KINH THỦ
LĂNG NGHIÊM
PHẦN TỰA
ĐẠI CHÚNG
VÂN TẬP
Như vậy tôi
được nghe trong một thời, Phật ở tịnh xá Kỳ-Hoàn thành Thất-La-Phiệt, cùng với
chúng đại-tỷ-khưu một nghìn hai trăm năm mươi vị, đều là bậc vô lậu Ðại-A-la-hán.
Các vị phật-tử trụ-trì, khéo vượt trên chư hữu, ở các quốc-độ đầy-đủ uy-nghi,
theo Phật chuyển Pháp-luân, có khả-năng thật-hiện lời di-chúc nhiệm-mầu của Phật,
nghiêm-giữ giới-luật thanh-tịnh để làm khuôn phép cho ba cõi, hiện thân vô số,
cứu-vớt chúng-sinh, tột đời vị-lai, khỏi các trần-lụy. Các vị tên là : Ðại-trí
Xá-lỵ-phất, Ma-ha Mục-kiền-liên, Ma-ha Câu-si-la, Phú-lâu-na-di-đa-la-ni-tử,
Tu-bồ-đề, Ưu-ba-ni-sa-đà làm thượng-thủ.
Lại có vô số
các vị Bích-chi vô-học và sơ-tâm đồng đến chổ Phật giảng đạo.
Nhằm ngày
các vị tỷ-khưu mãn hạ tự-tứ, các vị Bồ-tát, từ mười phương đến, xin Phật giải-quyết
nghi-hoặc, kính vâng đức Từ-Nghiêm, thỉnh-cầu nghĩa thâm-mật.
Ðức Như-Lai
giải pháp-tọa, ngồi khoan-thai, vì cả trong Hội tỏ-bày nghĩa sâu. Chúng Hội
thanh-tịnh được pháp chưa từng có. Giọng nói của Phật hòa-nhã như tiếng chim
ca-lăng-tầng-già, nghe khắp mười phương. Hằng sa Bồ-tát đều đến đạo-trường, có
ngài Văn-thù-sư-lỵ làm thượng-thủ.
DUYÊN KHỞI CỦA KINH
Khi ấy vua
Ba-tư-nặc, nhân ngày kỵ phụ-vương, mở tiệc chay mời Phật thụ-trai nơi cung-cấm;
vua sắm đủ các món ăn quý-báu, rồi thân đến rước Phật và các vị Ðại-Bồ-Tát.
Trong thành lại có các trưởng-giả cư-sĩ đồng-thời cùng trai-tăng, chờ Phật đến
chứng. Phật khiến ngài Văn-thù chia lãnh các vị Bồ-Tát và A-la-hán đi đến các
nhà trai-chủ.
Duy có ông
A-nan trước đả nhận lời mời riêng, đi xa chưa về, không kịp dự hàng tăng-chúng.
Ông về một mình, không có Thượng-tọa và A-xà-lê cùng đi và ngày ấy cũng không
được ai cúng-dường. Lúc bấy giờ ông cầm bình-bát vào trong một thành trên đường
đi, theo thứ lớp khất-thực; tâm ông trước hết cầu được một người tối hậu đàn-việt
làm trai-chủ, không kể sang hèn, phát-tâm làm sao cho tất-cả chúng sinh được
viên-thành vô lượng công-đức. Ông A-nan đã biết đức Phật Thế-Tôn quở ông Tu-bồ-đề
và ông Ðại-ca-diếp làm A-la-hán mà tâm không công-bằng. Ônh kính vâng lời dạy
vô giá của Phật độ-thoát mọi điều chê-bai nghi-hoặc. Ông đến bên thành,
thong-thả vào cửa, uy-nghi nghiêm-chỉnh, kính giữ phép hóa-trai.
Trong khi khất-thực,
ông A-nan đi qua nhà người dâm-nữ Ma-đăng-già, bị phép huyển-thuật. Nàng ấy
dùng tà-chú Tiên-phạm-thiên đạo Sa-tỳ-ca-la bắt vào phòng riêng, dựa-kề vuốt-ve
làm cho ông A-nan gần phá giới-thể.
Ðức Như-lai
biết ông A-nan mắc phải dâm-thuật, nên dùng trai rồi, liền trở về tịnh-xá. Vua
cùng đại-thần, trưởng-giả cư-sĩ đều đi theo Phật, mong nghe những pháp chủ-yếu
của đạo Phật.
Khi ấy trên
đỉnh đức Thế-tôn, phóng hào-quang bách-bảo vô-úy; trong hào-quang hiện ra tòa
sen báu nghìn cánh, có hoá-thân của Phật kết-già ngồi trên, tuyên-đọc thần-chú
, khiến ngài Văn-thù đem chú nầy đến giúp-đỡ, tiêu-diệt tà-chú, đưa ông A-nan
cùng nàng Ma-đăng-già đều về chỗ Phật ở.
Ông A-nan thấy
Phật, đỉnh-lể khóc-lóc, giận mình từ vô-thủy đến nay, một bề học rộng nhớ nhiều,
chưa toàn đạo-lực, tha-thiết xin Phật dạy cho những phép xa-ma-tha, tam-ma, thiền-na,
là những phương-tiện tu-hành đầu tiên để thành đạo Bồ-đề của thập phương
Như-lai. Lúc ấy lại có hằng-sa Bồ-tát, Ðại-A-la-hán và Bích-chi-Phật, từ mười
phương đến, thảy đều mong nghe Phật dạy, lui về chổ ngồi, yên-lặng lĩnh-thụ
thánh-chỉ của Phật.
PHẦN CHÍNH TÔNG
CHỈ THỂ TÍNH
TRONG SẠCH SÁNG SUỐT
CỦA
"CHÂN TÂM THƯỜNG TRỤ"
RỜI TIỀN TRẦN
CÓ TÍNH PHÂN BIỆT
Phật bảo ông
A-nan: "Tôi với ông đồng phái, tình như anh em ruột; lúc ông mới phát-tâm
thì ở trong Phật-pháp, thấy những tướng tốt gì mà bỏ được những ân-ái sâu-nặng
thế-gian?"
Ông A-nan bạch
Phật: "Tôi thấy 32 tướng của Như-lai tốt-đẹp lạ thường, hình-thể sáng-suốt
như ngọc lưu-ly, thường tự suy-nghĩ: Tướng ấy không thể do dục-ái sinh ra, vì
sao? giống dâm-dục nhơ-nhớp, tanh-hôi kết-cấu, máu mủ xen-lộn, làm sao sinh được
thân vàng thắm chói trong-sạch sáng-suốt như vậy, nên tôi ước-mong, cắt tóc
theo Phật tu-học".
Phật dạy:
"Hay thay, A-nan, các ông nên biết hết thảy chúng-sinh từ vô-thủy đến nay
sống chết nối luôn, đều do không biết thể-tính trong-sạch sáng-suốt của thường-trụ
chân-tâm mà lại chỉ dùng các vọng-tưởng, vì vọng-tưởng đó không chân-thật nên mới
có luân-hồi. Nay ông muốn học đạo vô-thượng Bồ-đề, phát-minh chân-tính thì nên
lấy tâm ngay-thẳng mà đáp lại những câu hỏi của tôi. Thập phương Như-lai đều do
một đường thoát-ly sinh-tử là dùng tâm ngay-thẳng. Tâm mà nói là ngay-thẳng thì
cứ như vậy, từ địa-vị đầu đến địa-vị cuối cùng, chặng giữa, hẳn không có những
tướng quanh-co".
A-nan, nay
tôi hỏi ông : "Ðương khi ông do 32 tướng của Như-lai mà phát-tâm thì ông
đem cái gì mà thấy và cái gì ưa-muốn?"
Ông A-nan bạch
Phật: "Thưa Thế-tôn, ưa-muốn như vậy là dùng cái tâm và con mắt của tôi.
Do mắt thấy tướng tốt Như-lai, tâm sinh ưa-muốn nên tôi phát-tâm muốn tu-hành
thoát khỏi sống chết".
Phật bảo ông
A-nan: "Như lời ông nói : Thật do tâm và con mắt mà có ưa muốn. Nếu không
biết tâm và con mắt ở đâu thì không thể hàng-phục được trần-lao; ví như ông vua
một nước bị giặc xâm-lấn, phát-binh đánh-dẹp, thì binh ấy cần biết giặc ở chỗ
nào mới đánh-dẹp được. Hiện ông còn mắc phải luân-hồi là lỗi tại tâm và con mắt
của ông". Nay tôi hỏi ông: "Tâm và con mắt ấy hiện ở chỗ nào?"
CHẤP TÂM Ở TRONG THÂN 1
Ông A-nan bạch
Phật : "Thưa Thế-Tôn tất-cả mười loài chúng-sinh trong thế-gian đều cho
cái tâm hay biết là ở trong thân. Dầu tôi xem con mắt như hoa sen xanh của
Như-lai cũng ở trên mặt Phật; tôi thấy con mắt vật-chất của tôi ở trên mặt tôi.
Như vậy thì tâm hay biết thật ở trong thân".
Phật bảo ông
A-nan : "Hiện nay ông ngồi trong giảng-đường Như-lai. Ông hãy xem rừng Kỳ-đà
hiện ở chỗ nào?"
- Thưa Thế-tôn,
giảng-đường cao lớn thanh-tịnh này ở trong vườn Cấp-cô-độc, còn rừng Kỳ-đà hiện
thật ở ngoài giảng-đường.
- A-nan, nay
ông ở trong giảng-đường thì ông thấy cái gì trước?
- Thưa Thế-tôn,
tôi ở trong giảng-đường, trước thấy Như-lai, sau xem đại-chúng, rồi trông ra
ngoài thấy vườn rừng.
- A-nan, do
đâu ông thấy được vườn rừng?
- Thưa Thế-tôn,
do các cửa giảng-đường mở rộng nên tôi ở trong thấy suốt được đến ra ngoài xa.
Khi ấy đức
Thế-tôn, ở trong đại-chúng, đưa cánh tay kim-sắc xoa đầu ông A-nan, chỉ-bảo ông
A-nan và đại-chúng rằng : "Có pháp Tam-ma-đề tên là Đại-phật-đỉnh-thủ-lăng-nghiêm-vương,
gồm đủ muôn hạnh. Thập phương Như-lai đều do một pháp-môn ấy vượt lên đường diệu-trang-nghiêm.
Ông nên chăm-chú lắng nghe". Ông A-nan đỉnh-lễ, kính vâng lời Phật dạy.
Phật bảo ông
A-nan: "Như ông vừa nói: Ở trong giảng-đường, do cửa mở rộng nên ông trông
xa thấy được rừng vườn; phỏng có chúng-sinh nào ở trong giảng-đường, không thấy
Như-lai mà lại thấy được ngoài giảng-đường chăng?"
Ông A-nan bạch
Phật: "Thưa Thế-tôn, ở trong giảng-đường không thấy Như-lai mà thấy được rừng
suối ở ngoài, thật không có lẽ nào như vậy".
- A-nan,
chính ông cũng vậy. Cái tâm của ông rõ-biết hết thảy. Nếu hiện nay cái tâm
rõ-biết ấy thật ở trong thân thì trước hết nó phải rõ-biết trong thân-thể. Vậy
có chúng-sinh nào, trước thấy bên trong thân, rồi sau mới thấy những vật ở
ngoài không? Dầu không thấy được tim gan tì vị, nhưng móng tay mọc, tóc dài ra,
gân chuyển, mạch nhảy, lẽ phải rõ-biết, sao lại không biết? Đã không biết bên
trong, sao lại biết được bên ngoài? Vậy nên biết rằng ông nói cái tâm hay-biết
hiện ở trong thân, thật không có lẽ nào như vậy.
CHẤP
TÂM Ở NGOÀI THÂN 2
Ông
A-nan cúi đầu bạch Phật: "Tôi nghe lời Phật dạy như vậy, mới rõ tâm tôi thật
ở ngoài thân. Vì sao? Ví như đèn thắp trong phòng, trước hết phải chiếu trong
phòng, rồi sau mới do nơi cửa chiếu sáng ngoài sân. Hết thảy chúng-sinh không
thấy bên trong thân mà riêng thấy bên ngoài, cũng như ngọn đèn, để ở ngoài
phòng, không thể chiếu sáng trong phòng. Nghĩa ấy rõ-ràng, có lẽ không lầm,
chưa biết có đúng với nghĩa-lý rốt-ráo của Phật hay không?"
Phật
bảo ông A-nan: "Vừa rồi, các tỷ-khưu theo tôi khất-thực trong thành Thất-la-phiệt,
nay đã về rừng Kỳ-đà. Tôi đã thụ-trai rồi, ông hãy xem trong hàng tỷ-khưu, khi
một người ăn thì các người khác có no không?"
Ông
A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, không; vì rằng các tỷ-khưu tuy là
A-la-hán, nhưng thân-thể khác nhau, lẽ nào một người ăn lại làm cho cả chúng đều
no được".
Phật
bảo ông A-nan: "Nếu cái tâm hay-biết của ông thật ở ngoài thân thì thân và
tâm riêng-cách, tất-nhiên không dính-líu gì với nhau; vậy cái gì tâm biết thì
thân không thể hay, cái gì thân hay thì tâm không thể biết. Nay tôi giơ tay
đâu-la-miên cho ông xem, trong khi mắt ông thấy thì tâm ông có biết là tay của
tôi không?"
Ông
A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, đúng thế".
Phật bảo ông A-nan: "Nếu thân với tâm cùng hay-biết một lúc với nhau thì làm sao tâm lại ở ngoài thân? Vậy nên biết rằng ông nói tâm hay-biết hiện ở ngoài thân, thật không có lẽ nào như vậy".
CHẤP TÂM NÚP SAU CON MẮT 3
Ông
A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, như lời Phật dạy: vì không thấy bên trong,
tâm không ở trong thân, vì thân tâm cùng biết, không thể rời nhau, tâm không ở
ngoài thân, nay tôi suy-nghĩ, biết tâm ở một chổ!"
Phật
dạy: "Chỗ ấy ở đâu?"
Ông
A-nan bạch Phật: "Cái tâm hay-biết đã không biết bên trong mà lại thấy bên
ngoài, theo ý tôi nghĩ thì nó núp sau con mắt. Ví như có người lấy chén lưu-ly
úp vào hai con mắt, con mắt tuy có vật úp vào nhưng không làm ngăn-ngại, con mắt
kia liền thấy thì liền phân-biệt được ngay. Song tâm hay-biết của tôi không thấy
bên trong là vì tâm ở nơi con mắt; nhưng lại thấy bên ngoài rõ-ràng, không bị
ngăn-ngại, là vì tâm núp sau con mắt".
Phật
bảo ông A-nan: "Như ông vừa nói: Tâm núp sau con mắt như con mắt núp sau
chén lưu-ly; vậy người kia đương khi lấy chén lưu-ly úp vào hai mắt, trông-thấy
núi sông thì có trông-thấy chén lưu-ly không?"
-Thưa
Thế-tôn, đúng thế, người ấy đương khi lấy chén lưu-ly úp vào hai mắt, thật có
thấy chén lưu-ly.
Phật bảo ông A-nan: "Nếu tâm ông núp sau con mắt như con mắt núp sau chén lưu-ly thì trong khi trông-thấy núi sông sao không trông-thấy con mắt? Nếu trông-thấy con mắt thì con mắt hình như ngoại-cảnh, không thể liền thấy mà liền biết được. Nếu không thấy được con mắt thì sao lại nói rằng tâm hay-biết núp sau con mắt như con mắt núp sau chén lưu-ly? Vậy nên biết rằng ông nói cái tâm hay-biết núp sau con mắt như con mắt núp sau chén lưu-ly, thật không có lẽ nào như vậy".
CHẤP
MỞ MẮT THẤY SÁNG LÀ THẤY BÊN “NGOÀI” THÂN
NHẮM
MẮT THẤY TỐI LÀ THẤY BÊN “TRONG” THÂN 4
Ông
A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, nay tôi lại nghĩ như vầy: Trong thân-thể
chúng-sinh này, phủ-tạng ở trong, khiếu-huyệt ở ngoài, có tạng thì tối, có khiếu
thì sáng. Nay tôi trả-lời Phật rằng: Mở mắt thấy sáng gọi là thấy bên ngoài, nhắm
mắt thấy tối gọi là thấy bên trong. Nghĩa ấy thế nào?"
Phật
bảo ông A-nan: "Đương khi ông nhắm mắt thấy tối, cái cảnh tối ấy là đối với
mắt hay không đối với mắt. Nếu đối với mắt thì cái tối trước mắt, sao lại ở
trong thân? Nếu thành ở trong thân thì khi ở trong phòng tối, không có ánh sáng
mặt trời, mặt trăng và đèn, cái gì ở trong phòng tối đó đều là tam-tiêu lục-phủ
của ông hay sao? Còn như cái tối không đối với mắt, thì làm sao thành ra có thấy?
Dầu tách-rời lối thấy bên ngoài mà cho rằng con mắt đối vào trong nên thấy tối,
thì nhắm mắt thấy tối, gọi là thấy bên trong thân; vậy mở mắt thấy sáng sao lại
không thấy cái mặt. Nếu không thấy cái mặt thì cái nghĩa con mắt đối vào trong,
không thành-lập được. Còn như thấy được cái mặt thì cái tâm hay-biết ấy và con
mắt đều ở ngoài hư-không, sao lại thành ở trong thân được? Nếu tâm và con mắt ở
ngoài hư-không thì tất-nhiên không phải là thể-chất của ông, vì không lẽ hiện
nay Như-lai thấy mặt ông cũng là thân của ông hay sao? Và như thế thì con mắt
đã biết, thân ông lẽ phải không biết. Nếu ông chấp rằng thân và con mắt đều có
biết thì ông phải có hai tính-biết, rồi chính một thân ông sẽ thành hai đức Phật
hay sao? Vậy nên biết rằng ông nói thấy tối là thấy bên trong thân, thật không
có lẽ nào như vậy".
CHẤP
TÂM HỢP VỚI CHỖ NÀO THÌ LIỀN CÓ Ở CHỔ ẤY 5
Ông
A-nan bạch Phật: " Tôi thường nghe Phật chỉ-dạy tứ-chúng : Do tâm sinh nên
các thứ pháp sinh, do pháp sinh nên các thứ tâm sinh. Nay tôi suy-nghĩ thì tức
cái thể suy-nghĩ đó thật là tâm-tính của tôi, hễ hợp với chỗ nào thì tâm liền
có ở chỗ đó, chứ không phải ở trong, ở ngoài hay ở chặng giữa".
Phật
bảo ông A-nan: "Nay ông nói rằng : Do pháp sinh nên các thứ tâm sinh, hễ hợp
với chỗ nào thì tâm liền có ở chỗ đó. Cái tâm ấy nếu không có tự-thể thì không
thể hợp được; chứ còn nếu không có tự-thể mà vẩn hợp được thì giới thứ 19 cùng
trần thứ 7 hợp lại được hay sao? Nghĩa ấy quyết không đúng. Còn nếu có tự-thể
thì trong khi ông lấy tay tự gãi thân ông, cái tâm biết gãi của ông ở trong
thân ra hay từ bên ngoài vào? Như ở trong thân ra thì lại phải thấy bên trong,
còn như từ ngoài vào thì trước hết phải thấy cái mặt".
Ông
A-nan bạch Phật: " Thấy là con mắt, còn tâm thì biết chứ không phải thấy
như con mắt; nói tâm thấy là không đúng nghĩa".
Phật
dạy: " Nếu con mắt thấy được thì khi ông ở trong phòng, cái cửa có thấy được
không? Lại những người chết rồi, vẫn còn con mắt, lẽ ra phải thấy được vật; mà
nếu thấy được vật thì sao gọi là chết. A-nan, lại nếu cái tâm hay-biết của ông
phải có tự-thể thì có một thể hay có nhiều thể? Nay tâm ở nơi thân ông, thể ấy
cùng khắp cả mình hay không cùng khắp? Nếu tâm có một thể thì ông lấy tay gãi một
chi, lẽ ra cả tứ chi đều biết; mà nếu đều biết thì lại không biết gãi ở chỗ
nào. Nếu biết chỗ gãi thì cái thuyết một thể của ông tự-nhiên không thể thành-lập
được. Nếu như có nhiều thể thì thành ra nhiều người, còn biết cái thể nào là thể
của ông. Nếu cái thể ấy cùng khắp cả mình thì lại như trước kia, không biết được
chỗ gãi. Nếu còn như không cùng khắp thì khi ông chạm trên đầu, đồng-thời cũng
chạm dưới chân, hễ đầu có biết, lẽ ra chân phải không biết, nhưng hiện nay ông
lại không phải như thế. Vậy nên biết rằng hễ hợp với chỗ nào, tâm liền có ở chỗ
đó, thật không có lẽ nào như vậy".
CHẤP
TÂM Ở CHẶNG GIỮA 6
Ông
A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, trong khi Phật nói thật-tướng với các vị pháp-vương-tử như ngài
Văn-thù, tôi có nghe đức Thế-tôn cũng dạy rằng: Tâm không ở trong, cũng không ở
ngoài. Theo ý tôi nghĩ: Tâm ở trong thân, sao lại không thấy bên trong; tâm ở
ngoài thân thì thân và tâm không cùng biết. Vì tâm không biết bên trong nên
không thể nói tâm ở trong thân, vì thân và tâm cùng biết nên nói tâm ở ngoài cũng không đúng lý. Nay
thân và tâm cùng biết, lại tâm không thấy được bên trong thân thì tâm phải ở chặng
giữa".
Phật
bảo ông A-nan: "Ông nói "ở chặng giữa" thì cái giữa ấy chắc
không lẫn-lộn và không phải không có chỗ. Nay ông nhận-định cái giữa ấy ở chỗ
nào, ở nơi cảnh hay ở nơi thân? Nếu ở nơi thân mà ở một bên thì không phải là
giữa; còn nếu ở giữa thân thì cũng như ở trong thân. Nếu cái giữa ở nơi cảnh
thì có thể nêu ra được hay không thể nêu ra được? Không nêu ra được thì cũng
như không có cái giữa, còn nêu ra được thì lại không nhất-định ở giữa. Vì sao?
Ví như có người lấy một cây nêu, nêu một chỗ làm cái giữa, thì phương Đông
trông qua, cái nêu lại ở phương Tây; phương Nam nhìn ra, cái nêu thành ở phương
Bắc. Cái giữa nêu ra đã lẫn-lộn thì tâm phải rối-bời, không rõ ở đâu".
Ông
A-nan bạch Phật: "Cái giữa của tôi nói, không phải hai thứ ấy. Như đức Thế-tôn
thường dạy: Nhãn-căn và sắc-trần làm duyên, phát-sinh nhãn-thức. Nhãn-căn có
phân-biệt, sắc-trần không hay-biết, nhãn-thức sinh ra ở giữa thì tâm ở chỗ
đó".
Phật
dạy: "Nếu tâm ông ở giữa căn và trần thì cái thể tâm ấy gồm cả hai bên hay
không gồm cả hai bên? Nếu gồm cả hai bên thì ngoại-vật và tâm-thể xen-lộn, còn
biết tâm là gì? Ngoại-vật không phải có biết như tâm-thể; bên có biết, bên
không biết, trái hẳn lẫn nhau thì lấy cái gì làm cái ở giữa? Gồm cả hai bên
cũng không được và nếu không phải có biết và cũng không phải không biết thì tức
là không có thể-tính, lấy gì làm cái tướng ở giữa. Vậy nên biết rằng ông nói
cái tâm phải ở chặng giữa, thật không có lẽ nào như vậy".
CHẤP
TÂM KHÔNG DÍNH DÁNG VÀO ĐÂU TẤT CẢ 7
Ông
A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, trước đây tôi thấy Phật cùng chuyển
pháp-luân với 4 vị đại-đệ-tử là Đại-mục-liên, Tu-bồ-đề, Phú-lâu-na, Xá-lỵ-phất,
Phật thường dạy : Cái tính của tâm hay-biết cũng chẳng ở trong, cũng chẳng ở
ngoài, cũng chẳng ở chặng giữa, chẳng ở chỗ nào cả, không dính-dáng vào đâu tất-cả
thì gọi là tâm. Vậy tôi lấy cái không dính-dáng của tôi mà gọi là tâm, có được
chăng?".
Phật
bảo ông A-nan: "Ông nói tính của tâm hay-biết, không ở đâu cả. Vậy các vật-tượng
thế-gian như hư-không và các loài thủy, lục, không, hành, gọi là tất-cả sự-vật
mà ông không dính-dáng vào, là có hay là không có? Không, thì đồng như lông
rùa, sừng thỏ, còn gì mà không dính-dáng? Đã có cái không dính-dáng thì không
thể gọi là không. Không có tướng thì là không, không phải không thì có tướng;
có tướng thì có chỗ ở, làm sao lại không dính-dáng được. Vậy nên biết rằng ông
nói cái không dính-dáng vào đâu tất-cả gọi là tâm hay-biết, thật không có lẽ
nào như vậy".
Khi
bấy giờ ông A-nan, ở trong đại-chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo
bên phải, đầu gối bên phải chấm đất, chấp tay cung-kính mà bạch Phật rằng:
"Tôi là em rất nhỏ của Như-lai, nhờ Phật thương-yêu, nay tuy được xuất-gia,
còn ỷ-lại nơi lòng thương của Phật. Vì vậy nên tôi học rộng nghe nhiều mà chưa
chứng-quả vô-lậu, không uốn-dẹp được chú Sa-tỳ-cà-la, bị nó bắt phải vào nhà
dâm-nữ; nguyên-do là vì không biết đường tu-tập đi đến chỗ chân-thật. Cầu xin
Thế-tôn đại từ thương-xót, chỉ-dạy cho chúng tôi đường tu Xa-ma-tha, cũng khiến
cho những ngưòi không tin trừ-bỏ những tư-tưởng xấu".
Ông
A-nan nói như vậy rồi, năm vóc gieo xuống đất, cùng với đại-chúng, hết lòng
mong được nghe lời Phật dạy.
Khi
bấy giờ đức Thế-tôn, từ trước mặt, phóng ra các thứ hào-quang, hào-quang ấy
chói sáng như trăm nghìn mặt trời, khắp các thế-giới chư Phật, sáu thứ rung-động,
như thật các cõi nước mười phương, nhiều như vi-trần, hiện ra trong một lúc.
Oai-thần của Phật khiến các thế-giới hợp
lại thành một thế-giới. Trong thế-giới nầy, tất-cả các vị Bồ-tát hiện có, đều
an-trụ nơi nước mình, chấp tay vâng nghe lời Phật dạy.
Phật
bảo ông A-nan: “Tất-cả chúng-sinh từ vô-thủy đến nay điên-đảo nhiều cách, giống
nghiệp tự-nhiên nhóm lại như chum quả ác-xoa. Những người tu-hành không thành
được đạo vô-thượng Bồ-đề, đến nỗi lại thành Thanh-văn, Duyên-giác hoặc thành
ngoại-đạo, chư Thiên, Ma-vương hay bà con Ma, đều do không biết hai chữ cỗi-gốc,
tu-tập sai-lầm, cũng như nấu cát mà muốn thành cơm, dầu trải qua nhiều kiếp như
vi-trần, rốt-cuộc vẫn không thể thành được. Thế nào là hai thứ cỗi-gốc? A-nan,
một là cái cỗi-gốc sống chết vô-thủy, tức như ông ngày nay cùng các chúng-sinh
dùng cái tâm phan-duyên mà làm tự-tính. Hai là cái thể bản-lai thanh-tịnh Bồ-đề
Niết-bàn vô-thủy thì như hiện nay cái tính bản-minh thức-tính của ông, sinh ra
các duyên ma lại bị bỏ rơi. Do các chúng-sinh bỏ rơi cái bản-minh ấy nên tuy cả
ngày sống trong tính bản-minh mà không tự-giác, oan-uổng vào trong lục đạo.
A-nan,
nay ông muốn biết đường tu Xa-ma-tha ra khỏi sống chết, tôi lại hỏi ông :
Liền
đó đức Như-lai giơ cánh tay kim-sắc, co năm ngón tay, bảo ông A-nan : « Ông có
thấy không ? »
Ông
A-nan bạch Phật : « Thấy».
Phật
bảo: “Ông thấy cái gì?”
Ông
A-nan bạch: “Tôi thấy Như-lai giơ cánh tay, co ngón tay thành nắm tay sáng-ngời,
chói tâm và con mắt của tôi”.
Phật
bảo: “Ông đem cái gì mà thấy?”.
Ông
A-nan bạch: “Tôi cùng đại-chúng đều đem con mắt mà thấy”.
Phật
bảo ông A-nan: “Ông trả-lời tôi rằng Như-lai co ngón tay làm thành nắm tay
sáng-ngời, chói tâm và con mắt của ông; con mắt ông thì thấy được, còn ông lấy
cái gì làm tâm để đối với cái nắm tay chói-sáng của tôi?”.
Ông
A-nan bạch: “Như-lai hiện nay gạn-hỏi tâm ở chỗ nào, tôi thì dùng tâm suy-nghĩ
tìm-xét: Tức cái biết suy-nghĩ ấy, tôi lấy nó làm tâm”.
Phật
bảo: “Sai rồi, A-nan, cái ấy không phải là tâm của ông”.
Ông
A-nan giựt-mình, rời chỗ ngồi, chấp tay đứng dậy bạch Phật: “Cái ấy không phải
là tâm tôi thì gọi là cái gì?”
Phật
bảo ông A-nan: “Cái ấy là cái tưởng-tượng những tướng giả-dối tiền-trần, nó làm
mê-lầm chân-tính của ông. Do từ vô-thủy cho đến đời này, ông nhận tên giặc ấy
làm con, bỏ mất tính bản-lai thường-trụ nên phải chịu luân-hồi”.
Ông
A-nan bạch Phật: “Thưa Thế-tôn, tôi là em yêu của Phật, vì tâm yêu Phật nên tôi
xuất-gia. Tâm tôi chẳng những cúng-dường đức Như-lai, mà còn trải qua hằng-sa
quốc-độ, thừa-sự chư Phật và các vị thiện-tri-thức; phát-lòng đại-dũng-mãnh,
làm tất-cả những pháp-sự khó làm, là đều dùng cái tâm ấy. Dầu cho hủy-báng Phật-pháp,
rời-bỏ hẳn thiện-căn, cũng nhân cái tâm ấy. Nay Phật phát-minh cái ấy không phải
là tâm thì tôi thành không có tâm, như cây như đất, vì ngoài cái hay-biết ấy
ra, tôi lại không còn gì nữa. Sao đức Như-lai lại bảo cái ấy không phải là tâm?
Tôi thật kinh-sợ và cả trong đại-chúng nầy không ai là không nghi-hoặc, xin Phật
rủ lòng từ-bi, chỉ-dạy cho những chỗ chưa giác-ngộ”.
Khi
bấy giờ đức Thế-tôn chỉ-dạy ông A-nan và cả đại-chúng, khiến cho tâm được
vô-sinh-pháp-nhẫn, nơi sư-tử-tọa, xoa đầu ông A-nan và bảo ông rằng: “Như-lai
thường nói: Các pháp phát-sinh là duy-tâm biến-hiện, tất-cả nhân-quả, thế-giới,
vi-trần, đều nhân cái tâm thành có thể-tính. A-nan, như trong các thế-giới, hết
thảy sự-vật hiện có, cả đến ngọn cỏ lá, cây, sợi dây, thắt nút, gạn-xét cỗi-gốc,
đều có thể-tính, dầu cho hư-không cũng có tên, có tướng; huống chi cái tâm
sáng-suốt thanh-tịnh nhiệm-mầu, làm cho hết thảy sự vật có thể-tính mà tự mình
lại không có thể-tính.
Nếu
ông quyết-chấp cái tính hay-biết suy-xét phân-biệt là tâm của ông thì cái tâm ấy
phải rời sự-nghiệp các trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, riêng có toàn-tính; chứ
như hiện nay ông vâng nghe pháp-âm của tôi, đó là nhân cái tiếng mà có phân-biệt:
dầu cho diệt hết tất-cả cái thấy, nghe, hay, biết, bên trong nắm-giữ cái
u-nhàn, không biết, không nghĩ thì đó cũng còn là sự phân-biệt bóng-dáng
pháp-trần mà thôi.
Chẳng phải tôi bảo ông chấp cái ấy không phải là tâm, nhưng ông phải, chính nơi tâm ông, suy-xét chín-chắn, nếu rời tiền-trần có tính phân-biệt, thì đó mới thật là tâm của ông. Nếu tính phân-biệt, rời tiền-trần, không còn tự-thể thì nó chỉ là sự phân-biệt bóng-dáng tiền-trần. Tiền-trần không phải thường-trụ, khi thay đổi diệt mất rồi, thì cái tâm nương vào tiền-trần ấy cũng đồng như lông rùa sừng thỏ và pháp-thân của ông cũng thành như đoạn-diệt, còn gì mà tu-chứng vô-sinh-pháp-nhẫn”.
1. CHỈ TÍNH THẤY LÀ TÂM THẤY
KHÔNG PHẢI CON MẮT THẤY
Lúc
ấy ông A-nan cùng cả đại-chúng lặng-im ngơ-ngác.
Phật
bảo ông A-nan: “Trong thế-gian, tất-cả những người tu-học, hiện tuy đã tu đến
chín bậc định, nhưng không diệt hết được mê-lầm, thành A-la-hán, đều do chấp
cái vọng-tưởng sống chết, lầm nó là tính chân-thật, vậy nên nay ông tuy được học
rộng nghe nhiều, không thành chính-quả”.
Ông
A-nan nghe rồi, lại đau-xót khóc-lóc, năm vóc gieo xuống đất, quỳ dài chấp tay
mà bạch Phật rằng: “Từ khi tôi theo Phật phát-tâm xuất-gia, ỷ-thị oai-thần của
Phật, thường tự mình suy-nghĩ, không cần phải tu, hầu như cho rằng đức Như-lai
sẽ ban cho phép Tam-muội, không biết thân tâm vốn không thay-thế nhau được; bỏ
mất bản-tâm của tôi; thân tuy xuất-gia nhưng tâm không đi vào chính-đạo, cũng
như người con cùng-khổ, bỏ cha trốn-lánh. Ngày nay mới biết, tuy được nghe Phật-pháp
nhiều, nếu không tu-hành thì chẳng khác gì người không nghe, cũng như người ta
nói ăn mà không ăn, rốt-cuộc không thể no được.
Thưa
Thế-tôn, chúng tôi hiện nay còn bị hai chướng ràng-buộc, do vì không biết
tâm-tính yên-lặng thường-trụ, xin đức Như-lai thương-xót kẻ nghèo-khó rách-rưới,
phát-khởi tâm nhiệm-mầu sáng-suốt, mở đạo-nhãn cho chúng tôi”.
Lúc
ấy đức Như-lai từ chữ Vạn trước ngực, phóng ra hào-quang báu, hào-quang ấy rực-rỡ
có trăm nghìn sắc, sáng khắp một lúc tất-cả thế-giới chư Phật mười phương số
như vi-trần. Hào-quang soi khắp trên đỉnh các đức Như-lai Thập phương bảo-sát,
xoay về soi đến ông A-nan và cả đại-chúng”, rồi Phật bảo ông A-nan rằng: “Nay
tôi vì ông dựng pháp-tràng lớn, đồng-thời khiến cho tất-cả thập phương
chúng-sinh được tâm-tính nhiệm-mầu sâu-kín, trong-sạch, sáng-suốt và đạo-nhãn
thanh-tịnh.
A-nan,
trước ông trả-lời rằng thấy nắm tay chói-sáng, cái chói-sáng nắm tay ấy do đâu
mà có, làm sao thành ra nắm tay, ông đem cái gì mà thấy?”
Ông
A-nan bạch: “Toàn thân Phật như vàng Diêm-phù-đàn, sáng-ngời như núi báu, do đức-tính
thanh-tịnh sinh ra nên có hào-quang chói-sáng. Thật tôi lấy con mắt mà thấy năm
ngón tay Phật co nắm lại, giơ cho người xem, nên có tướng nắm tay”.
Phật
bảo ông A-nan: “Như-lai ngày nay xác-thật bảo ông. Những người có trí cần do
ví-dụ mà được khai-ngộ. A-nan, ví như nắm tay tôi, nếu không có bàn tay tôi thì
không thành nắm tay tôi, lại nếu không có con mắt ông, thì không thành cái thấy
của ông. Lấy cái thấy của ông mà so-sánh với nắm tay của tôi, ý-nghĩa có cân
nhau không?”
Ông
A-nan bạch Phật: “Ðúng vậy, thưa Thế-tôn, đã không có con mắt của tôi thì không
thành cái thấy của tôi, đem cái thấy của tôi so với nắm tay Như-lai, sự nghĩa
giống nhau không khác”.
Phật
bảo ông A-nan: “Ông nói giống nhau, nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Như người
không có bàn tay thì tuyệt-nhiên không
có nắm tay; chứ người không có con mắt kia, không phải hoàn-toàn không thấy. Là
vì làm sao? Ông thử ra đường hỏi những người đui: Anh thấy cái gì? Thì những
người đui kia chắc sẽ trả-lời: Hiện nay trước mắt tôi chỉ thấy tối đen, không
thấy gì khác. Lấy cái nghĩa ấy mà xét thì tiền-trần tự tối, chứ cái thấy nào có
hao-kém gì”.
Ông
A-nan bạch Phật: “Những người đui trước mắt chỉ thấy tối đen, sao gọi là thấy
được”.
Phật
bảo ông A-nan: “Các người đui không có con mắt chỉ thấy tối đen, so với người
có con mắt ở trong nhà tối thì hai cái tối đen ấy khác nhau hay không khác
nhau?
-
Thật vậy, thưa Thế-tôn, người ở trong nhà tối với những người đui kia, so-sánh
hai cái tối đen thật không thể khác nhau.
-
A-nan, nếu người không có con mắt, thấy trước hoàn-toàn tối đen, bỗng-nhiên được
con mắt sáng, trở lại thấy các thứ sắc nơi tiền-trần mà gọi là con mắt thấy;
thì người ở trong nhà tối kia, thấy trước hoàn-toàn tối đen, bỗng-nhiên được
cái đèn sáng, cũng thấy các thứ sắc nơi tiền-trần, lẽ ra phải gọi là cái đèn thấy.
Nếu như cái đèn thấy thì đèn đã thấy được, tự-nhiên không thể gọi là đèn; lại
cái đèn nó thấy thì dính-líu gì đến ông. Vậy nên biết rằng đèn làm tỏ các sắc,
nhưng thấy như vậy là mắt chứ không phải đèn; mắt làm tỏ các sắc, nhưng thấy
như vậy là tâm chứ không phải mắt”.
Ông
A-nan tuy được lời Phật dạy như vậy, cùng với đại-chúng, miệng tuy im-lặng, tâm
chưa khai-ngộ, còn mong đức Như-lai từ-tâm chỉ-bày, chấp tay sạch lòng, đợi Phật
dạy-bảo.
Khi
bấy giờ đức Thế-tôn ruỗi tay Ðâu-la-miên sáng-ngời, mở năm ngón tay, bảo ông
A-nan và đại-chúng rằng: “Lúc tôi mới thành-đạo, ở trong Lộc-viên, có dạy bọn
ông A-nhã-đa, năm vị tỷ-khưu và tứ-chúng rằng” Tất-cả chúng-sinh không thành đạo
Bồ-đề và A-la-hán, là do những phiền-não khách-trần mê-hoặc. Thuở đó, bọn ông
do đâu mà khai-ngộ, hiện nay thành được thánh-quả?”
Khi
ấy ông Kiều-trần-na đứng dậy bạch Phật: “Tôi nay già-cả, ở trong đại-chúng,
riêng được cái danh là “Hiểu”, do tôi ngộ được hai chữ khách-trần mà thành
chính-quả. Bạch Thế-tôn, ví-như người khách đi đường, vào trọ quán-xá, hoặc ngủ
hoặc ăn, ăn ngủ xong rồi, xếp đồ lên đường, không ở yên được; nếu thật là người
chủ, tự-nhiên không phải đi đâu. Tôi nghĩ như vầy: Không ở yên thì gọi là
khách, còn ở yên thì gọi là chủ. Tôi lấy cái “không ở yên” làm ý-nghĩa chữ
khách. Lại như mới tạnh, mặt trời chiếu-sáng trên cao, ánh sáng vào trong lỗ hỡ,
bày-tỏ hình-dáng bụi trần giữa hư-không. Trần thì lay-động, hư-không thì yên-lặng.
Tôi nghĩ như vậy: Ðứng-lặng gọi là không, lay-động gọi là trần, tôi lấy cái
“lay-động” làm ý-nghĩa chữ trần”.
Phật
dạy: “Ðúng thế”.
Khi
bấy giờ đức Như-lai ở trong đại-chúng co năm ngón tay, co rồi lại mở, mở rồi lại
co, bảo ông A-nan rằng: “Nay ông thấy gì?”.
Ông
A-nan đáp: “Tôi thấy bàn tay Bách-bảo-luân của Như-lai, ở trong chúng, lúc mở
lúc nắm”.
Phật
bảo ông A-nan: “Ông thấy tay tôi ở trong chúng khi mở khi nắm, đó là tay tôi có
mở có nắm hay là cái thấy của ông có mở có nắm?”.
Ông
A-nan bạch: “Bàn tay báu của Thế-tôn ở trong chúng khi mở khi nắm; tôi thấy bàn
tay Như-lai tự mở tự nắm, chứ không phải tính-thấy của tôi có mở có nắm”.
Phật
bảo: “Cái gì động, cái gì tĩnh?”.
Ông
A-nan bạch: “Bàn tay Phật không ở yên, chứ tính-thấy của tôi còn không có tĩnh,
lấy gì gọi là không ở yên nữa”.
Phật
dạy: “Ðúng thế”,
Lúc
ấy đức Như-lai từ trong bàn tay, phát một đạo hào-quang báu qua bên phải ông A-nan,
ông A-nan liền quay đầu trông qua bên phải, Phật lại phát một đạo hào-quang qua
bên trái ông A-nan, ông A-nan lại cũng quay đầu trông qua bên trái. Phật bảo
ông A-nan: “Hôm nay đầu ông vì sao lại lay-động?”
Ông
A-nan bạch: “Tôi thấy đức Như-lai phát hào-quang báu qua bên trái và qua bên phải
của tôi nên tôi trông qua bên trái bên phải, đầu tự lay-động.
-
A-nan, ông trông hào-quang của Phật mà lay-động cái đầu, quay qua bên phải bên
trái, đó là cái đầu của ông động hay là cái thấy động?
-
Thưa Thế-tôn, đầu tôi tự-động chứ tính-thấy của tôi còn không ở đâu, lấy gì mà
lay-động”.
Phật
dạy: “Ðúng thế”.
Lúc bấy giờ đức Như-lai bảo với vả đại-chúng rằng: “Như các chúng-sinh lấy cái lay-động mà gọi là trần, lấy cái không ở yên mà gọi là khách, thì các ông hãy xem ông A-nan, đầu tự lay-động mà cái thấy không lay-động, lại hãy xem bàn tay tôi tự mở tự nắm mà cái thấy không ruỗi không co. Làm sao các ông hiện nay lại lấy cái động làm thân, lấy cái động làm cảnh, tự đầu đến cuối, niệm-niệm sinh-diệt, bỏ mất chân-tính, làm việc trái-ngược; tâm-tính mất chỗ chân-thật, nhận vật làm mình, xoay-vần trong ấy, tự-nhận lấy cái trôi-lăn trong lục-đạo”.
2.
CHỈ TÍNH THẤY LÀ TÂM KHÔNG SINH KHÔNG DIỆT
Khi
bấy giờ ông A-nan cùng cả đại-chúng nghe lời Phật dạy, thân tâm thư-thái, nghĩ
mình từ vô-thủy đến nay, bỏ mất bản-tâm, lầm-nhận sự phân-biệt bóng-dáng tiền-trần
làm tâm, ngày nay được khai-ngộ như em bé mất sữa, bỗng gặp mẹ hiền, chấp tay lễ
Phật, xin đức Như-lai, ở nơi thân tâm, chỉ ra chỗ chân chỗ vọng, chỗ hư chỗ thật,
ở nơi hiện-tiền phát-minh ra hai tính sinh-diệt, và không sinh-diệt.
Khi
ấy vua Ba-tư-nặc đứng dậy bạch Phật: “Trước tôi chưa được vâng nghe lời Phật dạy-bảo,
tôi thấy bọn Ca-chiên-diên, Tỳ-la-chi-tử đều nói thân này chết rồi là mất hẳn
và gọi đó là Niết-bàn; nay tuy được gặp Phật nhưng tôi vẩn còn hồ-nghi, xin Phật
chỉ rõ thế nào chứng-biết tính không sinh-diệt nơi tâm này. Hiện nay các hàng hữu-lậu
trong đại-chúng cũng đều trông mong được nghe điều ấy.”
Phật
bảo: “Ðại-vương, thân ông hiện đó, nay tôi hỏi ông: Cái nhục-thân đó của ông có
như kim-cương thường còn, không hư-hỏng hay lại cũng biến-đổi và tan-rã?
-
Bạch Thế-tôn, thân tôi hiện nay rốt-cuộc về sau cũng thay-đổi và tiêu-diệt”.
Phật
bảo: “Ðaị-vương, ông chưa hề bị diệt, làm sao lại biết được là phải diệt?
-
Bạch Thế-tôn, cái thân vô-thường thay-đổi của tôi đây, tuy chưa hề bị diệt;
song tôi xét nó hiện nay niệm-niệm dời-đổi, mãi mãi không thôi như lửa thành
tro, lần lần tiêu mất; vì tiêu mất, mãi mãi không dừng nên tôi biết chắc thân
này rồi phải diệt mất”.
Phật
dạy: “Ðúng thế, Ðại-vương, tuổi-tác của ông nay đã già-yếu, vậy mặt mày của ông
so với lúc còn bé thì như thế nào?
-
Bạch Thế-tôn, lúc tôi bé nhỏ, da thịt mớn-mơ, đến khi trưởng-thành, huyết-khí
sung-túc; nay thì tuổi già, ngày thêm suy-yếu, hình-sắc khô-gầy, tinh-thần lẫn-lộn,
tóc bạc mặt nhăn, chừng sống không được bao lâu nữa, so-sánh sao được với lúc
đương còn trẻ-mạnh!”
Phật
bảo: “Ðại-vương, hình-dung của ông, nào phải đương trẻ mà già liền đâu?”
Vua
bạch: “Thưa Thế-tôn, sự biến-hóa thầm-thầm dời-đổi, tôi thật không hay; nắng
mưa thấm-thoát, lần đến thế nầy. Vì sao? Khi 20 tuổi, tuy gọi là trẻ, nhưng mặt
mày của tôi đã già hơn khi 10 tuổi; khi 30 tuổi lại sút hơn lúc 20 tuổi và đến
nay đã 60 lại thêm hai tuổi, trông lại lúc 50 tuổi, còn khỏe-mạnh hơn nhiều. Bạch
Thế-tôn, tôi thấy thầm-thầm dời-đổi như thế; thân nầy đến nay tuy đã suy-yếu,
nhưng trong sự thay-đổi, còn chia từng 10 năm. Nếu tôi suy-xét chín-chắn hơn nữa
thì cái biến-đổi ấy đâu phải từng một kỷ, thật là mỗi năm mỗi thay-đổi; lại đâu
mỗi năm mỗi thay-đổi mà cũng là mỗi tháng mỗi biến-hóa; lại không những mỗi
tháng mỗi biến-hóa mà còn mỗi ngày mỗi đổi-thay; xét cho cùng, nghĩ cho kỹ,
trong mỗi sát-na, trong mỗi niệm, nó không thể đứng yên, vậy nên tôi biết thân
tôi rốt-cuộc phải biến-đổi và tiêu-diệt”.
Phật
bảo: “Ðại-vương, ông thấy biến-hóa dời-đổi không ngừng, ngộ biết là phải diệt;
vậy trong lúc diệt đó, ông có biết trong thân có cái gì không diệt chăng?”
Vua
Ba-tư-nặc chấp tay bạch Phật: “Thật tôi không biết”.
Phật
bảo: “Nay tôi chỉ cho ông cái tính không sinh-diệt, Ðại-vương, khi ông mấy tuổi,
mới thấy nước sông Hằng”.
Vua
bạch: “Khi tôi ba tuổi, mẹ tôi dắt đi yết-lễ thần Kỳ-bà-thiên thì đã đi qua
sông ấy; lúc đó tôi liền biết là nước sông Hằng”.
Phật
bảo: “Ðại-vương, như lời ông nói: Lúc 20 tuổi thì sút hơn lúc lên 10, cho đến
nay đã 60 tuổi, từng năm, từng tháng, từng ngày, từng giờ, dời-đổi mãi mãi; vậy
khi ông 3 tuổi thấy nước sông ấy, rồi đến khi 13 tuổi thì nước ấy thế nào?”
Vua
bạch: “Tôi thấy nước ấy cũng giống khi 3 tuổi, như nhau không khác và đến nay
tuổi đã 62, cũng vẫn không khác”.
Phật
bảo: “Nay ông xét mình đầu bạc mặt nhăn, mặt ông chắc là nhăn hơn lúc trẻ; vậy
cái thấy hiện nay của ông thấy sông Hằng so với cái thấy lúc nhỏ thấy sông Hằng,
có già trẻ gì không?”
Vua
bạch: “Thưa Thế-tôn, không”.
Phật
bảo: “Ðại-vương, mặt ông tuy nhăn, nhưng cái thấy đó chưa hề bị nhăn; cái bị
nhăn thì thay-đổi, còn cái không bị nhăn thì không có thay-đổi. Cái thay-đổi
thì phải diệt, còn cái không thay-đổi kia, vốn không sinh-diệt, làm sao trong ấy,
lại nhận sống cái chết của ông, mà ông còn dẫn những thuyết của bọn Mạt-già-lê
kia bảo rằng thân này chết rồi diệt hẳn”.
Vua
nghe lời Phật dạy như vậy, tin-biết về sau bỏ thân nầy qua thân khác, cùng với
đại-chúng nhẩy-nhót vui-mừng, được cái chưa từng có.
3.
CHỈ TÍNH THẤY KHÔNG BỊ MẤT
Ông
A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, lễ Phật chấp tay, quỳ dài bạch Phật: “Thưa Thế-tôn,
nếu cái thấy nghe đó thật không sinh-diệt thì làm sao đức Thế-tôn lại gọi bọn
chúng tôi bỏ mất chân-tính, làm việc trái-ngược? Xin Phật mở lòng từ-bi, rửa sạch
trần-cấu cho chúng tôi”.
Khi
ấy Ðức Như-lai ruỗi cánh tay kim-sắc, ngón tay chỉ xuống, bảo ông A-nan rằng:
“Ông nay thấy tay Mẫu-đà-la tôi là chính hay là ngược?”
Ông
A-nan bạch: “Chúng-sinh thế-gian cho đó là ngược, còn tôi thì không biết thế
nào là chính, thế nào là ngược”.
Phật
bảo ông A-nan: “Nếu người thế-gian cho đó là ngược, thì người thế-gian gọi thế
nào là chính?”
Ông
A-nan bạch Phật: “Ðức Như-lai đưa cánh tay lên, tay Ðâu-la-miên chỉ lên trên
không thì gọi là chính”.
Phật
liền giơ cánh tay lên và bảo ông A-nan rằng: “Cái trái-ngược như thế, chỉ là đầu
đuôi thay-đổi lẫn nhau; các người thế-gian lắp đi lắp lại mà xem thấy. Nay lấy
cái thân ông và pháp-thân thanh-tịnh của chư Như-lai, so theo đó mà phát-minh,
thì thân của Như-lai gọi là chính-biến-tri, thân của các ông gọi là tính
trái-ngược; tùy ông xét kỹ nơi thân ông và thân Phật, cái gọi là trái-ngược đó,
do ở chỗ nào mà gọi là trái-ngược?”
Khi
ấy ông A-Nan cùng cả đại chúng chăm-chăm ngó Phật, tròng con mắt không lay-động,
chẳng biết thân tâm chỗ nào trái-ngược. Phật phát-lòng từ-bi, thương-xót ông
A-nan và đại-chúng, phát tiếng hải-triều, khắp bảo trong Hội: “Các thiện-nam-tử,
tôi thường nói rằng : “Sắc, tâm, các duyên và các tâm-sở, các pháp sở-duyên, đều
duy tâm-tính biến-hiện. Thân ông, tâm ông đều là những vật hiện ra trong
tâm-tính. Làm sao các ông lại bỏ mất tâm-tính quý-báu ấy, nhận cái mê trong ngộ.
Mê-muội thành có hư-không, trong hư-không mê-muội ấy, kết cái mê-muội thành ra
có sắc; sắc xen với vọng-tưởng; tưởng tướng làm thân, nhóm các duyên lay-động
bên trong, giong-ruổi theo cảnh-vật bên ngoài; rồi lấy cái tướng mờ-mịt
lăng-xăng đó làm tâm-tính. Một phen lầm cái tướng ấy làm tâm thì quyết-định lầm
cho rằng tâm ở trong sắc-thân, mà không biết sắc-thân, cho đến núi sông,
hư-không, đất liền bên ngoài đều là những vật hiện trong tâm-tính; ví-như bỏ cả
trăm nghìn biển lớn trong-lặng, chỉ nhận một cái bọt nước; rồi cho nó là toàn hết
cả nước, cùng-tột các biển lớn. Bọn ông tức là những người mê-lầm nhiều lớp,
như cánh tay tôi rủ xuống, không có sai khác. Như-lai gọi là đáng thương-xót
đó”.
4.
CHỈ TÍNH THẤY KHÔNG CÓ CHỖ TRẢ VỀ
Ông
A-nan vâng nghe lời Phật từ-bi cứu-độ dạy bảo, khóc lóc tréo tay mà bạch Phật rằng:
"Tuy tôi vâng nghe diệu-âm của Phật như vậy, ngộ được chỗ thường-trụ
viên-mãn sẵn có của tâm-tính, nhưng tôi ngộ được pháp-âm của Phật vừa dạy là
tôi hiện lấy tâm phan-duyên mà thỏa-mãn chỗ ước-mong. Tôi luống được tâm ấy,
chưa dám nhận là tâm-tính bản-lai; mong Phật thương xót, tuyên lời viên-âm, nhổ
gốc nghi-ngờ của tôi, đem về đạo vô thượng."
Phật
bảo ông A-nan: "Bọn ông còn lấy tâm phan-duyên mà nghe pháp thì cái pháp
nhận được đó cũng chỉ là sở-duyên, chứ không phải nhận được pháp-tính. Ví như
có người lấy ngón tay chỉ mặt trăng cho người khác thì người kia lẽ ra phải
nhân ngón tay mà thấy mặt trăng. Nếu như người kia xem ngón tay và cho đó là mặt
trăng thì người ấy chẳng những bỏ mất mặt trăng mà cũng bỏ mất cả ngón tay chỉ
nữa. Vì sao? Vì nhận ngón tay chỉ làm mặt trăng vậy. Đâu những bỏ mất ngón tay
lại cũng không phân biệt được sáng và tối. Vì sao? Vì lấy ngón tay tối làm mặt
trăng sáng thì không rõ biết được hai tính sáng tối. Ông cũng như vậy. Nếu lấy
cái phân-biệt pháp-âm tôi làm tâm của ông thì cái tâm ấy phải rời cái phân-biệt
tiếng nói, có tính phân-biệt.
Ví
như người khách ngủ trọ quán trạm, ở tạm rồi đi, rốt cuộc ở mãi không được, còn
người giữ trạm thì không đi đâu, gọi là chủ trạm. Tâm cũng như vậy, nếu thật
tâm ông thì không đi đâu, làm sao rời cái tiếng, lại không có tính phân-biệt?
Nói như thế chẳng những đối với tâm phân-biệt các tiếng; cái phân-biệt
hình-dung của tôi, rời các sắc-tướng, cũng không có tính phân-biệt; như vậy cho
đến cái phân-biệt đều không, không phải sắc, không phải không, mà bọn Câu-xá-ly
lầm là minh-đế, thì rời các pháp-trần, cũng không tính phân-biệt. Như vậy
tâm-tính của ông đều có chỗ trả về, lấy gì mà làm chủ?"
Ông
A-nan bạch: "Như tâm-tính của tôi đều có chỗ trả về, thì tâm-tính của
Như-lai dạy, làm sao lại không có chỗ trả về? Xin Phật thương-xót chỉ bảo cho
tôi điều ấy."
Phật
bảo ông A-nan: "Hãy lấy cái tính thấy của ông thấy tôi đây. Tính thấy ấy
tuy không phải là tâm-tính như mặt trăng thứ hai không phải thật là mặt trăng.
Ông hãy nghe cho chín, nay tôi chỉ cho ông cái nghĩa không thể trả về.
A-nan,
đại-giảng-đường nầy mở rộng phương Đông, khi mặt trời lên thì sáng, nửa đêm vắng
trăng, mây mù mờ-mịt thì lại tối-tăm; chỗ có các cửa thì thấy thông-suốt; chỗ
có tường nhà thì thấy ngăn bịt; chỗ phân-biệt được, thấy cảnh sắc-duyên; trong
chỗ rỗng trống, toàn là hư-không; cảnh tượng mù-mịt khi bụi nổi lên; mưa tạnh
trời thanh lại thấy trong sạch.
A-nan,
ông đều xem rõ các tướng biến-hóa ấy, nay tôi trả các tướng ấy về chỗ bản-nhân
của nó. Thế nào là bản-nhân? A-nan, trong các tướng biến-hóa, cái sáng trả về
cho mặt trời. Vì sao? Vì không mặt trời thì không sáng, nguyên-nhân cái sáng
thuộc về mặt trời, cho nên trả cho mặt trời. Cái tối trả về cho trăng tối,
thông-suốt trả về cho các cửa, ngăn-bịt trả về cho tường nhà, sắc-duyên trả về
cho phân-biệt, rỗng trống trả về cho hư-không, mù-mịt trả về cho bụi, trong
sáng trả về cho tạnh, và trong thế-gian có những cái gì, cũng không ra ngoài mấy
loại ấy.
Còn
cái tính-thấy của ông thấy tám thứ kia thì ông định trả về đâu. Vì sao? Nếu trả
về cho sáng thì lúc không sáng lại không thấy tối, nay tuy các thứ sáng tối có
sai khác, cái thấy không có sai khác. Các cái thấy có thể trả về tự nhiên không
phải là ông, còn cái không thể trả về được thì không phải là ông mà là ai nữa?
Vậy thì biết tâm ông vốn là nhiệm-mầu trong sạch sáng-suốt, ông tự mê-lầm, bỏ mất
tính bản-nhiên mà chịu luân-hồi, thường bị chìm đắm trong bể sống chết, nên
Như-lai gọi là đáng thương xót".
5.
CHỈ TÍNH THẤY KHÔNG CÓ XEN TẠP
Ông
A-nan bạch : "Tuy tôi biết tính-thấy ấy không thể trả về đâu, nhưng làm
sao biết được đó là chân-tính của tôi".
Phật
bảo ông A-nan : "Nay tôi lại hỏi ông : hiện ông chưa được đạo-quả vô-lậu
thanh-tịnh, nhờ thần-lực của Phật, mới thấy được cõi sơ-thiền, không bị ngăn-ngại.
Ông A-na-luật thì thấy cõi Diêm-phù-đề như xem quả am-ma-la trong bàn tay. Các
vị Bồ-tát thấy trăm nghìn cõi thập phương Như-lai, cùng tột các quốc-độ thanh-tịnh,
số như vi-trần, không chỗ nào không thấy. Còn chúng-sinh thì thấy rõ được không
quá gang tấc.
A-nan,
nay tôi cùng ông hãy xem cung-điện của Tứ-thiên-vương, chặng giữa xem khắp các
loài thủy, lục, không, hành, tuy có nhiều hình-tượng sáng tối khác nhau, nhưng
không cái gì là không phải tiền-trần chia cắt ngăn ngại. Ông hãy ở nơi đó
phân-biệt cái gì là mình, cái gì là vật khác. Nay tôi hãy đưa ông lựa trong sự
thấy đó, cái gì là tâm-thể của ông, cái gì là cái hình-tượng của vật. A-nan,
cùng tột sức thấy của ông, từ mặt trời, mặt trăng đều là vật, chứ không phải
ông; đến Thất-kim sơn, xem xét cùng khắp, tuy có những thứ hào-quang nhưng cũng
là vật chứ không phải là ông; lần lần xem đến mây kéo, chim bay, gió động, bụi
nổi, cây cối núi sông, cỏ rác người vật, đều là vật chứ không phải là ông.
A-nan,
các vật gần xa đó, tuy sai khác nhau, nhưng đồng do cái thấy của ông thanh-tịnh
trông thấy, thì các thứ vật kia tự có sai khác mà tính-thấy của ông không có
sai khác. Cái thấy nhiệm-mầu sáng-suốt đó thật là tính-thấy của ông.
Nếu
cái thấy là vật thì ông cũng có thể thấy cái thấy của tôi. Nếu cho rằng đồng thấy
sự vật là thấy cái thấy của tôi thì khi tôi không thấy, sao lại không thấy được
cái chỗ không thấy của tôi? Nếu nói rằng thấy cái không thấy thì tự-nhiên cái
đó không phải là cái tướng của cái không thấy; còn nếu không thấy được chỗ
không thấy của tôi, thì cái thấy bản-nhiên không phải là vật, làm sao lại không
phải là ông?
Lại
như cái thấy là vật thì đương khi ông thấy vật đó, ông đã thấy được vật, vật
cũng thấy được ông, thế thì thể-tính xen lộn và ông cùng tôi với cả thế-gian
không thành-lập được.
A-nan,
nếu khi ông thấy là chính ông thấy, chứ không phải tôi, thì cái thấy cùng khắp
đó không phải là ông thì còn là ai nữa.
Làm sao lại tự-nghi cái chân-tính của ông. Chân-tính của ông, ông không tự-nhận lấy, lại chấp lời nói của tôi, mà cầu chứng thật".
6.
CHỈ TÍNH THẤY KHÔNG LÀM NGĂN NGẠI
Ông
A-nan bạch Phật rằng: Thưa Thế-tôn, nếu cái tính thấy đó chắc là tôi, chứ không
phải ai khác, thì khi tôi cùng Như-lai xem cung-điện quý báo của Tứ-thiên-vương,
xem mặt trời mặt trăng, cái thấy ấy cùng khắp cả cõi Sa-bà, khi lui về tịnh-xá
thì chỉ thấy cảnh vườn chùa, đến khi thanh tâm nơi phòng chái thì lại chỉ thấy
một chái nhà. Thưa Thế-tôn, cái thấy như vậy, bản thể của nó cùng khắp một cõi,
nay ở trong phòng thì chỉ thấy một phòng; thế là cái thấy rút lớn thành nhỏ hay
là tường nhà chia cắt làm cho đứt đoạn. Nay tôi không biết nghĩa đó thế nào,
xin Phật vì tôi từ-bi chỉ rõ".
Phật
bảo ông A-nan: "Tất-cả các thứ trong, ngoài, lớn nhỏ của thế-gian đều thuộc
về tiền-trần, không nên nói rằng cái thấy có co có ruỗi. Ví như trong đồ vuông
thì thấy hư-không vuông; nay tôi hỏi ông: Cái hư-không vuông thấy được trong đồ
vuông ấy, là nhất-định vuông hay không nhất-định vuông? Nếu nhất-định vuông thì
khi thay đồ tròn vào, lẽ ra hư-không tròn; nếu không nhất định thì trong đồ
vuông, lẽ ra không có hư-không vuông. Ông nói không biết nghĩa đó do đâu, nghĩa
đó như vậy, sao còn do đâu được.
A-nan,
nếu muốn nhận được tính không vuông không tròn, chỉ trừ-bỏ cái vuông của đồ-đạc,
chứ bản-thể hư-không vốn không vuông, không nên nói rằng lại phải trừ cả cái
vuông của hư-không nữa.
Lại
như lời ông hỏi: Khi vào trong phòng, rút cái thấy làm cho nhỏ lại thì khi ngửa
xem mặt trời, há lại kéo cái thấy ngang với mặt trời? Nếu xây tường nhà chia-cắt
cái thấy làm cho đứt-đoạn, thì đến khi xoi một lỗ nhỏ, sao lại không thấy dấu-nối.
Nghĩa ấy không đúng.
Tất-cả
chúng-sinh từ vô-thủy đến nay, lầm mình là vật, bỏ mất tâm-tính, bị vật
xoay-chuyển, cho nên trong đó thấy lớn thấy nhỏ. Nếu biết chuyển được vật thì đồng
với Như-lai, thân tâm đều viên-mãn sáng-suốt, nơi đạo-trường bất-động đó, trên
đầu một mảy lông cũng có thể trùm-chứa thập phương quốc-độ".
7.
CHỈ TÍNH THẤY KHI "THỊ" VÀ "PHI-THỊ"
KHI
"CHÂN VÀ VỌNG" CÓ CÙNG 1 CHÂN TÂM
Ông
A-nan bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, nếu cái thấy đó, chắc là chân-tính của
tôi thì cái chân-tính đó, hiện ở trước mắt tôi; cái thấy đó đã là chân-tính của
tôi thì thân tâm tôi, hiện nay, lại là vật gì? Mà nay thân tâm ấy thật có
phân-biệt, còn cái thấy kia thì không phân-biệt riêng gì thân tôi. Nếu nó thật
là tâm tôi, làm cho tôi hiện nay có thấy, vậy tính-thấy ấy đã thật là tôi, còn
thân nầy không phải là tôi thì nào khác gì đức Như-lai trước kia đã hỏi-vặn rằng:
" Vật thấy được tôi". Xin Phật rủ lòng đại-từ, chỉ-bày cho chỗ chưa
ngộ".
Phật
bảo ông A-nan : "Nay ông nói rằng: Cái thấy ở trước mắt ông, nghĩa ấy
không đúng. Nếu thật ở trước mắt ông và ông thật thấy được thì cái thấy đó đã
có chỗ ở, không phải không chỉ ra được. Vậy nay tôi cùng ông ngồi trong rừng Kỳ-đà,
trông khắp rừng, suối với các điện, đường, trên đến mặt trời, mặt trăng, trước
đối với sông Hằng. Nay ông hãy ở trước sư-tử-tọa của tôi, giơ tay chỉ-bày
trong các tướng kia, chỗ dâm là rừng,
cái sáng là mặt trời, ngăn-ngại là vách, thông-suốt là hư-không, như thế cho đến
cỏ cây, mảy-mún, tuy lớn nhỏ khác nhau, nhưng đã có hình thì không cái gì là
không chỉ đích ra được. Vậy nếu cái thấy, hiện ở trước mắt ông thì ông hãy lấy
tay chỉ rõ đích-xác cái gì là cái thấy. A-nan, ông nên biết, nếu hư-không là
cái thấy, thì hư-không đã thành cái thấy, còn cái gì mới là hư-không; nếu vật
là cái thấy, thì vật đã là cái thấy, còn cái gì mới là vật. Ông hãy chín-chắn
chia-chẻ trong muôn hiện-tượng, tách ra cái thấy, chỉ-bày cho tôi như các vật
kia, rõ-ràng không lầm-lẫn".
Ông
A-nan bạch: "Nay tôi ở giảng-đường nầy, trông xa đến sông Hằng, trên đến mặt
trời, mặt trăng, giơ tay chỉ ra, đưa mắt trông ra, thì những cái chỉ được đều
là vật, chứ không có cái gì là cái thấy. Bạch Thế-tôn, như lời Phật vừa dạy, chẳng
những hàng hữu-lậu sơ-học Thanh-văn như chúng tôi, mà cho đến các vị Bồ-tát
cũng không thể, ở nơi hiện-tượng muôn vật, chỉ ra cái thấy, rời tất-cả vật,
riêng có tự-tính".
Phật
dạy: "Đúng thế, đúng thế".
