KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
QUYỂN BẢY
I. PHẬT KHAI-THỊ VỀ MẬT-GIÁO, THẦM-GIÚP CHO NHỮNG NGƯỜI TU-HÀNH
II. THIẾT LẬP ĐẠO TRÀNG
III.
TÂM-CHÚ PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM
IV. HAI CÁI NHÂN ĐIÊN ĐẢO
V. MƯỜI HAI CHỦNG
LOẠI CHÚNG SINH
I
THẦM-GIÚP
CHO NHỮNG NGƯỜI TU-HÀNH
( Nếu có
tập khí các đời trước không thể diệt trừ, ông dạy người đó nên nhất tâm tụng
thần chú của ta: “Phật
Đảnh Quang Minh Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát Ra Vô Thượng Thần Chú”)
Kinh văn:
阿A 難Nan 。 汝nhữ 問vấn 攝nhiếp 心tâm 。 我ngã 今kim 先tiên 說thuyết 。 入nhập 三tam 摩ma 地địa 。 修tu 學học 妙diệu 門môn 。 求cầu 菩Bồ 薩Tát 道Đạo 。 要yếu 先tiên 持trì 此thử 。 四tứ 種chủng 律luật 儀nghi 。 皎hiệu 如như 冰băng 霜sương 。自tự 不bất 能năng 生sanh 。 一nhất 切thiết 枝chi 葉diệp 。 心tâm 三tam 口khẩu 四tứ 。 生sanh 必tất 無vô 因nhân 。
( A Nan, ông hỏi cách nhiếp trì tâm, nay trước tiên tôi sẽ nói: Muốn vào Tam ma địa tu học pháp môn vi diệu, cầu đạo Bồ tát, trước hết cần giữ bốn loại luật nghi sáng trong như sương, giá, tự không thể sinh ra các nhành lá. Ba ý nghiệp, bốn khẩu nghiệp không còn có nhân để sinh ra được.)
Giảng giải:
A Nan, ông hỏi cách nhiếp trì tâm, nay trước tiên tôi sẽ nói: Muốn vào Tam ma địa tu học pháp môn vi diệu.
Pháp môn vi diệu là theo nhĩ căn để trở lại với tự tính nghe, cái tánh ấy trọn vẹn, đẩy đủ và hơn hẳn.
Cầu đạo Bồ tát, trước hết cần giữ bốn loại luật nghi sáng trong như sương, giá.
Điều đầu tiên cần chuyên tâm tu dưỡng là gìn giữ bốn giới luật, sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ. Giữ giới tà dâm không chỉ ở thân, mà cả tâm cũng không được nghĩ đến. Quý vị phải loại trừ cả hai mới thoát được trần lao đáng chán này. Nếu như không loại trừ đi lòng khát khao ham muốn ắt không dứt được trần cấu. Đối với sự giết hại mạng, trộm cắp, nói dối cũng vậy. Đấy là bốn giới luật rất quan trọng. Quý vị phải trở nên trong sáng như sương, như giá. Phải hoàn toàn sáng trắng, không một chút bợn nhơ trên nền trắng sáng ấy. Được vậy mới thật là tự nhiên trọn vẹn.
Tự không thể sinh ra các nhành lá.
Hoàn toàn thanh thoát, quý vị sẽ đạt đến bản nguyên căn để
Ba ý nghiệp, bốn khẩu nghiệp không còn có nhân để sinh ra được.
Cả ba mối tham sân si đều khởi sinh từ tâm, cùng bốn khẩu nghiệp là vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, những điều đó sẽ không còn điều kiện và nguyên nhân để sinh khởi, bởi vì quý vị đã thật sự giữ gìn bốn giới, và hạnh thanh tịnh sẽ không còn thay đổi.
Sutra:
Ananda, you asked about collecting one's thoughts; I have now begun to explain the wonderful method of cultivation for entrance into samadhi. Those who seek the Bodhisattva Way must first be as pure as glistening frost in keeping these four rules of deportment. If one is able to never give rise to anything superfluous, then the three evils of the mind and the four of the mouth will have no cause to come forth.
Commentary:
Ananda, you asked about collecting one's thoughts; I have now begun to explain the wonderful method of cultivation for entrance into samadhi. The "wonderful method" is the perfect penetration of the organ of the ear, the returning of the hearing to hear the self-nature, so that one's nature accomplishes the Unsurpassed Way. Those who seek the Bodhisattva Way must first be as pure as glistening frost in keeping these four rules of deportment.
The first thing you must do is cultivate these four rules of deportment: not taking life, not stealing, not committing acts of sexual misconduct, and not lying. The prohibition against sexual misconduct refers not only to lust with the body, but to lust within the mind. You must get rid of both in order to transcend the wearisome dust. If you don't get rid of your thoughts of lust, you cannot get out of the dust.
The same goes for killing, stealing, and lying. These four rules of deportment are extremely important. You should become as glistening white as frost. You should be completely white, without the least bit of defilement, with not one black fleck in the white.
If one can be like that, then quite naturally, one is able to never give rise to anything superfluous. Spontaneously, you will attain the source. Then the three evils of the mind and the four of the mouth will have no cause to come forth. The greed, hatred, and stupidity born of the mind will cease to arise. And the four mistakes of the mouth, loose speech, harsh speech, lies, and gossip will not arise. There will be no causes and conditions to allow them to arise, because you hold the precepts and truly cultivate the four clear and unalterable instructions on purity.
Kinh văn:
阿A 難Nan 。 如như 是thị 四tứ 事sự 。 若nhược 不bất 遺di 失thất 。 心tâm 尚thượng 不bất 緣duyên 。 色sắc 香hương 味vị 觸xúc 。 一nhất 切thiết 魔ma 事sự 。 云vân 何hà 發phát 生sanh 。
( A Nan, nếu giữ được bốn sự như vậy không thiếu sót, tâm ông cũng không còn duyên với sắc, hương, vị, xúc thì ma sự làm sao phát sinh ra được.)
Giảng giải:
Nếu ông không còn đuổi theo, ràng buộc với sắc, hương, vị, xúc; không còn vướng vào những điều kiện đó thì mầm mống ma sự sẽ biến mất. Vậy chúng đâu còn sinh khởi.
Sutra:
Kinh văn:
若nhược 有hữu 宿túc 習tập 。 不bất 能năng 滅diệt 除trừ 。 汝nhữ 教giáo 是thị 人nhân 。 一nhất 心tâm 誦tụng 我ngã 。 佛Phật 頂Đảnh 光Quang 明Minh 摩Ma 訶Ha 薩Tát 怛Đát 哆Đa 般Bát 怛Đát 囉Ra 無Vô 上Thượng 神Thần 咒Chú 。
( Nếu có tập khí các đời trước không thể diệt trừ, ông dạy người đó nên nhất tâm tụng thần chú của ta: “Phật Đảnh Quang Minh Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát La”)
Giảng giải:
Như có chúng sinh chưa dứt trừ tập khí trong các đời đã qua, ông dạy họ nhất tâm tụng chú. Điểm quan trọng ở đây là nhất tâm, là tâm chuyên chú duy nhất. Không có sự phân tâm như vừa tụng chú vừa nghi ngờ. Đừng tụng chú mà suy nghĩ: Nam mô cái gì đây? Đấy là tâm phân vân giữa tin và nghi. Căn bản quý vị là một người nhưng rốt cùng lại có hai tâm.
Một tâm có thể cho rằng tụng chú rất hữu dụng, còn tâm kia lại nghĩ: “Tôi đang tụng cái gì mà tôi không biết?”. Phân vân như thế là sợ hãi. Quý vị phải nhất tâm mới được.
Ma ha nghĩa là lớn. Tát-đát-đa bát-đát-la là Tàn lọng trắng lớn (Đại bạch tán cái). Khi quý vị tụng: Tát-đát-đa Bát-đát-la tức là cái lọng trắng lớn, biểu hiện khoảng không nơi quý vị. Nếu có niềm tin sâu xa và cao cả, khi tụng câu chú này, tàn lọng sẽ che rợp đến mấy ngàn dặm, còn như quá ít ỏi, sức che của lọng chỉ riêng có một mình quý vị. Người giữ giới thanh tịnh, cao cả, khi tụng niệm chú này, cả đất nước cũng được che chở, yên ổn, mọi hung hiểm đều hóa nhỏ và biến mất.
Sutra:
If there are people who cannot put an end to their habits from the past, you should teach them to single-mindedly recite my 'light atop the Buddha's summit' unsurpassed spiritual mantra, Mwo He Sa Dan Dwo Bwo Da La.
Commentary:
If there are living beings who cannot get rid of their bad habits from past lives, you should teach them to recite single-mindedly. The important point here is to be single-minded. Don't have a divided mind such that on the one hand you recite the mantra, but on other you doubt its function. You don't want to be reciting and thinking, "Namo, Namo, Namo what?" You recite the mantra on the one hand, and on the other you don't really want to be saying "Namo," at the same time that you are saying it.
That's just a case of being caught between belief and doubt. You are basically one person, but you end up with two minds. One mind thinks that perhaps there is some usefulness to the recitation, while the other mind says, "What am I doing reciting things that I don't even understand?" That kind of division is to be feared. You must recite single-mindedly.
"Mwo He" means "great". "Sa Dan Dwo Bwo Da La" refers to the "great white canopy." When you recite "San Dan Dwo Bwo Da La", a great white canopy manifests in the emptiness where you are. The size of the canopy depends on the amount of your skill. If your skill is great and lofty, then when you recite this phrase of the canopy, there will be no disasters for thousands of miles around. If your skill is small, then the canopy will cover your own head and protect you alone. If one has virtue in the Way, if one is a great and virtuous high Sanghan, then when one recites this line of mantra, the entire country can benefit from it. The entire area will be free from calamities; great disasters will turn into small ones, and small disasters won't even happen.
Now we are having the Shurangama Lecture Dharma assembly, and a lot of people are cultivating the secret dharma of the Buddha, so I believe that all of America is benefiting from it. Americans may not be aware of it, but we are saving their lives. It is all done invisibly, and they never have any idea of who has saved them or even that they have been saved. Nor do we wish them to know.
This is a case of there being no giver and no receiver. The three-wheeled substance of the giver, the gift, and the receiver is empty. When we save people, it is not necessary to get them to thank us. This is where the wonder lies.
Kinh văn:
斯tư 是thị 如Như 來Lai 。 無vô 見kiến 頂đảnh 相tướng 。 無vô 為vi 心tâm 佛Phật 。 從tùng 頂đảnh 發phát 輝huy 。 坐tọa 寶bảo 蓮liên 華hoa 。 所sở 說thuyết 神thần 咒chú 。
( Đó là vô vi tâm phật của vô kiến đỉnh tướng Như Lai, từ đỉnh hiện ra ngồi trên tòa sen nói thần chú.)
Giảng giải:
Chú Lăng Nghiêm là Vô kiến đỉnh tướng Như Lai. Đó là tướng mắt thường của chúng ta không sao thấy được. Như phần sau kinh có mô tả:
Lúc đó, từ nơi nhục kế của Đức Thế Tôn phóng ra trăm thứ hào quang, trong hào quang hiện ra ngàn cánh sen báu. Trong sen báu có hóa thân Như Lai. Từ đỉnh phóng ra mười đạo hào quang bách báu. Trong mỗi mỗi hào quang đều có hiện ra Kim Cang Mật Tích nhiều như số cát mười con sông Hằng, xách núi, cầm chùy khắp cõi hư không.
Đại chúng ngẩng đầu lên nhìn, cảm thấy vừa yêu vừa sợ, cầu Phật che chở, một lòng lắng nghe Đức Phóng Quang Như Lai từ vô kiến đỉnh tướng của Phật nói thần chú.
Tôi biết đây là đoạn văn thuộc tâm, tôi không bao giờ quên. Đó là vô vi tâm Phật từ đỉnh hiện ra ngồi trên hoa sen nói thần chú. Chúng ta có thể đã bắt gặp thần chú có đại thiện căn này trong quá khứ, nhưng cho dù có gặp đi nữa cũng không học. Học rất khó nhớ! Đó là lý do tại sao tôi kiểm tra chú Lăng Nghiêm nơi quý vị.
Sutra:
It is the invisible appearance atop the summit of the Thus Come One. It is the spiritual mantra proclaimed by the Buddha of the unconditioned mind who comes forth from the summit in a blaze of light and sits upon a jeweled lotus flower.
Commentary:
The Shurangama Mantra is the invisible appearance atop the summit of the Thus Come One. It cannot be seen by people's ordinary physical eyes. As the sutra later describes it, "At that time, a hundred brilliant rays sprang from the mound of the flesh on the crown of the World Honored One's head. A thousand-petalled precious lotus arose from amidst those rays. Upon the precious flower sat the Thus Come One's transformation. From the crown of its head, in turn, he emitted ten beams, each composed of a hundred rays of precious light. Every one of those glowing rays shone on lands as many as the sands of ten Ganges Rivers, while throughout empty space there were Vajra Secret Traces spirits, each holding aloft a mountain and wielding a pestle.
"The great assembly, gazing upward, felt fearful admiration and sought the Buddha's kind protection. Singlemindedly they listened as the Thus Come One in the light at the invisible appearance on the crown of the Buddha's head proclaimed the spiritual mantra."
I know this passage by heart. I'll never forget it. It is the Buddha of the unconditioned mind who comes forth from the summit in a blaze of light and sits upon a jeweled lotus flower, and proclaims the spiritual mantra. People who are able to encounter this spiritual mantra have great good roots from the past. Otherwise, even if they encountered it, they could not learn it. They would never be able to memorize it. That's why I'm testing you on the Shurangama Mantra. Two have already passed the test. The rest of you had better get busy.
Kinh văn:
汝nhữ 宿túc 世thế 與dữ 摩Ma 登Đăng 伽Già 。 歷lịch 劫kiếp 因nhân 緣duyên 。 恩ân 愛ái 習tập 氣khí 。 非phi 是thị 一nhất 生sanh 。 及cập 與dữ 一nhất 劫kiếp 。 我ngã 一nhất 宣tuyên 揚dương 。 愛ái 心tâm 永vĩnh 脫thoát 。 成thành 阿A 羅La 漢Hán 。
( Vả lại, ông cùng nàng Ma Đăng Già do nhân duyên đã trải qua nhiều kiếp thành tập khí ân ái, không phải một đời hay là một kiếp, nhưng ngay khi ta tuyên dương thần chú thì nàng Ma Đăng Già liền thoát hẳn lòng yêu, thành quả A-la-hán.)
Giảng giải:
Vả lại, ông cùng nàng Ma Đăng Già do nhân duyên đã trải qua nhiều kiếp.
Trong quá khứ, ông đã lấy nàng ấy năm trăm lần.
Thành tập khí ân ái, không phải một đời hay là một kiếp.
Ông có hai điều sâu nặng là tập khí và lòng yêu mến. Đấy không phải là một lần, không phải là một đời hay là một kiếp, mà nó trải qua một thời gian dài, rất lâu dài.
Nhưng ngay khi ta tuyên dương thần chú thì nàng Ma Đăng Già liền thoát hẳn lòng yêu.
Nàng Ma Đăng Già không còn tình cảm yêu đương, và thành quả A-la-hán.
Sau khi nghe thần chú và trở về với Phật được giáo hóa, nàng Ma Đăng Già được giác ngộ, đạt quả vị thứ ba của A-la-hán. Khi ngài Văn Thù hỏi về sự nhập định thì Ma Đăng Già liền đạt quả vị thứ tư của A-la-hán. Nàng ấy đã thành tựu trọn vẹn bốn quả rất nhanh, trong khi ngài A Nan vẫn chỉ dừng ở quả vị thứ nhất, chưa được tiến đạo.
Sutra:
What is more, your past lives with Matangi's daughter created accumulated kalpas of causes and conditions. Your habits of fondness and emotional love go back not just one life, nor even just one kalpa. Yet, as soon as I proclaimed it, she was freed forever from the love in her heart and accomplished arhatship.
Commentary:
What is more, your past lives with Matangi's daughter created accumulated kalpas of causes and conditions. Your affinities go way back. You were married to each other five hundred times. Your habits of fondness and emotional love go back not just one life, nor even just one kalpa. You two have very deep habits of mutual regard and fondness for each other. It does not pertain to just one time, nor to one life, nor even to just one kalpa. It's been going on for a long, long time.
Yet, as soon as I proclaimed it, she was freed forever from the love in her heart. Matangi's daughter renounced her emotional love, and she accomplished arhatship. After she heard the mantra and returned to receive the Buddha's instruction, she became enlightened and was certified to the third fruition of arhatship. When Manjushri spoke about perfect penetration, she was certified to the fourth fruition of arhatship. Her accomplishment of the fourth fruition was very quick. Ananda is still at the first fruition at this point. He hasn't made any progress.
Kinh văn:
彼bỉ 尚thượng 淫dâm 女nữ 。 無vô 心tâm 修tu 行hành 。 神thần 力lực 冥minh 資tư 。 速tốc 證chứng 無Vô 學Học 。 云vân 何hà 汝nhữ 等đẳng 。 在tại 會hội 聲Thanh 聞Văn 。 求cầu 最Tối 上Thượng 乘Thừa 。 決quyết 定định 成thành 佛Phật 。 譬thí 如như 以dĩ 塵trần 。 揚dương 於ư 順thuận 風phong 。 有hữu 何hà 艱gian 險hiểm 。
( Nàng dâm nữ kia là người không có tâm tu hành, do sức thần chú giúp cũng mau chóng chứng quả vô học, vậy thì các ông là hàng Thanh văn trong Hội này, cầu Tối thượng thừa, quyết định thành Phật; ví như bụi bay gặp sức gió thuận, nào có khó khăn gì?)
Giảng giải:
Nàng dâm nữ kia là người không có tâm tu hành, do sức thần chú giúp cũng mau chóng chứng quả vô học.
Ma Đăng Già là một dâm nữ, tự thân nàng ta hoàn toàn không theo đạo, nhưng sức thần chú đã bí mật giúp nàng ấy đạt được quả A-la-hán rất mau chóng.
Vậy thì các ông là hàng Thanh văn trong Hội này, cầu Tối thượng thừa, quyết định thành Phật.
Các ông là Thanh Văn trong pháp hội này, tức đang nghe Phật giảng dạy chắc chắn sẽ thành Phật.
Ví như bụi bay gặp sức gió thuận, nào có khó khăn gì?
Khi cơn gió dấy bụi, bụi sẽ bay đi. Vậy có gì là khó khăn, nguy hiểm đâu chứ?
Sutra:
That prostitute, who had no intention of cultivating, was imperceptibly aided by that spiritual power and was swiftly certified to the position beyond learning; then what about you sound-hearers in the assembly, who seek the most supreme vehicle and are resolved to accomplish Buddhahood? For you it should be as easy as tossing dust into a favorable wind. What, then, is the problem?
Commentary:
That prostitute, who had no intention of cultivating, was imperceptibly aided by that spiritual power and was swiftly certified to the position beyond learning. Matangi's daughter was a prostitute. She basically wasn't interested in cultivating the Way. Nonetheless, the power of the spiritual mantra aided her in a secret way, and she attained the fourth fruition of arhatship very quickly.
Then what about you Sound-Hearers in the assembly, who seek the most supreme vehicle and are resolved to accomplish Buddhahood? You Sound-Hearers in this dharma assembly are in search of the Buddha-vehicle and will certainly become Buddhas. For you it should be as easy as tossing dust into a favorable wind. What, then, is the problem? Once a good wind takes the dust, the dust will blow away. What's the difficulty? What's the danger? There isn't any.
Kinh văn:
若nhược 有hữu 末mạt 世thế 。 欲dục 坐tọa 道Đạo 場Tràng 。 先tiên 持trì 比Tỷ 丘Khưu 。 清thanh 淨tịnh 禁cấm 戒giới 。 要yếu 當đương 選tuyển 擇trạch 。 戒giới 清thanh 淨tịnh 者giả 。 第đệ 一nhất 沙Sa 門Môn 。 以dĩ 為vi 其kỳ 師sư 。 若nhược 其kỳ 不bất 遇ngộ 。 真chân 清thanh 淨tịnh 僧Tăng 。 汝nhữ 戒giới 律luật 儀nghi 。 必tất 不bất 成thành 就tựu 。
( Trong đời mạt pháp, nếu có người muốn ngồi trong đạo tràng tu tập, trước tiên phải giữ giới cấm Tỳ kheo thanh tịnh, và cần phải lựa chọn những vị Cao Tăng giữ giới thanh tịnh bậc nhất để làm thầy mình. Còn như gặp Tăng chúng không thanh tịnh thì giới luật nghi sẽ không được thành tựu.)
Giảng giải:
Trong đời mạt pháp, nếu có người muốn ngồi trong đạo tràng tu tập, trước tiên phải giữ giới cấm Tỳ kheo thanh tịnh.
Việc đầu tiên của người thời mạt thế muốn ngồi vào Bồ đề đạo tràng, hoặc chùa, tháp, hoặc đạo tràng, người ấy phải thọ giới Tỳ kheo và giữ giới thanh tịnh ấy. Bất cứ người nào muốn xuất gia làm Tỳ kheo đều phải thọ giới và giữ gìn luật nghi, cho dù là một lỗi nhỏ cũng dứt khoát không phạm phải.
Và cần phải lựa chọn những vị Cao Tăng giữ giới thanh tịnh bậc nhất để làm thầy mình.
Tìm cho được một Tăng nhân có giới đức cao cả để làm thầy mình.
Còn như gặp Tăng chúng không thanh tịnh thì giới luật nghi sẽ không được thành tựu.
Nếu không có được một thành viên của Tăng già để truyền giới, tức giới hạnh của quý vị không được đầy đủ và chính xác, sự tu học vì vậy cũng không có kết quả.
Sutra:
Those in the final age who wish to sit in a Bodhimanda must first hold the pure precepts of a bhikshu. To do so, they must find as their teacher a foremost shramana who is pure in the precepts. If they do not encounter a member of the Sangha who is truly pure, then it is absolutely certain that their deportment in precepts and rules cannot be accomplished.
Commentary:
Those in the final age who wish to sit in a Bodhimanda must first hold the pure precepts of a bhikshu. The first thing that people in the Dharma-ending Age have to do if they wish to set up Bodhimandas, perhaps temples or stupas or Way-places of other sorts, is receive the bhikshu precepts and then uphold them purely. Anyone who wants to leave the home-life must take the precepts in order to do so. Once one has received the precepts, one is a bhikshu. Then one must strictly uphold the precepts and rules. There must not be the slightest violation.
To do so, they must find as their teacher a foremost shramana who is pure in the precepts. They look for a nationally respected shramana, a high Sanghan. They take him as their teacher. If they do not encounter a member of the Sangha who is truly pure, then it is absolutely certain that their deportment in precepts and rules cannot be accomplished. If you don't find a member of the Sangha who holds the precepts purely, then your own deportment with regard to the precepts and rules cannot be brought to fulfillment. You won't be successful in it.
Kinh văn:
戒giới 成thành 已dĩ 後hậu 。 著trước 新tân 淨tịnh 衣y 。 然nhiên 香hương 閒nhàn 居cư 。 誦tụng 此thử 心tâm 佛Phật 。 所sở 說thuyết 神thần 咒chú 。 一nhất 百bách 八bát 遍biến 。 然nhiên 後hậu 結kết 界giới 。 建kiến 立lập 道Đạo 場Tràng 。
( Sau khi giới được thành tựu, người đó đắp y mới, sạch sẽ, đốt hương và ở riêng một mình, tụng thần chú do tâm Phật nói, một trăm lẻ tám biến. Sau đó mới kiết giới, dựng lập đạo tràng.)
Giảng giải:
Sau khi thọ các giới được thành tựu, người đó đắp y mới, sạch sẽ.
Y mới, sạch sẽ không phải là y đã mặc qua, hoặc cũ kỹ. Họ phải đốt hương và ở riêng một mình.
Ông phải đốt hương trước Phật và tụng thần chú do tâm Phật nói, một trăm lẻ tám biến.
Tâm Phật ấy phát xuất từ Vô kiến đỉnh tướng. Thần chú thuộc tâm chú, được nói từ tâm Phật. Và đoạn chú Lăng Nghiêm này phải được tụng một trăm lẻ tám lần.
Sau đó mới kiết giới, dựng lập đạo tràng.
Ở đây, kiết giới phải mở rộng ra khắp bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc, ngăn ngừa bọn Thiên ma đến nhiễu hại, đoạn mới thành lập đạo tràng.
Sutra:
After accomplishing the precepts, they should put on fresh, clean clothes, light incense in a place where they are alone, and recite the spiritual mantra spoken by the Buddha of the Mind one hundred and eight times. After that, they should secure the boundaries and establish the Bodhimanda.
Commentary:
After successfully accomplishing the precepts, they should put on fresh, clean clothes. New clothes are best, or clean ones that have not been worn. They should light incense in a place where they are alone. You should light incense before the Buddhas and not do anything else but recite the spiritual mantra spoken by the Buddha of the Mind one hundred and eight times. "The Buddha of the Mind" refers to the transformation Buddha atop the invisible summit. This is the mantra spoken by the Buddha of the Mind. The "spiritual mantra" refers to the heart of the mantra.
Recite this section of the Shurangama Mantra one hundred and eight times. After that, they should secure the boundaries and establish the Bodhimanda. One secures the boundaries to the east as far as they extend, to the west as far as they extend, to the south as far as they extend, and to the north as far as they extend. Once the boundaries are secured, the heavenly demons and adherents of external ways are not permitted to enter the enclosed area. Thus, the Bodhimanda and platform will not be plagued by demonic deeds. In this way, the platform, the Bodhimanda, is established.
Kinh văn:
求cầu 於ư 十thập 方phương 。 現hiện 住trụ 國quốc 土độ 。 無vô 上thượng 如Như 來Lai 。 放phóng 大đại 悲bi 光quang 。 來lai 灌quán 其kỳ 頂đảnh 。
( Cầu các Đức Vô thượng Như Lai hiện ở trong các cõi nước khắp mười phương phóng hào quang đại bi đến rọi trên đỉnh đầu mình.)
Giảng giải:
Khi tụng một trăm lẻ tám biến và thành lập đạo tràng thì Cầu các Đức Vô thượng Như Lai hiện ở trong các cõi nước khắp mười phương, đấy là trong phạm vi đất Phật đã lập.
Phóng hào quang đại bi đến rọi trên đỉnh đầu mình.
Mong cầu chư Phật trong các cõi nước khắp mười phương phóng ánh sáng từ bi rọi lên đỉnh đầu để an ủi, hộ trì.
Sutra:
In the countries within them, they should seek for the unsurpassed Thus Come Ones throughout the ten directions to emit a light of great compassion and anoint the crowns of their heads.
Commentary:
As they recite a hundred and eight times and establish the Bodhimanda, in the countries within them, they should seek for the unsurpassed Thus Come Ones throughout the ten directions, that is, in the Buddhalands found within the boundaries, to emit a light of great compassion and anoint the crowns of their heads. They should beseech all the Buddhas in the lands of the ten directions contained within the boundaries they have secured to emit a great, compassionate light to moisten and nourish them on the crowns of their heads.
Kinh văn:
阿A 難Nan 。 如như 是thị 末mạt 世thế 清thanh 淨tịnh 比Tỷ 丘Khưu 。 若nhược 比Tỷ 丘Khưu 尼Ni 。 白bạch 衣y 檀đàn 越việt 。 心tâm 滅diệt 貪tham 淫dâm 。 持trì 佛Phật 淨tịnh 戒giới 。 於ư 道Đạo 場Tràng 中trung 發phát 菩Bồ 薩Tát 願nguyện 。 出xuất 入nhập 澡tảo 浴dục 。 六lục 時thời 行hành 道Đạo 。 如như 是thị 不bất 寐mỵ 。 經kinh 三tam 七thất 日nhật 。 我ngã 自tự 現hiện 身thân 至chí 其kỳ 人nhân 前tiền 。 摩ma 頂đảnh 安an 慰úy 。 令linh 其kỳ 開khai 悟ngộ 。
( A Nan, những hàng thanh tịnh Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, hoặc bạch y đàn việt, như vậy, ở trong đời mạt pháp tâm diệt tham dâm, giữ giới thanh tịnh của Phật ở nơi đạo tràng phát nguyện Bồ tát, khi ra, khi vào, khi tắm rửa, trong sáu thời đều hành đạo như vậy, không ngủ, đến ba tuần, thì ta tự hiện thân đến trước người ấy xoa đảnh đầu an ủi, khiến cho được khai ngộ.)
Giảng giải:
A Nan, những hàng thanh tịnh Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, hoặc bạch y đàn việt, như vậy, ở trong đời mạt pháp.
Khi ấy có các thanh tịnh Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, hoặc đàn việt. Đàn việt là chỉ Thí chủ, tức những người Cư sĩ tại gia phụng sự Tam bảo. Nếu những người như vậy tâm diệt tham dâm, đoạn dứt đi tham dục, giữ giới thanh tịnh của Phật ở nơi đạo tràng phát nguyện Bồ tát.
1. Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.
2. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
3. Pháp môn vộ thượng thệ nguyện học.
4. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Đấy là bốn lời nguyện của Bồ tát.
