorance. Love which is not founded on ignorance, in the sense that it is loving regard for one's spouse and children, is not what is meant here. Or, if special causes and conditions arise where one wishes to help someone else, and one is not just selfishly seeking some ephemeral bliss, that too would not be considered a violation, because one's wish is to help someone else and one is basically doing something one would prefer not to do in order to help cross someone else over. It is a temporary expedient and is not a violation.
They must not partake of wine or meat. One should eat pure vegetarian food. What disadvantages are there in wine and meat? Wine and alcohol in general derange one's nature. Once you drink alcohol, you lose your concentration. And then you are likely to do just about anything. You'll be like the man in the story I told before who broke the one precept against intoxicants and subsequently violated all five.
So people who cultivate the Way should not consume these things. They should eat cooked rather than raw foods. All foods should be cooked, even vegetables, before they are eaten, because almost all raw foods will increase one's anger. Ananda, if cultivators do not sever lust and killing, it will be impossible for them to transcend the triple realm. "Lust" refers to deviant, improper sexual desire. It is absolutely unprincipled to think that a lustful person could become a Buddha.
Kinh văn:
當Đương 觀quán 婬dâm 欲dục 。 猶do 如như 毒độc 蛇xà 。 如như 見kiến 怨oán 賊tặc 。 先Tiên 持trì 聲Thanh 聞Văn 四tứ 棄khí 八bát 棄khí 。 執chấp 身thân 不bất 動động 。 後hậu 行hành 菩Bồ 薩Tát 清thanh 淨tịnh 律luật 儀nghi 。 執chấp 心tâm 不bất 起khởi 。
( Nếu xem sự dâm dục như là rắn độc, như thấy giặc thù. Trước hết phải giữ Tứ khí, bát khí của giới luật Thanh Văn, nắm giữ THÂN không để lay động; sau đó hành trì luật nghi thanh tịnh Bồ tát, nắm giữ TÂM không vọng khởi. )
Giảng giải:
Nếu xem sự dâm dục như là rắn độc, như thấy giặc thù.
Hết sức chú ý điều này: Sự dâm dục như loài rắn độc. Nếu để nó cắn tất sẽ mất mạng. Hãy xem dâm dục là điều rất nguy hại, không thể coi thường được. Ngay cả ý nghĩ về dâm cũng không được vọng khởi. Tại sao? Bởi vì trí tưởng tượng có sức mạnh như hổ, sói vậy. Đừng thân cận với loài thú ấy, nếu không muốn mất mạng. Hoặc hãy xem những ý nghĩ ấy như giặc loạn, như tên trộm nguy hại đến tính mạng.
Trước hết phải giữ Tứ khí, bát khí của giới luật Thanh Văn, nắm giữ thân không để lay động.
Quý vị phải giữ 4 trọng giới là tránh tà dâm, sát sinh, trộm cướp, nói dối.
Rồi giữ giới Thanh Văn của Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni cũng như vậy, để nắm giữ thân không lay động. Nhưng ở Tỳ kheo giữ Tứ khí là DÂM, SÁT, ĐẠO, VỌNG; còn Tỳ kheo Ni giữ bát khí, có thêm bốn giới: XÚC chạm thân đàn ông , NHẬP vào phòng đàn ông nói chuyện hẹn hò, PHÚ là che giấu tội lỗi của bạn đồng tu, TÙY là theo giúp người phạm giới bị đuổi; giữ nghiêm các giới như vậy để tránh tạo thêm nghiệp.
Sau đó hành trì luật nghi thanh tịnh Bồ tát, nắm giữ tâm không vọng khởi. Kế đến quý vị tu học giới luật Bồ tát, thọ trì 10 giới trọng và 48 giới khinh, giữ giới cho được thanh tịnh để tâm không khởi vọng tưởng – đấy là đạo pháp quý vị phải tu tập thành tựu.
You should look upon lustful desire as upon a poisonous snake or a resentful bandit. First hold to the sound-hearer's four or eight parajikas in order to control your physical activity; then cultivate the Bodhisattva's pure regulations in order to control your mental activity.
Commentary:
You should look upon lustful desire as upon a poisonous snake or a resentful bandit. Make this contemplation: lust is like a poisonous snake. If it bites you once, you may lose your life. If one regarded lust as being as poisonous as that, one would not be able to take delight in it. Even thoughts of lustful desire would not arise. Why? Just imagine that such a thought is as violent as a tiger or wolf. It's fine if you don't encounter such animals, but if you do, you're likely to lose your life. Or look upon such thoughts as upon a rebel or a thief who bears a grudge. His resentment pushes him to the point of murder.
First hold to the sound-hearer's four or eight parajikas. You must keep the shravaka precepts against killing, stealing, lust, and lying, these apply to both bhikshus and bhikshunis; in addition, the precepts against touching, the eight matters, covering, and not following apply to bhikshunis. Keep them in order to control your physical activity. You uphold these precepts to keep from creating these kinds of karma. Then cultivate the Bodhisattva's pure regulations in order to control your mental activity. Then you cultivate the Bodhisattva precepts. You receive the ten major and forty-eight minor precepts and pay special attention to regulations. Then your mind will not give rise to thoughts of lust. You won't have such deviant thoughts. This is the path that people who cultivate must walk.
Kinh văn:
禁Cấm 戒giới 成thành 就tựu 。 則tắc 於ư 世thế 間gian 永vĩnh 無vô 相tương 生sanh 相tương 殺sát 之chi 業nghiệp 。 偷du 劫kiếp 不bất 行hành 。 無vô 相tương 負phụ 累lụy 。 亦diệc 於ư 世thế 間gian 不bất 還hoàn 宿túc 債trái 。
( Cấm giới đã thành tựu, thì ở trong thế gian hẳn không còn những nghiệp sinh nhau, giết nhau. Đã không làm việc trộm cướp thì không còn phải nợ nhau, và cũng không phải trả nợ kiếp trước trong thế gian.)
Giảng giải:
Cấm giới đã thành tựu.
“Cấm” bao hàm sự giữ gìn, bảo vệ.
“Giới” là ngăn chặn những sự sai trái. Giới chia làm bốn phương diện:
1. KHAI là cho làm
2. GÍA ngăn cấm
3. TRÌ là gìn giữ
4. PHẠM là vi-phạm
Có khi phải “KHAI” để tránh không bị phạm giới, cho dù không muốn cũng không được. Cũng như nói THẬT, thì chúng sanh phải mất mạng. Cho nên, nói dói vì cứu chúng sinh nên không phạm giới.
“GÍA” bao hàm sự ngăn cấm. Người được tôn trọng là vì họ giữ gìn giới hạnh, chẳng hạn như không dùng chất say để tránh phạm giới.
“TRÌ” là nghiêm giữ giới đã thọ.
“PHẠM” là phá giới.
Có câu chuyện liên quan về giới như sau:
Vừa lúc ấy, có một người đàn bà đi ngang qua thấy ông Tăng đang ngủ, bà ta liền khởi Tâm dâm sờ mó thân thể, làm đánh thức vị Tăng này, nên vội vã bỏ chạy. Vì Tỳ kheo vào làng đi trở về, thấy người đàn bà đang chạy nhanh, ông tìm cách hỏi thăm và biết người đàn bà ấy đã sờ mó vị Tăng kia; Ông bèn quyết định đuổi theo để đưa bà ta đến trước Phật trình bày rõ sự việc. Khi ông theo sau, người đàn bà kia vội vã đã vấp phải tảng đá, ngã xuống núi chết.
Như vậy, một người phạm phải giới dâm, còn người kia phạm tội sát sinh. Mặc dù ông Tăng không xô đẩy người kia, nhưng nếu ông ta không đuổi theo thì bà ấy đâu có ngã chết như thế.
Hai vị Tỳ kheo trở về với Phật, thưa chuyện phạm giới của mình. Phật bảo họ đến Đại đức ƯU-BA-LY. Đại đức nghe họ thuật xong, Ngài phán một người phạm giới dâm, người kia phạm giới sát sinh, sự phạm giới ấy không thể SÁM HỐI được. Ngài bảo: “Sau này cả hai sẽ phải ĐỌA xuống địa ngục”.
Nghe qua, hai ông Tăng khóc nức nở, và họ đi khắp nơi để tìm người cứu giúp. Cả hai tìm gặp cư sĩ Duy Ma Cật, cư sĩ hỏi tại sao khóc. Khi nghe hai người thuật lại mọi chuyện, cư sĩ tuyên bố họ tuy PHẠM TỘI, nhưng TÂM TÁNH chưa phạm giới. “Nếu hai ông SÁM HỐI”, cư sĩ nói: “Tôi xác định là hai ông KHÔNG phải đọa xuống ĐỊA NGỤC”.
Hữu nhị Tỳ-kheo phạm dâm sát,
Ba-ly huỳnh quang tăng tội kết.
Duy-ma đại sĩ đốn trừ nghi,
Do như hách nhật tiêu sương tuyết.
Bất tư nghì, giải thoát lực,
Diệu dụng Hằng sa dã vô cực.
Tứ sự cung dưỡng cảm từ lao,
Vạn lượng hoàng kim diệc tiêu đắc.
Phấn cốt toái thân vị túc thù,
Nhất cú liễu nhiên siêu bách ức.
( Chứng Đạo Ca )
Theo “KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI” thì “PHẠM SÁT-SANH” phải có đủ 4 điều kiện:
1. NHÂN (Tâm mình muốn giết ai đó)
2. DUYÊN (Phải có người đó, phải gặp người đó thì mới giết được )
3. CÁCH THỨC (Dùng Cung tên để giết…)
4. NGHIỆP (Người đó đã chết, thì mới thành nghiệp sát sanh)
TÓM LẠI, BẤT LUẬN DÙNG PHƯƠNG TIỆN TRỢ NHÂN NÀO HOẶC Ở TÂM, HOẶC Ở THÂN, HOẶC Ở MIỆNG, HOẶC Ở Ý…LÀM CHO CHÚNG SANH PHẢI CHẾT, THÌ BỊ CÙNG MỘT CỘNG NGHIỆP LÀ SÁT SANH.
- Tại sao lại thế? Hai Tỳ kheo hỏi.