Phật
lại bảo ông A-nan: "Như lời ông nói: Không có cái thấy, rời tất-cả vật,
riêng có tự-tính; thì trong tất-cả các vật đã chỉ được, không có cái gì là cái
thấy cả. Nay tôi lại bảo ông: Ông cùng Như-lai ngồi trong rừng Kỳ-đà, lại xem rừng
vườn cho đến mặt trời mặt trăng, nhiều thứ hình-tượng khác nhau, trong đó, chắc
không có cái thấy mà ông có thể chỉ ra được. Vậy ông hãy phát-minh trong các vật
đó, có cái gì ra ngoài cái thấy?"
Ông
A-nan bạch: "Thật tôi thấy khắp rừng Kỳ-đà nầy, không biết trong đó có cái
gì ra ngoài cái thấy. Vì sao? Nếu cái cây ra ngoài cái thấy thì sao lại thấy
cây, còn nếu cái cây tức là cái thấy thì sao lại là cây; như thế cho đến nếu
hư-không ra ngoài cái thấy, thì sao thấy được hư-không, còn nếu hư-không tức là
cái thấy, thì sao lại là hư-không. Tôi lại suy-nghĩ, phát-minh chín-chắn trong
muôn hình-tượng, thật không có cái gì ra ngoài cái thấy cả".
Phật
dạy: "Đúng thế, đúng thế".
Khi
ấy trong đại-chúng, những vị chưa chứng-quả vô-học, nghe Phật dạy như thế, mờ-mịt
chẳng biết nghĩa ấy đầu đuôi thế nào, nên đồng-thời sợ-hãi, không giữ được tâm
thanh-tịnh.
Đức
Như-lai biết đại-chúng tâm-niệm rối-loạn, sinh lòng thương-xót, an-ủi ông A-nan
và cả đại-chúng rằng: "Các thiện-nam-tử, bậc vô-thượng Pháp-vương, lời nói
chân-thật, như tính chân-như mà nói, không lừa không dối, không phải như bốn thứ
luận-nghị càn-giỡ bất-tử của bọn Mạt-già-lê; ông hãy suy-nghĩ cho chín-chắn, chớ
phụ lòng thương-mến của tôi".
Lúc
ấy ngài Pháp-vương-tử Văn-thù-sư-lỵ thương xót hàng tứ-chúng, ở trong đại-chúng,
liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ chân Phật, chấp tay cung-kính mà bạch Phật rằng:
"Thưa Thế-tôn, đại-chúng nầy không ngộ được chỗ đức Như-lai phát-minh ra
hai nghĩa "thị" và "phi-thị" nơi hai thứ "cái thấy"
và "sắc không". Bạch Thế-tôn, nếu những hiện tượng sắc không nơi tiền-cảnh,
tức là cái thấy, thì lẽ ra có chỗ chỉ được, còn nếu ra ngoài cái thấy, thì lẽ
ra không thể thấy được; mà nay đại-chúng không rõ nghĩa ấy do đâu, nên mới
kinh-sợ, chứ không phải vì trước đây thiện-căn ít-ỏi; kính mong đức Như-lai
thương-xót, phát-minh cho rõ các vật-tượng ấy và cái thấy ấy vốn là vật gì, mà ở
trong đó, lại không có các nghĩa "thị" và "phi-thị".
Phật
bảo ngài Văn-thù cùng cả đại-chúng rằng: "Thập phương Như-lai và các vị đại-Bồ-tát
ở trong tự-trụ Tam-ma-điạ, thì cái "thấy", cái "bị-thấy" và
các tương-tướng hoa-đốm hư-không, vốn không có gì. Cái "thấy" và cái
"bị thấy" đó vốn là tâm-tính Bồ-đề nhiệm-mầu trong-sạch sáng-suốt,
làm sao trong đó, lại còn có các nghĩa "thị" và "phi-thị"?
Văn-thù,
nay tôi hỏi ông: Như ông đây là Văn-thù, nơi ông lại có cái tức là Văn-thù hay
không có Văn-thù?
-
Bạch Thế-tôn, đúng thế. Tôi đây thật là Văn-thù, nơi tôi không có cái gì tức là
Văn-thù, vì sao? Vì nếu có cái ấy, thì thành ra hai Văn-thù, nhưng tôi hiện nay
không phải là không Văn-thù; trong đó thật không có hai tướng "thị"
và "phi-thị".
Phật bảo: "Tính-thấy nhiệm-mầu sáng-suốt với các thứ sắc, không thì cũng như vậy. Vốn một tâm-tính vô-thượng Bồ-đề, lầm-nhận là sắc, không cùng với nghe, thấy, như dụi con mắt, thấy có hai mặt trăng, thì mặt trăng nào mới thật là mặt trăng, còn mặt trăng nào lại không phải là mặt trăng. Văn-thù, chỉ có một mặt trăng thật, trong ấy tự không có cái gì thật là mặt trăng hay không phải là mặt trăng. Vậy nên hiện nay, các ông phát-minh ra các thứ xem-thấy và trần-cảnh, đều gọi là vọng-tưởng, không thể ở trong đó, chỉ ra các nghĩa "thị" và "phi-thị". Nhưng do tất-cả đều là tâm-tính nhiệm-mầu sáng-suốt nên có thể làm cho các ông ra ngoài các nghĩa "chỉ được" và "không chỉ được".
8.
CHỈ TÍNH THẤY KHÔNG PHẢI LÀ TỰ NHIÊN,
NHÂN
DUYÊN, RỜI CÁC DANH TƯỚNG
Ông
A-nan bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, thật như lời Pháp-vương dạy, tâm-tính
cùng khắp thập phương thế-giới, yên-lặng thường-trụ, không có sinh-diệt; điều ấy
so với thuyết ông Phạm-chi Sa-tỳ ca-la ngày xưa nói về minh-đế, hay các thuyết
ngoại-đạo như bọn Đầu-hói nói có chân-ngã cùng khắp mười phương, khác nhau thế
nào? Ở núi Lăng-già, đức Thế-tôn đã từng, vì các ông Đại-tuệ, chỉ-dạy rằng: Bọn
ngoại-đạo kia thường nói tự-nhiên, còn Phật nói nhân-duyên, không phải cảnh-giới
của bọn kia. Nay tôi xét cái tâm-tính đó tự-nhiên, không phải sinh, không phải
diệt, xa-rời tất-cả các điều trái-ngược, luống-dối, giống như không phải là
nhân-duyên, cũng không phải là cái tự-nhiên của bọn kia. Xin Phật khai-thị thế
nào, cho chúng tôi khỏi mắc tà-kiến và được tâm-tính trong-sạch nhiệm-mầu
sáng-suốt".
Phật
bảo ông A-nan: "Nay tôi phương-tiện chỉ-bày, chân-thật bảo ông như vậy,
ông còn chưa ngộ, lại lầm là tự-nhiên. A-nan, nếu chắc là tự-nhiên, tự phải chỉ
rõ thể-tính tự-nhiên. Ông hãy xét cái tính-thấy kia lấy cái gì làm tự-thể. Cái
thấy đó lại là lấy cái sáng làm tự-thể, lấy cái tối làm tự-thể, lấy hư-không làm
tự thể hay lấy ngăn-bịt làm tự-thể. A-nan, nếu lấy cái sáng làm tự-thể thì lẽ
ra không thấy được tối, nếu lấy hư-không làm tự-thể thì lẽ ra không thấy được
ngăn-bịt, như vậy cho đến lấy các tướng tối mà làm tự-thể thì đến khi sáng,
tính-thấy đã diệt mất rồi, làm sao còn thấy được sáng ?"
Ông
A-nan bạch : "Chắc cái tính-thấy ấy không phải là tự-nhiên, thì nay tôi
phát-minh được, nó do nhân-duyên mà sinh; nhưng tâm còn chưa rõ, xin hỏi đức
Như-lai, nghĩa-lý thế nào cho hợp với tính nhân-duyên".
Phật
dạy: "Ông nói nhân-duyên, tôi lại hỏi ông: Nay ông do nhân-duyên mà có thấy;
tính-thấy hiện trước đó, vậy tính-thấy, ấy lại là nhân cái sáng mà có thấy,
nhân cái tối mà có thấy, nhân hư-không mà có thấy hay nhân ngăn-bịt mà có thấy?
A-nan, nếu tính-thấy nhân cái sáng mà có, thì lẽ ra không thấy được tối, còn
như nhân cái tối mà có, thì lẽ ra không được sáng; như vậy cho đến nhân
hư-không, nhân ngăn-bịt, thì cũng đồng như nhân cái sáng và cái tối. Lại nữa,
A-nan, cái thấy ấy lại là nương cái sáng mà có thấy, nương cái tối mà có thấy,
nương hư-không mà có thấy hay là nương ngăn-bịt mà có thấy? A-nan, nếu nương
hư-không mà có thấy, thì lẽ ra không thấy được ngăn-bịt; nếu nương ngăn-bịt mà
có thấy, thì lẽ ra không thấy được hư-không; như vậy cho đến nương cái sáng,
nương cái tối cũng đồng như nương hư-không, nương ngăn-bịt. Nên biết tính-thấy
như vậy, không phải nhân, không phải duyên, không phải tự-nhiên, cũng không phải
không tự-nhiên, không có nghĩa "không phải" hay "không không phải",
không có nghĩa "tức là" hay "không tức là", rời hết tất-cả
các tướng, tức là tất-cả sự vật; làm sao trong ấy, ông lại định đem các danh-tướng
hí-luận thế-gian mà phân biệt cho được. Thế cũng như lấy bàn tay, nắm-bắt
hư-không, chỉ thêm nhọc sức, chứ làm sao hư-không lại để cho ông nắm-bắt".
Ông
A-nan bạch Phật rằng : "Thưa Thế-tôn, chắc cái tâm-tính ấy, không phải
nhân-duyên, thế sao đức Thế-tôn lại thường chỉ-dạy cho các hàng tỷ-khưu rằng :
Tính-thấy có bốn thứ nhân-duyên, nghĩa là nhân hư-không, nhân ánh-sáng, nhân
cái tâm và nhân con mắt. Nghĩa đó thế nào?
Phật
bảo : A-nan, tôi nói như thế là nói về các tướng nhân-duyên thế-gian, đó không
phải là đệ-nhất-nghĩa. A-nan, tôi lại hỏi ông : Các người thế-gian nói : Tôi thấy
được, thì thế nào, họ gọi là thấy, còn thế nào, họ gọi là không thấy?"
Ông
A-nan bạch : Người đời nhân ánh sáng mặt trời, mặt trăng và đèn, thấy các
hình-tướng, thì gọi là thấy, còn nếu không có ba thứ ánh sáng đó, thì không thể
thấy được."
-
A-nan, nếu khi không sáng mà gọi là không thấy, thì lẽ ra không thấy được tối;
nếu đã thấy được tối, thì khi đó, chỉ là không sáng, chứ đâu phải là không thấy.
A-nan, nếu trong lúc tối, vì không thấy sáng mà gọi là không thấy; vậy nay,
trong lúc sáng, không thấy cái tối, thì lại cũng phải gọi là không thấy; thế
thì cả hai lúc sáng, tối, cũng đều gọi là không thấy cả. Còn nếu như hai cái
sáng và tối tự lấn-át nhau, chứ không phải trong đó, tính-thấy của ông tạm-thời
không có; thế thì biết cả hai lúc đều gọi là thấy, chứ sao lại gọi là không thấy.
A-nan, vì vậy ông nên biết rằng : Trong lúc thấy sáng, cái thấy không phải là
cái sáng, trong lúc thấy tối, cái thấy không phải là cái tối, trong lúc thấy
hư-không, cái thấy không phải là hư-không, trong lúc thấy ngăn-bịt, cái thấy
không phải là ngăn-bịt.
"Bốn
nghĩa đó đã thành-lập rồi, ông lại nên biết : Khi nhận-thấy tính-thấy thì
tính-thấy không phải là cái thấy. Tính-thấy còn rời cả cái thấy và cái thấy
không thể đến nơi tính-thấy được; làm sao, ông còn nói đến những nhân-duyên, tự-nhiên
và tướng hòa-hợp? Bọn Thanh-văn ông hẹp-hòi không biết, không thông-suốt được sự
thật thanh-tịnh, nay tôi chỉ-dạy cho ông, ông nên khéo suy-nghĩ, không được trễ-nãi
trên đường Bồ-đề nhiệm-mầu".
9.
CHỈ KHI VỌNG LẠI CŨNG ĐỀU VỐN LÀ TÁNH NHƯ LAI TẠNG
Ông
A-nan bạch Phật rằng : "Thưa Thế-tôn, như đức Thế-tôn, vì bọn chúng-tôi,
chỉ-dạy về nhân-duyên, tự-nhiên các tướng hòa-hợp và không hòa-hợp, tâm tôi còn
chưa khai-ngộ; nay lại nghe Phật dạy "nhận-thấy tính-thấy không phải là
cái thấy" thì càng thêm lúng-túng, cúi xin Phật thương-xót, bố-thí cho con
mắt đại-trí-tuệ, chỉ-bày cho chúng tôi tâm-tính trong-sạch sáng-suốt". Ông
A-nan nói như vậy rồi, khóc lóc đỉnh-lễ, vâng nghe thánh-chỉ của Phật.
Khi
bấy giờ. đức Thế-tôn thương-xót ông A-nan và cả đại-chúng, định sẽ chỉ-dạy phép
đại-tổng-trì là con đường tu-hành nhiệm-mầu các pháp Tam-ma-đề, bảo ông A-nan rằng
: "Ông tuy nhớ lâu, chỉ thêm phần học rộng, nhưng nơi vi-mật quán chiếu
Xa-ma-tha, tâm còn chưa rõ. Nay ông hãy nghe cho chín-chắn, tôi sẽ vì ông
phân-tích chỉ-bày, đồng-thời cũng khiến cho những kẻ hữu-lậu tương-lai được quả
Bồ-đề.
A-nan,
tất-cả chúng-sinh luân-hồi trong thế-gian đều do hai nhận-thức sai-lầm, phân-biệt
trái-ngược, chính nơi tâm-tính mà phát-sinh, chính theo nghiệp-báo mà xoay-vần.
Hai nhận-thức ấy là gì? Một là nhận-thức sai-lầm nghiệp riêng của chúng-sinh,
hai là nhận-thức sai-lầm nghiệp-chung của chúng-sinh.
Thế
nào gọi là nhận-thức sai-lầm nghiệp-riêng? A-nan, như người thế-gian, con mắt bị
bệnh lòa thì ban đêm trông ngọn đèn, riêng có thấy bóng tròn ngũ sắc bao-phủ. Ý
ông nghĩ thế nào? Cái bóng tròn hiện ra nơi ngọn đèn, đó, là sắc của ngọn đèn
hay là sắc của cái thấy? A-nan, nếu như là cái sắc của ngọn đèn, thì sao những
người không lòa lại không cùng thấy, mà chỉ có người lòa mới thấy bóng tròn. Nếu
như là sắc của cái thấy, thì cái thấy đã thành sắc rồi, còn cái người lòa kia
thấy được bóng tròn thì gọi là cái gì?
Lại
nữa, A-nan, nếu cái bóng tròn kia ngoài ngọn đèn, riêng mình tự có, thì lẽ ra
khi trông qua bình-phong, bức màn, bàn trà, ghế ngồi, đều có bóng tròn hiện ra;
còn nếu ngoài cái thấy, bóng tròn, riêng mình tự có, thì lẽ ra không thể thấy
được, làm sao người lòa lại thấy bóng tròn. Vậy nên biết rằng : Sắc thật ở nơi
ngọn đèn, cái thấy bị bệnh làm ra có bóng tròn. Cả cái bóng tròn và cái thấy
bóng tròn đều là bệnh lòa. Nhận thấy được bệnh lòa thì cái nhận thấy đó không
phải là bệnh; rốt-cuộc không nên nói rằng bóng tròn là ngọn đèn hay là cái thấy,
trong đó còn có bệnh lòa không phải ngọn đèn, không phải cái thấy. Ví như mặt
trăng thứ hai, không phải thật-thể mặt trăng và cũng không phải là cái bóng của
mặt trăng. Vì sao? Vì thấy có mặt trăng thứ hai là do dụi mắt mà thành ra vậy.
Các người có trí, không nên bảo rằng mặt trăng dụi mắt mà thành ra đó, là
hình-tướng hay không phải là hình-tướng, là ra ngoài cái thấy hay không ra
ngoài cái thấy. Bóng tròn cũng như vậy, nó do bệnh lòa mắt mà thành; nay dầu muốn
gọi cái gì là ngọn đèn hay là cái thấy cũng không được, huống nữa, còn phân-biệt
là không phải nhọn đèn hay không phải là cái thấy!
Thế
nào gọi là nhận-thức sai-lầm nghiệp-chung? A-nan, cõi Diệm-phù-đề này, trừ nước
biển-cả ra, trong đó đất-bằng có 3.000 châu, châu lớn chính giữa, bao-quát từ
Đông sang Tây, có đến 2.300 nước lớn. Còn các châu nhỏ khác ở trong các biển,
trong đó có châu đến 200, 300 nước hoặc có một chục, hai chục, cho đến 30, 40,
50, nước. A-nan, nếu ở trong đó có một châu nhỏ, chỉ có hai nước, mà riêng người
trong một nước đồng-cảm ác-duyên, thì chúng-sinh trong nước đó thấy tất-cả những
cảnh-giới không tốt; hoặc thấy hai mặt trời, hoặc thấy hai mặt trăng, cho đến
thấy nhiều ác-tướng khác, như vựng, thích, bội, quyết, tuệ, bột, phi, lưu, phụ-nhĩ,
hồng-nghê; chỉ nước đó thấy, còn chúng-sinh nước bên kia, thì vốn không thấy và
cũng không nghe.
"A-nan,
tôi nay đem hai việc đó, lui tới kết-hợp mà chỉ rõ.
A-nan,
như cái nhận-thức sai-lầm nghiệp-riêng của chúng-sinh kia, thấy nơi ngọn đèn hiện
ra bóng tròn, tuy giống như tiền-cảnh, nhưng rốt-cuộc là do bệnh lòa của người ấy
tạo-thành. Lòa là bệnh của cái thấy, không phải do sắc-tướng tạo ra; song người
nhận-thấy được bệnh lòa vẫn không có lỗi-lầm gì về cái thấy cả.
So-sánh
với hiện nay, ông dùng con mắt xem thấy núi sông, cõi nước và các chúng-sinh, đều
là do bệnh thấy vô-thủy tạo-thành. Cái thấy và cái bị thấy duyên nhau, hình-như
hiện ra tiền-cảnh, thật-chất vốn là bệnh lòa, năng-kiến sở-kiến của tâm-tính mà
thôi.
Giác-ngộ
rằng thấy như thế tức là bệnh lòa, thì cái tâm giác-ngộ đó nhận-thức không lòa.
Giác-ngộ thấy như thế là bệnh lòa, thì cái giác-ngộ đó không phải trong phạm-vi
bệnh lòa; đó thật là nhận-thấy tính-thấy, sao còn gọi là thấy, nghe, hay, biết.
Vậy
nên nay ông thấy tôi cùng ông và thập loại chúng-sinh trong thế-gian đều là thấy
lòa, chứ không phải là thấy được cái bị bệnh lòa. Cái tính-thấy chân-thật kia,
vốn ra ngoài bệnh lòa, cho nên không gọi là cái thấy.
A-nan,
như lấy nhận-thức sai-lầm nghiệp-chung kia của chúng-sinh, so với nhận-thức
sai-lầm nghiệp-riêng của một người, thì một người đau mắt cũng đồng như cả một
nước kia; người đau mắt thấy bóng tròn là do bệnh lòa giả-dối sinh ra; còn
trong một nước kia, hiện ra các thứ không tốt là do ác-duyên nghiệp-chung của
chúng-sinh tạo nên; cả hai đều do nhận-thức sai-lầm vô-thủy giả-dối sinh ra. Tỷ-lệ
với 3000 châu, với bốn biển lớn trong cõi Diêm-phù-đề, với thế-giới Sa-bà cho đến
nước hữu-lậu và các chúng-sinh trong mười phương, đồng là nơi tâm-tính nhiệm-mầu
sáng-suốt, các bệnh duyên thấy, nghe, hay, biết, sai-lầm, hòa-hợp giả-dối sinh
ra, hòa-hợp giả-dối diệt mất. Nếu xa-rời được các bệnh duyên hòa-hợp và không
hòa-hợp thì cũng diệt-trừ được các nguyên-nhân chết sống, đầu-đủ tính Bồ-đề
không sinh-diệt, bản-tâm thanh-tịnh, bản-giác thường an-trụ.
A-nan,
ông tuy đã ngộ tâm-tính nhiệm-mầu sáng-suốt, vốn không phải nhân-duyên, không
phải tự-nhiên, nhưng còn chưa rõ tâm-tính như vậy không phải hòa-hợp mà sinh,
cũng không phải không hòa-hợp.
A-nan,
nay tôi lại lấy nơi tiền-trần hỏi ông, ông còn đem tất-cả những tính nhân-duyên
hòa-hợp của tư-tưởng sai-lầm thế-gian mà tự nghi-ngờ rằng chứng tâm Bồ-đề cũng
do hòa-hợp mà phát-khởi. Thì hiện nay, cái thấy của ông lại là hòa với cái
sáng, hòa với cái tối, hòa với cái thông-suốt hay hòa với cái ngăn-bịt? Nếu hòa
với cái sáng thì ông đang thấy sáng, cái sáng hiện đó, vậy chỗ nào xen-lộn với
cái thấy? Cái thấy cái sáng có thể nhận-rõ, còn hình-trạng xen-lộn, thì như thế
nào? Nếu cái sáng ra ngoài cái thấy, thì làm sao thấy được sáng? Còn nếu cái
sáng tức là cái thấy, thì làm sao lại thấy được cái thấy? Như cái thấy cùng khắp,
thì còn chỗ nào hòa được với cái sáng, còn như cái sáng cùng khắp, thì lẽ ra không
hòa được với cái thấy. Cái thấy đã khác với cái sáng thì khi xen-lộn vào, tất
phải làm mất tính-cách của cái sáng. Cái thấy xen vào, làm mất tính-cách của
cái sáng mà nói hòa với cái sáng là không đúng nghĩa. Đối với cái tối, cái
thông-suốt và cái ngăn-bịt thì cũng như vậy.
Lại
nữa, A-nan, hiện nay cái thấy nhiệm-mầu sáng-suốt của ông lại là hợp với cái
sáng, hợp với cái tối, hợp với cái thông-suốt hay hợp với cái ngăn-bịt? Nếu hợp
với cái sáng thì đến khi tối, cái sáng đã mất rồi, cái thấy đó đã không hợp với
cái tối, làm sao thấy được cái tối? Nếu khi thấy tôi mà không hợp với cái tối
thì lẽ ra khi hợp với cái sáng, không thấy được cái sáng; mà đã không thấy được
sáng thì làm sao họp với cái sáng và rõ-biết cái sáng không phải là tối. Đối với
cái tối, cái thông-suốt, cái ngăn-bịt thì cũng như vậy".
Ông
A-nan bạch Phật rằng : "Thưa Thế-tôn, như chỗ tôi suy-nghĩ, cái tâm-tính ấy
đối với các trần-cảnh và các tâm-niệm nhớ-nghĩ, không hòa-hợp chăng?"
Phật
dạy: "Nay ông lại nói tâm-tính không hòa-hợp thì tôi lại hỏi ông : Cái
tính-thấy gọi là không hòa-hợp đó, lại là không hòa với cái sáng, không hòa với
cái tối, không hòa với cái thông-suốt, hay không hòa với cái ngăn-bịt? Nếu
không hòa với cái sáng, thì giữa cái thấy và cái sáng phải có ranh-giới. Ông nay
hãy xét cho kỹ : Chỗ nào là cái sáng, chỗ nào là cái thấy. Nơi cái thấy và nơi
cái sáng, thì lấy từ đâu làm ranh-giới. A-nan, nếu bên cái sáng, chắc không có
cái thấy, thì hai cái không đến với nhau, cái thấy tự-nhiên không biết được cái
sáng ở đâu, làm sao mà thành-lập được ranh-giới. Đối với cái tối, cái thông-suốt,
cái ngăn-bịt thì cũng như vậy.
Lại
cái thấy, gọi là không hòa-hợp đó, là không hợp với cái sáng, không hợp với cái
tối, không hợp với cái thông-suốt hay không hợp với cái ngăn-bịt? Nếu không hợp
với cái sáng, thì cái thấy với cái sáng, tính trái-ngược nhau, như cái nghe với
cái sáng, không đụng chạm gì với nhau cả; thế thì, cái thấy còn không biết cái
sáng ở đâu, làm sao phát-minh được những lẽ hợp hay không hợp? Đối với cái tối,
cái thông-suốt, cái ngăn-bịt thì cũng như vậy.
"A-nan,
ông còn chưa rõ tất-cả các tướng huyễn-hóa nơi tiền-trần, chính nơi tâm mà sinh
ra, rồi theo nơi tâm mà diệt mất. Cái huyễn-hóa giả-dối gọi là tướng, mà cái
tính chính là tâm-tính nhiệm-mầu sáng-suốt; như vậy, cho đến 5 ấm, 6 nhập, 12 xứ
và 18 giới, nhân-duyên hòa-hợp giả-dối có sinh ra, nhân-duyên chia-lìa giả-dối
gọi rằng diệt; mà không biết rằng sinh, diệt, đi, lại đều vốn là tính chân-như
cùng khắp, không lay-động, nhiệm-mầu, sáng-suốt, thường-trụ của Như-lai-tạng.
Trong tâm-tính chân-thường đó, cầu cho ra những cái đi, lại, mê, ngộ, sống, chết,
hẳn không thể được.
10.
HIỂN "CHÂN TÂM THƯỜNG TRỤ"
THU
NĂM ẤM VỀ TÁNH NHƯ LAI TẠNG
"A-nan,
làm sao 5 ấm vốn là tính chân-như nhiệm-mầu của Như-lai-tạng ?
A-nan,
ví như có người đem con mắt trong-sạch, xem hư-không trong sáng, chỉ thấy một
hư-không trong-sáng, hẳn không thấy gì. Người kia, không lý do gì, lại bắt con
mắt không lay-động; ngó chăm mãi, phát ra mỏi-mệt thì ở giữa hư-không, riêng thấy
có hoa-đốm lăng-xăng và có tất-cả những tướng giả-dối lộn-xộn; nên biết sắc-ấm
cũng lại như vậy.
A-nan,
các hoa-đốm lăng-xăng ấy, không phải từ hư-không mà đến, không phải từ con mắt
mà ra. Thật vậy, A-nan, nếu từ hư-không mà đến, thì đã từ hư-không mà đến, rồi
phải trở vào hư-không; mà đã có ra có vào, thì không phải là hư-không nữa.
Hư-không, nếu lại không phải là hư-không, thì tự-nhiên không thể dung-nạp
hoa-đóm sinh-diệt trong ấy, như thân-thể ông A-nan, không dung-nạp được một ông
A-nan nữa.
Nếu,
hoa-đốm từ con mắt mà ra, thì đã từ con mắt mà ra, rồi phải trở vào con mắt; lại
cái tính hoa-đốm ấy đã từ con mắt mà ra, thì lẽ ra phải có thấy. Nếu như có thấy
thì khi đi ra, đã làm hoa-đốm giữa hư-không, đến khi xoay về, phải thấy được
con mắt. Nếu không có thấy, thì khi đi ra đã làm mờ hư-không, đến khi trở về phải
làm mờ con mắt. Lại như thế, khi thấy hoa-đốm, lẽ ra con mắt không mờ, làm sao,
chỉ khi thấy hư-không trong suốt, thì mới gọi là con mắt trong-sáng? Vậy nên biết
rằng sắc-ấm là giả-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
A-nan,
ví như có người tay chân yên-ổn, trăm vóc điều-hòa, bỗng như quên mình, không
có gì là trái là thuận; người ấy không lý do gì, lấy hai bàn tay xoa nhau giữa
hư-không, thì nơi hai bàn tay giả-dối sinh ra những cảm xúc trơn, rít, lạnh,
nóng. Nên biết thụ-ấm cũng lại như vậy.
A-nan,
các cảm-xúc giả-dối kia, không phải từ hư-không mà đến, không phải từ bàn tay
mà ra. Thật vậy, A-nan, nếu từ hư-không mà đến, thì đã sinh cảm-xúc nơi bàn
tay, sao lại không sinh cảm-xúc nơi thân-thể, không lẽ hư-không lại biết lựa chỗ
sinh ra cảm-xúc. Nếu như từ bàn tay mà ra, thì lẽ ra không cần hai bàn tay phải
hợp lại. Lại đã từ bàn tay mà ra, thì khi bàn tay hợp lại, biết có cảm-xúc, đến
khi bàn tay rời ra, thì cảm-xúc phải chạy vào và xương tủy cánh tay, lẽ ra phải
biết đường vào của cảm-xúc; rồi lại phải có tâm hay-biết, biết ra, biết vào, và
phải có một vật đi lại trong thân, sao lại phải chờ đến hai tay hợp lại mới gọi
là cảm-xúc.Vậy nên biết rằng thụ-ấm là giả-dối, vốn không phải tính nhân-duyên,
không phải tính tự-nhiên.
A-nan,
ví như có người, khi nghe nói đến quả mơ chua thì trong miệng có nước bọt chảy
ra; khi nghĩ đến đứng trên dốc cao thì lòng bàn chân ghê-rợn. Nên biết tưởng-ấm
cũng lại như vậy.
A-nan,
câu chuyện mơ chua như thế, không phải do quả mơ sinh ra, không phải do cái miệng
mà vào. Thật vậy, A-nan, nếu do quả mơ sinh ra, thì quả mơ tự nói lấy, sao phải
đợi người ta nói; nếu do cái miệng mà vào, thì lẽ ra cái miệng tự nghe lấy, cần
gì đến lỗ tai; nếu riêng mình lỗ tai nghe, thì nước bọt kia, sao không từ lỗ
tai chảy ra. Câu chuyện nghĩ đến đứng trên dốc cao cũng giống như vậy. Vậy nên
biết rằng tưởng-ấm là giả-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính
tự-nhiên.
A-nan,
ví như dòng nước dốc, sóng mòi nối nhau, lớp trước lớp sau, không vượt khỏi
nhau. Nên biết hành-ấm cũng lại như vậy.
A-nan,
dòng nước như vậy không nhân hư-không mà sinh, không nhân nước mà có, không phải
tính nước, cũng không ra ngoài hư-không và nước. Thật vậy, A-nan, nếu nhân
hư-không mà sinh, thì cả thập phương hư-không vô cùng tận, phải thành dòng nước
vô cùng tận và tự-nhiên thế-giới đều bị chìm-đắm cả. Nếu nhân nước mà có, thì
dòng nước dốc ấy bản-tính lẽ ra không phải là nước nữa và hiện nay, đã có thể
chỉ ra hai tướng của nước và của dòng nước khác nhau. Nếu dòng nước dốc tức là
tính nước thì khi nước đứng lại, lẽ ra không phải là nước nữa; nếu ra ngoài
hư-không và nước thì không có cái gì ở ngoài hư-không và, ngoài nước ra, không
thể có dòng nước. Vậy nên biết rằng hành-ấm là giả-dối, vốn không phải tính
nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
A-nan,
ví như có người lấy bình tần-già, bịt cả hai lỗ, rồi vác đầy bình hư-không, đi
xa nghìn dặm, đem cho nước khác. Nên biết thức-ấm cũng lại như vậy.
A-nan,
cái hư-không đó, không phải đến từ phương kia, cũng không phải đưa vào phương nầy.
Thật vậy, A-nan, nếu đến từ phương kia, thì trong cái bình đã đựng hư-không đem
đi, ở chỗ cũ cái bình phải thiếu hư-không; nếu đưa vào phương nầy, thì khi mở
miệng bình trút ra, phải thấy hư-không ra. Vậy nên biết rằng thức-ấm là giả-dối,
vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
THU
6 NHẬP VỀ TÁNH NHƯ LAI TẠNG
"Lại
nữa, A-nan, vì sao bản-tính của 6 nhập, vốn là tính chân-như nhiệm-mầu của
Như-lai-tạng? A-nan, tức nơi tròng con mắt kia, ngó chăm phát ra mỏi-mệt, thì cả
cái thấy và cái mỏi-mệt đó đều là thể-tính Bồ-đề chăm-chú phát ra tướng mỏi-mệt.
Nhân
nơi hai thứ vọng-trần sáng và tối, phát ra cái thấy bên trong, thu-nạp các trần-tướng
ấy gọi là tính-thấy; cái thấy đó rời hai trần sáng và tối kia, rốt-ráo không có
tự-thể. Thật vậy, A-nan, ông nên biết cái thấy đó không phải từ nơi sáng, nơi tối
mà đến, không phải từ nơi con mắt mà ra, cũng không phải do cái hư-không mà
sinh. Ví cớ sao ? Nếu từ cái sáng mà đến, thì khi tối đã theo cái sáng mà diệt,
lẽ ra không thấy được tối. Nếu từ cái tối mà đến, thì khi sáng phải theo cái tối
mà diệt, lẽ ra không thấy được sáng. Nếu do con mắt mà sinh, hẳn không có sáng,
có tối, thì cái thấy như vậy vốn không tự-tính. Nếu do hư-không mà ra, thì ngó
trước thấy các trần-tượng, xoay về phải thấy con mắt; lại hư-không tự thấy, nào
có dính gì chỗ thu-nạp của ông. Vậy nên biết rằng nhãn-nhập là luống-dối, vốn
không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
"A-nan,
ví như người lấy hai ngón tay bịt chặt hai lỗ tai, do lỗ tai mỏi-mệt, trong đầu
hóa ra có tiếng; cả cái nghe cùng cái mỏi-mệt đồng là thể-tính Bồ-đề chăm-chú
phát ra tướng mỏi-mệt.
Nhân
nơi hai thứ vọng-trần động và tĩnh, phát ra cái nghe ở trong, thu-nạp cái trần-tượng
đó, gọi là tính-nghe. Tính-nghe ấy rời hai trần động, tĩnh kia, rốt-ráo không
có tự-thể. Thật vậy, A-nan, ông nên biết, cái nghe đó không phải từ nơi động,
nơi tĩnh mà đến, không phải từ nơi lỗ tai mà ra, không phải do hư-không mà
sinh. VÌ cớ sao? Nếu cái nghe kia từ nơi tĩnh mà đến, thì khi động phải theo
cái tĩnh mà diệt, lẽ ra không nghe được động. Nếu từ nơi động mà đến, thì khi
tĩnh sẽ theo cái động mà diệt, lẽ ra không biết được tĩnh. Nếu do lỗ tai mà
sinh, hẳn không có động, có tĩnh, thì cái nghe như vậy vốn không tự-tính. Nếu
do hư-không mà ra, thì đã có tính nghe, chắc không phải là hư-không nữa; lại
hư-không tự nghe, nào có dính gì chỗ thu-nạp của ông. Vậy nên biết rằng nhĩ-nhập
là luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
"A-nan,
ví như có người bịt gấp hai lỗ mũi, bịt lâu thành ra mỏi-mệt thì ở, trong lỗ
mũi, nghe có cảm-xúc lạnh; nhân những cảm-xúc như thế, mà phân-biệt được là
thông, là ngăn-bịt, là rỗng, là đặc, cho đến các mùi thơm, thối; cả cái ngửi
cùng cái mỏi-mệt đồng là thể-tính Bồ-đề chăm-chú phát ra tướng mỏi-mệt.
Nhân
nơi hai thứ vọng-trần thông và bịt, phát ra cái ngửi ở trong, thu-nạp các trần-tượng
đó gọi là tính-biết-ngửi. Cái ngửi đó rời hai trần thông và bịt kia, rốt-ráo
không có tự-thể. Nên biết cái ngửi đó, không phải từ cái thông, cái bịt mà đến,
không phải từ nơi lỗ mũi mà ra, cũng không phải do hư-không mà sinh. Vì cớ sao?
Nếu từ cái thông mà đến, thì khi bịt, cái ngửi đã mất rồi, làm sao mà biết được
bịt; nếu nhân cái bịt mà có, thì khi thông, không còn cái ngửi, làm sao biết được
các mùi thơm, thối. Nếu từ lổ mũi sinh ra, hẳn không có cái thông, cái bịt, thì
cái ngửi như vậy vốn không tự-tính. Nếu do hư-không mà ra, thì cái ngửi đó, phải
xoay lại ngửi lỗ mũi của ông; lại hư-không tự ngửi, nào có dính gì chỗ thu-nạp
của ông. Vậy nên biết rằng tỷ-nhập là luống-dối, vốn không phải tính
nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
"A-nan,
ví như có người dùng lưỡi liếm mép, liếm mãi sinh ra mỏi-mệt. Nếu người đó có bệnh
thì có vị đắng. Còn người không có bệnh thì có chút vị ngọt. Do những cảm-xúc
ngọt, đắng, mà bày tỏ cái tính-nếm; còn khi không động thì thường có tính-nhạt.
Cả cái nếm và cái mỏi-mệt đồng là thể-tính Bồ-đề chăm-chú phát ra tướng mỏi-mệt.
Nhân
nơi hai thứ vọng-trần nhạt và ngọt, đắng, phát cái nếm ở trong, thu-nạp các trần-tượng
đó, gọi là tính-biết-nếm. Tính-biết-nếm ấy rời hai trần nhạt và ngọt, đắng kia,
rốt-ráo không có tự-thể. Thật vậy, A-nan, ông nên biết rằng cái biết đắng, biết
nhạt như vậy, không phải từ vị ngọt, đắng mà đến, không phải nhân tính nhạt mà
có, không phải từ nơi lưỡi mà ra, cũng không phải do hư-không mà sinh. Vì cớ
sao? Nếu từ các vị ngọt đắng mà đến, thì khi nhạt, cái biết-nếm đã diệt rồi,
làm sao biết được nhạt; nếu từ cái nhạt mà ra thì khi ngọt, cái nếm đã mất rồi,
làm sao biết được vị ngọt, đắng. Nếu do cái lưởi sinh ra, hẳn không có những vị
ngọt, đắng và nhạt, thì cái biết-nếm ấy vốn không tự-tính. Nếu do hư-không mà
ra, thì hư-không tự nếm, chứ không phải lưỡi ông nếm; lại hư-không tự biết, nào
có dính gì đến chỗ thu-nạp của ông. Vậy nên biết rằng thiệt-nhập là luống-dối,
vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
"A-nan,
ví-dụ như có người dùng bàn tay lạnh chạm bàn tay nóng, nếu thế bên lạnh nhiều
hơn, thì bên nóng cũng thành lạnh theo, nếu thế bên nóng nhiều hơn, thì bên lạnh
cũng thành ra nóng; rồi như vậy, do cái cảm-xúc nhận-biết trong lúc hợp lại mà
rõ sự nhận-biết lúc rời ra. Nếu cái thế
chênh-lệch hiện-thành giữa nóng và lạnh, thì nhân đó phát ra mỏi-mệt mà có cảm-xúc.
Cả cái biết cảm-xúc cùng cái mỏi-mệt đồng là thể-tính Bồ-đề chăm-chú phát ra tướng
mỏi-mệt.
Nhân
nơi hai vọng-trần ly và hợp, phát ra cái hay-biết ở trong, thu-nạp các trần-tượng
đó, gọi là cái biết-cảm-xúc. Cái biết như thế, rời hai trần ly và hợp, trái và
thuận kia, rốt-ráo không có tự-thể; thật vậy, A-nan, ông nên biết cái cảm-xúc
đó, không phải từ cái ly, cái hợp mà tới, không phải từ cái trái, cái thuận mà
có, không phải do nơi thân-thể mà ra, cũng không phải do nơi hư-không mà sinh.
Vì cớ sao? Nếu từ cái hợp mà đến thì khi ly, cái biết đã mất rồi, làm sao biết
được cái ly; đối với hai tướng trái và thuận thì cũng như vậy. Nếu từ thân-thể
mà ra, hẳn không có những tướng ly, hợp, trái, thuận, thì cái biết-cảm-xúc của
ông vốn không tự-tính. Nếu từ nơi hư-không mà ra, thì hư-không tự hay-biết, nào
có dính gì chỗ thu-nạp của ông. Vậy nên biết rằng thân-nhập là luống-dối, vốn
không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
"A-nan,
ví như có người nhọc-mỏi thì ngủ, ngủ
chán thì thức dậy, khi nhận-biết trần-cảnh thì nhớ, khi hết nhớ thì gọi
là quên. Các món sinh, trụ, dị, diệt, trái-ngược đó, thói-quen thu-nạp đưa vào
trong, không lẫn-lộn nhau, gọi là ý-căn. Cả cái ý-căn cùng cái mỏi-mệt, đồng là
thể-tính Bồ-đề chăm-chú phát ra tướng mỏi-mệt.
Nhân
nơi hai thứ vọng-trần sinh và diệt, nhóm cái biết ở trong, thu-nạp pháp-trần
bên trong, dòng thấy nghe đi ngược lại vào bên trong mà không đến đâu, gọi là
cái ý-hay-biết. Cái ý-hay-biết đó rời hai trần thức và ngủ, sinh và diệt kia, rốt-ráo
không có tự-thể. Thật vậy, A-nan, nên biết cái ý-căn hay-biết như thế, không phải
từ nơi thức, nơi ngủ mà đến, không phải do cái sinh, cái diệt mà có, không phải
từ nơi ý-căn mà phát ra, cũng không phải do nơi hư-không mà sinh. Ví cớ sao? Nếu
từ nơi thức mà đến, thì khi ngủ đã theo cái thức mà diệt rồi, còn lấy cái gì
làm cái ngủ; nếu chắc lúc sinh mới có, thì khi diệt, đã hóa như không có rồi,
thì lấy cái gì mà biết là diệt. Nếu do cái diệt mà có, thì khi sinh, không có
diệt nữa, lấy gì mà biết là sinh. Nếu do ý-căn mà ra, thì hai tướng thức, ngủ
thay-đổi lẫn nhau nơi thân-thể, nếu rời hai tướng ấy ra, thì cái ý-hay-biết đó,
cũng như hoa-đốm hư-không, rốt-ráo không có tự-tính. Nếu do hư-không mà sinh,
thì hư-không tự biết, nào có dính gì chỗ thu-nạp của ông. Vậy nên biết rằng
ý-nhập là luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
THU
MƯỜI HAI XỨ VỀ TÁNH NHƯ LAI TẠNG
"Lại
nữa, A-nan, vì sao bản-tính của 12 xứ, vốn là tính chân-như nhiệm-mầu của
Như-lai-tạng?
A-nan,
ông hãy xem rừng cây Kỳ-đà và các suối ao đó; ý ông nghĩ thế nào? Như thế là sắc-trần
sinh ra cái thấy, hay cái thấy sinh ra sắc-tướng?
A-nan,
nếu cái thấy sinh ra sắc-tướng, thì khi thấy hư-không, không có sắc-tướng, lẽ
ra tính-thấy sinh ra sắc-tướng đã tiêu mất rồi. Mà đã tiêu mất, thì tỏ ra hết
thảy đều không; sắc-tướng đã không, thì lấy gì rõ được tướng hư-không? Đối với
hư-không thì cũng như vậy.
Lại
nếu sắc-trần sinh ra cái thấy, thì khi thấy hư-không, không có sắc, cái thấy liền
tiêu mất đi, tiêu mất thì tất-cả đều không, lấy gì rõ được hư-không và sắc-tướng?
Vậy
nên biết rằng cái thấy cùng sắc, không, đều không có xứ-sở; tức sắc-trần và cái
thấy, hai xứ đó đều luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính
tự-nhiên.
"A-nan,
ông lại nghe trong vườn Kỳ-đà nầy, khi đồ-ăn dọn rồi thì đánh trống, khi chúng
nhóm lại thì đánh chuông, tiếng chuông, tiếng trống trước sau nối nhau. Ý ông
nghĩ thế nào? Như thế là, cái tiếng đến bên cái nghe hay cái nghe đến chỗ cái
tiếng? A-nan, nếu như cái tiếng đó đến bên cái nghe, thì cũng như tôi khất-thực
trong thành Thất-la-phiệt, tại rừng Kỳ-đà không có tôi nữa. Cái tiếng đó đã đến
bên cái nghe của ông A-nan, thì lẽ ra ông Mục-Liên, ông Ca-Diếp không cùng nghe
một lần, huống chi, trong nầy có 1250 vị Sa-môn, một khi nghe tiếng chuông, đồng
đến chỗ ăn cơm cả.
Lại
như cái nghe của ông đến bên cái tiếng, thì cũng như tôi đã về rừng Kỳ-đà rồi,
trong thành Thất-la-phiệt, không còn tôi nữa; vậy khi ông nghe tiếng trống, cái
nghe của ông đã đến nơi tiếng trống rồi, thì khi tiếng chuông cũng phát ra, lẽ
ra ông không thể nghe cả hai bên, huống nữa, ông còn nghe được cả tiếng voi, ngựa,
trâu, dê và nhiều tiếng khác. Còn nếu không đi đến với nhau, thì lại không
nghe.
Vậy
nên biết rằng cái nghe và cái tiếng đều không có xứ-sở; tức cái nghe và
thanh-trần, hai xứ đều luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải
tính tự-nhiên.
"A-nan,
ông hãy ngửi hương chiên-đàn trong lư nầy, hương ấy, nếu đốt đến một thù, thì cả
thành Thất-la-phiệt, trong 40 dặm, đồng-thời đều ngửi mùi thơm. Ý ông nghĩ thế
nào? Mùi thơm ấy sinh ra, do cây chiên-đàn, do nơi lỗ mũi của ông hay do nơi
hư-không? Nếu như mùi thơm ấy sinh ra do lỗ mũi của ông, thì đã gọi là do lỗ
mũi sinh ra, tất phải từ lỗ mũi mà ra, lỗ mũi không phải chiên-đàn, làm sao
trong lỗ mũi, lại có được mùi thơm chiên-đàn? Lại đã gọi rằng ông ngửi mùi
thơm, thì mùi thơm phải vào trong lỗ mũi, còn trong lỗ mũi phát ra mùi thơm, mà
nói rằng ngửi được, thì không đúng nghĩa.
Nếu
sinh ra do nơi hư-không, thì tính hư-không thường còn, mùi thơm cũng phải thường
có, cần gì phải đốt cây khô chiên-đàn trong lư rồi mới có. Nếu mùi thơm sinh ra
do cây chiên-đàn, thì cái chất thơm ấy nhân đốt mà thành khói; nếu lỗ mũi ngữi
được, thì lẽ ra khói phải xông đến lỗ mũi, làm sao, khói đó lên trên không,
chưa được bao xa, mà trong 40 dặm đều ngửi thơm cả.
Vậy,
nên biết rằng hương-trần và cái ngửi đều không có xứ-sở, tức cái ngửi và
hương-trần hai xứ đều luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải
tính tự-nhiên.
"A-nan,
ông thường hai thời, ở trong chúng cầm bình-bát khất-thực. Trong đó, hoặc gặp
những món tô, lạc, đề-hồ, gọi là vị quý.
Ý
ông nghĩ thế nào? Vị đó sinh ra, do nơi hư-không, do nơi cái lưỡi hay do nơi đồ-ăn?
A-nan,
nếu vị ấy sinh ra do nơi cái lưỡi của ông, thì ở trong miệng ông chỉ có một cái
lưỡi; cái lưỡi lúc bấy giờ đã thành vị tô rồi, nếu gặp đường phèn, lẽ ra cái vị
không dời-đổi, mà nếu không dời-đổi, thì không gọi được là biết vị, còn nếu dời-đổi,
thì cái lưỡi không phải có nhiều tự-thể, làm sao, một cái lưỡi lại biết được
nhiều vị? Nếu sinh ra do đồ-ăn, thì đồ-ăn không có tri-giác, làm sao tự biết được
vị? Lại đồ-ăn tự biết, thì cũng đồng như người khác ăn, nào có dính gì đến ông,
mà gọi rằng ông biết vị? Nếu sinh ra do hư-không, thì ông hãy nếm cái hư-không
xem là vị gì. Nếu cái hư-không đó vị mặn, thì đã làm mặn cái lưỡi của ông, cũng
phải làm mặn cái mặt của ông và mọi người trong cõi nầy, cũng giống như cá bể,
đã thường chịu cái mặn, không còn biết thế nào là nhạt nữa. Nhưng nếu không biết
nhạt, thì lại cũng không biết mặn. Mà đã không biết cái gì, thì làm sao còn gọi
là biết vị?
Vậy
nên biết rằng các vị và cái lưỡi biết nếm đều không có xứ-sở; tức cái biết nếm
cùng với các vị, hai xứ đều luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải
tính tự-nhiên.
"A-nan,
ông thường sớm mai lấy tay xoa đầu, ý ông nghĩ thế nào? Trong việc biết xoa đó,
lấy cái gì làm cái biết cảm-xúc? Cái biết ở nơi tay hay ở nơi đầu? Nếu nó ở nơi
tay, mà cái đầu không biết, thì làm sao thành cái cảm-xúc ấy? Còn nếu nó ở nơi
đầu, mà cái tay vô-dụng, thì làm sao gọi là cảm-xúc được. Nếu cả cái đầu và cái
tay, mỗi cái đều có biết, thì một mình ông A-nan phải có hai cái biết cảm-xúc.
Nếu
cả đầu và tay đều do một cảm-xúc sinh ra, thì tay và đầu lẽ ra chỉ có một tự-thể;
mà nếu chỉ có một tự-thể, thì không năng, không sở, cảm-xúc không thành-lập được.
Còn nếu là hai thể, thì cảm-xúc ở phía nào, ở bên năng, thì không ở bên sở, ở
bên sở, thì không ở bên năng; không lẽ hư-không tạo-thành cảm-xúc cho ông?
Vậy
nên biết rằng cảm-xúc và thân-căn đều không có xứ-sở; tức cái thân biết cảm-xúc
cùng cái cảm-xúc, hai thứ đều luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không
phải tính tự-nhiên.
"A-nan,
ông thường trong ý duyên với ba tính: thiện, ác và vô-ký, sinh ra có các
pháp-trần. Những pháp-trần đó tức nơi tâm mà sinh ra hay là rời cái tâm, riêng
có chỗ khác?
A-nan,
nếu tức nơi tâm, thì pháp-trần không phải là trần-cảnh nữa, và như thế, thì nó
không phải là cái sở-duyên của tự-tâm, làm sao thành một xứ được?
Nếu
rời cái tâm, riêng có chỗ khác, thì bản-tính của pháp-trần là có biết hay không
có biết?
Nếu
có biết, thì gọi là tâm, nhưng nếu nó khác với ông và không phải trần-cảnh, thì
cũng như cái tâm của người khác; còn nếu nó tức là ông và cũng tức là tâm, thì
làm sao cái tâm nơi ông lại thành hai được?
Lại
nếu như không có biết, cái pháp-trần đó đã không phải sắc, thanh, hương, vị, ly,
hợp, lạnh, nóng và tướng hư-không, thì nó sẽ ở chỗ nào? Hiện nay nơi sắc,
không, không thể chỉ nó ra được; không lẽ trong nhân-gian lại có cái ngoài
hư-không?
Không
có cảnh sở-duyên, thì ý-căn do đâu mà lập-thành một xứ được?
Vậy
nên biết rằng pháp-trần cùng ý-căn đều không có xứ-sở; tức ý-căn cùng pháp-trần,
hai xứ đều luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
THU
MƯỜI TÁM GIỚI VỀ TÁNH NHƯ LAI TẠNG
"Lại
nữa A-nan, làm sao 18 giới vốn là tính chân-như nhiệm-mầu của Như-lai-tạng?
A-nan,
như ông bày-tỏ : Nhãn-căn và sắc-trần làm duyên, sinh ra nhãn-thức. Thức đó lại
là nhân nhãn-căn sinh ra, lấy nhãn-căn làm giới, hay nhân sắc-trần sinh ra, lấy
sắc-trần làm giới?
A-nan,
nếu nhân nhãn-căn sinh ra, mà không có sắc có không, thì không thể phân-biệt, dầu
cho có cái thức của ông thì đem ra dùng về việc gì? Cái thấy của ông, ngoài những
sắc xanh, vàng, trắng, đỏ, thì không thể biểu-hiện được; vậy do đâu mà lập
thành ra giới?
Nếu
nhân sắc-trần sinh ra, thì khi chỉ có hư-không, không có sắc, lẽ ra cái thức của
ông phải diệt, làm sao còn biết được là hư-không? Nếu khi sắc-tướng biến-đổi
thành hư-không, ông cũng biết rằng sắc-tướng biến-đổi, mà cái thức của ông thì
không biến đổi; thế thì, do đâu mà lập sắc-trần làm giới? Nếu theo sắc-trần mà
biến-đổi, thì tự-nhiên sắc-trần không thành giới được. Nếu không biến-đổi, thì
là thường hằng, cái thức đã do sắc-trần sinh ra, lẽ ra không thể biết hư-không ở
đâu?
Nếu
gồm hai thứ nhãn-căn và sắc-trần chung cùng sinh ra ; vậy, như hợp lại, thì ở
giữa phải ly, còn như ly ra, thì hai bên lại hợp, thể-tính xen-lộn, làm sao
thành được giới?
Vậy
nên biết rằng nhãn-căn sắc-trần làm duyên, sinh ra giới nhãn-thức, cả ba chỗ đều
không, và ba giới nhãn-căn, sắc-trần và nhãn-thức, vốn không phải tính
nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
"A-nan,
lại như ông bày-tỏ : Nhĩ-căn và thanh-trần làm duyên, sinh ra nhĩ-thức. Thức đó
nhân nhĩ-căn sinh ra, lấy nhĩ-căn làm giới, hay nhân thanh-trần sinh ra, lấy
thanh-trần làm giới?
A-nan,
nếu nhân nhĩ-căn sinh ra, mà không có hai tướng động, tĩnh hiện-tiền, thì cái
biết của nhĩ-căn cũng không thành; mà đã không biết gì, thì cái biết còn không
thành, huống nữa cái thức phân-biệt còn có hình-trạng gì.
Nếu
nhân lỗ tai nghe thì đã không động, tĩnh, cái nghe cũng không thành ; làm sao lấy
hình-sắc lỗ tai đối với xúc-trần, mà gọi được là giới nhĩ-thức ; và cái giới
nhĩ-thức như thế, do đâu mà lập ra.
Nếu
nhân thanh-trần mà sinh, thì cái nhĩ-thức nhân thanh-trần mà có, không có
dính-líu gì đến cái nghe ; mà đã không nghe, thì cũng không biết các tướng
thanh-trần ở đâu. Lại nói nhĩ-thức do thanh-trần sinh ra, dầu cho rằng thanh-trần,
nhân cái nghe mà có tướng, thì cái nghe, lẽ phải nghe được nhĩ-thức. Nếu không
nghe được nhĩ-thức, thì thanh-trần không phải là giới của nhĩ-thức. Nếu nghe được,
thì nhĩ-thức cũng đồng như thanh-trần, và nhĩ-thức đã bị nghe, thì lấy cái gì
biết được rằng đã nghe cái thức? Còn nếu cái thức không biết, thì cũng như cỏ
như cây.
Lại
không lẽ thanh-trần và cái nghe xen-lộn, thành ra giới ở giữa? Giới ở giữa đã
không có, thì các tướng nội-căn, ngoại-trần, do đâu mà thành-lập được.
Vậy,
nên biết rằng nhĩ-căn, thanh-trần làm duyên, sinh ra giới nhĩ-thức, cả ba chỗ đều
không và ba giới nhĩ-căn, thanh-trần và nhĩ-thức, vốn không phải tính
nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
"A-nan,
lại như ông bày-tỏ: Tỷ-căn và hương-trần làm duyên, sinh ra tỷ-thức. Thức đó lại
nhân tỷ-căn sinh ra, lấy tỷ-căn làm giới, hay nhân hương-trần sinh ra, lấy
hương-trần làm giới?
A-nan,
nếu nhân tỷ-căn sinh ra, thì trong tâm ông lấy cái gì làm tỷ-căn? Ông lấy cái
hình-tướng mũi thịt như hai móng tay, hay lấy cái tính ngửi-biết lay-động làm tỷ-căn?
Nếu
lấy cái hình-tướng mũi thịt, thì chất thịt là thân-căn và cái biết của thân-căn
là cái biết cảm-xúc. Đã gọi là thân-căn thì không phải là tỷ-căn, đã gọi rằng cảm-xúc,
thì đó là xúc-trần đối với thân-căn. Vậy, còn không có gì đáng gọi là tỷ-căn,
do đâu mà lập thành giới?
Nếu
lấy cái ngửi-biết làm tỷ-căn, thì trong tâm ông lấy cái gì làm cái có ngửi-biết?
Nếu lấy lỗ mũi thịt, thì cái biết của chất thịt là xúc-trần, chứ không phải như
tỷ-căn; nếu lấy cái hư-không làm cái có ngửi-biết, thì hư-không tự biết, còn
xác-thịt lẽ ra không biết, như thế, thì lẽ ra hư-không là ông; thân của ông mà
không có biết, thì ông A-nan hiện nay lẽ cũng không còn đâu nữa.
Nếu
lấy cái hương làm cái có ngửi-biết, thì cái biết thuộc về hướng-trần, nào dính
gì đến ông?
Nếu
các mùi thơm, thối sinh ra do tỷ-căn của
ông, thì hai mùi thơm, thối kia không sinh ra do cây y-lan và cây
chiên-đàn; hai vật đó không tới, ông tự ngửi lỗ mũi là thơm hay là thối; thối
thì không phải thơm, thơm thì không phải thối; nếu cả hai mùi thơm, thối đều ngửi
được cả, thì một người ông phải có hai tỷ-căn và đứng trước tôi hỏi đạo phải có
hai ông A-nan, thì ông nào mới là tự-thể của ông. Còn nếu tỷ-căn là một, thì
thơm, thối không hai, thối đã thành thơm, thơm đã thành thối, hai tính đó đã
không có, thì lấy gì lập được thành giới?
Lại
nếu nhân hương-trần mà có, thì tỷ-thức đã nhân hương-trần mà có, cũng như nhân
con mắt có thấy, không thể thấy được con mắt; tỷ thức nhân hương-trần mà có, lẽ
ra không biết được hương-trần. Nếu biết được hương-trần, thì không phải do
hương-trần sinh ra, nếu không biết được hương-trần, thì không phải là tỷ-thức.
Hương-trần
mà không ngửi biết là có, thì cái giới hương-trần không thành; tỷ-thức mà không
biết hương-trần, thì cái giới của nó, không phải do hương-trần mà lập. Đã không
có cái thức trung-gian, thì nội-căn, ngoại-trần cũng không thành và tất-cả những
điều ngửi-biết kia rốt-ráo đều luống-dối.
Vậy,
nên biết rằng tỷ-căn, hương-trần làm duyên, sinh ra tỷ-thức, cả ba chỗ đều
không và ba giới tỷ-căn, hương-trần và tỷ-thức, vốn không phải tính nhân-duyên,
không phải tính tự-nhiên.
"A-nan,
lại như ông bày-tỏ: Thiệt-căn và vị-trần làm duyên, sinh ra thiệt-thức. Thức đó
lại nhân thiệt-căn sinh ra, lấy thiệt-căn làm giới, hay nhân vị-trần sinh ra, lấy
vị-trần làm giới?
A-nan,
nếu nhân thiệt-căn sinh ra, thì như trong thế-gian, những loại mía ngọt, mơ
chua, hoàng-liên đắng, muối mặn, tế tân, gừng, quế cay, đều không có vị, ông tự
nếm cái lưỡi là ngọt hay là đắng. Nếu cái lưỡi là đắng, thì lấy cái gì mà nếm
cái lưỡi; cái lưỡi đã không thể tự nếm được, thì lấy gì mà có hay-biết; còn nếu
cái lưỡi không đắng, thì tự-nhiên vị-trần không sinh ra, làm sao mà lập được
thành giới?
Nếu
nhân vị-trần sinh ra ; vậy thiệt-thức đã là vị rồi, thì cũng đồng như thiệt-căn,
không thể tự nếm được, làm sao còn biết được là có vị hay không có vị? Lại tất-cả
các vị không phải do một vật sinh ra. Các vị đã do nhiều vật sinh ra, thì cái
thiệt-thức do vị-trần sinh ra, cũng phải có nhiều tự-thể. Nếu tự-thể của thiệt-thức
là một và tự-thể đó thật do vị-trần sinh ra, thì các vị mặn, nhạt, chua, cay và
nhiều vị khác nhau, do các thứ đó hòa-hợp cùng sinh ra, đều chỉ là một vị, lẽ
ra không có phân-biệt; mà đã không có phân-biệt, thì không thể gọi là thức, làm
sao còn gọi là giới thiệt-thức? Không lẽ hư-không lại sinh được cái thức của
ông?
Nếu
thiệt-căn, vị-trần, hòa-hợp mà sinh ra cái thức ở giữa, vốn không tự-tính, làm
sao mà lập được thành giới?
Vậy,
nên biết rằng thiệt-căn, vị-trần làm duyên, sinh ra thiệt-thức, cả ba chỗ đều
không, và ba giới thiệt-căn, vị-trần và thiệt-thức, vốn không phải tính
nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
"A-nan,
lại như ông bày-tỏ: Thân-căn và xúc-trần làm duyên, sinh ra thân-thức. Thức đó
lại là nhân thân-căn sinh ra, lấy thân-căn làm giới, hay nhân xúc-trần sinh ra,
lấy xúc-trần làm giới?
A-nan,
nếu nhân thân-căn sinh ra, không có cái duyên của hai cảm-xúc hợp và ly, thì
thân-căn còn biết gì. Nếu nhân xúc-trần sinh ra mà không có thân-căn của ông,
thì có ai không có thân-căn mà biết hợp, biết ly được.
A-nan,
vật thì không biết cảm-xúc, thân-căn có biết, mới có cảm-xúc ; tức nơi cảm-xúc,
mà biết có thân-căn, tức nơi thân-căn mà biết có cảm-xúc; nhưng đã tức là cảm-xúc,
thì không phải thân-căn, mà đã tức là thân-căn, thì không phải cảm-xúc; cả hai
tướng thân-căn và xúc-trần, vốn không có xứ-sở. Nếu xúc-trần hợp một với
thân-căn, thì tức là tự-thể của thân-căn rồi; còn nếu rời hẳn với thân-căn, thì
thành không có gì, như các tướng hư-không.
Nội-căn,
ngoại-trần đã không thành, thì làm sao lập được cái thức ở giữa; cái thức ở giữa
đã không lập được, thì nội-căn, ngoại-trần, bản-tính cũng rỗng-không và cái thức
của ông do đâu mà lập được thành giới.
Vậy,
nên biết rằng thân-căn, xúc-trần làm duyên, sinh ra thân-thức, cả ba chỗ đều
không, và ba giới thân-căn, xúc-trần và thân-thức, vốn không phải tính
nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
"A-nan,
lại như ông bày-tỏ: Ý-căn và pháp-trần làm duyên, sinh ra ý-thức. Thức đó lại
là nhân ý-căn sinh ra, lấy ý-căn làm giới, hay nhân pháp-trần sinh ra, lấy
pháp-trần làm giới?
A-nan,
nếu nhân ý-căn sinh ra, thì trong ý ông, chắc phải có chỗ nghĩ-ngợi mới
phát-minh được cái ý của ông ; nếu không có các pháp-trần, thì ý-căn không thể
sinh ra được. Rời các pháp-trần, ý-căn còn không có hình-tướng, thì đem ý-thức
ra mà dùng vào việc gì?
Lại
cái thức-tâm của ông với các thứ nghĩ-ngợi, các sự rõ-biết là đồng nhau hay
khác nhau. Nếu đồng với ý-căn, thì tức là ý-căn rồi, làm sao lại do ý-căn sinh
ra ? Nếu khác, mà không đồng với ý-căn, thì lẽ ra không còn biết gì. Nếu không
biết gì, thì làm sao lại do ý-căn sinh ra; còng nếu có biết, thì làm sao lại
chia ra ý-thứ và ý-căn? Chỉ hai tính đồng nhau, khác nhau còn không thành, làm
sao lập được thành giới?
Nếu
nhân pháp-trần sinh ra, thì các pháp trong thế-gian, không ngoài năm trần. Ông
hãy xét các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc, có tướng rõ-ràng đối với năm căn,
đều không thuộc về phần thu-nạp của ý-căn. Nếu ý-thức của ông quyết-định nương
nơi pháp-trần mà sinh ra, thì ông hãy xét từng pháp, từng pháp, hình-trạng thế
nào. Nếu rời hẳn các tướng sắc, không, động, tĩnh, thông, bịt, hợp, ly, sinh,
diệt, thì rốt-ráo không thành một pháp nào cả. Lại, sinh cũng là các pháp như sắc,
như không sinh ra, diệt cũng như các pháp như sắc, như không diệt mất. Các
nguyên-nhân đã không thành, thì cái thức do nó sinh ra, còn có hình-tướng gì;
hình-tướng còn không có, làm sao mà lập được thành giới. Vậy, nên biết rằng
ý-căn, pháp-trần làm duyên, sinh ra ý-thức, cả ba chỗ đều không, và ba giới
ý-căn, pháp-trần và ý-thức, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên".
THU
BẢY ĐẠI VỀ TÁNH NHƯ LAI TẠNG
Ông
A-nan bạch Phật : "Thưa Thế-tôn, đức Như-lai thường nói về nhân duyên
hòa-hợp rằng: Tất-cả các thứ biến-hóa trong thế-gian đều nhân bốn món "Đại"
hòa-hợp mà phát ra. Làm sao đức Như-lai lại bác-bỏ cả hai nghĩa nhân-duyên và tự-nhiên.
Nay tôi không biết nghĩa đó thế nào, xin Phật rủ lòng thương-xót chỉ-bày cho
chúng-sinh nghĩa rốt-ráo của trung-đạo, không còn các đều hý-luận."
Khi
bấy giờ, đức Thế-tôn bảo ông A-nan rằng : "Trước đây ông nhàm-chán các
pháp tiểu-thừa Thanh-Văn, Duyên-giác, phát tâm tha-thiết cầu đạo vô-thượng Bồ-đề,
nên tôi lúc nầy chỉ-bày cho ông đệ-nhất-nghĩa-đế, làm sao ông lại còn đem những
nhân-duyên vọng-tưởng hý-luận thế-gian mà tự ràng-buộc mình? Ông tuy nghe được
nhiều pháp, nhưng cũng như người nói tên vị thuốc, mà đến khi thuốc thật ở trước
mắt, thì lại không phân-biệt được. Như-lai gọi là rất đáng thương-xót. Nay ông
hãy nghe cho kỹ, tôi sẽ vì ông phân-tách chỉ-bày và cũng để cho những người tu
đại-thừa sau nầy thông-suốt được thật-tướng."
Ông
A-nan yên-lặng kính vâng thánh-chỉ của Phật.
Phật
dạy : "A-nan, như ông đã nói: Bốn món "Đại" hòa-hợp phát ra các
thứ biến-hóa trong thế-gian. A-nan, nếu tính các món đại kia không phải hòa-hợp,
thì không thể lẫn-lộn với các đại khác, cũng như hư-không không thể hòa-hợp được
với các sắc-tướng. Nếu tính của các đại là hòa-hợp, thì cũng đồng như các thứ
biến-hóa, thủy chung thành nhau, sinh diệt nối nhau, sinh rồi diệt, diệt rồi
sinh, sinh sinh diệt diệt, như vòng lửa quay tròn chưa hề dừng nghỉ. A-nan, như
nước thành giá, giá lại thành nước.
Ông
hãy xét cái tính của địa-đại, to thì làm đất liền, nhỏ thì làm vi-trần, cho đến
lân-hư-trần, do chẻ chất cực-vi, là sắc-tướng nhỏ tột, ra 7 phần mà thành. Nếu
chẻ lân-hư-trần nữa, thì thật là tính hư-không.