Những người ấy khi ra, khi vào, khi tắm rửa, trong sáu thời đều hành đạo như vậy, không ngủ, đến ba tuần.
Họ thực hiện hạnh nguyện của Bồ tát trong đạo tràng, đoạn tụng thần chú Lăng Nghiêm. Có khi phải đi ra ngoài, đi tắm gội trước khi trở lại đạo tràng. Suốt sáu thời trong đêm ngày, họ phải hành đạo trong ba tuần lễ, ngồi trong ba giờ, đi lại trong ba giờ. Suốt hai mươi mốt ngày đêm không ngủ nghỉ, thì ta tự hiện thân đến trước người ấy xoa đảnh đầu an ủi, khiến cho được khai ngộ.
Phật Thích ca Mâu ni nói: “Ta sẽ hiện ra trước người ấy, lấy tay xoa lên đỉnh đầu của họ, khiến cho họ đạt được thánh quả”.
Sutra:
Ananda, when any such pure bhikshus, bhikshunis, or white-robed donors in the Dharma-ending Age who can rid their minds of greed and lust hold the Buddha's pure precepts and in a bodhimanda make the vows of a Bodhisattva and can bathe upon entering each time, and day and night for three weeks without sleep continue this practice of the Way, I will appear before these people in a physical form and rub the crowns of their heads to comfort them and enable them to become enlightened.
Commentary:
Ananda, when any such pure bhikshus, bhikshunis, or white-robed donors in the Dharma-ending Age, at that time there may be pure bhikshus or bhikshunis or laypeople. "Donor" is the "danapati" in Sanskrit. The Chinese transliteration divides into a word that means "giving" and the word "to transcend." It refers to those people who protect the Triple Jewel. If such people can rid their minds of greed and lust, that is, get rid of sexual desire, hold the Buddha's pure precepts, and in a bodhimanda make the vows of a Bodhisattva:
1. Living beings are boundless; I vow to save them.
2. Afflictions are endless; I vow to cut them off.
3. Dharma-doors are limitless; I vow to study them completely.
4. The Buddha-Way is unsurpassed; I vow to accomplish it.
These are the four vast vows of a Bodhisattva. If these people can bathe upon entering each time, and day and night for three weeks without sleep continue this practice of the Way. They make the Bodhisattva's vows in the Bodhimanda, and then they recite the spiritual mantra, the Shurangama Mantra. If they go out, they bathe before they return.
Throughout the six periods of the day and night, they practice for three weeks, sitting for three-hour stretches and walking for three-hour stretches. During these twenty-one days and nights, they do not sleep. I will appear before these people in a physical form and rub the crowns of their heads to comfort them and enable them to become enlightened. Shakyamuni Buddha says, "I will appear in person before such people and rub the tops of their heads with my hand. I will enable them to obtain the fruition of sagehood."
II
THIẾT LẬP ĐẠO TRÀNG
( Từ sau ba tuần bảy ngày, ngồi nghiêm chỉnh an cư, trải qua một trăm ngày, người có lợi căn không rời khỏi chỗ ngồi liền được quả Tu-đà-hoàn, mặc dù thân tâm thánh quả chưa thành, nhưng đã quyết định tự biết sẽ thành Phật không sai khác.)
Kinh văn:
阿A 難Nan 白bạch 佛Phật 言ngôn 。 世Thế 尊Tôn 。 我ngã 蒙mông 如Như 來Lai 無vô 上thượng 悲bi 誨hối 。 心tâm 已dĩ 開khai 悟ngộ 。 自tự 知tri 修tu 證chứng 無Vô 學Học 道Đạo 成thành 。 末Mạt 法Pháp 修tu 行hành 建kiến 立lập 道Đạo 場Tràng 。 云vân 何hà 結kết 界giới 。 合hợp 佛Phật 世Thế 尊Tôn 清thanh 淨tịnh 軌quỹ 則tắc 。
( Ông A Nan thưa với Phật: Bạch Thế Tôn, con nhớ lời dạy từ bi vô thượng của Đức Như Lai, tâm đã khai ngộ, tự biết con đường tu chứng thành quả vô học. Nhưng người tu hành trong thời mạt pháp muốn lập đạo tràng phải kết giới thế nào để hợp với qui tắc thanh tịnh của chư Phật Thế Tôn?)
Giảng giải:
Sau khi ông A Nan nghe Phật giảng dạy, ông nghĩ phải hỏi về cách kết giới và lập đạo tràng.
Ông A Nan thưa với Phật: Bạch Thế Tôn, con nhớ lời dạy từ bi vô thượng của Đức Như Lai, tâm đã khai ngộ, tự biết con đường tu chứng thành quả vô học.
Ông A Nan tự biết sẽ trọn nghiệp thành tựu quả vị A-la-hán và hơn thế nữa, nhưng người tu hành trong thời mạt pháp muốn lập đạo tràng phải kết giới thế nào để hợp với qui tắc thanh tịnh của chư Phật Thế Tôn.
Trong tương lai, vào thời mạt pháp sẽ có người muốn lập đạo tràng, vậy họ phải làm thế nào để kết giới? Làm thế nào để hợp với quy tắc thanh tịnh của chư Phật?
Sutra:
Ananda said to the Buddha, "World Honored One, enveloped in the Thus Come One's unsurpassed, compassionate instruction, my mind has already become enlightened, and I know how to cultivate and be certified to the path beyond learning. But for those who cultivate in the final age and want to establish a bodhimanda: how do they secure the boundaries in accord with the rules of purity of the Buddha, the World Honored One?"
Commentary:
After Ananda heard what the Buddha had said, he thought to ask about how to secure the boundaries and establish the bodhimanda. Ananda said to the Buddha, "World Honored One, enveloped in the Thus Come One's unsurpassed, compassionate instruction, my mind has already become enlightened, and I know how to cultivate and be certified to the path beyond learning. I can accomplish the karma in the path of fourth-stage arhatship and beyond. I am capable of this, but for those who cultivate in the final age and want to establish a bodhimanda: how do they secure the boundaries in accord with the rules of purity of the Buddha, the World Honored One? In the future, in the Dharma-ending Age, there will be people who want to set up this kind of bodhimanda. How do they secure the boundaries? How do they accord with your pure rules in doing it, Buddha?"
Kinh văn:
佛Phật 告cáo 阿A 難Nan 。 若nhược 末mạt 世thế 人nhân 願nguyện 立lập 道Đạo 場Tràng 。 先tiên 取thủ 雪Tuyết 山Sơn 大đại 力lực 白bạch 牛ngưu 。 食thực 其kỳ 山sơn 中trung 肥phì 膩nị 香hương 草thảo 。 此thử 牛ngưu 唯duy 飲ẩm 雪Tuyết 山Sơn 清thanh 水thủy 。 其kỳ 糞phẩn 微vi 細tế 。 可khả 取thủ 其kỳ 糞phẩn 和hòa 合hợp 旃chiên 檀đàn 。 以dĩ 泥nê 其kỳ 地địa 。
( Phật bảo ông A Nan: Nếu người trong đời mạt pháp muốn lập đạo tràng, đầu tiên phải lấy phân con đại lực Bạch ngưu ở núi Tuyết Sơn. Con Bạch Ngưu này chỉ ăn cỏ thơm ngon trong núi, uống nước trong trên núi. Do đó phân của nó mịn màng, lấy phân đó hòa với hương chiên đàn để trát nên nền đất.)
Giảng giải:
Phật Thích Ca Mâu Ni nghe A Nan hỏi về cách kết giới và lập đạo tràng, bảo ông A Nan: Nếu người trong đời mạt pháp muốn lập đạo tràng, đầu tiên phải lấy phân con đại lực Bạch ngưu ở núi Tuyết Sơn. Con Bạch Ngưu này chỉ ăn cỏ thơm ngon trong núi, uống nước trong trên núi. Do đó phân của nó mịn màng, lấy phân đó hòa với hương chiên đàn để trát nên nền đất.
Phân của con bò ăn cỏ ấy, đem trộn với hương chiên đàn, sau đó trát lên nền đất.
The Buddha said to Ananda, "If there are people in the Dharma-ending Age who wish to establish a bodhimanda, they should first find a powerful white ox in snowy mountains, one which eats the lush and fertile sweet-smelling grasses of the mountain. Since such an ox also drinks only the pure water of the snowy mountains, its excrement will be very fine. They can take that excrement, mix it with chandana, and plaster the ground with it.
Commentary:
Shakyamuni Buddha, having heard Ananda ask about the method for securing the boundaries in accord with the Buddha's rules, said to Ananda, "If there are people in the Dharma ending Age who wish to establish a bodhimanda, they should first find a powerful white ox in snowy mountains, one which eats the lush and fertile sweet-smelling grasses of the mountain. Since such an ox also drinks only the pure water of the snowy mountains, its excrement will be very fine. They can take that excrement, mix it with chandana, and plaster the ground with it." The grasses eaten by the ox are fragrant and so its excrement can be mixed with powdered chandana incense for smearing on the ground.
Kinh văn:
若nhược 非phi 雪Tuyết 山Sơn 。 其kỳ 牛ngưu 臭xú 穢uế 。 不bất 堪kham 塗đồ 地địa 。 別biệt 於ư 平bình 原nguyên 。 穿xuyên 去khứ 地địa 皮bì 五ngũ 尺xích 已dĩ 下hạ 。 取thủ 其kỳ 黃hoàng 土thổ 。
( Nếu không phải ở Tuyết Sơn thì phân của Bạch ngưu hôi bẩn, không trát đất được. Như vậy phải chọn nơi bình nguyên, đào sâu xuống năm thước lấy lớp đất vàng.)
Giảng giải:
Nếu không phải ở Tuyết Sơn thì phân của Bạch ngưu hôi bẩn.
Nếu Bạch Ngưu không ở tại Tuyết Sơn thì phân của nó hôi bẩn, không thể dùng để trát lên nền đất được.
Như vậy phải chọn nơi bình nguyên, đào sâu xuống năm thước lấy lớp đất vàng.
Trong trường hợp ấy, ông phải chọn nơi đất bằng, đào sâu xuống năm thước lấy đất có sắc vàng trát lên nền.
Sutra:
If it is not in the snowy mountains, the ox's excrement will stink and cannot be used to smear on the ground. In that case, select a level place, dig down five feet or so, and use that yellow earth.
Commentary:
If it is not in the snowy mountains, the ox's excrement will stink. If the ox does not reside in snowy mountains, it will smell bad and be impure and so its excrement cannot be used to smear on the ground. In that case, select a level place, dig down five feet or so, and use that yellow earth. In that case, you should select a flat place, dig down about five feet, and take the yellow earth at that level.
Kinh văn:
和hòa 上thượng 旃chiên 檀đàn 。 沉trầm 水thủy 。 蘇tô 合hợp 。 薰huân 陸lục 。 鬱uất 金kim 。 白bạch 膠giao 。 青thanh 木mộc 。 零linh 陵lăng 。 甘cam 松tùng 。 及cập 雞kê 舌thiệt 香hương 。 以dĩ 此thử 十thập 種chủng 細tế 羅la 為vi 粉phấn 。 合hợp 土thổ 成thành 泥nê 。 以dĩ 塗đồ 場tràng 地địa 。 方phương 圓viên 丈trượng 六lục 。 為vi 八bát 角giác 壇đàn 。
( Lấy mười thứ hương là chiên đàn, trầm thủy, tô hợp, huận lục, uất kim, bạch giao, thanh mộc, linh lăng, cam tùng và kê thiệt, nghiền thành bột, trộn với đất ấy thành bùn, đoạn trát lên nền đất đạo tràng, mỗi bên một trượng sáu, thành cái đàn bát giác.)
Giảng giải:
Lấy mười thứ hương là chiên đàn, trầm thủy, tô hợp, huận lục, uất kim, bạch giao, thanh mộc, linh lăng, cam tùng và kê thiệt.
Phải lấy đất vàng trộn với mười loại hương đó, nghiền thành bột, trộn với đất ấy thành bùn, đoạn trát lên nền đất đạo tràng, mỗi bên một trượng sáu, thành cái đàn bát giác.
Sutra:
Mix it with chandana incense, sinking-in water incense, jasmine incense, continuously permeating incense, burnished gold incense, white paste incense, green wood incense, fragrant mound incense, sweet pine incense, and chicken-tongue incense. Grind these ten ingredients to a fine powder, make a paste, and smear it on the ground of the platform. The area should be sixteen feet wide and octagonal in shape.
Commentary:
Mix it with chandana incense, sinking-in-water incense (agaru), jasmine incense (sumana), continuously permeating incense, burnished gold incense (kunkuma), white paste incense, green wood incense, fragrant mound incense (kunduruka), sweet pine incense, and chicken-tongue incense. You mix the yellow earth with these ten kinds of incense. Grind these ten ingredients to a fine powder, make a paste, and smear it on the ground of the platform. The area should be sixteen feet wide and octagonal in shape.
Kinh văn:
壇đàn 心tâm 置trí 一nhất 金kim 銀ngân 銅đồng 木mộc 所sở 造tạo 蓮liên 華hoa 。 華hoa 中trung 安an 缽bát 。 缽bát 中trung 先tiên 盛thạnh 八bát 月nguyệt 露lộ 水thủy 。 水thủy 中trung 隨tùy 安an 所sở 有hữu 華hoa 葉diệp 。 取thủ 八bát 圓viên 鏡kính 。 各các 安an 其kỳ 方phương 。 圍vi 繞nhiễu 華hoa 缽bát 。 鏡kính 外ngoại 建kiến 立lập 十thập 六lục 蓮liên 華hoa 。 十thập 六lục 香hương 鑪lư 。 間gian 華hoa 鋪phô 設thiết 。 莊trang 嚴nghiêm 香hương 鑪lư 。 純thuần 燒thiêu 沉trầm 水thủy 。 無vô 令linh 見kiến 火hỏa 。
( Nơi giữa đàn, đặt một hoa sen làm bằng vàng, bạc, đồng, gỗ. Ở giữa hoa để một cái bát, trong bát ấy đựng trước nước sương tháng Tám, trong nước ấy cắm các hoa lá. Đoạn lấy tám cái gương tròn, mỗi cái đặt một phía, chung quanh hoa và bát. Bên ngoài những gương ấy đặt mười sáu hoa sen, giữa các hoa sen đặt mười sáu lư hương trang hoàng. Trong lư hương chỉ đốt hương trầm thủy, không để thấy lửa.)
Giảng giải:
Nơi giữa đàn, đặt một hoa sen làm bằng vàng, bạc, đồng, gỗ. Ở giữa hoa để một cái bát, trong bát ấy đựng trước nước sương tháng Tám, trong nước ấy cắm các hoa lá. Đoạn lấy tám cái gương tròn, mỗi cái đặt một phía, chung quanh hoa và bát.
Lấy tám cái gương tròn đặt đúng theo tám phía làm thành hình bát giác.
Bên ngoài những gương ấy đặt mười sáu hoa sen, giữa các hoa sen đặt mười sáu lư hương trang hoàng.
Mười sáu hoa sen và mười sáu lư hương cùng đặt quanh đàn. Những lư hương trang hoàng để mọi người cùng cảm thấy thích thú, dễ chịu.
Trong lư hương chỉ đốt hương trầm thủy, không để thấy lửa.
Chỉ duy nhất đốt loại hương ấy và đừng để thấy lửa, có nghĩa là gương và hoa không thấy được lửa, nói khác đi, hương đặt bên trong lò sao cho ngọn lửa không thể thấy gương hay hoa.
Sutra:
In the center of the platform, place a lotus flower made of gold, silver, copper, or wood. In the middle of the flower set a bowl in which dew that has collected in the eighth lunar month has been poured. Let an abundance of flower petals float on the water. Arrange eight circular mirrors in each direction around the flower and the bowl. Outside the mirrors place sixteen lotus flowers and sixteen censers, so that the incense-burners are adorned and arranged between the flowers. Burn only sinking-in- water incense, and do not let the fire be 'seen.'
Commentary:
In the center of the platform, place a lotus flower made of gold, silver, copper, or wood. In the middle of the flower set a bowl in which dew that has collected in the eighth lunar month has been poured. Let an abundance of flower petals float on the water. Arrange eight circular mirrors in each direction around the flower and the bowl. Prepare eight circular mirrors and set them around the bowl of flowers so that they correspond to the eight directions, since it is an octagonal platform.
Kinh văn:
取Thủ 白bạch 牛ngưu 乳nhũ 。 置trí 十thập 六lục 器khí 。 乳nhũ 為vi 煎tiễn 餅bính 。 並tịnh 諸chư 砂sa 糖đường 。 油du 餅bính。 乳nhũ 糜mi 。 蘇tô 合hợp 。 蜜mật 薑khương 。 純thuần 酥tô 。 純thuần 蜜mật 。 於Ư 蓮liên 華hoa 外ngoại 。 各các 各các 十thập 六lục 繞nhiễu 圍vi 華hoa 外ngoại 。 以dĩ 奉phụng 諸chư 佛Phật 及cập 大đại 菩Bồ 薩Tát 。
( Lấy sữa Bạch ngưu đựng trong mười sáu bình, dùng sữa làm bánh nướng cùng các thứ đường cát, bánh rán, bột sữa, tô hợp, mứt gừng, mật ong, bơ tốt, mật tốt, mỗi thứ đều mười sáu bình đặt bên ngoài và quanh vòng hoa sen để cúng dường chư Phật và các Đại Bồ tát.)
Giảng giải:
Lấy sữa Bạch ngưu đựng trong mười sáu bình, dùng sữa làm bánh nướng.
Sữa trộn với bột làm bánh.
Ngoài ra còn có các thứ đường cát, bánh rán, bột sữa. Loại gạo nấu nhừ với sữa, hương tô hợp, mứt gừng, mật ong, bơ tốt, mật tốt, mỗi thứ đều mười sáu bình đặt bên ngoài và quanh vòng hoa sen.
Đặt bình trước mỗi hoa sen, tổng cộng mười sáu bình như vậy, để cúng dường chư Phật và các Đại Bồ tát.
Sutra:
Commentary:
Place the milk of a white ox in sixteen vessels, along with cakes made with the milk. Some of the milk is mixed with flour and made into cakes. Also placed in the vessels are rock-candy, oil-cakes, porridge, a gruel made with milk and rice, turushka incense, honeyed ginger, clarified butter, and filtered honey. These sixteen are set around the outside of the sixteen flowers. Place one of the vessels in front of each flower, so that each has one, making sixteen in all. These are an offering to the Buddhas and great Bodhisattvas.
Kinh văn:
每Mỗi 以dĩ 食thực 時thời 。 若nhược 在tại 中trung 夜dạ 。 取thủ 蜜mật 半bán 升thăng 。 用dụng 酥tô 三tam 合hợp 。 壇đàn 前tiền 別biệt 安an 一nhất 小tiểu 火hỏa 鑪lư 。 以dĩ 兜đâu 樓lâu 婆bà 香hương 。 煎tiễn 取thủ 香hương 水thủy 。 沐mộc 浴dục 其kỳ 炭thán 。 然nhiên 令linh 猛mãnh 熾sí 。 投đầu 是thị 酥tô 蜜mật 於ư 炎đạm 鑪lư 內nội 。 燒thiêu 令linh 煙yên 盡tận 。 享hưởng 佛Phật 菩Bồ 薩Tát 。
( Trong mỗi thời dùng cơm và vào lúc giữa đêm, lấy nửa thăng mật và ba cáp bơ, nơi trước đàn để riêng một lư lửa nhỏ; lấy hương lâu đâu bà nấu lấy nước thơm để rửa sạch than, đốt than trong lư cho đỏ hồng rồi rót mật bơ vào, đốt cho hết khói đoạn cúng dường chư Phật Bồ tát.)
CÁP = 1/10 lít
Giảng giải:
Trong mỗi thời dung cơm và vào lúc giữa đêm. Thời gian suốt bữa ăn trong ngày và lúc nửa đêm. Lấy nửa thăng mật và ba cáp bơ, nơi trước đàn để riêng một lư lửa nhỏ. Nơi phía trước đàn đặt duy nhất lư lửa. Lấy hương lâu đâu bà nấu lấy nước thơm để rửa sạch than. Than trước khi đem đốt phải được rửa sạch bằng nước có hương thơm. Đốt than trong lư cho đỏ hồng. Lửa đốt trong lư phải mạnh và rất nóng. Rồi rót mật bơ vào, đốt cho hết khói đoạn cúng dường chư Phật Bồ tát. Mọi việc xong hết mới dâng cúng Phật Bồ tát.
Điều ấy giống như trong Mật giáo, người ta thường đốt cả mật và bơ để cúng dường Phật, thậm chí họ còn đốt nhiều vật giá trị như vàng, bạc, châu báu…cúng dường chư Phật.
At every mealtime and at midnight, prepare a half-pint of honey and three tenths of a pint of clarified butter. Set up a small incense burner in front of the platform. Decoct the fragrant liquid from the turushka incense and use it to cleanse the coals. Light them so that a blaze bursts forth, and toss the clarified butter and honey into the flaming censer. Let it burn until the smoke disappears, and present it to the Buddhas and Bodhisattvas.
Commentary:
At every mealtime and at midnight, it should be done during the day at mealtimes and also at midnight, prepare a half-pint of honey and three tenths of a pint of clarified butter. Set up a small incense burner in front of the Platform. This is yet another burner, apart from the ones on the platform. It is placed in front of the platform. Decoct the fragrant liquid from turushka incense and use it to cleanse the coals. All the charcoal used in the burner should first be washed with the fragrant liquid obtained from turushka, a very fragrant incense. Light them so that a blaze bursts forth. Light the burner so that the fire is strong and hot. Toss the clarified butter and honey into the flaming censer. Let it burn until the smoke disappears, and present it to the Buddhas and Bodhisattvas. Take the end-product and offer it to the Buddhas and Bodhisattvas.
There are a lot of things like this in the Secret school. They often burn combinations of honey and butter and offer them to the Buddhas. They burn not only that, but anything else of value, such as gold, jewels, and other valuable materials. They first burn them and then offer them to the Buddhas.
Kinh văn:
令Linh 其kỳ 四tứ 外ngoại 遍biên 懸huyền 旛phan 華hoa 。 於ư 壇đàn 室thất 中trung 。 四tứ 壁bích 敷phu 設thiết 十thập 方phương 如Như 來Lai 及cập 諸chư 菩Bồ 薩Tát 所sở 有hữu 形hình 像tượng 。
( Nơi bốn phía ngoài, treo khắp phướn và hoa, ở trong phòng đàn, an trí hình tượng hiện có của mười phương Như Lai và các vị Bồ tát trên bốn vách.)
Giảng giải:
Nơi bốn phía ngoài, treo khắp phướn và hoa.
Bốn phía ngoài tường là phạm vi vây quanh phòng đàn. Ở trong phòng đàn, an trí hình tượng hiện có của mười phương Như Lai và các vị Bồ tát trên bốn vách.
About the four outside walls one should suspend flags and flowers, and within the room where the platform is located, one should arrange on the four walls images of the Thus Come Ones and Bodhisattvas of the ten directions.
Commentary:
About the four outside walls one should suspend flags and flowers. This refers to the four outer walls of the room in which the platform is located. And within the room where the platform is located, one should arrange on the four walls images of the Thus Come Ones and Bodhisattvas of the ten directions.
Kinh văn:
應Ưng 於ư 當đương 陽dương 。 張trương 盧Lô 舍Xá 那Na 。 釋Thích 迦Ca 。 彌Di 勒Lặc 。 阿A 閦Súc 。 彌Di 陀Đà 。 諸Chư 大đại 變biến 化hóa 觀Quán 音Âm 形hình 像tượng 。 兼kiêm 金Kim 剛Cang 藏Tạng 。 安an 其kỳ 左tả 右hữu 。 帝Đế 釋Thích 。 梵Phạm 王Vương 。 烏Ô 芻Sô 瑟Sắt 摩Ma 。 並tịnh 藍Lam 地Địa 迦Ca 。 諸chư 軍Quân 荼Trà 利Lỵ 。 與dữ 毗Tỳ 俱Câu 胝Chi 。 四Tứ 天Thiên 王Vương 等đẳng 。 頻Tần 那Na 夜Dạ 迦Ca 。 張trương 於ư 門môn 側trắc 。 左tả 右hữu 安an 置trí 。
( Nên ở chính giữa đặt hình tượng Phật Lô Xá Na, Phật Thích Ca, Phật Di Lặc, Phật A Súc, Phật Di Đà, các hình tượng đại biến hóa của Quán Thế Âm, lại thêm hình tượng các vị Kim Cang Tạng Bồ tát ở hai bên. Những tượng của Đế Thích, Phạm Vương, Ô Sô Sắc Ma, Lam Địa Ca, Quân Trà Lợi, Tỳ Câu Chi và Tứ Thiên vương, Tần Na Dạ Ca, treo ở hai bên cửa.)
Giảng giải:
Nên ở chính giữa đặt hình tượng Phật Lô Xá Na, Phật Thích Ca, Phật Di Lặc, Phật A Súc, Phật Di Đà, các hình tượng đại biến hóa của Quán Thế Âm.
Tỳ Lô Xá Na có nghĩa tràn khắp các cõi. Bồ tát Di Lặc là vị Phật tương lai trong thế gian này. Hình tượng ngài là vị Bồ tát béo tròn. Phật A Súc ở phương Đông, ngài còn có danh hiệu Dược Sư Phật.
A Súc có nghĩa là Bất Động. Phương Đông thường biến động, nhưng vị Phật ở đây là Bất động. A Di Đà có nghĩa là ánh sáng vô cùng, thọ mạng vô lượng. Về sự biến hóa của đức Quán Âm, bản kinh này cũng đã nói đến, đoạn diễn tả Ngài có thể hiện thân có một đầu, có ba đầu, năm đầu, bảy đầu, chín đầu, mười một đầu, hoặc một trăm lẻ tám đầu. Hoặc diễn tả Ngài có một tay, ba tay, năm tay, bảy tay, chín tay, hoặc nhiều đến một trăm lẻ tám tay, một nghìn tay, mười nghìn tay, hoặc tám mươi bốn nghìn tay.
Lại thêm hình tượng các vị Kim Cang Tạng Bồ tát ở hai bên.
Đấy là các thần hộ pháp, thường biểu hiện vẻ mặt rất nghiêm khắc, đáng sợ.
Những tượng của Đế Thích, Phạm Vương.
Đế Thích là vua tầng trời thứ ba mươi ba. Ngài là Thượng đế, hoặc còn gọi là Thiên chủ. Phạm vương là Đại Phạm Thiên.
Ô Số Sắc Ma, Lam Địa Ca, Quân Trà Lợi, Tỳ Câu Chi.
Ô Sô Sắc Ma là Hỏa Đầu kim Cang. Lam Địa Ca có mặt xanh và là vị thần Hộ pháp. Quân Trà Lợi có nghĩa là Điều phục, hoặc còn có hiệu khác là Kim Cang Trí. Tỳ Câu Chi cũng là thần Hộ pháp.
Sắp bày hình tượng của Tứ Thiên vương, Tần Na Dạ Ca, treo ở hai bên cửa.
Tần Na Dạ Ca là thần Hộ pháp: Vị này đặc biệt xấu và rất dữ tợn. Người Trung Quốc diễn tả có hai Hộ pháp, một vị là Pin Na, mình người đầu lợn, một vị là Yeh Chia, mình người đầu voi, thân hình rất dài. Người Ấn Độ mô tả thần Tần Na Dạ Ca (Vinayaka) là thần Ganapata, thân hình người, đầu voi. Sự xuất hiện hình dạng kỳ dị, đáng sợ như thế nhằm khiến cho mọi người khiếp sợ mà đối xử nhau cho phải đạo. Nơi cửa của Bồ đề đạo tràng đều có đặt thần hộ vệ.
Sutra:
In the most prominent place, display images of Vairocana Buddha, Shakyamuni Buddha, Maitreya Bodhisattva, Akshobhya Buddha, Amitabha Buddha, and all the magnificent transformations of Guan Yin Bodhisattva. To the left and right, place the Vajra-Treasury Bodhisattvas. Beside them display the lords Shakra and Brahma, Ucchushma, and the Blue Dirgha, as well as Kundalin and Bhrukuti and all four heavenly kings, with Vinayaka to the left and right of the door.
Commentary:
In the most prominent place, display images of Vairocana Buddha, Shakyamuni Buddha, Maitreya Bodhisattva, Akshobhya Buddha, Amitabha Buddha, and all the magnificent transformations of Guan Yin Bodhisattva. Vairocana means "pervading all places." Maitreya Bodhisattva is the next Buddha, the Buddha-to-be. He is the plump Bodhisattva. Akshobhya Buddha is in the east; he is also known as Medicine Master Buddha. Akshobhya means "unmoving." The east is usually associated with movement, but the Buddha of the east is unmoving. Amitabha means "limitless light" and "limitless life."
As to the magnificent transformations of Guan Yin Bodhisattva, we have heard about them already in this sutra, in the passage that said the Bodhisattva may have one head, three heads, five heads, seven heads, nine heads, eleven heads, or one hundred and eight heads. It said he may have one hand, three hands, five hands, seven hands, nine hands, as many as one hundred and eight hands, a thousand hands, ten thousand hands, or eighty-four thousand hands.
