Ẩn tu thôi mặc dở hay đời
Chỉ ước lâm chung dự biết thời
Nương nguyện Phổ-Hiền sanh Cực-Lạc
Rồi dong thuyền độ khắp nơi nơi.
NAM-MÔ ĐẠI-HẠNH PHỔ-HIỀN BỒ-TÁT MA-HA-TÁT (3 lần)
BẠT NHỨT-THIẾT NGHIỆP-CHƯỚNG CĂN BỔN
ĐẮC SANH TỊNH-ĐỘ ĐÀ-RA-NI
Nam-mô a di đa bà dạ, Đa tha dà đa dạ, Đa điệt dạ tha.
A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa tỳ ca lan đế, A di rị đa tỳ ca lan đa, Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha.
( 21 lần)
TÁN
Mười phương các Phật độ
Ba kiếp đấng Năng Nhơn
Đại bi vang tiếng cứu hàm linh
Diễn nói Phật hồng danh
Đêm dài thăm thẳm thức mê tình
Ba nghiệp gieo kính thành
Tướng tốt nguyện nghiêm thân.
( Thập phương thế giới
Tam thế năng Nhơn
Bi thinh tế vật diễn hồng danh
Trường dạ giác mê tình
Tam nghiệp đầu thành
Tướng hảo nguyện nghiêm thân.)
Nam-mô Thập phương Phật.
Nam-mô Thập phương Pháp.
Nam-mô Thập phương Tăng.
Nam-mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam-mô A Di Ðà Phật.
Nam-mô Ðương Lai Di Lặc Phật.
Nam-mô Phật Danh Kinh Trung Nhứt Thiết Chư Phật.
Nam-mô Kinh Phật Thuyết Phật Danh.
Nam-mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Nam-mô Phổ Hiền Bồ Tát.
Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam-mô Ðại Thế Chí Bồ Tát
Nam-mô Thập Phương Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nam-mô Chư Phật Đệ Tử Nhứt Thiết Ðại Thanh Văn Tăng.
Nam-mô Hộ Pháp, Thiên Long Thiện Thần Tiên Chúng.
Nam-mô Xá Lợi Phất Chư Ðại Thanh Văn.
KINH PHẬT THUYẾT PHẬT DANH
QUYỂN THỨ HAI
TÁN
Phổ Hiền hạnh nguyện sức oai thần.
Trước các Như Lai khắp hiện thân.
Một thân lại hiện sát trần thân.
Mỗi mỗi đảnh lể sát trần Phật.
Ẩn-Tu Ngẫu Vịnh
Như-Ý Giảng giải
TRĂNG in NƯỚC bích LÒNG THIỀN rạng,
GÍO LỘNG non hồng Ý ĐẠO thanh.
Nương mình tựa án xem NGƯỜI CỔ,
ẨN BÓNG trong gương ngẫm chuyện đời.
HÒA THƯỢNG TÔN SƯ
Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư Thích Thiền-Tâm, hiệu Vô-Nhất.
BÀI SỐ 36
Ẩn tu thôi mặc dở hay đời
Chỉ ước lâm chung dự biết thời
Nương nguyện Phổ-Hiền sanh Cực-Lạc
Rồi dong thuyền độ khắp nơi nơi.
NHƯ Ý : Người Á đông, nhất là những người ở nước có Triết lý Tam-giáo, THÍCH ĐẠO NHO, khi đã chìm nổi nhiều với cuộc đời, thường có ý hướng về sự THOÁT tục; để tiêu biểu cho việc đó XIN tạm dịch hai câu của Cao-Bá-Quát như sau : Việc thế nổi chìm xin chớ hỏi, trong xa khói sóng có ĐÀO NGUYÊN. Nguyên tác, “Thế sự thăng trầm Quân mạc vấn, Yên ba thâm Xứ Hữu Ngư châu.”
Động Đào-Nguyên
ĐÀO NGUYÊN còn gọi là động Bích. Đây là chỗ TIÊN ở.
Định có người ở gần đấy nên bỏ thuyền, lên bờ. Vượt qua rừng đào, đến một ngọn núi. Dưới chân núi có một cửa hang nhỏ hẹp, vừa chui được một người. Bên trong thấp thoáng có ánh sáng.
Những người ở đây thấy chàng ngư phủ thì lấy làm kinh ngạc hỏi: làm sao đến được chốn này? Ngư phủ trình bày sự thực. Các bực phụ lão đem vợ con ra chào mừng khách lạ, dọn cơm rượu đãi khách. Ngư phủ ăn uống lấy làm ngon lạ, vì tuy cơm rượu mà tính chất khác thường.
Nguyễn Tử Quang
Điển hay Tích lạ
Cũng có vị khi đã ở trong cửa ĐẠO, nhưng xét thấy chúng sanh nghiệp NẶNG, mình lại CHƯA đủ khả năng tế độ; như CHÍNH mình còn bị trói KHÔNG thể mở trói cho người; Nên đành phải để sự XUẤT trần trước rồi mới NHẬP trần sau, đó là tâm sự của bà Công-chúa em gái vua Nhật-tôn: “Lên bờ cứu khổ mong quay lại, biển ái trong xa nước đục lờ.” Mấy câu này nói lên ý tưởng trên đây.
Cũng như THIỆN-TÀI đã trải qua 51 vị THIỆN-TRI-THỨC rồi, sự giác ngộ đã đến ĐẲNG–GIÁC BỒ-TÁT, cùng với DI-LẠC BỒ-TÁT không sai khác.
VĂN-THÙ-SƯ-LỢI BỒ TÁT
Vị Thiện Tri Thức thứ 52
dạy THIỆN TÀI về “TÍN-CĂN”
để thành tựu hạnh PHỔ-HIỀN và NHẬP PHÁP GIỚI được viên mãn.
KINH VĂN:
Y lời dạy của Di-lặc Bồ-Tát, Thiện-Tài đi qua hơn một trăm mười (110) thành đến nước Phổ-Môn, thành Tô-Ma-Na, ở nơi cửa thành suy tìm VĂN-THÙ SƯ-LỢI, trông được gặp gỡ kính thờ.
Bây giờ VĂN-THÙ SƯ-LỢI Bồ-Tát từ xa đưa tay hữu qua khỏi một trăm mười (110) do-tuần áp trên đầu (xoa đầu) THIỆN-TÀI mà nói rằng:
Lành thay! Lành thay! Nầy Thiện-nam-tử! Nếu rời “TÍN-CĂN” thời tâm yếu kém, lo sợ ăn-năn công-hạnh chẳng tròn đủ, thối thất tinh-cần, nơi một thiện-căn sanh lòng trụ trước, với chút ít công-đức đã cho là đủ. Chẳng thể phát khởi hạnh nguyện, chẳng được thiện-tri-thức nhiếp thọ, chẳng được Như-Lai ức niệm, chẳng biết được pháp-tánh như vậy, lý-thú như vậy, pháp-môn như vậy, công-hạnh như vậy, cảnh-giới như vậy, đều không thể biết khắp, biết nhiều, tột nguồn đáy, hiểu rõ, xu nhập giải-thoát, phân-biệt, chứng biết, chứng đắc, tất cả điều trên đây đều không thể được.
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát tuyên nói pháp ấy cho THIỆN-TÀI được lợi ích hoan-hỷ thành-tựu vô-số pháp-môn, đầy đủ vô-lượng đại-trí quang-minh, khiến được Bồ-Tát vô-biên-tế đà-la-ni, vô-biên-tế nguyện, vô-biên-tế tam-muội, vô-biên-tế thần-thông, vô-biên-tế trí, khiến vào đạo-tràng phổ-hiền-hạnh.
Lại để Thiện-Tài ở tại chỗ cũ, Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát nhiếp thần-lực chẳng hiện.
Kệ tụng:
( Niệm Phật Phải DỨT-TRỪ-LÒNG-NGHI - HT THIỀN-TÂM )
Nếu ai muốn trọn nên công đức của Phật, thời phải tu mười điều hạnh nguyện rộng lớn. Những gì là mười điều?
Bất cứ tu pháp nào đủ “TỨ PHÁP GIỚI” đều là “Phổ Hiền Hạnh Nguyện”, tức là công đức không cùng tận.
1.Hư không 2. Chúng sanh 3. Nghiệp của chúng sanh 4. Phiền não của chúng sanh không cùng tận, nên hạnh nguyện của Phổ-hiền cũng không cùng tận, THÂN, KHẨU, Ý không hề nhàm chán, BẢO HỘ CHÁNH PHÁP được thường trụ, thì Vũ-trụ sẽ không bị hủy diệt, thì tất cả công đức khác mới được thành tựu.
Lại người này lúc lâm chung, phút cuối cùng, tất cả căn thân đều hư hoại, tất cả thân thuộc đều phải bỏ lìa, tất cả oai thế đều bị thối thất, cho đến các quan phụ tướng đại thần, cung thành trong ngoài, voi ngựa xe cộ, trân bảo kho đụn v.v... tất cả đều không đem một món nào theo được. Chỉ có mười nguyện vương này chẳng rời người mà thôi. Trong tất cả thời gian nó thường ở trước dẫn đường, trong khoảnh khắc liền sanh về cõi Cực Lạc. Ðến Cực Lạc rồi liền thấy đức A Di Ðà Phật cùng các ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Quán Tự Tại Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, v.v... các vị Bồ Tát này sắc tướng đoan nghiêm, công đức đầy đủ chung cùng vây quanh. Lúc bấy giờ người ấy tự thấy mình gá sanh nơi hoa sen báu, được đức Phật xoa đầu thọ ký. Sau khi được thọ ký rồi, trải qua vô số trăm ngàn muôn ức na do tha kiếp, khắp cả mười phương bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới, dùng sức trí huệ tùy theo tâm của chúng sanh mà làm lợi ích. Chẳng bao lâu sẽ ngồi nơi Bồ Ðề đạo tràng hàng phục quân ma, thành bực Chánh Ðẳng Chánh Giác giảng nói pháp mầu vi diệu. Có thể làm cho chúng sanh trong những cõi Phật như số cực vi trần của chúng sanh mà dạy dỗ cho thành thục, nhẫn đến cùng tận kiếp hải, có thể làm lợi ích tất cả chúng sanh một cách rộng lớn.
Này thiện nam tử! Các chúng sanh kia hoặc nghe, hoặc tin nơi nguyện vương rộng lớn này, rồi thọ trì đọc tụng và giảng nói cho người nghe. Công đức của chúng sanh kia chỉ có đức Phật Thế Tôn biết, ngoài ra không ai hiểu thấu. Vì thế nên những người được nghe mười điều nguyện vương này chớ sanh lòng nghi ngờ, nên phải lãnh thọ, thọ rồi nên đọc, đọc rồi có thể tụng thuộc, tụng thuộc rồi nên gìn giữ luôn, cho đến biên chép vì người mà giảng nói. Những người như vậy, trong một niệm tất cả hạnh nguyện đều được thành tựu, được phước vô lượng vô biên. Có thể ở trong biển khổ phiền não cứu vớt chúng sanh, khiến chúng được giải thoát, đều được vãng sanh về thế giới Cực Lạc của đức Phật A Di Ðà.
( KINH HOA NGHIÊM-Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện)
SÁM PHỔ HIỀN
Ðệ-tử chúng đẳng,
tùy-thuận tu tập
Phổ-Hiền Bồ-tát,
thập chủng đại nguyện:
Nhứt giả lễ kính chư Phật,
Nhị giả xưng tán Như-Lai,
Tam giả quảng tu cúng-dường,
Tứ giả sám-hối nghiệp-chướng,
Ngũ giả tùy-hỉ công-đức,
Lục giả thỉnh chuyển pháp-luân,
Thất giả thỉnh Phật trụ thế,
Bát giả thường tùy Phật học,
Cửu giả hằng thuận chúng-sanh,
Thập giả phổ giai hồi-hướng.
Nguyện tương dĩ thử thắng công-đức,
Hồi-hướng vô-thượng chơn pháp-giới,
Tánh tướng Phật, Pháp cập Tăng-già,
Nhị đế dung thông tam-muội ấn,
Như thị vô-lượng công-đức hải,
Ngã kim giai tất tận hồi-hướng,
Sở hữu chúng-sanh thân, khẩu, ý,
Kiến hoặc đàn báng ngã pháp đẳng,
Như thị nhứt thiết chư nghiệp-chướng
Tất giai tiêu-diệt tận vô dư,
Niệm niệm trí châu ư pháp-giới,
Quảng độ chúng-sanh giai bất thối,
Nãi chí hư-không thế-giới tận,
Chúng-sanh cập nghiệp phiền-não tận,
Như thị tứ pháp quảng vô-biên,
Nguyện kim hồi-hướng diệc như-thị.
Nam-mô Ðại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát. (3 lần)
BẠT NHỨT-THIẾT NGHIỆP-CHƯỚNG CĂN BỔN
ĐẮC SANH TỊNH-ĐỘ ĐÀ-RA-NI
Nam-mô a di đa bà dạ, Đa tha dà đa dạ, Đa điệt dạ tha.
A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa tỳ ca lan đế, A di rị đa tỳ ca lan đa, Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha.
( 21 lần)
Nam-mô A-DI-ĐÀ Phật
(Tùy ý, hoặc 1 ngàn câu trở lên)
KINH NIỆM PHẬT BA LA MẬT
Đời Tấn, ngài Tam-tạng Pháp-sư Cưu-Ma-La-Thập dịch từ Phạn ra Hán.
Hòa-Thuợng Thích-Thiền-Tâm dịch từ Hán-văn ra Việt-văn.
PHẨM THỨ BẢY
KHUYẾN PHÁT NIỆM PHẬT và
ĐỌC TỤNG CHƠN NGÔN
Lúc bấy giờ, ngài Phổ-Hiền Đại Bồ-Tát bạch Phật rằng:
- Thưa Thế-Tôn, con nay vì thương tưởng chúng sanh nơi thời Mạt pháp, khi ấy kiếp giảm, thọ mạng ngắn, phước đức kém thiếu, loạn trược tăng nhiều, kẻ chân thật tu hành rất ít. Con sẽ ban cho người niệm Phật thần chú Đà-ra-ni nầy, để THỦ HỘ thân tâm, nhổ tận gốc rễ nghiệp chướng trừ sạch phiền não, được mau chóng sanh về Cực-Lạc. Gọi là Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắc Sanh Tịnh Độ Đà-ra-ni. Liền nói thần chú:
Nam-mô a di đa bà dạ, Đa tha dà đa dạ, Đa điệt dạ tha.