A-nan,
nếu cái lân-hư-trần đó, chẻ ra thành được hư-không, thì biết hư-không cũng sinh
ra được sắc-tướng. Nay ông hỏi rằng do hòa-hợp mà sinh ra các tướng biến-hóa
trong thế-gian, thì ông hãy xét một cái lân-hư-trần, phải dùng bao nhiêu
hư-không hợp lại mới có, không thể lân-hư-trần hợp lại thành lân-hư-trần. Lại
lân-hư-trần đã chẻ được thành hư-không, thì phải dùng bao nhiêu sắc-tướng hợp lại,
mới thành cả hư-không. Nhưng nếu sắc-tướng hợp lại, thì hợp sắc-tướng lại,
không thể thành được hư-không; còn nếu hư-không hợp lại, thì hợp hư-không lại,
không thể thành được sắc-tướng; sắc-tướng còn có thể chẻ được, chứ hư-không thì
làm sao mà hợp được?
Ông
vốn không biết trong Như-lai-tạng, tính sắc là chân-không, tính không là chân-sắc,
bản-nhiên thanh-tịnh, cùng khắp pháp-giới, theo tâm chúng-sinh, đáp-ứng với lượng
hay-biết, theo nghiệp mà phát-hiện; thế-gian không biết, lầm là nhân-duyên và
tính tự-nhiên, đều là những so-đo phân-biệt của ý-thức, chỉ có lời nói, toàn
không có nghĩa chân-thật.
"A-nan,
hỏa-đại không có tự-thể, gửi nơi các duyên mà phát-hiện. Ông hãy xem các nhà,
chưa ăn ở trong thành, khi muốn nhóm bếp, thì tay cầm kính hiển-vi, đưa trước
ánh sáng mặt trời mà lấy lửa.
A-nan,
phàm gọi là hòa-hợp, thì như tôi cùng ông và 1.250 vị tỷ-khưu, hiện nay, hợp-thành
một chúng; tuy chúng chỉ có một, song gạn-xét về căn-bản, thì mỗi người đều có
thân, đều có danh-tự họ-hàng của mình, như ông Xá-lỵ-phất, thì thuộc dòng
Bà-la-môn, ông Ưu-lâu-tần-loa, thì thuộc dòng Ca-diếp-ba, cho đến ông A-nan,
thì thuộc dòng họ Cù-đàm.
A-nan,
nếu lửa đó nhân hòa-hợp mà có, thi khi người kia cầm kính lấy lửa nơi ánh sáng
mặt trời, lửa đó từ trong kính mà ra, do bùi-nhùi mà có hay từ mặt trời mà đến?
A-nan,
nếu từ mặt trời mà đến, thì lửa ấy đã đốt được bùi-nhùi trong tay của ông, những
rừng cây mà ánh sáng mặt trời đi qua, lẽ ra đều bị đốt cả. Nếu từ trong kính mà
ra, thì lửa ấy đã có thể từ trong kính ra đốt cháy bùi-nhùi, làm sao cái kính lại
không chảy; cho đến cả cái tay ông cầm kính còn không thấy nóng, thì làm sao
kính lại chảy được. Nếu do bùi-nhùi sinh ra, thì cần gì ánh sáng mặt trời và
kính tiếp-đối với nhau, rồi sau lửa mới sinh ra. Ông hãy xét cho kỹ, kính do
tay cầm, mặt trời thì đi trên trời, còn bùi-nhùi thì từ đất sinh ra, vậy lửa từ
phương nào đi đến chỗ đó. Mặt trời và kính xa nhau, không phải hòa, không phải
hợp, không lẽ lửa kia, không do đâu mà tự có.
Ông
còn không biết trong Như-lai-tạng, tính hỏa là chân-không, tính không là chân-hỏa,
bản-nhiên thanh-tịnh cùng khắp pháp-giới, theo tâm chúng-sinh, đáp-ứng với lượng
hay-biết.
A-nan,
ông nên biết rằng người đời cầm kính một chỗ, thì một chỗ có lửa sinh ra, khắp
pháp-giới đều cầm kính, thì khắp pháp-giới bốc lửa. Lửa bốc khắp thế-gian, đâu
có chỗ ở, theo nghiệp mà phát-hiện. Thế-gian không biết, lầm là nhân-duyên và
tính tự-nhiên, đều là những so-đo phân-biệt của ý-thức, chỉ có lời nói, toàn
không có nghĩa chân-thật.
"A-nan,
tính nước không nhất-định, khi chảy, khi đứng không chừng. Như trong thành Thất-la-phiệt,
các ông tiên Ca-tỳ-la, Chước-ca-la và các nhà đại-huyễn-thuật Bát-đầu-ma,
Ha-tát-đa, vân vân... muốn cầu tinh Thái-âm để hòa với các thuốc huyễn-thuật,
thì các ông ấy, trong lúc sáng trăng trong, tay cầm hạt châu Phương-chư, hứng
nước trong ánh mặt trăng. Vậy, nước ấy từ trong hạt châu mà ra, do hư-không mà
có hay từ mặt trăng mà đến?
A-nan,
nếu từ mặt trăng mà đến, thì ở phương xa còn có thể làm cho hạt châu chảy ra nước,
những rừng cây ánh sáng mặt trăng đi qua, lẽ ra đều phải phun nước; mà nếu phun
nước, thì sao lại phải đợi có hạt châu Phương-như mới chảy nước được? Còn nếu
không phun nước, thì rõ-ràng nước đó, không phải từ mặt trăng mà xuống. Nếu từ
hạt châu mà ra, thì trong hạt châu ấy, thường phải chảy nước, sao còn phải đợi
ánh sáng mặt trăng trong lúc nửa đêm? Nếu do hư-không mà sinh, thì hư-không
không bờ-bến, nước cũng không giới-hạn; vậy từ cõi người đến cõi trời, lẽ ra đều
phải chìm-ngập cả, làm sao lại còn có thủy, lục, không, hành? Ông hãy xét cho kỹ,
mặt trăng từ trên trời đi qua, hạt châu do tay cầm, còn cái mâm hứng nước thì
do người sắp đặt; vậy nước kia từ phương nào mà chảy đến đó. Mặt trăng và hạt
châu xa nhau, không phải hòa, không phải hợp, không lẽ nưóc kia, không do đâu
mà tự có.
Ông
còn biết trong Như-lai-tạng, tính thủy là chân-không, tính không là chân-thủy,
bản-nhiên thanh-tịnh, cùng khắp pháp-giới, theo tâm chúng-sinh, đáp-ứng với lượng
hay-biết. Một chỗ cầm hạt châu, thì một chỗ nước chảy ra, khắp pháp-giới cầm hạt
châu, thì đầy pháp-giới nước sinh ra. Thủy-đại sinh khắp thế-gian, đâu có chỗ ở,
theo nghiệp mà phát-hiện; thế-gian không biết, lầm là nhân-duyên và tính tự-nhiên,
đều là những so-đo phân-biệt của ý-thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa
chân-thật.
"A-nan,
phong-đại không có tự-thể, khi động, khi tĩnh không chừng. Ông thường sửa áo,
vào trong đại-chúng, gấu áo Tăng-già-lê động đến người bên cạnh, thì có chút
gió phảy qua mặt người kia. Gió đó lại là, do gấu áo ca-sa mà ra, do hư-không
mà phát-khởi hay do mặt người kia mà sinh?
A-nan,
nếu gió đó phát ra, do gấu áo ca-sa, thì ông đã mặc cả gió, lẽ ra cái áo phải
bay tung ra, rời khỏi thân-thể của ông. Nay tôi thuyết-pháp, rũ áo ở trong Hội
nầy, ông hãy xem cái áo tôi, gió ở chỗ nào? Không lẽ trong áo lại có chỗ chứa gió.
Nếu
gió đó do hư-không sinh ra, thì khi cái áo ông không động, vì sao lại không phải
gió? Và tính hư-không thường còn, thì gió lại phải thường sinh ra; khi không có
gió, thì hư-không phải diệt mất. Gió diệt, thì có thể thấy được, còn hư-không
diệt, thì hình-trạng thế nào? Lại nếu có sinh diệt, thì không gọi là hư-không
và đã gọi là hư-không, thì làm sao lại phát ra gió được?
Nếu
gió đó sinh ra do cái mặt người bị phảy, thì đã do mặt người đó sinh ra, lẽ ra
phải phảy lại ông, sao tự ông sửa áo mà lại phảy ngược lại người kia?
Ông
hãy xét cho kỹ: Sửa áo là do nơi ông, cái mặt thì thuộc về người kia, hư-không
thì vắng-lặng, không thể lay-động, vậy gió từ phương nào giong-ruổi đến đó.
Tính gió và tính hư-không cách xa nhau, không phải hòa, không phải hợp, không lẽ
gió kia, không do đâu mà tự có.
Ông
thật không biết trong Như-lai-tạng, tính phong là tính chân-không, tính không
là chân-phong, bản-nhiên thanh-tịnh cùng khắp pháp-giới, theo tâm chúng-sinh,
đáp-ứng với lượng hay-biết. A-nan, như một mình ông hơi động cái áo, thì có
chút gió phát ra; khắp pháp-giới đều phảy, thì khắp cõi nước sinh ra phong-đại.
Phong-đại đầy-nhẩy thế-gian, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát-hiện. Thế-gian
không biết, lầm là nhân-duyên và tính tự-nhiên, đều là những so-đo phân-biệt của
ý-thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân-thật.
"A-nan,
hư-không không có hình, nhân sắc-tướng mà tỏ-bày ra. Như trong thành Thất-la-phiệt,
chỗ cách xa sông, những người dòng Sát-lỵ, dòng Bà-la-môn, dòng Tỳ-xá, dòng Thủ-đà
hay dòng Phả-la-đọa, dòng Chiên-đà-la, vân vân... khi dựng nhà mới, thì đào giếng
mà lấy nước, đào đất ra một thước, thì trong đó có một thước hư-không, như vậy
cho đến đào đất ra một trượng, thì trong đó lại được một trượng hư-không,
hư-không nông hay sâu, tùy đào đất ra nhiều hay ít. Hư-không đó là nhân đất mà
ra, nhân đào mà có hay không nhân gì mà tự sinh?
A-nan,
nếu hư-không đó không nhân gì mà tự sinh, thì khi trước khi chưa đào đất, sao
nơi đó lại không trống-rỗng, mà chỉ thấy đất liền, hẳn không thông-suốt. Nếu
nhân đất mà ra, thì khi đất ra, phải thấy hư-không vào; nếu đất ra trước, mà
không thấy hư-không vào, thì làm sao hư-không lại nhân đất mà ra. Còn nếu không
ra, không vào, thì hư-không với đất vốn không khác nhau; không khác tức là đồng,
thì khi đất ra, sao hư-không lại không ra. Nếu nhân đào mà ra, thì phải đào ra
hư-không, chứ không đào ra đất; nếu không nhân đào mà ra, thì tự đào ra đất,
làm sao lại thấy hư-không?
Ông
hãy xét cho kỹ, nhận-rõ xét-chín: Đào, thì do tay người, theo phương hướng mà vận-chuyển,
đất, thì từ nơi đất liền mà dời đi, còn hư-không, như vậy, thì nhân đâu mà ra.
Đào là thật sự, hư-không là rỗng trống, không có tác-dụng gì với nhau, không phải
hòa, không phải hợp, không lẽ hư-không không do đâu mà tự ra. Nếu cái hư-không
đó, bản-tính viên-mãn cùng khắp, không có lay-động, thì nên biết hiện-tiền
hư-không và bốn thứ địa, thủy, hỏa, phong, đều gọi là năm đại, tính thật
viên-dung, vốn là tính Như-lai-tạng, không sinh, không diệt.
A-nan,
tâm ông mê-muội, không ngộ được bốn đại vốn là tính Như-lai-tạng, ông hãy xét
cái hư-không là ra, là vào hay không ra, không vào. Ông toàn không biết trong
Như-lai-tạng, tính giác là chân-không, tính không là chân-giác, bản-nhiên
thanh-tịnh, cùng khắp pháp-giới, theo tâm chúng-sinh, đáp-ứng với lượng hay-biết.
A-nan, như một giếng trống không, thì hư-không sinh trong một giếng; hư-không
thập phương, thì cũng như vậy. Không-đại cùng khắp mười phương, đâu có chỗ ở,
theo nghiệp mà phát-hiện; thế-gian không biết, lầm là nhân-duyên và tính tự-nhiên,
đều là những so-đo phân-biệt của ý-thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa
chân-thật.
"A-nan,
kiến-đại có giác-quan mà không phân-biệt, nhân các thứ sắc, không mà có. Như hiện
nay ông ở trong rừng Kỳ-đà, sớm mai thì sáng, ban đêm thì tối, đến lúc nửa đêm,
trăng tròn thì sáng, vắng trăng thì tối; những tướng sáng, tối ấy do cái thấy
phân-tách. Cái thấy đó, lại là đồng một thể với các tướng sáng, tối và cả
hư-không, hay không đồng một thể. Hoặc cũng đồng, cũng không phải đồng, hoặc
cũng khác, cũng không phải khác?
A-nan,
nếu cái thấy đó, cùng với sáng, tối và hư-không vốn là một thể, thì cái sáng,
cái tối tiêu-diệt lẫn nhau, khi tối, thì không sáng, khi sáng thì không tối; nếu
như cái thấy cùng một thể với cái tối, thì khi sáng, cái thấy phải tiêu mất; nếu
cùng một thể với cái sáng, thì khi tối, cái thấy phải diệt rồi, mà đã diệt, thì
làm sao còn thấy được sáng, thấy được tối. Còn như sáng và tối khác nhau, còn
cái thấy thì không sinh không diệt, thì làm sao lại thành đồng một thể được?
Nếu
cái thấy đó không phải đồng một thể với cái tối và cái sáng, thì ngoài cái
sáng, cái tối và hư-không ra, ông hãy phân-tách cái thấy thành hình-tướng gì; rời
cái sáng, cái tối và hư-không, cái thấy đó cũng đồng như lông rùa sừng thỏ; nếu
tách hẳn ba thứ sáng, tối và hư-không, thì do đâu mà thành-lập được cái thấy?
Sáng
và tối trái-ngược lẫn nhau, làm sao hoặc cũng là đồng; rời ba thứ sáng, tối và
hư-không, cái thấy vốn không còn gì, làm sao hoặc cũng là khác. Bên hư-không,
bên cái thấy, vốn không có bờ-cõi, làm sao lại không phải đồng; thấy cái tối,
thấy cái sáng, tính không dời-đổi, làm sao lại không phải khác?
Ông
hãy xét cho kỹ, suy-xét chín-chắn, nhận cho cùng, xét cho rõ, sáng là do mặt trời,
tối là do đêm không trăng, thông-suốt thuộc về hư-không, ngăn-bịt thuộc về đất
liền còn cái thấy, như vậy nhân đâu mà ra. Cái thấy có giác-quan, hư-không thì
không hay-biết, không phải hòa, không phải hợp; không lẽ cái thấy, không do đâu
mà tự phát ra. Còn như tất-cả các sự thấy, nghe, hay, biết, bản-tính viên-mãn
cùng khắp, vốn không lay-động, thì nên biết kiến-đại cùng với hư-không không bờ-bến,
không lay-động và bốn món đại : địa, thủy, hỏa, phong, có lay-động, đều gọi là
sáu đại, tính thật là viên-dung, vốn là tính Như-lai-tạng, không sinh, không diệt.
A-nan,
tính ông chìm-đắm, không ngộ được những sự thấy, nghe, hay, biết của ông vốn là
tính Như-lai-tạng; ông hãy xét những thấy, nghe, hay, biết, đó là sinh hay diệt,
là đồng hay là khác, là không phải sinh, không phải diệt, hay không phải đồng,
không phải khác. Ông chưa từng biết trong Như-lai-tạng, cái thấy nơi tâm-tính
là cái tính-minh của bản-giác; cái tính-minh của bản-giác biểu-lộ ra nơi cái thấy,
bản-nhiên thanh-tịnh cùng khắp pháp-giới, theo tâm chúng-sinh đáp-ứng với lượng
hay-biết.
Như
nơi nhãn-căn, cái thấy cùng khắp pháp-giới, thì cái biết nghe, biết ngửi, biết
nếm, biết xúc, biết các pháp, công-năng nhiệm-mầu sáng-suốt cũng cùng khắp
pháp-giới, đầy-đủ thập phương hư-không, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát-hiện.
Thế-gian không biết, lầm là nhân-duyên và tính tự-nhiên, đều là những phân-biệt
so-đo của ý-thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân-thật.
"A-nan,
thức-đại không có nguồn-gốc, nhân nơi sáu thứ căn, trần giả-dối phát ra. Nay
ông hãy xem khắp thánh-chúng trong Hội này; ông dùng con mắt lướt qua, mắt ông
trông khắp, chỉ như bóng trong gương, không phân-tách riêng-biệt. Cái thức ông,
trong ấy theo thứ lớp chỉ ra đây là ông Văn-thù, đây là ông Phú-lâu-na, đây là
ông Mục-kiền-liên, đây là ông Tu-bồ-đề, đây là ông Xá-lỵ-phất. Cái thức nhận-biết
như thế sinh ra do cái thấy, do các tướng, do hư-không, hay không nhân gì bỗng-nhiên
sinh ra?
A-nan,
nếu cái thức của ông sinh ra do cái thấy; mà như không có các tướng sáng, tối
và sắc, không, thì không còn cái thấy của ông; cái thấy còn không có, do đâu mà
phát ra được cái thức? Nếu cái thức của ông sinh ra do các tướng, chứ không do
cái thấy, thì đã không thấy sáng, cũng không thấy tối; sáng và tối đã không thấy,
thì cũng không có sắc, không; các tướng kia còn không có, thì cái thức do đâu
mà phát ra? Nếu cái thức sinh ra do hư-không, ngoài các tướng và ngoài cái thấy,
thì ngoài cái thấy không có cảm-giác, tự-nhiên không thể biết được cái sáng,
cái tối, các sắc-tướng và hư-không; ngoài các tướng, thì không có các duyên của
tiền-trần, sự thấy, nghe, hay, biết, không do đâu mà thành-lập được. Ngoài hai
thứ căn trần ra, nếu là không, thì cũng đồng như không có, còn nếu là có, thì
cũng không đồng như các vật, dầu cho phát ra cái thức của ông, thì đem ra mà
phân-biệt cái gì?
Nếu
cái thức không nhân gì bỗng-nhiên mà phát ra, làm sao lại không phân-biệt mặt
trăng sáng, trong lúc mặt trời đứng bóng?
Ông
hãy xét kỹ, nhận-xét chín-chắn, cái thấy gá vào mắt của ông, các tướng thì trả
về cho tiền-cảnh, cái gì có thể hình-trạng được, thì mới thành có, cái gì không
có tướng, thì thành ra không; còn cái thức như vậy, nhân đâu mà ra?
Cái
thức thì lay-động, cái thấy thì đứng-lặng, không phải hòa, không phải hợp, cho
đến các sự nghe, ngửi, hay, biết, cũng đều như vậy. Không lẽ cái thức nhận-biết
không do đâu mà phát ra.
Nếu
cái thức đó không do đâu, thì nên biết cái thức-đại nhận-biết và cái căn-đại thấy,
nghe, hay, biết, vẳng-lặng cùng khắp, bản-tính không nương vào đâu mà có; hai
món đại ấy cùng với hư-không, địa, thủy, hỏa, phong, đều gọi là bảy đại, tính
thật là viên-dung, vốn là tính Như-lai-tạng, không sinh, không diệt.
A-nan,
tâm ông nông-nổi, không ngộ được cái nhận-biết các điều thấy-nghe, vốn là tính
Như-lai-tạng. Ông hãy xét sáu cái thức là đồng hay là khác, là không hay là có,
là không phải đồng, không phải khác, hay không phải không, không phải có. Ông vốn
không biết trong Như-lai-tạng, cái thức nơi tâm-tính là cái tác-dụng nhận-biết
của tính-minh bản-giác, và tính-minh bản-giác thật là chân-tính của thức-đại; bản-giác
diệu-minh yên-lặng cùng khắp pháp-giới, ẩn-hiện thập-phương hư-không, đâu có chỗ
ở, theo nghiệp mà phát-hiện. Thế-gian không biết, lầm là nhân-duyên, và tính tự-nhiên,
đều là những so-đo phân-biệt của ý-thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa
chân-thật".
GIÁC
NGỘ TÁNH NHƯ LAI TẠNG
Đem
thâm-tâm phụng-sự cõi nước như vi-trần
Làm
được như vậy mới gọi là báo ơn Phật.
Khi
bấy giờ, ông A-nan và cả đại-chúng nhờ Phật nhiệm-mầu chỉ-bày, thân tâm vắng-lặng,
không điều ngăn-ngại. Cả trong đại-chúng đó, mỗi người tự biết tâm-tính cùng khắp
mười phương, trông mười phương hư-không như xem cái vật, cái lá nắm trong bàn
tay; tất-cả những vật có ra trong thế-gian, đều tức là tâm-tính Bồ-đề nhiệm-mầu
sáng-suốt. Tâm-tính viên-mãn cùng khắp, trùm-chứa mười phương, trở lại xem cái
thân cha mẹ sinh ra cũng như trong mười phương hư-không kia, thổi một vi-trần,
dầu còn, dầu mất, chẳng khác biển lớn yên-lặng, nổi lên một bọt nước, dầu sinh
hay diệt, cũng không dính-dáng gì. Rõ vậy tự biết-nhận được tâm-tính bản-lai
thường-trụ không diệt, lễ Phật chấp tay, được cái chưa từng có, ở trước đức
Như-lai, nói bài kệ tán-thán Phật:
"Đức
Thế-tôn bất-động,
Tổng-trì
tính diệu-trạm,
Nói
pháp Thủ-lăng-nghiêm,
Thật
hy-hữu trong đời,
Khiến
chúng tôi tiêu-diệt
Vọng-tưởng
trong ức-kiếp,
Không
trải qua tăng-kỳ
Mà
chứng được pháp-thân.
Nguyện
nay đã chứng-quả
Thành
được vị Bảo-vương
Lại
hóa-độ như thế
Cho
cả hằng-sa chúng.
Đem
thâm-tâm phụng-sự
Cõi
nước như vi-trần,
Làm
được như vậy mới
Gọi
là báo ơn Phật.
Cúi
xin đức Thế-tôn
Chứng-minh
cho chúng tôi,
Thệ-nguyện
quyết vào trước
Trong
ngũ-trược ác-thế;
Nếu
còn một chúng-sinh
Chưa
thành được Phật-đạo,
Quyết
không ở nơi đó
Chịu
chứng-quả Niết-Bàn.
Kính
thưa đức Đại-Hùng,
Đại-lực,
Đại-Từ-Bi,
Trông-mong
lại xét-trừ
Những
điều lầm nhỏ-nhiệm,
Cho
chúng tôi sớm lên
Đến
bậc Vô-Thượng-Giác,
Nơi
thập phương thế-giới
Ngồi
đạo-trường thuyết-pháp.
Tính
hư-không bất-diệt
Dầu
có thể tiêu-mất,
Tâm-nguyện
chắc-chắn nầy,
Quyết
không hề lay-động."
(
Diệu trạm tổng trì bất động tôn,
Thủ
Lăng Nghiêm Vương thế hy hữu.
Tiêu
ngã ức kiếp điên đảo tưởng.
Bất
lịch tăng kỳ hoạch Pháp thân.
Nguyện
kim đắc quả thành Bảo Vương
Hoàn
độ như thị Hằng sa chúng.
Tương
thử thâm tâm phụng trần sát,
Thị
tắc danh vi báo Phật ân.
Phục
thỉnh Thế Tôn vị chứng minh,
Ngũ
trược ác thế thệ tiên nhập.
Như
nhất chúng sanh vị thành Phật,
Chung
bất ư thử thủ Nê hoàn.
Ðại
hùng đại lực đại từ bi,
Hy
cánh thẩm trừ vi tế hoặc.
Linh
ngã tảo đăng Vô Thượng Giác,
Ư
thập phương giới tọa đạo tràng,
Thuấn-nhã-đa
tánh khả tiêu vong,
Thước-ca-ra
tâm vô động chuyển.)
NÓI
RÕ CĂN NGUYÊN HƯ VỌNG
VÀ
CHỈ RA TÁNH NGHE LÀ THƯỜNG TRỤ
Diệu
lý viên đốn NHƯ LAI TẠNG TÂM duyên khởi, đức Phật thuyết tới đây, thì những người
đương cơ GIÁC NGỘ VIÊN ĐỐN, VĨNH VIỄN
LÌA LÒNG NGHI.
Nhưng
hàng NHỊ THỪA PHÁP CHẤP SÂU NẶNG, nên còn hai đều nghi:
1)
"Bạch Thế-tôn, nếu như hết thảy các thứ căn, trần, ấm, xứ, giới, vân
vân... trong thế-gian, đều là tính thanh-tịnh bản-nhiên Như-lai-tạng, thì làm
sao bỗng-nhiên lại sinh ra các tướng hữu-vi như núi, sông, đất liền, thứ lớp dời-đổi,
trước sau quanh-lộn.
-Vì
không rõ SỰ LÝ TÁNH TƯỚNG vốn là NHƯ LAI TẠNG TÂM viên dung vô ngại
2)
Bạch Thế-tôn, tính địa-đại là ngăn-ngại, tính hư-không là rỗng-suốt, làm sao
hai đại ấy lại đều cùng khắp pháp-giới.
-Vì
không rõ NHÂN DUYÊN MÊ NGỘ KHÔNG TÁNH vốn là NHƯ LAI TẠNG TÂM lưu xuất ra.
Khi
bấy giờ, ông Phú-lâu-na-di-đa-la-ni-tử ở trong đại-chúng, liền từ chỗ ngồi đứng
dậy, trật vai áo bên phải, đầu gối bên phải chấm đất, chấp tay cung-kính mà bạch
Phật rằng: Đức Thế-tôn có oai-đức lớn, khéo vì chúng-sinh diễn-bày Đệ-nhất-nghĩa-đế
của Như-lai. Đức Thế-tôn thường cho rằng trong những người thuyết-pháp, tôi là
bậc nhất, song nay tôi nghe pháp-âm nhiệm-mầu của Như-lai, cũng như người điếc,
cách xa trăm bước, nghe tiếng muỗi mạt, vốn đã không thấy, huống nữa lại nghe.
Tuy Phật chỉ rõ, khiến cho tôi trừ được lầm-lạc, nhưng tôi chưa rõ chỗ rốt-ráo,
không còn nghi-hoặc của nghĩa ấy.
Bạch
Thế-tôn, như bọn ông A-nan, tuy được khai-ngộ, nhưng chưa trừ hết tập-khí hữu-lậu,
còn bọn chúng tôi là những người đã lên đến bậc vô-lậu trong Hội nầy, thì tuy
đã hết các lậu, nhưng nay nghe pháp-âm của Như-lai vừa dạy, còn mắc phải những
điều nghi-hối.
"Bạch
Thế-tôn, nếu như hết thảy các thứ căn, trần, ấm, xứ, giới, vân vân... trong thế-gian,
đều là tính thanh-tịnh bản-nhiên Như-lai-tạng, thì làm sao bỗng-nhiên lại sinh
ra các tướng hữu-vi như núi, sông, đất liền, thứ lớp dời-đổi, trước sau quanh-lộn.
Lại
đức Như-lai nói bốn món đại địa, thủy, hỏa, phong, bản-tính viên-mãn dung-hòa,
cùng khắp pháp-giới, vẳng-lặng thường-trụ. Bạch Thế-tôn, nếu tính địa-đại cùng
khắp, sao lại dung được thủy-đại; nếu tính thủy-đại cùng khắp thì hỏa-đại không
thể phát-sinh; làm sao lại phát-minh hai tính thủy-đại và hỏa-đại đều cùng khắp
hư-không, không diệt lẫn nhau? Bạch Thế-tôn, tính địa-đại là ngăn-ngại, tính
hư-không là rỗng-suốt, làm sao hai đại ấy lại đều cùng khắp pháp-giới. Tôi nay
không biết nghĩa ấy do đâu, xin Phật phát lòng đại-từ, vén mây mê-lầm cho tôi
và trong đại-chúng." Ông Mãn-từ nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất,
kính mong lời dạy từ-bi vô-thượng của đức Như-lai.
Khi
bấy giờ, đức Thế-tôn bảo ông Phú-lâu-na và các vị A-la-hán lậu-tận vô-học trong
Hội rằng : "Ngày nay Như-lai khắp vì trong Hội nầy chỉ-bày tính chân-thắng-nghĩa
trong thắng-nghĩa, khiến cho ở trong Hội nầy, những hàng định-tính Thanh-Văn và
hết thảy các bậc A-la-hán, chưa được hai phép nhân-không pháp-không, phát-tâm
hướng về thượng-thừa, đều được chỗ tu-hành chân-chính, thiết-thực không xao-động
của cảnh-giới tịch-diệt nhất-thừa. Ông hãy nghe kỹ, tôi sẽ vì ông mà nói".
Các
ông Phú-lâu-na kính vâng pháp-âm của Phật, lẳng-lặng vâng nghe.
Phật
dạy: "Ông Phú-lâu-na, như ông vừa nói : Đã là bản-nhiên thanh-tịnh, làm
sao bỗng-nhiên lại sinh ra có núi sông, đất liền. Vậy ông không thường nghe
Như-lai chỉ-dạy: Tính-giác là diệu-minh, bản-giác là minh-diệu, hay sao?"
Ông
Phú-lâu-na bạch: "Thưa Thế-tôn, vâng, tôi thường nghe Phật chỉ-dạy nghĩa ấy."
Phật
bảo: "Ông bảo cái giác là minh, lại là vì bản-tính nó là minh, nên gọi nó
là giác, hay là vì giác được cái không minh, mà gọi là minh-giác?"
Ông
Phú-lâu-na bạch: "Nếu cái không-minh đó mà gọi là giác, thì nó không minh
được cái gì."
Phật
dạy: "Nếu không có sở-minh là không có minh-giác, thì có sở không phải là
giác, mà không sở, lại không phải là minh; và không minh, thì lại không phải là
giác-tính trạm-minh. Vậy tính-giác chắc là minh, do vọng-tưởng mà làm ra có
minh-giác. Giác không có gì là sở-minh, nhân có minh mà lập ra thành sở; đã giả-dối
lập ra có sở, mới sinh ra cái năng hư-vọng của các ông".
"Trong
tính không đồng, không khác, nổi dậy thành ra có khác; khác với cái khác kia,
thì nhân cái khác đó, mà lập-thành cái đồng. Phát-minh cái đồng, cái khác rồi,
thì nhân đó, mà lập ra cái không đồng, không khác. Rối-loạn như vậy, đối-dãi với
nhau sinh ra lao-lự; lao-lự mãi phát ra trần-tướng, tự vẩn-đục lẫn nhau; do đó,
đưa đến những trần-lao phiền-não. Nổi lên thì thành thế-giới, lặng xuống thì
thành hư-không; hư-không là đồng, thế-giới là khác; cái không đồng, không khác
kia, thật là pháp hữu-vi.
"Cái
giác là sáng-suốt, cái hư-không thì không hay-biết, hai cái đối-đãi với nhau,
thành có lay-động, cho nên có phong-luân nắm-giữ thế-giới. Nhân cái hư-không,
mà sinh ra có lay-động, phát-minh tính cứng, thì thành có ngăn-ngại; các loại
kim-bảo đều do minh-giác lập ra tính cứng, cho nên có kim-luân nắm-giữ cõi nước.
Biết cái cứng, thì thành có kim-bảo, rõ cái lay-động, thì phong-đại phát ra;
phong-đại và kim-bảo cọ-xát nhau, cho nên có hỏa-đại làm tính biến-hóa. Ngọn lửa
xông lên, kim-bảo sinh ra tính ướt, cho nên có thủy-luân trùm khắp các cõi mười
phương. Lửa bốc lên, nước sa xuống, giao nhau phát-hiện, mà lập-thành tính cứng;
chỗ ướt là bể lớn, chỗ khô là gò nổi; do cái nghĩa ấy, trong bể lớn kia, hơi
nóng thường bốc lên; trong gò nổi kia, sông ngòi thường chảy xuống. Thế nước
kém thế lửa, thì kết thành núi cao, vậy nên đá núi, đập thì có tia lửa, nấu thì
chảy ra nước. Thế đất kém thế nước, rút ra thành cỏ cây, vậy nên rừng-rú bị đốt
thì thành đất, vắt ra thì có nước.
Vọng-tưởng
giao-xen phát-sinh, xoay-vần làm chủng-tử cho nhau; do nhân-duyên ấy mà thế-giới
tiếp-tục.
Lại
nữa, Phú-lâu-na, vọng-tưởng chẳng phải gì khác, do tính giác-minh hóa ra lầm-lỗi;
cái sở-minh hư-vọng đã lập, thì phạm-vi của cái năng-minh không vượt khỏi được.
Do nhân-duyên ấy, nghe không ra ngoài tiếng, thấy không vượt khỏi sắc, sáu cái
vọng: Sắc, hương, vị, xúc vân vân..., đã thành lập, thì do đó, chia ra có thấy,
nghe, hay, biết.
Đồng-nghiệp
ràng-buộc lẫn nhau mà hợp, mà ly, mà thành, mà hóa. Cái thấy phát-minh, thì các
sắc phát ra; nhận rõ nơi sự thấy, thì thành có tư-tưởng; rồi ý-kiến khác nhau,
thì thành ra ghét, tưởng-niệm đồng nhau, thì thành ra yêu. Lan cái yêu ra,
thành hạt giống, thu-nạp tưởng-niệm, thành ra cái thai, giao-xen phát-sinh, hấp-dẫn
bọn đồng-nghiệp, nên có nhân-duyên sinh ra yết-la-lam, át-bồ-đàm, vân vân...
Thai-sinh, noãn-sinh, thấp-sinh hay hóa-sinh là tùy phần sở-ưng: Noãn chỉ do tưởng-niệm
mà sinh, thai thì nhân ái-tình mà có, thấp-sinh thì cơ-cảm mà hợp lại, còn
hóa-sinh thì phân-ly mà ứng-hiện. Khi tình, khi tưởng, khi hợp, khi ly, thay-đổi
lẫn nhau, nên các loài chịu nghiệp-báo cũng theo đó mà lên xuống; do nhân-duyên
ấy, chúng-sinh tiếp-tục.
Phú-lâu-na,
tư-tưởng thương-yêu ràng buộc lẫn nhau, yêu mãi không rời, thì những cha mẹ con
cháu trong thế-gian sinh nhau không ngớt, bọn nầy thì lấy dục-tham làm gốc.
Lòng tham, lòng yêu giúp nhau tăng-trưởng, tham mãi không thôi, thì các loài
thai-sinh, noãn-sinh, thấp-sinh, hóa-sinh trong thế-gian, tùy sức mạnh-yếu,
ăn-nuốt lẫn nhau; bọn nầy thì lấy sát-tham làm gốc. Lấy thân người ăn con dê,
dê chết làm người, người chết làm dê, như vậy cho đến mười loài chúng-sinh chết
sống, sống chết, ăn-nuốt lẫn nhau, nghiệp dữ cùng sinh ra tột đời vị-lai, bọn nầy
thì lấy đạo-tham làm gốc.
Người
nầy mắc nợ thân-mệnh người kia, người kia trả nợ cũ cho người nầy; do
nhân-duyên ấy, trải qua trăm nghìn kiếp, thường ở trong đường sống chết. Người
nầy yêu cái tâm người kia, người kia ưa cái sắc người nầy, do nhân-duyên ấy, trải
qua trăm nghìn kiếp, thường ở trong vòng ràng-buộc. Duy ba món sát, đạo, dâm
làm gốc và vì nhân-duyên đó, nghiệp-quả tiếp-tục.
Phú-lâu-na,
ba thứ tiếp-tục điên-đảo ấy, đều do tính sáng-suốt rõ-biết của giác-minh, nhân
rõ-biết phát ra có tướng, theo vọng-tưởng mà kiến-chấp sinh ra, các tướng hữu-vi
núi sông, đất liền thứ lớp dời-đổi, đều nhân cái hư-vọng đó, mà xoay-vần sau
trước".
Ông
Phú-lâu-na bạch: "Nếu cái diệu-giác đó, bản-tính là diệu-minh, cùng với
tâm Như-lai, không thêm không bớt, mà không cớ gì bỗng-nhiên lại sinh ra các tướng
hữu-vi núi sông, đất liền; vậy Như-lai hiện nay đã chứng được bản-giác diệu-minh,
không có phân-biệt, thì đến lúc nào lại sinh ra núi sông, đất liền và các tập-lậu
hữu-vi?"
Phật
bảo ông Phú-lâu-na: "Ví như người mê, nơi một xóm làng, lầm phương Nam làm
phương Bắc, thì cái mê ấy, lại là nhân
mê mà có hay nhân ngộ mà ra?"
Ông
Phú-lâu-na bạch: "Người mê như vậy, cũng không nhân mê, cũng không nhân ngộ.
Vì sao? Mê, vốn không có gốc, làm sao lại nhân mê? Còn ngộ, không phải cái sinh
ra mê, làm sao lại nhân ngộ?"
Phật
dạy: "Người mê kia, chính trong lúc mê, bỗng có người ngộ chỉ-bày cho được
ngộ. Phú-lâu-na, ý ông nghĩ thế nào? Người ấy giải-trừ được cái mê đi, thì đối
với xóm làng đó, còn có sanh mê nữa không?
-
Thưa Thế-tôn, không.
-
Phú-lâu-na, Như-lai mười phương thì cũng như vậy. Cái mê đó không có gốc, tính
nó rốt-ráo là rỗng-không; xưa vốn không mê, chỉ hình-như có mê, có giác; giác
được cái mê, thì cái mê diệt và giác, không sinh ra mê.
Cũng
như người lòa thấy hoa-đốm giữa hư-không, nếu trừ được bệnh lòa, thì hoa đốm
nơi hư-không diệt mất. Bỗng có người ngu, ở chỗ hư-không mà hoa-đốm kia đã diệt
rồi, lại mong đợi hoa-đốm sinh lại. Ông xét người ấy, là ngu hay là trí-tuệ?"
Ông
Phú-lâu-na bạch: "Hư-không vốn không có hoa-đốm, vì hư-vọng mà thấy có
sinh diệt; thấy hoa-đốm diệt mất nơi hư-không đã là điên-đảo rồi; lại còn muốn
bảo nó sinh lại, thì thật là điên-dại; làm sao còn gọi người điên như vậy, là
ngu hay là trí-tuệ."
Phật
dạy: "Ông hiểu như vậy, làm sao còn hỏi tính-giác diệu-minh, không có
phân-biệt của chư Phật Như-lai, lúc nào lại sinh ra núi sông, đất liền.
Lại
như quặng vàng lộn với vàng ròng, khi vàng đã luyện thành ròng rồi, thì không
xen-lộn được nữa; cũng như cây đã đốt ra tro, thì không thành cây được nữa; Bồ-đề
Niết-bàn chư Phật Như-lai thì cũng như vậy.
"Phú-lâu-na,
ông lại hỏi về địa, thủy, hỏa, phong, bản-tính viên-mãn dung-hòa, cùng khắp
pháp-giới, nghi sao tính nước, tính lửa lại không lấn nhau, diệt nhau và nêu ra
hư-không và địa-đại đều cùng khắp pháp-giới, lẽ ra không dung được nhau.
Phú-lâu-na,
ví như hư-không, bản-thể không phải các tướng, mà không ngăn-cản các tướng
phát-huy. Vì sao? Phú-lâu-na, nơi hư-không kia, mặt trời soi thì sáng, mây kéo
thì tối, gió lay động, trời tạnh thì trong, hơi đọng, thì dục, bụi nổi thì
mù, nước đứng thì ánh. Ý ông nghĩ thế
nào? Các tướng hữu-vi khác nhau như vậy, nhân các cái kia mà sinh, hay nhân
hư-không mà có. Phú-lâu-na, nếu như do các cái kia sinh ra, thì khi mặt trời
soi, đã là mặt trời sáng, mười phương thế-giới đều thành sắc của mặt trời, làm
sao giữa hư-không, lại còn thấy mặt trời tròn. Nếu là hư-không sáng, thì
hư-không phải tự soi lấy, làm sao lúc giữa đêm mây-mù, lại không sinh ra
sáng-chói. Vậy nên biết rằng cái sáng đó, không phải mặt trời, không phải
hư-không và cũng không ra ngoài hư-không và mặt trời. Xét cái tướng vốn là vọng,
không thể chỉ-bày, cũng như muốn hoa-đốm hư-không kết-thành quả hư-không, làm
sao còn gạn-hỏi cái nghĩa lấn-diệt lẫn nhau? Xét cái tính, vốn là chân, chỉ là
tính-giác diệu-minh, tính-giác diệu-minh, vốn không phải là nước hay là lửa,
làm sao còn hỏi về nghĩa không dung được nhau?
Bản-tính
diệu-minh chân-thật thì cũng như vậy. Ông phát-minh cái hư-không, thì có
hư-không hiện ra; địa, thủy, hỏa, phong, mỗi mỗi phát-minh, thì mỗi mỗi hiện
ra; nếu cùng phát-minh, thì cùng hiện ra.
Thế
nào là cùng hiện ra? Phú-lâu-na, như trong một chỗ có nước, hiện ra bóng mặt trời,
hai người đồng xem mặt trời trong nước; rồi một người đi phương Đông, một người
đi phương Tây, thì hai bên đều có mặt trời theo mình cùng đi, một cái về phương
Đông, một cái về phương Tây, không có chuẩn-đích nhất-định. Không nên gạn-hỏi rằng,
mặt trời đó là một, sao lại mỗi cái đi theo mỗi người? Các mặt trời đã thành
hai, làm sao trước kia chỉ hiện ra có một? Hư-vọng quanh-lộn như thế, không thể
lấy gì làm bằng cứ.
"Phú-lâu-na,
ông đem cái sắc, cái không, mà lấn-cướp lẫn nhau nơi Như-lai-tạng, thì
Như-lai-tạng theo ông làm sắc, làm không, cùng khắp pháp-giới; vậy nên trong ấy,
gió thổi thì động, hư-không thì lặng, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối: Chúng
sinh mê-lầm, trái với giác-tính, hợp với trần-tướng, cho nên phát ra trần-lao,
có các tướng thế-gian.”
"Tôi
lấy tính diệu-minh, không diệt không sinh, hợp với Như-lai-tạng, thì Như-lai-tạng
chỉ là tính-giác-diệu-minh, soi khắp pháp-giới; vậy nên trong ấy, một là vô-lượng,
vô-lượng là một, trong nhỏ hiện ra lớn, trong lớn hiện ra nhỏ, đạo-trường bất-động
cùng khắp thế-giới mười phương, thân trùm cả hư-không vô-tận mười phương, nơi đầu
một mãy lông, hiện ra cõi Bảo-vương, ngồi trong vi-trần, chuyển bánh xe pháp lớn;
diệt trần-tướng, hợp giác-tính, nên phát ra tính-giác chân-như nhiệm-mầu
sáng-suốt.
"Nhưng
Như-lai-tạng bản-tính diệu-viên, không phải là tâm, là không, là địa, là thủy,
là phong, là hỏa; không phải là nhãn, là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; không phải là
sắc, là thanh, hương, vị, xúc, pháp; không phải là nhãn-thức-giới, cho đến
không phải là ý-thức-giới; không phải là minh, là vô-minh, là hết minh, là hết
vô-minh, cho đến không phải là lão, là tử, là hết lão tử; không phải là khổ, là
tập, là diệt, là đạo; không phải là trí, là đắc; không phải là bố-thí, là
trì-giới, là tinh-tiến, là nhẫn-nhục, là thiền-định, là trí-tuệ, là Ba-la-mật-đa,
cho đến cũng không phải là Như-lai, là Ứng-cúng, là Chính-biến-tri; không phải
là Đại-niết-bàn, là đức Thường, đức Lạc, đức Ngã, đức Tịnh, vì cái đó, đều
không là các pháp thế-gian và xuất-thế-gian vậy.”
"Tức
cái bản-tính minh-diệu Như-lai-tạng, cũng tức là tâm, là không, là địa, là thủy,
là phong, là hỏa; tức là nhãn, là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; tức là sắc, là
thanh, hương, vị, xúc, pháp; tức là nhãn-thức-giới, cho đến là ý-thức-giới; tức
là minh, là vô-minh, là hết minh, là hết vô-minh, cho đến tức là lão, là tử, là
hết lão tử; tức là khổ, là tập, là diệt, là đạo; tức là trí, là đắc; tức là bố-thí,
là trì-giới, là tinh-tiến, là nhẫn-nhục, là thiền-định, là trí-tuệ, là Ba-la-mật-đa,
cho đến tức là Như-lai, là Ứng-cúng, là Chính-biến-tri; tức là Đại-niết-bàn, là
đức Thường, đức Lạc, đức Ngã, đức Tịnh; do cái đó, tức là các pháp thế-gian và
xuất-thế-gian vậy.”
"Tức
cái tính-giác diệu-minh Như-lai-tạng, rời cả các nghĩa "tức",
"phi" và cũng là "tức", là "phi"; làm sao
chúng-sinh ba cõi thế-gian và các hàng Thanh-văn, Duyên-giác xuất-thế-gian, lấy
cái tâm hay-biết sự vật, mà đo-lường được vô-thượng Bồ-đề của Như-lai, dùng tiếng
nói thế-gian, mà vào được tri-kiến của Phật. Ví như, những cây đàn cầm, sắt,
không-hầu, tỳ-bà, tuy có tiếng hay, nhưng nếu không có ngón tay hay, thì rốt-cuộc
cũng không phát ra được. Ông cùng chúng-sinh thì cũng như vậy. Tâm-tính chân-thật, mỗi người đều
đầy-đủ, nhưng khi tôi ấn ngón tay, thì hải-ấn phát ra hào-quang, còn các ông tạm
móng tâm lên, thì trần-lao đã nổi, do vì không siêng-năng cầu đạo vô-thượng-giác,
ưa nhớ tiểu-thừa, được một ít đã cho là đủ".
Ông
Phú-lâu-na bạch: "Chân-tâm viên-giác diệu-minh của tôi và của Như-lai, đều
viên-mãn không hai, mà tôi, trước kia mắc vọng-tưởng vô-thủy, ở lâu trong luân-hồi,
nay được thánh-thừa, còn chưa rốt-ráo; Thế-tôn, thì khắp tất-cả các vọng đều diệt
trọn, chỉ có diệu-dụng tính chân-thường. Xin hỏi đức Như-lai, hết thảy
chúng-sinh, vì nhân gì mà có vọng, tự che tính diệu-minh, mà chịu chìm-đắm như
vậy?"
Phật
bảo ông Phú-lâu-na: "Ông tuy trừ được lòng nghi, nhưng còn những điều lầm
chưa dứt hết. Nay tôi lại đem những việc hiện-tiền thế-gian mà hỏi ông. Há ông
không nghe trong thành Thất-la-phiệt, có anh Diễn-nhã-đạt-đa, buổi mai lấy
gương soi mặt, bỗng-nhiên ưa cái đầu trong gương, lông mày, con mắt có thể thấy
được, rồi giận-trách cái đầu mình, sao lại không thấy mặt mày, cho là giống
yêu-quái, rồi không cớ gì phát điên bỏ chạy. Ý ông nghĩ thế nào, người đó vì
nguyên-nhân gì, vô cớ phát điên bỏ chạy?"
Ông
Phú-lâu-na bạch: "Tâm người ấy điên, chứ không có cớ gì khác."
Phật
dạy: "Tính diệu-giác viên-mãn sáng-suốt, bản-lai là diệu-minh cùng-khắp;
đã gọi là vọng, thì làm sao có nhân, nếu có nguyên-nhân, thì sao gọi là vọng?
Chỉ tự các vọng tưởng xoay-vần làm nguyên-nhân cho nhau, theo cái mê, chứa cái
mê, trải qua kiếp số như vi-trần; tuy Phật phát-minh, còn không biết trở về.
Nguyên-nhân cái mê như vậy, là nhân mê tự có, biết cái mê không có nhân, thì
cái vọng không chỗ nương-tựa, còn không có sinh, thì muốn đem cái gì mà làm cái
diệt. Người được đạo Bồ-đề như người tỉnh-giấc kể chuyện trong chiêm-bao; tâm dầu
rõ-ràng, nhưng không thể có nhân-duyên gì lấy được những vật trong chiêm-bao;
huống nữa, cái mê lại không có nhân, vốn không có gì cả. Như anh Diễn-nhã-đạt-đa
trong thành kia, đâu có nhân-duyên, mà tự sợ đầu mình bỏ chạy, bỗng-nhiên hết
điên, thì cái đầu đâu phải từ ngoài đưa tới; dầu chưa hết điên, cái đầu cũng
không hề mất. Phú-lâu-na, tính của cái vọng là như vậy, làm sao còn có
nguyên-nhân được.”
"Ông
chỉ không theo phân-biệt ba thứ tiếp-tục nơi thế-gian, nghiệp-quả,
chúng-sinh", thì ba duyên đã đoạn rồi, ba nhân không sinh ra nữa, và tính
điên của anh Diễn-nhã-đạt-đa trong tâm ông tự hết. Hết, tức là tâm-tính Bồ-đề
trong-sạch sáng-suốt, bản-lai cùng khắp pháp-giới, không do ai đưa lại, nào cần
gì phải tu-chứng nhọc-nhằn vất-vả.
Ví
như có người, ở nơi áo mình, buộc một hạt châu như-ý, mà không hay-biết, nên phải
xin ăn rong-ruổi phương xa, nghèo-nàn rách-rưới; tuy người ấy thật nghèo-nàn,
nhưng hạt châu không hề bị mất; bỗng-nhiên có người khôn, chỉ hạt châu ra cho,
thì người ấy muốn gì được nấy, thành giàu-có lớn, rồi mới ngộ được hạt châu
quý-hóa ấy, không phải do ở ngoài đưa tới".
Khi
bấy giờ ông A-nan, ở trong đại-chúng, đỉnh-lễ chân Phật, đứng dậy bạch Phật:
"Đức Thế-tôn hiện nói về các nghiệp sát, đạo, dâm. Về ba duyên đoạn rồi,
thì ba nhân không sinh và tính điên anh Diễn-nhã-đạt-đa trong tâm tự hết; hết,
tức là Bồ-đề, không do người khác đưa tới; như thế, rõ-ràng là nhân-duyên rồi,
làm sao đức Như-lai lại bỏ nghĩa nhân-duyên? Chính tôi, do nhân-duyên, mà tâm
được khai-ngộ.
Bạch
Thế-tôn, nghĩa ấy đâu chỉ đối với hàng Thanh-văn hữu-học, ít tuổi như chúng
tôi, mà hiện nay, trong Hội nầy, ông Đại-mục-kiền-liên, ông Xá-lỵ-phất, ông
Tu-bồ-đề, vân vân ... cũng từ ông Lão-phạm-chí nghe lý nhân-duyên của Phật, mà
phát-tâm khai-ngộ, được thành quả vô-lậu. Nay Phật dạy rằng Bồ-đề không do
nhân-duyên, thì các thuyết tự-nhiên của bọn Câu-xá-ly, thành Vương-xá, lại
thành đệ-nhất-nghĩa. Xin Phật rủ lòng đại-bi, khai-phá chỗ mê-lầm cho chúng
tôi".
Phật
bảo ông A-nan : "Tức như anh Diễn-nhã-đạt-đa trong thành, nếu diệt-trừ được
nhân-duyên tính điên, thì tính không điên tự-nhiên hiện ra; các lý nhân-duyên,
tự-nhiên, cuối-cùng chỉ như vậy."
"A-nan,
như cái đầu anh Diễn-nhã-đạt-đa vốn là tự-nhiên, nó đã tự-nhiên như thế, thì có
lúc nào lại không tự-nhiên, vậy vì nhân-duyên gì, mà sợ cái đầu, phát điên bỏ
chạy? Nếu cái đầu tự-nhiên, vì nhân-duyên mà điên, thì sao không tự-nhiên, vì
nhân-duyên mà mất đi? Cái đầu vốn không mất, điên-sợ giả-dối phát ra, chứ nào
có thay-đổi gì, mà phải nhờ đến nhân-duyên. Nếu tính điên vốn là tự-nhiên và vốn
có sẵn tính điên-sợ, thì khi chưa điên, cái điên núp vào chỗ nào? Nếu tính
không điên là tự-nhiên, thì cái đầu vẫn không việc gì, sao lại phát điên bỏ chạy?
Nếu ngộ được cái đầu sẵn có, biết mình vì phát điên mà bỏ chạy, thì nhân-duyên
và tự-nhiên đều là hý-luận."
"Vậy
nên tôi nói: Ba duyên đoạn-trừ rồi, tức là tâm Bồ-đề. Tâm Bồ-đề sinh, tâm
sinh-diệt diệt, đó chỉ là sinh-diệt. Diệt và sinh đều hết, thì gọi là vô-công-dụng-đạo.
Nếu có tự-nhiên, như vậy là phát-minh tâm tự-nhiên sinh, tâm sinh-diệt diệt, thế
cũng là sinh-diệt và lấy cái không-sinh-diệt, gọi là tự-nhiên. Cũng như, trong
thế-gian các tướng hòa-lẫn thành ra một thể, gọi là tính hòa-hợp; cái không phải
hòa-hợp, thì gọi là tính bản-nhiên. Bản-nhiên không phải bản-nhiên, hòa-hợp
không phải hòa-hợp, hòa-hợp và bản-nhiên đều rời-bỏ, rời-bỏ và không rời-bỏ đều
"phi", câu nói nầy, mới gọi là pháp không-hý-luận."
"Bồ-đề
Niết-bàn còn ở xa-xôi, nếu ông không trải qua nhiều kiếp siêng-năng tu-chứng,
thì tuy ghi-nhớ diệu-lý thanh-tịnh mười hai bộ kinh của thập phương Như-lai,
như cát sông Hằng, cũng chỉ càng thêm hý-luận. Ông tuy nói lý nhân-duyên, tự-nhiên
chắc-chắn rõ-ràng, người đời gọi ông là đa-văn bậc nhất. Với cái huân-tập
đa-văn nhiều kiếp đó, ông không thoát khỏi được nạn Ma-đăng-già, phải đợi thần-chú
Phật-đỉnh của tôi, làm cho lửa dâm trong tâm nàng Ma-đăng-già hết đi và nàng được
quả A-na-hàm, ở trong Phật-pháp thành rừng tinh-tiến, sông ái khô cạn, mới khiến
cho ông được giải-thoát. Vậy nên ông A-nan, tuy ông nhiều kiếp ghi-nhớ những
pháp bí-mật diệu-nghiêm của Như-lai, cũng không bằng một ngày tu-nghiệp vô-lậu,
xa-rời hai khổ ưa-ghét thế-gian. Như nàng Ma-đăng-già, trước kia là dâm-nữ, do
sức thần-chú, tiêu-diệt lòng ưa-muốn, nay ở trong Phật-pháp, gọi tên là Tính-tỷ-khưu-ni,
cùng với mẹ La-hầu-la là Gia-du-đà-la, đồng ngộ nhân trước, biết đã trải qua
nhiều đời, nhân vì tham-ái mà khổ, một niệm huân-tu pháp vô-lậu-thiện, thì người
đã ra khỏi ràng-buộc, người thì được Phật thụ-ký, làm sao, ông còn tự dối mình,
mắc-míu mãi trong vòng nghe-thấy".
Ông
A-nan và cả đại-chúng nghe lời Phật dạy, tiêu hết nghi-hoặc, ngộ được thật-tướng,
thân và ý đều yên-lành, được pháp chưa từng có. Rồi lại thương-khóc, đỉnh-lễ
chân Phật, quỳ dài chấp tay mà bạch Phật rằng: "Đức vô-thượng đại-bi
thanh-tịnh Bảo-vương, khéo khai-ngộ cho tâm chúng tôi, dùng các nhân-duyên như
thế, phương-tiện dắt-dìu những kẻ chìm-đắm ra khỏi bể khổ. Bạch Thế-tôn, nay
tôi tuy được vâng nghe pháp-âm như vậy, nhận-biết tâm-tính diệu-minh Như-lai-tạng
cùng khắp thế-giới mười phương, trùm-chứa các cõi Phật bảo-nghiêm thanh-tịnh
trong thập phương quốc-độ; Như-lai lại trách tôi nghe nhiều mà vô-dụng, không kịp-thời
tu-tập. Nay tôi, giống như người lênh-đênh xiêu-bạt, bỗng-nhiên gặp vị
Thiên-vương cho cái nhà tốt; tuy được nhà lớn, nhưng cốt-yếu phải biết cửa mà
vào; xin nguyện đức Như-lai không ngớt lòng đại-bi, chỉ-bày cho những kẻ mờ-tối
trong Hội nầy, rời-bỏ pháp Tiểu-thừa và đều nhận được con đường phát-tâm tu-tập
đi đến vô-dư Niết-bàn của Như-lai, khiến cho những hàng hữu-học biết cách uốn-dẹp
tâm phan-duyên lâu đời, được pháp tổng-trì, chứng-nhập tri-kiến của Phật".
Ông A-nan nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, ở trong Hội một lòng, mong đợi
từ-chỉ của Phật.
Khi
bấy giờ, đức Thế-tôn thương-xót các hàng Thanh-văn, Duyên-giác trong Hội, chưa
được tự-tại nơi tâm Bồ-đề, và những chúng-sinh phát Bồ-đề-tâm trong đời mạt-pháp
về sau, khi Phật đã diệt-độ rồi, khai-thị cho đường tu-hành nhiệm-mầu pháp
vô-thượng-thừa, và chỉ-dạy ông A-nan với cả đại-chúng rằng: "Các ông quyết-định
phát-tâm Bồ-đề, đối với pháp Tam-ma-đề chư Phật Như-lai, không sinh mệt-mỏi,
thì trước hết, nên rõ hai nghĩa quyết-định, trong lúc bắt đầu phát-tâm tự-giác."
"Thế
nào là hai nghĩa quyết-định trong lúc mới phát-tâm. A-nan, nghĩa thứ nhất là: Nếu
các ông muốn rời-bỏ phép Thanh-văn, tu thừa Bồ-tát, vào tri-kiến của Phật, thì
nên xét kỹ chỗ phát tâm trong lúc tu-nhân với chỗ giác-ngộ trong lúc chứng-quả,
là đồng hay là khác nhau. A-nan, nếu trong lúc tu-nhân, đem cái tâm sinh-diệt
làm cái nhân tu-hành, đề cầu cho được cái quả bất-sinh bất-diệt của Phật-thừa,
thì thật không thể được. Do cái nghĩa đó, ông nên xét các pháp, có thể làm ra
trong khí-thế-gian, đều phải thay-đổi diệt mất. A-nan, ông xét các pháp, có thể
làm ra trong thế-gian, có cái gì là không hư-nát, nhưng không bao-giờ nghe
hư-không tan-rã, vì sao? Vì hư-không không phải là cái bị làm ra, do đó, trước
sau không hề tan mất. Thì trong thân ông, tướng cứng là địa-đại, thấm ướt là thủy-đại,
hơi ấm là hỏa-đại, lay-động là phong-đại; do bốn cái ấy ràng-buộc, mà chia cái
tâm-tính diệu-minh vẳng-lặng, cùng khắp của ông, làm ra cái thấy, cái nghe, cái
biết, cái xét, từ đầu đến cuối, tạo-thành năm lớp ô-trược.
"Thế
nào là trược? A-nan, ví như nước trong, bản-nhiên là trong-sạch, lại như những
thứ bụi, đất, tro, cát, bản-chất là ngăn-ngại; hai bên bản-nhiên thể-chất khác
nhau, không hợp nhau được. Có người thế-gian lấy đất bụi kia, ném vào nước sạch,
thì đất mất ngăn-ngại, nước mất trong-sạch, hình-trạng đục-vẩn, gọi đó là trược;
năm lớp ô-trược của ông cũng giống như vậy.
A-nan,
ông thấy hư-không khắp thập phương thế-giới. Bên không, bên thấy, không tách-rời
nhau; có cái không mà không thật-thể, có cái thấy mà không hay-biết, hai bên
xen-lộn giả-dối thành ra lớp thứ nhất, gọi là kiếp-trược.
Thân
ông hiện ôm bốn món đại làm tự-thể, che-bít những sự thấy, nghe, hay, biết,
thành bị ngăn-ngại và trở lại làm cho các thứ địa, thủy, hỏa, phong, thành có
hay-biết; các điều đó xen-lộn giả-dối thành ra lớp thứ hai, gọi là kiến-trược.
Lại
trong tâm ông, những sự nhớ-biết học-tập, phát ra tri-kiến, hiện ra tướng sáu
trần, thì những sự đó, rời tiền-trần không có tướng, rời tri-giác không có
tính, xen-lộn giả-dối thành ra lớp thứ ba, gọi là phiền-não-trược.
Lại
tâm ông ngày đêm sinh-diệt không ngừng, tri-kiến thì muốn lưu mãi ở thế-gian,
nhưng nghiệp-báo xoay-vần thì lại thường dời-đổi cõi nầy cõi khác, những điều
đó xen-lộn giả-dối thành ra lớp thứ-tư, gọi là chúng-sinh-trược.
Cái
thấy, cái nghe của ông, bản tính vốn không khác nhau, do các trần cách-trở, mà
không duyên-cớ gì, lại sinh ra khác nhau; trong tính thì vẫn biết nhau, nhưng
trong dụng thì trái-ngược nhau, cái đồng và cái khác đã mất hẳn chuẩn-đích,
xen-lộn giả-dối thành ra lớp thứ năm, gọi là mệnh-trược.
A-nan,
nay ông muốn cho cái sự thấy, nghe, hay, biết, xa xa hợp với bốn đức thường, lạc,
ngã, tịnh của Như-lai, thì trước hết, phải lựa-bỏ cỗi-gốc sống chết, nương theo
cái không-sinh-diệt mà thành-tựu tính yên-lặng cùng khắp. Dùng cái yên-lặng mà
xoay các thứ sinh-diệt hư-vọng trở về nơi bản-giác, được tính không-sinh-diệt của
bản-giác làm cái tâm tu-nhân, thì về sau mới viên-thành chổ tu-chứng của quả-vị.
Như lắng nước đục đựng trong một cái đồ để yên, để yên mãi không lay-động, thì
đất cát tự chìm xuống và nước trong hiện ra, thế gọi là bắt đầu uốn-dẹp các
khách-trần phiền-não; gạn bùn hết sạch, chỉ còn nước trong, thì gọi là dứt hẳn
căn-bản vô-minh; tướng sáng-suốt đã tinh-thuần, thì tất-cả các điều biến-hiện đều
không gây ra phiền-não và hợp với đức mầu thanh-tịnh của Niết-bàn.
Nghĩa
thứ hai là các ông quyết muốn phát-tâm Bồ-đề, nơi thừa Bồ-tát, sinh lòng đại-dũng-mãnh,
quyết-định rời-bỏ các tướng hữu-vi, thì nên xét rõ cỗi-gốc phiền-não, những cái
vô-minh phát-nghiệp và nhuận-sinh vô-thủy đó, là ai làm, ai chịu?
A-nan,
ông tu đạo Bồ-đề, nếu không suy-xét cỗi-gốc phiền-não, thì không thể biết những
căn-trần phiền-não, thì không thể biết những căn-trần hư-vọng, nó điên-đảo ở chỗ
nào; chỗ điên-đảo còn không biết, thì làm sao uốn-dẹp được nó và chứng được quả-vị
Như-lai.
A-nan,
ông hãy xem người thế-gian cởi nút, hễ không thấy chỗ thắt nút, thì không biết
cởi, chứ không hề nghe hư-không bị phá-tan; vì sao? Vì hư-không không có
hình-tướng, không thắt, không cởi vậy. Thì như ông hiện nay, sáu thứ nhãn, nhĩ,
tỷ, thiệt, thân, ý làm mai-mối cho giặc, tự cướp của báu trong nhà; do đó, từ
vô-thủy, thế-giới chúng-sinh sinh ra ràng-buộc, không thể vượt khỏi thế-gian sự
vật.
A-nan,
thế nào gọi là thế-giới chúng-sinh? Thế là dời-đổi, giới là phương-hướng. Nay
ông nên biết những phương Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông-Nam, Tây-Nam, Đông-Bắc,
Tây-Bắc, phương trên, phương dưới là giới. Còn quá-khứ, vị-lai, hiện-tại là thế.
Phương-hướng có mười, số lưu-chuyển của thời-gian có ba, hết thảy chúng-sinh dệt
cái vọng mà thành như vậy; nơi sự dời-đổi trong thân, thế và giới gắn-bó với
nhau. Nhưng cái tính của giới đó, tuy là mười phương, song có chỗ nhất-định có
thể chỉ rõ, thì thế-gian chỉ nhận phương Đông, phương Tây, phương Nam, phương Bắc;
phía trên, phía dưới, thì không có vị-trí rõ-ràng; ở giữa cũng không có chỗ nhất-định.
Số bốn đã rõ rồi, nhân với số thế, thì ba lần bốn, bốn lần ba, xoay-vần là số
mười hai, nhân luôn ba lớp, một chục thành trăm, thành nghìn, thì tổng-quát trước
sau, ở trong sáu căn, mỗi mỗi có thể có đến một nghìn hai trăm công-năng.
A-nan,
trong sáu căn đó, ông lại xét-định chỗ hơn, chỗ kém. Như nhãn-căn xem-thấy,
phía sau thì tối, phía trước thì sáng, phương trước toàn sáng, phương sau toàn
tối, kể cả ngó qua bên phải bên trái, thì ba phần chỉ thấy được hai; tóm lại
công-năng của nhãn-căn không toàn-vẹn, trong ba phần công-năng thì một phần
không có; vậy nên biết nhãn-căn chỉ có tám trăm công-năng.
Như
nhĩ-căn nghe khắp, mười phương không sót, động thì giống như có xa có gần, tĩnh
thì không có bờ-bến; vậy nên biết nhĩ-căn đầy-đủ một nghìn hai trăm công-năng.
Như
tỷ-căn ngửi-biết cả lúc thở ra, thở vào; chỉ có trong lúc thở ra, thở vào mà
còn thiếu trong lúc hơi thở giao-tiếp; xét nơi tỷ-căn, ba phần còn thiếu một; vậy
nên biết tỷ-căn chỉ có tám trăm công-năng.
Như
thiệt-căn phô-bày cùng-tột trí thế-gian và xuất-thế-gian; lời nói có chừng hạn,
nhưng lý thì vô-cùng vô-tận; vậy nên biết thiệt-căn đầy-đủ một nghìn hai trăm
công-năng.
Như
thân-căn biết xúc-trần, biết các cảm-xúc trái và thuận; khi hợp lại thì biết,
khi rời ra thì không biết, rời chỉ có một, hợp thì có hai; xét nơi thân-căn, ba
phần còn thiếu một; vậy nên biết thân-căn chỉ có tám trăm công-năng.
Như
ý-căn thầm-lặng dung-nạp tất-cả các pháp thế-gian, xuất-thế-gian trong mười
phương ba đời; dù thánh hay phàm, không pháp nào không bao-dung cùng-tột bờ-bến;
vậy nên biết ý-căn đầy-đủ một nghìn hai trăm công-năng.
A-nan,
nay ông muốn ngược dòng sinh-tử, xoay về tột gốc lưu-chuyển, đến chỗ không
sinh-diệt, thì nên xét trong sáu căn hiện đương thụ-dụng, cái gì là hợp, cái gì
là ly, cái gì là sâu, cái gì là nông, cái gì là viên-thông, cái gì là không
viên-mãn. Nếu ngộ được căn-tính viên-thông nơi đó, ngược lại dòng nghiệp dệt vọng
vô-thủy kia và theo được tính viên-thông, thì đối với sự tu-hành nơi cái căn
không viên-thông, hiệu-quả xấp bội, một ngày bằng một kiếp. Tôi nay đã chỉ rõ
sáu căn viên-minh, vốn có những số-lượng công-năng như thế; tùy ông lựa chọn
nơi căn nào, có thể nhập đạo được, thì tôi sẽ phát-minh, để cho ông được
tăng-tiến trên đường tu-hành. Thập-phương Như-lai, nơi mười tám giới, mỗi giới
đều tu-hành được viên-mãn vô-thượng Bồ-đề; trong các giới đó, cũng không có gì
là hơn, là kém. Chỉ vì ông căn-cơ thấp-kém, chưa thể viên-mãn trí-tuệ, tự-tại
trong ấy được, nên tôi bảo ông chỉ đi sâu vào một căn, đi sâu đến chỗ không còn
vọng-tưởng, thì cả sáu căn kia một thời đều thanh-tịnh".