To the left and right, place the Vajra Treasury Bodhisattvas, the dharma protectors. They have stern countenances, often terrifying to behold. Beside them display the lords Shakra and Brahma. Shakra is the lord of the Heaven of the Thirty-three. He is known as God Almighty, or the Heavenly Lord. Brahma is lord of the Great Brahma Heaven. Also display Ucchushma and the Blue Dirgha as well as Kundalin and Bhrukuti. Ucchushma is "Firehead Vajra." Blue Dirgha has a blue face and is a dharma protector.
Kundalin means "releasing the knots of resentment"; it is another name for a vajra spirit. Bhrukuti is also a Dharma protector. Display as well images of all four heavenly kings, with Vinayaka to the left and right of the door. Vinayaka is another dharma protector who is particularly ugly and frightening.
The Chinese description is of two beings, Dharma protector Pin Na, who has a human body and a boar's head, and Dharma protector Ye Jia who has a human body and an elephant's head and a long trunk. The Indian depictions show Vinayaka, identified with the god Ganesha (Ganapati), as one being possessing a human body with an elephant head. Vinayaka also appears as two standing beings with human bodies and elephant heads; the transformation into such bizarre appearances is intentional in order to instill fear in people so they will behave themselves. At the door of the bodhimanda, then, these images are placed on both sides for protection.
Kinh văn:
又Hựu 取thủ 八bát 鏡kính 。 覆phú 懸huyền 虛hư 空không 與dữ 壇đàn 場tràng 中trung 所sở 安an 之chi 鏡kính 。 方phương 面diện 相tương 對đối 。 使sử 其kỳ 形hình 影ảnh 重trùng 重trùng 相tương 涉thiệp 。
( Lại lấy tám cái gương treo úp trên không, mặt gương này đối chiếu với tám gương trước đã đặt trong đàn tràng, làm cho hình ảnh phản chiếu với nhau nhiều lớp.)
Giảng giải:
Lại lấy tám cái gương treo úp trên không, mặt gương này đối chiếu với tám gương trước đã đặt trong đàn tràng.
Làm thế nào để treo được gương trong hư không? Quý vị đều lấy làm lạ. Chẳng hạn như ngọn đèn treo trên trần nhà. Nhưng làm sao để treo nó lơ lửng như mặt trời? Ở đây chẳng có gì lạ cả - Đấy là treo các chiếc gương lơ lửng trên không trong phòng. Gương phải đặt sao cho đối diện với các gương khác.
Làm cho hình ảnh phản chiếu với nhau nhiều lớp.
Những hình ảnh sẽ lồng vào nhau trùng trùng đến vô tận.
Sutra:
Then suspend eight mirrors in the space around the platform so that they are exactly opposite the mirrors on the platform. This will allow the reflections in them to interpenetrate ad infinitum.
Commentary:
Then suspend eight mirrors in the space around the platform so that they are exactly opposite the mirrors on the platform. "How can they be hung in space?" you wonder. Just as one hangs a lamp from the ceiling. How could one hang them in space alone like the sun? That's not what's meant here. The meaning is to hang them so that they are suspended in the space in the room. The mirrors are placed facing one another. This will allow the reflections in them to interpenetrate ad infinitum. That means that the image in one is caught in the other, and within that the image of the interpenetration is shown, and so on, layer within layer in never-ending succession.
Kinh văn:
於Ư 初sơ 七thất 中trung 。 至chí 誠thành 頂đảnh 禮lễ 十thập 方phương 如Như 來Lai 。 諸chư 大đại 菩Bồ 薩Tát 。 阿A 羅La 漢Hán 號hiệu 。 恆hằng 於ư 六lục 時thời 誦tụng 咒chú 圍vi 壇đàn 。 至chí 心tâm 行hành 道Đạo 。 一nhất 時thời 常thường 行hành 一nhất 百bách 八bát 遍biến 。
(Trong tuần bảy ngày đầu, chí thành đảnh lễ danh hiệu mười phương Như Lai, các vị đại Bồ tát và A-la-hán. Thường trong sáu thời, tụng chú đi quanh đàn, chí tâm hành đạo, một thời thường tụng một trăm lẻ tám biến.)
Giảng giải:
Trong tuần bảy ngày đầu, chí thành đảnh lễ danh hiệu mười phương Như Lai, các vị đại Bồ tát và A-la-hán. Thường trong sáu thời, tụng chú đi quanh đàn.
Chú ở đây là thần chú kinh Thủ Lăng Nghiêm.
Chí tâm hành đạo, một thời thường tụng một trăm lẻ tám biến.
Chí tâm có nghĩa giúp quý vị không nghĩ ngợi gì khác, chỉ duy nhất chú tâm vào chú. Mỗi lần tụng đọc là tụng suốt một trăm lẻ tám biến, không dừng nghĩ.
Sutra:
During the first seven days, bow sincerely to the Thus Come Ones of the ten directions, to the great Bodhisattvas, and to the names of the Arhats. Throughout the six periods of the day and night, continually recite the mantra as you circumambulate the Platform. Practice the Way with a sincere mind, reciting the mantra one hundred and eight times at a stretch.
Commentary:
During the first seven days, bow sincerely to the Thus Come Ones of the ten directions, to the great Bodhisattvas, and to the names of the Arhats. Throughout the six periods of the day and night, continually recite the mantra as you circumambulate the Platform. "The mantra" here is the entire Shurangama Mantra. Practice the Way with a sincere mind, reciting the mantra one hundred and eight times at a stretch. "A sincere mind" means that you don't think of anything else; you singlemindedly hold to the mantra. Each time you recite, go through the mantra one hundred and eight times without stopping.
Kinh văn:
第Đệ 二nhị 七thất 中trung 。 一nhất 向hướng 專chuyên 心tâm 發phát 菩Bồ 薩Tát 願nguyện 。 心tâm 無vô 間gián 斷đoạn 。 我ngã 毘Tỳ 奈Nại 耶Da 先tiên 有hữu 願nguyện 教giáo 。
( Trong tuần bảy ngày thứ hai, một mặt chuyên tâm phát nguyện Bồ tát, tâm không gián đoạn, trong luật nghi, ta đã chỉ dạy về nguyện.)
Giảng giải:
Trong tuần bảy ngày thứ hai hành đạo, một mặt chuyên tâm phát nguyện Bồ tát.
Quý vị phải thành tâm và chuyên chú đọc bốn lời nguyện của Bồ tát:
1. Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.
2. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
3. Pháp môn vô thượng thệ nguyện học.
4. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Tâm không gián đoạn, tâm không dừng niệm chú Lăng Nghiêm và luôn nhớ lấy bốn điều thệ nguyện.
Trong luật nghi, ta đã chỉ dạy về nguyện.
Khi nói về giới luật, ta đã dạy thực hành nguyện.
Sutra:
During the second week, direct your intent by making the vows of a Bodhisattva. The mind should never be cut off from them. In my vinaya, I have already taught about vows.
Commentary:
During the second week of practice, direct your intent by making the vows of a Bodhisattva. You must be ever more sincere and concentrated. Make the four vast vows of a Bodhisattva:
1. Living beings are boundless; I vow to save them.
2. Afflictions are endless; I vow to cut them off.
3. Dharma-doors are limitless; I vow to study them completely.
4. The Buddha Way is unsurpassed; I vow to accomplish it.
Kinh văn:
第Đệ 三tam 七thất 中trung 。 於ư 十thập 二nhị 時thời 。 一nhất 向hướng 持trì 佛Phật 般Bát 怛Đát 囉Ra 咒Chú 。 至chí 第đệ 七thất 日nhật 。 十thập 方phương 如Như 來Lai 一nhất 時thời 出xuất 現hiện 。 鏡Kính 交giao 光quang 處xứ 。 承thừa 佛Phật 摩ma 頂đảnh 。
( Trong tuần bảy ngày thứ ba, trong suốt mười hai thời, một mặt trì chú Bát-đát-la chú của Phật, đến ngày thứ bảy sẽ thấy mười phương Như Lai nhất thời xuất hiện, trong chỗ ánh sáng của các mặt gương giao nhau và được Phật xoa đỉnh.)
Giảng giải:
Trong tuần bảy ngày thứ ba, trong suốt mười hai thời, một mặt trì chú Bát-đát-la chú của Phật.
Tụng đọc thần chú Đại Bạch Tán Cái, tức chú kinh Lăng Nghiêm của Phật.
Đến ngày thứ bảy sẽ thấy mười phương Như Lai nhất thời xuất hiện.
Cùng lúc ấy, chư Phật sẽ bất ngờ xuất hiện tại đạo tràng, trong chỗ ánh sáng của các mặt gương giao nhau và được Phật xoa đỉnh.
Quý vị sẽ được các Đức Phật trong mười phương xuất hiện và xoa lên đỉnh đầu, hình ảnh động tác ấy sẽ hữu hiện trong anh sáng các mặt gương phản chiếu đến vô cùng tận.
During the third week, one holds the Buddha's mantra, Bwo Da La, for twelve hours at a time, with a single intent; and on the seventh day, the Thus Come Ones of the ten directions will appear simultaneously. Their light will be mutually reflected in the mirrors and will illumine the entire place; and they will rub one on the crown of one's head.
Commentary:
During the third week, one holds the Buddha's mantra, Bwo Da La for twelve hours at a time, with a single intent. One holds and recites the mantra "Syi Dan Dwo Bwo Da La", spoken by the Buddha, that is, the Shurangama Mantra. On the seventh day, the Thus Come Ones of the ten directions will appear simultaneously. They will suddenly appear in the bodhimanda all at the same time. Their light will be mutually reflected in the mirrors and will illumine the entire place, and they will rub one on the crown of one's head. You will have the crown of your head rubbed by the Buddhas of the ten directions, and this act will be reflected within the facing mirrors in a bright image which repeats itself ad infinitum.
Kinh văn:
即Tức 於ư 道Đạo 場Tràng 修tu 三Tam 摩ma 地địa 。 能năng 令linh 如như 是thị 末mạt 世thế 修tu 學học 。 身thân 心tâm 明minh 淨tịnh 猶do 如như 琉lưu 璃ly 。
( Đoạn, ở nơi đạo tràng đó tu pháp Tam ma địa, có thể khiến cho những người tu học như vậy, trong thời mạt pháp, thân tâm được sáng tỏ và trong sạch như ngọc lưu ly.)
Đoạn, ở nơi đạo tràng đó tu pháp Tam ma địa.
Nơi đạo tràng như miêu tả trên, khi được các Như Lai khắp mười phương hiện đến xoa đỉnh, liền tu pháp Tam ma địa, tức quay trở lại tánh nghe để nghe tự tánh, có thể khiến cho những người tu học như vậy, trong thời mạt pháp, thân tâm được sáng tỏ và trong sạch như ngọc lưu ly.
Thân và tâm người ấy sẽ trong suốt như pha lê và sáng lóng lánh.
If one cultivates this samadhi in the bodhimanda, then even in the Dharma-ending Age one can study and practice until one's body and mind are as pure and clear as vaidurya.
Commentary:
If one cultivates this samadhi in the Bodhimanda with a platform as described above, and if the Thus Come Ones of the ten directions appear simultaneously and aid one by rubbing one on the crown of the head, and if in this way one can practice samadhi, cultivating the return of the hearing to hear the self-nature, then even in the Dharma-ending Age one can study and practice until one's body and mind are as pure and clear as vaidurya. One's body and mind will become as transparent as crystal and will shine with light.
Kinh văn:
阿A 難Nan 。 若nhược 此thử 比Tỷ 丘Khưu 本bổn 受thọ 戒giới 師sư 。 及cập 同đồng 會hội 中trung 十thập 比Tỷ 丘Khưu 等đẳng 。 其kỳ 中trung 有hữu 一nhất 不bất 清thanh 淨tịnh 者giả 。 如như 是thị 道Đạo 場Tràng 多đa 不bất 成thành 就tựu 。
( A Nan, nếu như thầy truyền giới cho vị Tỳ kheo ấy, hoặc trong mười vị Tỳ kheo
đồng hội, có một người giới hạnh không thanh tịnh thì các đạo tràng như vậy đa phần là không được thành tựu.)
Giảng giải:
A Nan, ông nên biết nếu vị Tỳ kheo tu dưỡng và trì chú Lăng Nghiêm không đúng cách, ngay cả vị thầy truyền giới không được thanh tịnh, hoặc vị ấy tu học từ vị Tỳ kheo khác có giới đức không thanh tịnh, vậy pháp hành ấy sẽ không có kết quả.
Nên đừng thực hiện nếu có những người không thanh tịnh.
Có thể họ đã giữ giới và chưa phạm lỗi. Đức Phật đề ra các giới như sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối thì họ phạm tội sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói những lời không chân thật. Trong trường hợp đó, sự lập Bồ đề đạo tràng sẽ chẳng thành tựu.
Tất cả sự tu dưỡng, mọi lời thần chú đều không có hiệu quả. Do đó, nếu quý vị thực hiện giáo pháp này thấy không được như ý, quý vị đừng nói:
“Tôi hành trì trong đàn suốt ba tuần, nhưng Phật Thích Ca, các Phật trong mười phương không đến xoa đỉnh đầu tôi. Tôi không thấy các vị ấy. Có thể Phật Thích Ca dối tôi.”
Không phải như vậy. Có thể là do tự thân quý vị không thanh tịnh, hoặc một trong ai đó trong số mười vị truyền giới không được thanh tịnh. Chỉ cần một người không thanh tịnh thì tất cả đều bất thành. Đây là điều chúng ta nên hết sức chú ý.
Sutra:
Ananda, if any one of the bhikshu's precept transmitting masters or any one of the other bhikshus practicing with him is not pure, the Bodhimanda as described will not be successful.
Commentary:
Ananda, if any one of the bhikshu's precept transmitting masters or any one of the other bhikshus practicing with him is not pure, then the Bodhimanda as described will not be successful. Ananda, you should know that if the bhikshu who is cultivating and upholding this method with the Shurangama Mantra had even one precept-transmitting master who was not pure, or if he is cultivating this practice with another bhikshu who is not pure, then the method will not be successful. It won't work if any one of these people is impure, that is, if they don't hold the precepts purely.
Perhaps they hold the precepts and yet violate them. One is not supposed to kill, but they have killed; or one is not supposed to steal, but they have stolen; one is not supposed to commit acts of deviant sexual conduct and they have done so; or one is not supposed to lie, but they have lied. The Buddha taught us not to lie, but they dispense with the "not" and just hold to the "lie." If that is how it is, the Bodhimanda will not be successful.
All the work of cultivating, all the mantras you held, will still not bring you success. Therefore, if you practice this dharma and do not get a response from your cultivation, you cannot say, "I cultivated for three weeks, but Shakyamuni Buddha and the Buddhas of the ten directions did not come and rub me on the crown of the head. I didn't even see them. Probably Shakyamuni Buddha was also lying." That is not the case. Perhaps you yourself are not pure, or the teachers from whom you received the precepts were not pure, or any one of the ten people you are practicing this dharma with may not be pure. If there is even one impure person involved, this state will not be accomplished. This is extremely important.
Kinh văn:
從Tùng 三tam 七thất 後hậu 。 端đoan 坐tọa 安an 居cư 。 經kinh 一nhất 百bách 日nhật 。 有hữu 利lợi 根căn 者giả 。 不bất 起khởi 於ư 座tòa 。 得đắc 須Tu 陀Đà 洹Hoàn 。 縱túng 其kỳ 身thân 心tâm 。 聖thánh 果Quả 未vị 成thành 。 決quyết 定định 自tự 知tri 。 成thành 佛Phật 不bất 謬mậu 。
( Từ sau ba tuần bảy ngày, ngồi nghiêm chỉnh an cư, trải qua một trăm ngày, người có lợi căn không rời khỏi chỗ ngồi liền được quả Tu-đà-hoàn, mặc dù thân tâm thánh quả chưa thành, nhưng đã quyết định tự biết sẽ thành Phật không sai khác.)
Giảng giải:
Từ sau ba tuần bảy ngày, ngồi nghiêm chỉnh an cư, trải qua một trăm ngày.
Việc ngồi thiền không giống như một số người, họ ngồi được hai tiếng đồng hồ và xem đó là kỳ công, tự cho là mình đã hơn được nhiều người. Thực ra, điều ấy có thể ví như chú mèo con đấu sức cùng sư tử vậy.
Ngồi nghiêm chỉnh có nghĩa là không nghiêng trái, phải, cũng chẳng phải cúi về phía trước, ngã ra sau, hoặc duỗi dài chân. Đấy không phải là ngồi yên và lo nghĩ: “Ôi! Chân tôi tê quá!”.
Ngồi trải qua có nghĩa là không nghĩ tưởng gì khác. Ngồi một trăm ngày là không đi ăn, cũng chẳng tự thư giãn, tự làm cho mình dễ chịu. Đơn giản chỉ là ngồi một trăm ngày.
Người có lợi căn không rời khỏi chỗ ngồi liền được quả Tu-đà-hoàn.
Người thông minh và có lợi căn sẽ ngồi một trăm ngày, chắc chắn người đó sẽ được Thánh quả thứ nhất của A-la-hán. Ngày nay, quý vị không thể ngồi được trọn ngày, tuy vậy, cũng có người nghĩ mình sẽ đạt được Thánh quả. Thực là buồn cười! Quý vị phải có khả năng ngồi trong một trăm ngày mới có được kết quả.
Mặc dù thâm tâm thánh quả chưa thành, những đã quyết định tự biết sẽ thành Phật không sai khác.
Trong hiện tại họ chưa chứng được quả vị vô học, nhưng tin chắc mình sẽ thành Phật.
Sutra:
After three weeks, one sits upright and still for a hundred days. Those with sharp faculties will not arise from their seats and will become Shrotaapannas. Although their bodies and minds have not attained the ultimate fruition of sagehood, they know for certain, beyond exaggeration, that they will eventually accomplish Buddhahood.
Commentary:
After three weeks, one sits upright and still for a hundred days. One sits in meditation, but not like some people who sit still for two hours and consider it a superb feat. They consider themselves to be outstanding people, but actually, if we compare that to what is described here, it's like a kitten encountering a lion. "Upright" means that one does not lean to the left or right, or lean forward or back, or get up or stretch out one's legs. It's not sitting there and thinking, "Ah my legs really hurt!" Sitting "still" means that nothing troubles one. Sitting for a hundred days means one does not go eat or even get up to relieve oneself. One simply sits for one hundred days.
Those with sharp faculties will not arise from their seats and will become Shrotaapannas. People who are intelligent and have good roots can then sit for one hundred days and be certified to the first stage of arhatship. But now you can't even sit still for one whole day, and yet there are some who think they have reached the fruition of a sage. That's really ridiculous.
You have to be able to sit for a hundred days to accomplish first stage arhatship. Although their bodies and minds have not attained the ultimate fruition of sagehood, they know for certain, beyond exaggeration, that they will eventually accomplish Buddhahood. They still have not attained genuine samadhi-power in their cultivation, but they know for a fact that they will certainly become Buddhas. It is definitely not a false notion.
Kinh văn:
汝Nhữ 問vấn 道Đạo 場Tràng 。 建kiến 立lập 如như 是thị 。
( Ông hỏi đạo tràng thì cách thành lập như vậy.)
Giảng giải:
Cách thức dựng lập đạo tràng là vậy.
Sutra:
You have asked how the Bodhimanda is established. This is the way it is done.
Commentary:
This is how you set it up.
III
TÂM-CHÚ PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM
( CHÚ TỨC LÀ "TÂM", TÂM TỨC LÀ "CHÚ" . CHO NÊN, GỌI LÀ "TÂM-CHÚ".
Chư PHẬT, BỒ-TÁT do TÂM-CHÚ nầy mà sinh ra và cũng Y theo TÂM-CHÚ PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM, để cứu độ VÔ-LƯỢNG CHÚNG-SANH THÀNH PHẬT ĐẠO.)
HIỂN-thuyết giúp sanh HUỆ giải, MẬT-thuyết giúp sanh ĐỊNH-lực KIÊN CỐ “THỦ LĂNG NGHIÊM TAM-MUỘI”.
PHẬT ĐẢNH QUANG MINH
MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA
VÔ THƯỢNG THẦN CHÚ
Cứu cánh kiên cố định trung vương
Trực tâm tu học chí đạo trường
Thân khẩu ý nghiệp tu thanh tịnh
Tham sân si niệm yếu tảo quang
Thành tắc cảm ứng hoạch hiện chứng
Chuyên năng thành tựu đại thần thông
Hữu đức ngộ tư linh diệu cú
Thời khắc mạc vong thiệu long xương
( Hòa Thượng Tuyên Hóa, Vạn Phật Thánh Thành Hoa Kỳ )
Ta thấy KINH THỦ LĂNG NGHIÊM dạy, cho dù QÚY-VỊ tu theo HIỂN-GIÁO hay là MẬT-GIÁO gì cũng được VIÊN THÔNG VÔ-NGẠI, cho nên có thể gọi “BẢO-KINH” nầy là:
“ HIỂN-MẬT VIÊN THÔNG THÀNH PHẬT TÂM-ẤN” cũng được.
Kinh văn:
阿A 難Nan 頂đảnh 禮lễ 佛Phật 足túc 。 而nhi 白bạch 佛Phật 言ngôn 。 自tự 我ngã 出xuất 家gia 。 恃thị 佛Phật 憍kiêu 愛ái 。 求cầu 多đa 聞văn 故cố 。 未vị 證chứng 無vô 為vi 。
( Ông A Nan đảnh lễ chân Phật mà thưa với Phật: Từ khi xuất gia, con ỷ lại lòng thương yêu của Phật, vì cầu đa văn nên chưa chứng quả vị vô vi.)
Giảng giải:
Sau khi ông A Nan nghe Phật Thích Ca giảng giải, ông bèn đảnh lễ chân Phật mà thưa với Phật: Từ khi xuất gia, con ỷ lại lòng thương yêu của Phật.
Con nhờ vào lòng thương yêu đặc biệt của Phật đối với con, nhưng vì cầu đa văn nên chưa chứng quả vị vô vi.
Ông ấy luôn muốn giỏi hơn nhiều người khác.
“Tôi muốn vượt hơn kẻ khác”, và suy nghĩ: “Ông không thể tụng kinh theo trí nhớ, nhưng tôi làm được. Ông không giảng được kinh, còn tôi thì nhớ rõ từng chữ”.
Ông vẫn luôn cạnh tranh mình là số một, và quyết dùng sự đa văn của mình để đạt vị trí thứ nhất. Và thực vậy, A Nan trở thành đệ nhất đa văn, nhưng ông vẫn chưa đạt được quả vị vô vi, chưa vượt qua kiến thức học hỏi của chính mình. Đấy là điều rất đáng tiếc đối với Ngài.
Sutra:
Ananda bowed at the Buddha's feet and said, "After I left the home-life, I relied on the Buddha's affectionate regard. Because I sought erudition, I still have not been certified to the unconditioned."
Commentary:
After Ananda heard this description by Shakyamuni Buddha, he bowed at the Buddha's feet and said, "After I left the homelife, I relied on the Buddha's affectionate regard. I counted on the Buddha's fondness for me, on his special affection. Because I sought erudition, I still have not been certified to the unconditioned. He was always concerned about being better than everyone else. "I wanted to surpass others," and so he had the idea, "You can't recite the sutra from memory, but I can. You can't even explain that sutra, and I remember every word of it." He was always competing to be number one. He decided to use erudition to obtain the first position. True enough, Ananda became foremost in learning, but he still did not certify to the unconditioned. He still had not reached to the fruition of sagehood that was unconditioned. He couldn't obtain the level beyond learning. This was of great harm to him.
Kinh văn:
遭Tao 彼bỉ 梵Phạm 天Thiên 邪tà 術thuật 所sở 禁cấm 。 心tâm 雖tuy 明minh 了liễu 。 力lực 不bất 自tự 由do 。 賴Lại 遇ngộ 文Văn 殊Thù 。 令linh 我ngã 解giải 脫thoát 。 雖tuy 蒙mông 如Như 來Lai 佛Phật 頂đảnh 神thần 咒chú 。 冥minh 獲hoạch 其kỳ 力lực 。 尚thượng 未vị 親thân 聞văn 。
( Khi bị tà thuật Phạm Thiên vây hãm, tâm tuy rõ ràng nhưng sức chẳng tự do, nhờ gặp ngài Văn Thù khiến cho con được giải thoát. Mặc dù con thầm nhờ sức của thần chú Phật Đỉnh Như Lai, nhưng con vẫn chưa được nghe qua thần chú ấy.)
Giảng giải:
Khi bị tà thuật Phạm Thiên vây hãm, tâm tuy rõ ràng nhưng sức chẳng tự do.
Con bị pháp thuật làm cho mê muội, rối rắm. Thân bị khốn đốn nhưng tâm con vẫn sáng suốt. Đấy là khi A Nan không cảnh giác, nhưng cũng không phải là hoàn toàn rối loạn. Ông ấy rơi vào tình trạng mơ hồ, như ngủ chưa tỉnh giấc. Hoặc như người say rượu, nhưng A Nan không dùng rượu – trạng thái ấy giống như say rượu.
Khi quý vị hỏi một người say, họ sẽ nhớ điều này, quên điều nọ - tình trạng ngài A Nan là vậy. Hoặc ông ấy như lơ mơ khi ngủ, hẳn nhiên là chưa ngủ say, chưa chìm trong mộng mị. Ông ấy không có sức giải thoát chính mình. Điều đó như đêm ngủ gặp quỷ Cưu Bàn Trà (Kumbhanda), nó có sức làm cho quý vị phải đờ đẫn, mất cả tự chủ.
Khi tình trạng ấy xảy ra, quý vị có thể tỉnh táo nhìn thẳng vào nó, nhưng bản thân vẫn bất động vì sức mạnh của quỷ. Đó là những gì ngài A Nan trải nghiệm. Mặc dù ngài có ý thức, nhưng không tự kiểm soát, không được tự do tự tại.
Nhờ gặp ngài Văn Thù khiến cho con được giải thoát.
Đức Phật phái Bồ tát Văn Thù đến giải cứu, nhờ vậy con được giải thoát.
Mặc dù con thầm nhờ sức của thần chú Phật Đỉnh Như Lai, nhưng con vẫn chưa được nghe qua thần chú ấy.
Thần chú Phật Đỉnh do đức Thế Tôn, Như Lai, Phật tuyên thuyết. Khi ngài Văn Thù đến chỗ con và tụng chú và con đã thầm nhờ uy lực của chú ấy. Tức là khi Văn Thù đến, ngài không đọc chú thành tiếng, mà chỉ thầm tụng.
Tất cả quý vị nên đọc chú thành tiếng là khi ở trước Phật trong chùa, vậy mới có hiệu nghiệm. Nếu giữa đường phố mà quý vị đọc to tiếng: Nam mô tát đát tha tô già đa ra… ắt mọi người sẽ nghĩ đó là người điên.
Quý vị đừng đọc một vài đoạn chú để khiến người khác xem thường, hủy báng pháp. Hành động lạ lung, kỳ dị của quý vị để họ chế nhạo, vậy sẽ phạm tội. Quý vị đừng bảo:
“Nếu họ phạm tội thì đó là chuyện của họ. Tôi cứ tụng thành tiếng, mặc họ phạm tội, họ sẽ sa vào địa ngục thôi!”.
Nếu quý vị có thái độ và ý định khiến người khác đi vào địa ngục thì xin quý vị đừng học Phật pháp nữa. Người học Phật là người (KHÔNG LÀM CHUỚNG NGẠI NGƯỜI KHÁC ) nhiều tình cảm, có lòng khoan dung đối với mọi người, họ không hành động bất cứ điều gì để khiến kẻ khác phải sa địa ngục. Quý vị phải tu tập như vậy. Đừng nên nghĩ:
“Hắn báng bổ tôi, tôi sẽ đi theo sau họ và đọc to chú Lăng Nghiêm, họ chê bai tôi thì cho họ rơi vào địa ngục”.
Nếu nghĩ như thế thì quý vị lập tức dừng đọc chú Lăng Nghiêm, đừng học Phật nữa làm gì, bởi vì người học Phật không ganh ghét ai, không gây trở ngại cho người hoặc có tính ích kỷ nặng nề. Đừng có thái độ tôi hơn người. Phật pháp xuất hiện là cứu độ chúng sinh chứ không phải khiến mọi người phạm tội. Quý vị phải hiểu rõ điều đó.
A Nan nói: “Con thầm nhờ sức của thần chú nhưng con chưa được nghe qua”.
Sutra:
When I encountered that Brahma Heaven mantra, I was captured by the deviant spell; though my mind was aware, I had no power to free myself. I had to rely on Manjushri Bodhisattva to liberate me. Although I was blessed by the Thus Come One's spiritual mantra of the Buddha's summit and imperceptibly received its strength, I still have not heard it myself.
Commentary:
"When I encountered that Brahma Heaven mantra, I was captured by the deviant spell; though my mind was aware, I had no power to free myself. I became confused by the deviant spell of the externalist way, by the deviant trick of a demonic dharma. I was physically captured by the spell; my body was confused by it, but my mind was still somewhat clear." His mind was not totally alert, but he wasn't totally muddled, either. He was in a daze, as if he were asleep, and yet he was awake. He was as if drunk, but he hadn't taken anything intoxicating. But the effect was much the same as with drink.