A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa tỳ ca lan đế, A di rị đa tỳ ca lan đa, Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha.
Người niệm Phật phải giữ giới, ăn chay, thân khẩu ý đều phải thanh khiết. NGÀY ĐÊM SÁU THỜI, mỗi thời tụng HAI MƯƠI MỐT BIẾN. Như vậy, diệt được các tội: Tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác, và hủy báng Chánh pháp. Thường được đức Phật A-Di-Đà HIỆN trên đỉnh đầu. Hiện đời an ổn, phước lạc. Hơi thở cuối cùng, được tùy nguyện mà vãng sanh Cực-Lạc. Hoặc tụng đến BA CHỤC muôn biến, liền thấy Phật NGAY trước mặt mình.
BÀI KỆ THỨ 9
Cho nên lời đức Phổ Hiền khuyên dạy chư Bồ Tát niệm Phật cầu về Cực Lạc không phải là điều dạy bảo cạn cợt, lạc lầm, nói suông rồi cho xong chuyện! Mà chính đó là lời khuyên dạy tối quan yếu, bao gồm ý vị rất sâu sắc, phải suy gẫm nhiều mới thấu hiểu!
Pháp Chiếu đại sư, chưa rõ là người bậc thế nào? Trong năm Đại Lịch thứ hai đời nhà Đường, hàng đạo tục được biết ngài ở chùa Vân Phong tại Hoành Châu, thường chuyên cần tu tập.
Một buổi sáng, vào lúc thanh trai, ngài thấy trong bát cháo ở Tăng đường; hiện rõ bóng mây ngũ sắc. Trong mây hiện ra cảnh sơn tự, phía Đông bắc chùa có dãy núi, chân núi có khe nước. Phía Bắc khe nước có cửa ngõ bằng đá. Trong ngõ đá lại có một ngôi chùa to, biển đề “Đại Thánh Trúc Lâm Tự”. Mấy hôm sau, ngài lại thấy nơi bát cháo hiện rõ cảnh chùa lớn ấy, gồm vườn ao, lâu đài tráng lệ nguy nga, và một vạn Bồ Tát ở trong đó.
Ngài đem cảnh tượng ấy hỏi các bậc tri thức. Một vị cao Tăng bảo: “Sự biến hiện của chư Thánh khó nghĩ bàn được. Nhưng nếu luận về địa thế non sông, thì đó là cảnh " Ngũ Đài Sơn”. Nghe lời ấy ngài có ý muốn đến viếng Ngũ Đài thử xem sự thật ra thế nào”.
Năm Đại Lịch thứ tư, Đại sư mở đạo tràng niệm Phật tại chùa Hồ Đông. Ngày khai hội cảm mây lành giăng che chốn đạo tràng. Trong mây hiện ra cung điện lầu các Phật A Di Đà cùng hai vị Bồ Tát Quán Âm, Thế Chí hiện thân vàng sáng chói cả hư không. Khắp thành Hoành Châu, bá tánh trông thấy đều đặt bàn đốt hương đảnh lễ. Cảnh tượng ấy hiện ra giây lâu mới ẩn mất. Do điềm lành này, rất nhiều người phát tâm tinh tấn niệm Phật. Đạo tràng khai liên tiếp được năm hội.
Một hôm, Đại sư gặp cụ già bảo: “Ông từng có ý niệm muốn đến Kim Sắc thế giới tại Ngũ Đài Sơn, để đảnh lễ đức Đại Thánh Văn Thù sao đến nay vẫn chưa thật hành ý nguyện?”. Nói xong liền ẩn mất. Được sự nhắc nhở, ngài sửa soạn hành trang, cùng mấy pháp hữu, đồng viếng Ngũ Đài.
Năm Đại Lịch thứ năm, vào ngày mùng sáu tháng tư, Đại sư cùng đồng bạn mới đến chùa Phật Quang ở huyện Ngũ Đài. Đêm ấy, vào khoảng canh tư, ngài thấy ánh sáng lạ từ xa chiếu đến thân mình, liền nhắm phỏng chừng tia sáng mà theo dõi. Đi được năm mươi dặm thì đến một dãy núi, dưới chân núi có khe nước, phía Bắc khe có cửa cổng bằng đá.
Nơi cửa có hai vị đồng tử đứng đón chờ, tự xưng là Thiện Tài và Nan Đà. Theo chân hai đồng tử dẫn đường, ngài đến một ngôi chùa nguy nga, biển đề: “Đại Thánh Trúc Lâm Tự”. Nơi đây đất vàng, cây báu, ao sen, lầu các rất kỳ diễm trang nghiêm. Cảnh giới qủa đúng như ảnh tượng đã thấy nơi bát cháo khi trước.
Ngài vào chùa, lên giảng đường, thấy Đức Văn Thù bên Tây, đức Phổ Hiền bên Đông. Hai vị đều ngồi tòa sư tử báu cao đẹp, đang thuyết pháp cho một muôn vị Bồ tát ngồi phía dưới lặng lẽ lắng nghe. Pháp Chiếu bước đến chí thành đảnh lễ, rồi qùy xuống thưa rằng: “Kính bạch Đại Thánh! Hàng phàm phu đời mạt pháp, cách Phật đã xa, chướng nặng nghiệp sâu, tri thức kém hẹp, tuy có Phật tánh mà không biết làm sao hiển lộ. Giáo pháp của Phật lại qúa rộng rãi mênh mông, chưa rõ pháp môn nào thiết yếu dễ tu hành cho mau được giải thoát?”
Đức Văn Thù bảo:
Thời kỳ này chính là đúng lúc các người NÊN niệm Phật. Trong các hành môn không chi hơn niệm Phật và gồm tu phước huệ. Thuở đời qúa khứ, ta nhờ quán Phật, niệm Phật, cúng dường Tam Bảo mà ĐƯỢC Nhất thiết chủng trí. Tất cả các pháp như: Bát Nhã Ba La Mật, những môn thiền định rộng sâu, cho đến chư Phật cũng từ niệm Phật mà sanh. Vì thế nên biết, Niệm Phật là vua trong các pháp môn”.
Ngài Pháp Chiếu lại hỏi:
Bạch Đại Thánh! Nên niệm như thế nào?
Đức Văn Thù dạy:
Về phương Tây của thế giới này, có Phật A Di Đà giáo chủ cõi Cực Lạc. Đức Thế Tôn đó nguyện lực không thể nghĩ bàn! Ngươi nên chuyên niệm danh hiệu của ngài nối tiếp KHÔNG dán đoạn, thì khi mạng chung, quyết được vãng sanh, chẳng còn bị thối chuyển.
Nói xong, hai vị đại Thánh đồng đưa tay vàng xoa đầu ngài Pháp Chiếu và bảo rằng:
Do ngươi niệm Phật, nên không lâu sẽ chứng được qủa Vô thượng Bồ Đề. Nếu thiện nam tín nữ nào muốn mau thành Phật, thì không chi hơn niệm Phật. Kẻ ấy nhất định sẽ mau lên ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác.
Được hai vị Đại Thánh thọ ký xong ngài Pháp Chiếu vui mừng đảnh lễ rồi từ tạ lui ra.
Hai đồng tử khi nãy theo sau tiễn đưa. Vừa ra khỏi cổng, ngài quay lại thì người và cảnh đều biến mất. Ngài liền dựng đá đánh dấu chỗ ấy, rồi trở về chùa Phật Quang.
Đến ngày 13 tháng 4, Pháp Chiếu Đại sư cùng hơn năm mươi vị Tăng đồng đến hang Kim Cang, thành tâm đảnh lễ hồng danh ba mươi lăm đức Phật. Vừa lạy được mười lượt, ngài bỗng thấy hang Kim Cang rộng lớn thanh tịnh trang nghiêm có cung điện bằng lưu ly, đức Văn Thù, Phổ Hiền đồng ngự trong ấy.
Hôm khác, ngài lại đi riêng đến hang Kim Cang, gieo mình đảnh lễ, nguyện thấy Đại Thánh. Đang khi lạy xuống vừa ngước lên, Đại sư bỗng thấy một Phạm Tăng tự xưng là Phật Đà Ba LỴ. Vị này đưa ngài vào một đại điện trang nghiêm, biển đề là Kim Cang Bát Nhã Tự. Toàn điện nhiều thứ báu lạ đẹp mầu, ánh sáng lấp lánh. Dù đã nhiều lần thấy sự linh dị, nhưng ngài vẫn chưa thuật lại với ai cả.
Tháng chạp năm ấy, ngài nhập đạo tràng niệm Phật nơi chùa Hoa Nghiêm định kỳ tuyệt thực tu hành, nguyện vãng sanh về Tịnh độ. Đêm đầu hôm, ngày thứ bảy, đang lúc niệm Phật, Đại sư bỗng thấy một vị Phạm Tăng bước vào bảo: “Ông đã thấy cảnh giới ở Ngũ Đài Sơn, sao không truyền thuật cho người đời cùng được biết?”. Nói xong, liền ẩn mất.
Hôm sau, trong lúc niệm Phật, vì Phạm Tăng hiện ra, bảo y như trước. Ngài đáp: “Không phải tôi dám giấu kín thánh tích, nhưng chỉ sợ nói ra người đời không tin sanh sự chê bai mà thôi”. Phạm Tăng bảo: “Chính đức Đại Thánh Văn Thù hiện tại ở núi này, mà còn bị người đời hủy báng, thì ông còn lo ngại làm chi? Hãy đem những cảnh giới mà ông thấy được truyền thuật với chúng sanh làm duyên cho kẻ được biết, phát khởi tâm Bồ đề”. Ngài tuân lời, nhớ kỹ lại những sự việc đã thấy, rồi nghi chép ra truyền lại cho mọi người.
Năm sau, sư Thích Huệ Tùy ở Giang Đông cùng với chư Tăng chùa Hoa Nghiêm, theo Pháp Chiếu đại sư đến hang Kim Cang lễ Phật. Kế đó lại đến chỗ dựng đá lúc trước để chiêm ngưỡng dấu cũ. Đại chúng còn đang ngậm ngùi ngưỡng vọng, bỗng đồng nghe tiếng chuông hồng chung từ vách đá vang ra. Giọng chuông thanh thoát ngân nga, nhặt khoan ràng rẽ.
Ai nấy đều kinh lạ đồng công nhận những lời thuật của ngài Pháp Chiếu là đúng sự thật. Vì muốn cho người viếng cảnh đều phát đạo tâm, Tăng chúng nhân cơ duyên ấy, khắc những sự việc của ngài nghe thấy vào vách đá. Về sau ngay nơi đó, một cảnh chùa trang nghiêm được dựng lên, vẫn lấy hiệu là Trúc Lâm Tự để lưu niệm.
Triều vua Đức Tông, Pháp Chiếu đại sư mở đạo tràng niệm Phật tại Tinh Châu, cũng liên tiếp được năm hội. Mỗi đêm vua và người trong cung nghe tiếng niệm Phật rất thanh thoát từ xa đưa vẳng lại. Sau khi cho người dò tìm, được biết đó là tiếng niệm Phật ở đạo tràng tại Tinh Châu, nhà vua phái sứ giả mang lễ đến thỉnh ngài vào triều. Ngài mở đạo tràng niệm Phật tại hoàng cung, cũng gồm năm hội. Vì thế, người đương thời gọi ngài là Ngũ Hội Pháp Sư.
Từ đó Đại sư tinh tấn tu hành, ngày đêm không trễ. Một đêm nọ ngài thấy vị Phạm Tăng khi trước là Phật Đà Ba LỴ hiện đến bảo: “Hoa sen công đức của ông nơi ao thất bảo ở cõi Cực Lạc đã thành tựu. Ba năm sau là đúng thời kỳ hoa nở, ông nên chuẩn bị”.
Đến kỳ hạn, Đại sư gọi Tăng chúng lại căn dặn rằng: “Ta về Cực Lạc, mọi người phẳi gắng tinh tu!” Nói xong, ngài ngồi ngay yên lặng mà tịch.
21. The Purple Lotus Hand and Eye
The Sutra says: “For meeting the Buddhas of the ten directions, use the Purple Lotus Hand.”
With the miraculous, inconceivable Purple Lotus Flower,
We attain Bodhi quickly, the Dharma of liberation.
We meet the Buddhas of the ten directions,
And never again descend into the homes of the six paths.
( Không hiểu tại sao trong bản dịch của HT. THÍCH THIỀN-TÂM,
không có 2 chữ “CA RA”? )
21) Tử-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
Kinh nói rằng: “Nếu muốn được diện kiến 10 phương tất cả chư Phật, nên cầu nơi Tay cầm Hoa-Sen-Tím.”
Tử Liên Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp, vi diệu không thể “NGHĨ BÀN” mà hiểu được,
Được Pháp Giải-thoát nầy, thì mau chứng qủa Bồ-đề của chư PHẬT.
Gặp được chư Phật ở 10 phương Tịnh-độ,
Thì “TỰ-TẠI” vào Lục-đạo, cứu độ tất cả Chúng-sanh “MÀ KHÔNG BỊ THỐI CHUYỂN.”
)
Tỷ-khưu Đức-Vân dạy Thiện-tài Đồng-tử về môn “ỨC-NIỆM NHỨT-THIẾT CHƯ PHẬT CẢNH-GIỚI TRÍ-HUỆ QUANG-MINH PHỔ-KIẾN”, như thế nào mà gặp được chư Phật ở mười phương tịnh độ?
Lúc đầu, thì Bồ-tát Văn-Thù Sư-lợi dạy cho Thiện-Tài Đồng-Tử “PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM”, tức là chỉ dạy cho Thiện-Tài về phần “TÍN-GIẢI”, mà không dạy về phần “HÀNH-CHỨNG”, KHÔNG DẠY làm thế nào để “NHẬP PHÁP GIỚI.”