Ông
A-nan bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, làm sao ngược dòng hư-vọng, đi sâu
vào một căn, lại có thể khiến cho sáu căn một thời đều thanh-tịnh?"
Phật
bảo ông A-nan: "Ông nay đã được quả Tu-đà-hoàn, đã diệt được kiến hoặc của
ba cõi thế-gian chúng-sinh, song còn chưa biết những tập-khí hư-vọng chứa-nhóm
trong căn từ vô-thủy; các tập-khí kia, phải nhân tu-đạo rồi mới đoạn được, huống
chi, trong đó còn có rất nhiều phân-loại, số-mục sinh-trụ dị-diệt.
Nay
ông hãy xét sáu căn hiện-tiền là một, hay là sáu. A-nan, nếu nói là một, thì lỗ
tai sao không thấy, con mắt sao không nghe, đầu sao không đi, chân sao không
nói; còn nếu sáu căn đó quyết-định là sáu, thì như trong Hội nầy, tôi chỉ-dạy
pháp-môn nhiệm-mầu cho ông, trong sáu căn của ông, cái gì lĩnh-thụ?"
Ông
A-nan bạch: "Tôi dùng lỗ tai nghe".
Phật
dạy: "Lỗ tai ông tự nghe, nào dính gì đến thân với miệng, mà miệng ông thì
hỏi nghĩa, thân ông thì đứng dậy kính vâng. Vậy nên biết rằng chẳng phải một,
mà cuối-cùng thành sáu, chẳng phải sáu, mà cuối-cùng thành một, rốt-cuộc cái
căn của ông, vốn không phải là một, hay là sáu. A-nan, ông nên biết cái căn ấy
không phải một, không phải sáu; do từ vô-thủy đắm-chấp trái-ngược, nên nơi tính
viên-trạm, sinh ra có cái một, cái sáu. Nay ông được quả Tu-đà-hoàn, tuy đã
tiêu được cái sáu, nhưng còn chưa quên cái một.
Như
cái hư-không, tham-hợp với các khí-mãnh; do hình-trạng khí-mãnh khác nhau, mà gọi
là hư-không khác nhau, đến khi trừ-bỏ khí-mãnh mà xem cái hư-không, thì nói
hư-không là một; chứ cái hư-không kia, làm sao lại vì ông mà thành đồng hay
không đồng, huống nữa, lại gọi là một hay không phải một.
Sáu
căn hay-biết của ông thì cũng như vậy.
Do
hai thứ sáng và tối, tỏ-bày lẫn nhau, nơi tính diệu-viên, làm dính tính yên-lặng,
phát ra cái thấy; cái thấy ánh ra thành sắc, kết cái sắc lại thành căn, gốc
căn, thì gọi là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi hình-thể con mắt như quả bồ-đào; bốn
trần của phù-căn rong-ruổi chạy theo sắc.
Do
hai thứ động và tĩnh, đối-chọi lẫn nhau, nơi tính diệu-viên, làm dính tính
yên-lặng, phát ra cái nghe; cái nghe ánh ra thành tiếng, cuốn cái tiếng lại
thành căn, gốc căn, thì gọi là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi hình-thể cái tai như
lá mới cuốn; bốn trần của phù-căn rong-ruổi chạy theo tiếng.
Do
hai thứ thông và bịt, phát-hiện lẫn nhau, nơi tính diệu-viên, làm dính tính
yên-lặng, phát ra cái ngữi; cái ngửi ánh ra thành hương, thu-nạp cái hương
thành căn, gốc căn, thì gọi đó là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi hình-thể cái mủi
như hai móng tay rủ xuống; bốn trần của phù-căn rong-ruổi chạy theo hương.
Do
hai thứ nhạt và có vị, tham-chước lẫn nhau, nơi tính diệu-viên, làm dính tính
yên-lặng, phát ra cái nếm; cái nếm ánh ra thành vị, thưởng-thức cái vị thành,
thưởng-thức cái vị thành căn, gốc căn, thì gọi là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi
là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi hình-thể cái lưỡi như mặt trăng mới khuyết; bốn
trần của phù-căn rong-ruổi chạy theo vị.
Do
hai thứ ly và hợp, so-sánh lẫn nhau, nơi tính diệu-viên, làm dính tính yên-lặng,
phát ra cái biết xúc; cái biết xúc ánh ra thành xúc, ôm-nắm cái xúc thành căn,
gốc căn, thì gọi là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi hình-thể cái thân như dáng trống
cơm, bốn trần của phù-căn rong-ruổi chạy theo xúc.
Do
hai thứ sinh và diệt, tiếp-tục lẩn nhau, nơi tính diệu-viên, làm dính tính
yên-lặng, phát ra cái biết; cái biết ánh ra thành các pháp, tóm-thu các pháp
thành căn, gốc căn, thì gọi là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi cái ý như cái thấy
trong phòng tối; bốn trần của phù-căn rong-ruổi chạy theo pháp".
"A-nan,
sáu căn như vậy do tính giác-minh kia chuyển thành minh-giác, mất tính sáng-suốt,
dính với cái vọng mà phát ra hay-biết. Vậy nên ông nay rời sáng rời tối, thì
không có cái thấy, rời động rời tĩnh, thì không có cái nghe, không thông không
bịt, thì cái ngửi không sinh, không vị không nhạt, thì cái nếm không phát ra,
không ly không hợp, thì cái biết xúc vốn không, không diệt không sinh, thì cái
rõ-biết không gá vào đâu.
Ông
chỉ đi theo những động-tĩnh, hợp-ly, không vị có vị, thông bịt, sáng tối, sinh
diệt, cả mười hai tướng hữu-vi đó, đi đến rút được một căn ra khỏi cái dính, phục
vào bên trong, phục trở về tính bản-chân, phát ra tính sáng-suốt bản-lai; tính
sáng-suốt đó đã phát-minh, thì năm chỗ dính khác cũng liền đó được giải-thoát.
Không
do tiền-trần mà khởi ra tri-kiến thì cái sáng-suốt không đi theo căn, chỉ gửi
nơi căn mà phát ra; nhân đó sáu căn có thể dùng thay lẫn nhau.
A-nan,
há ông không biết ở trong Hội nầy, ông A-na-luật-đà không có mắt mà thấy, rồng
Bạt-nan-đà không có tai mà nghe, thần-nữ Căng-già không có mũi mà nghe hương,
ông Kiều-phạm-bát-đề không lưỡi mà biết vị, thần Thuấn-nhã-đa không có thân mà
biết xúc, do hào-quang Như-lai ánh ra, làm cho ông ấy tạm-thời hiện ra có thân,
chứ bản-chất của ông là gió, thì thân-thể vốn không có; các vị Thanh-văn được tịch-diệt
trong diệt-tận-định, như ông Ma-ha-ca-diếp trong Hội nầy, đã diệt ý-căn lâu rồi
mà vẫn rõ-biết cùng khắp, không nhân tâm-niệm.
A-nan,
nếu các căn của ông đều được giải-thoát trọn-đủ, thì cái sáng-suốt trong
tâm-tính phát ra; như thế, thì các phù-trần và các tướng biến-hoá trong thế-gian
sự vật đều tiêu mất, như giá gặp nước sôi, ngay đó, liền hóa-thành vô-thượng
tri-giác.
A-nan,
như người thế-gian kia, nhóm cái thấy nơi con mắt; nếu bảo nhắm kín, thì tướng
tối hiện ra, cả sáu căn đều tối, đầu và chân giống nhau. Người kia lấy tay rờ
quanh ngoài thân-thể, thì tuy không thấy, nhưng một phen nhận được đầu và chân
rồi, thì cái hay-biết vẫn đồng như trước kia.
Duyên
vì cái thấy nhân nơi sáng, nên khi tối thành ra không thấy, chứ không có sáng
mà tự phát ra cái thấy, thì các thứ tối hẳn không thể làm mờ được. Căn và trần
đã tiêu rồi, làm sao tính giác-minh lại không thành nhiệm-mầu cùng khắp".
Ông
A-nan bạch Phật rằng: "Bạch Thế-tôn, như lời Phật dạy, chỗ phát-tâm cầu được
thường-trụ trong lúc tu-nhân, cốt-yếu cần phải cân-xứng với những đức-tính
trong lúc chứng-quả. Bạch Thế-tôn, như trong quả-vị, nào là Bồ-đề, Niết-bàn,
Chân-như, Phật-tính, Am-ma-la-thức, Không-như-lai-tạng, Đại-viên-kính-trí; bảy
thứ danh-hiệu tuy có khác nhau, nhưng thể-tính đều thanh-tịnh viên-mãn, vững-chắc
như Kim-cương-vương, thường-trụ, không hư-nát.
Nếu
cái thấy nghe, ngoài những tướng sáng tối, động tĩnh, thông bịt, rốt-ráo không
có tự-thể cũng như cái tâm-niệm, rời tiền-trần ra, vốn không có gì, thì làm sao
lại đem cái rốt-ráo đoạn-diệt ấy làm cái nhân tu-hành, để được bảy quả thường-trụ
của Như-lai. Bạch Thế-tôn, nếu rời sáng tối, thì cái thấy rốt-ráo là không; nếu
không có tiền-trần, thì tự-tính tâm-niệm diệt mất, lui tới vần-xoay, suy-xét
chín-chắn, vốn không có tâm tôi và tâm sở của tôi; vậy đem cái gì làm nhân, để
cầu được vô-thượng-giác. Đức Như-lai trước kia nói cái tính hay-biết yên-lặng
là viên-mãn thường-trụ, nhưng đã trái với lẽ thường, thì rốt-cuộc chỉ thành hý-luận,
làm sao nhận được lời nói Như-lai là chân-thật. Xin Phật rủ lòng đại-từ, mở chỗ
mê-chấp cho tôi".
Phật
bảo ông A-nan rằng: "Ông học về mặt nghe nhiều, chưa hết các điều lậu-lạc,
trong tâm chỉ biết suông cái nhân điên-đảo mà cái điên-đảo hiện-thật trước đó
thì chưa biết được, e ông thành-thật còn chưa tin-phục. Nay tôi thử đem những
việc trần-tục để trừ cái nghi của ông." Khi bấy giờ, đức Như-lai bảo ông
La-hầu-la đánh một tiếng chuông, rồi hỏi ông A-nan rằng: "Nay ông có nghe
chăng?"
Ông
A-nan và đại-chúng đều nói: "Có nghe".
Chuông
hết kêu, không tiếng, Phật lại hỏi rằng: "Nay ông có nghe chăng?"
Ông
A-nan và đại-chúng đều đáp: "Không nghe".
Khi
đó, ông La-hầu-la lại đánh một tiếng, Phật lại hỏi rằng: "Nay ông có nghe
chăng?"
Ông
A-nan và đại-chúng đều đáp: "Có nghe".
Phật
hỏi ông A-nan: "Thế nào, thì ông có nghe, còn thế nào, thì ông không
nghe?"
Ông
A-nan và đại-chúng đều bạch Phật rằng: "Tiếng chuông nếu đánh lên, thì
chúng tôi được nghe; đánh lâu tiếng hết, tăm-vang đều không còn, thì gọi là
không nghe."
Như-lai
lại bảo ông La-hầu-la đánh chuông, rồi hỏi ông A-nan rằng: "Theo ông, nay
có tiếng không?"
Ông
A-nan và đại-chúng đều nói: "Có tiếng".
Ít
lâu tiếng dứt, Phật lại hỏi rằng: "Theo ông, nay có tiếng không?"
Ông
A-nan và đại-chúng đều đáp: "Không tiếng."
Lát
sau, ông La-hầu-la lại đánh chuông, Phật lại hỏi rằng: "Theo ông, nay có
tiếng không?"
Ông
A-nan và đại-chúng đều nói: "Có tiếng".
Phật
hỏi ông A-nan: "Thế nào, ông gọi là có tiếng, còn thế nào, thì gọi là
không tiếng?"
Ông
A-nan và đại-chúng đều bạch Phật rằng: "Tiếng chuông, nếu đánh lên, thì gọi
là có tiếng, đánh lâu tiếng hết, tăm-vang đều không còn, thì gọi là không tiếng".
Phật
bảo ông A-nan và đại-chúng rằng: "Hôm nay các ông sao nói trái-ngược, lộn-xộn
như thế?"
Đại-chúng
và ông A-nan đồng-thời bạch Phật: "Làm sao Phật bảo chúng tôi trái-ngược lộn-xộn?"
Phật
dạy: "Tôi hỏi ông về nghe, thì ông nói là nghe, tôi hỏi về tiếng, thì ông
nói là tiếng, chỉ cái nghe và cái tiếng mà trả lời không nhất-định như thế, sao
lại không gọi là trái-ngược lộn-xộn? A-nan, tiếng tiêu mất, không tăm vang, thì
ông gọi là không nghe; nếu thật không
nghe, thì tính-nghe đã diệt rồi đồng như cây khô, khi tiếng chuông lại đánh
lên, làm sao ông còn biết được. Biết có, biết không là tự cái tiếng hoặc không,
hoặc có, đâu phải tính-nghe kia vì đó mà có, mà không; nếu tính-nghe thật là
không, thì còn cái gì biết là không nữa.
Vậy
nên A-nan, cái tiếng ở trong cái nghe tự có sinh, có diệt, không phải vì ông
nghe cái tiếng sinh diệt, mà làm cho tính-nghe của ông thành có, thành không.
Ông còn lộn-lạo, lầm cái tiếng làm cái nghe, lạ gì chẳng mê mờ, lấy cái thường
làm cái đoạn. Tóm lại, ông không nên nói rằng rời các thứ động tĩnh, đóng mở,
thông bịt, thì cái nghe không có tính.
Như
người ngủ mê, nằm trên giường gối; trong nhà có người, trong lúc người kia ngủ,
giã một cối gạo; người ấy trong chiêm-bao nghe tiếng giã gạo, lầm thành vật
khác, hoặc cho là đánh trống, hoặc cho là đánh chuông. Tức trong chiêm-bao người
ấy cũng lấy làm lạ rằng sao tiếng chuông lại vang lên như cây, như đá. Khi chợt
tỉnh-dậy, liền nghe tiếng chày, thì người ấy tự bảo người nhà rằng chính trong
lúc chiêm-bao, tôi đã lầm tiếng chày nầy là tiếng trống. A-nan, người đó, trong
chiêm-bao, đâu nhớ những chuyện động tĩnh, đóng mở, thông-bịt; hình người kia
tuy ngủ nhưng tính-nghe không mờ, dầu cho hình ông tiêu-tan, thân-mạng dời-đổi
diệt mất, làm sao tính-nghe ấy lại vì ông mà tiêu-diệt được.
Do
các chúng-sinh, từ vô-thủy đến nay, đi theo sắc thanh, theo niệm mà lưu-chuyển,
không hề khai-ngộ bản-tính thanh-tịnh diệu-thường; không theo cái thường, chỉ
theo các thứ sinh-diệt, do đó, đời đời bị tạp-nhiễm mà phải lưu-chuyển.
Nếu
bỏ cái sinh-diệt, giữ tính chân-thường; cái sáng-suốt chân-thường hiện-tiền,
thì các tâm-niệm căn, trần, thức, ngay đó đều tiêu mất; tướng vọng-tưởng là trần,
tính phân-biệt là cấu, hai cái đó đã xa-rời, thì pháp-nhãn của ông liền được
trong-suốt, làm sao lại không thành bậc vô-thượng tri-giác?"
CHỈ
CHÂN VÀ VỌNG KHÔNG CÓ TÍNH,
HỄ
THEO TÍNH VIÊN THÔNG CỞI NÚT THÌ XOAY VỀ BẢN GIÁC
Ông
A-nan bạch Phật rằng : "Thưa Thế-tôn, tuy Như-lai đã dạy nghĩa quyết-định
thứ hai, song tôi xem trong thế-gian, những người cởi nút, nếu không biết đầu
nút ở đâu, thì chắc không thể cởi được. Bạch Thế-tôn, tôi và các hàng hữu-học
Thanh-văn trong Hội nầy cũng giống như vậy. Từ vô-thủy đến nay, chúng tôi cùng
sinh, cùng diệt với các thứ vô-minh, tuy được thiện-căn nghe nhiều Phật-pháp thế
nầy, nhưng tiếng là xuất-gia mà cũng như người sốt-rét cách nhật; xin nguyện đức
Đại-từ thương-xót kẻ chìm-đắm, chính nơi thân tâm hiện nay, chỉ cho chúng tôi
thế nào là nút, do đâu mà cởi, cũng khiến cho chúng-sinh khổ-não vị-lai được khỏi
luân-hồi, không sa vào ba cõi."
Nói
lời ấy rồi, ông A-nan và cả đại-chúng, năm vóc gieo xuống đất, khóc-lóc
thành-khẩn, trông-mong lời khai-thị vô-thượng của đức Như-lai.
Khi
bấy giờ, đức Thế-tôn thương-xót ông A-nan và hàng hữu-học trong Hội, lại cũng
vì tất-cả chúng-sinh đời vị-lai tạo cái nhân xuất-thế, làm cái đạo-nhãn
tương-lai; Ngài dùng tay sáng-ngời xoa đỉnh-đầu ông A-nan. Liền khi ấy, trong tất-cả
thế-giới, chư Phật mười phương, sáu thứ rung-động; các đức Như-lai, số như
vi-trần; trong các cõi ấy, mỗi Ngài đều có hào-quang báu từ nơi đỉnh-đầu phát
ra; hào-quang ấy, đồng một thời từ các cõi kia đến rừng Kỳ-đà, soi nơi đỉnh-đầu
của đức Như-lai; tất-cả đại-chúng đều được cái chưa từng có.
Khi
bấy giờ, ông A-nan và cả đại-chúng đều nghe các đức Như-lai mười phương, số như
vi-trần, tuy khác miệng, nhưng đồng một lời, bảo ông A-nan rằng: "Hay thay
cho A-nan! Ông muốn biết cái câu-sinh vô-minh là cái đầu nút, khiến ông phải
luân-hồi sinh tử, thì nó chính là sáu căn của ông, chứ không phải vật gì khác;
ông lại muốn biết tính vô-thượng Bồ-đề, khiến ông chóng chứng đạo-quả an-vui,
giải-thoát, vẳng-lặng, diệu-thường, thì cũng chính là sáu căn của ông, chứ
không phải vật gì khác".
Ông
A-nan, tuy được nghe pháp-âm như vậy, tâm còn chưa rõ, cúi đầu bạch Phật:
"Làm sao cái khiến cho tôi bị luân-hồi, sống chết hay được an-vui, diệu-thường,
cũng đều là sáu căn, chứ không phải vật gì khác?"
Phật
bảo ông A-nan: "Căn và trần, đồng một nguồn, cột và cởi không phải hai,
cái thức phân-biệt là luống-dối như hoa-đốm giữa hư-không. A-nan, nhân cái trần,
mà phát ra cái biết của căn, nhân cái căn, mà có ra cái tướng của trần, tướng-phần
sở-kiến và kiến-phần năng-kiến đều không có tự-tính, như những hình cây lau gác
vào nhau.
Vậy
nên nay ông chính nơi tri-kiến, lập ra tướng tri-kiến, thì tức là cỗi-gốc
vô-minh; chính nơi tri-kiến, không có tướng tri-kiến, thì đó là vô-lậu chân-tịnh
Niết-bàn, làm sao trong ấy lại còn có vật gì khác."
Khi
bấy giờ, đức Thế-tôn muốn lặp lại nghĩa nầy mà nói bài kệ rằng:
"Nơi
chân-tính hữu-vi là không,
Vì
duyên-sinh, nên giống như-huyễn;
Vô-vi,
thì không sinh, không diệt,
Chẳng
thật như hoa-đốm hư-không.
Nói
cái vọng để tỏ cái chân,
Vọng,
chân ấy, cả hai đều vọng;
Còn
không phải chân và phi-chân,
Làm
sao có năng-kiến, sở-kiến,
Thức
ở giữa, không có thật-tính,
Vậy
nên, như hình lau gác nhau.
Cột
và cởi đồng một sở-nhân,
Thánh
và phàm không có hai đường.
Hãy
xét tính hình lau gác nhau,
Đâu
phải là không hay là có.
Mê-mờ
nghĩa đó, là vô-minh,
Phát-minh
nghĩa đó, thì giải-thoát.
Cởi
nút, tuy phải theo thứ lớp,
Sáu
đã cởi, một cũng không còn.
Nơi
các căn, chọn tính viên-thông,
Nhập-lưu
được, thì thành chánh-giác.
Thức
A-đà-na rất nhỏ-nhiệm,
Tập-khí
lưu-hành như nước dốc;
E
lầm là chân hay phi-chân,
Nên
tôi thường không diễn-giảng đến,
Tự-tâm
trở-chấp lấy tự-tâm,
Không
phải huyễn, thành ra pháp-huyễn.
Không
chấp-trước, không gì phi-huyễn
Cả
cái phi-huyễn còn không sinh,
Pháp-huyễn,
làm sao thành-lập được.
Ấy
gọi như-huyễn Tam-ma-đề,
Bảo-giác
chắc như Kim-cương-vương,
Không
nhiễm, tịnh như diệu-liên-hoa;
Gẩy
ngón tay, vượt hàng vô-học;
Pháp
ấy, không gì so-sánh được,
Là
một đường thẳng vào Niết-bàn,
Của
các đức Thế-tôn mười phương".
(Chơn
tánh hữu vi không,
Duyên
sanh cố như huyễn,
Vô
vi vô khởi diệt,
Bất
thật như không hoa.
Ngôn
vọng hiển chư chơn,
Vọng
chơn đồng nhị vọng,
Do
phi chơn phi chơn,
Vân
hà kiến sở kiến?
Trung
gian vô thật tánh,
Thị
cố nhược giao lô.
Kết
giải đồng sở nhơn,
Thánh
phàm vô nhị lộ.
Nhữ
quán giao trung tánh,
Không
hữu nhị cu phi,
Mê
hối tức vô minh,
Phát
minh tiện giải thoát.
Giải
kiết nhân thứ đệ,
Lục
giải nhứt diệc vong,
Căn
tuyển trạch viên thông,
Nhập
lưu thành chánh giác.
Đà-na
vi tế thức,
Tập
khí thành bộc lưu.
Chơn
phi chơn khủng mê,
Ngã
thường bất khai diễn.
Tự
tâm thủ tự tâm,
Phi
huyễn thành huyễn pháp,
Bất
thủ vô phi huyễn,
Phi
huyễn thượng bất sanh,
Huyễn
pháp vân hà lập?
Thị
danh diệu liên hoa,
Kim
cang vương bảo giác.
Như
huyễn tam-ma-đề,
Đờn
chỉ siêu vô học.
Thử
A-tì-đạt-ma,
Thập
phương Bạc-già-phạm,
Nhất
lộ niết-bàn môn.)
Lúc
ấy, ông A-nan và cả đại-chúng nghe lời từ-bi dạy-bảo của Phật, kệ-tụng
tinh-túy, diệu-lý trong-suốt, tâm được khai-ngộ, đồng tán-thán là pháp chưa từng
có.
Ông
A-nan chấp tay đỉnh-lễ bạch Phật: "Nay tôi nghe Phật mở lòng vô-giá đại-từ
dạy cho những câu pháp chân-thật thanh-tịnh diệu-thường, nhưng tâm còn chưa rõ
thứ lớp cởi nút, đi đến cởi cả sáu, thì một cũng không còn, xin Phật rủ lòng đại-bi
thương-xót trong Hội nầy và những kẻ tương-lai, bố-thí cho pháp-âm, rửa-sạch những
cấu-nhiễm trầm-trọng của chúng tôi.
Liền
khi ấy đức Như-lai, nơi sư-tử-tọa, sửa áo niết-bàn-tăng, vén áo tăng-già-lê, dựa
ghế thất-bảo, đưa tay nơi ghế, lấy cái khăn-hoa của cõi trời Kiếp-ba-la đã cúng
cho ngài, rồi ở trước đại-chúng, cột thành một nút, đưa cho ông A-nan xem và bảo
rằng: "Cái nầy gọi là gì?" Ông A-nan và đại-chúng đều bạch Phật rằng:
"Cái nầy gọi là nút". Lúc ấy đức Như-lai lại cột khăn-hoa thành một
nút nữa và hỏi ông A-nan: "Cái nầy gọi là gì?". Ông A-nan và đại-chúng
lại bạch Phật rằng: "Cái ấy cũng gọi là nút". Phật tuần-tự cột
khăn-hoa như vậy, tổng-cộng thành sáu nút, mỗi khi cột xong một nút, đều lấy
cái nút vừa cột xong trong tay, đưa hỏi ông A-nan: "Cái nầy gọi là gì?"
Ông A-nan và đại-chúng cũng tuần-tự đáp lại Phật: "Cái ấy gọi là
nút". Phật bảo ông A-nan: "Khi tôi mới cột khăn thì ông gọi là nút,
cái khăn-hoa này, trước kia chỉ có một cái, cớ sao lần thứ hai, lần thứ ba, các
ông cũng gọi là nút?"
Ông
A-nan bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, cái khăn-hoa thêu-dệt quý-báu nầy vốn
chỉ một thể, song theo ý tôi suy-nghĩ, Như-lai cột một lần, thì được gọi là một
nút, nếu cột một trăm lần, thì rốt-cuộc phải gọi là trăm nút, huống chi, khăn nầy
chỉ có sáu nút, không lên đến bảy, cũng không đứng ở số năm, sao đức Như-lai chỉ
cho cái đầu là nút, còn cái thứ hai, thứ ba, thì không gọi là nút?"
Phật
bảo ông A-nan: "Cái khăn-hoa báu nầy, ông biết nó vốn chỉ có một cái, đến
khi tôi cột sáu lần, thì ông gọi là sáu nút; ông hãy xem-xét bản-thể cái khăn nầy
là đồng, nhân vì các nút mà hóa ra khác. Ý ông nghĩ sao, khi mới cột nút ban-đầu,
thì gọi là nút thứ nhất, như thế, cho đến cột lần thứ sáu, thì gọi là nút thứ
sáu. Nay, tôi muốn gọi nút thứ sáu là nút thứ nhất, có được không?"
Bạch
Thế-tôn, không; nếu còn sáu nút, thì cái gọi là thứ sáu, rốt-cuộc không phải là
cái thứ nhất; dầu cho tôi cố-gắng biện-bạch suốt đời, cũng không thể làm cho
sáu nút đổi tên được".
Phật
dạy: "Đúng thế, sáu nút không đồng nhau; tuy xét về bản-thân, vẫn do một
cái khăn tạo ra, nhưng rốt-cuộc không thể làm cho sáu nút xáo-lộn lẫn nhau. Sáu
căn của ông thì cũng như vậy; trong thể ráo-rốt đồng nhau, sinh ra rốt-ráo khác
nhau".
Phật
bảo ông A-nan: "Chắc hẳn ông không muốn thành ra sáu nút và trông mong chỉ
thành một thể, thì ông phải làm thế nào?".
Ông
A-nan bạch: "Nếu còn những nút đó, thì thị phi sôi-nổi, trong đó, tự sinh
ra nút nầy không phải nút kia, nút kia không phải nút nầy. Nếu ngày nay, đức
Như-lai cởi-bỏ tất-cả, không sinh nút nữa thì, không có bỉ thử, còn không gọi
là một, làm sao mà thành sáu được".
Phật
dạy: "Cái nghĩa cởi cả sáu, một cũng không còn, thì cũng như thế. Do từ
vô-thủy, tâm ông điên-loạn, tri-kiến vọng-phát ra, vọng-phát mãi không thôi,
làm cho tri-kiến sinh bệnh, phát ra trần-tướng; như trông con mắt mỏi-mệt, thì
có hoa-đốm lăng-xăng; tất-cả những tướng thế-gian, núi sông, đất liền, sống chết,
Niết-bàn, không nhân gì rối-rít khởi lên, trong tính sáng-suốt yên-lặng, đều là
những tướng hoa-đốm điên-đảo do bệnh mê-lầm phát-ra".
Ông
A-nan bạch: "Cái bệnh mê-lầm giống như cái nút kia, làm sao cởi-bỏ cho được?"
Đức
Như-lai, lấy tay cầm cái khăn có nút, kéo riêng mối bên trái, rồi hỏi ông A-nan
rằng: "Thế nầy có cởi được chăng?"
Thưa
Thế-tôn, không.
Phật
liền lấy tay kéo riêng mối bên phải, rồi lại hỏi ông A-nan: "Thế nầy có cởi
được chăng?"
Thưa
Thế-tôn, không.
Phật
bảo ông A-nan: "Nay tôi lấy tay kéo mối bên phải, bên trái mà rốt-cuộc
không cởi được, vậy ông dùng phương-tiện thế nào mà cởi cho được".
Ông
A-nan bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, nên mở nơi trung-tâm cái nút thì
tan-rã ngay".
Phật
bảo ông A-nan: "Đúng thế, đúng thế, muốn trừ cái nút thì phải cởi nơi
trung-tâm.
A-nan,
tôi nói Phật-pháp do nhân-duyên sinh, không phải lấy những tướng hòa-hợp
thô-phù của thế-gian. Như-lai phát-minh các pháp thế-gian và xuất-thế-gian, đều
biết rõ bản-nhân của nó theo những duyên gì mà phát ra, cho đến một giọt mưa ở
ngoài hằng-sa thế-giới cũng biết số-mục, hiện-tiền các thứ cây tùng thẳng, cây
gai cong, chim hộc trắng, chim quạ đen, đều rõ nguyên-do. Vậy nên A-nan, tùy
tâm ông lựa-chọn nơi sáu căn; nếu trừ được cái nút nơi căn ấy rồi, thì trần-tướng
tự tiêu-diệt; các vọng đã tiêu-mất, thì chả phải chân là gì.
"A-nan,
nay tôi lại hỏi ông: "Cái khăn-hoa nầy hiện có sáu nút, nếu đồng một thời
cởi ra, thì có thể đồng một thời trừ hết được chăng?"
-Thưa
Thế-tôn, không. Những cái nút nầy, khi cột lại, vốn có thứ lớp, thì ngày nay
cũng theo thứ lớp mà cởi; sáu cái nút tuy đồng một thể, nhưng cột lại không đồng
một thời, thì khi cởi nút, làm sao đồng một thời, mà trừ hết được?
Phật
dạy: "Việc cởi-trừ cái nút nơi sáu căn cũng giống như vậy. Căn ấy khi bắt
đầu cởi ra, thì trước hết được nhân-không, đến khi tính-không viên-mãn sáng-suốt,
thì giải-thoát pháp-chấp. Pháp-chấp được giải-thoát rồi, cả cái nhân-không và
pháp-không cũng không còn; thế thì gọi là Bồ-tát do Tam-ma-đề mà chứng được
vô-sinh-nhẫn".
TRÌNH
BÀY CHỖ NGỘ,
XIN
CHỈ DẠY CĂN TÍNH VIÊN THÔNG
Ông
A-nan và cả đại-chúng, nhờ Phật khai-thị, tuệ-nhãn được viên-dung, thông-suốt,
không còn điều gì nghi-hoặc, đồng-thời chấp tay, đỉnh-lễ nơi hai chân mà bạch
Phật rằng: "Ngày nay, chúng tôi thân tâm sáng-suốt, chóng được vô-ngại;
song tuy ngộ được cái nghĩa một và sáu đều không còn, nhưng còn chưa rõ
căn-tính bản-lai viên-thông. Thưa Thế-tôn, chúng tôi xiêu-giạt bơ-vơ nhiều kiếp,
ngờ đâu lại được dự vào dòng giống của Phật, như đứa con mất sữa, bổng-nhiên gặp
được từ-mẫu. Nếu nhân cơ-hội nầy mà được thành-đạo, chỗ bản-ngộ phù-hợp với đạo-lý
vi-diệu đã được nghe, thì cùng với những người chưa nghe, không có sai-khác.
Xin Phật rủ lòng đại-bi ban cho chúng tôi những pháp bí-mật trang-nghiêm;
thành-tựu lời chỉ-dạy cuối-cùng của Như-lai." Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo
xuống đất, lui về an-trụ nơi cơ-cảm sâu-nhiệm, trông mong Phật tâm-truyền cho.
Khi
bấy giờ, đức Thế-tôn bảo khắp các vị Đại-bồ-tát và các vị lậu-tận Đại-a-la-hán
trong chúng rằng: "Các ông là những vị Bồ-tát và A-la-hán sinh-trưởng
trong Phật-Pháp, đã chứng-quả vô-học, nay tôi hỏi các ông: Trong lúc ban-đầu mới
phát-tâm, trong thập-bát-giới, ngộ được viên-thông ở giới nào và do phương-tiện
gì được Tam-ma-đề?"
1. Bọn ông Kiều-trần-na
VIÊN THÔNG VỀ THANH TRẦN
Bọn
ông Kiều-trần-na, năm vị tỷ-khưu, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân
Phật mà bạch Phật rằng: "Ở Lộc-uyển và ở Kê-viên, chúng tôi được xem thấy
đức Như-lai khi mới thành-đạo. Chúng tôi do tiếng nói của Phật, tỏ-ngộ được Tứ-đế.
Phật hỏi trong hàng tỷ-khưu, thì trước tiên tôi thưa đã hiểu. Như-lai ấn-chứng
cho tôi cái tên là A-nhã-đa. Đi sâu vào bản-tính nhiệm-mầu, thì âm-thanh thật
là viên-dung; tôi do âm-thanh mà được quả A-la-hán. Phật hỏi về viên-thông, như
chỗ chứng của tôi, thì do âm-thanh là hơn cả".
2. Ông Ưu-ba-ni-sa-đà
VIÊN THÔNG VỀ SẮC TRẦN
Ông
Ưu-ba-ni-sa-đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
"Tôi cũng được thấy Phật trong lúc mới thành-đạo; tôi quán-tưởng bất-tịnh,
sinh lòng nhàm-chán rời-bỏ tột bậc, ngộ cái tính của các sắc, từ tướng bất-tịnh
đến tướng xương-trắng, tướng vi-trần, rồi tan về hư-không; cả hai cái không và
cái sắc đều không, thành-đạo vô-học. Đức Như-lai ấn-chứng cho tôi cái tên là
Ni-sa-đà; sắc của trần-cảnh đã hết, sắc của tính-diệu được mật-viên. Tôi do sắc-tướng
mà chứng-quả A-la-hán. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì do sắc-trần
là hơn cả".
3. Ông Hương-nghiêm-đồng-tử
VIÊN THÔNG VỀ HƯƠNG TRẦN
Ông
Hương-nghiêm-đồng-tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch
Phật rằng : "Tôi nghe đức Như-lai dạy tôi quan-sát chín-chắn các tướng hữu-vi.
Khi ấy tôi từ-giả Phật, đầu-hôm về tĩnh-tọa trong nhà thanh-trai, thấy các tỷ-khưu
đốt hương trầm-thủy, hơi hương vẳng-lặng bay vào trong mũi tôi. Tôi quán cái
hơi ấy, không phải là cây, không phải là không, không phải là khói, không phải
là lửa, đi ra không dính vào đâu, đến nơi cũng không do đâu; do đó, ý-niệm
phân-biệt tiêu-diệt, phát-minh tính vô-lậu. Đức Như-lai ấn-chứng cho tôi cái hiệu
là Hương-nghiêm. Tướng hương tiền-trần bổng diệt, thì diệu-tính của hương là mật-viên.
Tôi do hương-nghiêm mà chứng-quả A-la-hán. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng
của tôi, thì do hương-trần là hơn cả".
4. Hai vị Pháp-vương-tử Dược-vương, Dược-thượng
VIÊN THÔNG VỀ VỊ TRẦN
Hai
vị Pháp-vương-tử Dược-vương, Dược-thượng, cùng với năm trăm Phạm-thiên trong Hội,
liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Từ kiếp
vô-thủy, chúng tôi làm lương-y thế-gian, trong miệng thường nếm những cỏ cây,
kim thạch trong thế-giới Sa-bà nầy, số-mục lên đến mười vạn tám nghìn, biết hết
các vị đắng, chua, mặn, nhạt, ngọt, cay vân vân..., cùng với các vị biến-đổi,
do các vị kia hòa-hợp cùng sinh ra; thứ nào là lạnh, thứ nào là nóng, thứ nào
có độc, thứ nào không độc, tôi đều biết cả. Được thừa-sự các đức Như-lai, rõ-biết
bản-tính của vị-trần, không phải không, không phải có, không phải tức là thân
tâm, không phải thoát-ly thân tâm; do phân-biệt đúng bản-tính vị-trần mà được
khai-ngộ. Nhờ Phật ấn-chứng cho anh em chúng tôi cái danh-hiệu là Dược-vương và
Dược-thượng Bồ-tát; nay ở trong Hội nầy làm vị Pháp-vương-tử. Chúng tôi nhân
vi-trần mà giác-ngộ, lên bậc Bồ-tát. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của
chúng tôi, thì do vị-trần là hơn cả".
5. Ông Bạt-đà-bà-la
VIÊN THÔNG VỀ XÚC TRẦN
Ông
Bạt-đà-bà-la, với mười sáu vị Khai-sĩ đồng-bạn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ
nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Bọn tôi, trước kia nơi đức Phật
Uy-âm-vương, nghe Pháp xuất-gia. Trong lúc chư tăng tắm, tôi theo thứ lớp vào
phòng tắm; bỗng nhiên ngộ được chân-tính của nước, đã không rửa bụi, cũng không
rửa mình, chặng giửa yên-lặng, được chỗ không có gì. Túc-tập không quên, nên đến
ngày nay theo Phật xuất-gia, được thành quả vô-học. Đức Phật kia, gọi tôi tên
là Bạt-đà-bà-la. Do phát-minh diệu-tính của xúc-trần, thành được bậc Phật-tử-trụ.
Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì do xúc-trần là hơn cả."
6. Ông Ma-ha-ca-diếp và bà Tử-Kim-quang tỷ-khưu-ny
VIÊN THÔNG VỀ PHÁP TRẦN
Ông
Ma-ha-ca-diếp và bà Tử-Kim-quang tỷ-khưu-ny, ... liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ
nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Kiếp xưa, trong cõi nầy, có đức Phật ra
đời, tên là Nhựt-nguyệt-đăng diệt-độ rồi, chúng tôi thắp đèn sáng mãi cúng-dàng
xá-lợi, lại lấy vàng-thắm thếp hình-tượng Phật. Từ đó đến nay, đời nào đời nào,
thân-thể thường viên-mãn, sáng-ngời như vàng-thắm. Bọn Tử-kim-quang tỷ-khưu-ny
nầy, tức là quyến-thuộc của tôi lúc đó, cũng đồng một thời phát-tâm như tôi.
Tôi quán trong thế-gian, sáu trần đều dời-đổi tan-nát, chí dùng pháp không-tịch,
tu định diệt-tận, thì thân tâm mới có thể trải qua trăm nghìn kiếp như một thời-gian
gẩy ngón tay. Tôi do quán được các pháp là rỗng-không, mà thành quả A-la-hán. Đức
Thế-tôn bảo tôi tu hạnh đầu-đà bậc nhất. Diệu-tính của các pháp được khai-ngộ,
thì tiêu-diệt các lậu. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì do
pháp-trần là hơn cả."
7. Ông A-na-luật-đà
VIÊN THÔNG VỀ NHÃN CĂN
Ông
A-na-luật-đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
"Lúc tôi mới xuất-gia, thường thích
nằm ngủ, nên đức Như-lai quở tôi là loài súc-sinh. Nghe lời Phật quở,
tôi khóc-lóc tự-trách, suốt bảy ngày không ngủ, hư cả hai con mắt. Đức Thế-tôn
dạy tôi tu pháp "Lạc-kiến chiếu-minh kim-cương tam-muội". Tôi không
do con mắt, xem thấy mười phương rỗng-suốt tinh-tường như xem cái quả trong bàn
tay; đức Như-lai ấn-chứng cho tôi thành quả A-la-hán. Phật hỏi về viên-thông,
như chỗ chứng của tôi, thì xoay cái thấy trở về bản-tính, đó là thứ nhất".
8. Ông Chu-lỵ-bàn-đặc-ca
VIÊN THÔNG VỀ TỶ CĂN
Ông
Chu-lỵ-bàn-đặc-ca liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật
rằng: "Tôi thiếu tụng-trì, không có tuệ đa-văn. Khi mới gặp Phật, nghe
Pháp và xuất-gia, tôi cố nhớ một câu kệ của Như-lai, song trong một trăm ngày,
hễ nhớ trước thì quên sau, mà nhớ sau thì quên trước. Phật thương tôi ngu-muội,
dạy tôi phép an-cư, điều-hòa hơi-thở ra vào. Tôi quán hơi-thở, cùng-tột các tướng
sinh, trụ, dị, diệt nhỏ-nhiệm, đến từng sát-na; tâm tôi rỗng-suốt, được đại-vô-ngại,
cho đến hết các lậu, thành quả A-la-hán, trước pháp-tọa của Phật, được ấn-chứng
thành quả vô-học. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì xoay
hơi-thở về tính rỗng không, đó là thứ nhất."
9. Ông Kiều-phạm-bát-đề
VIÊN THÔNG VỀ THIỆT CĂN
Ông
Kiều-phạm-bát-đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật
rằng: "Tôi mắc khẩu-nghiệp, khinh-rẻ, chế-giễu vị sa-môn trong kiếp quá-khứ,
nên đời đời mắc bệnh nhai lại như trâu. Đức Như-lai chỉ-dạy cho tôi pháp-môn
"Nhất-vị thanh-tịnh tâm-địa". Tôi nhờ vậy, mà diệt được phân-biệt vào
Tam-ma-đề; tôi quán tính-biết-vị, không phải thân-thể, không phải ngoại-vật, liền
đó vượt khỏi các lậu thế-gian, bên trong giải-thoát thân tâm, bên ngoài rời-bỏ
thế-giới, xa-rời ba cỏi như chim sổ lồng, rời hết cấu-nhiễm, tiêu-diệt trần-tướng,
nên pháp-nhãn được thanh-tịnh, thành quả A-la-hán. Đức Như-lai ấn-chứng cho tôi
lên bậc vô-học. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, trả các vị về
phân-biệt, xoay cái biết về tự-tính, đó là thứ nhất."
10. Ông Tất-lăng-già-bà-ta
VIÊN THÔNG VỀ THÂN CĂN
Ông
Tất-lăng-già-bà-ta liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật
rằng: "Tôi lúc mới phát-tâm theo Phật nhập-đạo, thường nghe đức Như-lai dạy
về những việc không vui được trong thế-gian. Lúc đi khất-thực trong thành, tâm
tôi đang suy-nghĩ pháp-môn Phật dạy, giữa đường, không ngờ bị gai-độc đâm vào
chân, cả mình đau-đớn. Tâm-niệm tôi có biết cái đau-đớn ấy; tuy biết đau-đớn
nhưng đồng-thời giác-biết nơi tâm thanh-tịnh, không có cái đau và cái biết đau.
Tôi lại suy-nghĩ: Một thân-thể này, lẽ đâu có hai tính-biết; nhiếp-niệm chưa
bao lâu, thì thân tâm bỗng-nhiên rỗng-không; trong ba lần bảy ngày, các lậu đều
tiêu hết, thành quả A-la-hán; được Phật ấn-chứng lên bậc vô-học. Phật hỏi về
viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì thuần một giác-tính, rời-bỏ thân-thể, đó
là thứ nhất."
11. Ông Tu-bồ-đề
VIÊN THÔNG VỀ Ý CĂN
Ông
Tu-bồ-đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lể nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
"Từ nhiều kiếp đến nay, tâm tôi được vô-ngại, tự nhớ thụ-sinh nhiều đời
như số cát sông Hằng; lúc còn trong thai mẹ, cũng liền biết tính không-tịch,
như thế cho đến mười phương đều thành rỗng-không và cũng khiến cho chúng-sinh
chứng được tính-không; nhờ đức Như-lai phát-minh tính-giác là chân-không, nên
tính-không được viên-mãn sáng-suốt, chứng quả A-la-hán, liền vào bảo-minh-không-hải
của Như-lai, tri-kiến đồng như Phật, được ấn-chứng thành quả vô-học; tính giải-thoát
rỗng-không, tôi là hơn cả. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi: Các
tướng đều xoay vào phi-tướng, năng-phi và sở-phi đều hết, xoay các pháp trở về
chỗ không có gì, đó là thứ nhất."
12. Ông Xá-lỵ-phất
VIÊN THÔNG VỀ NHÃN THỨC
Ông
Xá-lỵ-phất liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
"Từ nhiều kiếp đến nay, chỗ nhận-thấy của tôi được thanh-tịnh; tuy tôi thụ-sinh
nhiều đời như số cát sông Hằng như vậy, mà đối với các pháp biến-hóa thế-gian
và xuất-thế-gian, hễ thấy được đều thông-suốt, không có ngăn-ngại. Tôi ở giữa
đường, gặp anh em ông Ca-diếp-ba theo rõi, nói pháp nhân-duyên, thì ngộ được
tâm không có bờ-bến. Tôi theo Phật xuất-gia, chỗ nhận-thấy sáng-suốt viên-mãn,
được pháp đại-vô-úy, thành quả A-la-hán, làm trưởng-tử của Phật, từ miệng Phật
mà sinh ra, do Pháp-Phật mà hóa-sinh. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của
tôi, thì tính-thấy của tâm-thể phát ra sáng-suốt, cùng-tột các tri-kiến, đó là
thứ nhất."
13.
Ngài Phổ hiền Bồ tát
VIÊN
THÔNG VỀ NHĨ THỨC
Ngài
Phổ-hiền Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
"Tôi đã từng làm Pháp-vương-tử cho các đức Như-lai như số cát sông Hằng;
thập phương Như-lai dạy các đệ-tử có căn-cơ Bồ-tát, tu hạnh Phổ-hiền, hạnh đó,
do tôi mà đặt tên như vậy. Thưa đức Thế-tôn, tôi dùng tính-nghe của tâm-thể
phân-biệt tất-cả tri-kiến của chúng-sinh. Nếu ở phương khác, cách ngoài hằng-sa
thế-giới, có một chúng-sinh, trong tâm phát được hạnh-nguyện Phổ-hiền, thì liền
trong lúc ấy, tôi cưỡi voi sáu ngà, phân-thân thành trăm nghìn, đến chỗ người ấy.
Dầu cho người ấy nghiệp-chướng còn sâu, chưa thấy được tôi, tôi cũng thầm-kín
xoa đỉnh-đầu người ấy, ủng-hộ an-ủi, khiến cho được thành-tựu. Phật hỏi về
viên-thông, tôi nói chỗ bản-nhân của tôi là phát-minh tính-nghe của tâm-thể,
phân-biệt được tự-tại, đó là thứ nhất."
14.
Ông Tôn-đà-la-nan-đà
VIÊN
THÔNG VỀ TỶ THỨC
Ông
Tôn-đà-la-nan-đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật
rằng: "Lúc tôi mới xuất-gia theo Phật nhập-đạo, tuy giữ đủ giới-luật, nhưng
trong lúc tu Tam-ma-đề, tâm thường tán-loạn, chưa được quả vô-lậu. Đức Thế-tôn
dạy tôi và ông Câu-si-la quán đầu lỗ-mũi-trắng. Lúc tôi bắt đầu tu quán ấy, trải
qua ba lần bảy ngày, thấy hơi-thở trong mũi ra vào như khói, thân tâm bên trong
sáng-soi thông-suốt thế-giới, khắp nơi thành trống-không thanh-tịnh, như ngọc
lưu-ly; tướng khói lần lần tiêu mất, hơi-thở hóa thành trắng, đến khi tâm được
khai-ngộ, các lậu hết sạch, thì những
hơi-thở ra vào hóa-thành hào-quang, soi khắp thập phương thế-giới, được quả
A-la-hán. Đức Thế-tôn thụ-ký cho tôi sẽ được quả Bồ-đề. Phật hỏi về viên-thông,
tôi dùng phép nhiếp-thu ý-niệm nơi hơi-thở, yên-lặng lâu ngày, phát ra sáng-suốt,
sáng-suốt viên-mãn, diệt hết các lậu, đó là thứ nhất."
15.
Ông Phú-lâu-na-di-đa-la-ni-tử
VIÊN
THÔNG VỀ THIỆT THỨC
Ông
Phú-lâu-na-di-đa-la-ni-tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch
Phật rằng: "Tôi từ nhiều kiếp đến nay, tài biện-thuyết được vô-ngại,
tuyên-dương các pháp Khổ, Không, thấu-suốt tướng chân-thật, như thế cho đến các
pháp-môn bí-mật hằng-sa Như-lai, tôi phương-tiện chỉ-bày trong chúng, được sức
vô-úy. Đức Thế-tôn biết tôi có tài biện-thuyết lớn-lao, nên dùng pháp-luân
âm-thanh, dạy tôi tuyên-dương Chính-pháp. Tôi ở trước Phật, giúp Phật chuyển
pháp-luân, nhân nói Chính-pháp, thành quả A-la-hán. Đức Thế-tôn ấn-chứng cho
tôi thuyết-pháp hơn cả. Phật hỏi về viên-thông, tôi dùng pháp-âm hàng-phục
tà-ma ngoại-đạo, tiêu-diệt các lậu, đó là thứ nhất."
16.
Ông Ưu-ba-ly
VIÊN
THÔNG VỀ THÂN THỨC
Ông
Ưu-ba-ly liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
"Chính tôi được theo Phật vượt thành xuất-gia, xem thấy đức Như-lai sáu
năm siêng-tu khổ-hạnh, thấy đức Như-lai hàng-phục bọn tà ma, đối-trị các ngoại-đạo,
giải-thoát các lậu tham-dục thế-gian; tôi được nhờ Phật dạy giữ giới, cho đến
ba nghìn uy-nghi, tám vạn hạnh vi-tế, các tính-nghiệp và giá-nghiệp thảy đều
thanh-tịnh; do đó, thân tâm được tịch-diệt, thành quả A-la-hán, nay làm vị
cương-kỷ trong chúng của Như-lai; Phật ấn-chứng cho tôi giữ giới tu-thân hơn cả
trong chúng. Phật hỏi viên-thông, tôi do chấp-trì cái thân mà thân được tự-tại,
lần đến chấp-trì cái tâm mà tâm được thông-suốt, về sau cả thân và tâm tất-cả đều
viên-thông, tự-tại, đó là thứ nhất."
17.
Ông Đại-mục-kiền-liên
VIÊN
THÔNG VỀ Ý THỨC
Ông
Đại-mục-kiền-liên liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật
rằng: "Lúc trước tôi khất-thực giữa đường, gặp ba anh em họ Ca-diếp-ba là
ông Ưu-lâu-tần-loa, ông Già-gia và ông Na-đề, giảng-nói nghĩa-lý nhân-duyên
sâu-xa của Như-lai; tôi liền phát-tâm, được rất thông-suốt; Như-lai ban cho áo
ca-sa đắp trên mình, râu tóc tự rụng. Tôi đi khắp mười phương được không
ngăn-ngại, phát-minh thần-thông, được trong chúng suy-tôn là vô-thượng, thành
quả A-la-hán. Không những riêng đức Thế-tôn, mà thập phương Như-lai đều khen sức
thần-thông của tôi thanh-tịnh tròn-sáng, tự-tại không e-sợ, Phật hỏi về
viên-thông, tôi do xoay ý-niệm trở về tính
viên-trạm nên tâm-trí mở-bày, như lắng nước đục, lâu thành trong-sáng,
đó là thứ nhất."
18.
Ông Ô-xô-sắt-ma
VIÊN
THÔNG VỀ HỎA ĐẠI
Ông
Ô-xô-sắt-ma, ở trước đức Như-lai, chấp tay đỉnh-lễ nơi hai chân Phật mà bạch Phật
rằng: " Tôi thường nhớ trước kia, trong kiếp xa-xôi, tính có nhiều tham-dục; lúc ấy, có đức Phật ra đời hiệu là
Không-vương, bảo người đa-dâm như đống lửa hồng và dạy tôi quán khắp những hơi
nóng lạnh nơi trăm vóc tứ-chi; tôi nhờ quán như vậy, mà được giác-tính sáng-suốt
lặng-đứng bên trong, hoá tâm đa-dâm thành lửa trí-tuệ. Từ ấy, các đức Phật đều
gọi tên tôi là Hỏa-đầu. Tôi dùng sức hỏa-quang-tam-muội mà thành quả A-la-hán;
trong tâm phát đại-nguyện, khi các đức Phật thành-đạo, thì làm lực-sĩ, thân ở
bên Phật, uốn-dẹp bọn tà-ma quấy-phá. Phật hỏi về viên-thông, tôi dùng pháp
quán các hơi-ấm nơi thân tâm đều lưu-thông không ngăn-ngại; các lậu đã tiêu,
sinh ra ngọn lửa đại-trí quý-báu, lên bậc vô-thượng-giác, đó là thứ nhất."
19.
Ngài Trì-địa Bồ-tát
VIÊN
THÔNG VỀ ĐỊA ĐẠI
Ngài
Trì-địa Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
"Tôi nhớ kiếp xưa, khi đức Phật Phổ-quang ra đời, tôi làm tỷ-khưu, thường ở
nơi các nẻo đường bến đò, đất-đai hiểm-trở eo-hẹp, không đúng nguyên-tắc, có thể
làm tổn-hại đến xe ngựa, thì tôi đều đắp bằng, hoặc làm cầu-cống, hoặc gánh đất
cát; siêng-năng khó-nhọc như vậy trong suốt thời-gian vô-lượng Phật ra đời. Hoặc
có chúng-sinh, ở nơi chợ-búa, cần người mang đồ-vật, trước tiên tôi mang hộ đến
nơi, đến chốn, để đồ-vật xuống, liền đi ngay, không lấy tiền-thuê.
Khi
đức Phật Tỳ-xá-phù ra đời, thế-gian phần nhiều đói-kém; tôi cõng giúp người,
không kể gần xa, chỉ lấy một đồng tiền; hoặc có xe trâu sa xuống bùn-lầy, tôi
dùng sức-mạnh đẩy bánh xe lên cho khỏi khổ-não. Ông vua trong nước thuở đó thết-trai
mời Phật; lúc ấy, tôi liền sửa-sang đường đất bằng-phẳng, đợi Phật đi qua. Đức
Tỳ-xá Như-lai xoa đỉnh-đầu tôi mà bảo rằng: "Nên bình cái tâm-địa, thì tất-cả
đất-đai trên thế-giới đều bình". Tôi liền khai-ngộ, thấy vi-trần nơi thân-thể cùng với tất-cả vi-trần tạo-thành thế-giới
đều bình-đẳng không sai khác, tự-tính của vi-trần không chạm-xát nhau, cho đến
các thứ đao-binh cũng không đụng-chạm gì; tôi do nơi pháp-tính ngộ được
vô-sinh-nhẫn, thành quả A-la-hán, xoay tâm về đại-thừa, nên hiện nay, ở trong
hàng Bồ-tát; khi nghe các đức Như-lai dạy về chổ tri-kiến của Phật như Diệu-liên-hoa,
thì tôi chứng-tỏ đầu-tiên, làm vị thượng-thủ. Phật hỏi về viên-thông, do tôi
quán-kỹ hai thứ trần nơi căn-thân và khí-giới đều bình-đẳng không sai khác, vốn
là Như-lai-tạng giả-dối phát ra trần-tướng; trần-tướng đã tiêu-diệt, thì trí-tuệ
được viên-mãn, thành-đạo vô-thượng, đó là thứ nhất."
20.
Ngài Nguyệt-quang-đồng-tử
VIÊN
THÔNG VỀ THỦY ĐẠI
Ngài
Nguyệt-quang-đồng-tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch
Phật rằng: "Tôi nhớ hằng-sa kiếp về trước, có đức Phật ra đời, hiệu là Thủy-thiên,
dạy hàng Bồ-tát tu-tập phép quán-thủy để vào Tam-ma-đề; nghĩa là quán ở trong
thân, tính nước không gì ngăn-ngại, quán từ nước-mũi, nước-bọt cho đến tất-cả
các thứ tân, dịch tinh, huyết, đại-tiện, tiểu-tiện; xoay-vần trong thân đều đồng
một tính nước, quán thấy nước trong thân cùng nước các bể hương-thủy của
Phù-tràng-vương-sát ở ngoài thế-giới, đều bình-đẳng không sai khác.
Tôi
trong lúc ấy, mới thành-tựu phép quán nầy, chỉ thấy được nước, chưa được không
có thân; lúc đang làm tỷ-khưu, tọa-thiền trong phòng, tôi có người đệ-tử dòm cửa
sổ trông vào phòng chỉ thấy nước trong, đầy khắp trong phòng, chứ không có gì;
nó nhỏ-dại không biết, liền lấy một miếng ngói ném vào trong nước, đập vào nước
phát ra tiếng, ngó quanh rồi bỏ đi; về sau, tôi xuất-định, liền thấy đau tim
như ông Xá-lỵ-phất bị con quỷ Vi-hại đập. Tôi tự suy-nghĩ: Nay tôi đã được đạo
A-la-hán, đã lâu không còn nhân-duyên mắc bệnh được nữa, làm sao ngày nay lại
sinh ra đau tim, không lẽ đã bị thoái-thất rồi chăng? Khi bấy giờ, đệ-tử của
tôi đi đến, kể lại cho tôi những việc như trước, tôi mới bảo nó, sau nầy, nếu lại
thấy nước, thì nên mở cửa, vào lấy viên ngói trong nước ấy đi. Đệ-tử vâng-lời
tôi bảo; về sau, khi tôi nhập-định, nó lại thấy nước với viên ngói rõ-ràng, nó
liền mở cửa, lấy viên ngói ra. Sau đó, tôi xuất-định, thì thân-thể lại được như
cũ.
Tôi
đã gặp được vô-lượng Phật, đến đức Sơn-hải-tự-tại-thông-vương Như-lai, thì tôi
mới được không còn thân riêng và cùng với nước bể hương-thủy thập phương thế-giới,
đồng một tính chân-không, không hai không khác; hiện nay, ở nơi đức Như-lai, được
danh-hiệu là Đồng-chân, dự Hội Bồ-tát. Phật hỏi về viên-thông, tôi do quán tính
nước một mực lưu-thông, được phép vô-sinh-nhẫn, viên-mãn đạo Bồ-đề, đó là thứ
nhất."
21.
Ngài Lưu-ly-quang Pháp-vương-tử
VIÊN
THÔNG VỀ PHONG ĐẠI
Ngài
Lưu-ly-quang Pháp-vương-tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà
bạch Phật rằng: "Tôi nhớ hằng-sa kiếp về trước, có đức Phật ra đời, hiệu
là Vô-lượng-thanh; ngài khai-thị tính bản-giác diệu-minh cho các hàng Bồ-tát và
dạy quán thế-giới và thân chúng-sinh nầy đều do sức lay-động của vọng-duyên
chuyển-biến ra. Tôi lúc bấy giờ, quán cái không-gian an-lập, quán cái thời-gian
thiên-lưu, quán cái thân-thể khi động, khi yên, quán cái thức-tâm niệm-niệm
sinh-diệt, tất-cả đều lay-động như-nhau, bình-đẳng không sai khác. Khi bấy giờ,
tôi giác-ngộ cái tính các thứ động ấy, đến không do đâu, đi không tới đâu; tất-cả
chúng-sinh điên-đảo, số như vi-trần trong mười phương đều đồng một hư-vọng; như
vậy, cho đến tất-cả chúng-sinh trong một tam-thiên đại-thiên thế-giới, cũng như
hàng trăm loài muỗi-mạt đựng trong một đồ-đựng, vo-vo kêu-ầm, ở trong gang-tấc,
ồn-ào rối-rít. Tôi gặp Phật chưa bao lâu, thì được pháp vô-sinh-nhẫn; khi bấy
giờ, tâm đã khai-ngộ, mới thấy cõi Phật Bất-động phương Đông, làm vị
Pháp-vương-tử. Tôi thừa-sự thập phương Phật, thân tâm phát ra sáng-suốt, rỗng-thấu
không ngăn-ngại. Phật hỏi về viên-thông, tôi do quan-sát sức lay-động không
nương vào đâu, ngộ được tâm Bồ-đề, vào được Tam-ma-địa, hợp với nhất-diệu-tâm
mà thập phương Phật truyền-dạy, đó là thứ nhất".
22.
Ngài Hư-không-tạng-Bồ-tát
VIÊN
THÔNG VỀ KHÔNG ĐẠI
Ngài
Hư-không-tạng-Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch
Phật rằng: "Tôi cùng đức Như-lai chứng được thân vô-biên nơi đức Phật Định-quang;
lúc ấy, tay tôi cầm bốn hạt-châu-báu lớn, soi-tỏ cõi Phật thập phương số như
vi-trần, đều hóa-thành hư-không; lại ở nơi tự-tâm hiện ra trí đại-viên-kính,
trong ấy phóng ra mười thứ hào-quang, vi-diệu quý-báu, soi khắp các
Phù-tràng-vương-sát cùng-tột hư-không mười phương, đều vào trong viên-kính ấy,
nhập với thân tôi và thân tôi đồng như hư-không, không có ngăn-ngại lẫn nhau,
thân tôi lại khéo vào vi-trần quốc-độ, rộng làm việc Phật, được đại-tuỳ-thuận.
Thần-lực lớn đó là do tôi quán-kỹ tứ-đại không nương vào đâu, do vọng-tưởng mà
có sinh-diệt, hư-không không có hai và cõi Phật vốn là đồng, do phát-minh được
tính-đồng mà chứng vô-sinh-nhẫn. Phật hỏi về viên-thông, tôi quán hư-không
không bờ-bến; vào Tam-ma-đề, diệu-lực viên-mãn sáng-suốt, đó là thứ nhất".
23.
Ngài Di-Lặc Bồ-tát
VIÊN
THÔNG VỀ THỨC ĐẠI
Ngài
Di-Lặc Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
"Tôi nhớ vi-trần-kiếp về trước, có đức Phật ra đời tên là Nhật-nguyệt-đăng-minh;
tôi được xuất-gia theo đức Phật kia, nhưng tâm còn trọng hư-danh thế-gian, ưa
giao-du với các vọng-tộc. Lúc ấy đức Thế-tôn dạy tôi tu-tập định duy-tâm-thức,
tôi được vào Tam-ma-đề; trải qua nhiều kiếp đến nay, dùng pháp Tam-muội ấy phụng-sự
hằng-sa Phật, tâm cầu hư-danh thế-gian diệt hết không còn. Đến khi đức Phật
Nhiên-đăng ra đời, tôi mới được thành-tựu Vô-thượng-diệu-viên-thức-tâm-tam-muội.
Tất-cả cõi nước Như-lai tột bờ-bến hư-không, cho đến những điều tịnh, uế, có,
không, đều do tâm tôi biến-hóa hiện ra. Bạch Thế-tôn, do tôi rõ được tính
duy-tâm-thức như vậy, nên nơi thức-tính, xuất-hiện vô-lượng Như-lai và hiện
nay, tôi được thụ-ký, liền sau đây, bổ-xứ
thành Phật nơi cõi này. Phật hỏi về
viên-thông, tôi dùng phép quán mười phương đều duy-thức, thức-tâm được
tròn-sáng, chứng-nhập tính viên-thành-thật, xa-rời tính y-tha-khởi và tính biến-kế-chấp,
được pháp vô-sinh-nhẫn, đó là thứ nhất".
24.
Ngài Đại-thế-chí Pháp-vương-tử
VIÊN
THÔNG VỀ KIẾN ĐẠI
Ngài
Đại-thế-chí Pháp-vương-tử cùng với năm mươi hai vị Bồ-tát đồng-tu một pháp-môn,
liền từ chổ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi
nhớ hằng-sa kiếp trước, có đức Phật ra đời, tên là Vô-lượng-quang; lúc ấy mười
hai đức Như-lai kế nhau thành Phật trong một kiếp đức Phật sau hết, hiệu là
Siêu-nhật-nguyệt-quang, dạy cho tôi phép Niệm-Phật-tam-muội. Ví-như có người, một
đằng chuyên nhớ, một đằng chuyên quên, thì hai người ấy, dầu gặp cũng không là
gặp, dầu thấy cũng là không thấy; nếu cả hai người đều nhớ nhau, hai bên nhớ
mãi, khắc sâu vào tâm-niệm, thì đồng như hình với bóng, cho đến từ đời nầy sang
đời khác, không bao-giờ cách-xa nhau. Thập-phương Như-lai thương-tưởng
chúng-sinh như mẹ nhớ con, nếu con trốn-tránh, thì tuy nhớ, nào có ích gì; nếu
con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì đời đời mẹ con không cách-xa nhau. Nếu tâm
chúng-sinh nhớ Phật, tưởng Phật, thì hiện nay hay về sau, nhất-định thấy Phật;
cách Phật không xa thì không cần phương-tiện, tâm tự được khai-ngộ như người ướp-hương
thì thân-thể có mùi thơm, ấy gọi là
hương-quang-trang-nghiêm. Bản-nhân của tôi là dùng tâm niệm Phật mà vào pháp
vô-sinh-nhẫn, nay ở cõi nầy tiếp-dẫn những người niệm Phật về cõi Tịnh-độ. Phật
hỏi về viên-thông, tôi thu-nhiếp tất-cả sáu căn, không có lựa-chọn, tịnh-niệm kế-tiếp,
được vào Tam-ma-đề, đó là thứ nhất."
25.
Ngài Quán-thế-âm Bồ-tát
VIÊN
THÔNG VỀ NHĨ CĂN
Thuật
lại chỗ tu-chứng
Khi
bấy-giờ, ngài Quán-thế-âm Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật
mà bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, tôi nhớ vô-số hằng-sa kiếp về trước, có
đức Phật ra đời, hiệu là Quán-thế-âm; từ đức Phật kia, tôi phát-tâm Bồ-đề. Đức
Phật kia dạy tôi, do nghe, nghĩ và tu, mà vào Tam-ma-đề.
Ban
đầu, ở trong tính-nghe, vào được dòng viên-thông, không còn tướng sở-văn nữa.
Trần-tướng đã vẳng-lặng, hai tướng động, tĩnh rõ thật không sinh. Như vậy thêm
lần, các tướng năng-văn, sở-văn đều hết. Không dừng lại nơi chỗ dứt hết
năng-văn, sở-văn mà tiến lên nữa, thì năng-giác, sở-giác, đều không. Không-giác
tột bậc viên-mãn, các tướng năng-không, sở-không đều diệt. Sinh-diệt đã diệt,
thì bản-tính tịch-diệt hiện-tiền. Bỗng nhiên, vượt ngoài thế-gian và xuất thế-gian,
sáng-suốt cùng khắp mười phương, được hai cái thù-thắng: Một là, trên hợp với bản-giác-diệu-tâm
thập phương chư Phật, cùng với chư Phật Như-lai đồng một từ-lực; hai là, dưới hợp
với tất-cả chúng-sinh lục-đạo mười phương, cùng với các chúng-sinh đồng một
bi-ngưỡng.
Do
từ-lực, hiện ra 32 ứng-thân
Bạch
Thế-tôn, do tôi cúng-dường đức Quán-âm Như-lai, nhờ Ngài truyền-thụ cho tôi
Như-huyễn Văn-huân Văn-tu Kim-cương-tam-muội, được cùng chư Phật đồng một từ-lực,
nên làm cho thân tôi thành-tựu 32 ứng-thân vào các cõi-nước.
Bạch
Thế-tôn, nếu các vị Bồ-tát vào Tam-ma-đề, tiến-tu pháp vô-lậu, thắng-giải hiện
đã viên-mãn, tôi hiện ra thân Phật, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được giải-thoát.
Nếu
các hàng hữu-học tu phép Diệu-minh vẳng-lặng, chỗ thắng-diệu đã viên-mãn. Tôi ở
trước người kia, hiện ra thân Độc-giác, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được giải-thoát.