When you ask a person who's recovered from a drunken binge what he did while under the influence, he will remember some things and forget others. That's the state Ananda was in. Or he was like a person who is about to drift off to sleep; he isn't quite asleep, and yet he has a dream, or what seems to be a dream. He had no power to free himself. It's like encountering a demonic ghost while you are asleep at night, such as a kumbhanda ghost, which uses a demonic spell to paralyze you. When that happens, you may wake up and stare, but you cannot move. You are held by the demonic power of the ghost. That's what Ananda experienced. Although he was conscious, he was not in control of himself. He could not get free. "I had to rely on Manjushri Bodhisattva to liberate me. The Buddha commanded Manjushri Bodhisattva to come and save me. I depended on the Buddha to have Manjushri Bodhisattva rescue me. He freed me.
"Although I was blessed by the Thus Come One's spiritual mantra of the Buddha's summit and imperceptibly received its strength, I still have not heard it myself. The World Honored One, the Thus Come One, the Buddha, used the spiritual mantra spoken by the transformation Buddha atop the Buddha's summit. And when Manjushri Bodhisattva came to where I was and recited the mantra, I received the benefit invisibly." That means that when Manjushri Bodhisattva got there, he didn't chant the mantra in a loud voice; he merely had to recite it silently to free Ananda. It's all right to recite the mantra loudly when you are before the Buddhas in the temple, but when you are out at other places, you can recite it silently and it is just as effective. If you got out on the streets and start bellowing, "Na Mwo Sa Dan Two Su Chye Dwo Ye!" people are going to think you are crazy. You needn't be attached to some particular ritual and thereby cause people to slander the dharma, which is what they would be doing if they said you were crazy. When they commit slander, they commit offenses. You don't want to say, "If he commits offenses, that's his problem. I'll recite even louder and let him slander even more so that he commits even greater offenses, and he will surely fall into the hells." If you have that kind of attitude and intentionally cause people to commit offenses so that they fall into the hells, then you shouldn't even study the Buddhadharma.
People who study the Buddhadharma are sympathetic and compassionate toward others. Their attitude is to do nothing that would cause anyone else to fall into the hells, even to the point that they would rather go to the hells themselves than cause anyone else to go. That's the way you should be. You cannot think, "He slandered me, let him fall into the hells." Or, "If I have a run-in with someone, I will go after them and recite the Shurangama Mantra, and then when they slander me they will fall into the hells." If you have that kind of thought, then you'd better stop reciting the Shurangama Mantra right this minute and leave off your study of the Buddhadharma. That's because people who study the Buddhadharma must not hate people, must not be jealous of people, must not obstruct people, must not be selfish in these ways. One cannot have the attitude, "I'm fine, to heck with you." The Buddhadharma exists for the sake of rescuing all living beings. It is not designed to cause living beings to commit offenses. You must be clear about this point.
Ananda says, "I imperceptibly received its strength, but I still haven't actually heard it. I got the strength from it, but silently and invisibly. So I've never actually heard it. Although I received the benefit of it, I still don't even know how to recite it. I've never even heard it!"
Kinh văn:
惟Duy 願nguyện 大đại 慈từ 重trùng 為vi 宣tuyên 說thuyết 。 悲bi 救cứu 此thử 會hội 諸chư 修tu 行hành 輩bối 。 末mạt 及cập 當đương 來lai 在tại 輪luân 迴hồi 者giả 。 承thừa 佛Phật 密mật 音âm 。 身thân 意ý 解giải 脫thoát 。
Giảng giải:
Chỉ nguyện đấng Thế Tôn, Đức Đại Từ tuyên nói lại cho, mong muốn của con là được Phật nói lại cho con nghe bài chú, và thương xót cứu giúp những hàng tu hành trong Hội này. Nguyện xin nói lại để cứu giúp những kẻ đời sau còn trong luân hồi sáu nẻo, được nhờ mật âm của Phật mà thân ý giải thoát.
Nhờ vào mật âm của Phật mà mọi người sẽ được giải thoát. Giải thoát là không còn tới lui sinh tử, và chúng ta sẽ tụng chú Lăng Nghiêm hằng ngày để chúng sanh giải thoát mọi ràng buộc, giúp họ nhận ra những sai lầm tệ hại.
Chẳng hạn mọi người đều biết hút thuốc lá là không tốt – nó phí thời gian và gây hại cho sức khỏe, tuy nhiên rất nhiều người vẫn cứ hút thuốc. Biết rõ thuốc lá tác hại đến sức khỏe, họ vẫn không cố gắng từ bỏ.
Biết sát sanh là không đúng, người ta vẫn hại sinh mạng vật. Biết tà dâm là không phải, họ vẫn coi thường điều đó. Biết trộm cắp là sai trái, họ vẫn đêm ngày rình rập lấy trộm đồ vật, tài sản của người khác, không trộm xe hơi thì cũng lấy máy hát. Kẻ trộm biết mình phạm luật pháp, sẽ bị cảnh sát bắt giữ, nhưng họ vẫn không chịu từ bỏ.
Đấy là biết sai nhưng vẫn làm.
Sutra:
I only hope that the greatly compassionate one will proclaim it again to kindly rescue all the cultivators in this assembly and those of the future who undergo the turning wheel, so that they may become liberated in body and mind by relying on the Buddha’s secret sounds.
Commentary:
I only hope that the World Honored One, the Greatly Compassionate One will proclaim it again. My one wish is that the Buddha would speak it again so that I can hear it and also to kindly rescue all the cultivators in this assembly. Please speak it also to rescue those of the future who undergo the turning wheel of the six paths, so that they may become liberated in body and mind by relying on the Buddha's secret sounds. Based on the Buddha's secret syllables, they will become free. They will not be upside down or confused.
We recite the Shurangama Mantra every day just to help people stop being upside down and confused and to help them stay away from doing things which they clearly know are wrong. For instance, one knows that taking opium is wrong, that it wastes time and dissipates one's energy, yet, one still insists on smoking it. Clearly knowing that the use of marijuana is a violation of the law, still one "must" try it out. Well aware that killing is not right, one still takes the lives of living beings. Knowing without a doubt that indulging in sexual misconduct is not right, one conducts oneself in this way nonetheless. Knowing full well that it is wrong to steal, one spends all day and night taking things from other people, if it's not a car, it's a tape-recorder or a radio. A thief knows full well he is breaking the law, and that if he is caught the police will take him to jail, but still he goes and does it. That's "doing things which they clearly know are wrong."
Kinh văn:
於Ư 時thời 會hội 中trung 一nhất 切thiết 大đại 眾chúng 。 普phổ 皆giai 作tác 禮lễ 。 佇ninh 聞văn 如Như 來Lai 祕bí 密mật 章chương 句cú 。
( Khi ấy, tất cả đại chúng trong Hội thảy đều đảnh lễ chờ nghe câu chú bí mật của Như Lai.)
Giảng giải:
Khi ấy, tất cả đại chúng trong Hội, rất đông đảo các chúng cùng hội tập. Thảy đều đảnh lễ chờ nghe câu chú bí mật của Như Lai, mọi người đều làm lễ và cùng đứng chờ nghe Phật nói từng chương, cú thần chú.
“Chương” gồm năm đoạn của chú. “Cú” là bao hàm nhiều câu ngắn, như Nam mô tát đát tha, Tô già đa gia, A ra ha đế, Tam miệu tam bồ đề tỏa. Nhưng chương và cú là điều bí mật, có nghĩa chúng ta không dễ gì hiểu được. Sự bí mật ấy nằm trong đoạn câu mà kiến thức của chúng ta không với tới.
Khi quý vị tụng chú, quý vị không biết mình được lợi ích gì. Mặc dù có được nhiều lợi lạc nhưng chúng ta không biết rõ, chúng ta cũng không biết về bí mật của chú.
Sutra:
At that moment, everyone in the great assembly bowed as one and stood waiting to hear the Thus Come One's secret divisions and phrases.
Commentary:
At that moment, everyone in the great assembly, the huge multitude of beings in that gathering, bowed as one and stood waiting to hear the Thus Come One's secret divisions and phrases. They all bowed together to the Buddha and then stood on tiptoe waiting for the Buddha to speak the secret sections and divisions of the mantra. "Divisions" refers to the five major sections of the mantra. The "phrases" are smaller parts consisting of several lines each, such as "Na Mwo Sa Dan Two / Su Chye Dwo Ye / E La He Di / San Myau San Pu Two Sye." But these divisions and phrases are secret, that is, they are not easy for people to understand. They are "secret" in the sense that people do not share a common knowledge about them. When you recite them, you do not know what advantages you obtain. I do not know what advantages I obtain. Although benefit is obtained, there is no mutual awareness of it among those benefited, nor is there a common understanding of the mantra itself.
Nhĩ thời Thế-Tôn, tùng nhục-kế trung, dõng bá bảo-quang, quang trung dõng xuất, thiên diệp bảo liên, hữu hóa Như-Lai, tọa bảo hoa trung, đảnh phóng thập đạo, bá bảo quang-minh, nhứt nhứt quang-minh, giai biến thị hiện, thập hằng hà sa, Kim-Cang mật tích, kình sơn trì sử, biến hư-không giới, đại chúng ngưỡng quan, úy ái kiêm bảo, cầu Phật ai hựu, nhứt tâm thính Phật, vô-kiến đảnh tướng, phóng quang Như-Lai, tuyên thuyết thần chú:
PHẬT ĐẢNH QUANG MINH
MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA
VÔ THƯỢNG THẦN CHÚ
Kinh văn:
爾Nhĩ 時thời。 世Thế 尊Tôn 從tùng 肉nhục 髻kế 中trung 。 涌dũng 百bá 寶bảo 光quang 。 光quang 中trung 涌dũng 出xuất 千thiên 葉diệp 寶bảo 蓮liên 。 有hữu 化hóa 如Như 來Lai 。 坐tọa 寶bảo 華hoa 中trung 。
(Khi ấy, Đức Thế Tôn từ nơi nhục kế phóng ra trăm thứ hào quang báu, trong hào quang hiện ra hoa sen báu ngàn cánh, có hóa thân Như Lai ngồi trong hoa sen.)
Giảng giải:
Khi ấy, Đức Thế Tôn từ nơi nhục kế trên đỉnh đầu của Phật Thích Ca Mâu Ni, phóng ra trăm thứ hào quang báu, trong hào quang hiện ra hoa sen báu ngàn cánh, có hóa thân Như Lai ngồi trong hoa sen.
Hóa thân của Phật ngồi trên hoa sen ngàn cánh trong hào quang chói sáng.
Sutra:
At that time, a hundred brilliant rays sprang from the mound of the flesh on the crown of the World Honored One's head. A thousand-petalled precious lotus arose from amidst those rays. Upon the precious flower sat the Thus Come One's transformation.
Commentary:
At that time, a hundred brilliant rays sprang from the mound of the flesh on the crown of the World Honored One's, Shakyamuni Buddha's, head. A thousand-petalled precious lotus arose from amidst those rays. Upon the precious flower sat the Thus Come One's transformation. A transformation body of the Buddha sat upon the thousand-petalled precious lotus in the midst of the hundred rays of light.
Kinh văn:
頂Đảnh 放phóng 十thập 道đạo 百bá 寶bảo 光quang 明minh 。 一nhất 一nhất 光quang 明minh 。 皆giai 遍biến 示thị 現hiện 。 十thập 恆Hằng 河Hà 沙sa 。 金Kim 剛Cang 密Mật 跡Tích 。 擎kình 山sơn 持trì 杵xử 。 遍biến 虛hư 空không 界giới 。
( Trên đỉnh phóng ra mười đạo hào quang bách bảo, trong mỗi đạo hào quang, số lượng bằng mười số cát sông Hằng, đều hiện ra các vị Kim Cang Mật Tích, xách núi, cầm trùy, đầy khắp cả hư không.)
Giảng giải:
Trên đỉnh phóng ra mười đạo hào quang bách bảo.
Đỉnh ở đây là chỉ đỉnh đầu của hóa thân Như Lai. Mười đạo hào quang bách bảo xuất phát từ đỉnh đầu của hóa thân Phật.
Trong mỗi đạo hào quang, số lượng bằng mười số cát sông Hằng, hào quang chiếu sáng khắp mọi nơi, đâu đâu cũng có, đều hiện ra các vị Kim Cang Mật Tích, xách núi, cầm trùy, đầy khắp cả hư không cùng lúc hào quang phóng xuất, các Đức Kim Cang Mật Tích xuất hiện, tay cầm núi, cầm trùy, như Bồ Tát Vi Đà thường dùng.
Các vị ấy hiện hữu đầy khắp cả hư không.
Sutra:
From the crown of that Buddha’s head, in turn, ten beams of light shone forth, each composed of a hundred rays of precious light. Every one of those glowing rays shone on lands as many as the sands of ten Ganges Rivers, while throughout empty space there were Vajra Secret Traces spirits, each holding aloft a mountain and wielding a pestle.
Commentary:
From the crown of that Buddha’s head, in turn, ten beams of light shone forth, each composed of a hundred rays of precious light. "Crown" here refers to the crown of the head of the Thus Come One's transformation. Another ten beams of light issued forth out the top of the head of the transformation-body Buddha. Every one of those glowing rays shone on lands as many as the sands of ten Ganges Rivers.
These rays of light shone everywhere, on countless countries, while throughout empty space there were Vajra Secret Traces spirits, each holding aloft a mountain and wielding a pestle. At the same time that the light shone forth, the Vajra Secret Traces dharma protectors held mountains in their bare hands and brandished pestles, like the one Wei Tuo Bodhisattva wields. They were all over the place, filling up all of empty space.
Kinh văn:
大Đại 眾chúng 仰ngưỡng 觀quan 。 畏úy 愛ái 兼kiêm 抱bảo 。 求cầu 佛Phật 哀ai 祐hựu 。 一nhất 心tâm 聽thính 佛Phật 。 無vô 見kiến 頂đảnh 相tướng 放phóng 光quang 如Như 來Lai 。 宣tuyên 說thuyết 神thần 咒chú 。
( Đại chúng ngẩng lên xem, vừa yêu vừa sợ, cầu Phật xót thương che chở, một lòng nghe Đức Phóng Quang Như Lai từ nơi vô kiến đỉnh tướng của Phật tuyên nói thần chú.)
Giảng giải:
Đại chúng ngẩng lên xem, vừa yêu vừa sợ, cầu Phật xót thương che chở.
Tất cả các Đại Bồ tát, Đại A-la-hán, Đại Tỳ kheo cùng các chúng tại đại hội, ngẩng lên nhìn hóa thân Như Lai xuất hiện từ đỉnh Phật, thảy đều sợ hãi khi nhìn thấy hóa thân Phật, đồng thời, họ cũng cảm thấy yêu mến đấng Như Lai. Tình yêu đó không phải là loại tình cảm yêu đương giữa nam nữ. Đấy là tình cảm yêu mến chân thật, thoát khỏi mọi ham muốn. Cả hai loại tình cảm cùng hiện hữu: Khiếp sợ và yêu thương. Do đó, mọi người mong được Phật xót thương che chở.
Một lòng nghe Đức Phóng Quang Như Lai từ nơi vô kiến đỉnh tướng của Phật tuyên nói thần chú.
Mọi người đều chú tâm, đều muốn lắng nghe Phật, Khối thịt nhỏ trên đỉnh đầu Phật gọi là Vô kiến đỉnh tướng. Gọi vô kiến là vì người thường không nhìn thấy được. Mọi người nhìn thấy hào quang bách bảo và hóa thân Phật xuất hiện trên đỉnh Phật tuyên nói thần chú.
Như vậy, chú Lăng Nghiêm không phải do tự thân Đức Thích Ca nói ra, mà chính là hóa thân Phật tuyên thuyết từ hư không.
Đối với thần chú, tức mật ngữ, không ai có thể hiểu được, hoặc có thể giảng giải rõ từng âm tiết, từng câu chữ. Nhưng nếu quý vị muốn biết, tôi sẽ cố gắng giảng giải. Tuy nhiên, ở đây không có thời gian, vì chung ta đang nói về kinh Lăng Nghiêm, còn như chú, cho dù có giảng trọn một năm cũng chưa xong, thậm chí cả ba năm, mười năm cũng vậy. Do đó tôi sẽ chỉ thuyết minh về đại ý thôi.
Chú Lăng Nghiêm phân làm năm bộ, biểu thị năm phương: Đông, Nam, Trung Ương, Tây, Bắc.
1. Đông phương Kim cang bộ, đức Phật A Súc là Bộ chủ.
2. Nam phương Bỏa bộ, Đức Phật Bảo Sinh là Bộ chủ.
3. Trung ương Phật bộ, đức Phật Tỳ Lô Giá Na là Bộ chủ.
4. Tây phương Liên hoa bộ, đức Phật A Di Đà là Bộ chủ,
5. Bắc phương Yết Ma bộ, đức Phật Thành Tựu là Bộ chủ.
Nhân vì thê giới có năm đại ma quân nên có năm phương Phật ngăn chặn, chấn áp.
Trong năm bộ của chú, nhìn chung có hơn ba mươi pháp, nếu giảng rộng ắt có hơn trăm pháp. Có năm loại pháp chính yếu sau:
1. Pháp Thành tựu: Có nghĩa với pháp này, quý vì sẽ có được những gì tìm kiếm, hoặc cầu nguyện, mong cầu điều gì đó.
2. Pháp Tăng ích, tức là khi quý vị tụng thần chú này, chẳng những chính quý vị được nhiều lợi ích, mà cả những người khác cùng được lợi.
3. Pháp Câu triệu. Theo ý nghĩa, câu triệu là bắt giữ và lệnh gọi các loài hữu tình, ma, quỷ. Không có gì thóat khỏi, quý vị có thể đưa chúng trở lại và bắt giữ. Chẳng hạn có ai đó gây hại người nào và xa chạy cao bay. Nếu biết sử dụng pháp câu triệu thì chắc chắn kẻ đó không trốn khỏi.
4. Pháp Hàng phục: Loài quỷ cũng có pháp thuật và chú để chúng sử dụng. Khi mình tụng chú của mình thì chúng tụng chú của chúng. Nhưng nếu quý vị tụng chú Lăng Nghiêm, quý vị sẽ phá tan các loại chú của chúng. Tôi cũng đã nói qua về uy lực của chú, nó có công năng đánh đuổi và hủy diệt chú thuật của bọn ma vương gây hại. Đối với những ai chưa học cũng nên lưu ý điều đó. Nhưng tại sao khi tụng chú Lăng Nghiêm thì chú của Phạm Thiên thành vô hiệu?
Đấy là vì “Ngũ đại tâm chú”:
- Sất Đà Nễ
- A Ca La
- Mật Rị Trụ
- Bát Rị Đát Ra Da
- Nảnh Yết Rị
Năm đoạn trên là “Ngũ đại tâm chú”. Đấy là chú căn bản để hủy diệt các chú thuật và đánh đuổi bọn Thiên ma cùng các quyến thuộc. Loại tâm chú này khi sử dụng thì mọi chú thuật của bọn ma đều vô hiệu. Với pháp này, tôi có thể đánh đổi được vài triệu tiền đô, nhưng tôi không bán. Nếu quý vị có lòng thành, tôi sẽ truyền cho quý vị, hoàn toàn miễn phí.
5. Pháp Tức tai: Tất cả mọi tai ương, họa hại đều được ngăn ngừa, tránh khỏi. Chẳng hạn có ai đó rơi xuống biển, nhưng nếu người đó tụng chú Lăng Nghiêm, chắc chắn sẽ tránh được tai họa, tức là rơi tõm xuống biển nhưng không chết chìm. Có thể quý vị ở trong con tàu lẽ ra phải chìm, nhưng quý vị tụng thần chú này, tàu sẽ không chìm. Hoặc có thể đi trên chiếc máy bay hỏng hóc, nhưng nếu tụng chú Lăng Nghiêm, máy bay cũng sẽ hạ cánh an toàn. Tôi xin kể một câu chuyện thật khó tin, lần đó tôi đi từ Miến Điện sang Thái Lan, đường bay lúc đó rất nguy hiểm. Nhưng suốt cuộc hành trình, máy bay chẳng có dấu hiệu gì là bất ổn, và chuyến đi hết sức bình yên, thuận lợi. Ngay cả viên phi công cũng lấy làm lạ: “Tại sao chuyến bay lại được êm xuôi như thế?”. Anh ta không biết trong suốt chặng đường đó đã có Thiện thần, Bát bộ Thiên long, và cả chư Phật, các Bồ tát, cùng hộ trì chuyến bay được an toàn, thuận lợi.
Đấy là cách hành pháp Trừ họa (Tức tai). Khi có một sự cố xảy ra, nó có thể hóa lớn thành bé, và họa bé cũng dễ dàng biến mất. Thường, khi sự cố xảy ra, nó sẽ có “báo động nhưng không nguy hiểm” - nếu quý vị tụng chú Lăng Nghiêm.
Lợi ích của chú rất lớn, cho dù có bỏ ra vài năm giảng giải cũng không dứt. Ở đây, tôi chỉ nói qua vài pháp và ý nghĩa của pháp ấy thôi.
Sutra:
The great assembly, gazing upward, felt fearful admiration and sought the Buddha's kind protection. Single-mindedly they listened as the Thus Come One in the light at the invisible appearance on the crown of the Buddha’s head proclaimed the spiritual mantra:
Commentary:
The great assembly, gazing upward, felt fearful admiration and sought the Buddha's kind protection. All the great Bodhisattvas, great Arhats, great bhikshus, and all the others in the great gathering, threw back their heads and looked up toward the transformation-body of the Thus Come One atop the crown of the Buddha's head. Some felt fearful when they saw the transformation Buddha. But at the same time, they admired that Thus Come One. They loved him, but not with the emotional love that exists between men and women. What they felt was true love, free of desire or longing. They had both these feelings at the same time, they were awestruck and yet drawn by love. So they hoped the Buddha would take pity on them and also protect them. Single-mindedly they listened as the Thus Come One in the light at the invisible appearance on the crown of the Buddha's head proclaimed the spiritual mantra. They were all of one mind. They all wanted to listen to the Buddha. The mound of flesh on the crown of the Buddha's head is called the "invisible appearance on the crown." It is called the "invisible appearance" because ordinary people cannot see it. Those who saw the hundred rays of light and the transformation Buddha atop the crown of the Buddha's head were sages who had been certified to the fruition. The transformation Buddha that was emitted from the invisible appearance on the crown hovered in space and proclaimed the spiritual mantra.
So, the Shurangama Mantra was not spoken by Shakyamuni Buddha himself in the flesh, but rather it was proclaimed by the transformation-body Buddha he sent out into empty space. As to the mantra, no one understands it. Nor is it possible to explain it syllable by syllable and line by line. But if you want to understand it, I can try to explain it for you. However, this is not the time for that, because we are in the middle of the explanation of the Shurangama Sutra, and the mantra alone couldn't be completely explained in a year, or even in three years, or even ten years. So, at this point it cannot be explained thoroughly. I will simply explain the general meaning of the mantra.
The mantra has five divisions which correspond to the five directions : north, south, east, west, and the middle. The eastern division is the Vajra division, with Akshobhya Buddha as the teaching host. The southern division is the Production-of-Jewels division, with Production-of-Jewels Buddha as the teaching host. The central division is the Buddha division, with Shakyamuni Buddha as the teaching host. The western division is the Lotus division, with Amitabha Buddha as the teaching host. The northern division is the Karma division, with Accomplishment Buddha as the teaching host. There are five divisions, because there are five huge demonic armies in this world. There are demons to the east, south, west, north, and in the center. Since there are these five demon armies, not just five demons, the Buddhas also cover the five directions to suppress the demons. If there were no Buddhas, the demons could appear openly in the world.
Within the five divisions of the mantra there are, in general, more than thirty dharmas, and it has more than a hundred dharmas that can be discussed in detail. There are five major kinds of dharmas:
1) Dharmas of accomplishment. This means that with this dharma, you will be successful in what you seek or in what you vow or wish for.
2) Dharmas of increasing benefit. This means that when you recite this mantra, you can increase benefits which you yourself seek and you can also increase benefits for other people.
3) Dharmas of hooking and summoning. This means, literally, to "hook in" and catch and to call with a command all the weird beings, demons, and ghosts. No matter how far away they might be from you, you can bring them in and capture them. For instance, suppose one of them is harming someone, and when they finish they run away. If one knows how to use the dharma of hooking and summoning, then no matter how far that being may have run, you can arrest him.
4) Dharmas of subduing. Demons also have spiritual penetrations and mantras which they use. When you recite your mantras, they recite their mantras. But if you can use the Shurangama Mantra, you can smash through all their mantras. I've told you before about the section of the mantra which is for smashing the demon kings. It also is effective in destroying their mantras and spells. Although I've taught you this already, it bears repeating here. Those who have not studied this yet can take note of it. Why was it that as soon as the Shurangama Mantra was recited the former Brahma Heaven mantra lost its effectiveness? It was because of the "Five Great Heart Mantras."
Chr Two Ni
E Jya La
Mi Li Ju
Bwo Li Dan La Ye
Ning Jye Li
These five lines are called the "Five Great Heart Mantras." It is the fundamental mantra for destroying the mantras and spells of the heavenly demons and adherents of externalist ways. It doesn't matter what kind of mantra they come up with; you can destroy it with this one. Their mantras will lose their effectiveness. This dharma I've just transmitted could sell for several million dollars, but I do not sell it. Seeing that you have a certain amount of sincerity, I transmit it to you absolutely free.
5) Dharmas of dispelling disasters. Whatever calamity is due to occur can be prevented. For instance, suppose a person was due to fall into the sea and drown, but by reciting the Shurangama Mantra, he avoids the catastrophe. He might fall into the sea, but he doesn't drown. Perhaps you are in a boat that ought to sink, but you recite this mantra and the boat does not go down. Maybe you're in an airplane that is destined to crash, but you recite the Shurangama Mantra and the plane lands without incident. I'll tell you something incredible. I was going from Burma to Thailand, an air route that is particularly dangerous. But during that trip, the plane didn't show the effects of any turbulence. The ride was absolutely smooth. Even the pilot commented, "Why has it been such smooth going on this trip?" He had no idea that during that ride the gods, dragons, and the rest of the eightfold division, as well as Buddhas and Bodhisattvas, were on all sides of the airplane guarding and protecting it.
That's the way the dharma of dispelling disasters works. When there clearly should be an accident, it can change big disasters to small ones and make small ones never even happen. Usually what happens is there's "alarm but no danger" if you recite the Shurangama Mantra.
In general, the mantra contains dharmas of auspiciousness. This means that when you recite the Shurangama Mantra, everything goes just as you'd like it to. It's really lucky and extremely auspicious.
The advantages of the mantra are so many that one could not even begin to express them in several years time. But at this time, I'll limit my explanation to these few dharmas and meanings.
LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ có 5 hội:
HỘI THỨ NHẤT
TỲ-LÔ-GIÁ-NA CHÂN PHÁP HỘI
Đây là “TỲ-LÔ-GIÁ-NA CHÂN PHÁP HỘI”, có nghĩa: Những lời bí mật của 12 pháp môn đoạn dưới đều từ nơi PHÁP-THÂN hay TỲ LÔ CHÂN TÁNH LƯU LỘ RA.
HỘI THỨ HAI
THÍCH-CA ỨNG-HÓA HỘI
Đây là “THÍCH-CA ỨNG-HÓA HỘI” hay LĂNG NGHIÊM GIÁO CHỦ HỘI, có nghĩa: Năm bộ Tam-Bảo trong thần chú gồm chư DƯỢC-XOA, THẦN-VƯƠNG, KIM-CANG MẬT-TÍCH, cho đến tất cả Pháp môn, đều do đức Phật Thích Ca và chư Phật THỊ HIỆN RA.
HỘI THỨ BA
QUÁN-THẾ-ÂM HIỆP-ĐỒNG-HỘI
Đây là “QUÁN-THẾ-ÂM HIỆP-ĐỒNG-HỘI”. Bốn môn trong đây đều là do đức Quán-Thế-Âm trên đồng dưới hiệp, VIÊN-THÔNG TU CHỨNG chẳng thể nghĩ bàn, đức mầu VÔ-TÁC thành tựu một cách tự-tại.
HỘI THỨ TƯ
KIM-CANG-CHIẾT-NHIẾP-HỘI
Đây là “KIM-CANG-CHIẾT-NHIẾP-HỘI”, do HỎA-THỦ-KIM-CANG BỒ-TÁT KHAI HIỂN, nên chư Kim-Cang-Tạng-Vương sau khi nghe niệm chú, đều dùng sắc lịnh để hộ vệ, đối với kẻ ác thì chiết phục, với kẻ thiện thì nhiếp thâu.
Chư Kim-Cang Mật-Tích cũng đều hiện phần bản tích ứng hóa của mình.