Cư sĩ nói – Hai Ông tuy phạm tội, nhưng không có ý phá giới, vậy không phải là phạm giới. Đây là trường hợp ngoại lệ.
Nghe lời giải thích, cả hai tức thì tỏ ngộ và chứng ngay quả vị. Sau đó họ cùng trở thành A-la-hán. Có nhiều cách giải thích về giới luật. Nhưng nếu như người tu chỉ chăm chú vào trường hợp ngoại lệ, thì họ rất dễ phạm giới mà không tự biết. Chính vì vậy nên Đức Phật không nói nhiều về điều này.
Khi có người giữ giới thì ở trong thế gian hẳn không còn những nghiệp sinh nhau, giết nhau. Một người được sinh ra và bị giết chết, người đó lại tái sinh để giết lại người đã sát hại mình. Nhưng nay thì cái nghiệp sinh, sát luân lưu đã dừng lại, vì họ TRÌ GIỚI.
Đã không làm việc trộm cướp thì không còn phải nợ nhau, và cũng không phải trả nợ kiếp trước trong thế gian.
Việc trộm cắp không còn khi chẳng còn ai lấy trộm. “Tôi không lấy gì của ông, ông cũng chẳng lấy gì của tôi. Tôi không ăn thịt ông, ông chẳng ăn thịt tôi. Tôi không nợ ông, ông chẳng nợ tôi. Như vậy, mọi người chúng ta sẽ chẳng phải trả lại nhau điều gì”. Quý vị không còn ăn thịt, tức sẽ không phải trả nợ trong quá khứ, quý vị sẽ cắt đứt mọi quan hệ THÂN THUỘC với loài thú. Nếu không ăn thịt chúng thì cũng chẳng có liên hệ gì.
Sutra:
When the prohibitive precepts are successfully upheld, one will not create karma that leads to trading places in rebirth and to killing one another in this world. If one does not steal, one will not be indebted, and one will not have to pay back past debts in this world.
When the prohibitive precepts are successfully upheld. "Prohibitive" implies the practice of restraint. "Precepts" are defined as "stopping evil and counteracting wrongdoing." The precepts are divided into four aspects:
1) maintenance,
2) restraint,
3) exceptions,
4) violations.
Sometimes exceptions are made, so that you are not considered to have violated the precept even if you have acted against it. "Restraints," as already mentioned, refer to prohibitions. They are honored because to violate them would contribute to further violations, as in refraining from taking intoxicants one avoids breaking other precepts as well. "Maintenanc" means upholding the precepts and cultivating in accord with them. "Violation" refers to breaking a precept.
The following event will illustrate the aspect of exceptions. Once when the Buddha Shakyamuni was in the world, there were two bhikshus cultivating in the mountains. One day, one of the bhikshus went down the mountain to get food and left the other one sleeping. In India at that time, the bhikshus simply wore their sashes wrapped around them; they did not wear clothing underneath. This bhikshu had shed his robe and was sleeping nude. He probably was a lazy person, and with no one on the mountain to watch after him, he'd decided to take a nap.
At that time a woman happened along, and seeing the bhikshu, she was aroused and took advantage of him. Just as she was running away from the scene, the other bhikshu returned from town and saw her in flight. Upon investigation he found out that the woman had taken advantage of the sleeping bhikshu, and he decided to pursue her, catch her, and take her before the Buddha in protest. He took out after her, and the woman became so reckless that she slipped off the road and tumbled down the mountain to her death. So one bhikshu had violated the precept against sexual activity and the other had broken the precept against killing. Although the bhikshu hadn't actually pushed her down the mountain, she wouldn't have fallen if he hadn't been pursuing her.
"What a mess!" concluded the two bhikshus. Messy as it was, they had to go before the Buddha and describe their offenses. The Buddha referred them to the Venerable Upali. But when Venerable Upali heard the details, his verdict was that, indeed, one had violated the precept against sexual activity and the other against killing, offenses which cannot be absolved. "You're both going to have to endure the hells in the future," he concluded.
Hearing this, the two bhikshus wept, and they went about everywhere trying to find someone who could help them. Eventually, they found the Great Upasaka Vimalakirti, who asked why they were crying. When they had related their tale, he pronounced his judgment that they had not violated the precepts.
"If you can be repentant," he said, "then I can certify that you didn't break the precepts."
"How can that be?" they asked.
"The nature of offenses is basically empty," replied the upasaka. "You did not violate the precepts intentionally, and so it doesn't count. It is an exception"
Hearing this explanation by the Great Teacher Vimalakirti, the two bhikshus were enlightened on the spot and were certified as attaining the fruition. After that, they became arhats. So there are many explanations within the prohibitive precepts. But if people always look to the exceptions, they will simply not hold the precepts. They will beg the question. So the Buddha did not speak much about this aspect.
If one upholds the precepts, one will not create karma that leads to trading places in rebirth and to killing one another in this world. One is born and then kills, and the victim is reborn and kills the one who killed him. But now karmic offenses created in the cycle of mutual rebirth and mutual killing cease. If one does not steal, one will not be indebted, and one will not have to pay back past debts in this world. The offenses of stealing will also cease when one stops stealing. "I won't take your things, and you won't take mine. I won't eat your flesh, and you won't eat mine. I won't become indebted to you, and you won't become indebted to me. In that way we won't have to pay each other back." You won't have to pay back the debts for offenses committed in the past once you sever your relationship with animals by not eating meat. If you don't eat their flesh, then you don't have any connections with them.
Kinh văn:
是Thị 清thanh 淨tịnh 人nhân 修tu 三tam 摩ma 地địa 。 父phụ 母mẫu 肉nhục 身thân 。 不bất 須tu 天thiên 眼nhãn 。 自tự 然nhiên 觀quán 見kiến 十thập 方phương 世thế 界giới 。 睹đổ 佛Phật 聞văn 法Pháp 。 親thân 奉phụng 聖thánh 旨chỉ 。 得đắc 大đại 神thần 通thông 。 遊du 十thập 方phương 界giới 。 宿túc 命mạng 清thanh 淨tịnh 。 得đắc 無vô 艱nạn 險hiểm 。
( Người thanh tịnh ấy, tu pháp Tam-ma-địa, chính nơi nhục thân cha mẹ sinh ra, không cần thiên nhãn, tự nhiên thấy được mười phương thế giới, thấy Phật nghe pháp, tự mình vâng lãnh thánh chỉ, được pháp đại thần thông, đi khắp mười phương thế giới, túc mạng được thanh tịnh, không còn những điều khó khăn nguy hiểm. )
Giảng giải:
Người thanh tịnh ấy, người không dùng năm loại rau cay, không uống rượu, ăn thịt, và kiên quyết nghiêm trì bốn hoặc tám giới TRỌNG (Ba-la-di). ( Nhưng ở Tỳ kheo giữ Tứ khí là DÂM, SÁT, ĐẠO, VỌNG; còn Tỳ kheo Ni giữ bát khí, có thêm bốn giới: XÚC chạm thân đàn ông , NHẬP vào phòng đàn ông nói chuyện hẹn hò, PHÚ là che giấu tội lỗi của bạn đồng tu, TÙY là theo giúp người phạm giới bị đuổi; giữ nghiêm các giới như vậy để tránh tạo thêm nghiệp.) Nếu như người đó tu pháp Tam-ma-địa, chính nơi nhục thân cha mẹ sinh ra, không cần thiên nhãn, tự nhiên thấy được mười phương thế giới.
Họ không cần phải có năng lực của Thiên nhãn để quán sát, họ vẫn thấy Phật nghe pháp, tự mình vâng lãnh thánh chỉ, được thân cận Phật và nghe pháp, được Phật chỉ giáo. Được pháp đại thần thông, đi khắp mười phương thế giới, túc mạng được thanh tịnh, không còn những điều khó khăn nguy hiểm.
Thần lực của họ có khả năng đi xuyên suốt mười phương. Họ biết được các đời sống trong quá khứ, từ nhục thân mà thành tựu được nhiều ỨNG HÓA THÂN. Dù không có thiên nhãn nhưng chẳng khác gì đã có, cả thiên nhĩ cũng vậy. Những người tu ấy không còn gặp phải trở ngại hoặc hung hiểm nào.
Sutra:
If people who are pure in this way cultivate samadhi, they will naturally be able to contemplate the extent of the worlds of the ten directions with the physical body given them by their parents; without need of the heavenly eye, they will see the Buddhas speaking dharma and receive in person the sagely instruction. Obtaining spiritual penetrations, they will roam through the ten directions, gain clarity regarding past lives, and will not encounter difficulties and dangers.
Commentary:
If people who are pure in this way, who do not eat the five pungent plants, do not drink intoxicants, and do not eat meat, and can firmly uphold the four or the eight parajikas, the precepts, if such people cultivate samadhi, they will naturally be able to contemplate the extent of the worlds of the ten directions with the physical body given them by their parents; without need of the heavenly eye. They don't need to have the power of the heavenly eye in order to spontaneously see all around them.
Kinh văn:
是Thị 則tắc 名danh 為vi 第đệ 二nhị 增tăng 進tiến 修tu 行hành 漸tiệm 次thứ 。
( Đấy gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ hai.)
Giảng giải:
Điều quan trọng và cần thiết là cần phải đoạn trừ TÁNH của nghiệp. Chúng ta phải thay đổi nghiệp. Trước đây chúng ta phạm nhiều sai lầm, nay phải tích cực SÁM HỐI sửa đổi lại. Phải giữ gìn GIỚI LUẬT. Chính sự giữ giới đấy gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ hai.
Sutra:
This is the second of the gradual stages of cultivation.
Commentary:
What has been discussed is the need to cut out the essence of karmic offenses. One must rectify one's karma. Until now it has not been proper, and so one must work in order to change. One must guard and uphold the precepts and rules. Just that, the maintaining of precepts, is the second of the gradual stages of cultivation.
THẾ NÀO LÀ HIỆN NGHIỆP ?
( What is the manifestation of karma?)
Kinh văn:
云Vân 何hà 現hiện 業nghiệp ?
阿A 難Nan 。 如như 是thị 清thanh 淨tịnh 。 持trì 禁cấm 戒giới 人nhân 。 心tâm 無vô 貪tham 婬dâm 。 於ư 外ngoại 六lục 塵trần 。 不bất 多đa 流lưu 逸dật 。
( Thế nào là hiện nghiệp?