Rồi THIỆN TÀI được Bồ-tát Văn-thù giới thiệu theo học với “TỶ-KHƯU ĐỨC VÂN”, rồi Tỷ-khưu Đức-vân giới thiệu tới một vị “Thiện Tri Thức” khác… cho đến sau cùng gặp " PHỔ-HIỀN BỒ-TÁT” dạy THIỆN TÀI “PHÁT NGUYỆN VÃNG SANH” VỀ CÕI CỰC LẠC CỦA ĐỨC PHẬT A-DI-ĐÀ, thì mới mau “NHẬP PHÁP GIỚI” một cách viên mãn.
Tôi nay hồi hướng các căn lành
Ðể được Phổ Hiền hạnh thù thắng.
Nguyện tôi lúc mạng sắp lâm chung
Trừ hết tất cả các chướng ngại
Tận mặt gặp Phật A Di Ðà
Liền được vãng sanh cõi Cực Lạc,
Tôi đã vãng sanh cõi kia rồi
Hiện tiền thành tựu nguyện lớn này
Cả thảy tròn đủ không thừa thiếu
Lợi lạc tất cả các chúng sanh.
Chúng hội Di Ðà đều thanh tịnh
Tôi từ hoa sen nở sinh ra
Thân thấy đức Phật Vô Lượng Quang
Liền thọ ký tôi đạo Bồ Ðề.
Nhờ đức Phật kia thọ ký rồi
Tôi hóa vô số vạn ức thân
Trí huệ rộng lớn khắp mười phương
Khắp lợi tất cả chúng sanh giới.
Nhẫn đến hư không thế giới tận
Chúng sanh, nghiệp và phiền não tận
Nhưng bốn pháp ấy không cùng tận
Nguyện tôi rốt ráo hằng vô tận
Tại sao “Bồ-tát Văn-thù” không dạy, mà giới thiệu tới “Tỷ-khưu Đức-vân” học Đạo ? Vì bấy giờ, Thiện-tài không thấy rằng gặp Bồ-tát Văn-thù là một chuyện hy-hữu, trong trăm ngàn muôn ức kiếp khó gặp được một lần, nên dù Bồ-tát Văn-thù có dạy, thì Thiện-tài cũng không chứng nhập được.
Cho nên, trước khi lên đường tìm cầu “THIỆN TRI THỨC”, Bồ-tát Văn-thù dặn dò THIỆN-TÀI rằng:
“Thiện tri thức có dạy bảo điều chi phải đều tùy thuận. Nơi thiện xảo phương tiện của thiện tri thức chớ thấy lỗi lầm. (Y theo PHÁP không Y theo NGƯỜI)
Lời dạy của “BỒ-TÁT VĂN-THÙ” cũng giống như Phẩm “TỨ-Y” trong “Kinh Đại-Bát Niết-Bàn”:
1) Y theo PHÁP không Y theo NGƯỜI
Ba mươi tám (38) năm về trước (1936), Luân tôi được bản in lẻ Kinh Lăng Nghiêm Chú Sớ này, được điều chưa từng có, giờ giờ khắc khắc nghiên cứu, thấy được cảnh giới vi mật, nên thường đem theo bên mình, chưa từng rời khỏi.
BÀI HỌC THỨ 1:
DẠY “NHỚ NIỆM THIỆN TRI THỨC” trong 7 ngày.
Thấy xong, Thiện Tài đồng tử liền đến đảnh lễ chân Tỳ Kheo Ðức Vân, hữu nhiễu ba vòng cung kính đứng trước Ðức Vân mà bạch rằng :
Bạch Ðức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát phải học Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải tu Bồ Tát hạnh thế nào ? Nhẫn đến phải thế nào để được mau viên mãn hạnh Phổ Hiền ? Tôi nghe đức Thánh khéo có thể dạy bảo, mong đức Thánh thương xót dạy cho tôi thế nào Bồ Tát được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Ðức Vân Tỳ Kheo bảo Thiện Tài đồng tử rằng :
Lành thay ! Lành thay ! Này thiện nam tử ! Ngươi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, lại có thể hỏi hạnh của Bồ Tát. Việc như vậy là sự khó trong những sự khó. Những là cầu Bồ Tát hạnh, cầu Bồ Tát cảnh giới, cầu đạo xuất ly của Bồ Tát, cầu đạo thanh tịnh của Bồ Tát, cầu tâm thanh tịnh quảng đại của Bồ Tát, cầu Bồ Tát thành tựu thần thông, cầu Bồ Tát thị hiện môn giải thoát, cầu Bồ Tát thị hiện việc làm tại thế gian, cầu Bồ Tát tùy thuận tâm của chúng sanh, cầu môn sanh tử Niết bàn của Bồ Tát, cầu Bồ Tát quán sát hữu vi vô vi tâm không chấp trước.
Này thiện nam tử ! Ta được sức thắng giải tự tại quyết định, tín nhãn thanh tịnh, trí quang chói sáng, thấy khắp các cảnh giới khỏi tất cả chướng ngại, quán sát khéo léo, phổ nhãn sáng suốt, đủ hạnh thanh tịnh. Qua đến tất cả cõi nước mười phương cung kính cúng dường tất cả chư Phật. Thường nhớ tất cả chư Phật Như Lai. Tổng trì tất cả chánh pháp của chư Phật. Thường thấy tất cả chư Phật mười phương.
Những là thấy phương đông một đức Phật, hai đức Phật, mười đức Phật, trăm đức Phật, ngàn đức Phật, ức đức Phật, trăm ức đức Phật, ngàn ức đức Phật, trăm ngàn ức đức Phật, na do tha ức đức Phật, trăm na do tha ức đức Phật, ngàn na do tha ức đức Phật, trăm ngàn na do tha ức đức Phật, nhẫn đến thấy vô số, vô lượng, vô biên vô đẳng, bất khả sổ, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết đức Phật.
Nhẫn đến thấy chư Phật bằng số vi trần trong Diêm Phù Ðề, bằng số vi trần trong bốn châu thiên hạ, bằng số vi trần trong Tiểu thiên thế giới, bằng số vi trần trong nhị thiên thế giới bằng số vi trần trong Ðại Thiên thế giới, bằng số Phật sát vi trần nhẫn đến thấy chư Phật bằng số bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần.
Chư Phật trong mỗi phương, những sắc tướng, những hình mạo, những thần thông, những du hí, những chúng hội trang nghiêm đạo tràng, những quang minh chiếu sáng vô biên, những quốc độ, những thọ mạng. Tùy những tâm sở nghi của chúng sanh mà chư Phật thị hiện những môn thành Ðẳng Chánh Giác, làm sư tử hống trong đại chúng.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được pháp môn "ức niệm Nhứt thiết chư Phật cảnh giới trí huệ quang minh phổ kiến" này thôi.
BÀI HỌC THỨ 2 :
DẠY “ỨC-NIỆM NHỨT-THIẾT CHƯ PHẬT CẢNH-GIỚI
TRÍ-HUỆ QUANG-MINH PHỔ-KIẾN”
Khi niệm một vị Phật nào đó tới “không còn năng niệm sở niệm”, thì thấy được TẤT CẢ CHƯ PHẬT HIỆN Ở TRONG “PHỔ-QUANG MINH TRÍ” SÁT-NA TẾ TAM MUỘI , rồi “Qúy-vị” có khả năng hóa hiện vô-lượng thân, ở trước vô-lượng chư Phật ở 10 phương đồng thời niệm Phật. Vì Thường niệm tất cả chư Phật Như Lai, nên Thường thấy tất cả chư Phật ở mười phương Tịnh-độ.
Đây gọi là “ỨC-NIỆM NHỨT-THIẾT CHƯ PHẬT CẢNH-GIỚI TRÍ-HUỆ QUANG-MINH PHỔ-KIẾN”. Còn gọi là: “PHỔ-QUANG MINH TRÍ” SÁT-NA TẾ TAM MUỘI.”
Cảnh giới nầy, cũng giống như LỄ PHẬT “không còn năng lễ sở lễ”.
Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì,
Ngã thử đạo-tràng như Ðế-châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
Tóm lại, nếu “Qúy-vị” tu Tử Liên Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp, không còn năng niện sở niệm, thì gặp được chư Phật ở 10 phương “TỊNH ĐỘ” làm “THIỆN TRI THỨC”.
VÌ gặp được 10 phương chư Phật làm “ THIỆN TRI THỨC” , nên được pháp Giải-thoát không thể nghĩ bàn, mau chứng qủa Bồ-đề của Phật, rồi mới “TỰ-TẠI” vào Lục-đạo để cứu độ tất cả Chúng-sanh “MÀ KHÔNG BỊ THOÁI CHUYỂN”, hoặc “THUẬN” hoặc “NGHỊCH” tùy ý của “QÚY-VỊ”.
Kệ tụng:
Vi diệu nan tư tử liên hoaBồ đề tốc chứng giải thoát phápDiện kiến thập phương Phật-đà-daTùng kim bất lạc lục đạo gia.
Kinh sách tham khảo:
1) Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm Nhập Pháp Giới
Phẩm Nhập Bất Tư Nghì Giải Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện
2) Kinh Đại-Bát Niết-Bàn
3) Kinh Nhật Tụng
Tử-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Hai Mươi Mốt
Phật Ra Xá Da [40]
Án-- tát ra tát ra, phạ nhựt-ra ca ra, hồng phấn tra.
40. Phật Ra Xá Da
Ở câu trên, Phật ra xá lợi. “Xá lợi”dịch nghĩa là “Giác thân tử”. Còn trong câu Phật ra xá da, “xá da” dịch là “Tượng”: con voi. Nghĩa là khi quý vị đã giác ngộ rồi, thì tâm thể quý vị được ví như một con voi chúa, còn được gọi là Pháp vương tử. Quý vị có thể là Pháp vương tối cao trong tất cả các pháp môn. Nói chung, ý nghĩa của câu chú này là: Tâm giác ngộ như một tượng vương cao quý.
Phật ra xá da là nói về bổn thể của đức Phật A Di Đà. Đức Phật A Di Đà là bổn sư của Bồ tát Quán Thế Âm. Vì Bồ tát Quán Thế Âm tỏ lòng tôn kính đức bổn sư của mình nên Bồ tát đã đảnh lễ đức Phật A Di Đà trong khi tuyên thuyết chú Đại Bi. Nên đức Phật A Di Đà phóng hào quang để tiếp độ cho người trì chú này.
Phật ra xá da là Tử liên hoa thủ nhãn ấn pháp. Trong bốn mươi hai thủ nhãn, có Bạch liên hoa thủ nhãn, Thanh liên hoa thủ nhãn, Hồng liên hoa thủ nhãn ấn pháp. Khi hành trì thành tựu các ấn pháp này, hành giả sẽ được diện kiến mười phương chư Phật. Vì vậy Tử liên hoa thủ nhãn ấn pháp rất trọng yếu.
40) Phật Ra Xá Da
Theo trong KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG” nói rằng : “Khi Qúi vị trì tụng câu chú Phật Ra Xá Da , thì BỔN-THÂN ĐỨC PHẬT A-DI-ĐÀ sẽ “XUẤT HIỆN”, đây là thầy của BỒ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM, giúp cho Qúi vị khi bỏ BÁO THÂN nầy, được VÃNG SANH về cõi Cực-lạc của NGÀI, thành “PHÁP VƯƠNG TỬ”.
BỔN-THÂN ĐỨC PHẬT A-DI-ĐÀ
( Thường TRÌ “TỬ-LIÊN-HOA THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, làm cho Qúy vị sớm trở thành PHÁP VƯƠNG TỬ (Con của đấng PHÁP VƯƠNG.)
Và ngược lại nếu “QÚY VỊ” Thường TRÌ “TỬ-LIÊN-HOA THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, thì Qúi vị là “HÓA THÂN” của ĐỨC PHẬT A-DI-ĐÀ, nghĩa là cũng đạt được như Ngài vậy.)
Còn theo “KỆ TỤNG” thì khi TRÌ TỤNG “TỬ-LIÊN-HOA THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, thì ĐỨC PHẬT A-DI-DÀ sẽ “XUẤT HIỆN”, đây là THẦY của Bồ-tát QUÁN-THẾ-ÂM. Ngài theo “BỔN-NGUYỆN”, tiếp dẫn Qúi vị VÃNG SANH VỀ CỰC LẠC, CHỨNG LÊN 3 ĐỊA VỊ BẤT THOÁI (TAM BỐI) là: Niệm bất thối, Hành bất thối, Vị bất thối. niệm bất thối là chẳng thối tâm bồ đề, hành bất thối là tinh tấn tu hành, vị bất thối là chẳng thối lùi về hàng nhị thừa. Bồ Tát có ba thứ bất thối này, mà dũng mãnh hướng về trước, cho nên gọi là “BẤT THỐI TRỤ.”
TỪ ĐỊA VỊ TAM BẤT THOÁI, LẦN LẦN TU CHỨNG LÊN QỦA-VỊ DIỆU-GIÁC CỦA CHƯ PHẬT. TỨC LÀ CẢNH GIỚI “THƯỜNG TỊCH-QUANG TỊNH ĐỘ.”
(Niệm Phật Thập Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền-Tâm)
Kệ tụng :
Quán Âm sư chủ A-Di-Đà
Tứ thập bát nguyện hóa Ta-bà
Tam bối cửu phẩm sanh Cực-lạc
Thủy lưu phong động diễn MA-HA
KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”
HT. THIỀN-TÂM Dịch ra VIỆT-VĂN
KỆ TỤNG
HT. TUYÊN-HÓA Kệ-tụng
BÀI SỐ 93
Ẩn tu khẩn nguyện khắp nơi-nơi
Niệm PHẬT xứng cơ lại hợp thời
Biển mộng hỏi ai, thuyền lạc bến
Sông mê này chút ánh sen rơi !
NHƯ Ý : Trong Đời mạt Pháp, môn niệm PHẬT là hợp Thời-cơ nhất, vì ngoài Tự-lực còn được Phật-lực gia bị Tiếp-dẫn, trong buổi hoàng hôn mờ tối của Đời và Đạo, ánh HOA SEN báu Kỳ-diệu này còn rơi sót lại, để soi sáng Kẽ mê đường.