HỘI THỨ NĂM
VĂN-THÙ-PHÚ-HỘ-HOẰNG-TRUYỀN-HỘI
Đây là “VĂN-THÙ-PHÚ-HỘ-HOẰNG-TRUYỀN-HỘI”. Đức Văn-Thù hay Mạn-Thù-Thất-Lỵ sau khi lãnh chú đến che chở hộ trì rồi thay đại chúng thưa hỏi pháp môn tu. Nếu chẳng phải là bậc đại trí đức thì không thể thông hiểu và hoằng truyền pháp môn nầy.
Năm hội trên tượng trưng cho NGŨ-TRÍ ĐẢNH của Tỳ Lô Giá Na. Hiệp cả năm hội lại gọi chung là PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ CỨU CÁNH KIÊN CỐ ĐẠI BẠCH TÁN CÁI THẦN CHÚ.
(Hòa Thượng Thích THIỀN-TÂM)
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ là trên ĐẢNH PHẬT phóng ra 10 đạo hòa QUANG bách bảo và TỤ lại trên ĐẢNH CHÚNG-SANH trong Pháp Giới, khi tụng Thần Chú Thủ-Lăng Nghiêm.
Đây là Hóa Thân Phật dùng THẦN CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM để “ẤN-TÂM” cho Qúy-vị sẽ thành Phật trong vị lai.
CỨU CÁNH KIÊN CỐ là Thủ-Lăng Nghiêm ĐẠI ĐỊNH, định này là VUA trong các định.
ĐẠI (Lớn) là “THỂ” của Chú Lăng Nghiêm, không đối đãi phân biệt, biến khắp tận cùng hư không pháp giới, nên gọi là MA-HA.
BẠCH (Trắng) là “TƯỚNG” của Chú Lăng-Nghiêm, thanh tịnh không ô nhiễm, nên gọi là TÁT ĐÁT ĐA.
TÁN CÁI (Tàng Lọng) là “DỤNG” của Chú Lăng Nghiêm, có khả năng che chở, bảo hộ, TRUỞNG DƯỠNG THIỆN CĂN, TIÊU TRỪ NGHIỆP CHƯỚNG TRONG VÔ LƯỢNG KIẾP, KHÔNG TRẢI QUA 3 A-TĂNG KỲ, MÀ QÚY VỊ CŨNG CHỨNG ĐƯỢC PHÁP THÂN, nên gọi là BÁT ĐÁT RA.
THẦN là thần diệu linh thông, khó mà suy lường được.
CHÚ là khi qúy vị TỤNG , thì có công năng PHÁ TÀ LẬP CHÁNH, tiêu trừ nghiệp ác, phát sanh phước đức căn lành.
TRÊN ĐẢNH CỦA PHẬT TỲ LÔ GIÁ NA (PHẬT PHÁP-THÂN) LƯU LỘ RA NGŨ-TRÍ. CHO NÊN, GỌI LÀ “NGŨ-TRÍ” ĐẢNH CỦA TỲ -LÔ-GIÁ-NA.
1) PHÁP GIỚI TRÍ
TRÍ cùng khắp hư không, vì dùng LƯỚI ĐẠI QUANG MINH chiếu khắp PHÁP GIỚI CHÚNG SANH. CHO NÊN, GỌI LÀ PHÁP GIỚI TRÍ.
2) ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ
3) BÌNH ĐẲNG TÁNH TRÍ
4) DIỆU QUÁN SÁT TRÍ
5) THÀNH SỞ TÁC TRÍ
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ
MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA
THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ
ÐỆ NHỨT
Nam-mô tát đát tha tô già đa da a ra ha đế tam-miệu tam-bồ-đà-tỏa.Tát đát tha Phật đà cu-tri sắc ni sam.
Nam-mô tát bà bột đà bột địa, tát đa bệ tệ.
Nam-mô tát đa nẩm tam-miệu tam-bồ-đà cu-tri nẩm. Ta xá ra bà ca tăng-già nẩm.
Nam-mô lô kê a-la-hán đa nẩm.
Nam-mô ta yết rị đà già di nẩm.
Nam-mô lô kê tam-miệu già đa nẩm. Tam miệu già ba ra để ba đa na nẩm.
Nam-mô đề bà ly sắt nỏa.
Nam-mô tất đà da tỳ địa da đà ra ly sắt nỏa. Xá ba noa yết ra ha ta ha ta ra ma tha nẩm.
Nam-mô bạt ra ha ma ni.
Nam-mô nhơn đà ra da.
Nam-mô bà già bà đế, lô đà ra da. Ô ma bát đế, ta hê dạ da.
Nam-mô bà già bà đế.
Na ra dả noa da. Bàn-giá ma-ha tam mộ đà ra.
Nam-mô tất yết rị đa da.
Nam-mô bà già bà đế, ma ha ca ra da. Ðịa rị bác lặc na già ra. Tỳ đà ra ba noa ca ra da. A địa mục đế. Thi ma xá na nê bà tất nê. Ma đát rị già noa.
Nam-mô tất yết rị đa da.
Nam-mô bà già bà đế. Ða tha già đa cu ra da.
Nam-mô bát đầu ma cu na da.
Nam-mô bạt xà ra cu ra da.
Nam-mô ma ni cu ra da.
Nam-mô già xà cu ra gia.
Nam-mô bà già bà đế, đế rị trà du ra tây na, ba ra ha ra noa ra xà dà, đa tha già đa da.
Nam-mô bà già bà đế.
Nam-mô a di đa bà da, đa tha dà đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.
Nam-mô bà già bà đế, a sô bệ da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.
Nam-mô bà già bà đế, bệ sa xà da cu lô phệ trụ rị da, bát ra bà ra xà da, đa tha già đa da.
Nam-mô bà già bà đế, tam bổ sư bí đa, tát lân nại ra lặc xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.
Nam-mô bà già bà đế, xá kê dã mẫu na duệ, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.
Nam-mô bà già bà đế, lặc đác na kê đô ra xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da, đế biều nam-mô tát yết rị đa, ế đàm bà giá bà đa, tát đác tha già đô sắc ni sam, tát đác đa bác đác lam.
Nam-mô a bà ra thị đam, bác ra đế dương kỳ ra, tát ra bà bộ đa yết ra ha, ni yết ra ha yết ca ra ha ni, bạc ra bí địa da sất đà nể, a ca ra mật rị trụ, bát rị đát ra da nảnh yết rị, tát ra bà bàn đà na mục xoa ni, tát ra bà đột sắc tra đột tất phạp bát na nể phạt ra ni, giả đô ra thất đế nẫm, yết ra ha ta ha tát ra nhã xà, tỳ đa băng ta na yết rị, a sắc tra băng xá đế nẫm, na xoa sát đác ra nhã xà, ba ra tát đà na yết rị, a sắc tra nẫm, ma ha yết ra ha nhã xà, tỳ đa băng tát na yết rị, tát bà xá đô lô nể bà ra nhã xà, hô lam đột tất phạp nan giá na xá ni, bí sa xá tất đác ra, a kiết ni ô đà ca ra nhã xà, a bát ra thị đa cu ra ma ha bác ra thiện trì, ma ha điệp đa, ma ha đế xà, ma ha thuế đa xà bà ra, ma ha bạt ra bàn đà ra bà tất nể, a rị da đa ra, tỳ rị cu tri, thệ bà tỳ xà da, bạc xà ra ma lễ để, tỳ xá lô đa, bột đằng dõng ca, bạt xà ra chế hắt na a giá, ma ra chế bà bác ra chất đa, bạc xà ra thiện trì, tỳ xá ra giá, phiến đa xá bệ đề bà bổ thị đa, tô ma lô ba, ma ha thuế đa, a rị da đa ra, ma ha bà ra, a bác ra, bạt xà ra thương yết ra chế bà, bạt xà ra cu ma rị, cu lam đà rị, bạt xà ra hắc tát đa giá tỳ địa gia kiền giá na ma rị ca, khuất tô mẫu bà yết ra đá na, bệ lô giá na cu rị da, dạ ra thố sắc ni sam, tỳ chiết lam bà ma ni giá, bạt xà ra ca na ca ba ra bà, lô xà na bạt xà ra đốn trỉ giá, thuế đa giá ca ma ra sát xa thi ba ra bà, ế đế di đế, mẫu đà ra yết noa, ta bệ ra sám, quật phạm đô, ấn thố na mạ mạ tỏa.
ÐỆ NHỊ
Ô hồng, rị sắt yết noa, bác lặc xá tất đa, tát đát tha già đô sắc ni sam. Hổ hồng, đô lô ung chiêm bà na. Hổ hồng, đô lô ung tất đam bà na. Hổ hồng, đô lô ung ba ra sắc địa da tam bác xá noa yết ra. Hổ hồng, đô lô ung, tát bà dược xoa hắt ra sát ta, yết ra ha nhã xà, tỳ đằng băng tát na yết ra. Hổ hồng, đô lô ung, giả đô ra thi để nẫm, yết ra ha, ta ha tát ra nẫm, tỳ đằng băng tát na ra. Hổ hồng, đô lô ung, ra xoa, bà già phạm tát đát tha già đô sắc ni sam, ba ra điểm xà kiết rị, ma ha ta ha tát ra, bột thọ ta ha tát ra thất rị sa, cu tri ta ha tát nê đế lệ, a tệ đề thị bà rị đa, tra tra anh ca ma ha bạt xà lô đà ra, đế rị bồ bà na, man trà na, ô hồng, ta tất đế bạc bà đô, mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.
ÐỆ TAM
Ra xà bà dạ, chủ ra bạt dạ, a kỳ ni bà dạ, ô đà ca bà dạ, tỳ xa bà dạ, xá tát đa ra bà dạ, bà ra chước yết ra bà dạ, đột sắc xoa bà dạ, a xá nể bà dạ, a ca ra mật rị trụ bà dạ, đà ra ni bộ di kiếm ba già ba đà bà dạ, ô ra ca bà đa bà dạ, lặc xà đàng trà bà dạ, na già bà dạ, tỳ điều đát bà dạ, tô ba ra noa bà dạ, dược xoa yết ra ha, ra xoa tư yết ra ha, tất rị đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, cưu-bàn trà yết ra ha, bổ đơn na yết ra ha, ca tra bổ đơn na yết ra ha, tất kiền độ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, ô đàn ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra ha, hê rị bà đế yết ra ha, xã đa ha rị nẩm, yết bà ha rị nẩm, lô địa ra ha rị nẩm, mang ta ha rị nẩm, mê đà ha rị nẩm, ma xà ha rị nẩm, xà đa ha rị nữ, thị tỷ đa ha rị nẩm, tỳ đa ha rị nẩm, bà đa ha rị nẩm, a du giá ha rị nữ, chất đa ha rị nữ, đế sam tát bệ sam, tát bà yết ra ha nẩm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ba rị bạt ra giả ca hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, trà diễn ni hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma ha bát du bác đát dạ, lô đà ra hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, na ra dạ noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, đát đỏa già lô trà tây hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma-ha ca ra ma đát rị già noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ca ba rị ca hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, xà dạ yết ra, ma độ yết ra tát bà ra tha ta đạt na hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, giả đốt ra bà kỳ nể hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ rị dương hất rị tri, nan đà kê sa ra dà noa bác đế, sách hê dạ hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, na yết na xa ra bà noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, a-la-hán hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ đa ra già hất rị đởm, tỷ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, bạt xà ra ba nể, cu hê dạ, cu hê dạ, ca địa bát đế hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ra thoa vỏng, bà dà phạm, ấn thố na mạ mạ tỏa.
ÐỆ TỨ
Bà già phạm, tát đát đa bác đá ra, Nam-mô tý đô đế, a tất đa na ra lặc ca, ba ra bà tất phổ tra, tỳ ca tát đát đa bát đế rị, thập Phật ra thập Phật ra, đà ra đà ra, tần đà ra tần đà ra, sân đà sân đà. Hổ hồng. Hổ hồng, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, ta ha, hê hê phấn, a mâu ca da phấn, a ba ra đề ha đa phấn, ba ra bà ra đà phấn, a tố ra tỳ đà ra ba ca phấn, tát bà đề bệ tệ phấn, tát bà na già tệ phấn, tát bà dược xoa tệ phấn, tát bà kiền thát bà tệ phấn, tát bà bổ đơn na tệ phấn, ca tra bổ đơn na tệ phấn, tát bà đột lang chỉ đế tệ phấn, tát bà đột sáp tỷ lê hất sắc đế tệ phấn, tát bà thập bà lê tệ phấn, tát bà a bá tất ma lê tệ phấn, tát bà xá ra bà noa tệ phấn, tát bà địa đế kê tệ phấn, tát bà đát ma đà kê tệ phấn, tát bà tỳ đà da ra thệ giá lê tệ phấn, xà dạ yết ra ma độ yết ra, tát bà ra tha ta đà kê tệ phấn; tỳ địa dạ giá lê tệ phấn, giả đô ra phược kỳ nể tệ phấn, bạt xà ra cu ma rị, tỳ đà dạ ra thệ tệ phấn, ma ha ba ra đinh dương xoa tỳ rị tệ phấn, bạt ra xa thương yết ra dạ, ba ra trượng kỳ ra xà da phấn, ma ha ca ra dạ, ma ha mạt đát rị ca noa.
Nam-mô ta yết rị đa dạ phấn, tỷ sắc noa tỳ duệ phấn, bột ra ha mâu ni duệ phấn, a kỳ ni duệ phấn, ma ha yết rị duệ phấn, yết ra đàn trì duệ phấn, miệc đát rị duệ phấn, lao đát rị duệ phấn, giá văn trà duệ phấn, yết la ra đát rị duệ phấn, ca bác rị duệ phấn, a địa mục chất đa ca thi ma xá na, bà tư nể duệ phấn, diễn kiết chất, tát đỏa bà tỏa, mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.
ÐỆ NGŨ
Ðột sắc tra chất đa, a mạt đát rị chất đa, ô xà ha ra, già bà ha ra, lô địa ra ha ra, ta bà ha ra, ma xà ha ra, xà đa ha ra, thị tỷ đa ha ra, bạc lược dạ ha ra, kiền đà ha ra, bố sử ba ha ra, phả ra ha ra, bà tỏa ha ra, bác ba chất đa, đột sắc tra chất đa, lao đà ra chất đa, dược xoa yết ra ha, ra sát ta yết ra ha, bế lệ đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, cưu bàn trà yết ra ha, tất kiền đà yết ra ha, ô đát ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, trạch khê cách trà kỳ ni yết ra ha, rị Phật đế yết ra ha, xà di ca yết ra ha, xá cu ni yết ra ha, lao đà ra nan địa ca yết ra ha, a lam bà yết ra ha, kiền độ ba ni yết ra ha, thập Phật ra yên ca hê ca, trụy đế dược ca, đát lệ đế dược ca, giả đột thác ca, ni đề thập phạt ra, tỷ sam ma thập phạt ra, bạc để ca, tỷ để ca, thất lệ sắt mật ca, ta nể bác đế ca, tát bà thập phạt ra, thất lô kiết đế, mạt đà bệ đạt lô chế kiếm, a ỷ lô kiềm, mục khê lô kiềm, yết rị đột lô kiềm, yết ra ha yết lam, yết na du lam, đản đa du lam, hất rị dạ du lam, mạt mạ du lam, bạt rị thất bà du lam, tỷ lật sắc tra du lam, ô đà ra du lam, yết tri du lam, bạt tất đế du lam, ô lô du lam, thường già du lam, hắc tất đa du lam, bạt đà du lam, ta phòng án già bác ra trượng già du lam, bộ đa tỷ đa trà, trà kỳ ni thập bà ra, đà đột lô ca kiến đốt lô kiết tri, bà lộ đa tỳ, tát bác lô, ha lăng già, du sa đát ra, ta na yết ra, tỳ sa dụ ca, a kỳ ni ô đà ca, mạt ra bệ ra, kiến đa ra, a ca ra mật rị đốt đát liểm bộ ca, địa lật lặc tra, tỷ rị sắc chất ca, tát bà na cu ra, tứ dẫn già tệ yết ra, rị dược xoa, đác ra sô, mạt ra thị phệ đế sam, ta bệ sam, tất đát đa bác đát ra, ma ha bạc xà lô sắc ni sam, ma ha bác lặc trượng kỳ lam, dạ ba đột đà xá dụ xà na, biện đát lệ noa, tỳ đà da bàn đàm ca lô di, đế thù bàn đàm ca lô di, bát ra tỳ đà, bàn đàm ca lô di, đác điệc tha.
Án, a na lệ, tỳ xá đề, bệ ra bạt xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bán ni phấn. Hổ hồng, đô lô ung phấn, ta bà ha.
IV
HAI CÁI NHÂN ĐIÊN ĐẢO
Phật dạy: “A Nan, ông nên biết diệu tính là viên minh, rời các danh tướng, bản
lai không có THẾ-GIỚI CHÚNG-SINH”.
Kinh văn:
阿A 難Nan 即tức 從tùng 座tòa 起khởi 。 頂đảnh 禮lễ 佛Phật 足túc 。 而nhi 白bạch 佛Phật 言ngôn 。
我Ngã 輩bối 愚ngu 鈍độn 。 好hiếu 為vi 多đa 聞văn 。 於ư 諸chư 漏lậu 心tâm 未vị 求cầu 出xuất 離ly 。 蒙mông 佛Phật 慈từ 誨hối 。 得đắc 正chánh 熏huân 修tu 。 身thân 心tâm 快khoái 然nhiên 。 獲hoạch 大đại 饒nhiêu 益ích 。
( Ông A Nan, liền từ chỗ ngồi đứng lên đảnh lễ nơi chân Phật mà thưa với Phật rằng:
“Chúng con ngu độn, tham cầu đa văn, đối với các tâm hữu lậu chưa cầu thoát ly, nhờ Phật dạy bảo, được lối huân tu chân chánh, thân tâm khoan khoái, được nhiều lợi ích”)
Giảng giải:
Ông A Nan, liền từ chỗ ngời đứng lên đảnh lễ nơi chân Phật mà thưa với Phật rằng: “Chúng con ngu độn, đấy là sự học hỏi và phải nhờ vào trí nhớ của chúng ta, tham cầu đa văn, đối với các tâm hữu lậu chưa cầu thoát ly”.
Chúng ta ưa đọc sách, học tập và nhớ nhiều. Chúng ta thông minh và hiểu biết nhiều. Nhưng ngoài tư tưởng và hành động, chúng ta không còn nhận thấy gì khác. Thật sự, mọi người chúng ta không muốn vượt khỏi ba cõi, không chú tâm thoát khỏi căn nhà đang bốc cháy.
Nay, nhờ Phật dạy bảo, được lối huân tu chân chánh, thân tâm khoan khoái, được nhiều lợi ích.
Phật chỉ dạy chúng ta cách thức tu tập, điều ấy khiến cho mọi người cảm thấy rất hạnh phúc, có được nhiều lợi lạc.
Sutra:
Then Ananda arose from his seat, bowed at the Buddha's feet, and said to the Buddha, "Now that we who are stupid and slow, who are fond of erudition but have not sought to cease the outflows of our minds, have received the Buddha's compassionate instructions and have attained the proper means to become infused with cultivation, we experience joy in body and mind and obtain tremendous benefit."
Commentary:
Then Ananda arose from his seat, bowed at the Buddha's feet, and said to the Buddha: Now that we who are stupid and slow, that is, those of us in the assembly who still must study and must rely on our memories, who are fond of erudition but have not sought to cease the outflows of our minds: we like to read, to study, and to memorize. We are quite clever at that. But as to the outflows of our thoughts and actions, we have not sought to get rid of them. We have not decided we want to transcend the triple realm. We are not concerned about getting out of the burning house.
Now that we have received the Buddha's compassionate instructions and have attained the proper means to become infused with cultivation, we experience joy in body and mind and obtain tremendous benefit. The Buddha has now taught us the genuine dharma-methods that we should cultivate and steep ourselves in. This makes us very happy. It's been of great benefit to us.
Kinh văn:
世Thế 尊Tôn 。 如như 是thị 修tu 證chứng 佛Phật 三tam 摩ma 提địa 。 未vị 到đáo 涅Niết 槃Bàn 。 云vân 何hà 名danh 為vi 乾càn 慧huệ 之chi 地Địa 。 四tứ 十thập 四tứ 心tâm 。 至chí 何hà 漸tiệm 次thứ 。 得đắc 修tu 行hành 目mục 。 詣chỉ 何hà 方phương 所sở 。 名danh 入nhập 地Địa 中trung 。 云vân 何hà 名danh 為vi 等Đẳng 覺Giác 菩Bồ 薩Tát 。
( Bạch Thế Tôn, những người tu chứng pháp Tam-ma-địa của Phật như thế, chưa đến Niết bàn thì sao gọi là Càn huệ địa? Trong 44 tâm đến thức bậc nào mới được danh mục tu hành? Đến phương sở nào mới gọi là nhập địa? Thế nào mới gọi là Đẳng giác Bồ tát?
Giảng giải:
Bạch Thế Tôn, những người tu chứng pháp Tam-ma-địa của Phật như thế, chưa đến Niết bàn thì sao gọi là Càn huệ địa?
Bạch Phật, chúng con tu theo pháp này và đạt được chánh định của Phật. Nhưng trước khi đến Niết bàn, còn phải qua nhiều cấp khác nhau – chẳng hạn, thế nào gọi là Càn-Huệ địa?
Trong 44 tâm đến thức bậc nào mới được danh mục tu hành? Đến phương sở nào mới gọi là nhập địa? Làm thế nào chúng con biết là mình đạt tới địa vị Thập địa Bồ tát? Và thế nào mới gọi là Đẳng giác Bồ tát? Phần này sẽ giải thích trong các đoạn sau.
Sutra:
"World Honored One, for one who cultivates in this way and is certified as having attained the Buddha's samadhi, but who has not yet reached nirvana, what is meant by the level of 'dry wisdom'? What are the 'forty-four minds'? What is the sequence in which one cultivates till one reaches one's goal? What place must one reach to be said to have 'entered the grounds'? And what is meant by a Bodhisattva of 'equal enlightenment'?"
Chánh-định (Samadhi)
Commentary:
World Honored One, for one who cultivates in this way and is certified as having attained the Buddha's samadhi, but who has not yet reached nirvana, what is meant by the level of "dry wisdom"? Buddha, we cultivate in this way until we are certified to the fruition and give proof to the Buddha's samadhi-power. But before we reach nirvana, there are many levels to pass through. What is the level of "dry wisdom", for example? What are the "forty-four minds"? What is the sequence in which one cultivates till one reaches one's goal? What place must one reach to be said to have entered the grounds? How do we know when we reach the level of the tenth ground Bodhisattva? And what is meant by a Bodhisattva of "equal enlightenment"? Since all these terms are going to be explained in the subsequent passages, we will not go into them here.
Kinh văn:
作Tác 是thị 語ngữ 已dĩ 。 五ngũ 體thể 投đầu 地địa 。 大đại 眾chúng 一nhất 心tâm 。 佇trữ 佛Phật 慈từ 音âm 。 瞪trừng 瞢mông 瞻chiêm 仰ngưỡng 。
( Nói lời ấy xong, năm vóc gieo xuống đất, cả đại chúng cùng một lòng, chăm chỉ mong chờ lời từ của Phật.)
Giảng giải:
Sau khi ông A Nan nói lời ấy xong, năm vóc gieo xuống đất, A Nan cùng tất cả mọi người trong đại hội dùng năm vóc – tức đầu, đôi chân, đôi tay cùng gieo xuống đất hành lễ.
Cả đại chúng cùng một lòng, chăm chỉ mong chờ lời từ của Phật. Mọi người đều hết sức chăm chú nhìn Phật và chờ đợi Phật nói pháp. Quý vị thử nghĩ Phật sẽ nói gì?
Sutra:
Having said this, he made a full prostration, and then the great assembly single-mindedly awaited the sound of the Buddha's compassionate voice as they gazed up unblinking with respectful admiration.
Commentary:
After Ananda had said this, he made a full prostration. He and everyone in the great assembly placed their five limbs; their head, arms, and legs, on the ground in full obeisance. And then the great assembly single-mindedly awaited the sound of the Buddha's compassionate voice as they gazed up unblinking with respectful admiration. They gazed with such fixed intensity that it was as if they could not see. They waited expectantly for the Buddha to speak. What do you suppose the Buddha is going to say?
Kinh văn:
爾Nhĩ 時thời 世Thế 尊Tôn 讚tán 阿A 難Nan 言ngôn 。 善thiện 哉tai 善thiện 哉tai 。 汝nhữ 等đẳng 乃nãi 能năng 。 普phổ 為vị 大đại 眾chúng 及cập 諸chư 末mạt 世thế 一nhất 切thiết 眾chúng 生sanh 。 修tu 三tam 摩ma 地địa 求cầu 大Đại 乘Thừa 者giả 。
從Tùng 於ư 凡phàm 夫phu 終chung 大đại 涅Niết 槃Bàn 。 懸huyền 示thị 無vô 上thượng 。 正chánh 修tu 行hành 路lộ 。
汝Nhữ 今kim 諦đế 聽thính 。 當đương 為vì 汝nhữ 說thuyết 。阿A 難Nan 大đại 眾chúng 。 合hiệp 掌chưởng 刳khô 心tâm 。 默mặc 然nhiên 受thọ 教giáo 。
( Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ông A Nan rằng: “Hay thay! Hay thay! Các ông lại biết vì đại chúng và hết thảy chúng sinh tu Tam-ma-địa, cầu pháp Đại thừa trong thời mạt pháp, xin ta chỉ trước đường tu hành vô thượng chơn chánh, từ phàm phu cho đến Đại Niết Bàn; nay ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói”.
Ông A Nan và đại chúng chắp tay sạch lòng, lặng yên thọ giáo.)
Giảng giải:
Lúc bấy giờ, tại đại Hội rất đông người, cùng chăm chú chiêm ngưỡng, Đức Thế Tôn khen ông A Nan. Nhận thấy A Nan và đại chúng rất thành tâm, do đó, Ngài nói: “Hay thay! Hay thay! Các ông lại biết vì đại chúng và hết thảy chúng sinh tu Tam-ma-địa, cầu pháp Đại thừa trong thời mạt pháp”.
Ông muốn cùng mọi người tu học chứ không phải vì lợi lạc cho riêng mình. Ông hành động vì đại chúng nơi đây, và cả những người muốn học pháp Đại thừa sau này, vì vậy ông xin ta chỉ trước đường tu hành vô thượng chơn chánh, từ phàm phu cho đến Đại Niết Bàn.
Niết bàn là bất sinh, là tịch diệt, ông chưa đạt đến nhưng muốn biết cách thực hiện cho được. Nay ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói. Hãy hết sức chú ý, ta sẽ giảng giải cho ông.
Ông A Nan và đại chúng chắp tay sạch lòng, lặng yên thọ giáo. Sạch lòng có nghĩa là trừ tất cả vọng tưởng, tạp niệm ra khỏi tâm thức. Có năm loại kiến giải cần loại trừ là:
1. Thân kiến
2. Biên kiến
3. Giới cấm thủ kiến
4. Kiến thủ kiến
5. Tà kiến.
Cùng với năm nguyên nhân làm cho si độn:
1. Tham
2. Sân
3. Si
4. Mạn
5. Nghi
Như chiếc thuyền trống rỗng, họ vất ra khỏi tâm trí mọi điều học hỏi, và yên lặng lắng nghe Đức Thích Ca giảng giải.
Sutra:
At that time the World Honored One praised Ananda, saying, "Good indeed, good indeed, that you can for the sake of the entire great assembly and those beings in the final age who cultivate samadhi and seek the great vehicle, ask to have explained and revealed the unsurpassed proper path of cultivation that takes one from the level of an ordinary person to final Parinirvana. Listen attentively, and I will speak about it for you." Ananda and everyone in the assembly placed their palms together, cleansed their minds, and silently waited to receive the teaching.
Commentary:
At that time refers to the period when the great assembly was gazing up unblinkingly with respectful admiration. The World Honored One praised Ananda. He perceived how sincere Ananda and the great assembly were, so he praised him saying: Good indeed, good indeed, you are certainly a good person. You can for the sake of the entire great assembly and those beings of the final age. It is excellent that you who still have something left to study can seek for the sake of everyone and not just for yourselves. You are not being selfish or seeking self-benefit in doing this. You are doing it for everyone assembled here and also for beings to come in the future who cultivate samadhi and who want to practice the great vehicle dharmas of benefiting themselves and benefiting others, and so you ask to have explained and revealed the unsurpassed proper path of cultivation that takes one from the level of an ordinary person to final Parinirvana. Nirvana is the fruition where there is neither production nor extinction. You haven't arrived at it yet, but you wish to know about the proper way to get there. Listen attentively, and I will speak about it for you. Pay close attention. I am willing to explain it for you.
Ananda and everyone in the assembly placed their palms together, cleansed their minds, and silently waited to receive the teaching. "Cleansed their minds" means that they cast out their extraneous thoughts, the false thinking of their conscious mind, their mad mind and wild nature. They got rid of the five quick causes,
1. the point of view of a body,
2. prejudiced views,
3. the point of view of unbeneficial precepts,
4. opinionated views, and
5. deviant views,
as well as the five slow causes,
1. greed,
2. hatred,
3. stupidity,
4. pride, and
5. doubt.