A-Nan, người giữ gìn giới cấm thanh tịnh như vậy, tâm không tham dâm, không chạy theo sáu trần ở ngoài.)
Giảng giải:
Đầu tiên chúng ta nói về trợ nhân tạo nghiệp trong việc ĂN UỐNG, kế đến nói về sự thay đổi nghiệp thức qua sự TRÌ GIỚI LUẬT, còn phần này là ngăn chặn hiện nghiệp sinh khởi nhờ tu NHĨ CĂN VIÊN THÔNG.
Thế nào là hiện nghiệp?
Đấy là nghiệp tạo ngay trong đời sống này. Chúng ta phải ngăn chặn lại điều ấy, không tạo thêm nghiệp mới.
A Nan, người giữ gìn giới cấm thanh tịnh như vậy, tâm không tham dâm.
Giai đoạn này, mọi người chúng ta phải trong sạch, giữ gìn giới hạnh, không tham lam và say mê tham dục, không chạy theo sáu trần ở ngoài. Không chạy theo sáu trần ở ngoài là: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Mọi người phải trở lại NGHE TỰ TÁNH của chính mình.
Sutra:
What is the manifestation of karma? Ananda, such people as these, who are pure and who uphold the prohibitive precepts, do not have thoughts of greed and lust, and so they do not become dissipated in the pursuit of the six external defiling sense-objects.
Commentary:
We first discussed the causes that aid in the creation of karma. Next we talked about rectifying the nature of the karmic consciousness which creates offenses. Now the discussion turns to the manifestation of karma. What is the manifestation of karma? It is the karma created in this very life. We must counteract it; oppose it. We should not allow ourselves to succumb to the creation of new karma. We should return; we should turn back from it.
Ananda, such people as these, who are pure and who uphold the prohibitive precepts, do not have thoughts of greed and lust. This refers to the people we have been discussing, who at this stage are pure and keep the precepts. These people are not greedy for the false and illusory bliss of sexual desire, and so they do not become dissipated in the pursuit of the six external defiling senseobjects. They are not turned by the experience of the six senseobjects of forms, sounds, smells, tastes, touchables, and dharmas. They return the light and come back home.
Kinh văn:
因Nhân 不bất 流lưu 逸dật 。 旋tuyền 元nguyên 自tự 歸quy 。 塵trần 既ký 不bất 緣duyên 。 根căn 無vô 所sở 偶ngẫu 。 反phản 流lưu 全toàn 一nhất 。 六lục 用dụng 不bất 行hành 。
( Nhân chẳng lưu chuyển, tự quay về tánh bản nguyên, trần đã không duyên, thì căn không có chổ kết hợp, ngược dòng trở về CHÂN-TÁNH, sáu cái dụng chẳng còn hiện hành.)
Giảng giải:
Nhân chẳng lưu chuyển, tự quay về tánh bản nguyên.
Trần đã không duyên, thì căn không có chổ kết hợp, chấm dứt mọi liên hệ với cảnh trần và căn cũng KHÔNG còn đeo đuổi, kết hợp với điều gì, mà trở ngược về tu tập với nhĩ căn, và đây là chỗ toàn nhất viên thông , nên cả sáu căn cùng có tác dụng thay nhau làm việc, sáu cái dụng chẳng còn hiện hành.
Cả sáu CĂN không còn hiện hành để chạy theo sáu TRẦN bên ngoài. Cho nên, SINH-DIỆT cũng không có, TỊCH-DIỆT HIỆN TIỀN.
Sutra:
Because they do not pursue them, they turn around to their own source. Without the conditions of the defiling objects, there is nothing for the sense-organs to match themselves with, and so they reverse their flow, become one unit, and no longer function in six ways.
Commentary:
Because they do not pursue them, they turn around to their own source. They are not turned by the six sense-objects, and so they go back to the origin. They return the light and illumine within, and turn back their hearing to hear their self-nature. They cultivate the perfect penetration of the ear. Without the conditions of the defiling objects, there is nothing for the sense-organs to match themselves with. They no longer have any connection with the six sense-objects. The relationship between them is severed when people stop pursuing them, and so the sense-organs no longer are matched with the sense-objects, and so they reverse their flow.
That refers to the cultivation of the perfect penetration of the ear, whereby one enters the flow and forgets the place of entry. They become one unit; the six organs are interpenetrated and function together. They no longer function in six ways. The six sense organs no longer are dissipated in their pursuit of the experiences of the six sense-objects.
Kinh văn:
十Thập 方phương 國quốc 土độ 。 皎hạo 然nhiên 清thanh 淨tịnh 。 譬thí 如như 琉lưu 璃ly 。 內nội 懸huyền 明minh 月nguyệt 。
( Cõi nước mười phương, sáng trong thanh tịnh, ví như ngọc lưu ly, có mặt trăng sáng treo trong ấy. )
Giảng giải:
Lúc bấy giờ cõi nước mười phương, sáng trong thanh tịnh, ví như ngọc lưu ly, có mặt trăng sáng treo trong ấy. Nói khác đi tất cả đều trong sáng thanh tịnh và nhìn thấy được.
Sutra:
All the lands of the ten directions are as brilliantly clear and pure as moonlight reflected in crystal.
Commentary:
At that time, all the lands of the ten directions are as brilliantly clear and pure as moonlight reflected in crystal. In other words, they are transparently clear and visible to all.
Kinh văn:
身Thân 心tâm 快khoái 然nhiên 。 妙diệu 圓viên 平bình 等đẳng 。 獲hoạch 大đại 安an 隱ẩn 。
( Thân tâm khoan khoái, tịnh diệu viên bình đẳng, được đại an ổn. )
Giảng giải:
Khi ánh trăng tròn sáng như ngọc lưu ly thì nó hoàn toàn sáng rỡ và trong suốt, mọi người đều thấy được. Đoạn này diễn tả người tu đã đạt đến giai đoạn cả thân và tâm đều thanh tịnh. Vậy nên thân tâm khoan khoái, tịnh diệu viên bình đẳng, được đại an ổn.
Đấy là cảm giác an lạc tự tại của người tu NHĨ CĂN VIÊN THÔNG , không phải là đều hiển nhiên với người khác.
Sutra:
Their bodies and minds are blissful as they experience the equality of wonderful perfection, and they attain great peace.
Commentary:
When the crystal captures the light of the full moon, there is both brilliance and transparency. It can be completely seen through. This analogy represents the state of cultivators who have reached the level where both their bodies and minds are pure. At that point, Their bodies and minds are blissful as they experience the equality of wonderful perfection, and they attain great peace. This sense of peace is something one experiences oneself, not something that is evident to others.
Kinh văn:
一Nhất 切thiết 如Như 來Lai 密mật 圓viên 淨tịnh 妙diệu 。 皆giai 現hiện 其kỳ 中trung 。
( Tất cả mật viên tịnh diệu các Đức Như Lai đều hiện trong đó. )
Giảng giải:
Tất cả mật viên tịnh diệu các Đức Như Lai.
Tức pháp tánh thanh tịnh của Phật, tất cả đều hiện trong đó. Mọi người tu hành đúng pháp đều cảm nhận được trạng thái đó.
Sutra:
The secret perfection and pure wonder of all the Thus Come Ones appear before them.
Commentary:
The secret perfection and pure wonder of all the Thus Come Ones refers to the Buddha's pure dharma nature. At this point they appear before them. A cultivator such as this can experience this state.
Kinh văn:
是Thị 人nhân 即tức 獲hoạch 無Vô 生Sanh 法Pháp 忍Nhẫn 。 從tùng 是thị 漸tiệm 修tu 。 隨tùy 所sở 發phát 行hành 。 安an 立lập 聖thánh 位vị 。
( Người ấy liền được vô sinh pháp nhẫn. Từ đó lần lượt tu tập, tùy cái hạnh phát ra mà an lập thánh vị.)
Giảng giải:
Người ấy liền được vô sinh pháp nhẫn.
Thế nào là vô sinh pháp nhẫn? Chúng ta không thấy pháp nào sinh khởi, cũng chẳng thấy pháp nào biến mất. Pháp vốn KHÔNG SINH CŨNG KHÔNG DIỆT, nhưng thật không dễ gì CHỨNG được điều ấy.
Từ đó lần lượt tu tập, tùy cái hạnh phát ra mà an lập thánh vị.
Khi chứng được vô sinh pháp nhẫn, người tu hành tiếp tục hướng đến các thánh vị, không gì có thể ngăn trở được.
Sutra:
These people then obtain patience with the non-production of dharmas. They thereupon gradually cultivate according to their practices, until they reside securely in the sagely positions.
Commentary:
These people then obtain patience with the non-production of dharmas. What is meant by patience with the non-production of dharmas? One does not see the slightest dharma arise, nor the slightest dharma extinguished. Dharmas are neither produced nor destroyed. But it is not easy to obtain this state. They thereupon gradually cultivate according to their practices, until they reside securely in the sagely positions. From the point of attaining patience with the non-production of dharmas, they gradually progress in their practice as they go through the sagely positions, without being shaken or moved.
Kinh văn:
是Thị 則tắc 名danh 為vi 第đệ 三tam 增tăng 進tiến 修tu 行hành 漸tiệm 次thứ 。
(Đây gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ ba.)
Giảng giải:
Đây gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ ba. Đó là cách ngăn chặn sự sanh khởi của hiện nghiệp, do tu NHĨ CĂN VIÊN THÔNG.
Sutra:
This is the third of the gradual stages of cultivation.
Commentary:
This is the third of the gradual stages of cultivation, that of preventing the manifestation of karma.
II. 55 ĐỊA VỊ CỦA BỒ TÁT
( The Bodhisattva Stages )
1. Thập tín [10]
2. Thập trụ [10]
3. Thập hạnh [10]
4. Thập hồi hướng [10]
5. Tứ gia hạnh [4]
6. Thập địa [10]
7. Đẳng giác [1]
ĐẲNG-GIÁC
Như-lai ngược dòng trở lại, vị Bồ-tát đó thuận dòng đi tới, giác-ngộ vào chỗ giao-tiếp với nhau; gọi là Đẳng-giác.