Chớ quản gió-sương sông-núi cách,
Hoa sen Bảo-Tích sắc hương-mầu.
I. LỜI PHI-LỘ VÀ PHỤNG-KHUYẾN
1. Thích ứng cả ba căn
2. Gồm tự-lực, tha lực
3. Giải thoát ngay trong hiện-kiếp
4. Hợp với thời-tiết, cơ-duyên
5. Luận về NGƯỜI và CẢNH thời nay
6. Vài điều kết yếu
II. NGHI THỨC MẬT TÔNG
1. Lễ bái sám hối
2. Trì chú niệm Phật
3. Phát nguyện hồi hướng
CHƯƠNG I
LỜI PHI-LỘ VÀ PHỤNG-KHUYẾN
Hiện nay, Người tu Tịnh-độ càng ngày càng đông. Sở-dĩ như thế, bởi vì môn Niệm-Phật có những yếu-tố :
1) Thích ứng cả ba căn
2) Gồm tự-lực, tha lực
3) Giải thoát ngay trong hiện-kiếp
4) Hợp với thời-tiết, cơ-duyên
5) Luận về NGƯỜI và CẢNH thời nay
6) Vài điều kết yếu
1.- NIỆM-PHẬT THÍCH-ỨNG CẢ BA CĂN
Các pháp-môn khác, nếu như thấp thì bậc THƯỢNG-CĂN chẳng thích tu, và nếu như cao tất các bậc TRUNG, HẠ-CĂN không kham tu.
Chẳng hạn như về THIỀN-TÔNG, thì đạo-lý thật mầu-nhiệm cao-siêu, một niệm đi thẳng vào chân-tâm sáng-suốt, ứng-dụng tự-tại, vượt khỏi đầu sào trăm trượng, như nhạn bay giữa thái-hư dấu-vết chẳng còn lưu.
Nhưng khúc điệu càng cao, người họa lại càng thêm thưa ít. Nếu chẳng phải bậc Huệ-căn gieo sẵn, chỉ e cho vẽ cọp không thành.
Nên cổ-đức đã bảo:
“Chẳng phải căn thượng-thượng,
Dè-dặt chớ khinh-truyền.”
(Phi thượng-thượng căn,
Thận vật kinh hứa ).
Bởi nếu không phải là bậc THƯỢNG-CĂN triệt-ngộ thiền-cơ thì chẳng thể nhập được ngay vào chân-không, mà phần nhiều lại lạc vào lối chấp thiên-không. Rồi từ đó bác phá nhân-quả, sự tướng, tăng lòng ngã-mạn, cống-cao.
Về điều nầy trong bài CHỨNG-ÐẠO-CA, VĨNH GIA HUYỀN-GIÁC thiền sư có nói:
"Nếu chấp cái không trống-rỗng,
rồi bác phá nhân-quả thì ương-họa lan-tràn !".
(Hoát-đạt không, Bác nhân-quả,
Mãng-mãng, đảng-đảng chiêu ương-họa !).
Thật ra THIỀN-TÔNG cần phải duy-trì và phục-hưng, cho chúng-sanh được độ-thoát an-vui, vườn hoa Phật-giáo thêm thắm-tươi đầy đủ màu-sắc hơn. Nếu có bậc tu THIỀN chân chánh làm lợi-ích cho mình và người, cũng đáng nên cúi đầu đảnh-lễ. Rất tiếc nhiều kẻ mới vào cửa mầu THIỀN học, liền chuộng những huyền-lý cao siêu, vội xem thường sự: Thờ cúng, Tu phước, Giữ giới, Sám hối, Tụng kinh, cho là hành-môn thấp nhỏ, chấp-trước sự-tướng.
Cảnh-trạng một kẻ mê đường dẫn nhiều người lạc lối, khiến cho ngay những bậc tôn-đức bên THIỀN trông thấy cũng thê-lương cho Phật-pháp, xót-dạ, đau lòng !
Nếu huyễn-sắc tức là chân-không thì dù tham THIỀN, niệm PHẬT, tụng KINH, hay hành-trì tất-cả sự-tướng trong đạo-pháp, cũng đều là chân không. Bậc liễu-đạt tùy-niệm ứng-dụng tự-tại không dính-mắc, như trái hồ-lô lăn tròn trên mặt nước, can chi mà phòng-ngại!
Cho nên chư Cổ-đức bên THIỀN đã cảnh-giác: " THIỀN-TÔNG nếu đi đúng tất mau chứng-quả BỒ-ÐỀ, còn lạc lầm thì đọa vào địa-ngục như tên bắn !". Các Pháp-môn cao, với bậc THƯỢNG-CĂN mới được sự lợi-ích thiết-thật LÀ NHƯ THẾ ẤY.
Còn môn TỊNH-ÐỘ thì thích ứng tất cả ba căn-cơ: THƯỢNG, TRUNG, HẠ. Bậc THƯỢNG-THƯỢNG căn như các ngài: VĂN-THÙ, PHỔ-HIỀN, LONG-THỌ, TRÍ-GIẢ và các bậc cao-đức khác nữa xưa nay, phần nhiều đều tu về môn nầy.
Như trong kinh HOA-NGHIÊM, THIỆN-TÀI đồng-tử khi đi tham-phỏng bậc tri-thức đầu tiên là ÐỨC-VÂN BỒ-TÁT, ngài ÐỨC-VÂN đã đem môn NIỆM-PHẬT TAM-MUỘI mà truyền dạy. Ðến lúc cuối cùng, PHỔ-HIỀN đại sĩ cũng nói MƯỜI ÐẠI NGUYỆN vương, khuyên THIỆN-TÀI và chư-vị Bồ-tát trong Hoa-tạng Hải-hội niệm Phật hồi-hướng về CỰC-LẠC. Do đấy, nên bảo niệm PHẬT là pháp-môn thấp kém, chỉ để cho hạng tầm-thường, ngu-dốt tu, là quan-niệm rất sai lầm!
Ðến như bậc hạ-căn, thì trong TỊNH-ÐỘ THÁNH-HIỀN LỤC đã ghi chép các sự-tích. Kẻ ngu-muội dốt-nát, phá-giới phạm-trai, nghèo khổ tật-nguyền, cho đến loài chim theo lời người dạy xưng danh-hiệu Phật, biết hồi-tâm sám-hối, trì-niệm chuyên-thành, đều được nguyện lực của PHẬT nhiếp-thọ, tiếp-dẫn sanh về Cực-lạc. Cho nên một bậc danh-đức xưa đã khen môn Tịnh-độ là:
“Bảo-phiệt ra khỏi Ta-bà,
Huyền-môn để thành Phật-đạo”.
(Xuất Ta-bà chi bảo-phiệt,
Thành Phật-đạo chi huyền-môn).
Cũng trong ý đó, Ấn-Quang Ðại-sư có câu đối :
“Bỏ đường tắt Tây-phương, chín giới chúng-sanh,
trên khó thể viên-thành quả-giác.
Lìa cửa mầu Tịnh-độ, mười phương chư PHẬT,
dưới không toàn độ thoát loài-mê”.
Nói theo kinh:
“Pháp-môn niệm-Phật,
Quả thật như chiếc lưới báu cực to,
Có thể vớt tất-cả các loài cá lớn nhỏ trong tam-giới,
Đưa lên bờ Niết-bàn vậy”.
2. - NIỆM-PHẬT GỒM TỰ-LỰC VÀ THA-LỰC
Trừ hai pháp-môn TỊNH-ÐỘ và MẬT-TÔNG, các pháp-môn khác đều nương vào nơi TỰ-LỰC, tức là sức tu của chính mình, để cầu giải-thoát. Luận riêng về TỊNH-ÐỘ, thì môn nầy gồm cả "Tự-lực" và "Tha-lực". Tự-lực là sức trì-niệm của riêng mình; Tha-lực là sức nhiếp-thọ hộ-niệm trong hiện-tại và sự tiếp-dẫn vãng-sanh của PHẬT khi lâm-chung.
Có người bảo người Tu môn niệm PHẬT là hèn-yếu, chỉ ỷ-lại vào tha-lực, cũng là quan-niệm cạn-cợt, sai-lầm.
Hành-giả Tịnh-độ Thân lễ-kính PHẬT, Miệng xưng danh PHẬT, Ý chuyên tưởng PHẬT, nhiếp-tâm từ LOẠN vào ÐỊNH, cho đến cả khi ÐI, ÐỨNG, NẰM, NGỒI. Vận-dụng cả ba nghiệp để hành-trì, cố-gắng hết sức mình, đó là chứng-minh thực-tế và hiển-nhiên về Tự-lực.
Như thế, tại sao lại bảo rằng niệm PHẬT là hèn-yếu, chỉ ỷ lại vào tha-lực ?
Cho nên, niệm-PHẬT chính là đem hết tự-lực của mình để cảm thông với tha-lực của PHẬT, cứu-cánh là dung-hòa TỰ với THA, TÂM và PHẬT, đi sâu vào CHÁNH ức NIỆM Tam-muội. Bước đầu tiên khi đã có sự cảm thông, thì hành-giả sẽ được Phật phóng quang-minh thường-trụ nơi đảnh nhiếp-thọ, hiện-tiền tiêu-trừ tội-chướng tai bịnh, phước-huệ lần-lần tăng, khi mãn-phần lại được tiếp-dẫn sanh về Cực-lạc.
Sỡ-dĩ người xưa nay khi đề-cập đến môn Tịnh-độ, phần nhiều nhấn-mạnh về Tha-lực, đó là hàm-ý chú-trọng sự tiếp-độ đến chỗ giải thoát. Vì nếu không được sức Phật nhiếp-thọ tiếp-dẫn, thì đạo lực tầm-thường của hành-giả không thể sanh về cõi Cực-lạc cách đây mười muôn ức Phật độ.
Bởi dù cho đạo lực của lục-thông La-Hán, cũng chỉ ở phạm-vi thấy biết, dạo đi trong cõi Tam-thiên đại-thiên, thuộc thế giới Ta-bà nầy mà thôi. Và khi còn hoặc-nghiệp mà không được tiếp-dẫn vãng-sanh Cực-lạc, bước lên cảnh-giới Bất thối-chuyển, nương nơi thắng-duyên của cõi ấy mà tiến-tu, tất phải tùy nghiệp chịu cảnh luân-hồi, không biết chừng nào mới được giải-thoát !
Vì sự vãng-sanh có điểm rất quan-hệ như vậy, nên Tha-lực của Tịnh-độ được chú-trọng nhiều, khiến cho kẻ nông-cạn vội nhận lầm là môn nầy chỉ ỷ-lại vào nơi Tha-lực, không cần tự lực.
Ðến đây, thấy nên giải-thích thêm vài ba nghi-vấn. Có kẻ nói:
“Bậc Bồ-tát chứng vô-sanh nhẫn đã dứt hoặc-nghiệp, thoát khỏi luân-hồi, cần chi phải cầu về Cực-lạc ? Và các vị ấy có thần thông đi đến vô-lượng thế-giới, lại cần chi niệm Phật để cầu sự tiếp-dẫn ?”
Xin đáp, theo kinh nói:
"Sự cất chân lên để bước xuống của PHẬT, bậc Ðẳng-Giác Bồ-tát còn không hiểu-thấu, huống chi hàng Thập-địa Bồ-Tát ! Các vị ấy tuy dứt kiến tư và trần-sa hoặc, song Vô-minh hoặc hãy còn, nên cần phải gần-gũi PHẬT để học đạo-pháp thành PHẬT. Thật ra, chư đại Bồ-tát có hai việc: Trên cầu về mười phương Tịnh-độ để học vô-lượng pháp-môn của Như-Lai, Dưới hiện thân khắp mười phương uế độ để giáo-hóa các loài hàm-thức.
Pháp-thân của chư vị thường-trú, tuy ở cõi Tịnh mà không lìa cõi uế, và dù ở uế-độ vẫn không rời khỏi Tịnh-độ. Còn việc Bồ-tát niệm Phật để cầu tiếp-dẫn, ví như một học-giả đến viếng bậc Thầy của mình, tuy có thể tự-tại đi vào nhà, nhưng theo lễ phải xin phép. Và vị Thầy đúng theo tâm-niệm dìu-dắt hàng hậu-lai, cũng vui vẻ tiếp đón. Việc như Bồ-tát muốn về Cực-lạc, niệm hồng-danh Phật để cần-cầu, và Đức Phật tùy bản-nguyện, đến tiếp dẫn cũng lại như thế.
Nhưng Sự tiếp-dẫn của Phật tùy-niệm ứng-hiện, trong một sát na có thể đồng-thời đến vô-biên thế-giới ở mười phương, tiếp-dẫn số chúng-sanh như vi-trần, như gương trăng sáng hiện bóng khắp các điểm nước, sông, hồ, đâu có tướng đến đi và đâu có chi nhọc-mệt mà phòng-ngại!”.
3.- NIỆM-PHẬT GIẢI-THOÁT NGAY TRONG HIỆN-KIẾP
Với các pháp-môn khác, hành-giả phải dứt trừ hết hoặc-nghiệp mới vượt sự sống-chết, luân-hồi. Riêng môn Tịnh-độ, dù cho hoặc-chướng hãy còn, vẫn có thể hiện-đời nương nơi nguyện-lực của PHẬT, đới-nghiệp vãng-sanh, tiến thẳng lên bờ giải-thoát. Về điểm nầy, trong bức thư phúc-đáp cho TỊNH-TU pháp sư, ngài ẤN-QUANG đã nói như sau:
"Có hai đường tiến đến chổ giải-thoát là: THÁNH-ÐẠO và VÃNG-SANH.
Về THÁNH-ÐẠO, tức đường tu chứng lên quả THÁNH không chi thẳng tắt mau lẹ hơn môn "Trực-chỉ thiền". Nhưng tu Thiền giữa thời buổi nầy, trong hiện đời chưa dễ gì ngộ-đạo, huống chi là chứng-đạo ư ?