Just as one hollows out a log to make a boat, they hollowed out their minds so that they could receive the teaching. At this point no one spoke. They were silent as they waited for Shakyamuni Buddha to begin his explanation.
Kinh văn:
佛Phật 言ngôn 。 阿A 難Nan 當đương 知tri 。 妙diệu 性tánh 圓viên 明minh 。 離ly 諸chư 名danh 相tướng 。 本bổn 來lai 無vô 有hữu 世thế 界giới 眾chúng 生sanh 。
( Phật dạy: “A-Nan, ông nên biết diệu tính là viên minh, rời các danh tướng, bản lai không có THẾ-GIỚI CHÚNG-SINH”.
Giảng giải:
Phật dạy: “A Nan, ông nên biết diệu tính là viên minh, bản lai vốn rất sáng suốt, rất màu nhiệm nên xa rời các danh tướng, như kinh Kim Cang nói: “Phàm là tướng sở hữu đều là hư vọng, nếu thấy tướng là phi tướng ắt sẽ thấy Như Lai”.
Nếu chấp tướng, mọi sự việc quý vị thấy biết cũng đều là chấp trước. Căn bản là không có danh, cũng chẳng có tướng. Vậy tại sao không có danh tướng? Đấy là vì bản lai không có thế giới chúng sinh, chỉ vì chính con người gây ra ảo tưởng và tạo nghiệp mới hình thành thế giới báo ứng của chúng sinh như vậy.
Sutra:
The Buddha said, "Ananda, you should know that the wonderful nature is perfect and bright, apart from all names and appearances. Basically there is no world, nor are there any living beings."
Commentary:
The Buddha said, "Ananda, you should know that the wonderful nature is perfect and bright. The Buddha nature, the self-nature, the bright nature of enlightenment, all refer to this wonderful nature which is apart from all names and appearances." As the Vajra Sutra puts it,
Whatever has an appearance is empty and false. If one sees all appearances as having no appearance, one sees the Thus Come One.
But you can't get rid of appearances. Whatever you see you become attached to. That's why there are appearances. Basically there are no appearances in the wonderful nature. Nor are there any names. Why aren't there any names or appearances? Basically there is no world, nor are there any living beings. Only because one gives rise to delusion and creates karma is there a world in which living beings undergo retribution.
Kinh văn:
因Nhân 妄vọng 有hữu 生sanh 。 因nhân 生sanh 有hữu 滅diệt 。 生sanh 滅diệt 名danh 妄vọng 。
( Nhân cái vọng mà có sinh, nhân cái sinh nên có diệt, sinh diệt gọi là vọng.)
Giảng giải:
Nhân cái vọng mà có sinh, nhân cái sinh nên có diệt. Nếu không có sinh sẽ không có diệt, sinh diệt gọi là vọng. Cái sinh sau khi sinh, cái diệt sau khi diệt, mọi sinh diệt đó đều là hư vọng, nó không thực có.
Sutra:
Because of falseness, there is production. Because of production, there is extinction. The names 'production' and 'extinction' are false.
Commentary:
Because of falseness, there is production. Because of production, there is extinction. If there were no production, there would be no extinction. The names "production" and "extinction" are false. Production after production, extinction after extinction are all created from falseness; there is no reality to them.
Kinh văn:
滅Diệt 妄vọng 名danh 真chân 。 是thị 稱xưng 如Như 來Lai 無vô 上thượng 菩Bồ 提Đề 。 及cập 大đại 涅Niết 槃Bàn 。 二nhị 轉chuyển 依y 號hiệu 。
( Diệt vọng gọi là chân, đấy gọi là hai hiệu chuyển y vô thượng Bồ đề và Đại Niết bàn của Như Lai.
Giảng giải:
Diệt vọng gọi là chân. Khi đạt được chân như của tự tánh, ông sẽ đạt được Phật tánh, đấy gọi là hai hiệu chuyển y vô thượng Bồ đề và Đại Niết bàn của Như Lai, một đàng là chuyển khổ đau đến Bồ đề và một là chuyển sinh từ vào Niết bàn.
Sutra:
When the false is extinguished, there is truth, which is called the Thus Come One's Unsurpassed Bodhi and Great Nirvana: those are names for two kinds of turning around.
Commentary:
When the false is extinguished, there is truth. When your truth reaches the true suchness of the self-nature, you have reached the Buddha-nature, which is called the Thus Come One's Unsurpassed Bodhi and Great Nirvana: those are names for two kinds of turning around. One turns afflictions into Bodhi; one turns birth and death into nirvana.
Kinh văn:
阿A 難Nan 。 汝nhữ 今kim 欲dục 修tu 真chân 三tam 摩ma 地địa 。 直trực 詣chỉ 如Như 來Lai 大đại 涅Niết 槃Bàn 者giả 。 先tiên 當đương 識thức 此thử 眾chúng 生sanh 世thế 界giới 二nhị 顛điên 倒đảo 因nhân 。 顛điên 倒đảo 不bất 生sanh 。 斯tư 則tắc 如Như 來Lai 真chân 三tam 摩ma 地địa 。
( A-Nan, nay ông muốn tu pháp chân Tam-ma-địa, đến thẳng Đại Niết bàn của Như Lai, trước hết phải biết hai cái nhân điên đảo của thế giới và chúng sinh này, điên đảo không sinh, đấy là chân Tam-ma-địa của Như Lai.
Giảng giải:
A-Nan, nay ông muốn tu pháp chân Tam-ma-địa, đến thẳng Đại Niết bàn của Như Lai. Ông muốn tu pháp Đại Bồ tát và đại Chánh-định. Ông muốn tiến đến địa vị Phật và được bốn đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.
Trước hết phải biết hai cái nhân điên đảo của thế giới và chúng sinh này, điên đảo không sinh, đấy là chân Tam-ma-địa của Như Lai. Có thể nhận thực nhân điên đảo và tránh không để sinh khởi – đấy là chánh định của Phật.
Sutra:
Ananda, you now wish to cultivate true samadhi and arrive directly at the Thus Come One's Parinirvana. First, you should recognize the two upside-down causes of living beings and the world. If these upside-down states are not produced, then there is the Thus Come One's true samadhi.
Commentary:
Ananda, you now wish to cultivate true samadhi and arrive directly at the Thus Come One's Parinirvana. You want to cultivate the great Bodhisattva's dharma and obtain genuine samadhi-power. You want to go right to the Buddha's position and obtain the four virtues of nirvana: permanence, bliss, true self, and purity. First, you should recognize the two upside-down causes of living beings and the world. If these upside-down states are not produced, then there is the Thus Come One's true samadhi. To be able to recognize these inversions and to avoid giving rise to them, is the true samadhi of the Buddha.
Kinh văn:
阿A 難Nan 。 云vân 何hà 名danh 為vi 眾chúng 生sanh 顛điên 倒đảo 。 阿A 難Nan 。 由do 性tánh 明minh 心tâm 。 性tánh 明minh 圓viên 故cố 。 因nhân 明minh 發phát 性tánh 。 性tánh 妄vọng 見kiến 生sanh 。 從tùng 畢tất 竟cánh 無vô 。 成thành 究cứu 竟cánh 有hữu 。
( A-Nan, thế nào gọi là điên đảo của chúng sinh? A Nan, do cái tâm bản tánh là minh, và tánh minh ấy viên mãn cùng khắp, do đó nên nhân tánh minh phát ra mà vọng kiến nhận là có tánh sinh ra, từ rốt ráo là không lại thành rốt ráo là có.)
Giảng giải:
Nan, thế nào gọi là điên đảo của chúng sinh? A Nan, do cái tâm bản tánh là minh, và tánh minh ấy viên mãn khắp cùng. Tánh vốn sáng rỡ và biến chiếu cùng khắp. Do đó nên nhân tánh minh phát ra mà vọng kiến nhận là có tánh sinh ra.
Vì mê lầm, không nhận được bản tánh viên mãn sáng suốt nên sinh ra các thứ hư vọng, biến thành vô minh. Vô minh là một loại ảo tưởng, là sự mê muội, do đó nên nghiệp sinh khởi – sinh và tử cũng thành hiện hữu.
Do một vọng niệm mà dấy lên Tam tế
Do Tam tế phát triển thành lục thô.
Quan điểm này đã được luận đến trong phần đầu của bản Kinh. Một khi từ chân khởi vọng thì nghiệp chướng liền sanh khởi. Cùng với nghiệp tướng là Chuyển tướng, và sau cùng là Năng kiến tướng.
Tam tế - tức tướng trạng cực kỳ vi tế.
1. Nghiệp tướng
2. Chuyển tướng
3. Năng kiến tướng.
Từ Tam tế duyên với cảnh giới của hiện tướng mà sinh sáu loại mê tướng, tức lục thô như sau:
1. Trí tướng, tức trí huệ của thế gian.
2. Tương tục tướng, mọi sự đều diễn tiến không ngớt.
3. Chấp thủ tướng.
4. Kế danh tự tướng.
5. Khởi nghiệp tướng.
6. Nghiệp hệ khổ tướng.
Từ rốt ráo là không lại thành rốt ráo là có, đấy là sự biểu hiện của Tam tế, cũng từ vọng niệm sai lầm nên mới hiện diện như vậy.
Sutra:
Ananda, what is meant by the upside-down state of living beings? Ananda, the reason that the nature of the mind is bright is that the nature itself is the perfection of brightness. By adding brightness, another nature arises, and from that false nature, views are produced, so that from absolute nothingness comes ultimate existence.
Commentary:
Ananda, what is meant by the upside-down state of living beings? Ananda, the reason that the nature of the mind is bright is that the nature itself is the perfection of brightness. The basic nature is perfectly bright and illumines all appearances. But by adding brightness, another nature arises. By adding brightness to the inherent brightness of the self nature, another nature comes into being, that of karmic obstructions. This is because from the true the false arises. Based in the nature of the treasury of the Thus Come One, one gives rise to ignorance. Another way of putting it is that one tries to add brightness to enlightenment when all along the nature of enlightenment is brightness itself. In that one movement of the false thought to add light to brightness, the appearance of karma is created, the first of the three subtle appearances.
And from that false nature, views are produced. This is the appearance of turning. Originally there was the nature of the treasury of the Thus Come One, but now ignorance has arisen. Ignorance is a kind of delusion, and once there is delusion, a lack of clarity, then karma arises. The nature of that karma is false, and from it views arise. Birth and death come into being.
From a single unenlightened thought
the three subtle appearances arise.
Then external states become the conditions
for the arising of the six coarse appearances.
This concept was also discussed earlier in the sutra. When falseness arises from within the truth, then the appearance of karma is produced. With the appearance of karma, there comes the appearance of turning. First one gives rise to delusion, but then one creates karma and after that must undergo a retribution. So the last is the appearance of manifestation. These are the three subtle appearances:
1. the appearance of karma;
2. the appearance of turning;
3. the appearance of manifestation.
From this process, a great deal of confusion arises, which extends itself into the six coarse appearances:
1. the appearance of knowing, which refers to worldly knowledge;
2. the appearance of continuation, in which things go on and on without cease;
3. the appearance of attaching and grasping;
4. the appearance of reckoning names;
5. the appearance of the arising of karma;
6. the appearance of the suffering of being bound by karma.
So that from absolute nothingness comes ultimate existence. That is the third subtle appearance, that of manifestation. Because of the falseness, existence comes into being.
Kinh văn:
此Thử 有hữu 所sở 有hữu 。 非phi 因nhân 所sở 因nhân 。 住trụ 所sở 住trụ 相tướng 。 了liễu 無vô 根căn 本bổn 。 本bổn 此thử 無vô 住trụ 。 建kiến 立lập 世thế 界giới 。 及cập 諸chư 眾chúng 生sanh 。
( Có cái sở hữu như vậy là do phi nhân làm nhân, và những tướng năng trụ sở trụ, rốt ráo không có cội gốc. Đoạn lại từ cái gốc vô trụ ấy mà kiến lập nên thế giới và các chúng sanh.)
Giảng giải:
Có cái sở hữu như vậy, sở hữu ở đây đều là do vô minh, vì:
Do một vọng niệm mà dấy lên Tam tế
Do Tam tế phát triển thành lục thô.
Mọi sở hữu đều hiện hữu, nhưng là do phi nhân làm nhân. Nhân là nương theo. Tại sao gọi là phi nhân? Vì, mặc dù Tam tế được biết là khởi từ vô minh, và vô minh thì không có thực thể, do đó, nó không phải là chỗ nương tựa đáng tin cậy.
Và những tướng năng trụ sở trụ, rốt ráo không có cội gốc.
Từ vô minh, hư vọng nên có chúng sanh, do đó, những tướng năng trụ, sở trụ đều để nương tựa, nhưng lại dựa vào cái gốc vô minh, không an trụ ấy thành lập thế giới và các chúng sanh.
Như vậy, sự hiện hữu đó là bất thực, hoàn toàn trống rỗng và hư vọng.
Sutra:
All that exists comes from this; every cause in fact has no cause. Subjective reliance on objective appearances is basically groundless. Thus, upon what is fundamentally unreliable, one sets up the world and living beings.
Commentary:
All that exists comes from this. "This" refers to ignorance, because:
From a single unenlightened thought
the three subtle appearances arise.
Then external states become the conditions
for the arising of the six coarse appearances.
"All that exists," then, refers to these appearances. Yet, every cause in fact has no cause. "Cause" here refers to a place of reliance. Why is there said to be no cause? It is because, although the three subtle appearances are said to arise from ignorance, ignorance is not really dependable. It is not a true place of reliance. Ignorance itself is a false creation, an empty appearance.
Therefore, although it seems to be that the three subtle appearances arise out of ignorance, it doesn't really happen that way, because ignorance itself doesn't even exist! Since ignorance doesn't have any substance of itself, how can the three subtle appearances arise from it? Subjective reliance on objective appearances is basically groundless. Living beings are the subjective aspect that relies on ignorance, the objective aspect. But basically there is no foundation in this. There is really no source. Thus, upon what is fundamentally unreliable, one sets up the world and living beings.
Basically there is nothing to be depended on, but it is on this unreliable ignorance that the world is established. Out of what is empty, false, and unreal the world is set up, and with it all living beings. Their very existence is empty and false; there is nothing real about it.
Kinh văn:
迷Mê 本bổn 圓viên 明minh 。 是thị 生sanh 虛hư 妄vọng 。 妄vọng 性tánh 無vô 體thể 。 非phi 有hữu 所sở 依y 。
( Vì mê không nhận ra tánh viên minh vốn có, nên sinh ra hư vọng, tánh hư vọng không có tự thể, không phải là có chỗ nương tựa.)
Giảng giải:
Vì mê không nhận ra tánh viên minh vốn có, nên sinh ra hư vọng.
Mê là hư vọng sinh ra từ chân tánh. Đối với Như Lai tạng tánh, thực sự không có danh, không có tướng. Khi vô minh sanh thì đầy dẫy vọng động. Từ vọng động, con người không còn nhận ra tánh giác ngộ, tựa như đánh mất đi căn nhà của chính mình vậy.
Tánh hư vọng không có tự thể, không phải là có chỗ nương tựa.
Hư vọng, tự nó không phải là thực chất – nó chỉ là hư tưởng, không thực. Do vậy, vô minh không phải là thực chất nên Tam tế cũng chẳng có căn để thực sự.
Sutra:
Confusion about one's basic, perfect understanding results in the arising of falseness. The nature of falseness is devoid of substance; it is not something which can be relied upon.
Commentary:
Confusion about one's basic, perfect understanding results in the arising of falseness. "Confusion" refers to the arising of falseness out of truth. Basically there is no name or appearance in the nature of the treasury of the Thus Come One. But when ignorance is produced, confusion results. Since one is confused, one no longer recognizes one's inherent enlightened nature. Once that happens, it is as if one has lost one's home.
Then falseness arises. The nature of falseness is devoid of substance; it is not something which can be relied upon. Although falseness arises out of truth, falseness itself doesn't have any substance. It came out of truth, but it is merely illusory. Since ignorance doesn't have a substance of its own, the three subtle appearances cannot really be based on it.
Kinh văn:
將Tương 欲dục 復phục 真chân 。 欲dục 真chân 已dĩ 非phi 真chân 真Chân 如Như 性tánh 。 非phi 真chân 求cầu 復phục 。 宛uyển 成thành 非phi 相tướng 。
( Muốn cầu trở lại chân tánh thì cái muốn chân thật đó đã không phải là tánh chân như chân thật. Cầu trở lại không đúng chân lý thì hiển thành những phi tướng.)
Giảng giải:
Muốn cầu trở lại chân tánh thì cái muốn chân thật đó đã không phải là tánh chân như chân thật.
Về căn bản, vô minh không có thực chất riêng biệt, đo dó Tam tế thực sự cũng chẳng có cội gốc thực sự gì. Vậy nên thực là sai lầm nếu ông quyết định muốn quay trở lại với chân lý, quay trở lại căn cội để tìm kiếm chân lý. Ông sẽ càng khởi thêm hư vọng. Nếu muốn trở lại với chân tánh, ông đừng gia thêm sự sáng vào tánh giác ngộ, đừng gắn thêm cái đầu đã có, đừng tìm con lừa khi đang cưỡi lừa.
Cầu trở lại không đúng chân lý.
Đừng truy tìm chân lý vốn có, tốt hơn hết, ông chỉ cần hóa giải (THẤY THẬT TƯỚNG) vô minh (LÀ HƯ VỌNH), đó chính là chân lý. Không nhất thiết phải tìm kiếm gì khác. Lý do ông không nắm bắt được chân lý là vì ông đang giữ chặt lấy vô minh. Nếu biết vô minh không có thực chất thì ông đừng khởi vọng tưởng, đừng kiếm tìm chân lý. Khi vô minh diệt thì pháp tánh tự nhiên sẽ hiển thiện.
Hiển thành những phi tướng.
Không tìm chân lý, hoặc loại trừ vọng tưởng, cần thiết là phải phá vỡ vô minh, như vậy tự tánh giác ngộ sẽ tức thì hiện hữu. Nhưng nếu vô minh chưa phá mà vẫn kiếm tìm chân lý thì khác nào bỏ gốc, nắm lấy ngọn. Một khi vô minh diệt thì Tam tế cũng biến mất, cả lục thô cũng vậy.
Sutra:
One may wish to return to the truth, but that wish for the truth is already a falseness. The real nature of true suchness is not a truth that one can seek to return to. By doing so one misses the mark.
Commentary:
One may wish to return to the truth, but that wish for the truth is already a falseness. Basically, ignorance has no substance of its own, and as a consequence the three subtle appearances aren't really based on anything. Therefore, it is a mistake to decide that you want to "return to the truth," to go back to the source in order to seek for the truth.
You've just given rise to more falseness. If you want to return to the truth, you should merely refrain from adding brightness to enlightenment; just don't add a head on top of a head. Don't go looking for a donkey while riding on a donkey.
The real nature of true suchness is not a truth that one can seek to return to. It's not that you decide to return to inherent truth. Rather, you simply dispense with ignorance; that itself is the truth. There's no need to seek further. The entire reason you do not grasp the truth is that you are possessed with ignorance. If you discover that ignorance has no substance, then "you don't get rid of false thinking, and you don't seek the truth."
All you have to do is destroy ignorance, and the dharma nature manifests. By doing so one misses the mark. Basically one does not have to seek truth or cut off falseness. All one has to do is smash through ignorance, and one's enlightened nature appears spontaneously. But if one does not smash through ignorance and yet seeks the truth, one is doing what is called "letting go of the root and grasping at the branches." The first step is to break through ignorance. When ignorance is destroyed, the three subtle appearances also disappear, and so do the six coarse appearances. How can one seek truth when one has not destroyed ignorance? If one tries to do it that way, one ends up with more false appearances.
Kinh văn:
非Phi 生sanh 非phi 住trụ 。 非phi 心tâm 非phi 法pháp 。 展triển 轉chuyển 發phát 生sanh 。 生sinh 力lực 發phát 明minh 。 熏huân 以dĩ 成thành 業nghiệp 。 同đồng 業nghiệp 相tương 感cảm 。 因nhân 有hữu 感cảm 業nghiệp 相tương 滅diệt 相tương 生sanh 。 由do 是thị 故cố 有hữu 眾chúng 生sanh 顛điên 倒đảo 。
( Không phải sinh, không phải trụ, không phải tâm, không phải pháp. Xoay vần phát sinh và sinh lực phát huy, huân tập thành ra nghiệp báo, đồng nghiệp thì cảm với nhau, nhân đó mà cảm ra các nghiệp diệt nhau, sinh nhau, do đó mới có điên đảo về chúng sanh.)
Giảng giải:
Không phải sinh, là tướng sinh của vô minh, không phải trụ, chỉ nghiệp thức, đấy là thức thứ tám. Không phải tâm, chỉ về kiến phần, không phải pháp, chỉ về tướng phần. Những vô minh, nghiệp thức và kiến phần, tướng phần đều không có căn để, không có thực chất. Sự hiện hữu của chúng chỉ là giả tạo, không phải thực pháp, do đó nên xoay vần phát sinh, điều đó như sự liên hệ giữa mắt, tai mũi, lưỡi, thân và Ý vậy.
Và sinh lực phát huy, huân tập thành ra nghiệp báo, sự liên tục sinh khởi và triển chuyển làm phát huy sinh lực, càng phát triển càng hiển hiện, do đó mà mọi hoặc, nghiệp, khổ càng nhiều, càng mạnh mẽ. Đồng nghiệp thì cảm với nhau, do các quan hệ hỗ tương nên cùng diệt nhau, do đó mới có điên đảo về chúng sanh, các chúng sinh điên đảo vì vọng tưởng của chính mình.
Sutra:
What basically is not produced, what basically does not dwell, what basically is not the mind, and what basically are not dharmas arise through interaction. As they arise more and more strongly, they form the propensity to create karma. Similar karma sets up a mutual stimulus. Because of the karma thus generated, there is mutual production and mutual extinction. That is the reason for the upside-down state of living beings.
Commentary:
What basically is not produced refers to the ignorance which produces appearances. What basically does not dwell refers to karmic consciousness, which is to say the eighth consciousness. What basically is not the mind refers to the aspect of seeing. What basically are not dharmas refers to the aspect of appearances. Ignorance, karmic consciousness, and the aspects of seeing and appearances have no source and no substance of their own. Their very existence is illusory. Nonetheless, this sickness is contagious once it arises: that is what is meant by they arise through interaction.
It is the same as the interconnection of the eyes, ears, nose, tongue, body, and mind. As they arise more and more strongly, they form the propensity to create karma. Their continual arisal and transformation become powerful, and, so similarly, the karma they make increases. Ignorance, karmic consciousness, and the aspects of seeing and appearances aid one another; they borrow strength from one another. This interaction becomes stronger and stronger until, when it reaches its peak, they become fused and create karma.
Karmic obstacles arise. Similar karma sets up a mutual stimulus. Because of the karma thus generated, there is mutual production and mutual extinction. Because of this interconnection and mutual stimulation, production and extinction are created. That is the reason for the upside-down state of living beings. That's how living beings come to be and how they give rise to inversions.
Kinh văn:
阿A 難Nan 。 云vân 何hà 名danh 為vi 世thế 界giới 顛điên 倒đảo 。 是thị 有hữu 所sở 有hữu 。 分phân 段đoạn 妄vọng 生sanh 。 因nhân 此thử 界giới 立lập 。 非phi 因nhân 所sở 因nhân 。 無vô 住trụ 所sở 住trụ 。 遷thiên 流lưu 不bất 住trụ 。 因nhân 此thử 世thế 成thành 。 三tam 世thế 四tứ 方phương 。 和hòa 合hiệp 相tương 涉thiệp 。 變biến 化hóa 眾chúng 生sanh 成thành 十thập 二nhị 類loại 。
( A-Nan, thế nào gọi là điên đảo về thế giới? Do có cái sở hữu đó nên từng phần, từng đoạn giả dối sinh ra, vì thế mà giới thành lập, do phi nhân làm nhân, không có năng trụ, sở trụ nên dời đổi không dừng, nhân đó mà thế giới thành lập. Ba đời bốn phương hòa hiệp can thiệp nhau, chúng sinh biến hóa thành mười hai loại.)
Giảng giải:
A-Nan, thế nào gọi là điên đảo về thế giới?
A Nan, ta sẽ giảng về sự điên đảo của thế giới. Ông lắng nghe. Do có cái sở hữu đó. “Đó” – chỉ sự vô minh. “Cái sở hữu” là thân vọng tưởng của chúng sinh, nên từng phần, từng đoạn giả dối sinh ra, vô minh và chúng sinh.
“Phần” là chỉ căn thân của chúng sinh. “Đoạn” là chỉ đời người từ sinh đến tử. Nhân vì vô minh bất giác nên chúng sinh cứ mãi trôi lăn theo nghiệp, vọng tưởng là có sinh có tử, có căn thân giả tạo, vì thế mà giới thành lập, do phi nhân làm nhân, không có năng trụ, sở trụ nên dời đổi không dừng.
Vô minh là vô căn, là hư trống, nó không có thực chất. “Phi nhân” cũng là vô minh, nó không phải là cái nhân thực sự, chỉ vì vọng tưởng nên sinh ra thế giới. Do đó, thế giới cũng là hư trống, không thực, nó không có cảnh tướng thường trụ, cảnh tướng trụ của nó chỉ là hư vọng, luôn thay đổi không dừng, nhân đó mà thế giới thành lập.
Ba đời bốn phương, mọi ảnh hưởng hòa hiệp để tạo nên thế giới. Thế giới có ba đời là quá khứ, hiện tại, tương lai. Bốn phương là bốn hướng trong không gian, hòa hiệp can thiệp nhau, chúng sinh biến hóa thành mười hai loại, đấy là nhờ vào các động lực khác nhau.
Mười hai loại chúng sinh sẽ giảng giải phần sau.
Sutra:
Ananda, what is meant by the upside-down state of the world? All that exists comes from this; the world is set up because of the false arising of sections and shares. Every cause in fact has no cause; everything that is dependent has nothing on which it is dependent, and so it shifts and slides and is unreliable. Because of this, the world of the three periods of time and four directions comes into being. The union and interaction of times and direction bring about changes which result in the twelve categories of living beings.
Commentary:
Ananda, what is meant by the upside-down state of the world? Ananda, I will explain the inversions of the world. You should listen to this. All that exists comes from this. "This" refers to ignorance. "All that exists" refers to the physical bodies and faculties of living beings. The world is set up because of the false arising of sections and shares, of ignorance and living beings.
"Sections" refers to the individual bodies of living beings. "Shares" refers to their various lifespans. When beings give rise to ignorance, to an unenlightened thought, it is as if they have taken some drug which confuses them, or as if they had gotten drunk on too much wine. They no longer know what they should be doing. So they simply go along with their karma. Whatever karma they create, they undergo retribution for those deeds. This is why the world comes into being. Every cause in fact has no cause; everything that is dependent has nothing on which it is dependent, and so it shifts and slides and is unreliable.
Although ignorance is groundless and void, nonetheless it is the cause of this world. "No cause," then, refers to ignorance, which, being empty, cannot form a cause. And yet, illusory though it is, it gives rise to the world, "every cause." The world is empty, too, then, and since it is empty, it cannot be relied upon. And yet, it appears it can be relied upon. "Everything that is dependent has nothing on which it is dependent." Basically, the world is not something on which anything can be dependent, but because living beings give rise to false attachment and false emotion, they become something "that is dependent." This dependency is a manifestation of their karmic consciousness. But since the whole situation is basically empty, basically non-existent, basically causeless and unreliable, things "shift and slide and are unreliable."
The entire circumstance is never-ending and always in a state of flux. Because of this, the world of the three periods of time and four directions comes into being. All these influences combine to create the world. The world has three periods of time: past, present, and future. It also has four aspects of space: the four directions. The union and interaction of times and direction bring about changes which result in the twelve categories of living beings. They borrow on one another's strength. The twelve categories of living beings will be discussed below.
Kinh văn:
是Thị 故cố 世thế 界giới 因nhân 動động 有hữu 聲thanh 。 因nhân 聲thanh 有hữu 色sắc 。 因nhân 色sắc 有hữu 香hương 。 因nhân 香hương 有hữu 觸xúc 。 因nhân 觸xúc 有hữu 味vị 。 因nhân 味vị 知tri 法pháp 。
六lục 亂loạn 妄vọng 想tưởng 成thành 業nghiệp 性tánh 故cố 。 十thập 二nhị 區khu 分phân 。 由do 此thử 輪luân 轉chuyển 。
( Vậy nên trong thế giới, nhân động nên có tiếng, nhân tiếng nên có sắc, nhân sắc có hương, nhân hương có xúc, nhân xúc có vị, nhân vị nên biết pháp, sáu vọng tưởng càn loạn thành ra nghiệp tánh, mười hai đối hiện, do đó mà xoay chuyển mãi mãi.)
Giảng giải:
Vậy nên trong thế giới, nhân động nên có tiếng, do có động nên sinh ra âm thanh, tiếng vang.
Nhân tiếng nên có sắc, khi có tiếng vang thì liền có sắc.
Nhân sắc có hương, sắc tác động làm khởi hương.