Nếu
các hàng hữu-học đoạn 12 Nhân-duyên; do các nhân-duyên đã đoạn mà phát ra thắng-tính
và thắng-tính đó hiện đã viên-mãn, tôi ở trước người kia, hiện ra thân
Duyên-giác, vì họ mà thuyết-pháp khiến cho được giải-thoát.
Nếu
các hàng hữu-học được phép-không của Tứ-đế, tu đạo-đế vào diệt-đế, thắng-tính
hiện viên-mãn, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Thanh-văn, vì họ mà thuyết-pháp,
khiến cho được giải-thoát.
Nếu
chúng-sinh muốn tâm được tỏ-ngộ, không phạm vào cảnh ngũ-dục và muốn cho thân
được thanh-tịnh, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Phạm-vương, vì họ mà thuyết-pháp,
khiến cho được giải-thoát.
Nếu
các chúng-sinh muốn làm Thiên-chúa, thống-lĩnh chư thiên, tôi ở trước người
kia, hiện ra thân Đế-thích, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu
các chúng-sinh muốn thân được tự-tại, đi khắp mười phương, tôi ở trước người
kia, hiện ra thân Tự-tại-thiên, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu
các chúng-sinh muốn thân được tự-tại, bay đi trên hư-không, tôi ở trước người
kia, hiện ra thân Đại-tự-tại-thiên, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được
thành-tựu.
Nếu
các chúng-sinh muốn thống-lĩnh quỷ-thần, cứu-giúp cõi-nước, tôi ở trước người
kia, hiện ra thân Thiên-đại-tướng-quân, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được
thành-tựu.
Nếu
các chúng-sinh muống sinh nơi thiên-cung, sai khiến quỷ-thần, tôi ở trước người
kia, hiện ra thân Thái-tử, con của Tứ-thiên-vương, vì họ mà thuyết-pháp, khiến
cho được thành-tựu.
Nếu
các chúng-sinh muốn làm vua cõi người, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Vua,
vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu
các chúng-sinh muốn làm chủ gia-đình danh-tiếng, thế-gian kính-nhường, tôi ở
trước người kia, hiện ra thân Trưởng-giả vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được
thành-tựu.
Nếu
các chúng-sinh thích đàm-luận những lời hay, giữ mình trong-sạch, tôi ở trước
người kia, hiện ra thân Cư-sĩ, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu
các chúng-sinh muốn trị cõi-nước, chia-đoán các bang, các ấp, tôi ở trước người
kia, hiện ra thân Tể-quan, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu
các chúng-sinh thích các số-thuật, tự-mình nhiếp-tâm giữ thân, tôi ở trước người
kia, hiện ra thân Bà-la-môn, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu
có người con trai muốn học phép xuất-gia, giữ các giới-luật, tôi ở trước người
kia, hiện ra thân Tỷ-khưu, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu
có người con gái muốn học phép xuất-gia, giữ các cấm-giới, tôi ở trước người
kia, hiện ra thân Tỷ-khưu-ni, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu
có người con trai thích giữ ngũ-giới, tôi ở trước người kia, hiện ra thân
Ưu-bà-tắc, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu
có người con gái tự giữ ngũ-giới, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Ưu-bà-di,
vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu
có người con gái lập-thân trong nội-chính, để tu-sửa nhà nước, tôi ở trước người
kia, hiện ra thân Nữ-chúa hay thân Quốc-phu-nhân, mệnh-phụ, đại-gia, vì họ mà
thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu
có chúng-sinh không phá nam-căn, tôi ở trước người kia, hiện ra thân đồng-nam,
vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu
có người xử-nữ, thích thân xử-nữ, không cầu sự xâm-bạo, tôi ở trước người kia,
hiện ra thân đồng-nữ, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu
có chư-thiên muốn ra khỏi loài trời, tôi hiện ra thân chư-thiên, vì họ mà thuyết-pháp,
khiến cho được thành-tựu.
Nếu
có các con rồng muốn ra khỏi loài rồng, tôi hiện ra thân rồng, vì họ mà thuyết-pháp,
khiến cho được thành-tựu.
Nếu
có dược-xoa muốn thoát khỏi loài mình, tôi ở trước họ, hiện ra thân dược-xoa,
vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu
có càn-thát-bà muốn thoát khỏi loài mình, tôi ở trước họ, hiện ra thân
càn-thát-bà, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu
có a-tu-la, muốn thoát khỏi loài mình, tôi ở trước họ, hiện ra thân a-tu-la, vì
họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu
có khẩn-na-la muốn thoát khỏi loài mình, tôi ở trước họ, hiện ra thân khẩn-na-la,
vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu
có ma-hô-la-già muốn thoát khỏi loài mình; tôi ở trước họ, hiện ra thân
ma-hô-la-già, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu
có chúng-sinh thích làm người, tu cho được thân người, tôi hiện ra thân người,
vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu
có loài phi-nhân, hoặc có hình, hoặc không hình, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng,
muốn thoát khỏi loài mình, tôi ở trước họ, hiện ra thân như họ, vì họ mà thuyết-pháp,
khiến cho được thành-tựu.
Ấy
gọi là 32 ứng-thân diệu-tịnh, vào các cõi-nước. Những thân ấy đều do vô-tác-diệu-lực
của Văn-huân Văn-tu Tam-muội, mà tự-tại thành tựu.
Do
bi-ngưỡng, bố-thí 14 công-đức vô-úy
"Bạch
Thế-tôn, do tôi lại dùng vô-tác-diệu-lực của Văn-huân Văn-tu Kim-cương-tam-muội
ấy, cùng với tất-cả lục-đạo chúng-sinh trong mười phương ba đời, đồng một lòng
bi-ngưỡng, nên khiến các chúng-sinh, nơi thân-tâm tôi, được 14 thứ công-đức
vô-úy:
Một,
là do tôi không tự quán cái tiếng, mà quán cái tâm năng-quán, nên khiến cho
chúng-sinh khổ-não thập phương kia, quán cái âm-thanh, thì liền được giải-thoát.
Hai,
là tri-kiến đã xoay trở lại, khiến cho các chúng-sinh, dầu vào đống lửa, lửa
không thể đốt được.
Ba,
là quán cái nghe đã xoay trở lại, khiến cho các chúng-sinh bị nước lớn cuốn đi,
mà không chết-đuối.
Bốn,
là diệt hết vọng-tưởng, tâm không sát-hại, khiến các chúng-sinh vào những nước
quỷ, quỷ không thể hại được.
Năm,
là huân-tập và thành-tựu được tính-nghe, cả sáu căn đều tiêu về bản-tính, đồng
như cái nghe, cái tiếng, có thể khiến cho chúng-sinh, lúc đương bị hại, dao gãy
từng đoạn, khiến cho các binh-khí chạm vào thân người như cắt dòng nước, như thổi
ánh-sáng, bản-tính không hề lay-động.
Sáu,
là huân-tập tính-nghe sáng-suốt thấu khắp pháp-giới, thì các tính tối-tăm không
thể toàn được, có thể khiến cho chúng-sinh, tuy các loài dược-xoa, la-sát,
cưu-bàn-trà, tỳ-xá-già, phú-dan-na, vân vân ... ở gần một bên, con mắt chúng vẫn
không thể thấy được.
Bảy,
là các tiếng đều viên-tiêu, thấy-nghe đã xoay vào tự-tính, rời các trần-cảnh
hư-vọng, có thể khiến cho các chúng-sinh, những thứ cùm, dây, gông, xiềng không
thể dính vào mình được.
Tám,
là diệt tướng âm-thanh, viên-thông tính-nghe, phát-sinh từ-lực cùng khắp, có thể
khiến cho chúng-sinh đi qua đường hiểm, giặc không cướp được.
Chín,
là huân-tập phát ra tính-nghe, rời các trần-tướng, sắc-dục không lôi-kéo được,
có thể khiến cho tất-cả chúng-sinh đa-dâm, xa rời lòng tham-dục.
Mười,
là thuần một thật-tướng của âm-thanh, không còn gì là tiền-trần, căn và cảnh điều
viên-dung, không có năng, sở đối-đãi, có thể khiến cho tất-cả chúng-sinh
nóng-giận, rời-bỏ lòng thù-ghét.
Mười
một, là tiêu-diệt trần-tướng, xoay về tính bản-minh, thì pháp-giới, thân, tâm đều
như ngọc lưu-ly, sáng-suốt không ngăn-ngại, có thể khiến cho những kẻ ngu-ngốc
u-mê, xa-rời hẳn sự si-mê tối-tăm.
Mười
hai, là viên-dung các hình-tướng, xoay tính-nghe trở về đạo-trường bất-động,
hòa vào thế-gian mà không hủy-hoại thế-giới, cúng-dường được chư Phật Như-lai
như số vi-trần, cùng khắp mười phương, ở bên mỗi mỗi đức Phật, làm vị
Pháp-vương-tử, có thể khiến cho trong pháp-giới, những chúng-sinh không con, cầu
có con trai, sinh ra đứa con trai có phúc-đức trí-tuệ.
Mười
ba, là sáu căn viên-thông, soi-sáng không hai, trùm khắp thập phương thế-giới,
thành-lập đại-viên-kính Không-như-lai-tạng, vâng-lĩnh pháp-môn bí-mật của thập-phương
vi-trần Như-lai, không có thiếu-sót, có thể khiến cho trong pháp-giới, những
chúng-sinh không con, cầu có con gái, sinh ra người con gái có tướng-tốt,
đoan-chính, phúc-đức, dịu-dàng, được mọi người yêu-kính.
Mười
bốn, là trong tam-thiên đại-thiên thế-giới này, có trăm ức mặt trời, mặt trăng,
các Pháp-vương-tử hiện ở trong thế-gian, số-lượng có đến 62 số cát sông Hằng, đều
tu Phật-pháp, nêu gương-mẫu, giáo-hóa chúng-sinh, tùy-thuận chúng-sinh,
phương-tiện trí-tuệ của mỗi mỗi vị không đồng nhau. Do tôi được tính
viên-thông, phát ra diệu-tính của nhĩ-căn, cho đến thân-tâm nhiệm-mầu bao trùm
khắp pháp-giới, nên có thể khiến cho chúng-sinh chấp-trì danh-hiệu của tôi, so
với những người chấp-trì danh-hiệu của tất-cả các vị Pháp-vương-tử số-lượng bằng
62 số cát sông Hằng kia, phúc-đức hai bên thật bằng bậc, không sai khác.
Bạch
Thế-tôn, một danh-hiệu của tôi cùng với rất nhiều danh-hiệu kia không khác, là
do tôi tu-tập được tính viên-thông chân-thật. Ấy gọi là 14 sức thí-vô-úy, đem
phúc khắp cho chúng-sinh.
Theo
cơ-cảm hiện ra 4 diệu-đức không nghĩ-bàn
"Bạch
Thế-tôn, do tôi đã được Đạo tu-chứng viên-thông vô-thượng đó, nên lại khéo được
4 vô-tác-diệu-đức không nghĩ-bàn:
Một,
là do tôi chứng được tính-nghe chí-diệu, nơi tâm-tính không còn có tướng
năng-văn, các sự thấy, nghe, hay, biết không còn cách-biệt và đều thành một bảo-giác
viên-dung thanh-tịnh, nên tôi có thể hiện ra rất nhiều hình-dung nhiệm-mầu, nói
ra vô-số thần-chú bí-mật. Trong đó, hoặc hiện ra một đầu, 3 đầu, 5 đầu, 7 đầu,
9 đầu, 11 đầu, như thế cho đến 108 đầu, 1000 đầu, 10000 đầu, 84000 cái đầu, đầy-đủ
các tướng; hoặc hiện ra hai tay, 4 tay, 6 tay, 12 tay, 14, 16, 18, 20, 24, như
thế cho đến 108 tay, 1000 tay, 10000 tay, 84000 cái tay bắt-ấn; hoặc hiện ra
hai mắt, 3 mắt, 4 mắt, 9 mắt, như thế cho đến 108 mắt, 1000 mắt, 10000 mắt,
84000 con mắt báu thanh-tịnh; hoặc khi thì từ, hoặc khi thì oai, hoặc khi thì định,
hoặc khi thì tuệ, cứu-giúp chúng-sinh được rất tự-tại.
Hai,
là do cái nghe, cái nghĩ của tôi, thoát ra ngoài sáu trần như cái tiếng qua bức
tường, không thể bị ngăn-ngại, cho nên diệu-dụng của tôi có thể hiện mỗi mỗi
hình, tụng mỗi mỗi chú, hình đó, chú đó đều có thể đem sức vô-úy mà bố-thí cho
các chúng-sinh; vì thế, cõi nước thập phương như vi-trần đều gọi tôi là vị
Thí-vô-úy.
Ba,
là tôi tu-tập, phát ra căn-tính bản-diệu viên-thông thanh-tịnh, nên đi qua thế-giới
nào, đều khiến cho chúng-sinh xả-thân, xả đồ trân-bảo, cầu tôi thương-xót.
Bốn,
là do tôi được tâm Phật, chứng đến chỗ rốt-ráo, nên có thể đem các thứ quý-báu
cúng-dường thập phương Như-lai, cả đến chúng-sinh lục-đạo trong pháp-giới, ai cầu
vợ thì được vợ, cầu con thì được con, cầu Tam-muội thì được Tam-muội, cầu sống
lâu thì được sống lâu, như thế, cho đến cầu Đại-niết-bàn thì được Đại-niết-bàn.
Kết-luận
về viên-thông nhĩ-căn
"Phật
hỏi về viên-thông, tôi do văn-chiếu Tam-muội nơi nhĩ-căn mà duyên-tâm được tự-tại;
nhân tướng nhập-lưu, được Tam-ma-đề, thành tựu quả Bồ-đề, đó là thứ nhất. Bạch
Thế-tôn, đức Phật Như-lai kia, khen tôi khéo được pháp-môn viên-thông, ở trong
Đại-hội, thụ-ký cho tôi cái hiệu là Quan-thế-âm; do tôi thấy-nghe thấu-suốt mười
phương, nên danh-tiếng Quan-âm cùng khắp thập phương thế-giới".
Khi
bấy giờ, đức Thế-tôn nơi sư-tử tọa, năm vóc đồng phóng ra hào-quang báu, rọi xa
trên đỉnh thập phương Như-lai số như vi-trần và trên đỉnh các vị Pháp-vương-tử,
các vị Bồ-tát. Các đức Như-lai kia, năm vóc cũng đồng phóng ra hào-quang báu, từ
các thế-giới số như vi-trần đến rọi trên đỉnh Phật và trên đỉnh các vị Đại-bồ-tát
và A-la-hán trong Hội; rừng cây, ao hồ đều diễn ra pháp-âm; hào-quang giao-xen
cùng nhau như lưới tơ báu. Cả trong đại-chúng được cái chưa từng có; tất-cả đều
được Kim-cương-tam-muội. Liền khi ấy, trời mưa hoa sen bách-bảo màu xanh, màu
vàng, màu đỏ, màu trắng xen-lộn lẫn nhau, thập phương hư-không hóa-thành sắc thất-bảo.
Đất liền, núi sông của cõi Sa-bà nầy cùng một lúc không hiện ra, chỉ thấy vi-trần
quốc-độ thập-phương hợp-thành một giới, tiếng hát ca-ngợi tự-nhiên nổi lên.
PHẬT
BẢO NGÀI VĂN THÙ
LỰA
CHỌN CĂN VIÊN THÔNG
Khi
bấy-giờ, đức Như-lai bảo Ngài Văn-thù-sư-lỵ Pháp-vương-tử rằng: "Ông hãy
xét trong 25 vị vô-học Đại-bồ-tát và A-la-hán, mỗi mỗi đều trình-bày phương-tiện
hành-đạo lúc đầu, đều nói tu-tập tính viên-thông chân-thật; chỗ tu-hành của các
vị kia, thật không có hơn, kém, trước, sau gì khác nhau. Nay tôi muốn khiến cho
ông A-nan khai-ngộ, thì trong 25 phép tu, phép nào hợp với căn-cơ của ông ấy; lại,
sau khi tôi diệt-độ rồi, chúng-sinh trong cõi nầy vào thừa Bồ-tát, cầu đạo
vô-thượng, thì do pháp-môn phương-tiện gì, được dễ thành-tựu hơn?"
Tán-thán
tính-giác vốn diệu và chỉ rõ mê-vọng vốn không
Ngài
Văn-thù-sư-lỵ Pháp-vương-tử, vâng từ-chỉ của Phật, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ
nơi chân Phật, dựa vào uy-thần của Phật, nói bài kệ đáp lại:
"Bản-tính
biển Giác khắp đứng-lặng,
Tính
khắp đứng-lặng vốn nhiệm-mầu,
Bản-minh
chiếu ra hình-như sở,
Lập
tướng sở, bỏ mất bản-minh.
Do
mê-vọng, mà có hư-không,
Nương
hư-không, lập-thành thế-giới;
Tư-tưởng
chăm-chú thành cõi-nước,
Hay-biết
mọi việc, là chúng-sinh.
Hư-không
sinh ra trong đại-giác,
Như
một bọt-nước sinh trong bể;
Các
nước hữu-lậu, như vi-trần
Đều
nương hư-không, mà phát-sinh;
Bọt-nước
diệt, vốn không hư-không,
Huống
nữa là, hình-tướng ba cõi.
( Giác hải
tánh trừng viên
Viên
trừng giác nguyên diệu
Nguyên
minh chiếu sanh sở
Sở
lập chiếu tánh vong.
Mê
vọng hữu hư không
Y
không lập thế giới
Tưởng
trừng thành quốc độ
Tri
giác nãi chúng sanh.
Không
sanh đại giác trung
Như
hải nhất âu phát
Hữu
lậu vi trần quốc
Giai
tòng không sở sanh
Âu
diệt không bổn vô
Huống
phục chư tam hữu.)
Nêu
rõ phương-tiện có mau chậm
Bản-tính
xoay về, vốn không hai,
Phương-tiện
tu-chứng có nhiều cách,
Cách
nào cũng thông vào bản-tính,
Nói
thuận, nghịch, chỉ là phương-tiện;
Do
hàng sơ-tâm vào Tam-muội,
Bên
mau, bên chậm không đồng nhau.
(
Quy nguyên tánh vô nhị
Phương
tiện hữu đa môn
Thánh
tánh vô bất thông
Thuận
nghịch giai phương tiện
Sơ
tâm nhập tam muội
Trì
tốc bất đồng luân. )
Lựa
ra 6 trần
Vọng-tưởng
kết-lại thành sắc-trần,
Hay-biết
không thể thông-suốt được;
Làm
sao, chính chỗ không thông-suốt,
Tu-hành,
lại được tính viên-thông?
Âm-thanh
xen-lộn với lời nói,
Chỉ
nương theo ý-vị danh-từ;
Nếu
một, không trùm được tất-cả,
Thì
làm sao, được tính viên-thông?
Hương,
chỉ lúc hợp, mới rõ-biết,
Lúc
rời-cách, thì vốn không có;
Nếu
sở-giác, không được thường-xuyên,
Thì
làm sao, được tính viên-thông?
Vị,
không phải bản-nhiên tự có,
Cần
phải nếm, mới biết có vị;
Nếu
giác-quan, không thường duy-nhất,
Thì
làm sao, được tính viên-thông?
Xúc,
do các vật chạm mà biết,
Không
vật chạm, thì không thành xúc;
Khi
hợp, khi ly, không nhất-định,
Thì
làm sao, được tính viên-thông?
Pháp,
cũng có tên là nội-trần,
Nương
theo trần, tất phải có sở;
Năng
sở, không viên-dung nhập một,
Thì
làm sao, được tính viên-thông?
(
Sắc tưởng kết thành trần.
Tinh
liễu bất năng triệt.
Như
hà bất minh triệt.
Ư
thị hoạch viên thông?
Âm
thanh tạp ngữ ngôn.
Đãn
y danh cú vị.
Nhất
phi hàm nhất thiết.
Vân
hà hoạch viên thông?
Hương
dĩ hợp trung tri.
Ly
tắc nguyên vô hữu.
Bất
hằng kỳ sở giác.
Vân
hà hoạch viên thông?
Vị
tánh phi bản nhiên.
Yếu
dĩ vị thời hữu.
Kỳ
giác bất hằng nhất.
Vân
hà hoạch viên thông?
Xúc
dĩ sở xúc minh.
Vô
sở bất minh xúc.
Hợp
ly tánh phi định.
Vân
hà hoạch viên thông?
Pháp
xưng vi nội trần.
Bằng
trần tất hữu sở.
Năng
sở phi biến thiệp.
Vân
hà hoạch viên thông? )
Lựa-ra
5 căn
Cái
thấy, tuy rỗng-suốt rất xa,
Nhưng
thấy trước, mà không thấy sau;
Bốn-bề,
còn thiếu mất một nửa,
Thì
làm sao, được tính viên-thông!
Mũi,
có thở ra và thở vào,
Chặng
giữa, hiện không có hơi-thở,
Nếu
không viên-dung sự cách-bức,
Thì
làm sao, được tính viên-thông?
Ngoài
sở-nhập, tính-nếm không thành,
Nhân
các vị, mới có hay-biết;
Không
có vị, rốt-ráo không có,
Thì
làm sao, được tính viên-thông?
Thân
biết-xúc với cảnh sở-xúc,
Đều
có hạn, không phải cùng khắp;
Nếu
không nhận tính không bờ-bến,
Thì
làm sao, được tính viên-thông?
Ý-căn
xen với các loạn-tưởng,
Đứng-lặng,
rốt-cuộc không thấy gì;
Nếu
không thoát được các tưởng-niệm,
Thì
làm sao, được tính viên-thông?"
(
Kiến tánh tuy đỗng nhiên.
Minh
tiền bất minh hậu.
Tứ
duy khuy nhất bán.
Vân
hà hoạch viên thông?
Tỵ
tức xuất nhập thông.
Hiện
tiền vô giao khí.
Chi
ly phỉ thiệp nhập.
Vân
hà hoạch viên thông?
Thiệt
phi nhập vô đoan.
Nhơn
vị sanh giác liễu.
Vị
vong liễu vô hữu.
Vân
hà hoạch viên thông?
Thân
dữ sở xúc đồng.
Các
phi viên giác quán.
Nhai
lượng bất minh hội.
Vân
hà hoạch viên thông?
Ý
căn tạp loạn tư.
Trạm
liễu chung vô kiến.
Tưởng
niệm bất khả thoát.
Vân
hà hoạch viên thông? )
Lựa-ra
6 thức
Nhãn-thức,
phát-khởi nhờ căn trần,
Gạn-cùng,
vốn không có tự-tướng;
Cả
tự-thể, còn không nhất-định,
Thì
làm sao, được tính viên-thông?
Tâm
nghe rỗng-thấu cả mười phương,
Là
do sức hoằng-thệ rộng-lớn;
Sơ-tâm,
không thể đến chỗ ấy
Thì
làm sao, được tính viên-thông?
Quán
đầu-mũi, vốn là duyên-cơ,
Chỉ
để nhiếp-tâm được an-trụ;
Nếu
cảnh-quán, lại thành sở-trụ,
Thì
làm sao, được tính viên-thông?
Thuyết-pháp,
diệu-dụng các danh-từ;
Cốt
phải đã được khai-ngộ trước;
Nếu
lời nói, không phải vô-lậu,
Thì
làm sao, được tính viên-thông?
Giữ
giới, chỉ câu-thúc cái thân,
Ngoài
cái thân, lấy gì câu-thúc;
Vốn
không phải cùng khắp tất-cả,
Thì
làm sao, được tính viên-thông?
Thần-thông,
do túc-tập từ trước,
Nào dính gì ý-thức phân-biệt;
Tưởng-niệm,
không thoát-ly sự-vật,
Thì
làm sao, được tính viên-thông?
(
Thức kiến tạp tam hoà.
Cật
bổn xưng phi tướng.
Tự
thể tiên vô định.
Vân
hà hoạch viên thông?
Tâm
văn đỗng thập phương.
Sanh
vu đại nhân lực.
Sơ
tâm bất năng nhập.
Vân
hà hoạch viên thông?
Tỵ
tưởng bổn quyền cơ.
Kỳ
linh nhiếp tâm trụ.
Trụ
thành tâm sở trụ.
Vân
hà hoạch viên thông?
Thuyết
pháp lộng âm văn.
Khai
ngộ tiên thành giả.
Danh
cú phi vô lậu.
Vân
hà hoạch viên thông?
Trì
phạm đãn thúc thân.
Phi
thân vô sở thúc.
Nguyên
phi biến nhất thiết.
Vân
hà hoạch viên thông?
Thần
thông bổn túc nhơn.
Hà
quan pháp phân biệt.
Niệm
duyên phi ly vật.
Vân
hà hoạch viên thông? )
Lựa-ra
7 đại
Nếu
quán cái tính của địa-đại,
Thì
nó ngăn-ngại, không thông-suốt;
Pháp
hữu-vi, không phải chân-tính,
Thì
làm sao, được tính viên-thông?
Nếu
quán cái tính của thủy-đại,
Quán-tưởng,
đâu phải là chân-thật,
Nếu
không đi đến Diệu-chân-như,
Thì
làm sao, được tính viên-thông?
Nếu
quán hỏa-đại, trừ dâm-dục,
Chán
cái có, không phải thật ly;
Phương-tiện,
không hợp với sơ-tâm,
Thì
làm sao, được tính viên-thông?
Nếu
quán cái tính của phong-đại,
Động,
tĩnh, đâu phải không đối-đãi;
Đối-đãi,
trái với vô-thượng-giác,
Thì
làm sao, được tính viên-thông?
Nếu
quán cái tính của không-đại,
Hư-không
vô-tri, không hay-biết;
Không
biết, khác hẳn với Bồ-đề,
Thì
làm sao, được tính viên-thông?
Nếu
quán cái tính của thức-đại,
Thức
sinh-diệt, đâu phải thường-trụ,
Để
tâm trong phân-biệt hư-vọng,
Thì
làm sao, được tính viên-thông?
Tất-cả
các hành đều vô-thường,
Tưởng-niệm,
vốn trong vòng sinh diệt,
Nhân
và quả, khác nhau như thế,
Thì
làm sao, được tính viên-thông?"
(
Nhược dĩ địa tánh quán.
Kiên
ngại phi thông đạt.
Hữu
vi phi thánh tánh.
Vân
hà hoạch viên thông?
Nhược
dĩ thủy tánh quán.
Tưởng
niệm phi chơn thật.
Như
như phi giác quán.
Vân
hà hoạch viên thông?
Nhược
dĩ hoả tánh quán.
Yếm
hữu phi chơn ly.
Phi
sơ tâm phương tiện.
Vân
hà hoạch viên thông?
Nhược
dĩ phong tánh quán.
Động
tịch phi vô đối.
Đối
phi vô thượng giác.
Vân
hà hoạch viên thông?
Nhược
dĩ không tánh quán.
Hôn
độn tiên phi giác.
Vô
giác dị bồ đề.
Vân
hà hoạch viên thông?
Nhược
dĩ thức tánh quán.
Quán
thức phi thường trụ.
Tồn
tâm nãi hư vọng.
Vân
hà hoạch viên thông?
Chư
hành thị vô thường.
Niệm
tánh vô sanh diệt.
Nhân
quả kim thù cảm.
Vân
hà hoạch viên thông? )
Hợp với giáo-thể cõi Sa-bà
Tôi
nay xin bạch đức Thế-tôn,
Phật
ra đời trong cõi Sa-bà,
Trong
cõi nầy, lối dạy chân-thật,
Thanh-tịnh,
do chỗ nói và nghe;
Nay
muốn tu-chứngTam-ma-đề,
Thật
nên do cái nghe mà vào."
(
Ngã kim bạch Thế Tôn
Phật
xuất ta-bà giới
Thử
phương chơn giáo thể
Thanh
tịnh tại âm văn
Dục
thủ tam ma đề
Thật
dĩ văn trung nhập. )
Xưng-tán
ngài Quán-thế-âm
Rời
cái khổ và được giải-thoát,
Hay
thay cho ngài Quán-thế-âm;
Trong
kiếp số như cát sông Hằng,
Vào
cõi Phật như số vi-trần,
Được
sức tự-tại rất to-lớn,
Bố-thí
vô-úy cho chúng-sinh.
Ngài
Quán-thế-âm, tiếng nhiệm-mầu,
Tiếng
trong-sạch và tiếng hải-trào,
Cứu
đời, mọi việc được yên-lành,
Xuất-thế-gian,
được quả thường-trụ."
(
Ly khổ đắc giải thoát
Lương
tai Quán Thế Âm
Ư
hằng sa kiếp trung
Nhập
vi trần phật quốc
Đắc
đại tự tại lực
Vô
úy thí chúng sanh
Diệu
âm Quán Thế Âm
Phạm
âm hải triều âm
Cứu
thế tất an ninh
Xuất
thế hoạch thường trụ. )
Xưng-tán
nhĩ-căn
Tôi
nay kính bạch đức Như-lai,
Như
lời ngài Quán-âm vừa nói:
Ví-như,
có người trong yên-lặng,
Chung-quanh
mười phương đều đánh trống,
Thì
đồng-thời nghe khắp mười nơi,
Như
thế, mới là viên-chân-thật.
Mắt
bị ngăn-che, không thấy được,
Thiệt-căn,
tỷ-căn cũng như vậy,
Thân-căn,
lúc hợp mới biết-xúc,
Ý-căn,
phân-vân không manh-mối;
Cách
tường, nhĩ-căn vẫn nghe tiếng,
Dầu
xa, dầu gần, đều nghe được;
Năm
căn so-sánh thật không bằng,
Như
thế, mới là thông-chân-thật.
Tính
thanh-trần, có động, có tĩnh,
Trong
tính-nghe thành có, thành không;
Khi
không tiếng, gọi là không nghe,
Đâu
phải thật không còn tính-nghe;
Không
tiếng, tính-nghe đã không diệt,
Có
tiếng, tính-nghe đâu phải sinh;
Trọn-rời
cả hai thứ sinh-diệt,
Như
thế, mới là thường-chân-thật.
Dầu
cho, trong lúc đương ngủ mê,
Không
vì không nghĩ, mà không nghe;
Tính-nghe
ra ngoài sự suy-nghĩ,
Thân,
ý không thể so bằng được.
(
Ngã kim khải Như Lai
Như
Quán Âm sở thuyết
Thí
như nhân tĩnh cư
Thập
phương câu kích cổ
Thập
xứ nhất thời văn
Thử
tắc viên chơn thật
Mục
phi quán chướng ngoại
Khẩu
tỵ diệc phục nhiên
Thân
dĩ hợp phương tri
Tâm
niệm phân vô tự
Cách
viên thính âm hưởng
Hà
nhĩ câu khả văn
Ngũ
căn sở bất tề
Thị
tắc thông chơn thật
Âm
thinh tánh động tĩnh
Văn
trung vi hữu vô
Vô
thinh hiệu vô văn
Phi
thật văn vô tánh
Thinh
vô ký vô diệt
Thinh
hữu diệc phi sanh
Sanh
diệt nhị viên ly
Thị
tắc thường chơn thật
Túng
linh tại mộng tưởng
Bất
vị bất tư vô
Giác
quán xuất tư duy
Thân
tâm bất năng cập.)
Chuyển
mê thành ngộ
Hiện
nay, trong cõi Sa-bà nầy,
Các
thứ thanh-luận được truyền-bá,
Do
chúng-sinh bỏ mất tính-nghe,
Theo
thanh-trần, nên bị lưu-chuyển;
A-nan,
tuy có tính nhớ dai,
Vẫn
không khỏi mắc các tà-niệm;
Há
không phải tùy chỗ chìm-đắm,
Xoay
ngược dòng, thoát khỏi hư-vọng.
A-nan,
ông hãy nghe cho chín,
Nay
tôi nương uy-lực của Phật,
Tuyên-nói
phép Tam-muội chân-thật,
Chắc
như Kim-cương-vương, như-huyễn,
Không
nghĩ-bàn, xuất-sinh chư Phật.
Ông
nghe tất-cả pháp bí-mật
Của
chư Phật, số như vi-trần,
Nếu
trước hết, không trừ dục-lậu,
Nghe
nhiều, chứa-chấp thành lầm-lỗi;
Dùng
cái nghe thụ-trì Phật-pháp,
Sao
lại không tự nghe cái nghe?
Tính-nghe
không phải tự-nhiên sinh,
Nhân
thanh-trần mà có danh-hiệu,
Xoay
cái nghe, thoát-ly thanh-trần,
Cái
thoát-ly ấy, gọi là gì?
Một
căn, đã trở về bản-tính,
Thì
cả sáu căn, được giải-thoát,
Thấy,
nghe như bệnh lòa huyễn-hóa,
Ba
cõi như hoa-đốm hư-không;
Xoay
tính-nghe, gốc lòa tiêu-trừ,
Trần-tướng
tiêu, giác-tính viên-tịnh.
Tột
thanh-tịnh, trí-quang thông-suốt,
Thể
tịch-chiếu trùm khắp hư-không,
Trở
lại xem các việc thế-gian
Thật
giống như chiêm-bao không khác.
Nàng
Ma-đăng-già là chiêm-bao
Thì
còn ai bắt ông được nữa?
Như
các huyễn-sư khéo trong đời,
Làm
trò, thành ra các trai, gái;
Tuy
thấy các căn đều cử-động,
Cốt-yếu,
do cái máy dật dây;
Nghỉ
máy, tất-cả đều yên-lặng,
Các
trò, trở thành không có tính.
Cả
sáu căn cũng giống như thế,
Vốn
đều nương một tính tinh-minh
Chia
ra thành sáu thứ hòa-hợp;
Một
nơi, đã rời-bỏ quay về,
Thì
cả sáu, đều không thành-lập;
Trong
một niệm, trần-cấu đều tiêu,
Chuyển-thành
tính Viên-minh tịnh-diệu,
Còn
sót trần-cấu là học-vị,
Sáng-suốt
cùng-tột, tức Như-lai.
Hỡi
đại-chúng và ông A-nan,
Hãy
xoay lại cái nghe điên-đảo,
Xoay
cái nghe về, nghe tự-tính,
Nhận
tự-tính, thành đạo vô-thượng;
Thật-tính
viên-thông là như thế."
(
Kim thử ta-bà quốc.
Thanh
luận đắc tuyên minh.
Chúng
sanh mê bổn văn.
Tuần
thinh cố lưu chuyển.
A-nan
túng cường ký.
Bất
miễn lạc tà tư.
Khởi
phi tùy sở luân.
Triền
lưu hoạch vô vọng.
A-nan
nhữ đế thính:
Ngã
thừa Phật oai lực.
Tuyên
thuyết Kim cang vương.
Như
huyễn bất tư nghị.
Phật
mẫu chơn tam muội.
Nhữ
văn vi trần Phật.
Nhất
thiết bí mật môn.
Dục
lậu bất tiên trừ.
Súc
văn thành quá ngộ.
Tương
văn trì phật phật.
Hà
bất tự văn văn?
Văn
phi tự nhiên sanh.
Nhơn
thinh hữu danh tự.
Triền
văn dữ thinh thoát.
Năng
thoát dục thùy danh?
Nhất
căn ký phản nguyên.
Lục
căn thành giải thoát.
Kiến
văn như huyễn ế.
Tam
giới nhược không hoa.
Văn
phục ế căn trừ.
Trần
tiêu giác viên tịnh.
Tịnh
cực quang thông đạt.
Tịch
chiếu hàm hư không.
Khước
lai quán thế gian.
Du
như mộng trung sự.
Ma-đăng-già
tại mộng.
Thùy
năng lưu nhữ hình?
Như
thế xảo huyễn sư.
Huyễn
tác chư nam nữ.
Tuy
kiến chư căn động.
Yếu
dĩ nhất cơ trừu.
Tức
cơ quy tịch nhiên.
Chư
huyễn thành vô tánh.
Lục
căn diệc như thị.
Nguyên
y nhất tinh minh.
Phân
thành lục hoà hợp.
Nhất
xứ thành hưu phục.
Lục
dụng giai bất thành.
Trần
cấu ứng niệm tiêu.
Thành
viên minh tịnh diệu.
Dư
trần thượng chư học.
Minh
cực tức Như Lai.
Đại
chúng cập A-nan.
Triền
nhữ đảo văn cơ.
Phản
văn văn tự tánh.
Tánh
thành vô thượng đạo.
Viên
thông thật như thị.
Thử
thị vi trần Phật.)
Chọn
lấy nhĩ-căn làm phương-tiện thích-hợp
Đây
thật là một đường thẳng tiến
Vào
Niết-bàn của vi-trần Phật;
Các
đức Như-lai trong quá-khứ
Đều
đã thành-tựu pháp-môn nầy;
Các
vị Bồ-tát trong hiện-tại
Điều
viên-minh vào pháp-môn ấy;
Những
người tu-học đời vị-lai
Đều
nên nương theo pháp-môn đó;
Tôi
cũng do pháp ấy mà chứng,
Không
phải chỉ ngài Quán-thế-âm.
Thật
như lời đức Phật Thế-tôn
Đã
hỏi tôi về các phương-tiện
Để
cứu-giúp, trong đời mạt-pháp,
Những
người cầu pháp xuất-thế-gian
Thành-tựu
được tâm-tính Niết-bàn
Thì
ngài Quán-âm là hơn cả.
Còn
tất-cả các phương-tiện khác
Đều
là nhờ uy-thần của Phật,
Tức
nơi sự, rời-bỏ trần-lao,
Không
phải phép tu-học thường-xuyên,
Nông
hay sâu cũng đồng nghe được.
(
Nhất lộ niết-bàn môn.
Quá
khứ chư Như Lai.
Tư
môn dĩ thành tựu.
Hiện
tại chư bồ tát.
Kim
các nhập viên minh.
Vị
lai tu học nhơn.
Đương
y như thị pháp.
Ngã
diệc tòng trung chứng.
Phi
duy Quán Thế Âm.
Thành
như Phật Thế Tôn.
Tuân
ngã chư phương tiện.
Dĩ
cứu chư mạt kiếp.
Cầu
xuất thế gian nhơn.
Thành
tựu niết-bàn tâm.
Quán
Thế Âm vi tối.
Tự
dư chư phương tiện.
Giai
thị Phật oai thần.
Tức
sự xả trần lao.
Phi
thị trường tu học.
Thiển
thâm đồng thuyết pháp.)
Đảnh-lễ
cầu gia-bị
Xin
đỉnh-lễ tính Như-lai-tạng,
Vô-lậu,
không còn sự nghĩ-bàn,
Nguyện
gia-bị cho đời vị-lai,
Nơi
pháp-môn nầy, không lầm-lẫn.
Đây
là phương-tiện dễ thành-tựu,
Nên
đem dạy cho ông A-nan
Cùng
những kẻ trầm-luân mạt-kiếp,
Chỉ
dùng nhĩ-căn mà tu-tập,
Thì
viên-thông chóng hơn pháp khác;
Tâm-tính
chân-thật là như thế."
(
Đảnh lễ Như Lai tạng.
Vô
lậu bất tư nghị.
Nguyện
gia bị vị lai.
Ư
thử môn vô hoặc.
Phương
tiện dị thành tựu.
Kham
dĩ giáo A-nan.
Cập
mạt kiếp trầm luân.
Đãn
dĩ thử căn tu.
Viên
thông siêu dư giả.
Chơn
thật tâm như thị.)
NGHE
PHÁP ĐƯỢC CHỨNG
Lúc
ấy, ông A-nan cùng cả đại-chúng, thân tâm tỏ-rõ, nhận được sự khai-thị to-lớn,
xem quả Bồ-đề và Đại-niết-bàn của Phật, cũng như có người nhân có việc phải đi
xa, chưa trở về được, song đã biết rõ con đường về nhà. Trong Pháp-hội, cả đại-chúng,
thiên-long bát-bộ, hàng Nhị-thừa hữu-học và tất-cả các Bồ-tát mới phát-tâm, số-lượng
bằng mười số cát sông Hằng, đều được bản-tâm xa trần-tướng, rời cấu-nhiễm, được
pháp-nhãn thanh-tịnh. Bà Tính-tỷ-khưu-ni nghe nói bài kệ xong, thành quả
A-la-hán; vô-lượng chúng-sinh đều phát-tâm Vô-đẳng-đẳng-vô-thượng Chính-đẳng-chính-giác.
3
PHÁP VÔ LẬU HỌC
Ông
A-nan sửa áo chỉnh-tề, ở trong đại-chúng, chấp tay đỉnh-lễ; tâm-tích trọn-sáng,
vừa mừng vừa tủi; vì muốn lợi-ích cho các chúng-sinh vị-lai, cúi đầu bạch Phật:
"Thưa đức Thế-tôn đại-bi, tôi nay đã ngộ được pháp-môn thành Phật, tu-hành
trong đó, được không nghi-hoặc. Tôi thường nghe đức Như-lai dạy như thế nầy: Tự
mình chưa được độ, trước đã độ người, đó là chỗ phát-tâm của các vị Bồ-tát; tự
mình giác-ngộ viên-mãn, có thể giác-ngộ kẻ khác, đó là sự ứng-thế của các đức
Như-lai. Tôi tuy chưa được độ, song nguyện độ tất-cả chúng-sinh trong đời mạt-pháp.
Bạch Thế-tôn, các chúng-sinh đó cách Phật ngày càng xa, những tà-sư thuyết-pháp;
số như cát sông Hằng; nếu muốn họ nhiếp-tâm vào Tam-ma-đề, thì nên khiến họ dựng-lập
đạo-trường thế nào để rời các ma-sự, được không thoái-khuất nơi tâm Bồ-đề."
Khi
bấy giờ, đức Thế-tôn, ở trong đại-chúng, khen-ngợi ông A-nan: "Hay lắm,
hay lắm, như chỗ ông hỏi về dựng-lập đạo-trường, cứu-giúp chúng-sinh chìm-đắm
trong đời mạt-pháp, ông hãy nghe cho chín, tôi sẽ vì ông mà nói". Ông
A-nan và cả đại-chúng kính vâng lời-dạy của Phật.
Phật
bảo ông A-nan: "Ông thường nghe tôi, trong Tỳ-nại-gia, tuyên-nói ba nghĩa
quyết-định của sự tu-hành, đó là thu-nhiếp cái tâm là giới, nhân giới mà sinh định,
nhân định mà phát tuệ, thế gọi là 3 pháp Vô-lậu-học."
GIỚI DÂM
"A-nan,
thế nào thu-nhiếp cái tâm thì gọi là giới?
Nếu
chúng-sinh lục-đạo các thế-giới, cái tâm không dâm, thì không đi theo dòng
sinh-tử tiếp-tục. Ông tu phép Tam-muội cốt để ra khỏi trần-lao, nếu không trừ
lòng dâm, thì không thể ra khỏi trần-lao được. Dầu có nhiều trí thiền-định hiện-tiền,
nếu không đoạn lòng dâm, cũng chắc lạc vào ma-đạo, hạng trên thành ma-vương, hạng
giữa thành ma-dân, hạng dưới thành ma-nữ; các bọn ma kia cũng có đồ-chúng, mỗi
mỗi tự xưng là thành đạo vô-thượng. Sau khi tôi diệt-độ rồi, trong đời mạt-pháp,
có nhiều bọn ma nầy sôi-nổi trong thế-gian, gây nhiều việc tham-dâm, lại giả
làm người thiện-tri-thức, khiến cho các chúng-sinh sa vào hầm ái-kiến; bỏ mất
con đường Bồ-đề. Ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-đề, trước hết phải đoạn cái
dâm trong tự tâm. Ấy gọi là lời dạy-bảo rõ-ràng thanh-tịnh, quyết-định thứ nhất
của các đức Như-lai Tiên-Phật Thế-tôn. Vậy nên ông A-nan, nếu không đoạn lòng
dâm mà tu thiền-định, thì cũng như nấu cát, nấu đá muốn cho thành cơm, dầu trải
qua trăm nghìn kiếp cũng chỉ gọi là cát nóng, đá nóng, vì cớ sao? Vì đó là giống
cát, giống đá, không phải là bản-nhân của cơm vậy. Ông đem thân dâm cầu diệu-quả
của Phật, dầu được diệu-ngộ, cũng chỉ là gốc dâm, cỗi-gốc đã thành dâm, thì phải
trôi-lăn trong tam-đồ, chắc không ra khỏi, còn đường nào tu-chứng Niết-bàn
Như-lai. Chắc phải khiến cho thân tâm đều đoạn hết giống dâm, cho đến tính-đoạn
cũng không còn nữa, thì mới trông-mong chứng quả Bồ-đề của Phật. Như lời tôi
nói đây, gọi là lời nói của Phật; không như lời nói đó, tức là lời nói của ma
Ba-tuần."
GIỚI SÁT
"A-nan,
lại các chúng-sinh lục-đạo trong các thế-giới, nếu cái tâm không sát, thì không
theo dòng sinh-tử tiếp-tục. Ông tu phép Tam-muội, cốt ra khỏi trần-lao, nếu
không trừ lòng sát, thì không thể ra khỏi trần-lao được. Dầu có nhiều trí thiền-định
hiện-tiền, nếu không đoạn lòng sát, thì chắc phải lạc vào thần-đạo; người bậc
trên thì thành đại-lực-quỷ, người bậc giữa thì thành phi-hành-dạ-xoa và các
loài quỷ-soái, người bậc dưới thì thành địa-hành la-sát, các loài quỷ-thần kia
cũng có đồ-chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô-thượng. Sau khi tôi diệt-độ rồi,
trong đời mạt-pháp, có nhiều quỷ-thần nầy sôi-nổi trong thế-gian, tự nói rằng
ăn thịt, được đạo Bồ-đề. A-nan, tôi khiến hàng tỷ-khưu ăn năm thứ tịnh-nhục, thịt
kia đều do thần-lực tôi hóa-sinh ra, vốn không có mạng-căn. Xứ Bà-la-môn các
ông, đất-đai phần nhiều nóng-ướt, lại thêm cát đá, rau-cỏ không sinh được; tôi
dùng sức đại-bi gia-bị, nhân sức đại-từ-bi, giả gọi là thịt và các ông cũng nhận
được cái vị như thịt; làm sao, sau khi Như-lai diệt-độ, người ăn thịt
chúng-sinh, lại gọi là Phật-tử! Các ông nên biết những người ăn thịt đó, dầu
cho tâm được khai-ngộ, giống như Tam-ma-đề, đều là loài la-sát, quả-báo hết rồi,
phải chìm-đắm trong bể khổ, không phải đệ-tử Phật. Những người như vậy, giết
nhau, nuốt nhau, ăn nhau chưa thôi, làm sao, lại được ra khỏi ba cõi. Ông dạy
người đời tu phép Tam-ma-đề, thứ nữa, phải đoạn lòng sát. Ấy gọi là lời dạy
rõ-ràng thanh-tịnh, quyết-định thứ hai của các đức Như-lai Tiên-Phật Thế-tôn.
Vậy
nên A-nan, nếu không đoạn lòng sát mà tu thiền-định, thì cũng ví-như có người tự
bịt lỗ tai, cất tiếng kêu to mà trông-mong người khác không nghe; bọn này gọi
là muốn giấu thì càng lộ. Hàng tỷ-khưu thanh-tịnh và các vị Bồ-tát đi trong đường
rẽ, không dẫm cỏ non, huống nữa là lấy tay nhổ cỏ; làm sao đức Đại-bi, lại lấy
máu thịt của các chúng-sinh, mà làm đồ-ăn?
Nếu
các hàng tỷ-khưu không mặc những đồ tơ-lụa, là-lượt phương Đông và không dùng
những giày-dép, áo-cừu, áo-len hay các thứ sữa, phó-mát, đề-hồ, thì những tỷ-khưu
như thế, đối với thế-gian, thật là giải-thoát, trả hết nợ cũ xong, thì không
vào trong ba cõi nữa, vì cớ sao? Dùng những bộ-phận thân-thể chúng-sinh, thì đều
bị ảnh-hưởng chúng-sinh, cũng như con người ăn giống bách-cốc trong đất, thì
chân không rời khỏi đất. Quyết phải khiến cho thân tâm, đối với thân-thể hay bộ-phận
thân-thể của chúng-sinh, đều không mặc, không ăn, thì những người như thế, tôi
mới gọi thật là giải-thoát. Như lời tôi nói đây, gọi là lời nói của Phật; không
như lời nói đó, tức là lời nói của ma Ba-tuần."
GIỚI ĐẠO
"A-nan,
lại như chúng-sinh lục-đạo trong thế-giới, tâm không thâu-đạo, thì không theo
dòng sinh-tử tiếp-tục. Ông tu phép Tam-muội, cốt ra khỏi trần-lao, nếu lòng
thâu-đạo không trừ, thì không thể ra khỏi trần-lao được; dầu có nhiều trí thiền-định
hiện-tiền, nếu không đoạn được lòng thâu-đạo, thì chắc phải lạc vào tà-đạo, hạng
trên thì thành tinh-linh, hạng giữa thì thành yêu-mị, hạng dưới thì thành người
tà-đạo bị các loài quỷ-mị nhập vào; các bọn tà-đạo kia cũng có đồ-chúng, mỗi mỗi
tự xưng là thành đạo vô-thượng. Sau khi tôi diệt-độ rồi, trong đời mạt-pháp, có
nhiều những hạng yêu-mị tà-đạo ấy sôi-nổi trong thế-gian, chúng lén-núp gian-dối,
tự xưng là thiện-tri-thức, mỗi người tự xưng đã được đạo-pháp thượng-nhân, lừa-gạt
kẻ không biết, doạ-dẫm khiến cho mất lòng chính-tín; chúng đi qua đến đâu, cửa
nhà người ta đều bị hao-tổn tan-nát. Tôi dạy hàng tỷ-khưu theo thứ lớp khất-thực
để bỏ lòng tham, thành đạo Bồ-đề. Các hàng tỷ-khưu không tự nấu ăn, gửi cái sống
thừa tạm-bợ trong ba cõi, thị-hiện chỉ đi về một phen, đi rồi không trở lại nữa.
Làm sao, bọn giặc mượn y-phục đạo Phật, buôn-bán Như-lai, gây các thứ nghiệp mà
đều gọi là Phật-pháp, lại còn chê-bai các vị tỷ-khưu đầy-đủ giới-luật xuất-gia
là đạo Tiểu-thừa; do chúng làm cho vô-lượng chúng-sinh mắc phải nghi-lầm, nên sẽ
bị đọa vào ngục vô-gián. Sau khi tôi diệt-độ rồi, nếu có tỷ-khưu phát-tâm quyết-định
tu phép Tam-ma-đề, biết ở trước hình-tượng Như-lai, chính mình thắp một cây
đèn, đốt một đốt ngón tay hay ở trên thân, đốt một mồi hương, tôi nói người ấy,
túc-trái vô-thủy, trong một thời trả hết, cáo-từ thế-gian, thoát hẳn các lậu.
Người ấy, tuy chưa hiểu rõ đạo vô-thượng-giác, nhưng đối với Phật-pháp, tâm đã
quyết-định; nếu không làm được cái nhân nhỏ-mọn xả-thân ấy, thì dầu thành đạo
vô-vi, cùng phải lại sinh làm người, trả các nợ củ, như quả-báo mã-mạch của
tôi, thật không sai khác. Ông dạy người đời tu phép Tam-ma-đề, sau nữa, phải đoạn
lòng thâu-đạo. Ấy gọi là lời-dạy rõ-ràng thanh-tịnh, quyết-định thứ ba của các
đức Như-lai Tiên-Phật Thế-tôn. Vậy nên ông A-nan, nếu không đoạn lòng thâu-đạo
mà tu thiền-định, thì cũng như người lấy nước rót vào chén thủng, mong cho đầy
chén, dầu trải qua kiếp-số như vi-trần, rốt-cuộc không thể đầy được. Nếu các
hàng tỷ-khưu, ngoài y-bát ra, mảy-may không tích-trữ, xin ăn có dư, thì bố-thí
cho chúng-sinh đói, nơi nhóm Hội lớn, chấp tay vái chào đại-chúng, có người
đánh-mắng cũng đồng như khen-ngợi, quyết-định rời-bỏ cả thân và tâm, thân-thịt
xương-máu thành sở-hữu chung của chúng-sinh, không đem những lời-dạy bất-liễu-nghĩa
của Như-lai làm chỗ hiểu của mình, khiến cho kẻ sơ-học phải lầm-lạc, thì Phật ấn-chứng
người ấy, thật được Tam-muội. Như lời tôi nói đây, gọi là lời nói của Phật;
không như lời nói đó, tức là lời nói của ma Ba-tuần."
GIỚI VỌNG
"A-nan,
chúng-sinh lục-đạo trong thế-giới như thế, tuy nơi thân tâm không còn sát, đạo,
dâm, cả ba hạnh đã được viên-mãn, nếu mắc phải đại-vọng-ngữ, thì Tam-ma-đề
không được thanh-tịnh, thành giống ma ái-kiến và mất giống Như-lai; tức như
chưa được gọi rằng được, chưa chứng gọi rằng chứng, hoặc để cầu thế-gian tôn-trọng
tột-bậc, bảo người khác rằng: Nay tôi đã được quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả
A-na-hàm, đạo A-la-hán, thừa Bích-chi-Phật hay các quả-vị Bồ-tát trong thập-địa
hay trước thập-địa, trông-mong người kia lễ-sám, tham sự cúng-dường. Những tên
nhất-điên-ca ấy, tự tiêu-diệt giống Phật, như người lấy dao chặt cây đa-la; Phật
ấn-ký người ấy, mất hẳn thiện-căn, không còn chính-tri-kiến, chìm-đắm trong ba
bể khổ, không thành-tựu pháp Tam-muội. Tôi bảo các hàng Bồ-tát và A-la-hán, sau
khi tôi diệt-độ rồi, hiện ra ứng-thân, sinh trong đời mạt-pháp kia, hiện ra nhiều
hình-tướng khác nhau, đề độ những người còn trong vòng luân-hồi, hoặc làm
sa-môn, bạch-y-cư-sĩ, vua-chúa, quan-lại, đồng-nam, đồng-nữ, như thế cho đến
người dâm-nữ, người quả-phụ, người gian-dối, trộm-cắp, người hàng-thịt,
buôn-bán, để khen-ngợi Phật-thừa với những người đồng-sự, khiến cho thân tâm của
họ vào được Tam-ma-đề; nhưng rốt-ráo không tự bảo rằng tôi thật là Bồ-tát, thật
là A-la-hán, khinh-xuất nói với những người chưa học, làm tiết-lậu mật-nhân của
Phật, chỉ trừ đến lâm-chung, hoặc chăng, thầm có những lời di-chúc; làm sao, lại
còn có lừa-gạt chúng-sinh, thành tội đại-vọng-ngữ. Ông dạy người đời tu phép
Tam-ma-đề, sau-rốt phải đoạn-trừ các đại-vọng-ngữ. Ấy gọi là lời-dạy rõ-ràng
thanh-tịnh, quyết-định thứ tư của các đức Như-lai Tiên-Phật Thế-tôn.
Vậy
nên ông A-nan, nếu không đoạn-trừ lòng đại-vọng-ngữ, thì cũng như khắc phân người
làm thành hình cây chiên-đàn, mà muốn được hương-thơm, thật không có lẽ nào như
vậy. Tôi dạy hàng tỷ-khưu lấy trực-tâm làm đạo-trường, trong hết thảy hành-động,
nơi bốn uy-nghi, còn không có giả-dối, làm sao, lại có kẻ tự xưng đã được đạo-pháp
thượng-nhân! Ví-như người dân-cùng xưng càn là đế-vương để tự chuốc lấy sự
tru-diệt, huống nữa, là vị Pháp-vương, làm sao, lại dám xưng-càn! Nhân đã không
thật, quả ắt quanh-co, như thế, mà cầu đạo Bồ-đề của Phật, thì cũng như người
muốn cắn rốn, làm sao, mà thành-tựu được. Nếu như các hàng tỷ-khưu, tâm như dây
đàn thẳng, tất-cả đều chân-thật mà vào Tam-ma-đề, thì hẳn không có các ma-sự,
tôi ấn-chứng người đó, thành-tựu được vô-thượng tri-giác của các hàng Bồ-tát.
Như lời tôi nói đây, gọi là lời nói của Phật; không như lời nói đó, tức là lời
nói của ma Ba-tuần."
PHẬT
KHAI THỊ VỀ MẬT GIÁO,
THẦM
GIÚP CHO NHỮNG NGƯỜI TU HÀNH
A-nan,
ông hỏi cách nhiếp-trì tâm-niệm, thì tôi đã nói rằng: Người muốn vào Tam-ma-đề,
tu-học pháp-môn nhiệm-mầu, cầu đạo Bồ-tát; trước hết cần giữ 4 thứ luật-nghi đó
trong-sáng như giá, như sương, tự không thể sinh ra được tất-cả ngành lá; ba
ý-nghiệp, bốn khẩu-nghiệp ác chắn không còn có nhân mà sinh được. A-nan, nếu giữ
4 việc như vậy không thiếu-sót, thì tâm còn không duyên với sắc, hương, vị,
xúc, tất-cả ma-sự làm sao mà phát-sinh được. Nếu có tập-khí cũ không thể diệt-trừ,
ông dạy người đó nhất-tâm tụng thần-chú vô-thượng "Phật-đỉnh quang-minh
ma-ha tát-đát-đa bát-đát-ra" của tôi, đó là cái tâm-chú do Vô-vi-tâm-Phật
của Vô-kiến-đỉnh-tướng Như-lai, từ nơi đỉnh hiện ra, ngồi trên hoa sen báu mà
nói.
Vả
lại, ông cùng nàng Ma-đăng-già, do nhân-duyên nhiều kiếp đời trước thành tập-khí
ân-ái, không phải một đời hay là một kiếp; song, một phen tôi tuyên-dương thần-chú,
thì Nàng Ma-đăng-già thoát hẳn khỏi lòng yêu, thành quả A-la-hán. Nàng kia, còn
là dâm-nữ, không có tâm tu-hành, do sức thần-chú giúp, cũng mau chứng quả vô-học;
thế thì bọn ông, những hàng Thanh-văn trong Hội nầy, cầu Tối-thượng-thừa, thì
quyết-định sẽ thành Phật, cũng ví-như bụi bay gặp gió thuận, có khó-khăn gì?
Nếu
có người, trong đời mạt-pháp, muốn ngồi đạo-trường tu-hành, trước hết phải giữ
cấm-giới tỷ-khưu thanh-tịnh và cần phải lựa-chọn những vị sa-môn giữ-giới
thanh-tịnh bậc nhất để làm thầy mình; nếu không gặp được tăng-chúng thật
thanh-tịnh, thì giới-luật-nghi chắc không thành-tựu được. Sau khi giới được
thành-tựu rồi, người đó đắp-y mới, sạch-sẽ, đốt hương, ở riêng một mình, tụng
thần-chú, do tâm-Phật nói, một trăm tám biến; về sau, kết-giới dựng-lập đạo-trường,
cầu các đức vô-thượng Như-lai, hiện ở trong các cõi-nước mười phương, phóng
hào-quang đại-bi đến rọi nơi đỉnh-đầu mình.
A-nan,
những hàng thanh-tịnh tỷ-khưu, hoặc tỷ-khưu-ni, hoặc bạch-y đàn-việt như vậy,
trong đời mạt-pháp, tâm diệt được tham-dâm, giữ giới thanh-tịnh của Phật, ở
trong đạo-trường, phát-nguyện Bồ-tát, khi ra, khi vào, khi tắm, khi rửa, cả
trong sáu thời đều hành-đạo như vậy, không ngủ, đến ba lần bảy ngày, thì tôi tự
hiện-thân đến trước người ấy, xoa đỉnh an-ủi, khiến cho khai-ngộ".
Ông
A-nan bạch Phật rằng: Thưa Thế-tôn, tôi nhớ lời từ-bi dạy-bảo vô-thượng của đức
Như-lai, tâm đã khai-ngộ, tự biết con đường tu-chứng thành-quả vô-học, song, những
người tu-hành, trong đời mạt-pháp, muốn lập đạo-trường, cần kết-giới thế nào,
cho hợp với quy-tắc thanh-tịnh của chư Phật Thế-tôn?"
KHAI
THỊ NGHI THỨC ĐẠO TRƯỜNG
Phật
bảo ông A-nan: "Nếu người trong đời mạt-pháp, muốn lập đạo-trường, trước hết,
phải lấy phân con đại-lực-bạch-ngưu ở núi Tuyết-sơn, bạch-ngưu nầy, ăn cỏ-thơm
ngon-tốt trong núi và chỉ uống nước trong trên núi Tuyết-sơn, nên cái phân mịn-màng;
nên lấy cái phân nó, hòa-hợp với hương chiên-đàn để quét trên mặt đất. Nếu,
không phải ở Tuyết-sơn, thì phân bạch-ngưu hôi-nhớp, không thể trát đất được. Vậy
thì, phải riêng ở nơi bình-nguyên, đào bỏ các lớp đất trên mặt, lấy thứ đất
vàng từ 5 thước trở xuống; rồi lấy 10 thứ hương là chiên-đàn, trầm-thủy, tô-hợp,
huân-lục, uất-kim, bạch-giao, thanh-mộc, linh-lăng, cam-tùng và kê-thiệt, nghiền-rây
thành bột, trộn với đất ấy thành bùn, để trát trên mặt đất đạo-trường, mỗi bề 1
trượng 6, thành cái đàn bát-giác. Giữa trung-tâm đàn, an-trí một hoa sen làm bằng
vàng, bạc, đồng, cây, giữa hoa để một cái bát, trong bát đựng trước nước
mù-sương tháng Tám và trong nước ấy tùy-ý cắm các hoa lá hiện có. Rồi lấy 8 cái
gương tròn, mỗi cái để một phía, chung-quanh hoa sen và bát hoa. Bên ngoài những
gương ấy, an-trí 16 hoa sen và giữa các hoa sen để 16 lư-hương cho trang-hoàng.
Trong lư-hương đốt toàn hương trầm-thủy, không cho thấy lửa. Lấy sữa bạch-ngưu
để trong 16 khí-mãnh; lấy sữa làm bánh-nướng và các thứ đường-cát, bánh-rán, bột-sữa,
tô-hộp, mứt-gừng, mật-ong, bơ tốt, mật tốt, mỗi thứ 16 khí-mãnh, đặt ở ngoài
hoa sen và quanh vòng hoa sen; để cúng-dâng chư Phật và các vị Đại-bồ-tát.
Trong
mỗi thời ăn cơm và ở giữa đêm, lấy nửa thăng mật và 3 cáp bơ, trước đàn để
riêng một lư lửa nhỏ; lấy hương đâu-lâu-bà, nấu lấy nước thơm, rửa than cho sạch;
rồi đốt than đỏ hồng trong lư và rót mật bơ vào, đốt cho hết khói để cúng-dường
chư Phật, Bồ-tát.
Ở
4 phía ngoài, treo khắp phan và hoa; ở trong phòng đàn, an-trí hình-tượng hiện
có của thập phương Như-lai và các vị Bồ-tát nơi 4 vách. Nên ở chính-giữa để
hình-tượng Phật Lô-xá-na, Phật Thích-ca, Phật Di-lặc, Phật A-xơ, Phật Di-đà và
các hình-tượng đại-biến-hóa của Ngài Quán-âm, lại thêm, hình-tượng các vị
Kim-cương-tạng Bồ-tát để ở hai bên; những tượng của Đế-thích, Phạm-vương,
Ô-sô-sắt-ma, Lam-địa-ca, Quân-trà-lỵ, Tỳ-câu-chi và Tứ-thiên-vương, Tần-na, Dạ-ca,
vân vân..., treo ở hai bên cửa; lại lấy 8 cái gương treo úp trên hư-không, mặt
gương nầy đối-chiếu với 8 gương trước, đã để trong đàn-tràng, làm cho các hình-ảnh
lồng-nhau nhiều lớp.
KHAI
THỊ TU TRÌ ĐƯỢC CHỨNG
Trong
tuần 7 ngày đầu, chí-thành đỉnh-lễ danh-hiệu thập phương Như-lai, các vị Đại-bồ-tát
và A-la-hán, thường tron 6 thời tụng-chú đi quanh đàn, chí-tâm hành-đạo, một thời
thường là 108 biến. Trong tuần 7 ngày thứ 2, một mặt chuyên-tâm phát-nguyện Bồ-tát,
tâm không gián-đoạn; trong luật-nghi đạo, ta đã có chỉ-dạy về nguyện. Trong tuần
7 ngày thứ 3, trong cả 12 thời, một mặt trì-chú Bát-đát-ra của Phật; đến ngày
thứ 7, thì thấy thập phương Như-lai một thời xuất-hiện, trong chỗ ánh-sáng các
mặt gương giao-xen và được Phật xoa đỉnh. Rồi, liền ở nơi đạo-trường đó, tu
phép Tam-ma-đề, có thể khiến cho những người tu-học như vậy, trong đời mạt-pháp,
thân tâm được sáng-suốt, trong-sạch như ngọc lưu-ly.
A-nan,
nếu trong các thầy truyền-giới cho vị tỷ-khưu ấy, hay trong 10 vị tỷ-khưu đồng-hội,
có một người giới-hạnh không thanh-tịnh, thì những đạo-trường như thế, phần nhiều
là không thành-tựu.
Từ
sau 3 tuần 7 ngày, ngồi nghiêm-chỉnh an-cư, trải qua một trăm ngày, thì những
người có lợi-căn, không rời khỏi chỗ ngồi, đã được quả Tu-đà-hoàn; dầu cho nơi
thân tâm thánh-quả chưa thành, nhưng đã quyết-định tự biết sẽ thành Phật, không
sai-chạy. Ông hỏi về đạo-trường, thì cách dựng-lập như vậy".
PHÓNG
HÀO QUANG, KHẮP THỊ HIỆN
Ông
A-nan đỉnh-lễ chân Phật mà bạch Phật rằng: "Từ khi xuất-gia, tôi ỷ-lại nơi
lòng thương-yêu của Phật; vì cầu tuệ đa-văn, chưa chứng quả vô-vi, nên bị
tà-thuật Phạm-thiên kia bắt-buộc; tâm tuy rõ-ràng, nhưng sức không tự-do, nhờ gặp
ngài Văn-thù, khiến cho tôi được giải-thoát. Tuy tôi thầm nhờ sức của thần-chú
Phật-đỉnh Như-lai, nhưng chính mình còn chưa được nghe chú ấy, xin nguyện đức Đại-từ
tuyên-nói lại cho, thương-xót cứu-giúp các hàng tu-hành trong Hội nầy và những
người đời sau, còn trong luân-hồi, được nhờ mật-âm của Phật, mà thân-ý được giải-thoát".
Lúc bấy giờ, tất-cả đại-chúng trong Hội thảy đều làm lễ, chờ nghe những câu chú
bí-mật của Như-lai.
Lúc
đó, đức Thế-tôn, từ nơi nhục-kế phóng ra trăm thứ hào-quang báu, trong
hào-quang hiện ra hoa sen báu ngàn cánh, có hóa-thân Như-lai ngồi trong hoa
sen, trên đình phóng ra mười đạo hào-quang bách-bảo; trong mỗi mỗi đạo hào-quang,
đều hiện ra những vị Kim-cương mật-tích, số-lượng bằng mười số cát sông Hằng,
xách núi, cầm xử, khắp cõi hư-không. Đại-chúng ngửa lên xem, vừa yêu vừa sợ, cầu
Phật thương-xót che-chở, một tâm nghe đức Phóng-quang Như-lai, nơi Vô-kiến-đỉnh-tướng
của Phật, tuyên-nói thần-chú :
(
Nhĩ thời Thế Tôn, tùng nhục kế trung, dõng bách bảo quang, quang trung dõng xuất,
thiên diệp bảo liên, hữu hóa Như Lai, tọa bảo hoa trung. Ðảnh phóng thập đạo,
bá bảo quang minh, nhất nhất quang minh, giai biến thị hiện, thập Hằng Hà sa,
Kim cang mật tích, kình sơn trì sử, biến hư không giới, Ðại chúng ngưỡng quán,
úy ái kiêm bão, cầu Phật ai hựu, nhất tâm thính Phật, vô kiến đảnh tướng, phóng
quang Như Lai, tuyên thuyết thần chú :)
PHẬT
ĐẢNH QUANG TỤ
MA
HA TẤT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA
THỦ
LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ
ÐỆ
NHỨT
Nam-mô
tát đát tha tô già đa da a ra ha đế tam-miệu tam-bồ-đà-tỏa.Tát đát tha Phật đà
cu-tri sắc ni sam.