Nếu như không chứng quả, trong mười người tu đã lạc-lối hết tám chin, bởi khi luân hồi sẽ bị nhiều chướng-duyên làm cho thối-chuyển, dễ mê-muội túc-căn. Tu Thiền, nếu chứng được sơ-quả Tu đà-hoàn, tuy còn 7 lần sanh lên cõi Trời, 7 phen trở lại nhơn-gian, nhưng sẽ không lo thối-chuyển. Khi chứng đến quả A-LA-HÁN, mới dứt hẳn luân-hồi.
Ngoài ra, thì không nhứt-định, có kẻ đời hiện-tại tu-hành rất tốt, kiếp sau được hưởng phước, say đắm theo dục-lạc, tạo nghiệp ác rồi bị đọa vào địa-ngục. Dù cho năm ba đời giữ được thiện-căn, không tạo nghiệp ác, song ai có thể bảo-đảm những kiếp về sau lại chẳng gây nghiệp rồi bị đọa tam-đồ!
Chẳng nói đâu xa, ngay trong đời hiện-tại, rất nhiều hành-giả trước siêng-năng, sau biếng-trễ, đạo-tâm dần-dà thối-chuyển, đến nỗi có kẻ phải hoàn tục. Những đời về sau, theo đà mạt-kiếp, Phật-pháp lần suy kém, bậc thiện tri-thức rất khó tìm, sự giải-thoát lại còn xa hơn nữa!
Riêng có đường lối VÃNG-SANH, là niệm PHẬT cầu về Tịnh-độ, thì dù cho hoặc-chướng hãy còn, vẫn có thể nương theo nguyện-lực tiếp-dẫn của đức A-DI-ÐÀ, vượt ngang ba cõi, đới-nghiệp thẳng sang Cực-lạc. Thật ra, cũng như bên Thiền, giữa thời Mạt-pháp nầy, người tu Tịnh-độ đến cảnh-giới "SỰ nhứt-tâm bất-loạn" rất là ít có, huống chi là cảnh "LÝ nhứt tâm", và đi sâu vào " Niệm-Phật Tam-muội"!
Nhưng nếu thuở bình-nhựt chuyên trì-niệm, khi lâm-chung, chủng-tử của câu hồng-danh đã huân-tập từ lâu phát-hiện, liền khiến cho tạm-thời được nhứt-tâm. Lúc ấy chỉ cần gia thêm ý-niệm tha-thiết, rủ sạch trần-duyên hướng về Liên-Quốc, quyết-định sẽ được sự cảm-thông tiếp-dẫn.
Khi đã về đến cõi ấy rồi, trên có PHẬT, Bồ-tát, dưới là các hàng Thượng thiện-nhơn, nước chảy, chim kêu, nói ra pháp-diệu, không còn bị các duyên ăn, mặc, ở và sanh-kế (y, thực, trụ, hành) làm vướng-bận, sống lâu vô-lượng kiếp, lo chi đạo-quả không thành! Pháp-sư đã hỏi, tôi chỉ y theo chỗ thấy hiểu của cổ-đức và căn-cứ nơi Phật-lý mà giải-đáp, "XIN SUY-GẨM KỸ RỒI TÙY-TÂM LỰA CHỌN ..."
Lời trên đây của Ðại-sư, đã vạch rõ chỗ ổn-đáng và khó bảo đảm trên đường giải-thoát của thời nay, giữa TỊNH cùng THIỀN.
4.- NIỆM PHẬT HỢP THỜI-TIẾT, CƠ-DUYÊN
Trong thời Chánh-pháp và Tượng-pháp, con người phần nhiều nghiệp nhẹ, tâm thuần, hoàn-cảnh sinh-hoạt giữa xã-hội lại đơn-giản, có thể tu các pháp-môn về Thánh-đạo. Thời ấy, Thiền-tông đặc-biệt hưng-thạnh, hành-giả căn-cơ sang lẹ, thấy non xanh hoa-nở, nghe gió thổi suối reo đều có thể ngộ-đạo.
Nhưng từ thời mạt-pháp về sau, nhơn tâm khác xưa, sự sinh-hoạt, tổ-chức giữa xã-hội lần-lần phức-tạp, căn-cơ người tu phần nhiều là bậc Trung, Hạ. Cho nên muốn bảo-đảm sự giải-thoát, cần phải hướng về pháp hợp với thời-tiết, cơ duyên là MÔN NIỆM-PHẬT. Về điều nầy, xin dẫn những chứng-liệu như sau:
Trong kinh "ÐẠI-TẬP NGUYỆT-TẠNG", đức Thích Tôn đã lời huyền-ký: "THỜI MẠT-PHÁP, ỨC-ỨC KẺ TU-HÀNH, SONG ÍT CÓ NGƯỜI ÐẮC-ÐẠO, CHỈ NƯƠNG THEO PHÁP-MÔN NIỆM-PHẬT MÀ THOÁT KHỎI LUÂN-HỒI." (Mạt-pháp, ức-ức nhơn tu-hành, hản nhứt đắc-đạo. Duy y niệm-Phật, đắc độ sanh-tử).
Nơi kinh "VỘ LƯỢNG-THỌ", Phật cũng bảo: "TRONG ÐỜI TƯƠNG-LAI, KHI KINH-ÐẠO DIỆT HẾT, TA DÙNG SỨC TỪ-BI, THƯƠNG XÓT, RIÊNG LƯU-TRỤ KINH NẦY MỘT TRĂM NĂM. CHÚNG-SANH NÀO GẶP KINH NẦY, TÙY THEO SỞ-NGUYỆN, ĐỀU CÓ THỂ ÐẮC-ÐỘ."(Ðương-lai chi thế, kinh đạo diệt-tận, ngã dĩ từ-bi ai-mẫn, đặc lưu trữ kinh, chỉ trụ bá tuế. Kỳ hữu chúng-sanh, trị tư kinh giã, tùy-ý sở-nguyện, giai-khả đắc-độ)
Ðức Như-lai là bậc trí-huệ rộng sâu, vì sao chẳng lưu lại các pháp kia, mà chỉ lưu môn Tịnh-độ ? Ðó là thâm-ý PHẬT đã chỉ rõ : "THỜI MẠT-PHÁP VỀ SAU, ÐƯỜNG TU HỢP VỚI CƠ-DUYÊN CHÚNG-SANH, CHỈ LÀ MÔN TỊNH-ÐỘ”.
Nơi đoạn Minh-Giáo của AN-LẠC TẬP, Ðạo-Xước Thiền-sư có lời bình-luận : " NẾU GIÁO-PHÁP HỢP VỚI THỜI-CƠ, THÌ DỄ TU, DỄ NGỘ. NHƯ GIÁO-PHÁP TRÁI THỜI-CƠ, TẤT KHÓ TU, KHÓ NHẬP. Nên Kinh Chánh-Pháp Niệm nói: " HÀNH-GIẢ KHI NHỨT-TÂM CẦU-ÐẠO, PHẢI QUAN-SÁT VỀ PHƯƠNG-TIỆN THỜI-CƠ, NẾU TRÁI VỚI PHƯƠNG-TIỆN ÐÓ, TẤT BỊ THẤT-LỢI”.Tại sao thế ?
Như cọ gỗ ướt để tìm lửa thì không thể được, vì trái thời. Và như bẻ cây khô để tìm nước, cũng chẳng thể có, vì không trí-huệ. Ðức Như-lai đã phân-định năm thời kiên-cố sau khi Ngài nhập-diệt, mỗi thời là năm trăm năm. Trong các thời Chánh-pháp và Thiền-định Kiên-cố, hành-giả nên chọn Thánh-đạo, tu Ðịnh-huệ làm phần chánh, cầu Tịnh-độ làm phụ”.
Từ cuối thời Ða-văn kiên-cố bước sang thời Tháp-tự và Ðấu-tranh kiên-cố về sau, nên lấy Tịnh-độ làm phần chánh, tu Thánh-đạo làm phụ".
Ngoài những chứng-liệu trên, còn lời huyền-ký của bậc chơn-tu đắc đạo là Thiên-Như Thiền-sư, cùng những điểm nhận-định và biện-chứng của các bậc danh-đức xưa nay. Trong phạm-vi khái-ước nầy không thể nêu ra hết được. Bên Trung-Hoa từ cuối đời nhà Tống về sau, các bậc Tôn-đức quan-sát rõ thời-cơ, đều chuyển lần từ Thiền trở sang xiển-dương Tịnh-độ. Tuy nhiên vì Thiền tông lưu-hành hưng-thịnh từ lâu thành phong-thái, nên thường có sự tranh-đua giữa TỊNH VÀ THIỀN.
Song, đó chỉ là Kiến-chấp của một số người chưa Quán-triệt Phật-lý cùng Thời-cơ, còn các bậc cao Tăng đã Liễu-đạt, thì chỉ tùy-duyên mà duy hộ chánh-pháp, tuyệt không có tâm-niệm phân-biệt đây kia. Cứ trung-thật mà luận, chúng hữu-tình có nhiều tâm-bệnh cùng sở-nguyện, riêng một môn Tịnh-độ vẫn không thể phổ-cập và thích-ứng để hoằng dương chánh-pháp, lợi-ích quần-sanh, nên rất cần sự có mặt của các pháp-môn.
Theo thiển-ý, trong thời Mạt-pháp, hành-giả các tông-khác, tuy hoằng-truyền bản-môn, nhưng cũng nên nghiên-cứu Tịnh tông và quy-hướng về lối vãng-sanh để bảo-đảm cho sự giải-thoát, như chư Tôn-đức bên Tông Tào-động, ngoài hoằng Thiền trong kiêm tu Tịnh khi xưa. Và người tu Tịnh-độ cũng cần học-hỏi các TÔNG khác, để thêm tiến-ích cho đường hành-đạo của mình, bởi mỗi TÔNG như những đóa-hoa, đều sáng tươi riêng phần đặc-sắc. Lời dẫn-luận trên, chỉ y theo quan điểm từ-mẫn lợi sanh của PHẬT và chư Cổ-đức, nêu ra một đường lối tu-tập thích-ứng với thời-tiết và cơ duyên mà thôi.
Ở Trung-Hoa vào thời cận đại, có phong-trào chấn-hưng Phật-giáo do một số danh-tăng và Phật-tử trung-kiên cổ-xúy. Quán-sát hành-vi lúc sanh-thời và khi lâm-chung của ít người trong nhóm đó, những biểu-tượng mà thường nhơn không thể có được, nhiều nhà học Phật quả-quyết đó là các bậc Bồ-tát tái-lai để duy hộ chánh-pháp. Trong hạng các người phi-thường ấy :
Dế-Nhàn pháp-sư giảng-kinh khắp nơi, chấn-hưng về Thiên-Thai tông
Hư-Vân Thượng-nhơn tu chỉnh các danh-lam, thánh-tích của Phật-giáo, chấn-hưng về Thiền tông.
Ấn-Quang đại-sư dùng thơ-tín, kinh, tượng độ vô-số người, chấn-hưng về Tịnh-độ tông.
Hoằng-Nhứt đại-sư nghiêm giữ giới-hạnh, soạn thành bộ "Nam-Sơn Luật Uyển Tông-thư, chấn-hưng về luật tông.
Thái-Hư đại-sư vận-động cuộc canh-tân Phật-giáo, chấn-hưng về Duy-thức tông.
Kim-Cang Thượng-sư Hô-Ðồ Khắc-Ðồ Tây-Khang đến truyền-dương về Mật-tông.
Đến như cư sĩ Dương-Nhân-Sơn trọn đời thành-lập Bang, Hội sưu-tầm và ảnh ấn các tượng Phật, Bồ-Tát và "Tam-tạng kinh-điển", để cho chánh-pháp khỏi bị sớm hủy-diệt về sau.
Riêng ngài ẤN-QUANG đã đem sự vãng-sanh lúc lâm-chung, chứng-minh cho lời nói và hành-động buổi bình-thời, thì không cần bàn luận.
Còn Dế-Nhàn pháp-sư tuy hoằng dương kinh Pháp-Hoa, truyền dạy môn Tam-Quán, nhưng lúc lâm-chung vẫn theo gót đấng khai-tổ bản-tông là Thiên-Thai Trí-Giả, niệm Phật sanh về Cực-lạc.
Hư-Vân Thượng-nhơn tuy thị-hiện ngộ-đạo, làm mô-phạm hướng-dẫn hành-giả tu Thiền, song khi gặp hoàn-cảnh, cơ-duyên cũng khuyên người niệm-Phật.
Hoằng-Nhất đại-sư lưu lại bút-tích "Bi-Hân Giao-Tập", lúc lâm-chung khi thấy Tây-phương Tam-Thánh đến rước.
Thái-Hư đại-sư hoằng dương Duy-Thức, song hằng khen-ngợi mười phương Tịnh-độ, nhưng vì không muốn trái với ứng-tích của đấng khai-tổ là Di-lặc Bồ-tát, nên hồi-hướng cầu sanh Ðâu-Suất Tịnh-Độ.
Thượng-sư Hô-Ðồ Khắc-Ðồ tuy-truyền pháp "Thánh cứu-độ Phật mẫu", gồm 21 Độ Mẫu, hóa-thân của đức Quán-Âm để cứu nạn tai thời mạt-kiếp, song cũng khuyên hàng đệ-tử đem công-đức trì-niệm hồi-hướng về Cực-lạc.
Dương-Nhân Sơn cư-sĩ lúc mãn phần, ngồi chắp tay nói với các hàng đạo-hữu: "Bản-nguyện của tôi cùng bản nguyện đức A-Di-ÐÀ dung-hợp nhau" , rồi niệm Phật mà hóa.
Có phải chăng các bậc danh-đức trên đây, tuy mỗi người làm một Phật-sự, song đã dùng bản thân, hoặc lời nói mà ngầm khuyên các hành giả chú trọng về sự giải-thoát, vãng sanh.
5.- LUẬN VỀ NGƯỜI VÀ CẢNH THỜI NAY
Nói-chung trên phương-diện hoằng-dương đạo-pháp, mỗi Tông đều phát-huy những đặc-điểm của mình, để người học Phật tùy sở-thích mà thu-nhập. Nhưng bình-tâm thử-nghiệm xét, lúc nầy là thời buổi nào ?