Nhân hương có xúc, nhân xúc có vị, nhân vị nên biết pháp, sáu vọng tưởng càn loạn thành ra nghiệp tánh.
Sáu cảnh ở đây là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Cả sáu loại vọng tưởng ấy được xem như những tên trộm cắp. Chúng tạo nghiệp rất mạnh. Và mười hai đối hiện, do đó mà xoay chuyển mãi mãi, đấy là nguyên nhân tựu thành mười hai loại chúng sinh, do nghiệp chiêu cảm nghiệp quả, lại từ quả báo thọ sinh mười hai loại, sống đây chết đó, luân chuyển trong các nẻo đến không bao giờ dứt.
Sutra:
That is why, in this world, movement brings about sounds, sounds bring about forms, forms bring about smells, smells bring about contact, contact brings about tastes, and tastes bring about awareness of dharmas. The random false thinking resulting from these six creates karma, and this continuous revolving becomes the cause of twelve different categories.
Commentary:
That is why, in this world, movement brings about sounds. Because of the appearance of movement, the defiling object of sounds arises. Sounds bring about forms. Once the defiling object of sounds exists, the defiling object of forms comes into being. Forms bring about smells. Forms influence the arising of smells. Smells bring about contact, contact brings about tastes, and tastes bring about awareness of dharmas. The random false thinking resulting from these six creates karma.
The "six" refer to forms, sounds, smells, tastes, contact, and dharmas. These six create scattered false thoughts and together they play tricks. They are a gang of thieves. They plunder and rob. They create karma. And this continuous revolving becomes the cause of twelve different categories. The interactions of the six defiling organs make continuous karma, which divides into twelve distinct types. From this, beings undergo continual rebirth in the six paths.
Kinh văn:
是Thị 故cố 世thế 間gian 聲thanh 香hương 味vị 觸xúc 。 窮cùng 十thập 二nhị 變biến 為vi 一nhất 旋lữ 復phục 。
( Do đó, trong thế gian, những thanh, hương, vị, xúc biến đổi tột cùng, đến mười hai lần vần trở lại.)
Giảng giải:
Do đó, trong thế gian, những thanh, hương, vị, xúc, đấy là sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp - biến đổi tột cùng, đến mười hai lần xoay trở lại, sau khi biến đổi, chúng lại tiếp tục biến đổi cùng tận đến mười hai cách thì xoay trở lại cách ban đầu.
Sáu trần ở đây là duyên tạo nghiệp, nghiệp tánh là nhân của luân hồi, do nhân duyên hòa hợp sinh ra hư vọng, luân hồi không dứt, do vậy nên thường có chúng sinh.
Sutra:
And so, in the world, sounds, smells, tastes, contact, and the like, are each transformed throughout the twelve categories to make one complete cycle.
Commentary:
And so, in the world, sounds, smells, tastes, contact, and the like, that is, forms, sounds, smells, tastes, contacts, and dharmas, are each transformed throughout the twelve categories to make one complete cycle. There is one change after another as they go through the twelve categories, until a complete revolution is made.
These changes can be explained in two ways: first, each defiling sense-object relates to each category of beings, so that there are womb-born sounds, egg-born sounds, and so forth, up to and including womb-born dharmas, and egg-born dharmas.
The other explanation is that each kind of being complete with the six faculties goes through each category of rebirth in a sequence, based on the weight of its particular karma. Thus if one's thinking is predominant, one becomes first an egg-born being, and so forth.
V
MƯỜI HAI LOẠI CHÚNG SINH
( The Twelve Categories of Living Beings )
Nếu Qúy-vị muốn tất cả chúng-sanh cung kính yêu mến lẫn nhau, thì phải tu LỄ-KÍNH CHƯ PHẬT trong ba đời, đặt biệt là CHƯ PHẬT TRONG ĐỜI VỊ LAI như BỒ-TÁT “THƯỜNG BẤT-KINH” TRONG KINH PHÁP HOA, THƯỜNG CHẤP TAY CUNG KÍNH LỄ BÁI TẤT CẢ MỌI NGƯỜI MÀ NÓI LỜI RẰNG:
“ Tôi rất kính “QÚY NGÀI” chẳng dám khinh mạn. Vì sao ? Vì QÚY NGÀI đều tu hành đạo Bồ tát sẽ đặng làm Phật.”
KINH-VĂN:
Ðức Oai-Âm-Vương Như-Lai dầu hết diệt độ rồi, sau lúc chánh-pháp đã diệt trong đời tượng-pháp những Tỳ-kheo tăng-thượng-mạn có thế lực lớn. Bấy giờ, có vị Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Kinh. Ðắc-Ðại-Thế! Vì cớ gì tên là Thường Bất Kinh ?
Vì vị Tỳ-kheo đó phàm khi ngó thấy hoặc Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, hoặc ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, thảy đều lễ lạy khen-ngợi mà nói rằng: "Tôi rất kính quí ngài chẳng dám khinh-mạn.
Vì sao ? Vì qúi ngài đều tu-hành đạo Bồ-tát sẽ đặng làm Phật."
Tất cả chư Phật trong ba đời
Ở nơi thế giới khắp mười phương
Tôi đem thân ngữ ý trong sạch
Khắp lạy chư Phật không hề sót
Sức oai thần hạnh nguyện Phổ Hiền
Phân thân hiện khắp trước Như Lai
Một thân lại hiện sát trần thân
Mỗi thân lạy khắp sát trần Phật
BỒ-TÁT PHỔ-HIỀN LẠY TẤT CẢ CHÚNG-SANH VÌ HỌ LÀ CHƯ PHẬT TRONG ĐỜI VỊ LAI. CHÚNG SANH VỀ HÌNH TƯỚNG THÌ VÔ-LƯỢNG VÔ-BIÊN, CÒN VỀ TÁNH THÌ CHÚNG SANH CÙNG CHƯ PHẬT CÓ CÙNG 1 TÁNH PHÁP GIỚI, CŨNG RỘNG VÔ-LƯỢNG VÔ BIÊN.
NÓI TÓM LẠI, THÌ CÓ 12 LOẠI CHÚNG SANH SẼ THÀNH PHẬT TRONG TƯƠNG LAI.
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
12 CHỦNG-LOẠI CHÚNG-SANH
1) Noãn
2) Thai
3) Thấp
4) Hóa
5) Hữu-sắc
6) Vô-sắc
7) Hữu-tưởng
8) Vô-tưởng
9) Phi-hữu-sắc
10) Phi-vô-sắc
11) Phi-hữu-tưởng
12) Phi-vô-tưởng
Tôi rất kính QÚY NGÀI chẳng dám khinh mạn. Vì sao ? Vì QÚY NGÀI đều tu hành đạo Bồ tát sẽ đặng làm Phật.
12 CHỦNG-LOẠI CHÚNG-SANH do đâu mà có?
Do điên đảo cho rằng thật có CHÚNG-SANH và THẾ-GIỚI, như khi chuyển phiền não thành BỒ-ĐỀ, chuyển sanh tử thành NIẾT-BÀN, thì bản lai không có THẾ GIỚI CHÚNG SANH.
KINH-VĂN:
Phật dạy: "A-nan, nên biết diệu-tính là viên-minh, rời các danh-tướng, bản-lai không có thế-giới chúng-sinh. Nhân cái vọng mà có sinh, nhân cái sinh mà có diệt, sinh-diệt gọi là vọng, diệt vọng gọi là chân, ấy gọi là hai hiệu chuyển-y vô-thượng Bồ-đề và Đại-niết-bàn của Như-lai.
A-nan, nay ông muốn tu pháp CHÂN-TAM-MA-ĐỊA, đến thẳng Đại-niết-bàn của Như-lai, trước hết, phải biết hai cái nhân điên-đảo của thế-giới và chúng-sinh nầy; điên-đảo không sinh, đó là CHÂN-TAM-MA-ĐỊA của Như-lai.
(KINH LĂNG NGHIÊM)
Kinh văn:
乘Thừa 此thử 輪luân 轉chuyển 顛điên 倒đảo 相tương 故cố 。 是thị 有hữu 世thế 界giới 卵noãn 生sanh 。 胎thai 生sanh 。 濕thấp 生sanh 。 化hóa 生sanh 。 有hữu 色sắc 。 無vô 色sắc 。 有hữu 想tưởng 。 無vô 想tưởng 。 若nhược 非phi 有hữu 色sắc 。 若nhược 非phi 無vô 色sắc 。 若nhược 非phi 有hữu 想tưởng 。 若nhược 非phi 無vô 想tưởng 。
( Dựa theo những tướng điên đảo xoay vần đó, nên trong thế giới có các loài noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, hoặc phi hữu sắc, hoặc phi vô sắc, hoặc phi hữu tưởng, hoặc phi vô tưởng.)
Giảng giải:
Dựa theo những tướng điên đảo xoay vần đó.
Tác động qua lại của sáu trần và mười hai loại chúng sinh nên hình thành những điên đảo, nên trong thế giới có các loài noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, đấy là bốn loại sinh.
Có 4 duyên cần thiết để sinh từ trứng (NOÃN SINH):
1. Cha
2. Mẹ
3. Nghiệp căn
4. Hơi ấm.
Có 3 duyên để THAI SINH:
1. Cha
2. Mẹ
3. Nghiệp căn
Có 2 duyên cần thiết của THẤP SINH:
1. Nghiệp căn
2. Khí ẩm thấp.
Về HÓA SINH thì chỉ cần 1 duyên:
1. Đó là nghiệp căn.
Tùy vào nghiệp thức, các chúng sinh hóa sinh theo ý muốn, họ có thể biến, hiện cõi này, cõi nọ. Bốn loại chúng sinh: hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, hoặc phi hữu sắc.
Các chúng sinh này không phải là có sắc, cũng không phải là không có sắc. Hoặc phi hữu tưởng, hoặc phi vô tưởng, đấy không phải là có tưởng, hoặc không có tưởng. Đấy là mười hai loại chúng sinh. Vì thời gian có hạn nên không thể giảng rộng, tôi chỉ nêu đại ý như vậy.
Sutra:
The appearance of being upside down is based on this continuous process. Therefore, in the world there are those born from eggs, those born from wombs, those born from moisture, those born by transformation, those with form, those without form, those with thought, those without thought, those not totally endowed with form, those not totally lacking form, those not totally endowed with thought, and those not totally lacking thought.
Commentary:
The appearance of being upside down is based on this continuous process. The mutual interaction of the six defiling objects and the twelve categories of living beings brings about the appearance of the upside-down state. Therefore, in the world there are those born from eggs, those born from wombs, those born from moisture, those born by transformation. These are four categories of birth.
There are four conditions necessary for birth from an egg to occur:
1. the condition of a father;
2. the condition of a mother;
3. the condition of individual karma;
4. the condition of warmth.
There are three conditions necessary for birth from wombs to occur:
1. the condition of a father;
2. the condition of a mother;
3. the condition of individual karma.
There are two conditions necessary for birth from moisture to occur:
1. the condition of individual karma;
2. the condition of moisture.
Birth by transformation needs only one condition:
1. the condition of individual karma.
Based on one's own karmic consciousness, one transforms as one wishes. One can appear and disappear at will. The next four categories of living beings are those with form, those without form, those with thought, and those without thought, also those not totally endowed with form, it's not that they have form, and yet it's not that they lack form, those not totally lacking form, those not totally endowed with thought, and those not totally lacking thought, it's not that they have thought, and yet it's not that they lack thought. These are the twelve categories of living beings. Because time is limited, each category cannot be described in great detail. A simple explanation will have to suffice.
1) NOÃN-SINH
(Egg-born)
Kinh văn:
阿A 難Nan 。 由do 因nhân 世thế 界giới 虛hư 妄vọng 輪luân 迴hồi 動động 顛điên 倒đảo 故cố 。 和hòa 合hợp 氣khí 成thành 八bát 萬vạn 四tứ 千thiên 飛phi 沉trầm 亂loạn 想tưởng 。 如như 是thị 故cố 有hữu 。 卵noãn 羯yết 邏la 藍lam 。 流lưu 轉chuyển 國quốc 土độ 。 魚ngư 鳥điểu 龜quy 蛇xà 。 其kỳ 類loại 充sung 塞tắc 。
( A-Nan, do vì thế giới có hư vọng luân hồi, điên đảo về động nên hòa hợp với khí, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng bay lặn, vì vậy nên có mầm trứng trôi lăn trong các cõi nước: cá, chim, rùa, rắn, rất nhiều các loại.)
Giảng giải:
A-Nan, do vì thế giới có hư vọng luân hồi, điên đảo về động.
Chúng ta đã biết vọng khởi không phải là chân tánh, và từ Vô minh hữu hiện cả Tam tế, lục thô, thành ra hư vọng nối tiếp nhau trong vòng luân hồi bất tuyệt. Nghiệp là do động, và từ động sinh ra điên đảo, nên hòa hợp với khí, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng bay lặn.
“Khí” là tạo tác của nghiệp. “Tưởng bay”, chỉ chung các loài chim khác. “Tưởng lặn”, chỉ loài bò sát, lưỡng cư. Vì vậy do các tưởng nên có mầm trứng.
“Mầm” trong tiếng Sanskrit là YẾT-LA-LAM, có nghĩa là “KẾT ĐÔNG LẠI”, TỨC LÀ NHÓM TRỨNG ĐƯỢC THỌ SANH LÚC ĐẦU. Sinh từ trứng là do tưởng và 4 DUYÊN như đã nói qua. Những mầm ấy trôi lăn trong các cõi nước: cá, chim, rùa, rắn.
Chúng có rất nhiều và ở khắp nơi. Cá lội trong nước, chim bay trên không, và ếch nhái, là loài lưỡng cư, sống được trên cạn và dưới nước. Các loài bò sát khác như rắn, rùa, rất nhiều các loại trên mặt đất.
Sutra:
Ananda, through a continuous process of falseness, the upside-down state of movement occurs in this world. It unites with energy to become eighty-four thousand kinds of random thoughts that either fly or sink. From this there come into being the egg kalalas which multiply throughout the lands in the form of fish, birds, amphibians, and reptiles, so that their kinds abound.
Commentary:
Ananda, through a continuous process of falseness, the upside-down state of movement occurs in this world. We have learned that falseness arises out of truth, and that out of ignorance arise the three subtle and six coarse appearances, which in turn become numerous empty false appearances. Within the turning cycle of rebirth this process goes on continuously. The arising of karma belongs to movement, so movement is a further creation of the upside-down state. It unites with energy to become eighty-four thousand kinds of random thoughts that either fly or sink.
"Energy" refers to the karma that is created. "Thoughts that fly" refers to the category of birds and the like. "Thoughts that sink" refers to the category of reptiles and amphibians. From this, because of all these scattered thoughts, there come into being the egg kalalas. "Kalala" is a Sanskrit word that means "slippery coagulation"; it refers to the foetus resulting from the union of the male semen and female blood in its first week of development.
Birth from an egg is a result of thought and the four conditions listed above. These kalalas multiply throughout the lands in the form of fish, birds, amphibians, and reptiles. They multiply and spread everywhere. Fish swim in the water, birds fly in the air, and frogs, which can live both in and out of the water, are amphibians. Snakes and turtles belong to the reptile class. These kinds of beings multiply until their kinds abound. They spread throughout all the lands of the world.
2) THAI-SINH
( Womb-born )
Kinh văn:
由Do 因nhân 世thế 界giới 雜tạp 染nhiễm 輪luân 迴hồi 。 欲dục 顛điên 倒đảo 故cố 。 和hòa 合hợp 滋tư 成thành 八bát 萬vạn 四tứ 千thiên 橫hoành 豎thụ 亂loạn 想tưởng 。 如như 是thị 故cố 有hữu 。 胎thai 遏yết 蒲bổ 曇đàm 。 流lưu 轉chuyển 國quốc 土độ 。 人nhân 畜súc 龍long 仙tiên 。 其kỳ 類loại 充sung 塞tắc 。
( Nhân trong thế giới có tạp nhiễm luân hồi, điên đảo về dục, nên hòa hợp với tư, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng ngang dọc, như vậy nên có bọc thai trôi lăn trong cõi nước – người, súc, rồng, tiên, rất nhiều các loại.)
Giảng giải:
Đoạn này bàn về thai sinh. Thai sinh là do lòng dục. Sự ái dục sẽ làm thành bào thai. Loài người, thú, rồng, và tiên đều sinh theo cách này. Nhân trong thế giới có tạp nhiễm luân hồi, điên đảo về dục.
“Tạp nhiễm” là bất tịnh, không trong sạch, hỗn tạp, “luân hồi” là XOAY VẦN TRONG sáu nẻo, hoặc làm người, làm súc vật, làm rồng, làm tiên – đều do dục tưởng và ham muốn thành điên đảo.
Điên đảo là hành vi trái luật, hoặc không theo đúng pháp. Chính vì lòng dục nên hòa hợp với tư, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng ngang dọc. “Tư” LÀ TƯ TƯỞNG HAM MUỐN ÁI DỤC, như vậy nên có bọc thai trôi lăn trong cõi nước – người, súc, rồng, tiên, rất nhiều các loại.
Sinh từ thai – đây là động vật có vú, hình thành do ái dục và ba điều kiện: cha, mẹ và nghiệp nhân. “Bọc thai” tiếng Sanskrit LÀ “YẾT-BỔ-ĐÀM”, tức là bọc trứng bắt đầu phát triển từ tuần lễ thứ hai. Các loài người, thú, rồng, tiên có nhiêu các nơi trên mặt đất.
Sutra:
Through a continuous process of defilement, the upsidedown state of desire occurs in this world. It unites with stimulation to become eight-four thousand kinds of random thoughts that are either upright or perverse. From this there come into being the womb arbudas, which multiply throughout the world in the form of humans, animals, dragons, and immortals until their kinds abound.
Commentary:
This passage discusses womb-born beings. Womb-born beings exist because of emotion. When emotional love reaches its peak and intercourse results, the womb-born being is conceived. Human beings, animals, dragons, and immortals are born in this way. Through a continuous process of defilement, the upside-down state of desire occurs in this world. "Defilement" refers to what is unclean, disorderly, and confused. The "continuous process" can refer to the six paths of rebirth, or it can refer to a single being's cycle, a rebirth among humans, animals, dragons, and immortals.
Thoughts of love and desire are upside down. Doing what one should not do is to be upside down. Doing what is against the law or not in accord with dharma is to be upside down. The desire unites with stimulation to become eighty four thousand kinds of random thoughts that are either upright or perverse. "Stimulation" refers to the creation of karma, to the acting out of the desire.
From this there come into being the womb arbudas, which multiply throughout the world in the form of humans, animals, dragons, and immortals until their kinds abound. Birth from a womb, that of mammals, is a result of emotion and the three conditions of father, mother, and individual karma.
Warmth, a condition necessary for egg-born beings, is not necessary for birth from a womb. "Arbuda" is a Sanskrit word which means "globule" and refers to the foetus in its second week of development. These kinds of beings, humans, animals, dragons, and immortals, spread throughout every land.
3) THẤP-SINH
( Moisture-born )
Kinh văn:
由Do 因nhân 世thế 界giới 執chấp 著trước 輪luân 迴hồi 。 趣thú 顛điên 倒đảo 故cố 。 和hòa 合hợp 煖noãn 成thành 八bát 萬vạn 四tứ 千thiên 翻phiên 覆phú 亂loạn 想tưởng 。 如như 是thị 故cố 有hữu 濕thấp 相tướng 蔽tế 尸thi 。 流lưu 轉chuyển 國quốc 土độ 。 含hàm 蠢xuẩn 蝡nhuyễn 動động 。 其kỳ 類loại 充sung 塞tắc 。
( Nhân trong thế giới có chấp trước luân hồi, điên đảo về thú, nên hòa hợp với noãn, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng nghiêng ngửa, vậy nên có tế thi thấp sinh trôi lăn trong cõi nước, nhung nhúc quậy động, rất nhiều các loại.)
Giảng giải:
Đoạn này bàn về thấp sinh. Sinh từ nơi ẩm thấp là do hơi ẩm và hai điều kiện: Nghiệp cá nhân và khí ẩm.
Nhân trong thế giới có chấp trước luân hồi, điên đảo về thú.
“Chấp trước” là nắm giữ và không thể thay đổi. Do chấp trước nên phải chịu xoay vần trong luân hồi.
“Thú” là ý hướng, khuynh hướng về một điều gì đó, nên hòa hợp với noãn, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng nghiêng ngửa.
“Noãn”, khí ẩm là tạo tác của nghiệp. “Nghiêng” dao động, không vững. “Ngửa” là đảo ngược lại. Vậy nên có tế thi thấp sinh trôi lăn trong cõi nước, nhung nhúc quậy động, rất nhiều các loại. “Tế thi” TIẾNG Sanskrit, tức là HÌNH TƯỚNG BAN ĐẦU CỦA LOÀI THẤP -SANH.
“Thấp sinh”, chỉ các loại động vật nhỏ sinh ra từ nơi ẩm thấp như côn trùng, ruồi, muỗi. Chúng ở khắp nơi trên mặt đất.
Thường, chúng ta không để ý, nhưng thực sự cả mười hai loại đều liên quan nhau. Con người cũng liên quan đến các loài như vậy.
Sutra:
Through a continuous process of attachment, the upsidedown state of inclination occurs in this world. It unites with warmth to become eighty-four thousand kinds of random thoughts that are vacillating and inverted. From this there come into being through moisture the appearance of peshis, which multiply throughout the lands in the form of insects and crawling invertebrates, until their kinds abound.
Commentary:
This passage discusses beings born from moisture. Birth from moisture is a result of warmth and the two conditions of individual karma and moisture. Through a continuous process of attachment, the upside-down state of inclination occurs in this world. "Attachment" refers to clinging and being unable to change. Beings whose natures are attached undergo the turning wheel of rebirth.
"Inclination" refers to a tendency to go in certain directions or toward certain things. The inclination unites with warmth to become eighty-four thousand kinds of random thoughts that are vacillating and inverted. "Warmth" refers to the creation of karma. "Vacillating" means fluttering. "Inverted" means covered.
From this there come into being through moisture the appearance of peshis, which multiply throughout the lands in the form of insects and crawling invertebrates, until their kinds abound. "Peshi" is a Sanskrit word which means "soft flesh"; it refers to all initial stage of development of beings born from moisture. "Insects and crawling invertebrates" refer to small worms, bugs, and microscopic-organisms, simple forms of life.
These creatures breed in ponds and pools or whereever there is moisture. They are found everywhere throughout the world. Ordinary people cannot observe it, but all twelve types of beings are in fact interrelated. People have a connection with all these other kinds of beings.
4) HÓA-SINH
( Transformation-born )
Kinh văn:
由Do 因nhân 世thế 界giới 變biến 易dịch 輪luân 迴hồi 假giả 顛điên 倒đảo 故cố 。 和hòa 合hợp 觸xúc 成thành 八bát 萬vạn 四tứ 千thiên 新tân 故cố 亂loạn 想tưởng 。 如như 是thị 故cố 有hữu 。 化hóa 相tướng 羯yết 南nam 。 流lưu 轉chuyển 國quốc 土độ 。 轉chuyển 蛻thuế 飛phi 行hành 。 其kỳ 類loại 充sung 塞tắc 。
( Nhân trong thế giới có biến dịch luân hồi, điên đảo về giả, nên hòa hợp với xúc, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng mới cũ, vậy nên có yết nam hóa sinh trôi lăn trong các cõi nước, chuyển thoái, phi hành, các loài rất nhiều.)
Giảng giải:
Đoạn này bàn về Hóa sinh – điều kiện chỉ là nghiệp của tự thể. Do nghiệp thức nên ưa thích mới, nhàm chán cũ, và liền được hóa sinh. Chẳng hạn, vài loại chuột có thể hóa sinh thành dơi. Và loại chim chuyển sinh thành cá, hoặc loài sống được ở dưới nước và trên bờ. Hoặc sâu chuyển thành bướm. Sự thay đổi và chuyển hóa này đều do tưởng điên đảo hình hành.
Nhân trong thế giới có biến dịch luân hồi, điên đảo về giả, đấy là sự vay mượn tới lui, đổi thay và chuyển hóa của các sinh vật, nên hòa hợp với xúc, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng mới cũ. Có vài loại sinh vật nhàm chán những gì cũ kỹ, chúng ham muốn có điều gì đó mới lạ hơn.
Chẳng hạn muốn thành chim biết bay, muốn chuyển thành loài sống được ở dưới nước và trên bờ, như ếch chẳng hạn. Các loài sâu bướm, ấu trùng, giòi, chán việc trườn, bò muốn đổi thành côn trùng, như bướm chẳng hạn. Vài loài chuột đã chán thân chuột, muốn biến đổi thành dơi. Những ví dụ ấy đều chỉ sự hóa sinh.
Vậy nên có yết nam hóa sinh trôi lăn trong các cõi nước. Yết nam là tiếng PHẠN là do LOẠN TƯỞNG KIÊN CỐ HÒA HIỆP LÀM THÀNH 84 NGÀN CHỦNG LOẠI– đây là trường hợp biến hình của động vật, là loại chuyển biến thoái hóa. Các loài hóa sinh này có khắp thế giới, chuyển thoái, phi hành, các loài rất nhiều.
Các sinh vật bò, trườn, chuyển biến thành chim chóc, hoặc loài chim chuyển thành loài bơi lội. Sự chuyển hóa giữa các loài có rất nhiều.
Sutra:
Through a continuous process of change, the upside-down state of borrowing occurs in this world. It unites with contact to become eighty-four thousand kinds of random thoughts of new and old. From this there come into being through transformation the appearance of ghanas, which multiply throughout the lands in the form of metamorphic flying and crawling creatures, until their kinds abound.
Commentary:
This section discusses birth by transformation. Only one condition is required, the condition of individual karma. If one's karma is such that one delights in what is new and grows tired of what is old, then birth by transformation can occur. So it is that some mice can be transformed into bats. Some birds can turn into fish or amphibians. Caterpillars can turn into butterflies. This kind of upside-down state among creatures causes them to change and transform. Through a continuous process of change, the upsidedown state of borrowing occurs in this world. Because there is a borrowing back and forth, changes and transformations take place among creatures.
It unites with contact to become eighty-four thousand kinds of random thoughts of new and old. Some creatures despise the old and enjoy the new. They get tired of what is old and want to trade it for something new. And so a bird may tire of being a bird and wish to change into an amphibian, such as a frog. Some caterpillars, grubs, or maggots tire of being worms and want to change into insects, such as butterflies. Some mice tire of being mice and want to change into bats.
These are all examples of the birth of beings by transformation. From this there come into being through transformation the appearance of ghanas, which multiply throughout the lands. "Ghana" is a Sanskrit word which means "solid flesh," referring in this case to the bodies of metamorphic beings.
All the subsequent categories of beings use the term "ghana" to represent their development. These transformation- born beings spread throughout the world in the form of metamorphic flying and crawling creatures, until their kinds abound. Crawling creatures turn into flying creatures; flying creatures can turn into creatures that swim. They transform among one another, and their kinds abound.
5) HỮU-SẮC
( Having form )
Kinh văn:
由Do 因nhân 世thế 界giới 留lưu 礙ngại 輪luân 迴hồi 障chướng 顛điên 倒đảo 故cố 。 和hòa 合hợp 著trước 成thành 八bát 萬vạn 四tứ 千thiên 精tinh 耀diệu 亂loạn 想tưởng 。 如như 是thị 故cố 有hữu 色sắc 相tướng 羯yết 南nam 。 流lưu 轉chuyển 國quốc 土độ 。 休hưu 咎cữu 精tinh 明minh 。 其kỳ 類loại 充sung 塞tắc 。
( Nhân trong thế giới có lưu ngại luân hồi, điên đảo về chướng – nên hòa hợp với trước, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng tinh diệu, vì vậy nên có yết nam sắc tướng trôi lăn trong cõi nước, hưu cửu, tinh minh, các loài rất nhiều.
Giảng giải:
Đoạn này bàn về hữu sắc.
Nhân trong thế giới có lưu ngại luân hồi, điên đảo về chướng. Ngại là ngăn cản, gây chướng ngại, có nhiều sắc, chướng ngại đan xen nhau, nên hòa hợp với trước, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng tinh diệu.
“Trước” là tạo nghiệp, do chấp trước nên làm khuất đi ánh sáng chân tâm, vì vậy nên có yết nam sắc tướng trôi lăn trong cõi nước. Đây là loài phát sáng như mặt trời mặt trăng, loại mang điềm lành gọi là HƯU, có điểm dữ gọi là CỬU; ở NGỌC TRAI là do PHÁT SÁNG của ĐOM ĐÓM và HÀU tạo thành, các loài như vậy có rất nhiều.
Sutra:
Through a continuous process of restraint, the upsidedown state of obstruction occurs in this world. It unites with attachment to become eighty-four thousand kinds of random thoughts of refinement and brilliance. From this there come into being the ghanas of appearance that possess form, which multiply throughout the lands in the form of auspicious and inauspicious essences, until their kinds abound.
Commentary:
This section discusses beings with form. Through a continuous process of restraint, the upside-down state of obstruction occurs in this world. "Restraint" refers to detaining and hindering. Many circumstances unite to form an obstruction. It unites with attachment to become eighty-four thousand kinds of random thoughts of refinement and brilliance. "Attachment" refers to the actualizing of karma.