( ĐẲNG-GIÁC là sự giác ngộ đồng với CHƯ PHẬT. 12 CHỦNG LOẠI CHÚNG-SANH thì hướng tới QỦA PHẬT, còn CHƯ PHẬT thì hướng tới chúng sanh để HỘ NIỆM, làm cho chúng sanh PHÁT BỒ ĐỀ TÂM, tu hành được sự giác ngộ như PHẬT; thì gọi là ĐẲNG-GIÁC BỒ-TÁT.)
A-nan, từ tâm Càn-huệ đến Đẳng-giác rồi, giác đó mới bắt-đầu được Sơ-càn-huệ-địa trong tâm Kim-Cang.
( “Càn-Huệ-Địa” nghĩa là “ tình dục khô cạn (Càn), chỉ thuần còn Trí-huệ (Huệ).” ĐÂY LÀ “ĐỊA-VỊ” TU CHỨNG ĐẦU TIÊN CỦA NGƯỜI TU-THIỀN (Địa).
Từ Càn-huệ địa đến Đẳng-giác rồi, vì còn chấp mình LÀ ĐẲNG-GIÁC BỒ-TÁT, NÊN CÒN CÓ VI-TẾ SANH-TƯỚNG VÔ-MINH, phải dùng “TÂM KIM-CANG” để phá trừ tất cả sở đắc, như là SƠ-CÀN-HUỆ-ĐỊA trong TÂM KIM-CANG, THẬP TÍN trong TÂM KIM-CANG…ĐẲNG-GIÁC trong TÂM KIM-CANG. CHO NÊN, GỌI LÀ SƠ-CÀN-HUỆ-ĐỊA TRONG TÂM KIM-CANG. )
DIỆU-GIÁC
Như vậy lớp-lớp tu đơn, tu kép 12 vị mới cùng tột Diệu-giác, thành đạo Vô-thượng.
Tu Đơn, tu kép 12 vị :
1) CÀN HUỆ ĐỊA
2) THẬP TÍN
3) THẬP TRỤ
4) THẬP HẠNH
5) THẬP HỒI HƯỚNG
6) NOÃN
7) ĐẢNH
8) NHẪN
9) THẾ ĐỆ NHỨT
10) THẬP ĐỊA
11) ĐẲNG-GIÁC
12) TÂM KIM CANG
( dùng TÂM KIM CANG phá trừ từng phần VÔ-MINH cho đến VI-TẾ VÔ-MINH mới cùng tột Diệu-giác, thành đạo Vô-thượng.)
Các thứ địa ấy, đều lấy trí Kim-cang quán-sát mười thứ ví-dụ như-huyễn sâu-xa, trong Xa-ma-tha, dùng phép Tỳ-bà-xá-na của các đức Như-lai mà thanh-tịnh tu-chứng, lần-lượt đi sâu vào.
( Các địa vị ấy, đều dùng “TÂM KIM-CANG” hay “TRÍ KIM-CANG” QUÁN LÝ “NHƯ-HUYỄN SÂU-XA”, tức là CHỈ và QUÁN KHÔNG HAI, ĐỊNH HUỆ BẤT NHỊ mà thanh tịnh tu chứng, lần lượt đi sâu vào.
Dùng “TRÍ KIM-CANG” QUÁN LÝ “NHƯ-HUYỄN SÂU-XA” LÀ:
1. Quán NGƯỜI như huyễn
2. Quán ÁNH NẮNG (DƯƠNG DIỆM) như huyễn
3. Quán TRĂNG DƯỚI NƯỚC như huyễn
4. Quán HOA ĐỐM TRONG HƯ KHÔNG như huyễn
5. Quán TIẾNG VANG TRONG HANG ĐỘNG như huyễn
6. Quán THÀNH CÀN THÁT BÀ
( LÀM BẰNG HƠI SƯƠNG TRONG BIỂN) như huyễn
7. Quán MỘNG như huyễn
8. Quán BÓNG như huyễn
9. Quán TƯỢNG TRONG GƯƠNG như huyễn
10. Quán ẢO HÓA như huyễn.
Thân như bọt
Bể thương tang
Chìm nổi kiếp mênh mang!
Dưới trăng suy cạn khoảng đêm tàn
Chỉ nương Vô Lượng Quang.
Trời niệm tâm
Núi kiên quyết
Vọng tình xin cách tuyệt
Dần dà khó thể nhập Liên Bang
Khi nao thật được nhàn?
Thân như bọt
Bể thương tang
Chìm nổi kiếp mênh mang!
Dưới trăng suy cạn khoảng đêm tàn
Chỉ nương Vô Lượng Quang.
(Niệm Phật Phải Khắc Kỳ Cầu Chứng Nghiệm- HT. Thiền-Tâm)
A-nan, như thế, đều dùng ba tiệm-thứ tăng-tiến, nên khéo thành-tựu 55 vị trong đường Bồ-đề chân-thật. Làm cái quán như vậy, gọi là chính-quán; nếu quán cách khác, gọi là tà-quán".
Muốn thành tựu 55 vị trong đường Bồ-đề chân thật, trước phải tu 3 TIỆM THỨ TĂNG TIẾN là:
1) Không ăn NGŨ VỊ TÂN
2) PHẢI NGHIÊM TRÌ GIỚI LUẬT
3) PHẢI NGĂN CHẶN VỌNG KHỞI CỦA HIỆN NGHIỆP PHÁT SANH, DO TU NHĨ CĂN VIÊN THÔNG.
KẾ TIẾP dùng TÂM KIM CANG quán LÝ NHƯ HUYỄN, để thành tựu 55 địa vị tu chứng.
Năm mươi lăm vị trong đường Bồ đề ( vì Càn-huệ-địa là con đường mà chẳng CHÂN-THẬT, còn DIỆU-GIÁC thì CHƠN THẬT mà chẳng phải là con đường, ĐÂY LÀ QỦA PHẬT. Cho nên, chỉ có 55 vị trong đường Bồ-đề chân-thật mà thôi.)
1. Thập tín [10]
2. Thập trụ [10]
3. Thập hạnh [10]
4. Thập hồi hướng [10]
5. Tứ gia hạnh [4]
6. Thập địa [10]
7. Đẳng giác [1]
Tuy biết con đường CHƠN THẬT chứng nhập CHƠN TÂM THƯỜNG TRỤ, nhưng trải qua các địa vị tu chứng gặp phải 50 loại ma chướng cùng với tập khí nhiều đời khó đoạn trừ, nếu MÊ MỜ CHƠN TÁNH, tự nghĩ rằng mình đã CHỨNG THÁNH, THÀNH PHẬT thì sẽ đi vào TÀ MA NGOẠI ĐẠO, khó CÓ NGÀY quây đầu trở lại theo CON ĐƯỜNG CHƠN THẬT.
Cho nên, PHẬT dạy phải nghiêm trì “CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM”, thì không bị những TẬP KHÍ NHIỀU ĐỜI cùng MA-CHƯỚNG đến phá HOẠI CON ĐƯỜNG CHƠN THẬT THẲNG đến qủa DIỆU-GIÁC của CHƯ PHẬT.
Kinh văn:
阿A 難Nan 。 是thị 善thiện 男nam 子tử 。 欲dục 愛ái 乾càn 枯khô 。 根căn 境cảnh 不bất 偶ngẫu 。 現hiện 前tiền 殘tàn 質chất 。 不bất 復phục 續tục 生sanh 。
( A-Nan, thiện nam tử ấy, lòng dục ái khô cạn, căn và cảnh không còn kết hợp, thân hiện tiền khi chết rồi, không còn sinh trở lại nữa. )
Giảng giải:
Đức Thích Ca Mâu Ni gọi bảo: A Nan, thiện nam tử ấy, lòng dục ái khô cạn. Đấy là những người đã trải qua ba giai đoạn tiệm thứ tu tập như đã luận. “Khô cạn”, chỉ những người không còn ý nghĩ về yêu đương, tình dục, căn và cảnh không còn kết hợp.
Sáu căn không còn chạy theo sáu trần, thân hiện tiền khi chết rồi, không còn sinh trở lại nữa. “Thân tàn” là khi bỏ thân này, người tu ấy sẽ không tiếp tục sinh sinh lại nữa.
Sutra:
Ananda, these good people's emotional love and desire are withered and dry, the sense-organs and sense objects no longer match, and so the residual habits do not continue to arise.
Commentary:
Shakyamuni Buddha calls out: Ananda, these good people's emotional love and desire are withered and dry. The people referred to are the ones who have passed through the three gradual stages just discussed. "Withered and dry" means that they have no thoughts of emotional desire and love. The sense-organs and sense objects no longer match. The six sense organs no longer seek to match up with the six sense-objects. And so the residual habits do not continue to arise. "Residual habits" refers to the slight bit of ignorance that these people still harbor. Since the ignorance is so slight, it does not continue to increase.
CÀN HUỆ ĐỊA
( stage of dry wisdom )
Kinh văn:
執Chấp 心tâm 虛hư 明minh 。 純thuần 是thị 智trí 慧huệ 。 慧huệ 性tánh 明minh 圓viên 。 鎣oanh 十thập 方phương 界giới 。 乾càn 有hữu 其kỳ 慧huệ 。 名danh 乾C àn 慧Huệ 地Địa 。
( Nắm cái tâm rỗng sáng, thuần là trí huệ, tánh trí huệ sáng suốt cùng khắp, soi thấu mười phương thế giới, chỉ có cái huệ khô khan ấy nên gọi là Càn huệ địa. )
Giảng giải:
Một chút vô minh còn dư lại nên không có khả năng sinh trưởng, nghiệp chướng còn rất ít do đó nắm cái tâm rỗng sáng, thuần là trí huệ. Tự tâm hoàn toàn trống rỗng và trong sáng. Tự tánh của họ thuần là trí huệ, có nghĩa đã dứt mọi vọng tưởng. Mọi nghĩ tưởng trong tâm của họ chỉ là trí huệ.
Tánh trí huệ sáng suốt cùng khắp, soi thấu mười phương thế giới. Tính của trí huệ sáng suốt và đầy đủ, chỉ có cái huệ khô khan ấy nên gọi là Càn huệ địa.