Thời nầy LUẬN VỀ NGƯỜI, thì chúng sanh phần nhiều đều nặng nghiệp. Bên Trung-Hoa, khoảng cuối đời nhà Thanh bước sang thời Dân-quốc, Cư-sĩ Cao-Hạt-Niên khi hỏi đạo nơi các danh-lam, gặp một vị cao-tăng ẩn-tu bảo:
“Thời nay, trong 100 kẻ ác, mới có một người thiện. Trong 100 kẻ thiện, mới có một người hướng về đạo. Trong 100 kẻ hướng về đạo, mới có một người giữ vững tâm-nguyện, không thối-chuyển trên bước đường tu-hành.”
Thuở-xưa , trong lúc phú-pháp cho Huệ-Khả Ðại-sư, Tổ Ðạt-Ma có dạy:
“Khoảng 200 năm về sau, người học LÝ thì nhiều, song ngộ LÝ rất ít. Người nói Lý thì nhiều, song hành LÝ rất ít. Người hành LÝ hoặc nhiều, song chứng LÝ rất ít. Nên ý-thức, chỉ riêng bước đầu là phần học Phật-lý, nhiều kẻ nếu chẳng vướng về chấp CÓ, giữ chặt lấy SỰ-TƯỚNG, thì cũng lạc vào chấp KHÔNG, bài-bác nhân-quả! Mấy ai là bậc hiểu sâu Phật thừa, liễu ngộ DIỆU-HỮU TỨC CHƠN KHÔNG, CHƠN-KHÔNG TỨC DIỆU-HỮU ? Cư-sĩ tuy mộ-đạo, song dè-dặt đừng sa vào kiến-chấp đó”.
Cao Hạt-Niên cư-sĩ có hỏi đến chỗ tiến chứng của nhiều bậc Trưởng-lão. Tất-cả đều khiêm-nhường Svà thành-thật trình-bày, đại-khái như: Nghiệp-chướng nặng, Còn nhiều tán-loạn, hôn-trầm, Giới-hạnh và oai-nghi kém-khuyết, Bước tu chưa đạt đến thật-địa…Khi cư-sĩ đề-cập đến những kẻ xưng mình đã chứng-ngộ, thì các vị ấy đều cảnh-giác:
“Theo kinh Lăng-Nghiêm, đức PHẬT có huyền-ký : Gần thì thập-thế 1000 năm (mỗi thế có 100 năm), xa thì bách-sanh 3000 năm (mỗi sanh có 30 năm), có rất nhiều ma ngoại ám-nhập người tu, hoặc ẩn-bóng trong chánh-pháp. Thời buổi nầy, nếu có ai tự-xưng đã chứng-ngộ, hoặc bảo rằng mình là PHẬT, TỔ hiện-thân, đó đích-thị là hàng ma ngoại”.
Những điều trình-thuật trên đây, cho chúng ta thấy CON NGƯỜI THỜI NAY HOẶC-NGHIỆP và MA-CHƯỚNG QUÁ NHIỀU !
LUẬN VỀ CẢNH, thì những tai-nạn : Ðộng đất, núi lở, bảo-lụt, trộm-cướp, chiến-tranh, lửa cháy, hạn-hán, mưa nắng trái thời, sâu trùng phá-hoại, dịch-chướng lan-tràn, đã diễn ra ở nhiều nơi. Nhìn đến tương-lai, trận thế-chiến thứ ba chắc đâu tránh khỏi ! Các phái Tiên đều bảo buổi nầy là thời mạt-kiếp, có sự thanh-lọc rộng-lớn. Ðạo Chúa nói sẽ có tận-thế trước năm hai ngàn.
Còn riêng bên đạo Phật, khi HƯ-VÂN thiền-sư xuất-thần lên cung trời Ðâu-xuất, được nghe DI-LẶC Bồ-tát nói pháp-môn Duy-Tâm thức định. Nơi đoạn kết-thúc, Bồ-tát đọc bài kệ dài, trong ấy có mấy câu:
“Kiếp-nghiệp đương đầu.
Cảnh-tích phổ-giác.
Khổ-hải từ-hàng.
Vô-linh thối-khước”.
Ðại-ý của đức DI LẶC bảo, ở trần-giới tam tai tiểu-kiếp đã bắt đầu, gồm các nạn: Ðói-khát, tật-dịch và chiến-tranh. Bồ-tát khuyên thiền-sư và những hành-giả đạo Phật, nên làm chiếc thuyền từ trong biển khổ, nhắc-nhở chúng-sanh thức-tỉnh trước các tai-nạn ấy, mà gắng lo tu-hành, đừng để thối-chuyển ...Nói khái-quát, đi sâu vào thời mạt-pháp, chúng-sanh nghiệp nặng, thế-giới nạn-tai, cảnh nước lửa lầm-than đã hiện ra trước mắt. Thời buổi nầy, thật ra còn không nên có sự phân-biệt giữa các tôn-giáo, huống chi trong các môn phái đạo Phật! Hiện nay các đạo đều thi nhau đóng con thuyền tế-độ giữa cảnh sóng-gió, trầm-luân. Thần-đạo thì độ thuộc-phái trở về cảnh-giới Thần. Tiên-đạo thì độ các người có căn Tiên.
Còn Phật-đạo, tất phải khuyên kẻ hữu-duyên về nơi Phật-cảnh.
6.- VÀI ĐIỀU KẾT-YẾU
Qua trên, Tệ-nhơn đã trình-bày môn Tịnh-độ qua bốn yếu-điểm, rồi luận về NGƯỜI và CẢNH thời nay, khái-lược các điều quan-yếu, để phụng-khuyến đồng bạn trong biển mê tối trầm-luân, cùng hướng bước về nẻo sáng-suốt an-lành của pháp-môn Tịnh-độ. Đó là phần lý-thuyết, còn phần thực-hành sẽ có NGHI-THỨC ở chương sau.
Trong khi trình-luận, có mấy điểm đề-cập đến giới-hạn giữa TỊNH và THIỀN, cũng bởi-vì lý-do bất đắc-dĩ và cần-thiết:
“Vì một ít vị học Thiền, bài-bác việc tụng-kinh, niệm Phật qua nhiều điểm, khiến đa-số Phật-tử bối-rối hoang-mang hỏi đến, nên bất đắc-dĩ phải biện-minh.
Vì nương theo gót từ-bi của Phật và chư Tôn-đức, đã nói về pháp hợp thời-cơ để làm lợi-ích cho người học-đạo, nên cần-thiết phải giải-thích. Bởi nếu nói pháp chẳng hợp cơ, tất chúng-sanh chìm trong bể-khổ.”
“Thuyết pháp bất đậu cơ,
Chúng sanh một khổ hải. ”
Thật ra, tệ-nhơn rất thích Thiền-tông và có-thể bảo là có căn-cơ về môn ấy. Nói mến-thích, vì Thiền-tông có những đặc-điểm của nó. Chẳng-hạn như, khi học-giả đến hỏi một Thiền-sư: Thế nào là đạo ?
Sư đáp:
“Một áng khói mây phong cửa động,
Muôn chim về tổ chợt mê đường!”
Chỉ dùng hai câu vừa văn-nhã, vừa giản-dị bao-quát để phá những khái-niệm phân biệt về đạo, đưa vào chân-tâm, Thiền-tông đã tỏa ra một hương vị thanh-thoát. Lại như câu chuyện, khi ngài Pháp-Nhãn hỏi Như-Tắc Thiền-sư: Sao chưa từng thấy giám-viện phỏng-đạo ?
Như-Tắc đáp, Tôi đã có chỗ sở-nhập do sư Thanh-Lâm khai-thị, vì khi tôi hỏi: Thế nào là Phật ?
Thanh-Lâm đáp: “Bính-Ðinh đồng-tử đi tìm lửa”. Ngài Pháp-Nhãn bảo: “Khá hay! Nhưng e ông chưa hiểu, vậy thử tỏ bày chỗ kiến-giải xem sao ?
Như-Tắc thưa: “Bính, Ðinh (là hai can trong thập can) thuộc hành HỎA, tức là lửa, đem lửa tìm lửa, cũng như chính mình là PHẬT mà lại đi tìm PHẬT”. Pháp-Nhãn nói: “Quả-nhiên Giám-viện hiểu sai rồi !” Như-Tắc không tỏ ra sắc giận, quay mình bỏ đi. Ngài Pháp-Nhãn bảo thị-giả: “Người nầy nếu trở lại thì cứu được, bằng không chắc chẳng thể cứu-độ”. Như TẮC Thiền-sư đi nửa đường, bỗng suy nghĩ: “ Ông ta là bậc Thiện tri-thức của đại chúng gồm 500 vị, chẳng lẽ lại trêu mình ?”. Liền trở lại, sám-hối cầu khai-thị.
PHÁP-NHÃN bảo đề khởi lại câu hỏi trước. Sư liền đảnh-lễ thưa : “Bạch Tôn-đức, thế nào là PHẬT ?” PHÁP-NHÃN đáp: “BÍNH-ÐINH đồng-tử đi tìm lửa!”. Nghe xong NHƯ-TẮC chợt tỏ ngộ.
Lối giải đáp của ngài PHÁP-NHÃN là đúng ngay ý-thức tìm cầu về Phật đã có sẵn của NHƯ-TẮC thiền-sư, hốt-nhiên đưa sư đi thẳng vào cảnh-giới siêu-thức. Cảnh-giới tỏ-ngộ ấy sâu hay cạn và như thế nào, đều không phải lời nói, tâm-tư mà có thể đến được, chỉ do đương-nhơn tự biết lấy, như chính mình thể-nhận khi uống nước hoặc nóng hoặc lạnh mà thôi. Và đây cũng lại là một hương-sắc thơm đẹp của bên Thiền.
Còn nói có căn về Thiền, vì tệ-nhơn lúc trẻ tuổi đang trên đường học đạo, một hôm đứng tựa gốc cây, bỗng-nhiên muôn niệm đều tiêu-tan, tâm cảnh thoạt vào cõi rất mực an-tĩnh, nhẹ-nhành, sáng-suốt. Cảnh thoát trần không thể diễn-tả ấy, chỉ kéo dài không đầy năm phút. Khi hoàn lại trạng thái cũ, Tệ nhơn suy-nghĩ biết đó là túc-tập về tu Thiền trong một tiền-kiếp của mình. Từ ấy hằng ưa-thích thiền tĩnh-tọa. Trên bước tu, tuổi càng lớn, sự lịch-duyệt càng sâu, tự xét mình thiện căn tuy có song hoặc-nghiệp còn nhiều, lối luận-thuyết cao-siêu, sự hiểu biết chút ít về đạo, không thể đưa đến chỗ giải-thoát được. Do đó lần-lần hướng về Tịnh-độ, sám-hối, niệm Phật, cầu nguyện lực của Như-Lai hộ trì, tiếp dẫn.
Ðến nay, Thành-thật mà nói: “Gương tánh hãy mờ, gót tu chưa ổn, căn-thân chẳng tịnh, hạnh-kiểm còn sơ”. Soi gương Bá-Ngọc, hơn 50 vẫn còn thấy lỗi-lầm. Hướng gót Triệu-Châu, tuổi 80 còn mong học hỏi. Với danh-phận xuất-gia, tự thấy còn chưa xứng-đáng, chẳng qua trên cương-trường hoằng-hóa, phải cố-gắng đóng cho trọn vai-tuồng của mình đó thôi. Nhìn về tương-lai, Xét về bổn-phận, Xin mượn hai câu sau đây để tự diễn-tả:
Quý Tử áo thô nhiều vẻ thẹn,
Lưu-lang suối cũ luống bàng-hoàng!
CHƯƠNG II
NGHI THỨC MẬT TÔNG
Từ đây trở về sau, những đoạn nào có kép vòng đơn ( ), là các điều căn-dặn hoặc dẫn-giải, in bằng chữ nghiêng. Chữ lớn thẳng là phần xướng-tụng hành-trì. Trải nhiều năm kinh-nghiệm, tệ-nhơn xét thấy các hành-giả thời nay có những ma-chướng, mà đạo-lực kém-yếu của phần đông người thời mạt-pháp khó nổi vượt qua. Ðó là những ma-chướng nội-tâm, ma-chướng ngoại-cảnh và ma-chướng thuộc giới vô-hình. Vì thế, sau khi nghiên-cứu trong Ðại-tạng, tệ-nhơn đã dựa vào kinh-nghiệm của chính mình và nhiều hành giả khác thuật lại, dung-hợp môn tu Tịnh-độ thuộc Mật-giáo cùng Hiển-giáo soạn ra nghi-thức nầy.
Trong đây chú-trọng về sự khái-quát đơn-giản, lời gọn mà ý-tứ đầy-đủ. Pháp-nghi nói sau chia ra làm ba phần:
1. Lễ bái sám hối
2. Trì chú niệm Phật
3. Phát nguyện hồi hướng
Xin lưu-ý, Pháp-nghi chỉ là hình-thức, là khuôn-mẫu, để cho “hành-giả” nương vào nơi sự-tướng mà tiến-tu, mà hướng về chơn-cảnh. Còn tiến-trình sâu hay cạn, thấp hay cao, công-đức ít hoặc nhiều , còn tùy tâm chí-thành, sức trì-niệm của các hành-giả.
1. - PHẦN LỄ-BÁI SÁM-HỐI
( Trước tiên rửa tay, rửa mặt, lễ phục nghiêm-chỉnh. Khi đến nơi lễ tụng, Hành-giả dùng ẤN KIẾT-TƯỜNG, tay trái ngón cái nắm co đầu ngón vô danh, vẽ và tưởng chữ RAIN (RĂN)
sắc trắng trong lòng tay mặt 3 lần. Rồi tay mặt cũng kiết ấn vẽ vào lòng tay trái y như vậy. Kế tiếp đốt hương rồi bước lui đứng chấp tay trước bàn Phật, đọc bài kệ tán)
Sắc thân PHẬT mầu đẹp,
Trong đời không ai bằng.
Khó sánh-ví, nghĩ bàn!
Nên nay con đảnh-lễ.
Sắc thân PHẬT vô-tận,
Trí-huệ cũng như thế.
Tất-cả pháp thường-trụ,
Nên nay con quy-y.
Bi, trí, nguyện-lực lớn,
Ðộ khắp cả hàm-linh.