These kinds of beings are extremely intelligent. From this there come into being the ghanas of appearance that possess form, which multiply throughout the lands. This kind of solid flesh has form. These beings appear in the form of auspicious and inauspicious essences, until their kinds abound. These brilliant beings have form, and sometimes it is extremely auspicious for people to see them, though it may be very inauspicious for other people to see them.
Although these beings have form, they are not a common sight. Fireflies and pearl-producing oysters are examples of this category of beings. Even though they are rarely seen, they do exist. These kinds of living beings also abound in the universe.
6) VÔ-SẮC
( Without form )
Kinh văn:
由Do 因nhân 世thế 界giới 銷tiêu 散tán 輪luân 迴hồi 。 惑hoặc 顛điên 倒đảo 故cố 。 和hòa 合hợp 暗ám 成thành 八bát 萬vạn 四tứ 千thiên 。 陰âm 隱ẩn 亂loạn 想tưởng 。 如như 是thị 故cố 有hữu 無vô 色sắc 羯yết 南nam 。 流lưu 轉chuyển 國quốc 土độ 。 空không 散tán 銷tiêu 沉trầm 。 其kỳ 類loại 充sung 塞tắc 。
( Nhân trong thế giới có tiêu tán luân hồi, điên đảo về hoặc nên hòa hợp với ám, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng, thầm ẩn, vậy nên có yết nam vô sắc trôi lăn trong cõi nước; không tán tiêu trầm, các loại rất nhiều. )
Giảng giải:
Đoạn này bàn về các chúng vô sắc, tức các chư Thiên cõi Vô sắc giới.
Nhân trong thế giới có tiêu tán luân hồi, điên đảo về hoặc. Mặc dù “tiêu” và “tán” bao hàm sự dứt diệt, không tồn tại, chẳng còn thấy gì, nhưng ở đây vẫn có sự hiện hữu, đấy là thức và nghiệp, tức là vẫn có các chúng – đấy là sự tái sinh.
“Hoặc” là MÊ VỌNG, nó là một loại vô minh làm cho điên đảo, hoặc nên hòa hợp với ám, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng, thầm ẩn. Nghiệp rất khó cảm nhận, và do đó nó gây ra vô số loạn tưởng.
“Thầm” và “Ẩn” là loại ý tưởng khó nhận biết. Vậy nên có yết nam vô sắc trôi lăn trong cõi nước. Chúng phát triển cùng khắp, không tán tiêu trầm, các loại rất nhiều. “Không” là không vô biên sắc thiên. “Tán” là phi tưởng, phi phi tưởng xứ thiên. Các chúng sinh ấy hiện hữu là do thức nghiệp, không có sắc tướng và có rất nhiều trong thế giới.
Sutra:
Through a continuous process of annihilation and dispersion, the upside-down state of delusion occurs in this world. It unites with darkness to become eighty-four thousand kinds of random thoughts of obscurity and hiding. From this there come into being the ghanas of formless beings, which multiply throughout the lands as those that are empty, dispersed, annihilated, and submerged until their kinds abound.
Commentary:
This section discusses beings without form; it refers to beings in the heavens of the formless realm. Through a continuous process of annihilation and dispersion, the upside-down state of delusion occurs in this world. Although "annihilation and dispersion" implies total negation, so that one sees nothing, there still exists, nonetheless, a consciousness and karma, which are what these beings are composed of.
Therefore, there is rebirth. "Delusion" refers to a lack of clarity, which comes about because of ignorance and through being upside down. It unites with darkness to become eighty-four thousand kinds of random thoughts of obscurity and hiding. Imperceptibly there is karma which invisibly becomes these myriad random thoughts.
"Obscurity and hiding" means that these thoughts are not easy to detect. From this there come into being the ghanas of formless beings, which multiply throughout the lands. They spread through every land, as those that are empty, dispersed, annihilated, and submerged until their kinds abound. "Empty" refers to beings in the Heaven of Boundless Emptiness. "Dispersed" refers to beings in the Heaven of Boundless Consciousness.
"Annihilated" refers to beings in the Heaven of Nothing Whatsoever, and "submerged" refers to beings in the Heaven of Neither Thought Nor Non-Thought. So these are beings of the Heavens of the Four Stations of Emptiness in the formless realm. These beings are endowed with a karmic consciousness, but no physical form. These beings, too, abound in the world.
7) HỮU-TƯỞNG
( Having thought )
Kinh văn:
由Do 因nhân 世thế 界giới 罔võng 象tượng 輪luân 迴hồi 。 影ảnh 顛điên 倒đảo 故cố 。 和hòa 合hợp 憶ức 成thành 八bát 萬vạn 四tứ 千thiên 。 潛tiềm 結kết 亂loạn 想tưởng 。 如như 是thị 故cố 有hữu 想tưởng 相tướng 羯yết 南nam 。 流lưu 轉chuyển 國quốc 土độ 。 神thần 鬼quỷ 精tinh 靈linh 。 其kỳ 類loại 充sung 塞tắc 。
( Nhân trong thế giới có võng tượng luân hồi, điên đảo về ảnh nên hòa hợp với ức, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng tiềm kết, vậy nên có yết nam hữu tưởng trôi lăn trong cõi nước, thần quỷ tinh linh, các loài rất nhiều.
Giảng giải:
Nhân trong thế giới có võng tượng luân hồi, điên đảo về ảnh.
Phần này bàn về các chúng sinh hữu tưởng, nhưng vô sắc. Các chúng sinh ấy như là thần, quỷ, tinh linh. Do vọng chấp ảnh tượng nên hòa hợp với ức, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng tiềm kết.
Do tiềm ẩn nên không ai hay biết. Các loạn tưởng của chúng thầm kết, vậy nên có yết nam hữu tưởng trôi lăn trong cõi nước, thần quỷ tinh linh, các loài rất nhiều.
Hữu tưởng ở đây không phải là loại tưởng của noãn sinh, mà là loại vọng tưởng tạo tác. Có một số QỦY-VƯƠNG là do chư ĐẠI BỒ-TÁT thị hiện, rất khó suy lường được.
Cho nên, QUỶ và THẦN là loại một TINH QUÁI, cũng phải cư xử rất đúng mực. Tinh linh là các loài sơn thần, hải thần, thành hoàng…các loài rất nhiều và ở khắp mọi nơi.
Sutra:
Through a continuous process of illusory imaginings, the upside-down state of shadows occurs in this world. It unites with memory to become eighty-four thousand kinds of random thoughts that are hidden and bound up. From this there come into being the ghanas of those with thought, which multiply throughout the lands in the form of spirits, ghosts, and weird essences, until their kinds abound.
Commentary:
Through a continuous process of illusory imaginings, the upside-down state of shadows occurs in this world. This passage refers to beings born with thought, but without physical form. These are such beings as spirits, ghosts, and weird essences. In the beginning these beings come about because of shadows that unites with memory to become eighty-four thousand kinds of random thoughts that are hidden and bound up. They are hidden away, and no one is aware of them.
Their random thoughts mass together, and from this there come into being the ghanas of those with thought, which multiply throughout the lands in the form of spirits, ghosts, and weird essences, until their kinds abound.
"Those with thought" does not refer to the kind of thought necessary for birth from an egg. The kind of thought referred to here is false thinking that is created. Some ghosts and spirits are devious, and some behave properly. Some ghost kings are even manifestations of Bodhisattvas, while others are actually unreliable beings. "Weird essences" however, are totally unorthodox and devious.
Sometimes people are referred to in this way, indicating that they are not wholesome or good. The manifestation of these weird essences are eerie unpredictable portents. Their kinds are so many one could never describe them all. The retinue of such creatures fills up every corner of the world.
8) VÔ-TƯỞNG
( Without thought )
Kinh văn:
由Do 因nhân 世thế 界giới 愚ngu 鈍độn 輪luân 迴hồi 。 癡si 顛điên 倒đảo 故cố 。 和hòa 合hợp 頑ngoan 成thành 八bát 萬vạn 四tứ 千thiên 枯khô 槁cảo 亂loạn 想tưởng 。 如như 是thị 故cố 有hữu 無vô 想tưởng 羯yết 南nam 。 流lưu 轉chuyển 國quốc 土độ 。 精tinh 神thần 化hóa 為vi 土thổ 木mộc 金kim 石thạch 。 其kỳ 類loại 充sung 塞tắc 。
( Nhân trong thế giới có ngu độn luân hồi, điên đảo về si nên hòa hợp với ngoan, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng khô cảo; vậy nên có yết nam vô tưởng trôi lăn trong cõi nước, tinh thần hóa làm đất, cây, vàng, đá, các loại rất nhiều.
Giảng giải:
Nhân trong thế giới có ngu độn luân hồi, điên đảo về si.
Loại vô tưởng tuy có sắc nhưng không có tư tưởng, do đó thành ngu muội ám độn, nên hòa hợp với ngoan, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng khô cảo. Ý tưởng hoàn toàn cạn kiệt, vậy nên có yết nam vô tưởng trôi lăn trong cõi nước, tinh thần hóa làm đất, cây, vàng, đá, các loại rất nhiều. Vì tư tưởng của họ khô héo nên TINH và THẦN chuyển hóa thành đất, gỗ, kim loại hoặc đá. Loại này có ở nhiều nơi.
Và, tại sao tinh và thần lại biến thành như vậy?
Ở Hồng Kông có ngọn núi gọi là Vọng phu. Chuyện kể rằng có người đàn bà, chồng là Hải quân, anh ta ra đi không bao giờ trở lại. Người vợ cứ ngày ngày dẫn con lên ngọn núi nhìn về phía biển đợi chờ.
Ngày qua ngày, tinh thần chờ đợi của người đàn bà ấy dần dần cạn kiệt và chuyển hóa, đến sau đó thì thành đá. Ngày nay, quý vị đến đó sẽ nhìn thấy hình tượng đá một người đang đứng, phía sau có đứa bé. Bà ấy vẫn trông chờ. Hầu hết chúng ta rất khó tin rằng cái tinh thần của con người lại có thể biến thành gỗ, đá – nhưng đó là sự thực.
Nó đã thực sự xảy ra, có nhiều trường hợp con người biến thành đá như vậy. Hoặc nhiều sự việc xảy ra tương tự như vậy. Chẳng hạn, một người có tánh rất nóng, một khi ngọn lửa tự tánh của người ấy bộc phát mạnh thì thực chất của anh ta dễ dàng biến thành than ngay. LỬA CỦA TỰ TÁNH RẤT MẠNH, nó có sức nóng thật khủng khiếp, và như vậy, thực chất cũng dễ bị đốt cháy.
Con người bao gồm các yếu tố kim loại, gỗ, nước, lửa và đất, nếu họ thường xuyên tiếp xúc và dốc hết tâm ý vào một yếu tố nào thì họ sẽ biến thành yếu tố đó. Điều đó xảy ra là do tư tưởng cố chấp tham trước. Khi hiện tượng ấy xảy ra thì vật thể kia có trở lại làm người không ?
Vâng, có thể, nhưng không biết thời gian sẽ kéo dài bao lâu – chắc chắn là lâu lắm.
Sutra:
Through a continual process of dullness and slowness, the upside-down state of stupidity occurs in this world. It unites with obstinacy to become eighty-four thousand kinds of random thoughts that are dry and attenuated. From this there come into being the ghanas of those without thought, which multiply throughout the lands as their essence and spirit change into earth, wood, metal, or stone, until their kinds abound.
Commentary:
Through a continual process of dullness and slowness, the upside-down state of stupidity occurs in this world. Obtuseness and dullness create an entire cycle from which arise the li, mei, and wang liang ghosts. The karma wrought from stupidity unites with obstinacy to become eighty-four thousand kinds of random thoughts that are dry and attenuated. They simply dry up mentally.
From this there come into being the ghanas of those without thought, which multiply throughout the lands as their essence and spirit change into earth, wood, metal, or stone, until their kinds abound. Because their thought is dry and attenuated, their very essence and spirit transform into earth, wood, metal, or stone. These kinds of beings are also found everywhere. How can their essence and spirit turn into these things?
In Hong Kong there's a place called Wang Fu mountain. The story goes that a certain woman's husband enlisted in the navy and never returned to her. But every day she would go stand on this mountain and gaze out to sea. Every day she would stand there gazing and holding her child until eventually her thought became so attenuated that her essence underwent a transformation, and she turned to stone. To this day you can see the rock shaped like the woman with the child on her back. She's still gazing.
It's not at all easy to convince people that one's spirit and essence can turn into earth, wood, metal, or stone, but in fact it can. It really does happen. There are many instances of people turning into stone. There's another way this can happen, too. If, for example, a person has a fiery temper, and the fire of his nature reaches a peak, his very essence can transform into coal. The fire in his nature is so intense that he becomes a substance that is easily burned.
People are composed of metal, wood, water, fire, and earth, and if they remain in constant contact with any one element and become too much involved in it, they can turn into that very element. It happens because of attachment and attenuated thoughts. When that phenomenon occurs, can that being ever become a person again? Yes, but one knows not how long it will take. It would involve an extremely long period of time.
9) PHI-HỮU-SẮC
( Not totally having form )
Kinh văn:
由Do 因nhân 世thế 界giới 相tương 待đãi 輪luân 迴hồi 。 偽ngụy 顛điên 倒đảo 故cố 。 和hòa 合hợp 染nhiễm 成thành 八bát 萬vạn 四tứ 千thiên 因nhân 依y 亂loạn 想tưởng 。 如như 是thị 故cố 有hữu 非phi 有hữu 色sắc 相tướng 。 成thành 色sắc 羯yết 南nam 。 流lưu 轉chuyển 國quốc 土độ 。 諸chư 水thủy 母mẫu 等đẳng 。 以dĩ 蝦hà 為vi 目mục 。 其kỳ 類loại 充sung 塞tắc 。
( Nhân trong thế giới có tương đãi luân hồi, điên đảo về ngụy nên hòa hợp với nhiễm, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng nhân y, vậy nên có yết nam, không phải có sắc mà có sắc trôi lăn trong cõi nước, các loài thủy mẫu dùng tôm làm mắt, các loại rất nhiều. )
Giảng giải:
Phần này bàn về các chúng phi hữu sắc. Nhân trong thế giới có tương đãi luân hồi, điên đảo về ngụy nên hòa hợp với nhiễm, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng nhân y. Nhân y là nương tựa vào nhau, vậy nên có yết nan, không phải có sắc mà có sắc trôi lăn trong cõi nước.
Loài phi hữu sắc tức vốn không có sắc, nó chỉ nhờ vào vật khác nên mới có sắc, do đó các loài thủy mẫu dùng tôm làm mắt, các loại rất nhiều. Loài thủy mẫu nhờ vào bọt nước làm thành thân, chúng không có mắt nên phải nhờ vào mắt của tôm, đấy là mối tương quan, ký sinh. Loài thủy mẫu này trông như những bong bóng trong nước, chúng vô sắc có ở khắp nơi.
Sutra:
Through a continuous process of parasitic interaction, the upside-down state of simulation occurs in this world. It unites with defilement to become eighty-four thousand kinds of random thoughts of according and relying. From this there come into being those not totally endowed with form, who become ghanas of form which multiply throughout the lands until their kinds abound, in such ways as jellyfish that use shrimp for eyes.
Commentary:
This section discusses living beings who are not totally endowed with form. Through a continuous process of parasitic interaction, the upside-down state of simulation occurs in this world. It unites with defilement to become eighty-four thousand kinds of random thoughts of according and relying. "According and relying" refers to a mutual dependence. From this there come into being those not totally endowed with form, who become ghanas of form which multiply throughout the lands until their kinds abound.
They are not totally endowed with form, but through a parasitic interaction they become involved with a being that is endowed with form. These beings appear in such ways as jellyfish that use shrimp for eyes. The jellyfish doesn't have any eyes in its physical makeup, so it borrows the eyes of the shrimp, by allowing a parasitic relationship. Jellyfish often look like mere bubbles in the water, but they actually belong to this category of beings: those not totally endowed with form. There are all kinds of beings all over the place that fall into this category.
10) PHI-VÔ-SẮC
( Not totally without form )
Kinh văn:
由Do 因nhân 世thế 界giới 相tương 引dẫn 輪luân 迴hồi 。 性tánh 顛điên 倒đảo 故cố 。 和hòa 合hợp 咒chú 成thành 八bát 萬vạn 四tứ 千thiên 呼hô 召triệu 亂loạn 想tưởng 。 由do 是thị 故cố 有hữu 非phi 無vô 色sắc 相tướng 。 無vô 色sắc 羯yết 南nam 。 流lưu 轉chuyển 國quốc 土độ 。 咒chú 詛trớ 厭yếm 生sanh 。 其kỳ 類loại 充sung 塞tắc 。
( Nhân trong thế giới có tướng dẫn luân hồi, điên đảo về tính nên hòa hợp với chú, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng hô triệu, vậy nên có yết nam, không phải vô sắc mà vô sắc, trôi lăn trong cõi nước, chú trớ, yếm sinh, các loài rất nhiều. )
Giảng giải:
Đây là loại phi vô sắc, chúng vốn không có sắc, chỉ dùng chú ra hiệu.
Nhân trong thế giới có tướng dẫn luân hồi, điên đảo về tính, đấy là tác động qua lại của sự mê hoặc, làm thành điên đảo vọng tưởng, nên hòa hợp với chú, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng hô triệu.
Gần đây tôi đã nói về pháp “Câu triệu”, pháp “Hô triệu” này cũng có dạng như vậy. Hô là gọi tên ai đó. Thường thì mọi người không thấy gì, nhưng khi tụng niệm chú thì đối tượng sẽ hiện đến, lúc đó chúng ta có thể thấy được.
Mặc dù chúng ta gọi đó là quỷ, thần, nhưng họ đều là một loại THẦN THỨC đặc biệt - vậy nên có yết nam, không phải vô sắc mà vô sắc, trôi lăn trong cõi nước, Quỷ, thần ở đây là loại phi vô sắc – là những thần hộ pháp. Họ dùng chú trớ, yếm sinh, các loài rất nhiều. Trong Mật giáo có nhiều loại chú này.
Sutra:
Through a continuous process of mutual enticement, an upside-down state of the nature occurs in this world. It unites with mantras to become eighty-four thousand kinds of random thoughts of beckoning and summoning. From this there come into being those not totally lacking form, who take ghanas which are formless and multiply throughout the lands, until their kinds abound, as the hidden beings of mantras and incantations.
Commentary:
This category is those not totally lacking form. Basically they have no form, except when they are beckoned by mantras. Through a continuous process of mutual enticement, an upsidedown state of the nature occurs in this world. There is an interaction which is enticing to both. This perversion of the nature results in a union with mantras to become eighty-four thousand kinds of random thoughts of beckoning and summoning. Recently I talked about the dharma of "hooking and summoning," which is another name for what is being discussed here. One beckons by calling the name of the being. Usually one does not see such beings, but when one recites a mantra, the being reveals its form. When they reveal themselves, one can often see them.
Although we speak of these creatures as being "ghosts and spirits," they are a special kind of mantra spirit, as we can see from this passage of text. From this there come into being those not totally lacking form, who take ghanas which are formless and multiply throughout the lands, until their kinds abound. "Those not totally lacking form" refers to this category of ghosts and spirits, be they dharma protectors or deviant spirits. They are the hidden beings of mantras and incantations. In the Secret school there exist mantras which summon these kinds of beings.
11) PHI-HỮU-TƯỞNG
( Not totally with thought )
Kinh văn:
由Do 因nhân 世thế 界giới 合hợp 妄vọng 輪luân 迴hồi 。 罔võng 顛điên 倒đảo 故cố 。 和hòa 合hợp 異dị 成thành 八bát 萬vạn 四tứ 千thiên 迴hồi 互hỗ 亂loạn 想tưởng 。 如như 是thị 故cố 有hữu 非phi 有hữu 想tưởng 相tướng 。 成thành 想tưởng 羯yết 南nam 。 流lưu 轉chuyển 國quốc 土độ 。 彼bỉ 蒲bổ 盧lô 等đẳng 異dị 質chất 相tương 成thành 。 其kỳ 類loại 充sung 塞tắc 。
( Nhân trong thế giới có hợp vọng luân hồi, điên đảo về võng nên hòa hợp với dị, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng hồi hỗ, vậy nên có yết nam, không phải có tưởng mà có tưởng, trôi lăn trong cõi nước, những giống tò vò, mượn chất khác làm thân của mình, các loại rất nhiều. )
Giảng giải:
Nhân trong thế giới có hợp vọng luân hồi, điên đảo về võng nên hòa hợp với dị, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng hồi hỗ.
Cả hai có khác, nhưng sự biến hình thì như nhau. Tám mươi bốn nghìn là số nhiều, dùng để chỉ trong mỗi loại, thực ra trong từng loại còn có rất nhiều loại khác, số lượng không thể tính được.
Vậy nên có yết nam, không phải có tưởng mà có tưởng, trôi lăn trong cõi nước.
Lúc đầu, những sinh vật này chưa nhận thức mình sẽ hình thành loại nào, nhưng trải qua tiến trình nghĩ tưởng nó mới hình thành hiện thể. Đó là những giống tò vò, mượn chất khác làm thân của mình, các loại rất nhiều.
“Tò vò” tiếng PHẠN là BỔ-LÔ, tức là một loại ONG VÒ-VẺ, CHẲNG THỂ TỰ SINH CON. Cho nên, ONG VÒ-VẺ này bắt lấy sâu bướm và chuyển chúng thành con mình. Nó đưa con sâu bướm về tổ, đoạn tụng chú trong bảy ngày: “Hãy như ta, hãy như ta”.
Sau đó nó dời đi nơi khác. Người ta gọi LOÀI NÀY là không có tưởng (PHI- HỮU-TƯỞNG), vì lúc đầu sâu bướm không nghĩ là mình biến thành con tò vò.
Kinh Thi có câu: “Sâu bướm có con, Tò vò mang nợ”.
Sutra:
Through a continuous process of false unity, the upsidedown state of transgression occurs in this world. It unites with unlike formations to become eighty-four thousand kinds of random thoughts of reciprocal interchange. From this there come into being those not totally endowed with thought, which become ghanas possessing thought and which multiply throughout the lands until their kinds abound in such forms as the varata, which turns a different creature into its own species.
Commentary:
Through a continuous process of false unity, the upsidedown state of transgression occurs in this world. It unites with unlike formations to become eighty-four thousand kinds of random thoughts of reciprocal interchange. The two are different, but they change formation to become the same. "Eighty-four thousand" is a general number that is used for each category of being, but in fact each category contains tremendously many kinds of beings, an incalculable number. From this there come into being those not totally endowed with thought, which become ghanas possessing thought and which multiply throughout the lands until their kinds abound.
To begin with, the creature did not conceive of itself as becoming a certain kind of being, but through a process of thought it becomes a certain type of being. This refers to beings in such forms as the varata, which turns a different creature into its own species. "Varata" is a Sanskrit term for a kind of wasp. This wasp takes silk worm caterpillars and transforms them into its own young. It puts the caterpillars in its mud nest and for seven days recites a mantra which says, "Be like me, be like me." At the end of that period, the change takes place. They are called beings not totally endowed with thought, because the caterpillars do not initially think they will turn into wasps. In the Book of Poetry (Shi Jing) there is the phrase:
The wasp owes its offspring to the caterpillar.
The wasp steals the caterpillars and removes them to its nest where it uses the mantra to transform them.
12) PHI-VÔ-TƯỞNG
( Not totally without thought )
Kinh văn:
由Do 因nhân 世thế 界giới 怨oán 害hại 輪luân 迴hồi 。 殺sát 顛điên 倒đảo 故cố 。 和hòa 合hợp 怪quái 成thành 八bát 萬vạn 四tứ 千thiên 食thực 父phụ 母mẫu 想tưởng 。 如như 是thị 故cố 有hữu 非phi 無vô 想tưởng 相tướng 。 無vô 想tưởng 羯yết 南nam 。 流lưu 轉chuyển 國quốc 土độ 。 如như 土thổ 梟kiêu 等đẳng 附phụ 塊khối 為vi 兒nhi 。 及cập 破phá 鏡kính 鳥điểu 以dĩ 毒độc 樹thọ 果quả 。 抱bão 為vi 其kỳ 子tử 。 子tử 成thành。 父phụ 母mẫu 皆giai 遭tao 其kỳ 食thực 。 其kỳ 類loại 充sung 塞tắc 。
( Nhân trong thế giới có oán hại luân hồi, điên đảo về sát nên hòa hợp với quái thành ra tám mươi bốn nghìn nghĩ tưởng ăn thịt cha mẹ, vậy nên yết nam, không phải vô tưởng mà vô tưởng, trôi lăn trong cõi nước, như con Thổ kiêu, ấp khối đất làm con, và chim Phá kính ấp quả cây độc làm con, con lớn lên thì cha mẹ đều bị chúng ăn thịt, các loại rất nhiều. )
Giảng giải:
Đây là loại phi vô tưởng trong mười hai loại chúng sinh. Chúng có tư tưởng nhưng không thường chánh.
Nhân trong thế giới có oán hại luân hồi, điên đảo về sát. Ông hại tôi, tôi hại ông. Ông giết tôi, tôi giết ông. Ông ghét tôi, tôi ghét ông, nên hòa hợp với quái thành ra tám mươi bốn nghìn nghĩ tưởng ăn thịt cha mẹ.
Khi oán hận đầy dẫy thì kết thành thân nghiệp điên đảo, vậy nên yết nam, không phải vô tưởng mà vô tưởng, trôi lăn trong cõi nước. Chúng xuất hiện như con Thổ kiêu, ấp khối đất làm con.
Ở Trung Quốc, chim Thổ kiêu còn gọi là chim Ưng đầu mèo, hoặc chim Bất hiếu. Loại chim này không đẻ trứng, mà nó ôm ấp khối đất làm con. Có điều, khi các con Thổ kiêu đầy lòng oán hận khi lớn lên, chúng sẽ ăn thịt cha mẹ, và chim Phá kính ấp quả cây độc làm con.
Phá kính là tên loài thú ở Trung Quốc, trông giống con sói nhưng nhỏ hơn. Loại thú này không sinh sản, nó chỉ ôm ấp quả độc làm con, con lớn lên thì cha mẹ đều bị chúng ăn thịt, các loại rất nhiều.
Phá kính cũng là loài thú bất hiếu. “Chim” có thể là do dịch sai. Các loại ấy có ở nhiều nơi.
Sutra:
Through a continuous process of enmity and harm the upside-down state of killing occurs in this world. It unites with monstrosities to become eighty-four thousand kinds of random thoughts of devouring one's father and mother. From this there come into being those not totally lacking thought, who take ghanas with no thought and multiply throughout the lands, until their kinds abound in such forms as the dirt owl, which hatches its young from clods of dirt, and the Pou Jing bird, which incubates a poisonous fruit to create its young. In each case, the young thereupon eat the parents.
Commentary:
This is the twelfth category of beings, those not totally lacking thought. They have thought, but it is totally warped. Their very spirit is twisted. Through a continuous process of enmity and harm the upside-down state of killing occurs in this world. You injure me, and I'll injure you. You kill me, and I'll kill you. You hate me, and I hate you. It unites with monstrosities to become eighty-four thousand kinds of random thoughts of devouring one's father and mother. When this hate has built to the point that it permeates everything, then weird creatures come into being.
From this there come into being those not totally lacking thought, who take ghanas with no thought and multiply throughout the lands, until their kinds abound. They appear in such forms as the dirt owl, which hatches its young from clods of dirt. The owl is known in China as the "cat-headed hawk" and as "the unfilial bird." This bird lays no eggs, but incubates a clod of dirt and is able to bring its young out of it. The problem is that when these young dirt owls hatch, they devour their mother. That's why the bird is called unfilial.
The Pou Jing bird, which incubates a poisonous fruit to create its young. There is an animal in China called the pou jing that looks like a wolf but is smaller. This animal can't reproduce, either, so it takes the fruit from a poisonous tree and can incubate it to create its young. In each case, the young thereupon eat the parents. But the case is the same: the young eat the mother. This unfilial beast is perhaps the one being referred to in the text. "Bird" may be a mistranslation. These kinds of beings can be found in every country.
Kinh văn:
是Thị 名danh 眾chúng 生sanh 十thập 二nhị 種chủng 類loại 。
( Đấy gọi là mươi hai loại chúng sinh. )
Giảng giải:
Phía trên đã giảng về mười hai chủng loại chúng sinh.
Sutra:
These are the twelve categories of living beings.
Commentary:
Above have been explained the twelve categories of living beings.
Hóa-Cung-Điện Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Sáu
Phạt Ma Ra [34]
Án-- vi tát ra, vi tát ra, hồng phấn tra.
Án, a na lệ, tỳ xá đề, bệ ra bạt xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bán ni phấn. Hổ hồng, đô lô ung phấn, ta bà ha.
(Tụng 108 lần)
Thế thế sinh sinh pháp vương gia
Cung điện lâu các diệu liên hoa
Bất thọ thai tạng thân thanh tịnh
Tín giải hành chứng ma ha tát.
Comments
Post a Comment