Nam-mô
tát bà bột đà bột địa, tát đa bệ tệ.
Nam-mô
tát đa nẩm tam-miệu tam-bồ-đà cu-tri nẩm. Ta xá ra bà ca tăng-già nẩm.
Nam-mô
lô kê a-la-hán đa nẩm.
Nam-mô
tô lô đa ba na nẩm.
Nam-mô
ta yết rị đà già di nẩm.
Nam-mô
lô kê tam-miệu già đa nẩm. Tam miệu già ba ra để ba đa na nẩm.
Nam-mô
đề bà ly sắt nỏa.
Nam-mô
tất đà da tỳ địa da đà ra ly sắt nỏa. Xá ba noa yết ra ha ta ha ta ra ma tha nẩm.
Nam-mô
bạt ra ha ma ni.
Nam-mô
nhơn đà ra da.
Nam-mô
bà già bà đế, lô đà ra da. Ô ma bát đế, ta hê dạ da.
Nam-mô
bà già bà đế.
Na
ra dả noa da. Bàn-giá ma-ha tam mộ đà ra.
Nam-mô
tất yết rị đa da.
Nam-mô
bà già bà đế, ma ha ca ra da. Ðịa rị bác lặc na già ra. Tỳ đà ra ba noa ca ra
da. A địa mục đế. Thi ma xá na nê bà tất nê. Ma đát rị già noa.
Nam-mô
tất yết rị đa da.
Nam-mô
bà già bà đế. Ða tha già đa cu ra da.
Nam-mô
bát đầu ma cu na da.
Nam-mô
bạt xà ra cu ra da.
Nam-mô
ma ni cu ra da.
Nam-mô
già xà cu ra gia.
Nam-mô
bà già bà đế, đế rị trà du ra tây na, ba ra ha ra noa ra xà dà, đa tha già đa
da.
Nam-mô
bà già bà đế.
Nam-mô
a di đa bà da, đa tha dà đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.
Nam-mô
bà già bà đế, a sô bệ da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.
Nam-mô
bà già bà đế, bệ sa xà da cu lô phệ trụ rị da, bát ra bà ra xà da, đa tha già
đa da.
Nam-mô
bà già bà đế, tam bổ sư bí đa, tát lân nại ra lặc xà da, đa tha già đa da, a ra
ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.
Nam-mô
bà già bà đế, xá kê dã mẫu na duệ, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà
da.
Nam-mô
bà già bà đế, lặc đác na kê đô ra xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miệu
tam-bồ-đà da, đế biều nam-mô tát yết rị đa, ế đàm bà giá bà đa, tát đác tha già
đô sắc ni sam, tát đác đa bác đác lam.
Nam-mô
a bà ra thị đam, bác ra đế dương kỳ ra, tát ra bà bộ đa yết ra ha, ni yết ra ha
yết ca ra ha ni, bạc ra bí địa da sất đà nể, a ca ra mật rị trụ, bát rị đát ra
da nảnh yết rị, tát ra bà bàn đà na mục xoa ni, tát ra bà đột sắc tra đột tất
phạp bát na nể phạt ra ni, giả đô ra thất đế nẫm, yết ra ha ta ha tát ra nhã
xà, tỳ đa băng ta na yết rị, a sắc tra băng xá đế nẫm, na xoa sát đác ra nhã
xà, ba ra tát đà na yết rị, a sắc tra nẫm, ma ha yết ra ha nhã xà, tỳ đa băng
tát na yết rị, tát bà xá đô lô nể bà ra nhã xà, hô lam đột tất phạp nan giá na
xá ni, bí sa xá tất đác ra, a kiết ni ô đà ca ra nhã xà, a bát ra thị đa cu ra
ma ha bác ra thiện trì, ma ha điệp đa, ma ha đế xà, ma ha thuế đa xà bà ra, ma
ha bạt ra bàn đà ra bà tất nể, a rị da đa ra, tỳ rị cu tri, thệ bà tỳ xà da, bạc
xà ra ma lễ để, tỳ xá lô đa, bột đằng dõng ca, bạt xà ra chế hắt na a giá, ma
ra chế bà bác ra chất đa, bạc xà ra thiện trì, tỳ xá ra giá, phiến đa xá bệ đề
bà bổ thị đa, tô ma lô ba, ma ha thuế đa, a rị da đa ra, ma ha bà ra, a bác ra,
bạt xà ra thương yết ra chế bà, bạt xà ra cu ma rị, cu lam đà rị, bạt xà ra hắc
tát đa giá tỳ địa gia kiền giá na ma rị ca, khuất tô mẫu bà yết ra đá na, bệ lô
giá na cu rị da, dạ ra thố sắc ni sam, tỳ chiết lam bà ma ni giá, bạt xà ra ca
na ca ba ra bà, lô xà na bạt xà ra đốn trỉ giá, thuế đa giá ca ma ra sát xa thi
ba ra bà, ế đế di đế, mẫu đà ra yết noa, ta bệ ra sám, quật phạm đô, ấn thố na
mạ mạ tỏa.
ÐỆ
NHỊ
Ô
hồng, rị sắt yết noa, bác lặc xá tất đa, tát đát tha già đô sắc ni sam. Hổ hồng,
đô lô ung chiêm bà na. Hổ hồng, đô lô ung tất đam bà na. Hổ hồng, đô lô ung ba
ra sắc địa da tam bác xá noa yết ra. Hổ hồng, đô lô ung, tát bà dược xoa hắt ra
sát ta, yết ra ha nhã xà, tỳ đằng băng tát na yết ra. Hổ hồng, đô lô ung, giả
đô ra thi để nẫm, yết ra ha, ta ha tát ra nẫm, tỳ đằng băng tát na ra. Hổ hồng,
đô lô ung, ra xoa, bà già phạm tát đát tha già đô sắc ni sam, ba ra điểm xà kiết
rị, ma ha ta ha tát ra, bột thọ ta ha tát ra thất rị sa, cu tri ta ha tát nê đế
lệ, a tệ đề thị bà rị đa, tra tra anh ca ma ha bạt xà lô đà ra, đế rị bồ bà na,
man trà na, ô hồng, ta tất đế bạc bà đô, mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.
ÐỆ
TAM
Ra
xà bà dạ, chủ ra bạt dạ, a kỳ ni bà dạ, ô đà ca bà dạ, tỳ xa bà dạ, xá tát đa
ra bà dạ, bà ra chước yết ra bà dạ, đột sắc xoa bà dạ, a xá nể bà dạ, a ca ra mật
rị trụ bà dạ, đà ra ni bộ di kiếm ba già ba đà bà dạ, ô ra ca bà đa bà dạ, lặc
xà đàng trà bà dạ, na già bà dạ, tỳ điều đát bà dạ, tô ba ra noa bà dạ, dược
xoa yết ra ha, ra xoa tư yết ra ha, tất rị đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ
đa yết ra ha, cưu-bàn trà yết ra ha, bổ đơn na yết ra ha, ca tra bổ đơn na yết
ra ha, tất kiền độ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, ô đàn ma đà yết ra ha,
xa dạ yết ra ha, hê rị bà đế yết ra ha, xã đa ha rị nẩm, yết bà ha rị nẩm, lô địa
ra ha rị nẩm, mang ta ha rị nẩm, mê đà ha rị nẩm, ma xà ha rị nẩm, xà đa ha rị
nữ, thị tỷ đa ha rị nẩm, tỳ đa ha rị nẩm, bà đa ha rị nẩm, a du giá ha rị nữ,
chất đa ha rị nữ, đế sam tát bệ sam, tát bà yết ra ha nẩm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ
di, kê ra dạ di, ba rị bạt ra giả ca hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê
ra dạ di, trà diễn ni hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma ha
bát du bác đát dạ, lô đà ra hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di,
na ra dạ noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, đát đỏa già lô
trà tây hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma-ha ca ra ma đát rị
già noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ca ba rị ca hất rị đởm,
tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, xà dạ yết ra, ma độ yết ra tát bà ra tha
ta đạt na hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, giả đốt ra bà kỳ nể
hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ rị dương hất rị tri, nan
đà kê sa ra dà noa bác đế, sách hê dạ hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê
ra dạ di, na yết na xa ra bà noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ
di, a-la-hán hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ đa ra già hất
rị đởm, tỷ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, bạt xà ra ba nể, cu hê dạ, cu hê
dạ, ca địa bát đế hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ra thoa vỏng,
bà dà phạm, ấn thố na mạ mạ tỏa.
ÐỆ
TỨ
Bà
già phạm, tát đát đa bác đá ra, Nam-mô tý đô đế, a tất đa na ra lặc ca, ba ra
bà tất phổ tra, tỳ ca tát đát đa bát đế rị, thập Phật ra thập Phật ra, đà ra đà
ra, tần đà ra tần đà ra, sân đà sân đà. Hổ hồng. Hổ hồng, phấn tra, phấn tra,
phấn tra, phấn tra, phấn tra, ta ha, hê hê phấn, a mâu ca da phấn, a ba ra đề
ha đa phấn, ba ra bà ra đà phấn, a tố ra tỳ đà ra ba ca phấn, tát bà đề bệ tệ
phấn, tát bà na già tệ phấn, tát bà dược xoa tệ phấn, tát bà kiền thát bà tệ phấn,
tát bà bổ đơn na tệ phấn, ca tra bổ đơn na tệ phấn, tát bà đột lang chỉ đế tệ
phấn, tát bà đột sáp tỷ lê hất sắc đế tệ phấn, tát bà thập bà lê tệ phấn, tát
bà a bá tất ma lê tệ phấn, tát bà xá ra bà noa tệ phấn, tát bà địa đế kê tệ phấn,
tát bà đát ma đà kê tệ phấn, tát bà tỳ đà da ra thệ giá lê tệ phấn, xà dạ yết
ra ma độ yết ra, tát bà ra tha ta đà kê tệ phấn; tỳ địa dạ giá lê tệ phấn, giả
đô ra phược kỳ nể tệ phấn, bạt xà ra cu ma rị, tỳ đà dạ ra thệ tệ phấn, ma ha
ba ra đinh dương xoa tỳ rị tệ phấn, bạt ra xa thương yết ra dạ, ba ra trượng kỳ
ra xà da phấn, ma ha ca ra dạ, ma ha mạt đát rị ca noa.
Nam-mô
ta yết rị đa dạ phấn, tỷ sắc noa tỳ duệ phấn, bột ra ha mâu ni duệ phấn, a kỳ
ni duệ phấn, ma ha yết rị duệ phấn, yết ra đàn trì duệ phấn, miệc đát rị duệ phấn,
lao đát rị duệ phấn, giá văn trà duệ phấn, yết la ra đát rị duệ phấn, ca bác rị
duệ phấn, a địa mục chất đa ca thi ma xá na, bà tư nể duệ phấn, diễn kiết chất,
tát đỏa bà tỏa, mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.
ÐỆ
NGŨ
Ðột
sắc tra chất đa, a mạt đát rị chất đa, ô xà ha ra, già bà ha ra, lô địa ra ha
ra, ta bà ha ra, ma xà ha ra, xà đa ha ra, thị tỷ đa ha ra, bạc lược dạ ha ra,
kiền đà ha ra, bố sử ba ha ra, phả ra ha ra, bà tỏa ha ra, bác ba chất đa, đột
sắc tra chất đa, lao đà ra chất đa, dược xoa yết ra ha, ra sát ta yết ra ha, bế
lệ đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, cưu bàn trà yết ra ha, tất
kiền đà yết ra ha, ô đát ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra ha, a bá tất ma ra yết
ra ha, trạch khê cách trà kỳ ni yết ra ha, rị Phật đế yết ra ha, xà di ca yết
ra ha, xá cu ni yết ra ha, lao đà ra nan địa ca yết ra ha, a lam bà yết ra ha,
kiền độ ba ni yết ra ha, thập Phật ra yên ca hê ca, trụy đế dược ca, đát lệ đế
dược ca, giả đột thác ca, ni đề thập phạt ra, tỷ sam ma thập phạt ra, bạc để
ca, tỷ để ca, thất lệ sắt mật ca, ta nể bác đế ca, tát bà thập phạt ra, thất lô
kiết đế, mạt đà bệ đạt lô chế kiếm, a ỷ lô kiềm, mục khê lô kiềm, yết rị đột lô
kiềm, yết ra ha yết lam, yết na du lam, đản đa du lam, hất rị dạ du lam, mạt mạ
du lam, bạt rị thất bà du lam, tỷ lật sắc tra du lam, ô đà ra du lam, yết tri
du lam, bạt tất đế du lam, ô lô du lam, thường già du lam, hắc tất đa du lam, bạt
đà du lam, ta phòng án già bác ra trượng già du lam, bộ đa tỷ đa trà, trà kỳ ni
thập bà ra, đà đột lô ca kiến đốt lô kiết tri, bà lộ đa tỳ, tát bác lô, ha lăng
già, du sa đát ra, ta na yết ra, tỳ sa dụ ca, a kỳ ni ô đà ca, mạt ra bệ ra, kiến
đa ra, a ca ra mật rị đốt đát liểm bộ ca, địa lật lặc tra, tỷ rị sắc chất ca,
tát bà na cu ra, tứ dẫn già tệ yết ra, rị dược xoa, đác ra sô, mạt ra thị phệ đế
sam, ta bệ sam, tất đát đa bác đát ra, ma ha bạc xà lô sắc ni sam, ma ha bác lặc
trượng kỳ lam, dạ ba đột đà xá dụ xà na, biện đát lệ noa, tỳ đà da bàn đàm ca
lô di, đế thù bàn đàm ca lô di, bát ra tỳ đà, bàn đàm ca lô di, đác điệc tha.
Án,
a na lệ, tỳ xá đề, bệ ra bạt xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bán ni phấn.
Hổ hồng, đô lô ung phấn, ta bà ha.
THẬP
PHƯƠNG NHƯ LAI
NHÂN
TỤNG TÂM CHÚ NÀY MÀ ĐƯỢC THÀNH PHẬT
"A-nan,
những câu nhiệm-mầu, những kệ bí-mật "Tất-đát-đa-bát-đát-ra" của
hóa-thân nơi hào-quang đỉnh-Phật, sinh ra tất-cả chư Phật thập phương. Thập
phương Như-lai nhân chú-tâm nầy, thành được Vô-thượng-chính-biến-tri-giác. Thập
phương Như-lai nắm chú-tâm nầy, uốn-dẹp các ma, chế-phục các ngoại-đạo. Thập
phương Như-lai vận chú-tâm nầy, ngồi hoa sen báu, ứng-hiện trong các cõi-nước
như số vi-trần. Thập phương Như-lai ngậm chú-tâm nầy, nơi cõi-nước như số vi-trần,
xoay bánh xe Pháp lớn. Thập phương Như-lai giữ chú-tâm nầy, có thể nơi mười
phương xoa đỉnh thụ-ký, tự mình quả-vị chưa thành, cũng có thể nơi mười phương
nhờ chư Phật thụ-ký. Thập phương Như-lai nương chú-tâm nầy, có thể nơi mười
phương cứu-vớt các khổ như địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sinh, đui, điếc, ngọng, câm;
các khổ oán-tăng-hội, ái-biệt-ly, cầu-bất-đắc, ngũ-ấm-xí-thịnh; những tai-nạn lớn
nhỏ đồng-thời được giải-thoát; nạn giặc, nạn binh, nạn vua, nạn ngục, nạn gió,
lửa, nước, cho đến đói-khát bần-cùng, liền được tiêu-tan. Thập phương Như-lai
theo chú-tâm nầy, có thể nơi mười phương, phụng-sự thiện-tri-thức, trong bốn
uy-nghi, cúng-dường được như-ý; trong Pháp-hội hằng-sa Như-lai, được suy-tôn là
vị Đại-pháp-vương-tử. Thập phương Như-lai dùng chú-tâm nầy, có thể nơi mười
phương, nhiếp-thụ các nhân-thân, khiến cho các hàng Tiểu-thừa nghe tạng bí-mật,
không sinh lòng kinh-sợ. Thập phương Như-lai tụng chú-tâm nầy, thành-đạo Vô-thượng-giác,
ngồi dưới cây Bồ-đề, vào Đại-niết-bàn. Thập phương Như-lai truyền chú-tâm nầy,
sau khi diệt-độ rồi, phó-chúc Pháp-sự của Phật, được trụ-trì rốt-ráo; giới-luật
nghiêm-tịnh, thảy đều trong-sạch."
"Nếu
tôi nói chú "Phật-đỉnh-quang-tụ bát-đát-ra" nầy, từ sáng đến tối, các
tiếng nối nhau, trong đó những chữ, những câu cũng không trùng-điệp, trải qua
kiếp-số như cát sông Hằng, rốt-cuộc không thể hết được. Chú nầy cũng gọi tên là
Như-lai-đỉnh."
"Hàng
hữu-học các ông chưa hết luân-hồi, phát-lòng chí-thành tu chứng quả A-la-hán, nếu
không trì-chú nầy, khi ngồi đạo-trường, mà khiến thân tâm xa-rời được các ma-sự,
thì không thể được.
A-nan,
nếu trong các thế-giới, có những chúng-sinh, tùy cõi-nước mình sinh ra, nào vỏ
cây hóa, nào lá cây bối, nào giấy trắng, nào bạch-diệp, dùng để viết-chép chú nầy,
đựng trong túi thơm; nếu người đó tối-tăm chưa tụng, chưa nhớ được, mà hoặc đeo
trên mình, hoặc viết trong nhà ở, thì nên biết người ấy, trọn đời tất-cả các thứ
độc không thể hại được.
A-nan,
nay tôi vì ông tuyên lại chú nầy, cứu-giúp trong thế gian được đại-vô-úy và
thành-tựu trí xuất-thế-gian cho chúng-sinh.
Nếu
sau khi tôi diệt-độ rồi; chúng-sinh trong đời mạt-pháp, có người biết tự mình tụng,
hoặc dạy người khác tụng-chú nầy, nên biết những chúng-sinh trì-tụng như vậy, lửa
không đốt được, nước không đắm được, độc lớn, độc nhỏ không thể hại được, cho đến
các hàng thiên, long, quỷ, thần, tinh, kỳ, ma, mị, có những chú-dữ, đều không
làm gì được. Tâm người ấy được chính-thụ; tất-cả chú-trớ, yểm-cổ, thuốc-độc,
kim-độc, ngân-độc và độc-khí muôn vật như cỏ, cây, sâu, rắn, vào miệng người ấy
đều thành vị cam-lộ. Tất-cả ác-tinh với các quỷ-thần, lòng dữ hại người, đối với
người ấy, cũng không thể khởi ra ác-niệm; Tần-na, Dạ-ca và các quỷ-vương dữ
khác, cùng với quyến-thuộc, đều lĩnh-ơn sâu, thường gìn-giữ ủng-hộ.
A-nan,
nên biết chú nầy, thường có 84.000 na-do-tha hằng-hà-sa câu-chi chủng-tộc
Kim-cương-tạng-vương Bồ-tát, mỗi mỗi đều có những chúng Kim-cương làm quyến-thuộc,
ngày đêm theo hầu. Giả-sử có chúng-sinh, với tâm tán-loạn, chứ không phải
Tam-ma-đề, tâm nhớ niệm-trì chú nầy; thì các Kim-cương-vương đó, cũng thường
theo bên thiện-nam-tử kia, huống nữa, là những người có tâm Bồ-đề quyết-định; đối
với những người nầy, các vị Kim-cương-tạng-vương Bồ-tát đó, dùng tịnh-tâm thầm
xúc-tiến, phát-huy thần-thức; người ấy liền khi đó, tâm nhớ lại được 84.000 hằng-ha-sa
kiếp, rõ-biết cùng khắp, được không nghi-hoặc. Từ kiếp thứ nhất cho đến thân cuối-cùng,
đời đời người ấy không sinh vào các loài dược-xoa, la-sát, phú-đan-na,
ca-tra-phú-đan-na, cưu-bàn-trà, tỳ-xá-già, vân vân..., cùng các loài ngạ-quỷ,
có hình, không hình, có tưởng, không tưởng và những chỗ dữ như thế. Thiện-nam-tử
đó, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc viết, hoặc chép, hoặc đeo, hoặc giữ, hoặc cúng-dường
nhiều cách chú nầy, thì kiếp kiếp không sinh vào những nơi bần-cùng hạ-tiện,
không thể ưa-thích.
Các chúng-sinh đó, dù cho chính mình không làm việc phúc, thập phương Như-lai có các công-đức đều cho họ hết, do đó, họ được trong những kiếp hằng-sa vô-số, không thể nói, không thể nói hết, thường cùng chư Phật đồng sinh một chỗ; vô-lượng công-đức nhóm-lại như trái ác-xoa, đồng một chỗ huân-tu, hằng không phân-tán. Vậy nên, có thể khiến người phá giới, mà giới-căn cũng được thanh-tịnh; người chưa được giới, khiến cho được giới; người chưa tinh-tiến, khiến cho tinh-tiến; người không trí-tuệ, khiến được trí-tuệ; người không thanh-tịnh, mau được thanh-tịnh; người không giữ trai-giới, tự thành có trai-giới. A-nan, thiện-nam-tử ấy, khi trì-chú nầy, giả-sử có phạm cấm-giới khi chưa thụ-trì, thì sau khi trì-chú, các tội phá giới, không luận nặng nhẹ, một thời, đều tiêu-diệt, dù đã uống rượu, ăn thứ ngũ tân và các thứ không sạch, tất-cả chư Phật, Bồ-tát, Kim-cương, Thiên-tiên, Quỷ-thần không cho là có lỗi; dù mặc y-phục rách-nát không sạch, thì một cái đi, một cái đứng, thảy đồng như thanh-tịnh; dù không lập đàn, không vào đạo-trường, cũng không hành-đạo mà tụng-trì chú nầy, thì công-đức cũng như vào đàn, hành-đạo, không có khác vậy; dù gây những tội nặng ngũ-nghịch, vô-gián và phạm những tội tứ-khí, bát-khí của tỷ-khưu và tỷ-khưu-ni, thì khi tụng-chú nầy rồi, cũng như gió mạnh thổi-tan đống cát, những nghiệp nặng như vậy, đều diệt-trừ hết, không còn chút mảy-may.
TỤNG
TÂM CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM
KHÔNG
BAO LÂU CHỨNG ĐƯỢC VÔ SANH PHÁP NHẪN
MẶC
Ý LÀM VÔ BIÊN PHẬT SỰ
A-nan,
nếu có chúng-sinh, từ vô-lượng vô-số kiếp đến nay, có tất-cả những tội-chướng
nhẹ, nặng mà trong các đời trước, chưa kịp sám-hối, nếu biết đọc, tụng, viết,
chép chú nầy, giữ đeo trên thân mình hay để nơi chỗ ở, như trang, trạch, viên,
quán, thì những nghiệp chứa-nhóm từ trước như vậy, đều tiêu-tan như nước sôi
tiêu tuyết, chẳng bao lâu, đều ngộ được vô-sinh-nhẫn.
"Lại
nữa, A-nan, nếu có người đàn-bà chưa sinh con trai, con gái, mong-cầu có thai,
mà biết chí-tâm nhớ niệm-chú, hoặc ở trên mình đeo chú Tất-đát-đa-bát-đát-ra nầy,
thì liền sinh những con trai, con gái có phúc-đức trí-tuệ; người cầu sống lâu,
thì được sống lâu, người cầu quả-báo mau được viên-mãn, thì mau được viên-mãn,
cho đến về thân-mệnh, sắc-lực, thì cũng được viên-mãn như vậy; sau khi mệnh-chung,
tùy nguyện được vãng-sinh trong thập phương quốc-độ, chắc-chắn không sinh nơi
biên-địa hạ-tiện, huống nữa là các tạp-hình.
"A-nan,
nếu các cõi-nước, các châu, các huyện, các làng-xóm bị nạn đói-kém, dịch-lệ, hoặc
ở những nơi có đao-binh, tặc-nạn, đánh nhau, cãi nhau và tất-cả những nơi có
ách-nạn khác, viết thần-chú nầy, để trên bốn cửa thành, cùng các tháp hay trên
các thoát-xà và khiến chúng-sinh hiện có trong cõi-nước, kính-rước chú nầy, lễ-bái
cung-kính nhất-tâm cúng-dường, khiến trong nhân-dân, mỗi mỗi người đeo chú
trong mình, hoặc để nơi chỗ ở, thì tất-cả tai-ách thảy đều tiêu-diệt. A-nan,
chúng-sinh trong cõi-nước, chỗ nào, chỗ nào có được chú nầy, thì thiên-long
vui-mừng, mưa-gió thuận-thời, ngũ-cốc được mùa, dân-chúng an-vui; lại có thể trấn
được tất-cả ác-tinh, nó tùy nơi, biến ra những điều quái-dị; tai-chướng không
khởi lên, người không hoạnh-tử, chết-yểu, gông-cùm, xiềng-xích không dính vào
mình, ngày đêm ngủ yên, thường không ác-mộng. A-nan, cõi Sa-bà nầy có 84.000
ác-tinh tai-biến, 28 đại-ác-tinh làm thượng-thủ, lại có 8 đại-ác-tinh làm chủ,
xuất-hiện trên đời với nhiều hình-trạng, có thể sinh ra các tai-nạn dị-kỳ cho
chúng-sinh; chỗ nào có chú này, thì tất-cả đều tiêu-diệt, lấy 12 do-tuần làm
vòng kết-giới, các tai-biến hung-dữ, hẳn không thể vào được.
"Vậy
nên Như-lai tuyên-dạy chú nầy, bảo-hộ cho những người tu-hành sơ-học, trong đời
vị-lai, vào Tam-ma-đề, thân tâm thư-thái, được đại-an-ẩn, không còn tất-cả các
ma, quỷ-thần, và những oan-khiên đời trước, nghiệp cũ, nợ xưa, từ vô-thủy tới nay,
đến khuấy-hại nhau. Ông với những người hữu-học trong chúng và những kẻ tu-hành
đời vị-lai, y như lời-dạy của tôi mà lập đàn-trường, đúng theo pháp mà trì-giới,
gặp được tăng-chúng thanh-tịnh chủ-trì việc thụ-giới, đối với chú-tâm nầy,
không sinh lòng nghi-hối; những thiện-nam-tử như thế, chính nơi cái thân cha mẹ
sinh ra, mà không được tâm-thông, thì thập phương Như-lai bèn là vọng-ngữ".
CHƯ
VỊ THIỆN THẦN KHÔNG NHẬP NIẾT BÀN
PHÁT
NGUYỆN BẢO HỘ NGƯỜI TRÌ CHÚ
MAU
THÀNH ĐẠO BỒ ĐỀ
Phật
dạy lời ấy rồi, vô-lượng trăm ngàn Kim-cương trong Hội, một thời đứng trước Phật,
chấp tay đỉnh-lễ mà bạch Phật rằng: "Như lời Phật dạy, chúng tôi phải
thành tâm bảo-hộ những người tu-đạo Bồ-đề như vậy".
Khi
bấy giờ, Phạm-vương và Thiên-đế-thích, Tứ-thiên đại-vương cũng ở trước Phật, đồng-thời
đỉnh-lễ mà bạch Phật rằng: "Xét có người lành tu-học như vậy, chúng tôi phải
hết lòng chí-thành bảo-hộ, khiến cho trong một đời, tu-hành được như nguyện".
Lại
có, vô-lượng Đại-tướng-dược-xoa, các vua La-sát, vua Phú-đan-na, vua
Cưu-bàn-trà, vua Tỳ-xá-già, các Đại-quỷ-vương như Tần-na, Dạ-ca, và các Quỷ-xoái,
cũng ở trước Phật, chất tay đỉnh-lễ mà bạch Phật rằng: "Chúng tôi cũng thệ-nguyện
hộ-trì cho người đó, khiến cho tâm Bồ-đề mau được viên-mãn".
Lại
có, không lường Nhật, Nguyệt thiên-tử, Phong-sư, Vũ-sư, Vân-sư, Lôi-sư cùng với
Điện-bá và các Niên-tuế-tuần-quan, chư tinh và quyến-thuộc, vân vân..., cùng ở
trong Hội, đỉnh-lễ chân Phật mà bạch Phật rằng: "Chúng tôi bảo-hộ người
tu-hành ấy, lập ra đạo-trường, được không e-sợ".
Lại
có, vô-lượng Sơn-thần, Hải-thần, tất-cả tinh-kỳ, đất-đai muôn vật, thủy, lục,
không, hành, với Phong-thần-vương và Chư-thiên Vô-sắc-giới, ở trước Như-lai, đồng-thời
cúi đầu bạch Phật rằng: "Chúng tôi cũng bảo-hộ người tu-hành ấy, được
thành Bồ-đề, hẳn không ma-sự".
Khi
bấy giờ, 84.000 na-do-tha hằng-hà-sa Câu-chi Kim-cương-tạng-vương Bồ-tát, ở
trong đại Hội, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
"Thế-tôn, như bọn chúng tôi, công-nghiệp tu-hành, đã thành đạo Bồ-đề lâu rồi,
mà không nhận-lấy Niết-bàn, thường theo chú nầy, cứu-giúp những người
chân-chính tu-hành pháp Tam-ma-đề trong đời mạt-pháp. Bạch Thế-tôn, những người
tu-tâm vào chính định như thế, dù ở đạo-trường, hay là những lúc kinh-hành, cho
đến khi tán-tâm đi chơi trong làng-xóm, đồ-chúng chúng tôi thường phải đi theo
thị-vệ người ấy, dù cho Ma-vương, Đại-tự-tại-thiên muốn được phương-tiện khuấy-phá,
cũng không thể được; các quỷ-thần nhỏ, phải cách xa người lành ấy, ngoài 10
do-tuần, trừ khi, họ phát-tâm thích người tu-thiền. Bạch Thế-tôn, những ác-ma
như thế, hay quyến-thuộc của ma, muốn đến xâm-lấn khuấy-phá người lành ấy,
chúng tôi dùng bảo-xứ đập-nát cái đầu như vi-trần, thường khiến cho người ấy
tu-hành được như nguyện."
KHAI
THỊ NHỮNG THỨ BẬC TU CHỨNG TRƯỚC SAU
Ông
A-nan, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
"Chúng tôi ngu-độn, ưa tuệ đa-văn, đối với các tâm hữu-lậu, chưa cầu
thoát-ly, nhờ Phật từ-bi dạy-bảo được lối huân-tu chân-chính, thân tâm
khoan-khoái, được lợi-ích lớn. Bạch Thế-tôn, những người tu-chứng pháp Tam-ma-đề
của Phật như thế, chưa đến Niết-bàn, thì thế nào gọi là Can-tuệ-địa, trong 44
tâm, đến thứ-bậc nào, mới được danh-mục tu-hành, đến phương-sở nào, mới gọi là
nhập-địa, thế nào, gọi là Đảng-giác Bồ-tát?" Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo
xuống đất, trong đại-chúng đều nhất-tâm, chăm-chỉ mong-đợi từ-âm của Phật.
Khi
bấy giờ, đức Thế-tôn khen ông A-nan rằng: "Hay thay! Hay thay! Các ông lại
biết, vì cả đại-chúng và hết thảy chúng-sinh tu Tam-ma-đề, cầu pháp Đại-thừa
trong đời mạt-pháp, xin tôi chỉ trước đường tu-hành vô-thượng chân-chính từ
phàm-phu đến Đại-niết-bàn; nay ông hãy nghe cho chín, tôi sẽ vì ông mà
nói".
Ông
A-nan và đại-chúng chấp tay sạch lòng, yên-lặng thụ-giáo.
HAI
CÁI NHÂN ĐIÊN ĐẢO
Phật
dạy: "A-nan, nên biết diệu-tính là viên-minh, rời các danh-tướng, bản-lai
không có thế-giới chúng-sinh. Nhân cái vọng mà có sinh, nhân cái sinh mà có diệt,
sinh-diệt gọi là vọng, diệt vọng gọi là chân, ấy gọi là hai hiệu chuyển-y
vô-thượng Bồ-đề và Đại-niết-bàn của Như-lai.
A-nan,
nay ông muốn tu pháp Chân-tam-ma-đề, đến thẳng Đại-niết-bàn của Như-lai, trước
hết, phải biết hai cái nhân điên-đảo của thế-giới và chúng-sinh nầy; điên-đảo
không sinh, đó là Chân-tam-ma-đề của Như-lai.
A-nan,
thế nào gọi là điên-đảo về chúng-sinh? Do cái tâm bản-tính là minh và tính-minh
ấy viên-mãn cùng khắp, nên nhân tính-minh phát ra hình-như có tính; mà vọng-kiến
nhận là có tính sinh ra, từ chỗ rốt-ráo là không, lại thành rốt-ráo là có. Có
cái sở-hữu như thế, là do phi-nhân làm nhân và những tướng năng-trụ, sở-trụ rốt-ráo
không có cỗi-gốc. Rồi gốc nơi cái vô-trụ đó, mà kiến-lập ra thế-giới và các
chúng-sinh.
Vì
mê, không nhận được tính viên-minh sẵn có, nên sinh ra hư-vọng, tính hư-vọng
không có tự-thể, không phải thật có chỗ nương-đứng. Hầu muốn trở lại chân-tính,
thì cái muốn chân đó, đã không phải là tính chân-như chân-thật. Cầu trở lại
không đúng chân-lý, thì hiện-thành ra những phi-tướng: không phải sinh gọi rằng
sinh, không phải trụ gọi rằng trụ, không phải tâm gọi rằng tâm, không phải pháp
gọi rằng pháp.
Xoay-vần
phát-sinh và sinh-lực phát-huy, huân-tập thành ra nghiệp-báo; đồng-nghiệp thì cảm
với nhau, nhân đó, lại cảm ra các nghiệp diệt nhau, sinh nhau, do đó, mới có
điên-đảo về chúng-sinh.
A-nan,
thế nào gọi là điên-đảo về thế-giới? Do có cái sở-hữu đó, nên từng phần, từng
đoạn giả-dối sinh ra, vì thế, mà không-gian thành-lập; do phi-nhân làm nhân,
không có năng-trụ, sở-trụ, nên dời-đổi mãi, không có năng-trụ, sở-trụ, nên dời-đổi
mãi, không an-trụ, vì thế, mà thời-gian thành-lập. Ba đời bốn phương, hòa-hợp
can-thiệp cùng nhau, chúng-sinh biến-hóa thành 12 loài. Vậy nên trong thế-giới,
nhân động có tiếng, nhân tiếng có sắc, nhân sắc có hương, nhân hương có xúc,
nhân xúc có vị, nhân vị biết pháp, sáu vọng-tưởng càn-loạn thành ra nghiệp-tính,
do đó, 12 cách đối-hiện xoay-vần mãi mãi. Vậy nên trong thế-gian, những thanh,
hương, vị, xúc biến-đổi cùng-tột, đến 12 lần xoay trở lại.
MƯỜI
HAI CHỦNG LOẠI CHÚNG SINH
Dựa
trên những tướng điên-đảo, xoay-vần đó, nên trong thế-giới có những loài
noãn-sinh, thai-sinh, thấp-sinh, hóa-sinh, hữu-sắc, vô-sắc, hữu-tưởng, vô-tưởng,
hoặc phi-hữu-sắc, hoặc phi-vô-sắc, hoặc phi-hữu-tưởng, hoặc phi-vô-tưởng.
A-nan,
nhân trong thế-giới có hư-vọng luân-hồi, điên-đảo về động, nên hòa-hợp với khí,
thành ra 84.000 loạn-tưởng bay-lặn, vì vậy, nên có mầm-trứng trôi-lăn trong
cõi-nước; cá, chim, rùa, rắn, các loài đầy-nhẩy.
Nhân
trong thế-giới có tạp-nhiễm luân-hồi, điên-đảo về dục, nên hòa-hợp với tư,
thành ra 84.000 loạn-tưởng ngang dọc; vì vậy, nên có bọc-thai trôi-lăn trong
cõi-nước; người, súc, rồng, tiên, các loài đầy-nhẩy.
Nhân
trong thế-giới có chấp-trước luân hồi, điên-đảo về thú, nên hòa-hợp với noãn,
thành ra 84.000 loạn-tưởng nghiêng-ngửa vì vậy, nên có tế-thi thấp-sinh
trôi-lăn trong cõi-nước; nhung-nhúc, quậy-động, các loài đầy-nhẩy.
Nhân
trong thế-giới có biến-dịch luân-hồi, điên-đảo về giả, nên hòa-hợp với xúc,
thành ra 84.000 loạn-tưởng mới cũ; vì vậy, nên có yết-nam hóa-sinh trôi-lăn
trong cõi-nước; chuyển-thoái, phi-hành, các loài đầy-nhẩy.
Nhân
trong thế-giới có lưu-ngại luân-hồi, điên-đảo về chướng, nên hòa-hợp với trước,
thành ra 84.000 loạn-tưởng tinh-diệu; vì vậy, nên có yết-nam sắc-tướng trôi-lăn
trong cõi-nước; hưu-cửu, tinh-minh, các loài đầy-nhẩy.
Nhân
trong thế-giới có tiêu-tán luân-hồi, điên-đảo về hoặc, nên hòa-hợp với ám,
thành ra 84.000 loạn-tưởng thầm-ẩn, vì vậy, nên có yết-nam vô-sắc trôi-lăn
trong cõi nước; không tán tiêu trầm, các loại đầy-nhẩy.
Nhân
trong thế-giới có võng-tượng luân-hồi, điên-đảo về ảnh, nên hòa-hợp với ức,
thành ra 84.000 loạn-tưởng tiềm-kết; vì vậy, nên có yết-nam hữu-tưởng trôi-lăn
trong cõi-nước; thần-quỷ tinh-linh, các loài đầy-nhẩy.
Nhân
trong thế-giới có ngu-độn luân-hồi, điên-đảo về si, nên hòa-hợp với ngoan,
thành ra 84.000 loạn-tưởng khô-cảo; vì vậy, nên có yết-nam vô-tưởng trôi-lăn
trong cõi-nước; tinh-thần hóa làm đất, cây, vàng, đá, các loài đầy-nhẩy.
Nhân
trong thế-giới có tương-đãi luân-hồi, điên-đảo về ngụy, nên hòa-hợp với nhiễm,
thành ra 84.000 loạn-tưởng nhân-y; vì vậy, nên có yết-nam, không phải có sắc mà
có sắc, trôi-lăn trong cõi-nước; những giống thủy-mẫu, dùng tôm làm mắt, các
loài đầy-nhẩy.
Nhân
trong thế-giới có tương-đẫn luân-hồi, điên-đảo về tính, nên hòa-hợp với chú,
thành ra 84.000 loạn-tưởng hô-triệu; vì vậy, nên có yết-nam, không phải vô-sắc
mà vô-sắc, trôi-lăn trong cõi-nước, chú-trớ, yếm-sinh, các loài đầy-nhẩy.
Nhân
trong thế-giới có hợp-vọng luân-hồi, điên-đảo về võng, nên hòa-hợp với dị,
thành ra 84.000 loạn-tưởng hồi-hỗ; vì vậy, nên có yết-nam, không phải có tưởng
mà có tưởng, trôi-lăn trong cõi-nước; những giống tò-vò, mượn chất khác thành
cái thân của mình, các loài đầy-nhẩy.
Nhân
trong thế-giới có oán-hại luân-hồi, điên-đảo về sát, nên hòa-hợp với quái,
thành ra 84.000 tư-tưởng ăn thịt cha-mẹ; vì vậy, nên có yết-nam, không phải vô-tưởng
mà vô-tưởng, trôi-lăn trong cõi-nước; như con thổ-kiêu, ấp khối đất làm con, và
chim phá-kính; ấp quả cây-độc làm con, con lớn lên, thì cha mẹ đều bị chúng ăn
thịt, các loài đầy-nhẩy.
Ấy
gọi là mười hai chủng-loại chúng-sinh.
BA
TIỆM THỨ
"A-nan,
như thế, chúng-sinh trong mỗi mỗi loài, cũng đều đủ hết 12 thứ điên-đảo. Cũng
như dụi con mắt, thì hoa-đốm đủ thứ phát-sinh ra, chân-tâm diệu-viên trong-sạch
sáng-suốt mà điên-đảo, thì đầy-đủ những tư-tưởng càn-loạn giả-dối như vậy. Nay,
ông tu-chứng Tam-ma-đề của Phật, thì đối với những tư-tưởng càn-loạn, làm
nguyên-nhân cỗi-gốc của các điên-đảo, nên lập ra ba tiệm-thứ mới trừ-diệt được,
cũng như, trong khí-mãnh trong-sạch, trừ-bỏ mật-độc, dùng nước nóng và các thứ
chất tro, chất thơm rửa-sạch khí-mãnh rồi, về sau, mới đựng nước cam-lộ.
"Thế
nào gọi là ba tiệm-thứ? Một là tu-tập, trừ các trợ-nhân; hai là chân-tu, nạo-sạch
chính-tính; ba là tăng-tiến, trái lại hiện-nghiệp.
Thế
nào là trợ-nhân? A-nan, 12 loài chúng-sinh đó trong thế-giới, không thể tự-toàn,
phải nương theo bốn cách ăn mà an-trụ, nghĩa là, nương theo đoạn-thực, xúc-thực,
tư-thực và thức-thực; vậy nên Phật bảo tất-cả chúng-sinh, đều nương với cái ăn
mà an-trụ. A-nan, tất-cả chúng-sinh, ăn thức lành thì sống, ăn thức độc thì chết;
vậy, các chúng-sinh, cầu Tam-ma-đề, nên dứt-bỏ năm thứ rau-cay trong thế-gian.
Năm thứ rau-cay nầy, ăn chín, thì phát lòng-dâm, ăn sống, thì thêm lòng-giận.
Những người ăn rau-cay đó, trên thế-giới, dù biết giảng nói 12 bộ kinh, thiên-tiên
10 phương, hiềm vì nó hôi-nhớp, đều tránh xa cả; các loài ngạ-quỷ, vân vân...
nhân trong lúc người kia ăn rau-cay, liếm môi-mép của người đó; người ấy thường
ở với quỷ một chổ, phúc-đức ngày càng tiêu, hằng-lâu không được lợi-ích. Người
ăn rau-cay đó, tu phép Tam-ma-đề, Bồ-tát, Thiên-tiên, Thiện-thần thập phương
không đến giữ-gìn ủng-hộ; Đại-lực Ma-vương được phương-tiện đó, hiện ra thân Phật,
đến thuyết-pháp cho người kia, chê-phá cấm-giới, tán-thán dâm-dục, nóng-giận,
si-mê; đến khi mệnh-chung, tự mình người ấy làm quyến-thuộc của Ma-vương; khi
hưởng-thụ phúc ma hết rồi, thì đọa vào ngục Vô-gián. A-nan, người tu đạo Bồ-đề,
phải đoạn-hẳn năm thứ rau-cay; ấy gọi là tiệm-thứ tu-hành tăng-tiến thứ nhất.
Thế
nào là chính-tính? A-nan, chúng-sinh như vậy vào Tam-ma-đề, cốt-yếu trước hết,
phải nghiêm-chỉnh giữ giới thanh-tịnh, đoạn-hẳn lòng dâm, không dùng rượu thịt,
chỉ ăn đồ-ăn trong-sạch nấu chín, không ăn đồ sống. A-nan, người tu-hành đó, nếu
không đoạn dâm-dục và sát-sinh, mà ra khỏi được ba cõi, thì thật không có lẽ
như vậy. Nên xem sự dâm-dục như là rắn-độc, như thấy giặc-thù. Trước hết, phải
giữ tứ-khí, bát-khí của giới-luật Thanh-văn, nắm-giữ cái thân không lay-động; về
sau, hành-trì luật-nghi thanh-tịnh Bồ-tát, nắm-giữ cái tâm không móng lên. Cấm-giới
đã thành-tựu, thì ở trong thế-gian, hẳn không còn những nghiệp sinh nhau, giết
nhau; đã không làm việc trộm-cướp, thì không còn mắc nợ nhau và cũng khỏi phải trả các nợ kiếp trước trong
thế-gian. Con người thanh-tịnh ấy, tu phép Tam-ma-đề, chính nơi nhục-thân cha mẹ
sinh ra, không cần thiên-nhãn, tự-nhiên thấy được thập phương thế-giới, thấy Phật
nghe Pháp, chính mình vâng-lĩnh thánh-chỉ của Phật, được phép đại-thần-thông,
đi khắp thập phương thế-giới; túc-mạng được thanh-tịnh, không còn những điều khó-khăn
nguy-hiểm; ấy gọi là tiệm-thứ tu-hành tăng-tiến thứ hai.
Thế
nào là hiện-nghiệp? A-nan, người giữ-gìn cấm-giới thanh-tịnh như vậy, tâm không
tham-dâm, không hay giong-ruổi theo lục-trần ở ngoài; nhân không giong-ruổi, tự
xoay lại về tính bản-nguyên; trần đã không duyên, thì căn không ngẫu-hợp với
đâu nữa; trở-ngược dòng về chỗ toàn-nhất, sáu cái dụng không hiện-hành, cõi-nước
mười phương sáng-suốt thanh-tịnh, ví-như ngọc lưu-ly, có mặt trăng sáng treo ở
trong ấy. Thân tâm khoan-khoái, tính diệu-viên bình-đẳng, được đại-an-ẩn, tất-cả
mật-viên tịnh-diệu các đức Như-lai đều hiện trong đó; người ấy liền được
Vô-sinh-pháp-nhẫn. Từ đó, lần-lượt tu-tập, tùy cái hạnh phát ra mà an-tập các
thánh-vị, đó gọi là tiệm-thứ tu-hành tăng-tiến thứ ba.
AN
LẬP CÁC THÁNH VỊ
1.
Càn-huệ-địa
"A-nan,
thiện-nam tử ấy, lòng dục-ái khô-cạn, căn và cảnh không ngẫu-hợp, thân-tàn hiện-tiền,
không còn tiếp-tục sinh nữa, nắm cái tâm rỗng-sáng, thuần là trí-tuệ; tính
trí-tuệ sáng-suốt cùng khắp, soi-thấu thập-phương thế-giới; chỉ có cái tuệ
khô-khan ấy, nên gọi là Càn-tuệ-địa, tập-khí ngũ-dục mới khô-cạn, chưa tiếp-giáp
với dòng nước Pháp của các đức Như-lai.
2.
Thập-tín
Tức
lấy cái tâm ấy, chính giữa chính giữa lần vào, tính viên-diệu mở-mang, từ chỗ
chân-diệu-viên lại phát ra chân-diệu. Tính diệu-tín thường-trụ, tất-cả vọng-tưởng
diệt hết không còn, trung-đạo được thuần-chân, gọi là Tín-tâm-trụ.
Chân-tín
tỏ-rõ, tất-cả đều viên-thông, ba thứ ấm, giới, nhập không thể làm ngăn-ngại;
như thế, cho đến trong vô-số kiếp quá-khứ, vị-lai, tất-cả tập-khí xả-thân, thụ-thân
đều hiện ra trước mặt, thiện-nam-tử ấy đều có thể nhớ-nghĩ được, không quên mất
gì; gọi là Niệm-tâm-trụ.
Tính
diệu-viên thuần-chân, chân-tinh phát-hóa ra, các tập-khí vô-thủy đều thông vào
một tính tinh-minh, chỉ dùng tinh-minh ấy, tiến đến chỗ chân-tịnh; gọi là
Tinh-tiến-tâm.
Tâm-tinh
hiện-tiền, thuần-dùng trí-tuệ; gọi là Tuệ-tâm-trụ.
Nắm-giữ
trí-tuệ sáng-suốt, lặng-đứng cùng khắp, tính tịch-diệu thường đứng-lại; gọi là
Định-tâm-trụ.
Định-quang
phát-minh, đi sâu vào tính sáng-suốt, chỉ có tới, chứ không lui; gọi là Bất-thối-tâm.
Tâm
an-nhiên đi tới, giữ-gìn không mất, giao-tiếp với khí-phần thập-phương Như-lai;
gọi là Hộ-pháp-tâm.
Giữ-gìn
tính giác-minh, có thể dùng diệu-lực xoay từ-quang của Phật về nơi mình và hướng
về Phật mà an-trụ, cũng như hai gương sáng đối nhau, trong đó các bóng nhiệm-mầu
lớp-lớp lồng nhau; gọi là Hồi-hướng-tâm.
Tự-tâm
thầm xoay Phật-quang trở về, được vô-thượng diệu-tịnh thường-trụ của Phật,
an-trụ nơi vô-vi, được không bỏ mất; gọi là Giới-tâm-trụ.
Tự-tại
an-trụ nơi giới, có thể đi khắp mười phương, tùy nguyện mà đi; gọi là Nguyện-tâm-trụ.
3.
Thập-trụ
A-nan,
thiện-nam-tử đó, dùng phương-tiện chân-chính phát được mười cái tâm ấy,
tâm-tinh đã phát-huy, mười cái dụng ấy xen-lẫn với nhau, viên-thành một tâm; gọi
là Phát-tâm-trụ.
Trong
tâm phát ra sáng-suốt, như ngọc lưu-ly trong-sạch, ở trong hiện ra vàng-ròng;
dùng cái diệu-tâm trước kia, sửa-sang thành chỗ nương-đứng; gọi là Trị-địa-trụ.
Tâm-địa
biết khắp, đều được rõ-ràng, đi cùng mười phương, được không ngăn-ngại; gọi là
Tu-hành-trụ.
Hạnh
đồng với Phật, nhận khí-phần của Phật như thân trung-ấm tự cầu cha mẹ, âm-tín
thầm-thông vào giống Như-lai; gọi là Sinh-quý-trụ.
Đã
vào đạo-thai, chính mình nhờ được sự nuối-nấng của tính-giác, như cái thai đã
thành, tướng người không thiếu; gọi là Phương-tiện-cụ-túc-trụ.
Hình-dáng
như Phật, tâm-tướng cũng vậy; gọi là Chính-tâm-trụ.
Thân
tâm hợp-thành, ngày càng tăng-trưởng; gọi là Bất-thối-trụ.
Linh-tướng
mười thân, một thời đầy-đủ; gọi là Đồng-chân-trụ.
Hình
đã thành, ra khỏi thai, chính mình làm Phật-tử; gọi là Pháp-vương-tử-trụ.
Nghi-biểu
đã thành người lớn, như khi một quốc-vương, phân-công ủy-nhiệm cho thái-tử các
việc nước, thì quốc-vương kia, lúc thái-tử trưởng-thành, bày ra lễ quán-đỉnh; gọi
là Quán-đỉnh-trụ.
4.
Thập-hạnh
A-nan,
thiện-nam-tử đã thành Phật-tử rồi, đầy-đủ diệu-đức vô-lượng của Như-lai và
tùy-thuận mười phương; gọi là Hoan-hỉ-hạnh.
Khéo
biết làm lợi-ích cho tất-cả chúng-sinh; gọi là Nhiêu-ích-hạnh.
Tự-giác
và giác-tha, được không chống trái; gọi là Vô-sân-hận-hạnh.
Theo
các chủng-loại mà hiện ra sắc-thân cùng-tột vị-lai, ba đời đều bình-đẳng, mười
phương được thông-suốt; gọi là Vô-hận-hạnh.
Tất-cả
đều hợp về đồng, nơi các thứ pháp-môn, được không sai-lầm; gọi là Ly-si-loạn-hạnh.
Rồi
ở trong đồng, hiện ra các cái khác, nơi mỗi mỗi tướng khác, mỗi mỗi đều thấy là
đồng; gọi là Thiện-hiện-hạnh.
Như
vậy, cho đến mười phương hư-không, đầy khắp vi-trần và trong mỗi mỗi vi-trẩn hiện
ra thập phương thế-giới; hiện vi-trần, hiện thế-giới, không ngăn-ngại nhau; gọi
là Vô-trước-hạnh.
Các
thứ hiện-tiền, đều là Đệ-nhất-ba-la-mật-đa; gọi là Tôn-trọng-hạnh.
Viên-dung
như vậy, có thể thành-tựu quy-tắc của chư Phật mười phương; gọi là Thiện-pháp-hạnh.
Mỗi
mỗi đều là Nhất-chân-vô-vi Thanh-tịnh-vô-lậu, vì tính bản-nhiên là như vậy; gọi
là Chân-thật-hạnh.
5.
Thập-hồi-hướng
A-nan,
thiện-nam-tử đó đầy-đủ thần-thông, thành-tựu Phật-sự rồi, toàn là một tinh-chân
thuần-khiết, xa các lỗi-lầm, chính khi hóa-độ chúng-sinh mà diệt tướng năng-độ,
sở-độ, xoay tâm vô-vi hướng về đường Niết-bàn; gọi là Cứu-hộ nhất-thiết
chúng-sinh, Ly-chúng-sinh-tướng hồi-hướng.
Diệt-hoại
tất-cả cái gì có thể diệt-hoại, viễn-ly các sự ly; gọi là Bất-hoại hồi-hướng.
Tính
bản-giác đứng-lặng, giác-ngộ bằng Phật; gọi là Đẳng-nhất-thiết-Phật hồi-hướng.
Tinh-chân
phát ra sáng-suốt, tâm-địa như Phật-địa, gọi là Chí-nhất-thiết-xứ hồi-hướng.
Thế-giới
và Như-lai, dung-hợp vào nhau, được không ngăn-ngại; gọi là Vô-tận-công-đức-tạng
hồi-hướng.
Nơi
đồng với Phật-địa, trong ấy phát-sinh ra các nhân thanh-tịnh, nương nhân ấy mà
phát-huy, đi đến đạo Niết-bàn; gọi là Tùy-thuận-bình-đẳng-thiện-căn hồi-hướng.
Chân-căn
đã thành-tựu, thập phương chúng-sinh đều là bản-tính của mình, bản-tính
viên-mãn thành-tựu, không bỏ mất chúng-sinh; gọi là Tùy-thuận-đẳng-quán-nhất-thiết
chúng-sinh hồi-hướng.
Tức
tất-cả pháp, ly tất-cả tướng, cả tức và ly, hai cái đều không dính; gọi là
Chân-như-tướng hồi-hướng.
Thật
được như-như, mười phương không ngăn-ngại; gọi là Vô-phược-giải-thoát hồi-hướng.
Tính-đức
viên-mãn thành-tựu, lượng của pháp-giới diệt; gọi là Pháp-giới-vô-lượng hồi-hướng.
6.
Tứ-gia-hạnh
A-nan,
thiện-nam-tử đó, tu hết 41 tâm thanh-tịnh ấy rồi, thì lại thành-tựu bốn thứ
gia-hạnh diệu-viên:
Tức
lấy Phật-giác, dùng làm tâm mình, như ra nhưng chưa ra, ví-như dùi cây để cho ra
lửa mà đốt cái cây; gọi là Noãn-địa.
Lại
lấy tâm mình, thành chỗ đứng của Phật, hình-như nương, nhưng không phải nương,
ví-như người lên chóp núi cao, thân đã vào hư-không, nhưng ở dưới còn chút
ngăn-ngại; gọi là Đỉnh-địa.
Tâm
và Phật là đồng, khéo được trung-đạo, ví-như người biết nhịn, không phải ôm
vào, nhưng cũng không phải phát ra; gọi là Nhẫn-địa.
Số-lượng
đều tiêu-diệt, mê, giác và trung-đạo, cả hai đều không có gì; gọi là Thế-đệ-nhất-địa.
7.
Thập-địa
A-nan,
thiện-nam-tử đó thông-suốt đúng-đắn đạo Đại-bồ-đề, chỗ giác-ngộ thông với
Như-lai, cùng-tột cảnh-giới của Phật; gọi là Hoan-hỉ-địa.
Tính
khác nhập với đồng, tính đồng cũng diệt; gọi là Ly-cấu-địa.
Thanh-tịnh
cùng-tột, sáng-suốt sinh ra; gọi là Phát-quang-địa.
Sáng-suốt
tột, giác viên-mãn; gọi là Diệm-tuệ-địa.
Tất-cả
cái đồng, cái khác, không thể đến được; gọi là Nan-thắng-địa.
Bản-tính
thanh-tịnh vô-vi, chân-như tỏ-lộ; gọi là Hiện-tiền-địa.
Tột
bờ-bến chân-như; gọi là Viễn-hành-địa.
Một
tâm chân-như; gọi là Bất-động-địa.
Phát
cái dụng chân-như; gọi là Thiện-tuệ-địa.
A-nan,
các Bồ-tát đó, từ đây về trước, công-hạnh tu-tập đã xong, công-đức được
viên-mãn, cũng gọi địa nầy là Tu-tập-vị; bóng từ, mây diệu, trùm bể Niết-bàn; gọi
là Pháp-vân-địa.
8. Kết-thúc bằng hai quả-vị Đẳng-giác và Diệu-giác
Như-lai
ngược dòng trở lại, vị Bồ-tát đó thuận dòng đi tới, giác-ngộ vào chỗ giao-tiếp
với nhau; gọi là Đẳng-giác.
A-nan,
từ tâm Càn-tuệ đến Đẳng-giác rồi, giác đó mới bắt-đầu được Sơ-càn-tuệ-địa trong
tâm Kim-Cương; như vậy lớp-lớp tu đơn, tu kép 12 vị mới cùng tột Diệu-giác,
thành đạo Vô-thượng.
Các
thứ địa ấy, đều lấy trí Kim-cương quán-sát mười thứ ví-dụ như-huyễn sâu-xa,
trong Xa-ma-tha, dùng phép Tỳ-bà-xá-na của các đức Như-lai mà thanh-tịnh tu-chứng,
lần-lượt đi sâu vào.
A-nan,
như thế, đều dùng ba tiệm-thứ tăng-tiến, nên khéo thành-tựu 55 vị trong đường Bồ-đề
chân-thật. Làm cái quán như vậy, gọi là chính-quán; nếu quán cách khác, gọi là
tà-quán".
CHỈ
DẠY TÊN KINH
Khi
bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lỵ Pháp-vương-tử, ở trong đại-chúng, liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Nên gọi kinh nầy là
gì? Tôi và chúng-sinh phải phụng-trì thế nào?"
Phật
bảo ngài Văn-thù-sư-lỵ:
Kinh
nầy tên là "Đại-Phật-đỉnh-tất-đát-đa bát-đát-ra, vô-thượng bảo-ấn, thập
phương Như-lai thanh-tịnh hải-nhãn".
Cũng
gọi tên là "Cứu-hộ thân-nhân, độ-thoát A-nan cập thử Hội-trung Tính-tỷ-khưu-ni,
đắc Bồ-đề-tâm, nhập biến-tri-hải".
Cũng
gọi tên là "Như-lai mật-nhân, tu-chứng-liễu-nghĩa".
Cũng
gọi tên là "Đại-phương-quảng diệu-liên-hoa-vương, thập phương Phật-mẫu
đà-la-ni-chú".
Cũng
gọi tên là "Quán-đỉnh chương-cú, chư Bồ-tát vạn-hạnh Thủ-lăng-nghiêm".
Các
ông nên phụng-trì".
ĐẠI
PHẬT ĐẢNH NHƯ LAI MẬT NHƠN
TU
CHỨNG LIỄU NGHĨA CHƯ BỒ TÁT VẠN HẠNH
THỦ LĂNG NGHIÊM KINH
PHẦN
LƯU THÔNG
(
Tu theo NHĨ CĂN VIÊN THÔNG hay “NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG”… và trì CHÚ THỦ LĂNG
NGHIÊM để LƯU THÔNG KINH nầy.
Vì
KINH nầy PHẬT dạy chúng ta phân biệt được VỌNG TÂM, CHƠN TÂM và con đường chơn
chánh vào CHƠN TÂM THƯỜNG TRỤ không sanh không diệt, đó là NHĨ CĂN VIÊN THÔNG của
bồ-tát QUÁN THẾ ÂM là đệ nhất.
Tuy
biết con đường CHƠN THẬT chứng nhập CHƠN TÂM, nhưng trải qua các địa vị tu chứng gặp phải 50 loại ma chướng cùng với TẬP KHÍ
NHIỀU ĐỜI TRONG 7 LOÀI KHÓ ĐOẠN TRỪ, nếu MÊ MỜ CHƠN TÁNH, tự nghĩ rằng mình đã CHỨNG THÁNH, THÀNH PHẬT
thì sẽ đi vào TÀ MA NGOẠI ĐẠO, khó CÓ
NGÀY quây đầu trở lại theo CON ĐƯỜNG CHƠN THẬT.
Cho nên, PHẬT dạy phải trì CHÚ THỦ LĂNG
NGHIÊM, thì không bị những TẬP KHÍ NHIỀU ĐỜI cùng MA CHƯỚNG đến phá HOẠI CON ĐƯỜNG
CHƠN THẬT THẲNG đến qủa DIỆU GIÁC của Phật.)
Phật
nói lời ấy rồi, liền khi đó, ông A-nan và cả đại-chúng được nhờ đức Như-lai
khai-thị ý-nghĩa mật-ấn Bát-đát-ra, lại nghe được những tên gọi liễu-nghĩa của
kinh nầy, liền ngộ được Diệu-lý tăng-thượng để tu-tiến vào các Thánh-vị trong
Thiền-na; tâm-niệm rỗng-trống đứng-lặng, ông đoạn-trừ 6 phẩm phiền-não vi-tế
trong tư-hoặc tam-giới.
Ông
liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật, chấp tay cung-kính mà bạch Phật
rằng: " Thưa đức Thế-tôn, có uy-đức lớn, phát ra từ-âm không ngăn-ngại,
khéo khai-ngộ những lỗi-lầm sâu-kín nhỏ-nhiệm của chúng-sinh, khiến cho chúng
tôi ngày nay, thân-tâm khoan-khoái, được lợi-ích lớn. Bạch Thế-tôn, nếu cái
chân-tâm diệu-minh trong-sạch nhiệm-mầu, bản-lai cùng khắp viên-mãn, như thế,
cho đến bản-tính chân-như của đất liền, cỏ cây, các loài máy-động, tức là
chân-thể thành Phật của Như-lai. Thể-tính của Phật đã là chân-thật, làm sao, lại
có các đạo địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sinh, tu-la, loài người và trời. Bạch Thế-tôn,
những đạo đó lại là bản-lai tự có, hay là do tập-khí giả-dối của chúng-sinh
sinh-khởi ra?"
"Bạch
Thế-tôn, như Tỳ-khưu-ni Bảo-liên-hương giữ Bồ-tát-giới, lén-lút làm việc dâm-dục,
lại nói-càn rằng làm việc dâm-dục không phải giết người, không phải trộm-cắp,
không có nghiệp-báo; phát-ra lời nói ấy rồi, trước hết nơi nữ-căn sinh ra ngọn
lửa-hồng lớn, về sau từng đốt, từng đốt, bị lửa đốt cháy, sa vào địa ngục
Vô-gián.
Như
đại-vương Lưu-ly; tỷ-khưu Thiện-tinh; Lưu-ly vì giết họ-hàng Cù-đàm, Thiện-tinh
vì nói-càn tất-cả các pháp đều rỗng-không mà thân sống sa vào địa-ngục A-tỳ.
Các
địa-ngục ấy, lại là có chỗ nhất-định, hay là tự-nhiên khi các người kia gây
nghiệp, thì mỗi người, mỗi người chịu riêng? Xin Phật rủ lòng đại-từ, khai-ngộ
cho kẻ ngây-thơ, khiến cho tất-cả chúng-sinh trì-giới, nghe nghĩa quyết-định,
vui-mừng tôn-trọng kính-cẩn giữ-gìn không phạm".
Phật
bảo ông A-nan: "Hay thay lời hỏi đó, khiến cho các chúng-sinh không mắc
tà-kiến. Nay ông hãy nghe cho chín, tôi sẽ vì ông mà nói.
A-nan,
tất-cả chúng-sinh, thật vốn chân-tính thanh-tịnh, nhân những vọng-kiến, mà có tập-khí
hư-vọng sinh ra; vì thế, chia ra có phận-trong và phận ngoài.
"A-nan,
phận-trong, tức là ở trong phận của chúng-sinh. Nhân các lòng ái-nhiễm phát-khởi
ra vọng-tình, tình chứa mãi không thôi, có thể sinh ra ái-thủy; vậy nên
chúng-sinh, tâm nhớ thức-ăn ngon, thì trong miệng nước chảy ra; tâm nhớ người
trước, hoặc thương, hoặc giận, thì trong con mắt lệ tràn; tham-cầu của báu, thì
trong tâm phát-ra ái-diên, cả mình đều trơn-sáng; tâm dính vào việc dâm-dục,
thì hai căn nam nữ tự-nhiên dịch-khí chảy ra. A-nan, các cái ái đó, tuy khác
nhau, nhưng kết-quả chảy nước là đồng; thấm-ướt không lên được, tự-nhiên theo
đó mà sa-đọa, ấy gọi là phận-trong.
A-nan,
phận-ngoài, tức là ngoài phận của chúng-sinh. Nhân các lòng phát-ngưỡng,
phát-minh ra những lý-tưởng; tưởng chứa mãi không thôi, có thể sinh ra những thắng-khí;
vậy nên chúng-sinh, tâm giữ cấm-giới, cả mình nhẹ-nhàng trong-sạch; tâm trì
chú-ấn, con mắt ngó hùng-dũng nghiêm-nghị; tâm muốn sinh lên cõi trời,
chiêm-bao thấy bay lên; để tâm nơi cỏi Phật, thánh-cảnh thầm-hiện ra; thờ vị
thiện-tri-thức, tự khinh-rẻ thân-mệnh mình. A-nan, các tưởng đó tuy khác, nhưng
nhẹ-nhàng cất lên thì đồng nhau; cất bay không chìm xuống, tự-nhiên vượt lên,
đó là phận-ngoài.
A-nan,
tất-cả thế-gian, sống chết nối nhau, sống thuận theo tập-quán, chết thì đổi
sang dòng khác, khi gần mệnh-chung, chưa hết hơi nóng, thiện ác một đời đồng-thời
liền hiện ra; cái nghịch của chết, cái thuận của sống, hai tập-khí giao-xen lẫn
nhau.
Thuần
là tưởng, thì liền bay lên, chắc sinh trên các cõi-trời; nếu trong tâm bay lên,
gồm có phúc-đức trí-tuệ cùng với tịnh-nguyện, thì tự-nhiên tâm được khai-ngộ,
thấy tất-cả tịnh-độ thập phương chư Phật, theo nguyện mà vãng-sinh.
Tình
ít, tưởng nhiều, cất lên không xa, thì làm phi-tiên, đại-lực quỷ-vương,
phi-hành dạ-xoa, địa-hành la-sát, đi khắp bốn cõi-trời, không bị ngăn-ngại. Nếu
có nguyện tốt, tâm tốt, hộ-trì Phật-pháp, hoặc hộ-trì cấm-giới, theo người
trì-giới, hoặc hộ-trì thần-chú, theo người trì-chú, hoặc hộ-trì thiền-định, giữ
yên pháp-nhẫn, thì những hạng đó, chính mình được ở dưới pháp-tọa Như-lai.
Tình
và tưởng cân nhau, không bay lên, không đọa xuống, thì sinh nơi nhân-gian; tưởng
sáng-suốt nên thông-minh, tình u-ám nên ngu-độn.
Tình
nhiều, tưởng ít, đi vào các loại hoành-sinh, nặng làm giống có lông, nhẹ làm giống
có cánh.
Bảy
phần tình, ba phần tưởng, chìm xuống dưới thủy-luân, sinh nơi mé hỏa-luân chịu
khí-phần của lửa-hồng, thân làm ngạ-quỷ, thường bị đốt-cháy, vì nước có thể hại
mình, nên trải trăm nghìn kiếp, không ăn không uống.
Chín
phần tình, một phần tưởng, xuống thấu qua hỏa-luân, và giữa giao-giới
phong-luân và hỏa-luân, nhẹ thì sinh vào Hữu-gián, nặng thì mình vào Vô-gián,
hai thứ địa-ngục.