Khiến bỏ thân phiền-não,
Sanh về cõi thanh-lương.
Nay con tịnh ba nghiệp,
Quy-y và lễ tán.
Nguyện cùng các hữu-tình,
Ðồng sanh về Cực-lạc.
(Hành giả có thể đọc bài kệ tán khác mà mình thích)
PHỔ-LỄ CHƠN-NGÔN
UM! VA JI RA VẮT (7 lần)
( AUM ! VÀJRA VÃT)
( Trong khi tụng chú, kiết ẤN KIM-CANG HIỆP-CHƯỞNG để trên đầu, chấp hai tay lại ngón so le, hữu áp tả. Theo Mật-giáo, nên tưởng mình hiện thân khắp pháp-hội 10 phương, lễ kính chư PHẬT. Xong xả ấn ngay nơi đảnh.)
1. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Hoằng-dương môn TỊNH-ÐỘ, THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT, Trăm ngàn ức hóa-thân, Khắp pháp-giới chư PHẬT. (1 lạy)
2. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Thường-tịch quang Tịnh-Ðộ, A-DI-ÐÀ Như-Lai, Pháp-thân mầu thanh-tịnh, Khắp pháp-giới chư Phật. (1 lạy)
3. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Thật-báo trang-nghiêm độ, A-DI-ÐÀ Như-Lai, Thân tướng hải vi-trần, Khắp pháp-giới chư PHẬT. (1 lạy)
4. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Phương-tiện Thánh cư độ, A-Di-ÐÀ Như-lai, Thân trang-nghiêm giải-thoát, Khắp pháp-giới chư PHẬT. (1 lạy)
5. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc Phương Tây, A-DI-ÐÀ Như-Lai, Thân căn-giới đại-thừa, Khắp pháp-giới chư PHẬT. (1 lạy)
6. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc Phương Tây, A-DI-ÐÀ Như-Lai, Thân hóa đến mười phương, Khắp pháp-giới chư PHẬT. (1 lạy)
7. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc phương Tây, Giáo, hạnh, lý ba kinh, Y chánh đều tuyên-dương, Khắp pháp-giới tôn PHÁP. (1 lạy)
8. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc phương Tây, QUÁN THẾ-ÂM Bồ-tát, Thân tử-kim muôn-ức, Khắp pháp-giới Bồ-tát. (1 lạy)
9. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc phương Tây, ÐẠI THẾ-CHÍ Bồ-tát, Thân, trí sáng vô-biên, Khắp pháp-giới Bồ-tát. (1 lạy)
10. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc phương Tây, VĂN-THÙ Ðại Bồ-tát, Thân thị-hiện Trí-mầu, Khắp pháp-giới Bồ-tát. (1 lạy)
11. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc phương Tây, PHỔ-HIỀN Ðại Bồ-tát, Thân hạnh, nguyện sát-trần, Khắp pháp-giới Bồ-tát. (1 lạy)
12. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc phương Tây, Thanh-Tịnh Ðại-hải chúng, Thân phước-trí trang-nghiêm, Khắp pháp-giới thánh-chúng. (1 lạy)
(Kế tiếp, quỳ trước bàn Phật, chấp tay, chí-thành, đọc bài kệ Sám-hối)
Quy-mạng mười phương PHẬT,
Tôn PHÁP, hiền-thánh TĂNG,
Tam-thánh cõi Cực-Lạc,
Xin thương-xót chứng-minh,
Vô-thỉ kiếp đến nay,
Con mê lạc luân-hồi.
Do bởi tham, sân, si,
Từ nơi thân, khẩu, ý.
Tạo tứ-trọng, ngũ-nghịch,
Thập ác, vô-biên tội.
Nay đem tâm chí-thành,
Tỏ bày cầu sám-hối.
Nguyện nhớ sức gia-trì,
Thân-tâm đều thanh tịnh.
Xin phát đại Bồ-đề,
Ðộ mình, người giải-thoát.
NAM MÔ CẦU SÁM HỐI BỒ TÁT MA HA TÁT. (3 lần)
(Đứng lên chấp tay xướng)
Ðệ-tử Sám-hối, phát-nguyện rồi, chí-tâm đảnh-lễ Tam-bảo. (1 lạy)
2.- PHẦN TRÌ CHÚ NIỆM PHẬT
( Ngồi kiết già hoặc bán già trước bàn Phật. Tịnh tâm trong giây phút, rồi Tưởng chữ RĂN sắc Trắng trên đầu, phóng ánh sáng Đỏ.)
( Kế dùng ấn Kiết tường Viết và Tưởng chữ RĂN cùng chữ HÙM cũng đều sắc Trắng, gia trì Hai lòng bàn tay và Chuỗi, mỗi nơi ba lần.
Lại tiếp dùng ấn Kiết tường, gia trì SỔ CHÂU chân ngôn sau đây nơi tràng Chuỗi, xong búng Ba cái, xả ấn trên Đảnh.)
GIA TRÌ SỔ CHÂU CHÂN NGÔN
UM! VAI RÔ CA NA MA RA XÓA HA (7 lần)
(AUM! VAIROCANA MARA SVÀHÀ)
( Xả ấn xong, vẫn ngồi chắp tay tụng bài Hương tán)
Nguyện mây hương mầu này,
Hiện khắp mười phương cõi.
Tất cả các Phật độ,
Vô lượng hương trang nghiêm.
Đầy đủ Bồ Tát đạo,
Thành tựu Như Lai hương.
Nam mô Hương Vân cái Bồ Tát ma ha tát (3 lần)
(Vẫn chắp tay tụng tiếp bài tán Vô Lượng Thọ)
Quang, thọ khó suy lường,
Sáng lặng khắp mười phương.
Thế Tôn Vô Lượng Quang,
Cha lành cõi Liên ban.
Thần lực chẳng tư nghì,
Sống lâu A tăng kỳ.
A Di Đà Như Lai,
Tiếp dẫn lên liên đài.
Cực Lạc cõi thuần tịnh,
Công đức lạ trang nghiêm.
Nơi tất cả quần sanh,
Vượt lên ngôi Bất thối.
Mười phương hằng sa Phật.
Đều ngợi khen Vô Lượng.
Cho nên hôm nay con,
Nguyện sanh về An Dưỡng.
Nam mô Liên trì hải hội Phật Bồ Tát. (3 lần)
(Tiếp tụng)
PHỔ THANH TỊNH CHÂN NGÔN
UM ! SOA PHẠ VA SUÝT ĐA, SAT VA ĐẠT MA,
SOA PHẠ VA SUÝT ĐA HÀM.
UM ! RĂN RĂN RĂN.
(7 lần)
( AUM! SVABHÀVA SUDDHA, SARVA DHARMA,
SVABHÀVA SUDDHA HÀM.
AUM! RAIN RAIN RAIN.
Khi tụng chú này, kiết Chuẩn Đề biệt ấn. Cả hai tay, ngón cái nắm co ba ngón: trỏ, vô danh và út. Kế hiệp hai lại, hai ngón giữa dụm đầu nhau dựng đứng. Tụng xong xả ấn nơi đảnh.
Đây là phối hợp chú Tịnh tam nghiệp và Tịnh pháp giới. Chân ngôn này có công năng khiến cho bên trong: thân, khẩu, ý, y phục, bên ngoài từ chỗ ở của mình đến hoàn cảnh rộng xa đều thanh tịnh. Do chú này, tội chướng đều được tiêu trừ, có thể thành tựu các việc thù thắng.)
HỘ THÂN CHƠN NGÔN
UM ! VA JI RA, A NGHĨ NI, BÁ RA NĂM BÌ ĐÁ DA, XÓA HA.
UM ! XỈ RĂN, XỈ RĂN, XỈ RĂN.
(7 lần)
( AUM! VAJRA ANGI PRA NÀMBIDHÁYA SVÀHÀ.
AUM! SRAIN SRAIN SRAIN.
Khi tụng chú này, kiết ấn Bị giáp hộ thân, Hành giả xoa hai tay vào trong, hữu áp tả, hai ngón giữa dựng đầu dính vào nhau, hai ngón cái áp vào ngón vô danh. Hai ngón trỏ cong lại như lưỡi câu, những không đụng vào lưng hai ngón giữa.
Đây là phối hợp chú hộ thân trong nghi Thập bát đạo và Mạn Thù Nhất Tự chân ngôn, khi kiết tụng ấn chú này, thân của đương nhơn liền được mặc giáp trụ. Tất cả loài ma làm chướng ngại, bỗng thấy hành giả oai đức tự tại, ánh sáng bao phủ chói ngời, liền tan rã bỏ chạy. Sức chân ngôn nầy có thể bảo về được bản thân và tất cả mọi người quanh. Các ách nạn như: nước, lửa, cọp, sói, sư tử, dao gậy, gông xiềng thảy điều tiêu diệt. Khi tụng chú này xong 7 biến liền xả ấn nơi đảnh.
Kế hai tay đều kiết ấn Kim cang quyền, ngón cái bấm vào gốc ngón vô danh, nắm chặt lại. Rồi đem ấn in vào các nơi: trán, yết hầu, hai vai, ngực, rún, hai bắp đùi, sau thận môn, xương gu cổ và đảnh rồi xả ấn. Trong khi ấy miệng tụng chữ Hùm liên tiếp, cho đến khi xả ấn rồi mới thôi. Đây là pháp thức trấn tà ma không cho xâm nhập vào thân.)
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN
NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA.
NAM MÔ A RỊ DA. A MI TÁ BÀ DA. TÁT THA GA TÁ DA. A RA HA TI. SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA. TÁT DA THA.
UM ! A MI RỊ TI. A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ GA BÊ. A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ. A MI RỊ TÁ SI TÊ. A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.
A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ. A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI. A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI. SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI. SẠT VA MA CA LI. SA KHẤT SÁ DU CA LI. SÓA HA.
UM! BÚT RUM! HÙM!
(54 hoặc 108 lần)
( NAMO RATNATRÀYAYA.
NAMO ÀRYA AMITABÀYA. TATTHÀGATAYA. ARAHATI. SAMYAKSAMBUDDHAYA. TADYATHÀ !
AUM ! AMIRTI, AMIRTA NABÀVE. AMIRTA SAMBÀVE, AMIRTA GABE, AMIRTA SUDDHE, AMIRTA SITE, AMIRTÁ VICALANTE,
AMIRTA VICALANTA GÀMINI. AMIRTA GAGANA KITICALI, AMIRTA LODO VISABHALI. SARVARITHA SADDHÀNI, SARVA MACALI. SAKSA YÙKALI. SVÀHÀ.
AUM ! BHRUM, HÙM.
Khi tụng chân ngôn này, kiết ấn Vô Lượng liên hoa. Hai xoa bên ngoài hữu áp tả. Dựng hai ngón giữa đầu dụm cong lại như cánh sen. Có thể kiết ấn này tụng chân ngôn ba lần, xả ấn lên đảnh, rồi lần chuỗi ký số. Đà ra ni này, tụng một biến, diệt các tội Tứ trọng, Ngũ nghịch, Thập ác trong tự thân, tất cả tội chướng đều tiêu diệt.
Nếu hàng xuất gia tăng ni, hoặc tại gia thiện tín, phạm giới căn bản, tụng xong bảy biến trở lại được giới phẩm thanh tịnh. Khi kiết ấn tụng chơn ngôn nầy, liền cảnh giác đức Vô Lượng Thọ Như Lai phóng quang trụ nơi đảnh của hành-giả, và được sự nhiếp thọ. Tụng đến một vạn biến, Tâm bồ đề hiển hiện trong thân không quên mất.
Người trì niệm lần lần thể nhập vào tịnh tâm tròn sáng mát mẻ trong sạch như trăng thu, tiêu tan tất cả phiền não. Khi lâm chung, hành giả thấy Phật A Di Đà cùng với vô lượng trăm ức chúng Bồ Tát vây quanh đến an ủi tiếp dẫn. Đương nhơn liền sanh về phẩm Thượng thượng ở Cực Lạc.
Câu: “UM! BÚT RUM! HÙM!” là chân ngôn “Nhứt Tự chuyển luân”, như bánh xe nâng đỡ, khi phối hợp vào, có công năng làm cho các chơn ngôn khác mau kiến hiệu và thành tựu. Trên đây là pháp thức Tịnh độ của Mật giáo. Các vị tu Mật tông muốn sanh về Cực Lạc, chỉ chuyên tụng chú nầy.
Tệ nhơn vì xét thấy nhiều liên hữu khi tu bị phiền não và ma nạn khuấy rối, nên phối hợp dụng chân ngôn nầy đi tiên phong dẹp chướng ngại, khiến cho thân tâm dễ được thanh tịnh trước khi niệm Phật. Tuy nhiên chúng sanh túc tập và sở báo đều khác.
Vị nào thích tụng chú Đại Bi hoặc Chuẩn Đề, thì chỉ cần đổi bài kệ tán Đại Bi, Chuẩn Đề. Và sau khi tụng chú hộ thân, Lục tự đại minh, tiếp tụng môn đà ra ni của mình. Và hành giả nào thích tụng kinh Kinh Cang hoặc Pháp Hoa, chỉ đổi đoạn trì chú thành tụng kinh, rồi tiếp tục niệm Phật.
Chân ngôn Vô Lượng Thọ thuộc về Bất tư nghì thần lực, câu niệm Phật thuộc về Bất tư nghì công đức. Cả hai, bên Mật bên Hiển, cùng một nguồn gốc, đều có năng lực đưa hành giả về Tịnh độ. Nếu phối hợp lại, tất công năng vãng sanh càng thêm kiến hiệu.
Tụng chân ngôn xong, tiếp chắp tay đọc bài kệ khen tướng hảo đức A Di Đà và tiếp qua niệm Phật.)
Thân Phật Di Đà vàng rực rỡ,
Tuyệt vời tươi đẹp tướng trang nghiêm.
Năm Tu Di uyển chuyển ngọc hào,
Bốn đại hải biếc xanh liên mục.
Vô biên hóa Phật cùng Bồ Tát,
Hiện đầy trong ánh diệu quang-minh.