“Càn-Huệ-Địa” nghĩa là “ tình dục khô cạn (Càn), chỉ thuần còn Trí-huệ (Huệ).” ĐÂY LÀ “ĐỊA-VỊ” TU CHỨNG ĐẦU TIÊN CỦA NGƯỜI TU-THIỀN (Địa).
Đây là giai đoạn của trí huệ khô cạn, còn gọi “SƠ-CÀN-HUỆ-ĐỊA trong TÂM KIM-CANG”. TÂM KIM-CANG có nghĩa là kiên cố, không sanh diệt, là bước đầu để tiến đến THỦ LĂNG NGHIÊM TAM-MUỘI.
Năm mươi lăm ngôi vị của hàng Bồ tát như sau:
1. Thập tín
2. Thập trụ
3. Thập hạnh
4. Thập hồi hướng
5. Tứ gia hạnh
a. Noãn
b. Đảnh
c. Nhẫn
d. Thế đệ nhất
6. Thập địa
7. Đẳng giác
Sutra:
By means of their complete wisdom, they understand that attachments of the mind are false. The bright perfection of their wisdom-nature shines throughout the ten directions, and this initial wisdom is called the 'stage of dry wisdom.'
Commentary:
The slight bit of ignorance that still remains does not grow and increase. The karmic obstacles are also very few, and so by means of their complete wisdom, they understand that attachments of the mind are false. Their minds become as clear as emptiness itself. Their own natures experience the perfection of wisdom. "Complete wisdom" means they don't have any other false thoughts. The thoughts in their mind are brought forth from wisdom. The bright perfection of their wisdom-nature shines throughout the ten directions. The nature of their wisdom is light and full. And this initial wisdom is called the "stage of dry wisdom". Since emotional love and desire are "dried up," all that's left is wisdom. This stage of dry wisdom is also called "the initial thought of vajra." "Vajra" means "indestructible." This stage is the first step towards the point of being like vajra.
What follows is a discussion of the fifty-five stages of a Bodhisattva:
1. the ten faiths,
2. the ten dwellings,
3. the ten conducts,
4. the ten transferences,
5. the four levels of augmenting practice:
a) heat,
b) summit,
c) patience,
d) foremost in the world;
6. the ten grounds,
7. equal enlightenment.
Kinh văn:
欲Dục 習tập 初sơ 乾càn 。 未vị 與dữ 如Như 來Lai 法Pháp 流lưu 水thủy 接tiếp 。
( Tập khí như ngũ dục mới khô cạn, chưa tiếp giáp với dòng nước pháp của Đức Như Lai.)
Giảng giải:
Tập khí như ngũ dục và dục ái mới khô cạn, chưa tiếp giáp với dòng nước pháp của Đức Như Lai.
Dòng nước pháp ở đây KHÔNG PHẢI là các pháp đã nói qua mà là dòng pháp xuất phát từ TỰ-TÁNH. Người tu tập đến giai đoạn này vẫn chưa thực sự chứng nhập vào TRÍ HUỆ CHÂN-THẬT của Đức Như Lai.
Sutra:
Although the habits of desire are initially dried up, they still have not merged with the Thus Come One's flow of dharma-water.
Commentary:
Although the habits of desire and emotional love are initially dried up, they still have not merged with the Thus Come One's flow of dharma-water. Here the "flow of dharma-water" does not refer to dharma which is spoken. It is the water of dharma that flows forth from the self-nature. But at this point in their development, they have not merged with the water of genuine wisdom.
THẬP-TÍN
(The Ten Faiths)
1. Tín-tâm TRỤ
2. Niệm-tâm TRỤ
3. Tinh-tấn-tâm
4. Huệ-tâm TRỤ
5. Định-tâm TRỤ
6. Bất-thoái-tâm
7. Hộ-pháp-tâm
8. Hồi-hướng-tâm
9. Giới-tâm TRỤ
10. Nguyện-tâm TRỤ
1. Tín-tâm TRỤ
( the mind that resides in faith)
Kinh văn:
即Tức 以dĩ 此thử 心tâm 中trung 中Trung 流lưu 入nhập 。 圓viên 妙diệu 開khai 敷phu 。 從tùng 真chân 妙diệu 圓viên 。 重trùng 發phát 真chân 妙diệu 。
妙Diệu 信tín 常thường 住trụ 。 一nhất 切thiết 妄vọng 想tưởng 。 滅diệt 盡tận 無vô 餘dư 。 中Trung 道Đạo 純thuần 真chân 。 名danh 信TÍN 心TÂM 住Trụ 。
( Tức lấy tâm ấy, nương theo TRUNG-ĐẠO lần vào, tính VIÊN-DIỆU phát ra. Từ chỗ chân diệu viên, lại phát ra chân diệu.
Diệu tín THƯỜNG-TRỤ, tất cả vọng tưởng diệt hết không còn, trung đạo được thuần chân, gọi là TÍN-TÂM trụ.)
Giảng giải:
Đầu tiên bàn về Tín-tâm TRỤ.
Tức lấy tâm ấy, nương theo TRUNG-ĐẠO lần vào, tính VIÊN-DIỆU phát ra.
“Tâm ấy” là tâm của CÀN HUỆ ĐỊA. Khi Ái dục khô cạn, chỉ còn TRÍ HUỆ thuần chơn, nên gọi “SƠ-CÀN-HUỆ-ĐỊA trong TÂM KIM-CANG”. Họ dùng tâm ấy để đi vào Phật pháp và tiến đến “tính VIÊN-DIỆU phát ra”, cùng khắp. Họ đạt đến THẬT TƯỚNG NHƯ THỊ của vạn pháp.
Từ chỗ chân diệu viên, lại phát ra chân diệu.
Từ chân diệu của tự tính CHÂN NHƯ lại phát ra trí huệ chân diệu.
Diệu tín THƯỜNG-TRỤ, tất cả vọng tưởng diệt hết không còn, trung đạo được thuần chân.
Họ luôn luôn trụ trong “DIỆU TÍN THƯỜNG-TRỤ” có nghĩa TÂM không lay động, không thay đổi. Niềm tin tưởng của họ là thường hằng, cho đến khi mọi vọng tưởng không còn, tất cả đều đã dứt trừ. Cho dù họ có vọng tưởng thì những vọng tưởng ấy cũng chẳng hiện khởi. Bởi vì vọng tưởng phải dựa vào VÔ-MINH, chẳng hạn như vọng tưởng về ÁI DỤC; nhưng hiện tại, ái dục đã khô cạn, chỉ còn sót lại một ít vô minh. Do đó, tất nhiên họ không có vọng tưởng về ÁI DỤC.
( PHẦN (SỰ) CHỨNG THÌ KHÔNG CÒN PHẠM ÁI DỤC, CÒN PHẠM THÌ CHỈ ĐƯỢC PHẦN (LÝ) GIẢI MÀ THÔI)
Tại sao quý vị vẫn có vọng tưởng? Đấy là vì quý vị vẫn còn ái dục. Điều đó xuất phát từ lòng tham ái dục. Tham muốn nghĩ tưởng thế này thế nọ, làm cho TÂM của chúng ta không ngừng dao động, loạn tưởng. Nếu một người không tham ái dục, thì họ sẽ không có vọng tưởng.
Người tu đến giai đoạn này, dứt tuyệt mọi vọng tưởng, họ đạt được Trung đạo thuần chân. “THUẦN CHÂN” là không có ái dục, không có ý tham muốn Tiền-tài, Sắc-đẹp, Danh-vọng, Ăn-uống, Ngủ-nghỉ (NGŨ DỤC)…, gọi là TÍN-TÂM trụ thứ nhất.
Sutra:
Then, with this mind centered on the middle, they enter the flow where wonderful perfection reveals itself. From the truth of that wonderful perfection there repeatedly arise wonders of truth. They always dwell in the wonder of faith, until all false thinking is completely eliminated and the Middle Way is totally true. This is called the Mind that Resides in Faith.
Commentary:
This begins the discussion on the ten faiths:
1. the mind that resides in faith,
2. the mind that resides in mindfulness,
3. the mind that resides in vigor,
4. the mind that resides in wisdom,
5. the mind that resides in samadhi,
6. the mind that resides in irreversibility,
7. the mind that resides in protecting the dharma,
8. the mind that resides in making transferences,
9. the mind that resides in the precepts,
10. the mind that resides in vows.
Then, with this mind centered on the middle, they enter the flow where wonderful perfection reveals itself. "This mind" refers to the mind at the level of dry wisdom, the initial vajra-mind. They use this mind to enter the flow of the Buddhadharma, and they reach the state where "wonderful perfection reveals itself," where it opens out in abundance. One reaches the principle and substance of true suchness. From the truth of that wonderful perfection there repeatedly arise wonders of truth. In the wonderful perfection of the true suchness of the self-nature, truths within truths come forth. They always dwell in the wonder of faith, until all false thinking is completely eliminated and the Middle Way is totally true. Their belief becomes more and more subtle and wonderful.
"Always dwell" means that they will not waver, they will not change their minds. Their faith is constant. At that point, all false thinking goes away, without exception. Even if they wanted to have false thoughts, the false thoughts just wouldn't arise. That is because false thoughts are helped out by ignorance. With false thoughts come love and desire. But now love and desire have been dried up and only a little ignorance remains, so that, quite naturally, they don't have false thoughts.
Why do you have false thinking? It is because you still have love and desire. There are things that you are greedy for. The desires compel you to think about this and that, so that your mind is always climbing on conditions. If people didn't have any greed, they wouldn't have any false thinking.
At this point in their cultivation, these people don't have false thinking. When that happens, one attains the nature of the principle of the Middle Way. It is "totally true," which means that there is no love and desire, no greedy false thoughts. This is called the Mind that Resides in Faith. This is the first of these ten positions. One brings forth genuine faith and dwells in it.