Thuần
là tình, thì chìm-sâu vào ngục A-tỳ; nếu trong tâm chìm-sâu đó, lại có hủy-báng
Đại-thừa, phá cấm-giới của Phật, lừa-dối nói pháp để tham-cầu tín-thí, lạm-nhận
cung-kính hoặc phạm ngũ-nghịch, thập-trọng thì lại còn sinh vào địa-ngục A-tỳ
thập phương.
Theo
ác-nghiệp gây ra, tuy tự chuốc lấy quả-báo, nhưng trong đồng-phận chung, vẫn có
chỗ sẵn.
MƯỜI
TẬP NHÂN VÀ SÁU GIAO BÁO
1.
"A-nan,
những điều như thế, đều do nghiệp-báo các chúng-sinh kia, tự chiêu-cảm lấy, như
gây mười Tập-nhân, thì chịu sáu Giao-báo.
"Thế
nào là mười Tập-nhân?
A-nan,
một là, tập-quán dâm-dục, giao-tiếp cùng nhau, phát-sinh cọ-xát lẫn nhau; cọ-xát
mãi không thôi, như thế, nên trong ấy có ngọn lửa-hồng lớn nổi lên; ví-như, có
người lấy hai bàn tay cọ-xát lẫn nhau, thì cảm-giác nóng hiện ra. Hai cái tập-khí
đốt nhau, nên có những việc giường sắt, trụ đồng. Vậy nên, tất-cả các đức
Như-lai thập phương nhận-xét việc dâm-dục, đồng gọi là lửa-dục; Bồ-tát đối với
dâm-dục, tránh như hầm-lửa.
Hai,
là tập-quán tham-lam, so-đo hơn thiệt, phát-sinh hấp-thụ lẫn nhau; hấp-thụ ôm-ấp
mãi không thôi, như thế, nên chứa hơi-lạnh bên trong thành giá-cứng, làm cho nẻ-nứt;
ví-như, có người hút hơi gió vào, thì có cảm-xúc lạnh. Hai tập-khí lấn nhau,
nên có những sự tra tra, ba ba, la la, thanh-liên, xích-liên, bạch-liên,
hàn-băng, vân vân... Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập phương nhận-xét việc
tham-cầu quá nhiều, đồng gọi là nước tham; Bồ-tát đối với lòng tham, tránh như
biển-độc.
Ba,
là tập-quán ngã-mạn, lấn-lướt lẫn nhau, phát-sinh ỷ-thế với nhau. Giong-ruổi
không thôi, như thế, nên có sự bôn-ba, sôi-nổi, chứa lại thành nước; ví-như, có
người miệng lưỡi tự chép, làm cho nước-bọt chảy ra. Hai tập-khí chọi nhau, nên
có các việc sông huyết, sông tro, cát-nóng, biển-độc, bắt uống nước đồng-chảy
vân vân... Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai mười phương nhận-xét lòng ngã-mạn, đồng
gọi là uống nước si-mê; Bồ-tát đối-với ngã-mạn, tránh như vực-thẳm lớn.
Bốn,
là tập-quán nóng-giận, xung-đột cùng nhau, phát-sinh chống-đối lẫn nhau; chống-đối
mãi không thôi, tâm nổi nóng, phát ra lửa, nấu cái khí thành kim-thuộc, vì thế,
nên có núi dao, đòn sắt, cây gươm, bánh xe gươm, những búa, những vớt, những
thương, những cưa; ví-như, có người bị hàm-oan, thì sát-khí nổi lên. Hai tập-khí
đập nhau, nên có các sự thiến, cắt, chém, chặt, dùi, đâm, đập, đánh. Vậy nên, tất-cả
các đức Như-lai thập phương nhận-xét sự nóng-giận, đồng gọi là dao-gươm bén; Bồ-tát
đối với lòng nóng-giận, tránh như tránh chém-giết.
Năm,
là tập-quán giả-dối, dụ-dỗ theo nhau, phát-sinh lôi-kéo lẫn nhau; dẫn-dắt mãi
không thôi, như thế, nên có giây, cây, thòng-lọng, căng-nọc; ví-như, nước thấm
ruộng thì cỏ-cây lớn lên. Hai tập-khí kéo-nhau, nên có các sự gông, cùm, xiềng,
xích, roi, gậy, qua, bổng. Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập phương nhận-xét
sự giả-dối, đồng gọi là sàm-tặc; Bồ-tát đối với sự gian-dối, sợ như beo-sói.
Sáu,
là tập-quán lừa-gạt, lừa-dối với nhau, phát-sinh phỉnh-gạt lẫn nhau; phỉnh-gạt
mãi không thôi, phát-tâm gây điều gian-dối; như thế, nên có bụi, đất, đại-tiện,
tiểu-tiện, các đồ nhơ-nhớp không sạch; như bụi theo gió, không thấy lẫn nhau.
Hai tập-khí dìm nhau, nên có những sự chìm-đắm, nhảy, ném, bay, rơi, trôi-lăn.
Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập phương nhận-xét sự lừa-gạt, đồng gọi là cướp-giết;
Bồ-tát đối với sự lừa-gạt, như giẫm rắn-độc.
Bảy,
là tập-quán thù-oán, hiềm-khích lẫn nhau, phát-sinh ôm-ấp lòng giận, như thế,
nên có quăng đá, ném gạch, hộp nhốt, xe cũi, bình-đựng, đãy-bọc, như người hiểm-độc
ôm-ấp điều dữ. Hai tập-khí nuốt nhau, nên có những sự ném, quăng, nắm, bắt,
đánh, bắn, gieo, ôm. Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập phương nhận-xét sự
thù-oán, gọi là quỷ Vi-hại; Bồ-tát đối với sự thù-oán, như uống ruợu-độc.
Tám,
là tập-quán ác-kiến, tranh-cãi với nhau, như ngã-kiến, kiến-thủ, giới-cấm-thủ
và các nghiệp tà-ngộ, phát-sinh chống-trái lẫn nhau; như thế, nên có quan-lại
chứng-thực, nắm-giữ giấy-tờ, đông như người đi đường, qua lại gặp nhau. Hai tập-khí
giao nhau, nên có các sự khám-hỏi, mưu-mẹo, khảo-tấn, đòi-hỏi, gạn-xét, cứu-tra
cho rõ và những đồng-tử thiện-ác, tay cầm sổ-sách, biện-bạch cãi-vã. Vậy nên, tất-cả
các đức Như-lai thập phương nhận-xét ác-kiến, đồng gọi là kiến-khanh; Bồ-tát đối
với những thiên-chấp hư-vọng, như đứng bên hố-độc.
Chín,
là tập-quán vu-vạ, làm hại cho nhau, phát-sinh sự vu-báng, như thế, nên có hợp-sơn,
hợp-thạch, cối-nghiền, cối-xay; ví-như, kẻ sàm-tặc, áp-bức vu-oan người
lương-thiện. Hai tập-khí bài xích lẫn nhau, nên có các sự áp-giải, đè-đập,
ép-huyết, tuốt-mình. Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập phương, nhận-xét sự
vu-vạ, đồng gọi là sàm-hổ; Bồ-tát đối với sự vu-vạ, như bị sấm-sét.
Mười,
là tập-quán kiện-thưa, cãi-vã lẫn nhau, phát-sinh sự che-đậy; như thế, nên có
gương soi, đuốc chiếu, như giữa ban ngày, không giấu bóng được. Hai tập-khí
phô-bày lẫn nhau, nên có ác-hữu, nghiệp kính, hỏa-châu phơi-bày nghiệp xưa đối-nghiệm
các việc. Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập phương nhận-xét sự che-đậy, gọi
là giặc-ngầm; Bồ-tát đối với sự che-đậy, như đội núi cao, lội trong biển lớn.
"Thế
nào là sáu Giao-báo?
A-nan,
tất-cả chúng-sinh, sáu thức gây nghiệp, nên ác-báo chuốc-lấy, đều từ sáu căn mà
ra."
"Các
ác-báo từ sáu căn ra như thế nào?
Một,
là giao-báo về thấy, chiêu-cảm ác-quả. Khi nghiệp-thấy ấy giao-báo, thì lúc
lâm-chung, trước hết thấy lửa-hồng đầy khắp 10 phương; thần-thức người chết bay
rơi theo khói vào ngục Vô-gián, phát ra hai tướng: Một là thấy sáng, thì khắp
thấy nhiều thứ vật-dữ, sinh ra khiếp-sợ vô-cùng; hai là thấy tối, lặng vậy
không thấy gì sinh ra hoảng-hốt vô-hạn. Lửa thấy như thế, đốt cái nghe, thì có
thể làm vạc-dầu sôi, làm nước đồng-chảy; đốt hơi-thở, thì có thể làm khói-đen,
lửa đỏ; đốt cái nếm, thì có thể làm viên tròn nung-đỏ, làm cơm-sắt; đốt cảm-xúc,
thì có thể làm tro-nóng, lò-than; đốt tâm-ý, thì có thể sinh ra sao-lửa rưới khắp,
làm rung-động cả cõi hư-không.
Hai,
là giao-báo về nghe, chiêu-cảm ác-quả. Khi nghiệp-nghe ấy giao-báo, thì lúc
lâm-chung, trước hết, thấy sóng cuộn chìm-ngập trời đất; thần-thức người chết,
sa xuống theo dòng vào ngục Vô-gián, phát ra hai tướng: Một là nghe tỏ, nghe
các thứ ồn-ào, tinh-thần rối-loạn; hai là điếc hẳn, lặng-lẽ, không nghe gì, thức-thần
chìm-lịm. Sóng nghe như thế, rót vào cái nghe, thì có thể làm trách, làm hỏi;
rót vào cái thấy, thì có thể làm sấm, làm thét, làm hơi-độc-dữ; rót vào hơi thở,
thì có thể làm mưa, làm mù, rưới các sâu-độc đầy khắp thân-thể; rót vào các vị,
thì có thể làm mủ, làm huyết, các thứ nhơ-nhớp; rót vào cảm-xúc, thì có thể làm
con súc, làm con quỷ, làm phân, làm nước-tiểu; rót vào ý-nghĩ, thì có thể làm
chớp, làm mưa-đá, đập nát tâm-thức.
Ba,
là giao-báo về ngửi, chiêu-cảm ác-quả. Khi nghiệp-ngửi ấy giao-báo, thì lúc
lâm-chung, trước hết, thấy hơi-độc đầy-nhẩy xa gần; thần-thức người chết, từ dưới
đất trổi lên, vào ngục Vô-gián, phát-hiện ra hai tướng: Một là ngửi thông, bị
các hơi dữ xông tột-bực, làm cho tâm rối-loạn; hai là ngạt mũi, hơi-thở ngạt
không thông, nằm chết-giấc dưới đất. Hơi ngửi như thế, xông vào hơi-thở, thì có
thể làm thông, làm ngạt; xông vào cái thấy, thì có thể làm lửa, làm đuốc; xông
vào cái nghe, thì có thể làm chìm-ngập, làm chết-đuối, làm nước-lớn, làm nước-sôi;
xông vào cái vị, thì có thể làm đói, làm ngấy; xông vào cái cảm-xúc, thì có thể
làm xấu, làm nát, làm núi-thịt lớn có trăm ngàn con mắt, hút-ăn không cùng;
xông vào ý-nghĩ, thì có thể làm tro, làm chướng-khí, làm gạch-đá bay lên
đánh-nát thân-thể.
Bốn,
là giao-báo về vị, chiêu-cảm ác-quả. Khi nghiệp-vị ấy giao-báo, thì lúc
lâm-chung, trước hết, thấy lưới-sắt nung-đỏ che khắp thế-giới; thần-thức người
chết từ dưới tung lên, mắc lưới treo ngược đầu xuống, vào ngục Vô-gián, phát ra
hai tướng : Một là nuốt vào, thì kết-thành giá-lạnh, làm nứt-nẻ thân-thể; hai
là mửa ra, thì bay lên thành lửa-hồng, đốt-rụi xương-tủy. Vị-báo như thế, qua
cái nếm, thì có thể làm nhận, làm chịu; qua cái thấy, thì có thể làm các thứ
kim-thạch đốt-cháy; qua cái nghe, thì có thể làm binh-khí sắc-bén; qua hơi-thở,
thì có thể làm lồng-sắt lớn che khắp cõi-nước; qua cảm-xúc, thì có thể làm
cung, làm tên, làm mỏ, làm bắn; qua ý-nghĩ, thì có thể làm sắt-nóng bay, từ
trên không rưới xuống.
Năm,
là giao-báo về xúc, chiêu-cảm ác-quả. Khi nghiệp-xúc ấy giao-báo, thì lúc
lâm-chung, trước hết, thấy núi lớn bốn mặt hợp lại, không còn đường ra; thần-thức
người chết thấy thành-sắt lớn, rắn-lửa, chó lửa, hùm-sói, sư-tử, ngục-tốt đầu
trâu, la-sát đầu ngựa, tay cầm thương, xóc, lùa vào cửa thành, hướng về ngục
Vô-gián, phát ra hai tướng; Một là hợp-xúc, thì núi kẹp ép mình, xương-thịt nát
ra máu; hai là ly-xúc, thì dao gươm chạm vào mình, tim gan cắt-xẻ. Xúc-báo như
vậy, qua cái xúc, thì có thể làm đạo, làm quán, làm sảnh, làm án; qua cái thấy,
thì có thể làm đốt, làm nung; qua cái nghe, thì có thể làm đập, làm đánh, làm
đâm, làm bắn; qua hơi-thở, thì có thể làm trùm, làm đẫy, làm tra, làm trói; qua
cái nếm, thì có thể làm cày, làm kiềm, làm chém, làm chặt; qua ý-nghĩ, thì có
thể làm rơi, làm bay làm nấu, làm nướng.
Sáu,
là giao-báo về ý-nghĩ, chiêu-cảm ác-quả. Khi nghiệp-ý ấy giao-báo, thì lúc lâm-chung,
trước hết thấy gió-dữ thổi-nát cõi nước, thần-thức người chết bị thổi lên trên
không xoay-rơi theo gió, sa vào ngục Vô-gián, phát ra hai tướng: Một là không
biết, tột mê, thì hoang-mang, ruổi-chạy không thôi; hai là không mê, hay-biết,
thì khổ, bị đốt-cháy không cùng, đau-buốt không chịu nổi. Ý-báo như thế, kết
vào ý-nghĩ, thì có thể làm phương, làm sở; kết vào cái thấy, có thể làm
gương-soi, làm chứng-cứ; kết vào cái nghe, thì có thể làm đại-hợp-thạch, làm
giá, làm sương, làm đất, làm mù; kết vào hơi-thở, thì có thể làm xe-lửa lớn,
làm thuyền lửa, cũi-lửa; kết vào cái nếm, thì có thể làm kêu-la to, làm ăn-năn,
làm khóc-lóc; kết vào cái cảm-xúc, thì có thể làm lớn, làm nhỏ, làm cho một
ngày muôn lần sống, muôn lần chết, làm nghiêng, làm ngửa.
"A-nan,
thế gọi là 10 nhân và 6 quả của điạ-ngục, nhân-quả ấy đều do mê-vọng của
chúng-sinh tạo ra.
Nếu
các chúng-sinh, sáu căn đồng-tạo nghiệp-dữ, thì vào ngục A-tỳ, chịu khổ vô-cùng
trong vô-lượng kiếp; nếu từng mỗi căn tạo ra và nghiệp-dữ đã làm gồm cả cảnh và
căn thì người ấy vào 8 ngục Vô-gián. Nếu cả thân, khẩu, ý làm việc sát, đạo,
dâm, thì người ấy vào Thập-bát-địa-ngục; không đủ cả ba nghiệp thân, khẩu, ý,
làm việc sát, đạo, dâm, thì người ấy vào Thập-bát-địa-ngục; không đủ cả ba nghiệp
thân, khẩu, ý, hoặc trong ấy chỉ làm một việc sát, hoặc một việc đạo, thì người
ấy vào trong Tam-thập-lục-điạ-ngục; chỉ có một căn, riêng làm một việc, thì người
ấy vào Nhất-bách-bát-địa-ngục.
Do
những chúng-sinh ấy riêng gây ra nghiệp, nên vào chỗ đồng-phận trong giới ấy;
đó đều do vọng-tưởng phát-sinh ra, không phải bản-lai tự có.
Chí
tâm sám-hối :
Ðệ
tử _____ và chúng-sanh trong pháp-giới, từ đời vô-thỉ nhẫn đến ngày nay, bị
vô-minh che đậy nên điên đảo mê-lầm, lại do sáu căn ba nghiệp quen theo pháp chẳng
lành, rộng phạm mười điều dữ cùng năm tội vô-gián và tất cả các tội khác, nhiều
vô-lượng vô-biên nói không thể hết. Mười phương các đức Phật thường ở trong đời,
tiếng pháp không dứt, hương mầu đầy lấp, pháp vị ngập tràn, phóng ánh sáng sạch
trong chếu soi tất cả. Lý mầu thường trụ đầy dẫy hư-không.
Con
từ vô-thỉ đến nay, sáu căn che mù, ba nghiệp tối-tăm, chẳng thấy chẳng nghe chẳng
hay chẳng biết “CHÂN-TÂM BỔN-GIÁC” , vì nhơn duyên đó trôi mãi trong vòng sanh
tử, trải qua các đường dữ, trăm nghìn muôn kiếp trọn không lúc nào ra khỏi. --
Kinh rằng :
“Ðức
Tỳ-Lô-Giá-Na thân khắp cả chỗ, chỗ của Phật ở gọi là Thường-tịch-quang, cho nên
phải biết cả thảy các pháp đều là Phật-Pháp, mà con không rõ lại theo giòng
vô-minh vì thế trong trí bồ-đề mà thấy không thanh-tịnh, trong cảnh giải-thoát
mà sanh ràng buộc. Nay mới tỏ ngộ nay mới chừa bỏ ăn-năn, phụng đối trước các đức
Phật và A-Di-Ðà Thế-Tôn mà phát lồ sám-hối, làm cho đệ-tử cùng pháp-giới
chúng-sanh, tất cả tội nặng do ba nghiệp sáu căn, gây tạo từ vô-thỉ, hoặc hiện-tại
cùng vị-lai, chính mình tự gây tạo hoặc biểu người, hay là thấy nghe người gây
tạo mà mà vui theo, hoặc nhớ hoặc chẳng nhớ, hoặc biết hoặc chẳng biết, hoặc
nghi hoặc chẳng nghi, hoặc che giấu hoặc chẳng che giấu, thảy đều được rốt-ráo
thanh-tịnh.
Ðệ-tử
sám-hối rồi, sáu căn cùng ba nghiệp trong sạch, không lỗi lầm, căn lành tu-tập
cũng trọn thanh-tịnh, thảy đều hồi-hướng dùng trang-nghiêm Tịnh-độ, khắp với
chúng-sanh, đồng sanh về nước An-Dưỡng.
Nguyện
đức A-Di-Ðà Phật thường đến hộ-trì, làm cho căn lành của đệ-tử hiện-tiền tăng-tấn,
chẳng mất nhơn-duyên Tịnh-độ, đến giờ lâm-chung, thân an-lành niệm chánh vững-vàng,
xem nghe đều rõ-ràng, tận mặt thấy đức A-Di-Ðà cùng các Thánh-chúng, tay cầm
đài hoa tiếp-dẫn đệ-tử, trong khoảng sát-na sanh ra trước Phật, đủ đạo-hạnh Bồ-Tát,
rộng độ khắp chúng-sanh đồng thành Phật đạo.
Ðệ-tử
sám-hối phát-nguyện rồi quy-mạng đảnh-lễ :
Nam-mô
Tây-phương Cực-lạc thế-giới, đại-từ đại-bi, A-Di-Ðà Như-Lai, biến pháp-giới
Tam-bảo.
2. THÀNH "QỦY"
"Lại
nữa, A-nan, các chúng-sinh đó, nếu không phải gây tội chê-phá luật-nghi, phạm Bồ-tát-giới,
hủy-báng Niết-bàn của Phật, mà chỉ phạm những nghiệp phức-tạp khác nhau, thì
sau khi bị đốt cháy nhiều kiếp, đền tội hết rồi, thì chịu những hình quỷ.
Nếu
nơi bản-nhân, do tham vật mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp vật
thành-hình gọi là Quái-quỷ; do tham sắc mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết
rồi, gặp gió thành-hình, gọi là Bạt-quỷ; do tham dối-trá mà làm ra tội, thì người
ấy đền tội hết rồi, gặp giống súc thành-hình, gọi là Mỵ-quỷ; do tham nóng-giận
mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp con sâu thành-hình, gọi là Cổ-độc-quỷ;
do tham thù-oán mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp vận-suy kẻ-thù
mà thành-hình, gọi là Lệ-quỷ; do tham ngã-mạn mà làm ra tội, thì người ấy đền tội
hết rồi, gặp khí thành-hình, gọi là Ngạ-quỷ; do tham lừa-gạt mà làm ra tội, thì
người ấy đền tội hết rồi, gặp u-ẩn thành-hình, gọi là Áp-quỷ; do tham ác-kiến
mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp tinh-hoa thành-hình, gọi là Vọng-lượng-quỷ;
do tham vu-vạ mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp linh-hiển
thành-hình, gọi là Dịch-sử-quỷ; do tham bè-phái che-giấu mà làm ra tội, thì người
ấy đền tội hết rồi, gặp con người thành-hình, gọi là Truyền-tống-quỷ.
A-nan,
những người đó đều vì thuần-tình phải đọa-lạc, khi lửa-nghiệp đốt-sạch rồi, thì
lên làm quỷ; như thế đều do cái nghiệp vọng-tưởng tự mình chuốc lấy; nếu ngộ được
tính Bồ-đề, thì nơi tính Diệu-viên-minh, vốn không có gì.
3. THÀNH "THÚ"
Lại
nữa, A-nan, khi nghiệp-quỷ đã hết, tình và tưởng cả hai đều thành không, thì mới
ở nơi thế-gian, cùng với người mắc nợ cũ, oán-đối gặp nhau; thân làm súc-sinh để
trả nợ cũ.
Quái-quỷ
theo vật, vật tiêu báo hết, sinh nơi thế-gian, phần nhiều làm loài chim kiêu. Bạt-quỷ
theo gió, gió tiêu báo hết, sinh nơi thế-gian, phần nhiều làm tất-cả những loài
cữu-trưng kỳ-dị. Mỵ quỷ theo súc, súc chết báo hết, sinh nơi thế-gian, phần nhiều
làm loài hồ. Cổ-quỷ theo sâu, sâu diệt báo hết, sinh nơi thế-gian, phần nhiều
làm loài có độc. Lệ-quỷ theo vận suy, suy tột báo hết, sinh nơi thế-gian, phần
nhiều làm loài giun. Ngạ-quỷ theo khí, khí tiêu báo hết, sinh nơi thế-gian, phần
nhiều làm loài cung-cấp thịt ăn. Áp-quỷ theo u-ẩn, u-ẩn tiêu báo hết, sinh nơi
thế-gian, phần nhiều làm loài cung-cấp đồ-mặc. Vọng-lượng-quỷ theo tinh-hoa,
tinh-hoa tiêu báo hết, sinh nơi thế-gian, phần nhiều làm các loài chim mùa. Dịch-sử-quỷ
theo sự linh-hiển, linh-hiển diệt báo hết, sinh nơi thế-gian, phần nhiều làm tất-cả
các loài hưu-trưng. Truyền-tống-quỷ theo người, người chết báo hết, sinh nơi thế-gian,
phần nhiều làm các loài quấn-quít bên người.
A-nan,
bọn ấy đều do lửa-nghiệp đốt xong, sinh ra loài súc, trả hết nợ cũ; như thế, đều
do những nghiệp hư-vọng của tự mình chuốc lấy; nếu ngộ được tính Bồ-đề, thì các
vọng-duyên đó vốn không có gì.
Như
lời ông nói, bọn Bảo-liên-hương, Lưu-ly-vương, Thiện-tinh tỷ-khưu đều vốn tự
mình gây ra nghiệp-dữ; nghiệp ấy không phải từ trên trời sa xuống, từ dưới đất
phát ra và cũng không phải do người khác đưa tới, mà chính do vọng-tưởng của tự
mình gây ra, rồi tự mình phải chịu quả-báo; nơi tâm Bồ-đề, đó chỉ là sự kết-đông
của vọng-tưởng giả-dối.
4. THÀNH "NGƯỜI"
Lại
nửa, A-nan, các súc-sinh ấy đền-trả nợ trước, nếu trong lúc trả nợ, trả quá nợ
cũ, thì những chúng-sinh ấy, trở lại làm người, đòi lại chỗ thừa. Nếu bên kia
có sức, lại có cả phúc-đức, thì ở trong loài người, không rời-bỏ thân người, mà
hoàn lại chỗ thừa đó; còn nếu không phúc-đức, thì phải làm súc-sinh đền lại chỗ
thừa.
A-nan,
nên biết, nếu dùng tiền-của hoặc sức người ta, thì đền đủ là xong; còn như
trong ấy, có giết thân-mạng, hoặc ăn thịt kẻ khác, như thế, thì đi đến ăn nhau,
giết nhau, trải qua nhiều kiếp, số như vi-trần, cũng như bánh xe xoay-vần,
thay-đổi bên cao, bên thấp, không có dừng-nghĩ; trừ khi được phép Xa-ma-tha, hoặc
gặp Phật ra đời, thì không thể thôi được.
Nay
ông nên biết loài chim kiêu kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong
nhân-đạo, tham-hợp hạng ngoan-cố. Giống cữu-trưng kia, trả nợ đủ, trở lại hình
người, sinh trong nhân-đạo, tham-hợp hạng quái-dị. Những loài hồ kia, trả nợ đủ,
trở lại hình người, sinh trong nhân-đạo, tham-hợp hạng ngu-dại. Những loài có độc
kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân-đạo, tham-hợp hạng nham-hiểm.
Những loài giun kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân-đạo, tham-hợp
hạng hèn-nhát. Những loài cung-cấp thịt-ăn kia, trả nợ đủ, trở lại hình người,
sinh trong nhân-đạo, tham-hợp hạng nhu-nhược. Những loài cung-cấp đồ mặc kia,
trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân-đạo, tham-hợp hạng lao-lụy. Những
loài chim mùa kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân-đạo, tham-hợp
hạng văn-hoa. Những loài hưu-trưng kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh
trong nhân-đạo, tham-hợp hạng thông-minh. Những loài quấn-quít theo người kia,
trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân-đạo, tham-hợp hạng thông-đạt.
A-nan,
bọn ấy trả hết nợ cũ, trở lại hình người, đều do từ vô-thủy đến nay, điên-đảo
gây nghiệp, vay trả thừa thiếu, sinh nhau, giết nhau; nếu không gặp Như-lai,
không nghe Chính-pháp, thì ở trong trần-lao, máy-móc xoay-vần mãi mãi; bọn ấy gọi
là thật đáng thương-xót.
5. THÀNH MƯỜI THỨ "TIÊN"
"A-nan,
lại có chúng-sinh từ loài người, không nương theo Chính-giác tu phép Tam-ma-đề,
lại riêng tu theo vọng-niệm, để tâm củng-cố hình-hài, vào trong rừng núi, những
chỗ người ta không đến được, thành mười thứ Tiên.
"A-nan,
các chúng-sinh kia, kiên-cố dùng đồ-bổ mà không dừng-nghỉ, khi đạo-ăn được
thành-tựu, thì gọi là Địa-hành-tiên.
Kiên-cố
dùng cỏ-cây mà không dừng nghỉ, khi đạo-thuốc được thành-tựu, thì gọi là
Phi-hành-tiên.
Kiên-cố
dùng kim-thạch mà không dừng-nghỉ, khi đạo hóa-chất được thành-tựu, thì gọi là
Du-hành-tiên.
Kiên-cố
làm những động-tác mà không dừng-nghỉ, khi khí-tinh được thành-tựu, thì gọi là
Không-hành-tiên.
Kiên-cố
luyện nước-bọt mà không dừng-nghỉ, khi nhuận-đức được thành-tựu, thì gọi là
Thiên-hành-tiên.
Kiên-cố
hấp-thụ tinh-hoa mà không dừng-nghỉ, khi hấp-thụ được thành-tựu, thì gọi là
Thông-hành-tiên.
Kiên-cố
làm thuật phù-chú mà không ngừng-nghỉ, khi thuật-pháp được thành-tựu, thì gọi
là Đạo-hành-tiên.
Kiên-cố
chuyên-chú tâm-niệm mà không dừng-nghỉ, khi chuyên-niệm được thành-tựu, thì gọi
là Chiếu-hành-tiên.
Kiên-cố
về thủy hỏa giao-cấu mà không dừng-nghỉ, khi cảm-ứng được thành-tựu, thì gọi là
Tinh-hành-tiên.
Kiên-cố
tập-luyện biến-hóa mà không dừng-nghỉ, khi giác-ngộ được thành-tựu, thì gọi là
Tuyệt-hành-tiên.
"A-nan,
bọn ấy đều ở trong loài người mà luyện tâm, tuy không tu Chính-giác, nhưng
riêng được lẽ sống, thọ ngàn vạn tuổi, nghỉ ở trong núi sâu hoặc trên đảo giữa
bể cả, cách-tuyệt chỗ người ở; đó cũng là vọng-tưởng luân-hồi lưu-chuyển. Nếu
không tu phép Tam-muội, thì khi quả-báo hết rồi, trở lại tản vào trong lục-đạo.
6. THÀNH "CHƯ THIÊN" DỤC GIỚI
"A-nan,
các người thế-gian, không cầu-đạo thường-trụ, chưa có thể rời-bỏ được sự ân-ái
với vợ mình, nhưng tâm không buông-lung trong việc tà-dâm, do tâm đứng-lặng
sinh ra sáng-suốt, sau khi mệnh-chung ở gần với mặt trời, mặt trăng; một loài
như thế, gọi là Tứ-Thiên-Vương-Thiên.
Đối
với vợ mình, dâm-ái ít-ỏi, trong lúc tịnh-cư, không được toàn-vị, thì sau khi mệnh-chung,
vượt ánh-sáng mặt trời, mặt trăng, ở trên chóp nhân-gian; một loài như thế, gọi
là Đao-lợi-thiên.
Gặp
cảnh-dục tạm theo, bỏ đi không nhớ-nghĩ, ở trong nhân-gian, động ít, tĩnh nhiều,
thì sau khi mệnh-chung, sáng-rỡ ở yên trong cõi hư-không, ánh-sáng mặt trời, mặt
trăng không soi đến được; và những người ấy tự mình có ánh-sáng; một loài như
thế, gọi là Tu-diệm-ma-thiên.
Lúc
nào cũng tĩnh, nhưng khi có cảm-xúc đến bên mình, chưa chống-đối được, thì sau
khi mệnh-chung, lên trên chỗ tinh-vi, không tiếp với những cảnh nhân-thiên cõi
dưới, cho đến gặp hoại-kiếp, tam-tai cũng không đến nơi; một loài như thế, gọi
là Đâu-suất-đà-thiên.
Chính
mình không có tâm dâm-dục, chỉ đáp-ứng với người khác mà làm, trong lúc
phô-bày, vô-vị như ăn sáp, thì sau khi mệnh-chung, vượt lên sinh vào cảnh biến-hóa;
một loài như thế, gọi là Lạc-biến-hóa-thiên.
Không
có tâm thế-gian, chỉ đồng với thế-gian mà làm việc ngũ-dục; trong lúc làm việc ấy,
rõ-ràng là siêu-thoát, thì sau khi mệnh-chung, vượt trên tất-cả những cảnh biến-hóa
và không biến-hóa; một loài như thế, gọi là Tha-hóa-tự-tại-thiên.
A-nan, sáu cõi-trời như thế, hình-thức tuy khỏi động, nhưng tâm-tính còn dính-dấp; từ các cõi ấy trở xuống, gọi là Dục-giới.
THÀNH "CHƯ THIÊN" SẮC GIỚI
"A-nan,
tất-cả những người tu tâm trong thế-gian, không nhờ Thiền-na, thì không có
trí-tuệ.
Người
nào giữ được cái thân không làm việc dâm-dục, trong lúc đi, lúc ngồi, đều không
nghĩ-nhớ, lòng ái-nhiễm không sinh, không còn ở trong Dục-giới, thì bản-thân liền
được làm phạm-lữ; một loài như thế, gọi là Phạm-chúng-thiên.
Tập-quán
ngũ-dục đã trừ rồi, tâm ly-dục hiện ra, vui-vẻ thuận theo các luật-nghi, thì
người đó liền có thể thực-hành những phạm-đức; một loài như thế, gọi là Phạm-phụ-thiên.
Thân
tâm hoàn-toàn thanh-tịnh, uy-nghi không thiếu, cấm-giới trong-sạch, lại có thêm
trí-sáng, thì người đó liền được thống-lĩnh phạm-chúng, làm đại-phạm-vương; một
loài như thế, gọi là Đại-phạm-thiên.
A-nan,
ba loài-tốt đó, tất-cả khổ-não không bức-bách được; tuy không phải chân-chính
tu phép Tam-ma-đề của đạo Phật, nhưng trong tâm thanh-tịnh, những lầm-lạc của Dục-giới
không lay-động được, nên gọi là Sơ-thiền.
A-nan,
thứ nữa, các hàng phạm-thiên khi thống-lĩnh phạm-chúng, lại tu-tập phạm-hạnh được
viên-mãn, làm cho tâm đứng-lặng không lay-động, và do sự đứng-lặng ấy, sinh ra
sáng-suốt; một loài như thế, gọi là Thiểu-quang-thiên.
Hào-quang
sáng-suốt thêm nhiều, chói-sáng không cùng, ánh vào thập phương thế-giới đều
thành trong-sáng như ngọc lưu-ly; một loài như thế, gọi là Vô-lượng-quang-thiên.
Nắm-giữ
hào-quang viên-mãn, tạo thành giáo-thể, phát ra sự giáo-hóa thanh-tịnh, ứng-dụng
không cùng; một loài như thế, gọi là Quang-âm-thiên.
A-nan,
ba loài-tốt ấy, tất-cả lo-buồn không bức-bách được; tuy không phải chân-chính
tu-hành phép Tam-ma-đề của đạo Phật, nhưng trong tâm thanh-tịnh, những lầm-lạc
thô-động đã dẹp xuống, nên gọi là Nhị-thiền.
A-nan,
những loài trời như thế, khi dùng hào-quang viên-mãn làm việc giáo-hóa, do sự
giáo-hóa càng rõ lẽ nhiệm-mầu, phát ra hạnh tinh-tiến, thông với cái vui yên-lặng;
một loài như thế, gọi là Thiểu-tịnh-thiên.
Cảnh
thanh-tịnh hiện-tiền, dẫn-phát không có bờ-bến, thân tâm được khinh-an, thành
cái vui yên-lặng; một loài như thế, gọi là Vô-lượng-tịnh-thiên.
Thế-giới
và thân tâm, tất-cả hoàn-toàn thanh-tịnh, đức thanh-tịnh được thành-tựu, cảnh-giới
thù-thắng hiện-tiền, dồn về vui yên-lặng; một loài như thế, gọi là Biến-tịnh-thiên.
A-nan,
ba loài-tốt đó, đầy-đủ công-hạnh đại-tùy-thuận, thân tâm yên-lặng, được cái vui
vô-lượng; tuy không phải chân-chính được phép Tam-ma-đề của đạo Phật, nhưng
trong tâm yên-ẩn, hoan-hỷ được đầy-đủ, nên gọi là Tam-thiền.
A-nan,
lại nữa, những loài trời đó, thân tâm không bị bức-bách, nguyên-nhân của khổ đã
hết, lại xét cái vui không phải thường-trụ, lâu rồi cũng phải tiêu-tan, nên cả
hai tâm khổ và vui, đồng-thời đều phóng-xả; những tướng thô-nặng đã diệt, thì
phúc thanh-tịnh sinh ra; một loài như thế, gọi là Phúc-sinh-thiên.
Tâm
phóng-xả được viên-mãn, sự nhận-hiểu cao-xa càng thanh-tịnh; trong cái phúc
không gì trở-ngại đó, được sự tùy-thuận nhiệm-mầu cùng-tột vị-lai; một loài như
vậy, gọi là Phúc-ái-thiên.
A-nan,
từ cõi trời đó, có hai đường trẽ : Nếu dùng cái tâm sáng-suốt thanh-tịnh vô-lượng
trước kia, mà tu-chứng an-trụ nơi phúc-đức viên-mãn sáng-suốt, thì một loài như
thế, gọi là Quảng-quả-thiên.
Nếu
nơi cái tâm trước kia nhàm-chán cả cái khổ và cái vui, lại nghiền-ngẫm cái tâm
phóng-xả, tiếp-tục không ngừng, đi đến cùng-tột sự phóng-xả, thân tâm đều diệt
hết, ý-nghĩ bặt mất, trải qua năm trăm kiếp; song, người ấy đã lấy cái sinh-diệt
làm nhân, thì không thể phát-minh tính không-sinh-diệt, nên nửa kiếp đầu thì diệt,
nửa kiếp sau lại sinh; một loài như thế, gọi là Vô-tưởng-thiên.
A-nan,
bốn loài-tốt ấy, tất-cả những cảnh khổ vui trong thế-gian không lay-động được;
tuy không phải là chỗ bất-động chân-thật của đạo vô-vi; song, nơi cái tâm hữu-sở-đắc,
công-dụng đã thuần-thục, nên gọi là Tứ-thiền.
A-nan,
trong đó, lại có năm bậc Bất-hoàn-thiên, các vị này đã diệt hết tập-khí chín phẩm
tư-hoặc trong cõi dưới rồi, khổ vui không còn, bên dưới không có chỗ ở, nên
an-lập chỗ ở nơi chúng-đồng-phận của tâm phóng-xả.
A-nan,
khổ vui cả hai đều diệt, không còn tâm-niệm ưa-ghét; một loài như thế, gọi là
Vô-phiền-thiên.
Tự-tại
phóng-xả, không còn năng-xả, sở-xả; một loài như thế, gọi là Vô-nhiệt-thiên.
Khéo
thấy thế-giới mười phương thảy đều đứng-lặng, không còn tất-cả những cấu-nhiễm
trầm-trọng của trần-cảnh; một loài như thế, gọi là Thiện-kiến-thiên.
Tri-kiến
thanh-tịnh hiện-tiền, sử-dụng được không ngăn-ngại; một loài như thế, gọi là
Thiện-hiện-thiên.
Quán-sát
rốt-ráo các cực-vi, cùng-tột tính của sắc-pháp, vào tính không bờ-bến; một loài
như thế, gọi là Sắc-cứu-kính-thiên.
A-nan,
những bậc Bất-hoàn-thiên đó, chỉ riêng bốn vị thiên-vương Tứ-thiền được có
kính-nghe, nhưng không thể thấy-biết; cũng như hiện nay, có các thánh-đạo-trường
nơi rừng sâu đồng rộng thế-gian, đều là những nơi trụ-trì của các vị A-la-hán,
nhưng những người thô-thiển thế-gian không thể thấy được.
A-nan,
mười tám loài trời đó, tâm thường ở trong định, không dính-dáng với trần-cảnh,
song chưa hết cái lụy của hình-hài; từ đó trở về, gọi là Sắc-giới.
THÀNH "CHƯ THIÊN" VÔ SẮC GIỚI
"Lại
nữa, A-nan, từ chỗ cao nhất của Sắc-giới, lại có hai đường trẽ. Nếu nơi tâm
phóng-xả, phát-minh được trí-tuệ, trí-tuệ sáng-suốt viên-thông, thì ra khỏi cõi
trần, thành vị A-la-hán, vào Bồ-tát-thừa; một loài như thế, gọi là Hồi-tâm-đại-a-la-hán.
Nếu
nơi tâm phóng-xả, khi thành-tựu được sự phóng-xả rồi, lại cảm-thấy cái thân làm
ngăn-ngại và tiêu cái ngăn-ngại ấy vào hư-không, thì một loài như thế, gọi là
Không-xứ.
Các
chất-ngại đã tiêu-trừ rồi, nhưng không diệt được cái vô-ngại, trong đó chỉ còn
thức A-lại-gia và còn nguyên-vẹn phần nửa vi-tế của thứ Mạt-na; một loài như thế,
gọi là Thức-xứ.
Sắc
và không đã hết, cái tâm biết là hết ấy cũng diệt-trừ, mười phương vẳng-lặng,
không còn gì nữa; một loài như thế, gọi là Vô-sở-hữu-xứ.
Thức-tính
vốn không lay-động, lại dùng cái diệt mà diệt đến cùng; trong chỗ không thể hết,
phát-minh nhận cho là hết, nên hình-như còn, mà không phải còn, hình-như hết,
mà không phải hết; một loài như thế, gọi là Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ.
Bọn
nầy xét cùng cái không, nhưng không tột lý-không; nếu từ thánh-đạo cõi trời bất-hoàn
mà xét-cùng, thì một loài như thế, gọi là Bất-hồi-tâm-độn-a-la-hán. Nếu từ cõi
trời vô-tưởng và ngoại-đạo mà xét-cùng cái không, không biết trở về, mê-lầm
không nghe Chính-pháp, thì sẽ vào trong luân-hồi.
A-nan,
trên các cõi trời đó, mỗi mỗi đều là những phàm-phu hưởng sự báo-đáp của nghiệp-quả
và khi sự báo-đáp ấy hết rồi, thì trở vào trong luân-hồi. Thiên-vương các cõi
kia, thường là Bồ-tát, dùng Tam-ma-đề mà lần-lượt tiến lên, hồi-hướng về đường
tu-hành đạo Phật.
A-nan,
những cõi trời tứ-không đó, thân tâm diệt hết, định-tính hiện-tiền, không có sắc-pháp
của nghiệp-quả; từ đó đến cuối-cùng, gọi là Vô-sắc-giới.
Bọn
đó, đều do không rõ Diệu-giác-minh-tâm, chứa-nhóm cái vọng, mà giả-dối phát
-sinh ra ba cõi, giả-dối theo bảy loài trong đó, mà chìm-đắm và cá-thể thụ-sinh
cũng theo từng loài.
7. THÀNH BỐN GIỐNG
"A TU LA"
"Lại
nữa, A-nan, trong ba cõi ấy, còn có bốn giống A-tu-la.
Nếu
từ loài quỷ, do sức bảo-hộ Chính-pháp, được thần-thông vào hư-không, thì giống
A-tu-la này, từ trứng sinh ra, thuộc về loài quỷ.
Nếu
từ cõi trời, đức kém phải sa-đọa, chỗ ở gần với mặt trời, mặt trăng, thì giống
A-tu-la đó, từ thai sinh ra, thuộc về loài người.
Có
chúa A-tu-la, nắm-giữ thế-giới, sức-mạnh đến chỗ không phải sợ ai, có thể
tranh-quyền với Phạm-vương, Đế-thích và Tứ-thiên-vương; giống A-tu-la này, nhân
biến-hóa mà có, thuộc về loài trời.
A-nan, riêng có một số A-tu-la thấp-kém, sinh trong lòng biển lớn, lặn trong thủy-huyệt, ban ngày đi chơi trên hư-không, tối về ngủ dưới nước; giống A-tu-la này, nhân thấp-khí sinh ra, thuộc về loài súc-sinh.
KHAI
THỊ CHỖ HƯ VỌNG CỦA BẢY LOÀI
ĐỂ
KHUYẾN KHÍCH TU HÀNH CHÍNH PHÁP
"A-nan,
xét-rõ bảy loài địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sinh, người và thần-tiên, trời và
A-tu-la như thế, đều là những tướng hữu-vi tối-tăm, giả-dối tưởng-tượng thụ-sinh,
giả-dối tưởng-tượng theo nghiệp; đối với tâm-tính Diệu-viên-minh, bản-lai không
năng-tác, sở-tác, thì đều như hoa-đốm giữa hư-không, vốn không dính-dáng; chỉ một
cái hư-vọng, chứ không có cỗi-gối manh-mối gì.
"A-nan,
những chúng-sinh đó, không nhận được tâm-tính bản-lai, chịu cái luân-hồi như thế
trong vô-lượng kiếp, mà không chứng được chân-tính thanh-tịnh, đó đều do chúng
thuận theo những sát, đạo, dâm, hoặc ngược lại ba cái đó, thì lại sinh ra
không-sát, không-đạo, không-dâm; có, thì gọi là loài quỷ, không, thì gọi là
loài trời; có và không thay nhau, phát-khởi ra tính luân-hồi.
"Nếu
khéo tu-tập phát-huy phép Tam-ma-đề, thì trong bản-tính thường-diệu, thường-tịch,
cả hai cái có, cái không đều không và cái không có, không không cũng diệt, còn
không có gì là bất-sát, bất-đạo, bất-dâm, làm sao lại còn thuận theo được những
việc sát, đạo, dâm.
"A-nan,
không đoạn được ba nghiệp, thì mỗi mỗi chúng-sinh đều có phần riêng, nhân những
cái riêng ấy, mà quả-báo đồng-phận-chung của các cái riêng, không phải là không
chỗ nhất-định; đó là do vọng-kiến của tự mình phát-sinh ra; hư-vọng phát-sinh vốn
không có nhân, không thể tìm-xét nguồn-gốc được.
"Ông
khuyên người tu-hành, muốn được đạo Bồ-đề, cốt-yếu phải trừ tam-hoặc; tam-hoặc
không hết, thì dầu được thần-thông, cũng đều là những công-dụng hữu-vi của thế-gian;
tập-khí mê-lầm đã không diệt, thì lạc vào đường ma; tuy muốn trừ cái vọng,
nhưng lại càng thêm giả-dối; Như-lai bảo là rất đáng thương-xót. Như thế, đều
do vọng-kiến tự mình tạo ra, không phải là lỗi của tính Bồ-đề.
Nói
như thế ấy, tức là lời nói chân-chính; nếu nói khác thế, tức là lời nói của
Ma-vương".
NGUYÊN
DO KHỞI RA CÁC MA SỰ
Khi
bấy-giờ, đức Như-lai gần chấm-dứt thời thuyết-pháp, ở nơi sư-tử-tọa, vin ghế thất-bảo,
xoay về Tử-Kim-Sơn, trở lại dựa nơi ghế, bảo khắp đại-chúng và ông A-nan rằng:
"Bọn
ông là hàng Duyên-giác, Thanh-văn hữu-học, ngày nay, đã hồi-tâm hướng về vô-thượng
diệu-giác đạo Đại-bồ-đề, và tôi cũng đã chỉ-dạy phép tu chân-chính; nhưng các
ông còn chưa biết những ma-sự nhỏ-nhiệm trong lúc tu-chỉ, tu-quán. Nếu cảnh ma
hiện ra, ông không biết được, thì sẽ tu-tâm không đúng và mắc vào tà-kiến; hoặc
bị ma ngũ-ấm của ông, hoặc bị thiên-ma, hoặc mắc quỷ-thần, hoặc gặp lỵ-mỵ, mà
trong tâm không rõ, nhận giặc làm con. Lại nữa, có khi được một ít đã cho là đủ,
như Vô-văn tỷ-khưu được Đệ-tứ-thiền, nói ma là chứng bậc thánh; đến khi quả-báo
chư-thiên hết rồi, suy-tướng hiện ra, thì phỉ-báng quả A-la-hán còn phải thụ-sinh,
nên đọa vào ngục A-tỳ. Các ông hãy nghe cho kỹ, nay tôi vì ông mà phân-biệt
chín-chắn".
Ông
A-nan đứng dậy, với các hàng hữu-học trong Hội, vui-mừng đỉnh-lễ, kính nghe Phật
từ-bi dạy-bảo.
Phật
bảo ông A-nan và cả đại-chúng: "Các ông nên biết, mười hai loài chúng-sinh
trong thế-giới hữu-lậu, tâm-thể giác-viên bản-giác diệu-minh, cùng thập phương
chư Phật, không hai không khác. Do vọng-tưởng, các ông mê chân-lý thành ra lỗi-lầm.
Si-ái phát-sinh, sinh mê cùng khắp, nên có hư-không; hóa mãi cái mê không thôi,
nên có thế-giới sinh ra; các cõi-nước số như vi-trần ở mười phương, trừ cõi
vô-lậu, đều do vọng-tưởng mê-lầm kiến-lập. Nên biết, hư-không sinh trong tâm
ông, cũng như chút mây điểm trên vùng trời, huống nữa là các thế-giới ở trong
hư-không. Một người các ông phát-minh chân-lý, trở về bản-tính, thì hư-không thập
phương đó thảy đều tiêu-mất, làm sao, các cõi-nước hiện có trong hư-không ấy, lại
không rung-động. Các ông tu thiền-định, trau-dồi phép Tam-ma-đề, tâm được
thông-suốt, ám-hợp với các vị Bồ-tát và các vị vô-lậu Đại-a-la-hán mười phương,
thật sự vắng-lặng, thì tất-cả Ma-vương, quỷ-thần và loài trời, phàm-phu, đều thấy
cung-điện mình không cớ gì đổ vỡ, đất-liền rung-động, các loài thủy-lục bay-nhảy,
thảy đều kinh-sợ. Phàm-phu tối-tăm, không rõ nên nghĩ-lầm; còn bọn kia đều được
năm thứ thần-thông, trừ lậu-tận-thông, đương luyến-tiếc cảnh trần-lao, làm sao,
lại để cho ông phá-hoại chỗ ở? Vậy nên các loài quỷ-thần, thiên-ma, vọng-lượng,
yêu-tinh, trong lúc ông tu phép Tam-muội, đều đến quấy-phá.
Song
các ma kia, tuy có giận-dữ, nhưng bọn chúng ở trong trần-lao, các ông ở trong
diệu-giác, thì cũng như gió thổi ánh-sáng, như dao chém nước, hẳn không đụng-chạm
nhau được; ông như nước sôi, bọn kia như giá-cứng, tạm gần hơi-ấm, thì không
bao-lâu sẽ tiêu-tan. Chúng nó luống-ỷ thần-lực, nhưng chỉ làm người khách; nếu
chúng có thể phá-rối được, là do người chủ ngũ-ấm trong tâm ông, nếu người chủ
mê-lầm, thì khách được dịp khuấy-phá.
Đương
lúc tu-thiền, giác-ngộ không lầm, thì các ma-sự kia không làm gì ông được. Khi
năm ấm đã tiêu-trừ, vào tính sáng-suốt, thì bọn tà-ma kia là kẻ tối-tăm, sáng
phá được tối, đến gần tự phải tiêu-mất, làm sao còn dám ở lại khuấy-phá thiền-định.
Nếu không tỏ-ngộ, bị ngũ-ấm làm cho mê-lầm, thời chính ông là A-nan, lại phải
làm con của ma và thành người ma. Như nàng Ma-đăng-già, sức còn hèn-kém, chỉ
dùng chú-thuật, bắt ông phá luật-nghi của Phật; trong tám muông hạnh chỉ phá một
giới; nhưng vì tâm ông thanh-tịnh, nên vẫn chưa bị chìm-đắm. Bọn ma nầy, thì
phá-hoại toàn thân bảo-giác của ông, như nhà quan tể-thần, bỗng-nhiên bị tước hết,
tịch hết, linh-đinh quanh-lộn, không thể thương-cứu.
Những
cảnh thuộc Sắc-ấm
"A-nan
nên biết, ông ngồi đạo-trường, tiêu-diệt các niệm, niệm đó nếu hết, thì tâm
ly-niệm sáng-tỏ tất-cả, động-tĩnh không rời, nhớ quên như một. Đương khi an-trụ
nơi chỗ đó mà vào Tam-ma-đề, thì như người tỏ mắt ở chỗ rất tối-tăm, tính-biết
được diệu-tịnh, nhưng tâm chưa phát ra trí sáng-suốt; thế thì gọi là phạm-vi của
Sắc-ấm.
Nếu
con mắt sáng-tỏ, mười phương rộng-mở, không còn tối-tăm nữa, thì gọi là hết Sắc-ấm;
người đó mới có thể vượt khỏi kiếp-trược, xét lại nguyên-do, thì cỗi-gốc là vọng-tưởng
kiên-cố.
A-nan,
chính đương trong lúc chín-xét tính diệu-minh, tứ-đại không kết-hợp, thì trong
một thời-gian ngắn, tâm có thể ra khỏi các ngăn-ngại, ấy gọi là tinh-minh trào
ra tiền-cảnh; đó chỉ do công-dụng tạm được như thế, không phải là chứng bậc
thánh; nếu không nhận là chứng-ngộ, thì cũng gọi là cảnh-giới tốt, nếu nghĩ là
chứng bậc thánh, thì liền mắc các tà-kiến.
A-nan,
lại đem cái tâm ấy chín-xét tính diệu-minh, trong thân trở nên rỗng-suốt, người
đó bỗng-nhiên, ở trong thân mình, nhặt ra các thứ giun-sán mà cái thân vẫn
y-nguyên, không bị tổn-thương; ấy gọi là tinh-minh trào vào hình-thể, chỉ do
tu-hành tinh-tiến, tạm thấy được như vậy, không phải là chứng bậc thánh; nếu
không nhận là chứng-ngộ, thì cũng gọi là cảnh-giới tốt, nếu nghĩ là chứng bậc
thánh, thì liền mắc các tà-kiến.
Lại
dùng cái tâm ấy, chín-xét trong ngoài, khi đó ý-thức tư-tưởng, ngoài bản-thân
ra, còn bén vào các nơi khác, đắp-đổi làm khách, làm chủ; bỗng-dưng ở giữa
hư-không, nghe tiếng thuyết-pháp hoặc nghe mười phương đồng diển-bày nghĩa
thâm-mật; ấy gọi là tinh-thần đắp-đổi khi ly, khi hợp; thành-tựu được thiện-chủng,
thì tạm được như thế, không phải là chứng bậc thánh; không nhận là chứng-ngộ,
thì cũng gọi là cảnh-giới tốt; nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì mắc các tà-kiến.
Lại
dùng cái tâm ấy, đứng-lặng hiện ra sáng-suốt; tâm-quang phát-minh, khắp cả mười
phương thành sắc Diêm-phù-đàn, tất-cả các loài hóa làm Như-lai; lúc bấy-giờ, bỗng
thấy Phật Tỳ-lô-giá-na ngồi trên đài Thiên-quang, có ngàn đức Phật vây quanh,
trăm ức cõi-nước cùng với hoa sen đồng một thời hiện ra; ấy gọi là ý-thức
tiêm-nhiễm sự linh-ngộ, khi tâm-quang phát-minh, soi các thế-giới, thì tạm được
như thế, không phải là chứng bậc thánh; không nhận là chứng-ngộ, thì cũng gọi
là cảnh-giới tốt, nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì mắc các tà-kiến.
Lại
dùng cái tâm ấy, chín-xét tính diệu-minh, quan-sát không ngừng, đè-nén, uốn-dẹp,
dứt-trừ thái-quá; lúc bấy-giờ, bỗng-nhiên mười phương hư-không thành sắc thất-bảo,
hoặc sắc bách-bảo, đồng-thời cùng khắp, không ngăn-ngại lẫn nhau; những sắc
xanh, vàng, đỏ, trắng, mỗi mỗi thuần-hiện ra, ấy gọi là công-sức đè-nén quá phần,
tạm được như thế, không phải là chứng bậc thánh; không nhận là chứng-ngộ, thì
cũng gọi là cảnh-giới tốt, nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì mắc các tà-kiến.
Lại
dùng cái tâm ấy, lặng-suốt chín-xét, trong-sáng không tán-loạn; bỗng ở giữa
đêm, thấy các thứ vật trong nhà tối, chẳng khác gì ban ngày, mà những vật trong
nhà tối đó cũng không diệt mất; ấy gọi là định-tâm lặng-đứng cái thấy, nên thấy
suốt chỗ tối-tăm, tạm được như thế, không phải là chứng bậc thánh; không nhận
là chứng-ngộ, thì cũng gọi là cảnh-giới tốt; nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì mắc
các tà-kiến.
Lại
dùng cái tâm ấy, khắp vào tính hư-dung, bốn vóc bỗng đồng như cỏ, như cây, lửa
đốt, dao cắt toàn không hay-biết, khi thì ngọn lửa không thể đốt cháy, dù cắt
thịt cũng như chẻ cây; ấy gọi là năm trần đều tiêu; khi bài-xích tính tứ-đại, một
mặt vào chỗ thuần-nhất, tạm được như thế, không phải là chứng bậc thánh; không
nhận là chứng-ngộ, thì cũng gọi là cảnh-giới tốt; nếu nghĩ là chứng bậc thánh,
thì mắc các tà-kiến.
Lại
dùng cái tâm ấy, thành-tựu tính thanh-tịnh, công-dụng tột bậc, bỗng thấy mười
phương núi sông, đất-liền đều thành cõi Phật, đủ bảy thứ báu chói-sáng cùng khắp;
lại thấy chư Phật Như-Lai, như số cát sông Hằng, đầy khắp cõi hư-không, lâu-đài
hoa-lệ; dưới thấy địa-ngục, trên xem thiên-cung, không còn ngăn-ngại; ấy gọi là
tư-tưởng ưa-chán chứa-nhóm ngày một sâu, lâu lắm hóa-thành như thế, không phải
là chứng bậc thánh; không nhận là chứng-ngộ, thì cũng gọi là cảnh-giới tốt; nếu
nghĩ là chứng bậc thánh, thì mắc các tà-kiến.
Lại
dùng cái tâm ấy, nghiên-cứu sâu-xa, bỗng ở giữa đêm, thấy rõ chợ-búa, làng-mạc,
bà con quyến-thuộc phương xa, hoặc nghe lời nói; ấy gọi là nén-ép cái tâm tột bậc
nên nó bay ra, thấy được chỗ xa-cách, không phải là chứng bậc thánh; không nhận
là chứng-ngộ, thì cũng gọi là cảnh-giới tốt; nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì mắc
các tà-kiến.
Lại
dùng cái tâm ấy, nghiên-cứu cùng-tột, thấy vị thiện-tri-thức, rồi hình-thể biến-đổi,
không duyên-cớ gì, trong giây-lát có nhiều thứ thay-đổi; ấy gọi là tà-tâm; bị
loài lỵ-mỵ hoặc mắc thiên-ma vào trong tâm-thức, không duyên-cớ gì lại biết
thuyết-pháp, thông-suốt các diệu-nghĩa, không phải là chứng bậc thánh; không nhận
là chứng-ngộ thì ma-sự tự tiêu-diệt; nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì mắc các tà-kiến.
A-nan,
mười thứ cảnh hiện ra trong thiền-định như thế, đều do Sắc-ấm và tâm công-dụng
giao-xen, nên hiện những việc đó; chúng-sinh ngu-mê, không biết suy-xét tự lượng,
gặp nhân-duyên ấy, mê không tự biết, bảo là lên bậc thánh, thành tội đại-vọng-ngữ,
phải đọa vào ngục Vô-gián. Sau khi Như-lai diệt-độ rồi, các ông nên nương theo
lời dạy, khai-thị nghĩa nầy trong đời mạt-pháp, không để thiên-ma được dịp khuấy-phá;
giữ-gìn che-chở cho chúng-sinh thành đạo vô-thượng.
Những
cảnh thuộc Thọ-ấm
"A-nan,
thiện-nam-tử kia tu phép Tam-ma-đề, trong Xa-ma-tha, khi Sắc-ấm hết rồi, thì thấy
tâm chư Phật như cái bóng hiện ra trong gương sáng, hình-như có được, nhưng
chưa có thể dùng; cũng như người bị bóng-mộc đè, tay chân y-nguyên, thấy nghe
không sai, nhưng tâm bị khách-tà, không cử-động được; thế thì gọi là phạm-vi của
Thụ-ấm.
Nếu
bóng-mộc hết đè, thì cái tâm rời khỏi thân, trở lại xem được cái mặt, đi ở tự-do,
không còn ngăn-ngại; thế gọi là hết Thụ-ấm; người đó mới có thể vượt khỏi kiến-trược,
xét lại nguyên-do, thì cỗi-gốc là vọng-tưởng hư-minh.
A-nan,
thiện-nam-tử kia, đương ở trong đó, được rất sáng-suốt, cái tâm phát-sinh
đè-nén quá phận, bỗng ở nơi đó phát ra lòng bi vô-cùng, như thế cho đến xem thấy
muỗi-mòng như là con đỏ, tâm sinh thương-xót, nước mắt tự chảy ra; ấy gọi là
công-dụng đè-nén quá mức; ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc thánh;
giác-ngộ không mê nữa, lâu tự tiêu hết. Nếu nhận là chứng bậc thánh, thì có giống
ma sầu-bi vào trong tim gan, thấy người thì đau-xót, kêu-khóc vô-hạn; sai mất
chính-thụ, sẽ bị chìm-đắm.
A-nan,
lại các thiện-nam-tử trong định kia, thấy Sắc-ấm tiêu rồi, Thụ-ấm tỏ-rõ, cảnh tốt
hiện ra trước, cảm-khích quá phần, bỗng ở trong đó, sinh lòng dũng-mãnh vô-hạn;
cái tâm mạnh-mẽ, chí bằng chư Phật, bảo ba tăng-kỳ, một niệm có thể vượt khỏi. Ấy
gọi là công-dụng lấn-lướt quá mức; ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc
thánh; giác-ngộ không mê nữa, thì lâu tự tiêu hết. Nếu nhận là chứng bậc thánh,
thì có giống ma ngông-cuồng vào trong tim gan, thấy người thì khoe, ngã-mạn
không ai sánh được; tâm người ấy, cho đến, trên không thấy Phật, dưới không thấy
người; sai mất chính-thụ, sẽ bị chìm-đắm.
Lại
các thiện-nam-tử trong định kia, thấy Sắc-ấm tiêu rồi, Thụ-ấm tỏ-rõ; trước
không có chỗ chứng mới, lui về thì mất chỗ cũ, trí-lực suy-kém, vào Trung-hủy-địa,
hẳn không thấy gì; trong tâm bỗng sinh lòng rất khô-khát; trong tất-cả thời thầm-nhớ
không thôi, rồi cho như thế là tướng tinh-tiến. Ấy gọi là tu-hành không trí-tuệ,
tự sinh lầm-lạc; ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc thánh. Nếu nhận
là chứng bậc thánh, thì có giống ma nhớ vào trong tim gan, ngày đêm như nắm cái
tâm treo vào một nơi; sai mất chính-thụ, sẽ bị chìm-đắm.
Lại
các thiện-nam-tử trong định kia, thấy Sắc-ấm tiêu rồi, Thụ-ấm tỏ-rõ, sức tuệ
quá định, bị cái lỗi quá mạnh-mẽ sắc-bén; đem cái thắng-tính ôm vào trong tâm,
tự ngờ mình là Phật Lô-Xá-Na, được một ít đã cho là đủ. Ấy gọi là chỗ dụng-tâm
quên mất suy-xét, nên đắm vào nơi tri-kiến, ngộ thì không có lỗi, không phải là
chứng bậc thánh. Nếu nhận là chứng bậc thánh, thì có giống ma Hạ-liệt-dị-tri-túc
vào trong tim gan, thấy người thì tự xưng đã được vô-thượng Đệ-nhất-nghĩa-đế,
sai mất chính-thụ, sẽ bị chìm-đắm.
Lại
các thiện-nam-tử trong định kia, thấy Sắc-ấm tiêu rồi, Thụ-ấm tỏ-rõ, chỗ chứng
mới chưa được, còn tâm cũ đã mất, soi cả hai bên, tự cho là nguy-hiểm; trong
tâm bổng-nhiên sinh ra lòng lo vô-tận, như ngồi giường sắt, như uống thuốc độc,
tâm không muốn sống, thường cầu người khác hại thân-mệnh mình để sớm được giải-thoát.
Ấy gọi là tu-hành sai mất phương-tiện; ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng
bậc thánh. Nếu nhận chứng bậc thánh, thì có một phần giống ma thường-lo-rầu vào
trong tim gan, tay cầm dao-gươm tự cắt thịt mình, thích được bỏ mạng, hoặc thường
lo-rầu, chạy vào trong rừng núi, không thích thấy người ta, sai mất chính-thụ,
sẽ bị chìm-đắm.
Lại
các thiện-nam-tử trong định kia, thấy Sắc-ấm tiêu rồi, Thụ-ấm tỏ-rõ, trong chỗ
thanh-tịnh, tâm được yên-ổn, bỗng có cái mừng vô-hạn sinh ra, trong tâm mừng-rỡ,
không thể tự ngăn. Ấy gọi là lòng khinh-an, không có trí-tuệ tự ngăn mình; ngộ
thì không có lỗi, không phải là chứng bậc thánh. Nếu nhận là chứng bậc thánh,
thì có một phần giống ma thích-vui-mừng vào trong tim gan, thấy người thì cười,
ở bên đường cái, tự ca tự múa, tự bảo đã được vô-ngại giải-thoát; sai mất
chính-thụ, sẽ bị chìm-đắm.
Lại
các thiện-nam-tử trong định kia, thấy Sắc-ấm tiêu rồi, Thụ-ấm tỏ-rõ, tự bảo là
đã đủ rồi; không căn-cứ gì, bỗng có lòng đại-ngã-mạn phát ra, như thế cho đến
lòng mạn, quá-mạn và mạn-quá-mạn, hoặc lòng tăng-thượng-mạn, hoặc lòng ty-liệt-mạn,
một thời đều phát ra; trong tâm còn khinh thập phương Như-Lai, huống nữa là các
bậc dưới như Thanh-văn, Duyên-giác. Ấy gọi là thắng-giải quá cao, không trí-tuệ
để tự cứu; ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc thánh. Nếu nhận là chứng
bậc thánh, thì có một phần giống ma Đại-ngã-mạn vào trong tim gan, không lễ
chùa tháp, phá-hỏng kinh tượng, bảo đàn-việt rằng: Đó là đồ kim-đồng hoặc đồ thổ-mộc,
kinh là lá cây, hoặc là giấy lụa; xác-thịt chân-thường, không tự cung-kính, lại
sùng-bái đồ thổ-mộc, thật là trái-ngược. Những người quá tin, theo lời-dạy
phá-phách, chôn-bỏ trong đất, do gây nghi-ngờ lầm-lạc cho chúng-sinh, phải đọa
vào ngục Vô-gián; sai mất chính-thụ, sẽ bị chìm-đắm.
Lại
các thiện-nam-tử trong định kia, thấy Sắc-ấm tiêu rồi, Thụ-ấm tỏ-rõ; trong chỗ
tinh-minh, viên-ngộ được tinh-lý, được phép đại-tùy-thuận; tâm bỗng sinh ra
lòng khinh-an không-lường, bảo mình đã thành bậc thánh, được đại-tự-tại. Ấy gọi
là nhân trí-tuệ được các sự khinh-thanh; ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng
bậc thánh. Nếu nhận là chứng bậc thánh, thì có một phần giống ma
thích-khinh-thanh vào trong tim gan, tự bảo đã đầy-đủ, không cầu-tiến lên nữa;
bọn đó phần nhiều làm như Vô-văn tỷ-khưu, gây nghi-ngờ lầm-lạc cho chúng-sinh,
rồi đọa vào ngục A-tỳ; sai mất chính-thụ, sẽ bị chìm-đắm.
Lại
các thiện-nam-tử trong định kia, thấy Sắc-ấm tiêu rồi, Thụ-ấm tỏ-rõ; trong chỗ
tỏ-ngộ, được tính hư-minh; lúc ấy bỗng xoay lại hướng theo tính đoạn-diệt, bác
không nhân-quả, một mực vào rỗng-không; tâm rỗng-không hiện-tiền, cho đến
phát-sinh nhận-định là đoạn-diệt mãi mãi. Ngộ thì không có lỗi, không phải là
chứng bậc thánh. Nếu nhận là chứng bậc thánh, thì có giống ma rỗng-không vào
trong tim gan, chê-bai người giữ-giới là Tiểu-thừa, chứ Bồ-tát đã ngộ được
tính-không, thì có gì là trì với phạm. Người đó thường ở nhà đàn-việt thiện-tín,
uống rược ăn thịt, làm nhiều điều dâm-uế; nhân có sức ma, nhiếp-phục người ta
không sinh lòng nghi-báng; tâm ma thâm-nhập lâu ngày, hoặc ăn đại-tiện tiểu-tiện,
cũng như ăn thịt uống rượu, vì tất-cả đều không; phá luật-nghi của Phật, làm
cho người khác lầm-lạc mắc tội; sai mất chính-thụ, sẽ bị chìm-đắm.