Nguyện lành bốn tám độ hàm-linh,
Chín phẩm sen vàng sanh Cực Lạc.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, Đại từ đại bi,
Tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.
(Kế tiếp niệm)
Nam Mô A Di Đà Phật
( Chuyên tụng Vô Lượng Thọ Như Lai Đà Ra Ni cũng được vãng sanh, nhưng vì câu chân ngôn dài khó nhiếp tâm hơn sáu chữ hồng danh, nên sau khi trì chú lại tiếp niệm Phật.
Về cách trì niệm, tệ nhơn lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – Ký số niệm: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là ký số.
2 – Chứng số niệm: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là chứng số. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 –Chỉ quán niệm: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là Chỉ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là Quán. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép Chỉ, hôn trầm dùng phép Quán.
4 – Tịch tĩnh niệm: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là Tịch tĩnh niệm.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, tệ nhơn đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.)
3.- PHẦN PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A Di Đà Phật (10 lần)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát (10 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát (10 lần)
Nam mô Thanh tịnh đại hải chúng Bồ tát (10 lần)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Nay con trì chú xưng niệm Phật,
Thệ phát lòng bồ đề rộng lớn.
Cúi xin xót thương nhiếp thọ con,
Chứng minh sám hối và sở nguyện.
Về trước đến nay con tạo ác,
Đều do vô thỉ tham, sân, si.
Từ thân, miệng, ý phát sanh ra,
Tất cả chí tâm xin sám-hối.
Chúng sanh vô biên thề nguyện độ,
Phiền não vô tận thề nguyền dứt.
Pháp môn vô lượng thề nguyền học,
Phật đạo vô thượng thề nguyền thành.
Con nguyện lâm chung dự biết thời,
Dứt trừ tất cả điều chướng ngại.
Diện kiến Tây phương Tam Thánh tôn,
Liền được sanh về cõi Cực Lạc.
Xin đem công đức trì niệm nầy,
Hồi hướng bốn ân và ba cõi.
Nguyện khắp pháp giới các chúng sanh,
Đều sanh Cực Lạc thành Phật đạo.
( Năm bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Nam mô Ta Bà giáo chủ, Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Tây phương Cực Lạc thế giới, Tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại lực Đại Thế Chí Bồ Tát, Thanh tịnh Đại hải chúng Bồ Tát, thập phương tam thế biến pháp giới Tam Bảo.
(Lễ ba lạy lui ra)
CHUNG
NGHI THỨC TỊNH ĐỘ PHỔ THÔNG
I.- PHẦN LỄ-BÁI SÁM-HỐI
(Trước khi trì tụng, nên súc miệng, rửa mặt, rửa tay sạch sẽ, rồi mặc áo tràng, đốt hương, kế chắp tay đứng trước bàn Phật đọc bài kệ tán Phật, tiếp theo lễ bái.)
Pháp vương vô-thượng tôn
Tam-giới vô luân thất
Thiên nhơn chi Ðạo-sư
Tứ-sanh chi từ-phụ
Ư nhứt niệm quy-y
Năng diệt tam-kỳ nghiệp
Xưng dương nhược tán-thán
Ức kiếp mạc năng tận.
Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì,
Ngã thử đạo-tràng như Ðế-châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
PHỔ-LỄ CHƠN-NGÔN
ÁN --PHẠ NHỰT RA VẬT (7 lần)
Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tận hư-không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập-phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, Thường-trú Tam-Bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật, Ðại-trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, Ðại hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ-pháp Chư-tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới Ðại-từ Ðại-bi A-Di Ðà Phật, Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-tát, Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát, Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát. (1 lạy)
SÁM PHỔ HIỀN
(Quỳ đọc)
Ðệ-tử chúng đẳng, tùy-thuận tu tập. Phổ-Hiền Bồ-tát, thập chủng đại nguyện:
Nhứt giả lễ kính chư Phật,
Nhị giả xưng tán Như-Lai,
Tam giả quảng tu cúng-dường,
Tứ giả sám-hối nghiệp-chướng,
Ngũ giả tùy-hỉ công-đức,
Lục giả thỉnh chuyển pháp-luân,
Thất giả thỉnh Phật trụ thế,
Bát giả thường tùy Phật học,
Cửu giả hằng thuận chúng-sanh,
Thập giả phổ giai hồi-hướng.
Nguyện tương dĩ thử thắng công-đức,
Hồi-hướng vô-thượng chơn pháp-giới,
Tánh tướng Phật, Pháp cập Tăng-già,
Nhị đế dung thông tam-muội ấn,
Như thị vô-lượng công-đức hãi,
Ngã kim giai tất tận hồi-hướng,
Sở hữu chúng-sanh thân, khẩu, ý,
Kiến hoặc đàn báng ngã pháp đẳng,
Như thị nhứt thiết chư nghiệp-chướng
Tất giai tiêu-diệt tận vô dư,
Niệm niệm trí châu ư pháp-giới,
Quảng độ chúng-sanh giai bất thối,
Nãi chí hư-không thế-giới tận,
Chúng-sanh cập nghiệp phiền-não tận,
Như thị tứ pháp quảng vô-biên,
Nguyện kim hồi-hướng diệc như-thị.
Nam-mô Ðại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát MA-HA-TÁT. (3 lần)
(Đứng lên chấp tay xướng)
Ðệ-tử Sám-hối, phát-nguyện rồi, chí-tâm đảnh-lễ Tam-bảo. (1 lạy)
II.- PHẦN TRÌ CHÚ NIỆM PHẬT
(Ngồi kiết già hoặc bán già trước bàn Phật; chắp tay niệm)
TỊNH PHÁP GIỚI
ÁN LAM (7 lần)
TỊNH KHẨU NGHIỆP
TU RỊ TU RỊ MA HA TU RỊ TU TU RỊ TA-BÀ-HA (3 lần)
TỊNH BA NGHIỆP
ÁN TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐÀ TA PHẠ,
ĐẠT MẠ TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐỘ HÁM (3 lần)
PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN
ÁN NGA NGA NẴNG TAM BÀ PHẠ PHIỆT NHỰT RA HỒNG (3 lần)
Nguyện mây hương mầu này,
Hiện khắp mười phương cõi.
Tất cả các Phật độ,
Vô lượng hương trang nghiêm.
Đầy đủ Bồ Tát đạo,
Thành tựu Như Lai hương.
Nam mô Hương Vân cái Bồ Tát ma ha tát (3 lần)
(Vẫn chắp tay tụng tiếp bài tán Vô Lượng Thọ)
Quang, thọ khó suy lường,
Sáng lặng khắp mười phương.
Thế Tôn Vô Lượng Quang,
Cha lành cõi Liên ban.
Thần lực chẳng tư nghì,
Sống lâu A tăng kỳ.
A Di Đà Như Lai,
Tiếp dẫn lên liên đài.
Cực Lạc cõi thuần tịnh,
Công đức lạ trang nghiêm.
Nơi tất cả quần sanh,
Vượt lên ngôi Bất thối.
Mười phương hằng sa Phật.
Đều ngợi khen Vô Lượng.
Cho nên hôm nay con,
Nguyện sanh về An Dưỡng.
Nam mô Liên trì hải hội Phật Bồ Tát. (3 lần)
(Tiếp tụng)
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN
NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA.
NAM MÔ A RỊ DA. A MI TÁ BÀ DA. TÁT THA GA TÁ DA. A RA HA TI. SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA. TÁT DA THA.
UM ! A MI RỊ TI. A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ GA BÊ. A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ. A MI RỊ TÁ SI TÊ. A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.
A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ. A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI. A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI. SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI. SẠT VA MA CA LI. SA KHẤT SÁ DU CA LI. SÓA HA.
UM! BÚT RUM! HÙM!
(7 hoặc 108 lần)
Thân Phật Di Đà vàng rực rỡ,
Tuyệt vời tươi đẹp tướng trang nghiêm.
Năm Tu Di uyển chuyển ngọc hào,
Bốn đại hải biếc xanh liên mục.
Vô biên hóa Phật cùng Bồ Tát,
Hiện đầy trong ánh diệu quang-minh.
Nguyện lành bốn tám độ hàm-linh,
Chín phẩm sen vàng sanh Cực Lạc.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, Đại từ đại bi,
Tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.
(Kế tiếp niệm)
Nam Mô A Di Đà Phật
(Đứng lên đi nhiễu quanh bàn Phật, vừa niệm hồng danh : đi ba vòng hoặc nhiều vòng rồi trở lại ngồi. Nên niệm ra tiếng nho nhỏ theo pháp : “THẬP-NIỆM KÝ-SỐ” lấy 10 câu làm 1 đơn vị, hoặc chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu : cứ hết 10 câu lần qua hột chuỗi.
Khi niệm đủ số hạn định, quỳ trước bàn Phật, xưng danh hiệu TỨ THÁNH và đọc bài văn phát nguyện hồi hướng).
III.- PHẦN PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
Nam mô A Di Đà Phật (10 lần)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát (10 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát (10 lần)
Nam mô Thanh tịnh đại hải chúng Bồ tát (10 lần)
NGUYỆN
A-Di-Ðà Phật, thường lai hộ trì, linh ngã thiện căn, hiện tiền tăng tấn, bất thất tịnh nhơn, lâm mạng chung thời, thân tâm chánh niệm, thị thinh phân minh, diện phụng Di-Ðà, dữ chư thánh-chúng, thủ chấp hoa đài, tiếp dẫn ư ngã.
Nhứt sát na khoảnh, sanh tại Phật tiền, cụ Bồ-Tát đạo, quảng độ chúng sanh đồng thành chủng-trí.
Chí tâm đảnh lễ : Nam-Mô A-Di-Ðà Phật Thế-Tôn.
Nguyện ngã Tội chưóng tất tiêu diệt (1 lạy)
Nguyện ngã Thiện căn nhựt tăng trưởng (1 lạy)
Nguyện ngã Thân tâm hàm thanh-tịnh (1 lạy)
Nguyện ngã Nhứt tâm tảo thành tựu (1 lạy)
Nguyện ngã Tam muội đắc hiện tiền (1 lạy)
Nguyện ngã Tịnh nhơn tốc viên mãn (1 lạy)
Nguyện ngã Liên đài dự tiêu danh (1 lạy)
Nguyện ngã Kiến Phật ma đảnh ký (1 lạy)
Nguyện ngã Dự tri mạng chung thời (1 lạy)
Nguyện ngã Vãng sanh Cực Lạc Quốc (1 lạy)
Nguyện ngã Viên mãn Bồ tát đạo (1 lạy)
Nguyện ngã Quảng độ chư chúng-sanh (1 lạy)
Chí tâm qui mạng đảnh lễ Nam mô Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A-Di-Ðà Như-Lai biến pháp giới Tam bảo (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
CHUNG
Thập phương tịnh độ bảo liên đăng
Hoa khai Phật hiện viên giác quả
Nhậm vận lai vãng sát na trung.
BÀI KỆ THỨ 95
LƯỢC GIẢI
Về phần nhân duyên:
Ðiều thứ nhứt đức A Di Ðà có pháp duyên rất lớn với chúng sanh ở Ta Bà, bằng chứng là các chùa đều có thời khóa Tịnh Ðộ, và hàng Phật tử khi gặp nhau thường chào với câu "A Di Ðà Phật".
Ðiều thứ hai, đức Di Ðà Thế Tôn có bốn mươi tám bi nguyện độ sanh rộng lớn, rất thích ứng với cảnh ngộ cần cứu cấp nơi cõi ngũ trược này.
ĐẠI NGỘ
Tỳ kheo ni Đại Ngộ tự Pháp Lâm, họ Viên, người ở huyện Nam Thông tỉnh Giang Tô. Lúc tuổi trẻ, cha mẹ hứa gả về nhà họ Thiệu, nhưng chưa làm lễ vu quy mà chồng đã chết. Cô liền thề không tái giá, rồi vào am Đại Bi ở phía tây bản huyện mà xuất gia làm ni. Bên nhà chồng chấp theo lễ tục ở đời, dùng trăm cách để cản. Song cô lập chí kiên quyết, nên rốt cuộc sở nguyện cũng được thành.
Sau khi xuất gia, cô gắng sức làm công quả, gánh nước, giã gạo, bổ củi, nấu cơm. Những thời tịnh khóa sớm hôm cũng không trễ bỏ, mỗi ngày càng thêm tinh tấn. Sư cô quyết chí niệm Phật cầu sanh Cực Lạc, thường nói: “Sự rộng lớn của Phật pháp, duy có môn Tịnh độ là hợp thời cơ. Ngoài ra, việc tụng kinh lễ sám là để giúp tiêu nghiệp chướng, tăng phước huệ, khiến cho tịnh nghiệp dễ thành mà thôi”.
Thấy cảnh am hoang phế, Sư cô ra công quyên góp sửa sang lại, xây dựng Phật đường, liêu phòng, lập vườn trồng rau, để giúp cho chúng được yên ổn thanh tu. Gặp kẻ đau khổ, Đại Ngộ đều tùy duyên nói pháp, khiến cho nhiều người cảm mến nương về rất đông.
Lúc lớn tuổi, Sư bà thấy sắc lực lần suy mòn, vội đi triều lễ các non: Phổ Đà, Cửu Hoa … cảm được nhiều thoại tướng. Tháng hai năm Dân Quốc thứ mười sáu, Sư bà vương chứng cảm mạo nhẹ, trong bịnh viết lời kệ rằng:
Việc thế muôn duyên rũ sạch không
Duy câu Phật hiệu vẫn gìn lòng.
Luân hồi một niệm siêu miền khổ
Kiết sử mười dây thoát mối vòng.
Sáng suốt đài tâm hơi bụi lắng
Nhiệm mầu tánh tịnh ánh trăng trong.
Ngày nay mãn nguyện về Tây cảnh
Thuyền độ rồi soi đuốc huệ hồng!
Đến ngày mười tám, Đại Ngộ thấy đức A Di Đà phóng quang tiếp dẫn. Sư bà thuật lại cho chúng biết, ngỏ lời giã biệt, rồi an nhiên niệm Phật mà vãng sanh, hưởng thọ được 73 tuổi. Ngày hai mươi tám làm lễ trà tỳ, được năm viên xá lợi tròn sáng.
Comments
Post a Comment