2. Niệm-tâm TRỤ
( The mind that resides in mindfulness )
Kinh văn:
真Chân 信tín 明minh 了liễu 。 一nhất 切thiết 圓viên 通thông 。 陰ấm 處xứ 界giới 三tam 。 不bất 能năng 為vi 礙ngại 。 如như 是thị 乃nãi 至chí 過quá 去khứ 未vị 來lai 。 無vô 數số 劫kiếp 中trung 。 捨xả 身thân 受thọ 身thân 一nhất 切thiết 習tập 氣khí 。 皆giai 現hiện 在tại 前tiền 。 是thị 善thiện 男nam 子tử 。 皆giai 能năng 憶ức 念niệm 。 得đắc 無vô 遺di 忘vong 。 名danh 念Niệm 心Tâm 住Trụ 。
( Chân tín sáng tỏ, tất cả đều viên thông, ba thứ ẤM, XỨ, GIỚI không thể làm ngăn ngại. Như thế, cho đến trong vô số kiếp quá khứ, vị lai, tất cả tập khí xả thân, thọ thân ĐỀU HIỆN RA TRƯỚC MẶT, thiện nam tử ấy đều có thể nhớ nghĩ được, không quên mất điều gì – gọi là NIỆM TÂM trụ.)
Giảng giải:
Phần đầu nói về Tín-tâm TRỤ, tu hành theo Trung đạo, lìa hai bên NHẬP và XUẤT, CÓ và KHÔNG, ĐOẠN và THƯỜNG… – đây là sự DIỆU-VIÊN.
Nay sẽ bàn về Niệm-tâm TRỤ, khi chân tín sáng tỏ, có được ĐỨC TIN chân thật tất sẽ được trí huệ chân thật. “ Sự hiểu biết rõ ràng”, đấy là trí huệ chân thật.
Tất cả đều viên thông, ba thứ ẤM, XỨ, GIỚI không thể làm ngăn ngại.
Những người tu ấy không chỉ thành tựu viên thông của các CĂN, mà mỗi CĂN đều viên thông với:
– 5 ẤM : Sắc, thọ, tưởng, hành, thức
- 12 Xứ : Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý (SÁU CĂN) và Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (SÁU TRẦN)
- 18 GIỚI : SÁU CĂN, SÁU TRẦN và Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý (SÁU THỨC)
( THỨC là sự hiểu biết phân biệt, cho dù thức A-LẠI-DA cũng trong sự phân biệt VI TẾ. CĂN là khả năng nhận biết không phân biệt.)
Một khi đạt được viên thông thì ẤM, XỨ, GIỚI chẳng còn gì ngăn ngại quý vị.
Nhất tánh VIÊN THÔNG nhất thiết tánh,
Nhất pháp biến hàm nhất thiết pháp,
Nhất nguyệt phổ hiện nhất thiết thủy,
Nhất thiết thủy nguyệt nhất nguyệt nhiếp
Chư Phật pháp thân nhập NGÃ TÁNH,
Ngã tánh đồng cộng Như Lai hợp.
Nhất địa CỤ TÚC nhất thiết địa,
Phi sắc phi tâm phi hành nghiệp.
Ðàn chỉ viên thành bát vạn môn,
Sát-na diệt khước tam kỳ kiếp.
Nhất thiết số cú phi số cú,
DỮ NGÔ LINH GIÁC hà giao thiệp.
(Chứng Ðạo Ca)
Như thế, cho đến trong vô số kiếp quá khứ, vị lai, tất cả tập khí xả thân, thọ thân đều hiện ra trước mặt, trong vô số kiếp xa xưa, con người đã trải qua biết bao nhiêu lần sinh rồi tử, tử rồi tái sinh. Trong các đời sống, họ có nhiều thói quen khác nhau.
Có đời thì say mê UỐNG RƯỢU, đời khác thì ưa HÚT THUỐC, hoặc ham ĐÁNH BẠC, hoặc DÂM ĐÃNG, giết người, nói dối…Nhìn chung, sau mỗi đời tái sinh, thói quen của họ càng phát triển và hành động càng thêm tồi tệ.
Đấy là nói về những tính xấu, về tính tốt, có người trong đời sống, họ thường lễ KÍNH CHƯ PHẬT, hoặc nghe giảng kinh LĂNG NGHIÊM, kinh PHÁP HOA…
Tóm lại, trong nhiều đời nhiều kiếp đã qua, họ luôn hành thiện. Rốt cuộc, họ tích lũy được một NHÂN CÁCH, một thói quen đáng KÍNH TRỌNG. Và ngày nay, như một cuộn phim, tất cả những thói quen ấy HIỆN RA trước mắt họ.
Thiện nam tử ấy đều có thể nhớ nghĩ được, không quên mất điều gì. Thiện nam tử là người tu theo VIÊN THÔNG, họ nhớ được tất cả. Đến giai đoạn này, họ KHÔNG QUÊN mất điều gì. Có nghĩa, họ nhớ hết mọi việc đã xảy ra, nhớ những nhân duyên trong đời họ, đấy gọi là Niệm tâm trụ thứ hai.
Sutra:
When true faith is clearly understood, then perfect penetration is total, and the three aspects of skandhas, places, and realms are no longer obstructions. Then all their habits throughout innumerable kalpas of past and future, during which they abandon bodies and receive bodies, appear to them now in the present moment. These good people can remember everything and forget nothing. This is called the Mind that Resides in Mindfulness.
Commentary:
Prior to this stage, when they were residing in the mind of faith, they cultivated the Middle Way, that wonderful perfection, the principle which one neither enters into nor departs from. Now, since they are replete with faith, true faith is clearly understood. Once one has true faith, one can gain true wisdom. "Clear understanding," then, refers to that true wisdom. Then perfect penetration is total, and the three aspects of skandhas, places, and realms are no longer obstructions.
Not only do they accomplish the perfect penetration of the sense organs, but of everything else as well, the five skandhas of form, feeling, thought, activity, and consciousness; the twelve places of the eyes, ears, nose, tongue, body, and mind, together with forms, sounds, smells, tastes, tangible objects, and dharmas; and the eighteen realms, which include the six sense-organs, the six sense-objects and the consciousnesses which connect them, that is, the eyeconsciousness, the ear-consciousness, the nose-consciousness, the tongue-consciousness, the body-consciousness, and the mindconsciousness.
Once you obtain perfect penetration, these things can no longer hinder you. Then all their habits throughout innumerable kalpas of past and future, during which they abandon bodies and receive bodies, appear to them now in the present moment. For time beyond calculation they have been undergoing rebirth and will continue to undergo rebirth, birth after birth, death upon death. And in each one of those lives, they have different habits. In one life they got into the habit of drinking wine. In another life they were in the habit of smoking. In another life, they were habitual gamblers. Another life found them with habits of lust. In another life they killed. Another life made them into thieves. In one life, they got into the habit of lying.
In general, life after life, they developed habits that led them to do all kinds of bad things. That's looking at the bad habits. But there are also good habits. In one life, they got into the habit of bowing to the Buddhas. In another life, they habitually recited the Shurangama Mantra.
In one life, they had the habit of listening to the explanation of the Shurangama Sutra. In another life, they habitually listened to the Lotus Sutra. In general, throughout all those lives in so many kalpas, they walked many paths. As a result, they had accumulated a tremendous number of habits. But now, just like a movie, all those habits appear before them. These good people can remember everything and forget nothing. These good people who are cultivating the Way can bring it all to mind. They can remember it all. When they attain that state, they never forget. That means they always have their mind on what's happening. They are always mindful of those causes and conditions. This is called the Mind that Resides in Mindfulness, the second of the ten faiths.
3. Tinh-tấn-tâm
(The Mind of Vigor)
Kinh văn:
妙Diệu 圓viên 純thuần 真chân 。 真chân 精tánh 發phát 化hóa 。 無vô 始thỉ 習tập 氣khí 。 通thông 一nhất 精tinh 明minh 。 唯duy 以dĩ 精tinh 明minh 進tiến 趣thú 真chân 淨tịnh 。 名danh 精Tinh 進Tấn 心Tâm 。
( Tính diệu viên thuần chân, chân tánh phát ra, các TẬP KHÍ từ vô thủy, đều dung thông với một tính TINH MINH, chỉ dùng tinh minh ấy tiến đến chỗ CHÂN TỊNH, gọi là TINH TẤN tâm.)
Giảng giải:
Tính diệu viên thuần chân, chân tánh phát ra, các TẬP KHÍ từ vô thủy, đều dung thông với một tính TINH MINH, đây là TINH-TẤN liên tục phát ra trí huệ TINH MINH, chỉ dùng tinh minh ấy tiến đến chỗ CHÂN TỊNH. Họ dùng sức mạnh tinh minh sáng tỏ tiến đến chỗ chân tịnh, không còn một chút Ô NHIỄM nào khởi lên - gọi là TINH TẤN tâm thứ ba.
Sutra:
When the wonderful perfection is completely true, that essential truth brings about a transformation. They go beyond the beginningless habits to reach the one essential brightness. Relying solely on this essential brightness, they progress toward true purity. This is called the Mind of Vigor.
Commentary:
When the wonderful perfection is completely true, that essential truth brings about a transformation. They go beyond the beginningless habits to reach the one essential brightness, which is wisdom. Relying solely on this essential brightness, they progress toward true purity. Their vigor takes them to a place of true purity which is devoid of any defilement. This is called the Mind of Vigor, the mind that resides in vigor.
4. Huệ-tâm TRỤ
( The mind that resides in wisdom )
Kinh văn:
心Tâm 精tinh 現hiện 前tiền 。 純thuần 以dĩ 智Trí 慧Huệ 。 名danh 慧Huệ 心Tâm 住Trụ 。
( Tâm tinh hiện tiền, thuần là Trí Huệ, gọi là Huệ Tâm trụ. )
Giảng giải:
Khi người tu chỉ còn tâm CHÂN TỊNH, tâm tinh hiện tiền, thuần là Trí Huệ. Trí Huệ nhận biết rõ ràng, có nghĩa người đó đã có được một phần Trí Huệ chân thật.
“Thuần trí huệ” là không còn chút gì loạn tưởng còn sót lại. Vọng tưởng vô minh đã dứt sạch – đây gọi là Huệ tâm trụ thứ tư.
Sutra:
The essence of the mind reveals itself as total wisdom; this is called the Mind that Resides in Wisdom.
Commentary:
When one has progressed until the mind is truly pure, then the essence of the mind reveals itself as total wisdom. The mind is clear and understood, which means one has some genuine wisdom. "Total wisdom" means that there is not the least bit of random thinking remaining. The stupidity and false thoughts are all gone. Remember that this was described above, in the passage on the first dwelling of the mind, where it said that "all false thinking is completely eliminated." This is called the Mind that Resides in Wisdom. This is the dwelling of the mind of faith in wisdom.
5. Định-tâm TRỤ
( The mind that resides in Samadhi )
Kinh văn:
執Chấp 持trì 智trí 明minh 。 周chu 遍biến 寂tịch 湛trạm 。 寂tịch 妙diệu 常thường 凝ngưng 。 名danh 定Định 心Tâm 住Trụ 。
( Nắm giữ trí sáng suốt, TRONG LẶNG cùng khắp, tính tịch diệu thường YÊN-LẶNG, gọi là ĐỊNH TÂM trụ. )
Giảng giải:
Nắm giữ trí sáng suốt, TRONG LẶNG cùng khắp. Có nghĩa, quý vị phải giữ lấy ánh sáng TRÍ HUỆ bằng cách tu NHĨ CĂN VIÊN THÔNG..., không để cho gián đoạn, như vậy ánh sáng ấy sẽ trong lặng chiếu soi khắp pháp giới, tính tịch diệu thường YÊN-LẶNG, gọi là ĐỊNH TÂM trụ.
“Tính tịch diệu thường YÊN-LẶNG” là sự lặng lẽ mà thường chiếu soi tỏ sáng.
“Lặng lẽ” thì dừng được vòng Trí huệ phân biệt. Trước đây thì còn phân biệt , nay thì lắng sâu TỊCH DIỆU.
YÊN-LẶNG CHIẾU SÁNG còn tượng trưng cho ĐỊNH LỰC. Đến giai đoạn này thì người tu không còn bị giao động.
Người có ĐỊNH-LỰC, thì khi đã chọn pháp môn HỢP VỚI CĂN TÁNH của mình rồi, thì phải phấn đấu liên tục để thành tựu pháp đó, họ sẽ không dễ dàng ngã theo bên này hay bên nọ.
Ngọn gió phương Đông không làm cho họ ngã về phương Tây. Điều đó có nghĩa họ không bị GIAO ĐỘNG trước TÁM NGỌN GIÓ.
Nói về tám ngọn gió, tôi sẽ thuật chuyện của TÔ ĐÔNG PHA, một học giả, cũng là một thi sĩ nổi tiếng đời nhà Tống, Trung Quốc. Ông còn được mọi người biết đến là cư sĩ Đông Pha, rất thân với THIỀN SƯ PHẬT ẤN.
Trước Ông sống ở phía Nam sông Dương Tử, sau chuyển qua phía Bắc của sông.
Nhà thơ Tô Đông Pha tu theo THIỀN TÔNG. Một ngày nọ ông ngồi thiền, đột nhiên cảm tác , bèn viết mấy câu thơ:
Khể thủ thiên trung thiên
Hào quang chiếu đại thiên
Bát phong xuy bất động
Đoan tọa tử kim liên.
Khể thủ : NHẤT TÂM ĐẢNH LỄ
Thiên trung thiên : ĐỨC PHẬT THÍCH-CA MÂU-NI
Hào quang chiếu đại thiên : ÁNH HÀO QUANG CỦA NGÀI CHIẾU KHẮP ĐẠI THIÊN, GỒM 1 TỶ THẾ GIỚI.
Bát phong : TÁM NGỌN GIÓ
1. Dự : KHEN
2. Hủy : CHÊ
3. Khổ : KHỔ
4. Lạc : VUI
5. Lợi : LỢI
6. Suy: HẠI
7. Đắc : ĐƯỢC
8. Thất : MẤT
“DỰ” là được người KHEN ngợi, chẳng hạn: Ông là người học giỏi. Hoặc: Bạn có nhân cách và người đạo đức rất tốt. Nhưng quý vị sẽ không xem những lời khen ấy là hay, là tốt đẹp, bởi vì nếu động TÂM vì lời khen ấy, chứng tỏ quý vị chưa có ĐỊNH LỰC.
“HỦY”, có nghĩa là CHÊ bai, những lời nói làm tổn thương người khác. Thường, con người thích khen hơn là chê. Đây là ngọn gió khiến người ta khó giữ được TÂM bình tĩnh và thường tự hỏi – “Tại sao HỌ lại ĐỐI XỬ VỚI tôi như thế ?”
“KHỔ”, cũng là một ngọn gió bao hàm nhiều phương diện đau khổ về THÂN hoặc TÂM, và “LẠC” cũng vậy. Quý vị cảm thấy tốt đẹp, nhưng đừng cho đó là quan trọng, vì khi tâm quý vị thấy thích thú, tức đã bị gió làm lay động rồi và khổ cũng vậy.
“LỢI”, chỉ một điều gì đó giúp ích quý vị được mau thành tựu.
“SUY” có nghĩa tổn hại, là những tệ hại đối với quí vị.
“ĐẮC” là được điều gì đó, “THẤT” là mất mát. Khi được, chúng ta thấy vui; còn khi mất thì đâm ra buồn bã, bực bội. Chẳng hạn chúng ta mua một máy RADIO, một MÁY ẢNH hoặc một cái KÍNH THIÊN VĂN, mua đó có nghĩa là được. Nhưng chúng ta sơ ý để mất đi, khi ấy chúng ta cảm thấy rất đau khổ vì sự mất mát đó. Đây chính là TÁM NGỌN GIÓ làm con người luôn bị lay động.
Nhưng Tô Đông Pha cho rằng cả tám gió cũng CHẲNG LÀM ÔNG GIAO ĐỘNG (xuy bất động) vì ông ta đang ngồi trên tòa sen vàng, (Đoan tọa tử kim liên), và ông đã gửi bài thơ đến THIỀN SƯ PHẬT ẤN để được sự ẤN CHỨNG cho.
THIỀN SƯ PHẬT ẤN ghi vào bài thơ ấy mấy chữ, có đầy đủ các ý nghĩa. Nhưng nhà thơ chỉ xem lướt qua, không lãnh hội được Ý NGHĨA của THIỀN SƯ! Cho nên, liền nổi cơn THỊNH NỘ.
Mấy chữ đó là gì? – Giống như “HƠI HÔI TỪ HẬU MÔN”.
Tô Đông Pha ném bài thơ vào bếp than, liền tức tốc qua bên kia sông, đến tìm THIỀN SƯ PHẬT ẤN.
“Ông là loại người gì hả? Ông TĂNG SẤU XA? Có gì hay khi ông SỈ NHỤC người ta chứ?”. THIỀN SƯ PHẬT ẤN điềm tĩnh bảo: “ÔNG lại vì LỜI NÓI của tôi mà bị GIÓ THỔI từ bên kia sông qua đến bên đây, phải không?”.
Tô Đông Pha nghĩ lại, ÔNG thấy thiền sư nói đúng, nên chỉ còn cách cúi đầu quay về.
Sutra:
As the wisdom and brightness are held steadfast, a profound stillness pervades. The stage at which the majesty of this stillness becomes constant and solid is called the Mind that Resides in Samadhi.
Commentary:
As the wisdom and brightness are held steadfast, a profound stillness pervades. This means that you must hold onto the light of wisdom and not let it go slack. Then there is a profound stillness that extends throughout the dharma-realm. The stage at which the majesty of this stillness becomes constant and solid is called the Mind that Resides in Samadhi. The "profound stillness" represents what is "tranquil and eternally illumining," and the "majesty of this stillness" represents what is "illumining and eternally tranquil." "Solid" here refers to the solidifying of the water of wisdom. It had been shallower before; now it deepens. "Solid" represents samadhi-power.
At this point, one will not be moved. One would not say, "That looks good," and run in that direction, and then say, "But that looks even better," and run to the next thing. One would not be always pursuing something better. If one had samadhi-power, one would not run about hither and thither. A wind out of the east would not bend one westward; nor would a west wind blow one eastward. That just means that one would not be moved by the eight winds.
In order to tell about the eight winds, we must talk about the famous Song dynasty scholar and poet Su Dong Po. He was known as layman Dong Po and he carried on a dialogue with Dhyana Master Fo Yin. The former lived on the south bank of the Long River (Yang Tze) at Chen Chiang, and the latter on the north bank of the river.
The poet Su Dong Po meditated and cultivated, and one day in meditation he saw a state that moved him to write a verse. The verse went:
I bow my head to the God among gods.
And a ray of light illumines the great thousand worlds.
The eight winds cannot move me,
As I sit aloft a purple golden lotus.
The "God among gods" refers to the Buddha.
The poet claimed that when he bowed to the Buddha, he emitted a light that went throughout the universe. The eight winds are:
1. praise,
2. ridicule,
3. suffering,
4. bliss,
5. benefit,
6. destruction,
7. gain,
8. loss.
"Praise" is someone's saying things like, "You are an excellent student. You really apply yourself. You have a fine personality and a good moral character." But you shouldn't look upon praise as something good, because if you are moved by it, you just prove that you don't have any samadhi-power. The eight winds are difficult for cultivators to bear.
"Ridicule" means to chide or tease or use sarcasm. It's to use words in such a way as to break a person down. It may sound like praise but it's thick with sarcasm. This wind can cause one to lose one's temper. "How can you treat me like that!" is a typical reaction.
"Suffering" in all its manifold aspects is also one of the winds, as is "bliss." You may feel good, but you should not think that it's a great thing, because as soon as your mind moves to acknowledge the pleasure, a wind has moved you.
"Benefit" refers to something that will help you out. "Destruction" means something unbeneficial which is bad for you. "Gain" refers to getting something, "loss" to losing it. Getting something makes you happy; losing something upsets you. For instance, a person buys the latest model of a very fancy radio. He's so taken with it that he even dreams about it at night. Or maybe it's a camera or a telescope.
In general, just imagine the thing that you are most fond of: buying it is what is meant by "gain." But once you have it, of course, other people find it attractive, too, and who would have guessed that someone would wait until you are a bit careless and steal it from you? At that point, your ignorance arises and you are afflicted by your loss. That's to be moved by the eight winds. But Su Dong Po said that the eight winds did not move him as he sat aloft a purple golden lotus. He had his servant take the poem to Chan Master Fo Yin for his critique.
Chan Master Fo Yin scribbled two words across the poem. The two words were very meaningful, but Su Dong Po couldn't handle them. He exploded in a rage as soon as he glanced at them. What were the words? "Fart, fart."
Su Dong Po grabbed the poem, threw on his coat, and stormed across the river to confront Chan Master Fo Yin.
"What kind of bad-mouthed monk are you?" he demanded of the Chan master. "What right do you have to scold people like that?"
"But you said the eight winds would not move you," Chan Master Fo Yin replied calmly. "How is it that my two little farts have blown you all the way across the river?"
Thinking it over, Su Dong Po saw how right the Chan Master was, and so he hung his head and went back home.
6. Bất-thoái-tâm
(The Mind of Irreversibility)
Kinh văn:
定Định 光quang 發phát 明minh 。 明minh 性tánh 深thâm 入nhập 。 唯duy 進tiến 無vô 退thoái 。 名danh 不Bất 退Thoái 心Tâm 。
( Định quang phát sáng, tánh sáng tiến sâu vào, chỉ có tiến chứ không thoái lui, đây gọi là BẤT THỐI tâm. )
Giảng giải:
Khi TÂM trụ trong định, Định quang phát sáng, tánh sáng tiến sâu vào. Bậc thiện tri thức đang tu tập này, họ chỉ có tiến chứ không thoái lui. Khi đã hiểu rõ, họ chỉ tiến TU chứ không còn THOÁI LUI nữa. Lý do họ không thể thoái lui là vì họ đã thực sự hiểu biết tường tận, nên họ có trí huệ CHÂN THẬT, đây gọi là BẤT THỐI tâm. TÍN TÂM NẦY không bao giờ bị thoái lui trở lại.
Sutra:
The light of samadhi emits brightness. When the essence of the brightness enters deeply within, they only advance and never retreat. This is called the Mind of Irreversibility.
Commentary:
Once the mind resides in samadhi, the light of samadhi emits brightness. When the essence of the brightness enters deeply within these good people who are cultivating, they only advance and never retreat. Since they understand, their only intent is to progress, and they never turn around and go back. The reason they are irreversible is that they truly and genuinely understand. They have real wisdom. This is called the Mind of Irreversibility, the mind of faith that never retreats.
7. Hộ-pháp-tâm
( The Mind that Protects the Dharma )
Kinh văn:
心Tâm 進tiến 安an 然nhiên 。 保bảo 持trì 不bất 失thất 。 十thập 方phương 如Như 來Lai 。 氣KHÍ 分PHẦN 交giao 接tiếp 。 名danh 護Hộ 法Pháp 心Tâm 。
(Tâm AN-NHIÊN tiến tới, giữ gìn không mất, họ giao tiếp với PHÁP-THÂN của mười phương Như Lai, đây gọi là HỘ-PHÁP tâm. )
Giảng giải:
Tâm AN-NHIÊN tiến tới, là họ luôn tiến về phía trước, càng kiên định tiến tới, thì càng được an nhiên tự tại, lại giữ gìn không mất, đây là TÂM bất thối của họ. Những người tu ấy giao tiếp với PHÁP-THÂN của mười phương Như Lai.
Khi một người tu hành đến độ không còn THỐI LUI thì năng lực của họ sẽ giao tiếp với PHÁP-THÂN của chư Phật, đây gọi là HỘ-PHÁP tâm.
Điều ấy có nghĩa chư Phật BẢO HỘ quý vị, và quý vị HỘ TRÌ Phật pháp. Với sự bảo hộ của chư Phật, chúng ta có thể TRẢ HẾT nghiệp của mình TRÊN ĐƯỜNG tu; sự hộ trì của chúng ta, Phật pháp sẽ phát triển, lan rộng và đây là tín tâm HỘ PHÁP vậy.
Sutra:
When the progress of their minds is secure, and they hold their minds and protect them without loss, they connect with the life-breath of the Thus Come Ones of the ten directions. This is called the Mind that Protects the Dharma.
Commentary:
When the progress of their minds is secure, they go ever forward; they never fly off the handle. They are firm and at peace, and they hold their minds and protect them without loss, so that their minds never retreat. Then they connect with the life-breath of the Thus Come Ones of the ten directions. When one reaches the point of irreversibility, the energy-force of the Buddhas unites with one's own. This is called the Mind that Protects the Dharma. This means that the Buddhas protect you, and you protect the Buddhadharma. With the Buddha's protection, you can accomplish your karma in the Way. With your protection, the Buddhadharma can spread and grow. So this is the mind of faith that protects the dharma.
8. Hồi-hướng-tâm
( the Mind of Transference)
Kinh văn:
覺Giác 明minh 保bảo 持trì 。 能năng 以dĩ 妙diệu 力lực 。 迴hồi 佛Phật 慈từ 光quang 。 向hướng 佛Phật 安an 住trụ 。 猶do 如như 雙song 鏡kính 。 光quang 明minh 相tương 對đối 。 其kỳ 中trung 妙diệu 影ảnh 。 重trùng 重trùng 相tương 入nhập 。 名danh 迴Hồi 向Hướng 心Tâm 。
( Giữ gìn tánh giác minh, họ có thể dùng diệu lực xoay chuyển trở về từ quang của Phật và hướng tới Phật mà an trụ, giống như hai tấm kính được đặt đối diện nhau, trong đó các hình ảnh phản chiếu lẫn nhau, lớp lớp vi diệu chồng lên nhau, đây gọi là HỒI HƯỚNG tâm.)
Giảng giải:
Giữ gìn tánh giác minh, có thể dùng diệu lực, giao tiếp với PHÁP-THÂN của đức Phật là một loại giác ngộ. Khi gìn giữ, sự giác ngộ này có đầy đủ trí huệ và khả năng nhận thức, KHÔNG MẤT ĐI được. Như vậy, họ sẽ xoay chuyển trở về từ quang của Phật và hướng tới Phật mà an trụ
Với diệu lực ấy, quý vị có thể giao tiếp với từ quang của Phật. PHÁP-THÂN HUỆ-MẠNG của quý vị sẽ tương tác qua lại với PHÁP-THÂN HUỆ-MẠNG của đức Phật, giống như hai tấm kính được đặt đối diện nhau, trong đó các hình ảnh phản chiếu lẫn nhau, lớp lớp vi diệu chồng lên nhau, đây gọi là HỒI HƯỚNG tâm. Tức là TÂM hướng tới PHÁP-THÂN HUỆ-MẠNG của đức Phật.
Sutra:
Protecting their light of enlightenment, they can use this wonderful force to return to the Buddha's light of compassion and to come back to stand firm with the Buddha. It is like two mirrors that are set facing one another, so that between them the exquisite images interreflect and enter into one another layer upon layer. This is called the Mind of Transference.
Commentary:
Protecting their light of enlightenment, they can use this wonderful force. To join with the life-breath of the Buddha is a kind of enlightenment. When protected, this enlightenment is replete with wisdom and intelligence which is without loss. These people can return to the Buddha's light of compassion and to come back to stand firm with the Buddha. With this subtle wonderful power, you can unite with the Buddha's bright compassion. Your life-breath and light interact with the Buddha's life-breath and light, like two mirrors that are set facing one another, so that between them the exquisite images interreflect and enter into one another layer upon layer. When two mirrors are placed opposite one another, their images interreflect repeatedly. They display infinite layers of intereflection. This is called the Mind of Transference, the mind of faith that dwells in transference of merit.
9. Giới-tâm TRỤ
(The mind that resides in precepts )
Kinh văn:
心 光 密 回。獲 佛 常 凝 無 上 妙 淨。安住無為。得無遺失。名戒心住。
Tâm quang mật hồi, hoạch Phật thường ngưng vô-thượng diệu-tịnh, an - trụ vô - vi, đắc vô vi thất, danh Giới-Tâm Trụ.
( Tự tâm thầm xoay Phật quang trở lại, được vô thượng diệu tịnh thường trụ của Phật, an trụ nơi vô vi, được không sót mất, đây gọi là GIỚI TÂM trụ. )
Giảng giải:
Tự tâm thầm xoay Phật quang trở lại, được vô thượng diệu tịnh thường trụ của Phật.
Đến giai đoạn này sẽ có sự tương giao thầm lặng giữa ánh sáng TÂM của quý vị và ánh sáng TÂM của đức Phật, đây là sự “Bí-mật tương giao ánh sáng”.
Ánh sáng từ tâm của quý vị chiếu đến tâm của đức Phật, và ánh sáng từ tâm của đức Phật chiếu đến tâm của quý vị. Đấy là sự xoay vòng ánh sáng, và người tu ấy thường nhận được ánh sáng từ tâm đức Phật.
An trụ nơi vô vi, được không sót mất.
Khi đạt được pháp vô vi, thì họ sẽ không có sự mất mát nào có thể xảy ra (VÔ-LẬU), đây gọi là GIỚI TÂM trụ.
HỮU-LẬU là còn phiền não, sinh tử, luân hồi.
VÔ-LẬU là KHÔNG còn phiền não, sinh tử, luân hồi.
LẬU-TẬN THÔNG là một trong sáu phép thần thông của hàng A-La-Hán. Phép thần thông này thấy rõ mình đã vĩnh viễn thoát khỏi sinh tử, luân hồi, dứt hết mọi phiền não mê lầm. Chỉ cho người NGHIÊM TRÌ GIỚI LUẬT mới được mà thôi, đây gọi là GIỚI-TÂM TRỤ.
Sutra:
With this secret interplay of light, they obtain the Buddha's eternal solidity and unsurpassed wonderful purity. Dwelling in the unconditioned, they know no loss or dissipation. This is called the Mind that Resides in Precepts.
Commentary:
With this secret interplay of light, they obtain the Buddha's eternal solidity and unsurpassed wonderful purity. At this point, there is a hidden connection between the light of your mind and the light of the Buddha's mind; that is what is meant by the "secret interplay of light." The light of your heart reaches to the Buddha's light, and the Buddha's light reaches to your heart. After the light of the Buddha has entered your heart, it returns to the Buddha. After the light of your mind has entered the Buddha's mind, it returns to your own mind.
This interplay of light goes full circle. One thus obtains a constant illumination from the Buddha. In fact, one simply becomes one with the Buddha. This purity is incomparable. Nothing surpasses it. Dwelling in the unconditioned, they know no loss or dissipation. One has obtained the unconditioned dharmas, and no loss can occur. This is called the Mind that Resides in Precepts.
Comments
Post a Comment