Lại
các thiện-nam-tữ trong định kia, thấy Sắc-ấm tiêu rồi, Thụ-ấm tỏ-rõ, nghiền-ngẫm
cái hư-minh, ghi-sâu vào tim-cốt, trong tâm bỗng có lòng yêu vô-hạn sinh ra;
yêu quá phát điên, bèn làm việc tham-dục. Ấy gọi là cảnh định an thuận vào tâm,
không trí-tuệ tự giữ mình, lầm vào ngũ-dục; ngộ thì không có lỗi, không phải là
chứng bậc thánh. Nếu nhận là chứng bậc thánh, thì có giống ma ngũ-dục vào trong
tim gan, một mặt bảo sự dâm-dục là đạo Bồ-đề, dạy các bạch-y bình-đẳng làm việc
dâm-dục, những người hành-dâm gọi là trì-pháp-tử; do sức tà-ma nhiếp-phục kẻ
phàm-phu trong đời mạt-pháp, số đến cả trăm, như thế cho đến một trăm, hai
trăm, hoặc năm sáu trăm, nhiều đến ngàn vạn; khi ma sinh chán, rời-bỏ thân-thể,
đã không còn uy-đức, thì sa vào lưới pháp-luật; do gây nghi-ngờ lầm-lạc cho
chúng-sinh, phải đọa vào ngục Vô-gián; sai mất chính-thụ, sẽ bị chìm-đắm.
A-nan,
mười thứ cảnh hiện ra trong thiền-định như thế, đều do Thụ-ấm và tâm công-dụng
giao-xen, nên hiện như vậy; chúng-sinh ngu-mê không biết suy-xét tự lượng, gặp
nhân-duyên ấy, mê không tự biết, bảo là lên bậc thánh, thành tội đại-vọng-ngữ,
phải sa vào ngục Vô-gián. Sau khi tôi diệt-độ rồi, các ông nên đem lời nói nầy
của Như-lai, truyền-dạy trong đời mạt-pháp, khiến cho chúng-sinh đều tỏ-ngộ
nghĩa đó, không để thiên-ma được dịp khuấy-phá; giữ-gìn che-chở cho chúng-sinh
thành đạo vô-thượng.
Những
cảnh thuộc Tưởng-ấm
"A-nan,
thiện-nam-tử kia, tu pháp Tam-ma-đề, khi Thụ-ấm hết rồi, tuy chưa hết mê-lầm,
nhưng tâm đã rời khỏi hình-hài như chim ra khỏi lồng, điều ấy đã thành-tựu được
rồi. Từ phàm-thân đó, tiến lên trải qua sáu mươi thánh-vị Bồ-tát, được
ý-sinh-thân, tùy-ý đi, ở, không còn ngăn-ngại. Ví-như có người ngũ say nói mơ,
người ấy tuy không hay-biết gì, nhưng lời nói đã có âm-vận thứ-tự, khiến người
không ngũ đều hiểu-biết được; ấy thì gọi là phạm-vi của Tưởng-ấm.
Nếu
biết động-niệm, tư-tưởng hư-vọng tiêu-trừ, thì nơi tâm giác-minh, như bỏ hết bụi-nhơ,
một dòng sinh-tử, đầu đuôi soi khắp, gọi là hết Tưởng-ấm; người ấy mới có thể
vượt khỏi phiền-não-trược, xét lại nguyên-do, cỗi-gốc là vọng-tưởng dung-thông.
A-nan,
thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không còn mắc các tà-lự, tính viên-định
phát-minh, trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa được viên-minh, thúc-giục tư-tưởng,
tham-cầu những thiện-xảo. Khi bấy-giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy, cho tinh-thần
gá vào người khác, miệng nói kinh-pháp; người đó thật không biết bị ma gá vào,
cũng tự bảo đã được vô-thượng Niết-bàn; đến chỗ thiện-nam-tử cầu thiện-xảo kia,
trải pháp-tọa thuyết-pháp. Thân-hình người đó giây-lát, hoặc làm tỷ-khưu cho
người kia thấy, hoặc làm Đế-thích, hoặc làm phụ-nữ, hoặc làm tỷ-khưu-ni, hoặc nằm
trong nhà tối, thân có hào-quang chói-sáng. Người tu-hành ngu-mê, lầm là Bồ-tát,
tin lời dạy-bảo, lay-chuyển cái tâm, phá luật-nghi của Phật, lén làm việc
tham-dục. Miệng ma ưa nói những sự may rủi biến-đổi, hoặc nói Như-lai ra đời ở
chỗ Mỗ, hoặc nói có kiếp-hỏa, hoặc nói có đao-binh, khủng-bố người ta, khiến
cho gia-tư không cớ gì phải hao mất. Ấy gọi là giống quái-quỷ, tuổi già thành
ma, khuấy-rối người tu-hành. Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa,
thì đệ-tử cùng thầy đều sa vào lưới pháp-luật. Ông nên giác-ngộ trước, thì không
vào luân-hồi; nếu mê-lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô-gián.
A-nan,
lại thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không mắc các tà-lự, tính viên-định
phát-minh; trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa đi chơi, cho tư-tưởng bay đi, tham-cầu
trải qua nhiều nơi. Khi bấy giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy, cho tinh-thần gá vào
người khác, miệng nói kinh-pháp; người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự
bảo đã được vô-thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện-nam-tử muốn đi chơi kia, trải
pháp-tọa thuyết-pháp. Hình người đó không thay-đổi, song những người nghe pháp,
bỗng tự thấy mình ngồi trên hoa sen báu, thân-thể hóa-thành thân vàng
chói-sáng; cả một thính-chúng, mỗi người đều như thế, được cái chưa từng có.
Người tu-hành ngu-mê, lầm là Bồ-tát, tâm hóa dâm-dật, phá luật-nghi của Phật, lén
làm việc tham-dục. Miệng ma ưa nói các đức Phật ứng-hóa ra đời, người Mỗ, chỗ Mỗ
tức là hóa-thân của đức Phật Mỗ; người Mỗ sẽ đến, tức là vị Bồ-tát Mỗ, đến
giáo-hóa thế-gian. Người tu-hành thấy thế, tâm sinh hâm-mộ, tà-trí thầm-thầm nổi
lên, chủng-trí tiêu-diệt. Ấy gọi là giống bạt-quỷ, tuổi già thành ma, khuấy-rối
người tu-hành. Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ-tử
cùng thầy đều sa vào lưới pháp-luật. Ông nên giác-ngộ trước, thì không vào
luân-hồi; nếu mê-lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô-gián.
Lại
thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không mắc các tà-lự, tính viên-định
phát-minh; trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa thầm-hợp, lặng-đứng cái tư-tưởng, tham-cầu
được khế-hợp. Khi bấy-giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy, cho tinh-thần gá vào người
khác, miệng nói kinh-pháp; người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo
đã được vô-thượng Niết-bàn, đến chỗ người thiện-nam-tử cầu khế-hợp kia, trải
pháp-tọa thuyết-pháp. Hình người đó và những người nghe pháp, bề ngoài không có
thay-đổi, nhưng lại khiến cho các thính-giả, trước khi nghe pháp, tâm đã tự
khai-ngộ, niệm-niệm dời-đổi, hoặc được túc-mạng-thông, hoặc có tha-tâm-thông,
hoặc thấy địa-ngục, hoặc biết các việc hay, dở trong thế-gian, hoặc miệng nói
bài kệ, hoặc tự tụng-kinh được, mỗi mỗi đều vui-vẻ, được cái chưa từng có. Người
tu-hành ngu-mê, lầm là Bồ-tát, tâm sinh ra dính-dáng yêu-đương, phá luật-nghi của
Phật, lén làm việc tham-dục. Miệng ma thích nói Phật có lớn, nhỏ, đức Phật Mỗ
là đức Phật trước, đức Phật Mỗ là đức Phật sau, trong đó cũng có Phật thật, Phật
giả, Phật trai, Phật gái; Bồ-tát cũng thế. Người tu-hành thấy như vậy, bỏ sạch
bản-tâm, dễ vào các tà-ngộ. Ấy gọi là giống mỵ-quỷ, tuổi già thành ma, khuấy-rối
người tu-hành. Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ-tử
cùng thầy đều sa vào lưới pháp-luật. Ông nên giác-ngộ trước, thì không vào
luân-hồi, nếu mê-lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô-gián.
Lại
thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không mắc các tà-lự, tính viên-định
phát-minh; trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa biết cỗi-gốc; nơi sự vật chuyển-hóa, muốn
xét biết cùng-tột chung-thủy, thúc cái tâm sáng-suốt thêm, tham-cầu nhận-biết
chia-chẻ. Khi bấy-giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy, cho tinh-thần gá vào người
khác, miệng nói kinh-pháp. Người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo
đã được vô-thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện-nam-tử cầu biết cỗi-gốc kia, trải
pháp-tọa thuyết-pháp. Người đó có uy-thần, làm cho những người cầu-pháp đều
kính-phục; khiến cho thính-chúng dưới pháp-tọa, khi chưa nghe pháp, tự-nhiên
tâm đã phục rồi; tất-cả bọn ấy đều cho rằng Niết-bàn, Bồ-đề, pháp-thân của Phật,
tức là cái xác-thịt hiện-tiền; cha con sinh nhau, đời này đến đời khác, tức là
pháp-thân thường-trụ không mất; đều chỉ hiện-tại, tức là cõi Phật, không có cõi
tịnh-cư và thân kim-sắc nào khác. Người tu-hành tin-lĩnh những điều đó, bỏ mất
bản-tâm, đem thân-mạng mà quy-y, được cái chưa từng có; người đó ngu-mê, lầm là
Bồ-tát, suy-xét cái tâm như thế, phá luật-nghi của Phật, lén làm việc tham-dục.
Miệng ma ưa nói, mắt, tai, mũi, lưởi đều là tịnh-độ, hai căn nam nữ tức là chỗ
thật Bồ-đề Niết-bàn; bọn không biết kia, đều tin lời nhơ-nhớp đó. Ấy gọi là giống
cổ-độc-quỷ và giống áp-thắng-quỷ, tuổi già thành ma, khuấy-rối người tu-hành.
Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ-tử cùng thầy đều sa
vào lưới pháp-luật. Ông nên giác-ngộ trước, thì không vào luân-hồi, nếu mê-lầm
không biết, thì đọa vào ngục Vô-gián.
Lại
thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không mắc các tà-lự, tính viên-định
phát-minh; trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa biết các việc trước sau, chín-xét cùng
khắp, tham-cầu được thầm-cảm. Khi bấy giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy; cho
tinh-thần gá vào người khác, miệng nói kinh-pháp. Người đó thật không biết bị
ma gá vào, cũng tự bảo đã được vô-thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện-nam-tử cầu cảm-ứng
kia, trải pháp-tọa thuyết-pháp, có thể khiến cho thính-chúng tạm-thấy cái thân
như đã trăm ngàn tuổi, tâm sinh ra ái-nhiễm, không thể rời-bỏ, đem thân làm
nô-bộc, cúng-dường tứ-sự, không biết mệt-mõi; lại khiến cho mỗi người dưới
pháp-tọa, tâm biết đó là vị Tiên-sư, là vị Thiện-tri-thức, riêng sinh lòng
pháp-ái, dính như keo-sơn, được cái chưa từng có. Người tu-hành ngu-mê, lầm là
Bồ-tát, gần-gũi tâm ma, phá luật-nghi của Phật, lén làm việc tham-dục. Miệng ma
ưa nói, ta ở kiếp trước, trong đời Mỗ, trước độ người Mỗ, lúc đó là thê thiếp,
anh em của ta, nên nay lại đến độ cho nhau; ta sẽ cùng các người theo nhau về cảnh-giới
Mỗ, cúng-dường đức Phật Mỗ; hoặc nói có cõi trời đại-quang-minh riêng-biệt, Phật
ở trong ấy, và là chỗ nghỉ-ngơi của tất-cả các đức Như-lai. Bọn không biết kia,
đều tin những lời phỉnh-gạt đó, bỏ mất bản-tâm. Ấy gọi là giống lệ-quỷ, tuổi
già thành ma, khuấy-rối người tu-hành. Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người,
không gá nữa, thì đệ-tử cùng thầy đều sa vào lưới pháp-luật. Ông nên giác-ngộ
trước, thì không vào luân-hồi, nếu mê-lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô-gián.
Lại
thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không mắc các tà-lự, tính viên-định
phát-minh; trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa đi sâu vào, khắc-khổ siêng-năng, thích ở
chỗ thầm-vắng, tham-cầu sự yên-lặng. Khi bấy-giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy, cho
tinh-thần gá vào người khác, miệng nói kinh-pháp. Người đó thật không biết bị
ma gá vào, cũng tự bảo đã được vô-thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện-nam-tử cầu thầm-lặng
kia, trải pháp-tọa thuyết-pháp, khiến cho thính-chúng, mỗi người đều biết nghiệp-cũ
của mình; hoặc ở nơi đó, bảo một người rằng: "Ngươi nay chưa chết đã làm
súc-sinh", rồi bảo một người đạp cái đuôi đằng sau, liền khiến người đó đứng
dậy không được; cả trong một chúng đều hết lòng kính-phục, có người móng tâm
lên, thì nó đã biết ý; ngoài luật-nghi của Phật ra, nó lại càng thêm khắc-khổ,
chê-bai tỷ-khưu, mắng-nhiếc đồ-chúng, phơi-lộ việc người ta, không tránh sự
cơ-hiềm. Miệng ma ưa nói những họa phúc chưa đến và khi đã đến rồi, thì mảy-may
không sai. Ấy gọi là giống đại-lực-quỷ, tuổi già thành ma, khuấy-rối người
tu-hành. Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ-tử cùng thầy
đều sa vào lưới pháp-luật. Ông nên giác-ngộ trước, thì không vào luân-hồi, nếu
mê-lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô-gián.
Lại
thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không mắc các tà-lự, tính viên-định
phát-minh; trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa hiểu-biết, siêng-năng xét-tìm, tham-cầu
biết túc-mạng. Khi bấy-giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy, cho tinh-thần gá vào người
khác, miệng nói kinh-pháp. Người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo
đã được vô-thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện-nam-tử cầu hiểu-biết kia, trải pháp-tọa
thuyết-pháp. Người tu-hành bỗng-nhiên, nơi chỗ thuyết-pháp, được hạt-châu báu lớn;
hoặc khi ma hóa làm súc-sinh, miệng ngậm hạt-châu với những vật kỳ-lạ như đồ
trân-bảo, giản-sách, phù-độc, đến trao trước cho người tu-hành, rồi sau cọ-gá
vào thân-thể; hoặc khi ma bảo người nghe pháp, có hạt-châu minh-nguyệt chôn ở
dưới đất, đương soi-sáng chỗ đó, làm cho các thính-giả được cái chưa từng có.
Ma thường ăn cây thuốc, chứ không ăn cơm, hoặc khi mỗi ngày chỉ ăn một bữa hạt
vừng hoặc hạt mạch, do sức ma chấp-trì, thân-hình vẫn béo-tốt. Ma lại chê-bai tỷ-khưu,
mắng-nhiếc đồ-chúng, không tránh sự cơ-hiềm; trong miệng ưa nói, kho báu phương
khác và chỗ ẩn-cư của các bậc thánh-hiền thập phương; những người đi theo sau,
thường thấy có người kỳ-lạ. Ấy gọi là giống quỷ-thần núi rừng, thổ-địa,
thành-hoàng, sông núi, tuổi già thành ma; hoặc khi kêu gọi làm điều dâm-dục,
phá giới-luật Phật, cùng với những kẻ thừa-sự, lén làm việc ngũ-dục; hoặc khi lại
tinh-tiến, ăn toàn cỏ cây; việc làm không nhất-định, cốt khuấy-rối người
tu-hành. Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ-tử cùng thầy
phần nhiều sa vào lưới pháp-luật. Ông nên giác-ngộ trước, thì không vào luân-hồi;
nếu mê-lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô-gián.
Lại
thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không mắc các tà-lự, tính viên-định
phát-minh; trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa các thứ biến-hóa thần-thông,nghiên-cứu
nguồn-gốc biến-hóa, tham-cầu có thần-lực. Khi bấy-giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy,
cho tinh-thần gá vào người khác, miệng nói kinh-pháp. Người đó thật không
hay-biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được vô-thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện-nam-tử
cầu thần-thông kia, trải pháp-tọa thuyết-pháp. Người đó, hoặc tay cầm ngọn lửa,
nắm chia ngọn lửa trên đầu tứ-chúng nghe pháp; ngọn lửa trên đỉnh những người
nghe pháp đều dài vài thước, mà cũng không đốt cháy, cũng không có nóng. Người đó,
hoặc đi trên nước như đi trên đất bằng, hoặc ở giữa hư-không, ngồi yên không
lay-động; hoặc vào trong bình, hoặc ở trong đãy, hoặc vượt cửa sổ, hoặc thấu
qua tường, không chút ngăn-ngại; chỉ đối với đao-binh thì không được tự-tại.
Người đó tự bảo là Phật, thân mặc bạch-y, chịu tỷ-khưu lễ-bái, chê-bai Thiền-luật,
mắng-nhiếc đồ-chúng, phơi-lộ việc người, không tránh sự cơ-hiềm; trong miệng
thường nói thần-thông tự-tại; hoặc lại cho người thấy cõi Phật một bên, đó là
do sức quỷ mê-hoặc, không có gì là chân-thật. Người đó khen-ngợi việc hành-dâm,
không từ-bỏ những việc làm thô-tục, bảo những sự ôm-ấp lẫn nhau là truyền-pháp.
Ấy gọi là những giống sơn-tinh, hải-tinh, phong-tinh, hà-tinh, thổ-tinh, và những
loài tinh-mỵ của tất-cả cỏ cây đã sống nhiều kiếp, có sức lớn trong trời đất,
hoặc là long-mỵ, hoặc là tiên chết rồi, sống lại làm mỵ; hoặc quả-báo đạo-tiên
đã hết, kể năm thì phải chết, nhưng hình-hài không hư-nát, nên loài quái khác
gá vào. Bọn ấy tuổi già thành ma, khuấy-rối người tu-hành. Khi khuấy chán rồi,
bỏ thân người không gá nữa, thì đệ-tử cùng thầy phần nhiều sa vào lưới pháp-luật.
Ông nên giác-ngộ trước, thì không vào luân-hồi, nếu mê-lầm không biết, thì đọa
vào ngục Vô-gián.
Lại
thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không mắc các tà-lự, tính viên-định
phát-minh; trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa vào chỗ diệt hết, nghiên-cứu tính biến-hóa,
tham-cầu cái rỗng-không sâu-nhiệm. Khi bấy-giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy, cho
tinh-thần gá vào người khác, miệng nói kinh-pháp. Người đó thật không biết bị
ma gá vào, cũng tự bảo đã được vô-thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện-nam-tử cầu rỗng-không
kia, trải pháp-tọa thuyết-pháp. Ở trong đại-chúng, hình của người đó bỗng
hóa-thành không, cả chúng không thấy gì, rồi lại từ hư-không bỗng-chốc hiện ra,
khi còn, khi mất, được tự-tại; hoặc hiện cái thân rỗng-suốt như ngọc lưu-ly, hoặc
duỗi tay chân xuống, phát ra mùi thơm chiên-đàn, hoặc đại-tiểu-tiện như đường-phèn
cứng-chắc. Người đó chê-bai phá-hoại giới-luật, khinh-rẻ những người xuất-gia;
trong miệng thường nói, không nhân-quả, chết rồi là diệt-hẳn, không có thân
sau; lại các phàm, thánh, tuy được phép không-tịch, vẫn lén làm việc tham-dục
và người thụ-lĩnh cái dâm-dục đó, cũng được tâm rỗng-không, bác không nhân-quả.
Ấy gọi là những giống-tinh-khí nhật-nguyệt bạc-thực, kim, ngọc, chi-thảo, lân,
phụng, quy, hạc, trải qua ngàn vạn năm không chết, làm tinh-linh sinh ra trong
các quốc-độ, tuổi già thành-ma, khuấy-rối người tu-hành. Khi ma khuấy chán rồi,
bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ-tử cùng thầy phần nhiều sa vào lưới pháp-luật.
Ông nên giác-ngộ trước, thì không vào luân-hồi, nếu mê-lầm không biết, thì đọa
vào ngục Vô-gián.
Lại
thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không mắc các tà-lự, tính viên-định
phát-minh; trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa sống lâu, gian-khổ quan-sát tinh-vi, tham-cầu
được nhiều tuổi; bỏ cái sống phân-đoạn, lại trông-mong cái tướng vi-tế của biến-dịch
sinh-tử được thường-trụ. Khi bấy-giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy, cho tinh-thần
gá vào người khác, miệng nói kinh-pháp. Người đó không hề hay-biết bị ma gá
vào, cũng tự bảo được vô-thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện-nam-tử cầu sống lâu
kia, trải pháp-tọa thuyết-pháp. Người đó ưa nói, đi về phương khác, không hề chậm-trễ,
hoặc trải qua muôn dặm, giây-lát đã trở lại và đều lấy được những vật nơi đó;
hoặc ở một chỗ, hay trong một nhà, chỉ trong vài bước, bảo người ta đi từ vách
Đông qua đến vách Tây, nhưng người ta đi mau cả năm không đến; nhân đó, người
tu-hành tin-tưởng, nghi là Phật hiện-tiền. Miệng ma thường nói, thập phương
chúng-sinh đều là con ta, ta sinh ra chư Phật, ta sinh ra thế-giới, ta là Phật
đầu-tiên, tự-nhiên ra đời, không nhân tu-hành mà đắc-đạo. Ấy gọi là ma trụ-thế-tự-tại-thiên,
nó khiến bọn quyến-thuộc chưa phát-tâm như bọn Giá-văn-trà hay là Tỳ-xá-đồng-tử
cõi Tứ-thiên-vương, thích cái hư-minh, đến ăn tinh-khí người tu-hành. Hoặc
không nhân ông thầy, chính người tu-hành tự mình xem-thấy, bọn đó tự xưng là thần
Chấp-kim-cương đến cho trường-thọ. Bọn đó hiện thân gái đẹp, thịnh-hành việc
dâm-dục, làm cho chưa đầy một năm, gan não người tu-hành đã khô-kiệt, miệng nói
lẩm-bẩm một mình, nghe như yêu-mỵ. Người ngoài chưa rõ nguyên-do, nên phần nhiều
người bị như thế, phải sa vào lưới pháp-luật và chưa kịp hành-hình đã chêt khô
trước. Thế là bọn ma khuấy-phá người tu-hành kia, đến phải ốm chết. Ông nên
giác-ngộ trước, thì không vào luân-hồi, nếu mê-lầm không biết, thì đọa vào ngục
Vô-gián.
A-nan,
nên biết mười thứ ma ấy, trong đời mạt-pháp, hoặc xuất-gia tu-hành ở trong đạo
Phật, hoặc gá thân người, hoặc tự hiện-hình, đều tự bảo đã thành Chính-biến-tri-giác,
khen-ngợi dâm-dục, phá luật-nghi của Phật; ma thầy trước cùng đệ-tử-ma, dâm-dục
truyền nhau; tà-ma như thế, mê-hoặc tim gan, ít thì chín đời, nhiều đến trăm đời,
khiến cho người tu-hành chân-chính, đều làm quyến-thuộc của ma, sau khi mạng-chung,
chắc phải làm dân ma, bỏ mất Chính-biến-tri, đọa vào ngục Vô-gián. Nay ông chưa
nên vào Niết-bàn trước, dầu được quả vô-học, cũng phát-nguyện vào trong đời mạt-pháp
kia, phát-lòng đại-từ-bi, cứu-độ cho chúng-sinh có lòng thâm-tín chân-chính,
khiến cho khỏi mắc tà-ma, được Chính-tri-kiến; nay tôi đã độ ông ra khỏi sống
chết, ông vâng-lời Phật dạy, thì gọi là báo-ơn Phật.
A-nan,
mười thứ cảnh hiện ra trong thiền-định như thế, đều do Tưởng-ấm và tâm công-dụng
giao-xen, nên hiện ra những cảnh ấy; chúng-sinh ngu-mê, không biết suy-xét tự-lượng,
gặp nhân-duyên đó, mê không tự biết, tự bảo là lên bậc thánh, thành tội đại-vọng-ngữ,
phải đọa vào ngục Vô-gián. Bọn ông cần phải, sau khi tôi diệt-độ rồi, đem những
lời-dạy nầy của Như-lai truyền-bày cho đời mạt-pháp, khiến cho khắp các chúng-sinh
tỏ-ngộ nghĩa đó, không để Thiên ma được dịp khuấy-rối; giữ-gìn che-chở cho
chúng-sinh thành đạo vô-thượng.
Những
ma-sự thuộc Hành-ấm
"A-nan,
thiện-nam-tử kia, tu pháp Tam-ma-đề, khi Tưởng-ấm đã hết, thì những mộng-tưởng
bình-thường của người đó đã tiêu-diệt, khi thức, khi ngủ, luôn luôn một thể,
tính giác-minh rỗng-lặng như hư-không trong-sạch, không còn những sự-tướng tiền-trần
thô-trọng; xem những núi sông đất-liền thế-gian, như gương soi-sáng, khi đến,
không dính vào đâu, khi qua, không có dấu-vết, rỗng-chịu chiếu-ứng, rõ-ràng
không còn tập-quán cũ, chỉ một tính tinh-chân.
Căn-nguyên
của sinh-diệt từ đó phơi-lộ ra, thấy được 12 loài chúng-sinh thập phương, rõ hết
các loài; tuy chưa thông-suốt manh-mối của mỗi chúng-sinh, nhưng đã thấy cơ-sở
sinh-diệt chung, giống như bóng dã-mã, lớp-lớp chớp-nhoáng hiện ra, làm cái
then-chốt phát-sinh các phù-căn-trần; ấy thì gọi là phạm-vi Hành-ấm.
Nếu
cái cỗi-gốc của những lăng-xăng chớp-nhoáng u-ẩn đó, vào được tính đứng-lặng bản-lai,
những tập-khí sinh-diệt bản-lai dừng-lại như sóng-mòi diệt hết, hóa-thành nước
đứng, thì gọi là hết Hành-ấm. Người đó, thì vượt khỏi chúng-sinh-trược; xét lại
nguyên-do, cỗi-gốc là u-ẩn vọng-tưởng.
A-nan
nên biết, các thiện-nam-tử được sự nhận-biết đúng-đắn trong Xa-ma-tha đó, chính-tâm
đứng-lặng sáng-suốt, mười loài Thiên-ma không còn được dịp khuấy-phá. Trong lúc
nghiên-cứu tinh-vi cùng-tột cỗi-gốc sinh-loại, khi cỗi-gốc sinh-diệt bản-loại lộ
ra, xét cái cỗi-gốc thường chuyển-động lăng-xăng cùng-khắp u-ẩn kia, lại móng
tâm so-đo chấp là tính viên-nguyên, thì người đó sa vào hai cái luận vô-nhân:
-
Một, là người đó thấy cái gốc không có nhân. Vì cớ sao? Người đó đã được cơ-sở
sinh-diệt toàn lộ ra, nương theo tám trăm công-đức của nhãn-căn, thấy trong tám
muôn kiếp, tất-cả chúng-sinh đều theo dòng nghiệp-báo mà xoay-vần, chết nơi nầy,
sinh nơi kia; chỉ thấy chúng-sinh luân-hồi trong đó, ngoài tám muông kiếp thì mờ-mịt
không thấy gì, bèn phát ra sự nhận-định rằng, những loại chúng-sinh thập phương
trong thế-gian nầy, trước tám muôn kiếp, không do nhân gì mà tự có. Do sự chấp-trước
so-đo như thế, bỏ mất Chính-biến-tri, sa-lạc vào ngoại-đạo, lầm-mất tính Bồ-đề.
-
Hai, là người đó thấy cái ngọn không có nhân. Vì cớ sao? Người đó đã thấy cỗi-gốc
sinh-diệt, biết người sinh người, rõ chim sinh chim, thấy chim quạ luôn luôn
đen, chim hộc luôn luôn trắng, loài người, loài trời thân vẫn đứng thẳng, các
loài súc-sinh thân vẫn nằm ngang, sắc trắng không phải do tẩy mà thành, sắc đen
không phải do nhuộm tạp ra, suốt tám muôn kiếp không hề dời-đổi, cho đến hết đời
nầy cũng như vậy; mà từ xưa đến nay, người đó không thấy gì là Bồ-đề, làm sao lại
còn có việc thành đạo Bồ-đề, rồi nhận-định tất-cả các sự vật ngày nay, đều
không có nguyên-nhân gì cả.
Do
những so-đo, chấp-trước như thế, bỏ mất tính Chính-biến-tri, sa-lạc vào ngoại-đạo,
lầm-mất tính Bồ-đề; ấy gọi là ngoại-đạo thứ nhất, lập những luận vô-nhân.
A-nan,
các thiện-nam-tử đó, trong Tam-ma-đề, chính-tâm đứng-lặng sáng-suốt, Thiên-ma
không còn dịp khuấy-phá; trong lúc xét-cùng cỗi-gốc sinh-loại, xét cái cỗi-gốc
thường chuyển-động u-ẩn kia, lại móng tâm so-đo chấp là tính viên-thường, thì
người ấy sa vào bốn cái luận biến-thường:
-
Một, là người đó xét-cùng bản-tính của tâm và cảnh, cả hai đều không có nhân;
tu-tập biết được trong hai muôn kiếp, thập phương chúng-sinh có những sự
sinh-diệt, đều là xoay-vần, không hề tan mất, nên chấp đó là thường.
-
Hai, là người đó xét-cùng cỗi-gốc tứ-đại, thấy tứ-đại thường-trụ, tu-tập biết
được trong bốn muôn kiếp, thập phương chúng-sinh tuy có sinh-diệt, nhưng đều có
bản-thể thường-hằng, không hề tan-mất, nên chấp đó là thường.
-
Ba, là người đó xét-cùng nguyên-do bản-lai của sáu căn, của sự chấp-thụ thức Mạt-na
và của các tâm, ý, ý-thức, thấy tính vẫn thường-xuyên; tu-tập biết được trong
tám muôn kiếp, tất-cả chúng-sinh xoay-vần không mất, bản-lai là thường-trụ; rồi
xét-tột tính không mất đó, mà chấp là thường.
-
Bốn, là người đó nghĩ rằng đã hết Tưởng-ấm, lẽ ra không còn lưu-chuyển, đứng-lặng
xoay-vần; tư-tưởng sinh-diệt đã diệt hết rồi, thì trong lý tự-nhiên thành
không-sinh-diệt; người đó, nhân tâm-niệm so-đo như thế, mà chấp là thường.
Do
những sự chấp thường ấy, bỏ mất Chính-biến-tri, đọa-lạc vào ngoại-đạo, lầm-mất
tính Bồ-đề, ấy gọi là ngoại-đạo thứ hai, lập những luận viên-thường.
Lại
các thiện-nam-tử đó, trong Tam-ma-đề, chính-tâm đứng-lặng vững-chắc, Thiên-ma
không còn dịp khuấy-phá; trong lúc xét-cùng cỗi-gốc sinh-loại, xét cái cỗi-gốc
thường chuyển-động u-ẩn kia, lại móng tâm so-đo chấp-trước giữa mình và cái
khác, thì người đó mắc vào bốn kiến-chấp điên-đảo, là những luận "một phần
vô-thường, một phần thường" :
-
Một là người đó quán cái tâm diệu-minh lặng vậy cùng khắp thập phương thế-giới,
cho là cái thần-ngã rốt-ráo; do đó, chấp có cái ta cùng khắp mười phương đứng-lặng
sáng-suốt không lay-động, còn tất-cả chúng-sinh, thì ở trong tâm ta tự sinh, tự
chết; vậy tâm-tính của ta, thì gọi là thường, còn những bọn sinh-diệt kia, thì
thật là vô-thường.
-
Hai, là người đó không xét cái tâm, lại xét khắp hằng-sa quốc-độ trong mười
phương, thấy có chỗ bị kiếp-tai phá-hoại, thì cho là có tính rốt-ráo vô-thường,
còn những chỗ không bị kiếp-tai phá-hoại, thì gọi là rốt-ráo thường.
-
Ba, là người đó quán-sát riêng cái tâm mình là tinh-tế nhỏ-nhiệm giống như
vi-trần, là tinh-tế nhỏ-nhiệm giống như vi-trần, lưu-chuyển trong mười phương
mà tính không dời-đổi, lại có thể khiến cái thân nầy, sinh rồi lại diệt; rồi chấp
cái tính không mất đó, là tính thường của mình, còn tất-cả sự sống chết, từ
tính ấy sinh ra, thì gọi là vô-thường.
-
Bốn, là người đó biết Tưởng-ấm hết rồi, thấy được dòng Hành-ấm, chấp cái
lưu-chuyển thường-xuyên của Hành-ấm là tính thường, còn những Sắc-ấm, Thụ-ấm,
Tưởng-ấm hiện đã diệt hết, thì gọi là vô-thường.
Do
những chấp-trước so-đo "một phần vô-thường, một phần thường" như thế,
mà sa-lạc vào ngoại-đạo, lầm mất tính Bồ-đề; ấy gọi là ngoại-đạo thứ ba, lập những
luận "một phần thường".
Lại
các Thiện-nam-tử, trong Tam-ma-đề, chính-tâm đứng-lặng vững-chắc, Thiên-ma
không còn dịp khuấy-phá; khi xét-cùng cỗi-gốc sinh-loại, xét cỗi-gốc thường
chuyển-động u-ẩn kia, lại sinh tâm so-đo chấp-trước về phận-vị, thì người đó sa
vào bốn cái luận hữu-biên:
-
Một, là người đó so-đo cái cỗi-gốc sinh-diệt lưu-chuyển không ngừng, rồi chấp
quá-khứ, vị-lai, là hữu-biên và chấp cái tâm tương-tục, là vô-biên.
-
Hai, là người đó xét trong tám muôn kiếp thì thấy chúng-sinh, còn trước tám
muôn kiếp thì bặt không nghe-thấy gì, rồi gọi chỗ không nghe-thấy, là vô-biên,
còn chỗ có chúng-sinh, là hữu-biên.
-
Ba, là người đó chấp rằng mình biết cùng khắp, là được tính vô-biên, còn tất-cả
các người kia, hiện ra trong cái biết của mình, mà mình không hề biết họ nhận
được tính-biết, thì những người kia không được cái tâm vô-biên và chỉ có tính hữu-biên.
-
Bốn, là người dó khi xét-cùng diệt-trừ Hành-ấm, dùng tri-kiến của mình, mà
so-đo chấp tất-cả chúng-sinh trong mỗi cái thân, đều là phần nửa sinh, phần nửa
diệt và chấp tất-cả sự-vật có ra trong thế-giới, đều một nửa là hữu-biên, một nửa
là vô-biên.
Do
những so-đo, chấp-trước hữu-biên, vô-biên như thế, sa-lạc vào ngoại-đạo, lầm-mất
tính Bồ-đề, ấy gọi là ngoại-đạo thứ tư, lập những luận hữu-biên.
Lại
các Thiện-nam-tử, trong Tam-ma-đề, chính-tâm đứng-lặng vững-chắc, Thiên-ma
không còn dịp khuấy-phá; trong lúc xét-cùng cỗi-gốc sinh-loại, xét cái cỗi-gốc
thường chuyển-động u-ẩn kia, sinh lòng so-đo chấp-trước về tri-kiến, thì người
đó mắc vào bốn thứ luận hư-vọng "điên-đảo biến-kế, càn-loạn bất-tử" :
-Một,
là người đó quán-sát cỗi-gốc biến-hóa, thấy chỗ dời-đổi, thì gọi là biến, thấy
chỗ tương-tục, thì gọi là thường, thấy chỗ thấy được, thì gọi là sinh, chỗ
không thấy được, thì gọi là diệt; chỗ các nhân tương-tục, không có đứt-đoạn,
thì gọi là thêm; chính trong tương-tục, chỗ rời nhau ở giữa, thì gọi là giảm;
chỗ mỗi mỗi cái sinh ra, thì gọi là có, chỗ tương-đối không có, thì gọi là
không, dùng lý quán-sát tất-cả và dụng tâm thành những kiến-chấp riêng-biệt; có
người đến cầu Pháp hỏi nghĩa, thì đáp rằng
"Ta nay cũng sinh, cũng diệt, cũng có, cũng không, cũng thêm, cũng bớt",
trong tất-cả thời đều nói lộn-xộn, khiến cho người nghe không thể hiểu được.
-
Hai, là người đó chín-xét cái tâm về chỗ tương-đối là không, nhân cái không mà
được chứng; có người đến hỏi, chỉ đáp một chữ, chỉ nói là không; ngoài chữ
không ra, không nói gì cả.
-
Ba, là người đó chín-xét cái tâm về chỗ mỗi mỗi đều có, nhân cái đó mà được chứng;
có người đến hỏi, chỉ đáp một chữ, chỉ nói là phải; trừ chữ phải ra, không nói
gì cả.
-
Bốn, là người đó chấp cả có, cả không; do cái cảnh rời-rạc mà tâm cũng rối-loạn;
có người đến hỏi thì đáp rằng: "Cũng có, tức là cũng không, trong cái cũng
không, không phải là cũng có"; tất-cả đều càn-loạn, không thể nói hết được.
Do
những so-đo, chấp-trước càn-loạn, rỗng-trống như thế, mà sa-lạc vào ngoại-đạo,
lầm-mất tính Bồ-đề; ấy gọi là ngoại-đạo thứ năm, lập bốn thứ luận hư-vọng,
"điên-đảo biến-kế, càn-loạn bất-tử".
Lại
các Thiện-nam-tử, trong Tam-ma-đề, chính-tâm đứng-lặng vững-chắc, Thiên-ma
không còn dịp khuấy-phá; trong lúc xét-cùng cỗi-gốc sinh-loại, xét cái cỗi-gốc
thường chuyển-động u-ẩn kia, sinh-tâm so-đo chấp-trước nơi dòng sinh-diệt vô-tận,
thì người ấy sa vào tư-tưởng điên-đảo, chấp sau khi chết có tướng.
Hoặc
khi tự củng-cố cái thân mình, bảo Sắc là ta; hoặc khi thấy cái ta bao-trùm khắp
các cõi-nước, rồi bảo rằng ta có Sắc; hoặc thấy các tiền-trần kia, theo ta mà
xoay trở về, rồi bảo rằng Sắc thuộc về ta; hoặc thấy cái ta, nương theo
lưu-chuyển mà tương-tục, rồi bảo rằng ta ở nơi Sắc; những người đó, đều so-đo
chấp rằng sau khi chết có tướng; xoay-vần như thế có đến 16 tướng.
Từ
đó, hoặc còn chấp rằng rốt-ráo phiền-nãp và rốt-ráo Bồ-đề, hai tính ấy đi song
song với nhau, không đụng-chạm gì nhau.
Do
những so-đo, chấp sau khi chết có tướng như vậy, sa-lạc vào ngoại-đạo, lầm-mất
tính Bồ-đề; ấy gọi là ngoại-đạo thứ sáu, lập những luận điên-đảo, nhận trong
Ngũ-ấm, sau khi chết có tướng.
Lại
các Thiện-nam-tử, trong Tam-ma-đề, chính-tâm đứng-lặng vững-chắc, Thiên-ma
không còn dịp khuấy-phá; khi xét-cùng cỗi-gốc sinh-loại, xét cái cỗi-gốc thường
lay-động u-ẩn kia, lại sinh tâm so-đo chấp-trước nơi ba ấm Sắc, Thụ, Tưởng, đã
trừ-diệt rồi thì người đó sa vào những tư-tưởng điên-đảo, chấp sau khi chết
không có tướng.
Người
đó thấy Sắc-ấm diệt, thân-hình không nhân vào đâu; xét Tưởng-ấm diệt, tâm không
ràng-buộc vào đâu; biết Thụ-ấm diệt, không còn dính-dáng vào đâu; tính các ấm
đó đã tiêu-tan, dầu có sinh-lý mà không thụ, không tưởng, thì cũng đồng như cỏ
cây; rồi nghĩ rằng hình-chất nầy, hiện-tiền còn không thể nắm được, làm sao,
sau khi chết lại còn có các tướng; nhân đó, xét-nhận sau khi chết, không có tướng;
xoay-vần như thế có đến tám cái luận vô-tướng.
Từ
đó, hoặc chấp Niết-bàn, nhân-quả, tất-cả đều không, luống có danh-tự, nhưng rốt-ráo
đều đoạn-diệt.
Do
những so-đo, chấp sau khi chết không có tướng như vậy, sa-lạc vào ngoại-đạo, lầm-mất
tính Bồ-đề, ấy gọi là ngoại-đạo thứ bảy, lập những luận điên-đảo, chấp trong
Ngũ-ấm, sau khi chết không có tướng.
Lại
các Thiện-nam-tử, trong Tam-ma-đề, chính-tâm đứng-lặng vững-chắc, Thiên-ma
không còn dịp khuấy-phá; khi xét-cùng cỗi-gốc sinh-loại, xét cái cỗi-gốc thường
chuyển-động u-ẩn kia, nơi Hành-ấm còn và thụ, tưởng đã diệt, chấp cả cái có và
cái không, tự-thể phá nhau, thì người đó mắc vào những luận điên-đảo, chấp sau
khi chết, không phải có, không phải không.
Người
đó, thấy những ấm Sắc, Thụ, Tưởng, có mà không phải có; xét Hành-ấm chuyển-biến,
không mà không phải không; xoay-vần như thế cùng-tột các ấm, thành tám cái tướng
"không phải có, không phải không", tùy gặp duyên gì, đều nói sau khi
chết có tướng, không tướng.
Lại
xét tính Hành-ấm sinh-diệt thay-đổi liên-tục, phát-tâm thông-suốt, chấp tất-cả
đều không phải có, không phải không, lộn-lạo hư-thật.
Do
những so-đo, chấp sau khi chết "không phải có, không phải không" như
thế, mà đường sau mờ-mịt, không còn lối đi, sa-lạc vào ngoại-đạo, lầm-mất tính
Bồ-đề; ấy gọi là ngoại-đạo thứ tám, lập những luận điên-đảo, chấp trong Ngũ-ấm,
sau khi chết, không phải có, không phải không.
Lại
các Thiện-nam-tử, trong Tam-ma-đề, chính-tâm đứng-lặng vững-chắc, Thiên-ma
không còn dịp khuấy-phá; trong lúc xét-cùng cỗi-gốc sinh-loại, xét cái cỗi-gốc
thường chuyển-động u-ẩn kia, sinh tâm so-đo, chấp sau nầy là không, thì người
đó mắc vào bảy cái luận đoạn-diệt.
Hoặc
chấp hết thân nầy là diệt, hoặc chấp hết Ngũ-dục là diệt, hoặc chấp hết khổ là
diệt, hoặc chấp tột-vui là diệt, hoặc chấp xả hết là diệt; xoay-vần như thế
cùng-tột đến bảy cách chấp hiện-tiền là tiêu-diệt, diệt rồi không trở lại nữa.
Do những so-đo, chấp sau khi chết là đoạn-diệt như thế, sa-lạc vào ngoại-đạo, lầm-mất
tính Bồ-đề; ấy gọi là ngoại-đạo thứ chín, lập những luận điên-đảo, chấp trong
Ngũ-ấm, sau khi chết là đoạn-diệt.
Lại
các Thiện-nam-tử, trong Tam-ma-đề, chính-tâm đứng-lặng vững-chắc, Thiên-ma
không còn dịp khuấy-phá; trong lúc xét-cùng cỗi-gốc sinh-loại, xét cái cỗi-gốc
thường chuyển-động u-ẩn kia, sinh tâm so-đo, chấp sau nầy là có, thì người đó mắc
vào năm luận Niết-bàn.
Hoặc
nhận những định Dục-giới là chuyển-y chân-chính, do xem-thấy sáng-suốt cùng khắp,
mà sinh lòng yêu-mến vậy. Hoặc nhận Sơ-thiền là chuyển-y chân-chính, vì không
còn ưu-thụ vậy. Hoặc nhận Nhị-thiền, vì không khổ-thụ vậy. Hoặc nhận Tam-thiền,
vì rất vui-đẹp vậy. Hoặc nhận Tứ-thiền, khổ vui đã hết, chấp không còn chịu
sinh-diệt trong luân-hồi vậy. Người đó, lầm những cõi trời hữu-lậu là quả
vô-vi, lầm sự an-ẩn 5 chỗ ấy là quả-báo thù-thắng thanh-tịnh của các bậc
Thánh-hiền; xoay-vần như thế rốt-ráo có năm chỗ.
Do
những so-đo, chấp-trước năm thứ Niết-bàn hiện có như thế, sa-lạc vào ngoại-đạo,
lầm-mất tính Bồ-đề; ấy gọi là ngoại-đạo thứ mười, lập những luận điên-đảo, chấp
trong Ngũ-ấm, có năm thứ Niết-bàn hiện có.
A-nan,
mười thứ nhận-hiểu điên-rồ trong Thiền-na như thế, đều do Hành-ấm và tâm công-dụng
giao-xen, nên hiện ra những nhận-thức đó. Chúnh-sinh ngu-mê, không tự lượng-xét,
gặp cái đó hiện ra, lại nhận mê làm ngộ, tự bảo là chứng bậc thánh, thành tội đại-vọng-ngữ
và sẽ đọa vào ngục Vô-gián. Bọn ông, quyết phải đem lời nầy của Như-lai, sau
khi tôi diệt-độ rồi, truyền lại trong đời mạt-pháp, khiến cho tất-cả chúng-sinh
hiểu rõ nghĩa nầy, không để cho tâm-ma tự gây nên những tội-lỗi sâu-nặng, giữ-gìn
che-chở cho chúng-sinh tiêu-diệt các tà-kiến, dạy cho giác-ngộ đạo-nghĩa
chân-thật, không mắc vào các đường trẽ nơi đạo vô-thượng, chớ để chúng-sinh được
một ít đã cho là đủ và nêu ra lời chỉ-dạy thanh-tịnh của vị Đại-Giác.
Những
ma-sự thuộc Thức-ấm
"A-nan,
thiện-nam-tử kia, tu phép Tam-ma-đề, khi Hành-ấm hết rồi, thì cái then-chốt
lay-động u-ẩn chung, sinh ra các loài thế-gian, bỗng được xóa-bỏ; giềng-mối
vi-tế, quan-hệ sâu-xa gây-nghiệp chịu-báo của ngã-thể chúng-sinh, cảm-ứng đều bặt-dứt.
Người đó, hầu được đại-giác-ngộ nơi bản-tính Niết-bàn, như khi gà gáy-tan, xem
qua phương Đông, đã có ánh-sáng.
Sáu
căn rỗng-lặng, không còn rong-ruổi nữa; trong và ngoài đều lặng-sáng, vào được
tính Vô-sở-nhập, thấu-suốt nguyên-do thụ-sinh của 12 loài mười phương; xét-rõ
nguyên-nhân do chấp-trước gây nên, các loài không thể hấp-dẫn được; nơi thập
phương thế-giới, đã nhận được tính-đồng; tính tinh-vi ấy còn tồn-tại, phát-hiện
ra một cách bí-ẩn, ấy thì gọi là phạm-vi của Thức-ấm.
Nếu
trong tính-đồng đã chứng được của các loài, huân-tập tiêu-hóa sáu căn, làm cho
khi hợp, khi chia được tự-tại, cái thấy, cái nghe thông nhau, tác-dụng thanh-tịnh
thay-thế lẫn nhau, thì thập phương thế-giới với lại thân-tâm đều như ngọc
lưu-ly, trong ngoài sáng-suốt; thế gọi là hết Thức-ấm. Người đó, mới vượt khỏi
mạng-trược; xét lại nguyên-do, cỗi-gốc là vọng-tưởng điên-đảo, huyễn-hóa rỗng-không.
A-nan
nên biết Thiện-nam-tử đó, đã xét-cùng tính-không của các hành, trở về bản-tính
của thức, đã diệt được sinh-diệt, nhưng chưa viên-mãn chỗ tinh-diệu của tịch-diệt.
Người đó, có thể khiến nơi thân mình, các căn khác nhau khi hợp, khi chia và
thông-suốt với sự hay-biết các loài thập phương; cái hay-biết đó thông-suốt vẳng-lặng,
có thể vào tính bản-viên. Nếu nơi chỗ quay về, lại lập ra cái nhân chân-thường,
và quyết-định như thế là đúng, thì người đó, sa vào cái chấp "nhân-sở-nhân",
trở thành bạn-bè với bọn Sa-tỳ-ca-la chấp có Minh-đế, mê-muội Bồ-đề của Phật, bỏ
mất Chính-tri-kiến; ấy gọi là bọn thứ nhất, lập cái tâm sở-đắc, thành cái quả sở-quy,
trái xa tính viên-thông, đi ngược đạo Niết-bàn, sinh ra giống ngoại-đạo.
A-nan,
lại Thiện-nam-tử kia, xét-cùng tính-không của các hành, đã diệt sinh-diệt,
nhưng chưa viên-mãn chỗ tinh-diệu của tịch-diệt; nếu nơi tính đã nhập được, lại
ôm làm tự-thể của mình, cho rằng tất-cả chúng-sinh trong mười hai loài, cùng-tột
hư-không, đều từ trong thân mình phát-sinh ra và quyết-định như thế là đúng,
thì người đó, sa vào cái chấp "năng-phi-năng", thành bạn-bè với bọn
Ma-hê-thủ-la, hiện ra thân vô-biên, mê-muội Bồ-đề của Phật, bỏ mất Chính-tri-kiến;
ấy gọi là bọn thứ hai, lập cái tâm năng-vi, thành cái quả năng-sự, trái xa tính
viên-thông, đi ngược đạo Niết-bàn, sinh ra giống Đại-mạn-thiên, chấp cái ta
cùng khắp viên-mãn.
Lại
Thiện-nam-tử kia, xét-cùng tính-không các hành, đã diệt sinh-diệt, nhưng chưa
viên-mãn chỗ tinh-diệu của tịch-diệt. Nếu trong lúc quay về, thấy có chỗ sở-quy,
lại tự nghĩ thân-tâm mình từ chỗ kia sinh ra và cả thập phương hư-không cũng đều
do chỗ kia sinh ra, rồi tức nơi cái chỗ sinh ra tất-cả đó, nhận là cái thể
chân-thường không sinh-diệt. Như thế, là ở trong sinh-diệt sớm-chấp là thường-trụ,
chẳng những lầm tính bất-sinh, mà cũng mê tính sinh-diệt; an-trụ trong mê-lầm,
trầm-trọng, mà quyết-định là đúng, thì người ấy, sa vào cái chấp "Thường-phi-thường",
thành bè-bạn của những kẻ chấp có Tự-tại-thiên, mê-muội Bồ-đề của Phật, bỏ mất
Chính-tri-kiến; ấy gọi là bọn thứ ba, lập cái tâm nhân-y, thành cái quả vọng-kế,
trái xa tính viên-thông, đi ngược đạo Niết-bàn, sinh ra giống đảo-viên.
Lại
Thiện-nam-tử kia, xét-cùng tính-không của các hành, đã diệt sinh-diệt, nhưng
chưa viên-mãn chỗ tinh-diệu của tịch-diệt. Nếu nơi chỗ hay-biết, nhân sự hay-biết
cùng khắp mà lập ra cái nhận-thức rằng cỏ cây thập phương đều gọi là hữu-tình,
cùng người không khác; rằng cỏ cây làm người, người chết rồi trở lại thành cỏ
cây thập phương; nơi cái hay-biết cùng khắp, không có lựa-chọn và quyết-định
như thế là đúng, thì người ấy, sa vào cái chấp "Tri-vô-tri" thành bạn-bè
của bọn Bà-tra, Tiển-ni, chấp tất-cả đều có hay-biết, mê-muội Bồ-đề của Phật, bỏ
mất Chính-tri-kiến; ấy gọi là bọn thứ tư, chấp cái tâm viên-tri, thành cái quả
sai-lầm, trái xa tính viên-thông, đi ngược đạo Niết-bàn, sinh ra giống đảo-tri.
Lại
Thiện-nam-tử kia, xét-cùng tính-không của các hành, đã diệt sinh-diệt, nhưng
chưa viên-mãn chỗ tinh-diệu của tịch-diệt. Nếu trong lúc, đã được tùy-thuận
tính viên-dung của các căn dùng thay lẫn nhau, lại nơi tính viên-dung biến-hóa
phát-sinh, cầu cái ánh-sáng của Hỏa-đại, ưa cái thanh-tịnh của Thủy-đại, yêu
cái chu-lưu của Phong-đại, xét cái thành-tựu của Địa-đại, rồi sùng-phụng, mỗi mỗi
cái, nhận những Tứ-đại kia là bản-nhân và lập nó làm tính thường-trụ, thì người
đó, sa vào cái chấp “Sinh-vô-sinh”, thành bè-bạn của bọn Ca-diếp-ba và bọn
Bà-la-môn, đem hết thân-tâm thờ lửa, thờ nước để cầu ra khỏi sống chết; mê-muội
Bồ-đề của Phật, bỏ mất Chính-tri-kiến; ấy gọi là bọn thứ năm, chấp-trước phụng-thờ,
mê-tâm theo vật, lập cái nhân hư-vọng, để mong-cầu cái quả giả-dối, trái xa
tính viên-thông, đi ngược đạo Niết-bàn, sinh ra giống điên-hóa.
Lại
Thiện-nam-tử kia, xét-cùng tính-không của các hành, đã diệt sinh-diệt, nhưng
chưa viên-mãn chỗ tinh-diệu của tịch-diệt. Nếu nơi cảnh viên-minh, chấp cái rỗng-trống
trong viên-minh, bác-bỏ tiêu-diệt các sự-vật biến-hóa, lấy cái tính diệt-hẳn,
làm chỗ quy-y của mình và quyết-định như thế là đúng, thì người đó, sa vào cái
chấp “Quy-vô-quy”, thành bạn-bè của bọn chấp-không trong Vô-tưởng-thiên, mê muội
Bồ-đề của Phật, bỏ mất Chính-tri-kiến; ấy gọi là bọn thứ sáu, viên-thành cái
tâm hư-vô, lập ra cái quả không-vong, trái xa tính viên-thông, đi ngược đạo Niết-bàn,
sinh ra giống đoạn-diệt.
Lại
Thiện-nam-tử kia, xét-cùng tính-không của các hành, đã diệt sinh-diệt, nhưng
chưa viên-mãn chỗ tinh-diệu của tịch-diệt. Nếu nơi tính viên-thường, củng-cố
cái thân cho thường-trụ như tính ấy, mãi không suy-mất và quyết-định như thế là
đúng, thì người ấy, sa vào cái chấp “Tham-phi-tham”, thành bè-bạn của bọn
A-tư-đà, cầu được trường-sinh, mê-muội Bồ-đề của Phật, bỏ mất Chính-tri-kiến; ấy
gọi là bọn thứ bảy, chấp-trước cái mạng-căn, lập cái nhân củng-cố vọng-thân, đi
đến cái quả kéo dài sự nhọc-nhằn, trái xa tính viên-thông, đi ngược đạo Niết-bàn,
sinh ra giống vọng-điên.
Lại
Thiện-nam-tử kia, xét-cùng tính-không của các hành, đã diệt sinh-diệt, nhưng
chưa viên-mãn chỗ tinh-diệu của tịch-diệt, xét chỗ các mạng thông lẫn với nhau,
lại muốn giữ lại trần-lao, sợ nó tiêu hết; khi ấy bèn ngồi cung hoa-sen, hóa ra
rất nhiều bảy thứ trân-bảo và những gái đẹp, buông-lung tâm mình và quyết-định
như thế là đúng, thì người ấy sa vào cái chấp “Chân-vô-chân”, thành bè-bạn của
bọn Cha-chỉ-ca-la, mê-muội Bồ-đề của Phật, bỏ mất Chính-tri-kiến; ấy gọi là bọn
thứ tám, lập cái nhân tà-tư, thành cái quả xí-trần, trái xa tính viên-thông, đi
ngược đạo Niết-bàn, sinh ra giống Thiên-ma.
Lại
Thiện-nam-tử kia, xét-cùng tính-không của các hành, đã diệt sinh-diệt, nhưng
chưa viên-mãn chỗ tinh-diệu của tịch-diệt. Nơi thức-thể viên-minh, cỗi-gốc của
sinh-mạng, phân-biệt chỗ tinh, chỗ thô, quyết-đoán chỗ chân, chỗ ngụy; nơi
nhân-quả đền-đáp, chỉ cầu cảm-ứng, trái với đạo thanh-tịnh; nghĩa là, chỉ thấy
Khổ-đế, đoạn Tập-đế, chứng Diệt-đế, tu Đạo-đế; ở nơi Diệt-đế đã yên rồi, lại
không cầu-tiến thêm nữa và quyết-định như thế là đúng, thì người ấy, sa vào
hàng định-tính Thanh-văn, thành bè-bạn của hàng Vô-văn-tăng, bị tăng-thượng-mạn,
mê-muội Bồ-đề của Phật, bỏ mất Chính-tri-kiến; ấy gọi là bọn thứ chín, viên-mản
tâm tinh-ứng, thành cái quả thú-tịch; trái xa tính viên-thông, đi ngược đạo Niết-bàn,
sinh ra giống triền-không.
Lại
Thiện-nam-tử kia, xét-cùng tính-không của các hành, đã diệt sinh-diệt, nhưng
chưa viên-mãn chỗ tinh-diệu của tịch-diệt. Nếu ở nơi tính Giác-minh thanh-tịnh
viên-dung, phát-minh tính thâm-diệu, liền nhận là Niết-bàn mà không tiến lên và
quyết-định như thế là đúng, thì người ấy, sa vào hàng định-tính Bích-chi, thành
bè-bạn của các vị Duyên-giác, Độc-giác, không biết hồi-tâm hướng về Đại-thừa,
mê-muội Bồ-đề của Phật, bỏ mất Chính-tri-kiến; ấy gọi là bọn thứ mười,
viên-thành giác-tâm vẳng-lặng, lập ra cái quả trạm-minh, trái xa tính
viên-thông, đi ngược đạo Niết-bàn, sinh ra giống giác-ngộ viên-minh, nhưng
không hóa được tính-viên.
A-nan,
mười thứ Thiền-na như thế, giữa đường hóa điên, nhân nương theo sự mê-lầm,
trong chỗ chưa đủ, lại nhận là đã chứng đầy-đủ; đều do Thức-ấm và tâm công-dụng
giao-xen, nên sinh những vị như thế. Chúng-sinh mê-mờ, không biết tự xét, gặp
cái đó hiện-tiền, mỗi mỗi đều dùng cái tâm mê-lầm, còn ưa-thích những tập-quán
cũ, mà tự dừng-nghỉ, cho đó là chỗ quay về rốt-ráo, tự bảo đã đầy-đủ đạo vô-thượng
Bồ-đề, thành tội đại-vọng-ngữ. Bọn ngoại-đạo tà-ma, khi nghiệp-báo chiêu-cảm hết
rồi, thì sa vào ngục Vô-gián; hàng Thanh-văn, Duyên-giác thì không tiến thêm được
nữa. Bọn ông để tâm giữ đạo Như-Lai, sau khi tôi diệt-độ rồi, đem pháp-môn nầy
truyền-bày trong đời mạt-pháp, khiến cho tất-cả chúng-sinh đều rõ-biết nghĩa nầy,
không để cho những ma tà-kiến tự gây ra nạn lớn cho mình, giữ-gìn thương-cứu,
tiêu-dứt các tà-duyên, khiến cho thân-tâm vào được tri-kiến của Phật, từ lúc
ban-đầu đến khi thành-tựu, không mắc các đường trẽ.
Pháp-môn
như thế, các đức Như-Lai như số vi-trần, trong hằng-sa kiếp quá-khứ, đều vận-dụng
nó mà khai-ngộ đạo Vô-thượng. Khi Thức-ấm hết rồi, thì hiện-tiền các căn của
ông đều được dùng thay lẫn nhau. Từ chỗ các căn dùng thay lẫn nhau, ông sẽ lên
bậc Kim-cương càn-tuệ Bồ-tát; cái tâm tinh-diệu viên-minh phát-hóa trong ấy,
như mặt trăng báu ở trong ngọc lưu-ly trong-sạch. Rồi, cứ thế vượt lên các vị
Thập-tín, Thập-trụ, Thập-hành, Thập-hồi-hướng, Tứ Gia-hạnh-tâm và Thập-địa
Kim-cương Bồ-tát; tính Đẳng-giác được viên-minh vào bể Diệu-trang-nghiêm của
Như-Lai, viên-mãn đạo Bồ-đề, về chỗ Vô-sở-đắc.
Kết-luận
về tu-tâm trừ tà, tuân theo lời Phật dạy
“Ðó
là những ma-sự vi-tế, mà các đức Phật Thế-tôn, đời quá-khứ trước, đã giác-ngộ,
nghiệm-xét và phân-tích trong lúc tu-chỉ và tu-quán. Nếu khi cảnh ma hiện-tiền,
ông nhận-biết được, thì rửa-trừ được cấu-nhiễm, không mắc các tà-kiến; ấm-ma đều
tiêu-diệt, thiên-ma bị đánh tan, đại-lực quỷ-thần hoảng-hốt chạy trốn, lỵ-mỵ vọng-lượng
không sinh ra được, thì đi thẳng đến Bồ- đề, không có các điều thiếu-sót. Những
căn hạ-liệt cũng được tăng-tiến, đối với Ðại-Niết-bàn, tâm không mê-lầm. Nếu
các chúng-sinh ngu-độn trong đời mạt-pháp, chưa hiểu Thiền-na, không biết Phật-pháp,
mà ưa tu Tam-muội, ông e họ mắc vào tà-kiến, thì nên một tâm khuyên-bảo họ thụ-trì
chú Phật-đỉnh-đà-la-ni của tôi; nếu chưa tụng được, thì viết nơi thiền-đường,
hoặc đeo trong thân; như thế, tất-cả các ma không thể động đến được. Ông nên
kính vâng-lời dạy-bảo cuối-cùng về đường tu-tiến rốt-ráo của thập phương
Như-lai”.
THỈNH
HỎI CẦU KHAI THỊ
Ông
A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, nghe Phật dạy-bảo, đỉnh-lễ kính vâng, ghi-nhớ
không sót, ở trong đại-chúng lại bạch Phật rằng : “Như lời Phật dạy, trong tướng
Ngũ-ấm, có năm thứ hư-vọng làm cái tưởng cỗi-gốc, chúng tôi bình-thường chưa được
nhờ đức Như-Lai khai-thị tỷ-mỷ như thế. Lại
Năm-ấm ấy, là tiêu-trừ một lần hay theo thứ lớp mà hết? Năm lớp như thế,
đến đâu làm giới-hạn? Xin nguyện đức Như-Lai phát lòng đại-từ, làm cho tâm và
con mắt đại-chúng nầy được trong sáng, để làm đạo-nhãn tương-lai cho tất-cả
chúng-sinh trong đời mạt-pháp”.
ĐỨC
NHƯ LAI ĐÁP THẲNG
Phật
bảo ông A-nan: “Tính tinh-chân là diệu-minh, tính bản-giác là viên-tịnh, không
còn để lại những sự sống chết và các trần-cấu; cho đến cả cái hư-không, cũng đều
nhân vọng-tưởng mà sinh-khởi ra. Tất-cả cái ấy, gốc nơi bản-giác diệu-minh
chân-tính, vọng phát-sinh ra các khí-thế-gian, như anh Diễn-nhã-đa mê cái đầu,
mà nhận cái bóng. Vọng vốn không có nhân; ở trong vọng-tưởng lập ra tính
nhân-duyên, khi mê tính nhân-duyên, thì gọi là tự-nhiên. Cả tính hư-không kia,
còn thật là huyễn-hóa sinh ra và nhân-duyên, tự-nhiên đều là những sự so-đo của
vọng-tâm chúng-sinh. A-nan, biết do vọng sinh-khởi ra, mà nói nhân-duyên vọng;
nếu cái vọng vốn không, thì nhân-duyên vọng đó, vốn không có gì, huống nữa,
không biết mà cho là tự-nhiên; vậy nên Như-Lai phát-minh cho các ông rằng bản-nhân
của Ngũ-ấm, đồng là vọng-tưởng.
Thân-thể
của ông trước kia, nhân cái tưởng của cha mẹ mà sinh, tâm của ông, nếu không phải
là tưởng, thì không thể đến gá cái mạng vào trong tưởng. Như trước tôi đã nói:
Tâm tưởng vị chua, trong miệng nước-bọt sinh ra; tâm tưởng lên cao, trong lòng
bàn chân nghe ghê-rợn; dốc cao không có, vật chua chưa đến, cái thân-thể của
ông nếu không phải cùng loài hư-vọng, thì làm sao nhân nghe nói chua, trong miệng
nước bọt lại chảy ra; vậy ông nên biết, sắc-thân hiện-tiền của ông, gọi là vọng-tưởng
kiên-cố thứ nhất.
Tức
nơi tâm tưởng-tượng việc lên cao, vừa nói trước kia, nó có thể khiến thân ông
thật chịu ghê-rợn; nhân các thụ sinh ra, có thể xúc-động đến sắc-thân. Vậy hiện
nay, hai thứ thụ thuận-ích và vi-tổn đang rong-ruổi nơi ông, thì gọi là vọng-tưởng
hư-minh thứ hai.
Do
những ý-nghĩ sai-khiến sắc-thân của ông; nếu sắc-thân không phải cùng loài, thì
làm sao thân ông lại theo ý-nghĩ sai-khiến, nhận các thứ hình-tượng, sinh tâm
chấp-nhận các hình, phù-hợp với ý-nghĩ; lúc thức là tưởng-tâm, lúc ngủ làm
chiêm-bao. Vậy những vọng-tính lay-động tưởng-nghĩ của ông gọi là vọng-tưởng
dung-thông thứ ba.
Sự
chuyển-hoá không dừng, xoay-vần thầm-thầm dời-đổi; móng tay dài, tóc sinh ra,
khí-lực tiêu, da mặt nhăn, ngày đêm thay-đổi, mà không hề hay-biết. A-nan, nếu
cái đó không phải là ông, thì làm sao thân ông, lại dời-đổi; nhưng, nếu nó thật
là ông, thì sao ông lại không hay-biết. Vậy, các hành niệm-niệm không dừng của
ông, gọi là vọng-tưởng u-ẩn thứ tư.
Lại
chỗ tinh-minh đứng-lặng, không lay-động của ông, gọi là thường-còn, thì nơi
thân ông, không ra ngoài những sự thấy, nghe, hay, biết. Nếu nó thật là tính
tinh-chân, thì không thể huân-tập được điều vọng; vì thế nhân gì bọn ông, trong
mấy năm trước, đã từng xem một vật lạ; trải qua nhiều năm không hề nghĩ đến; về
sau bỗng-nhiên thấy vật lạ đó, thì nhớ lại rõ-ràng, không có thiếu-sót; vậy
trong tính tinh-minh đứng-lặng, không lay-động ấy, từng niệm từng niệm chịu
huân-tập, không thể tính-toán hết được; A-nan, nên biết cái đứng-lặng đó, không
phải thật, như nước chảy gấp, trông như đứng-lặng, vì chảy gấp mà không thấy,
chứ không phải không chảy. Nếu cỗi-gốc cái đó, không phải vọng-tưởng, thì đâu lại
chịu để hư-vọng huân-tập. Nếu sáu căn của ông chưa được tự-tại chia-hợp, dùng
thay lẫn nhau, thì cái vọng-tưởng đó không lúc nào diệt được. Vậy nên hiện nay,
cái tập-khí quán-xuyến tập-trung những điều thấy, nghe, hay, biết của ông, là
cái vọng-tưởng điên-đảo vi-tế, huyễn-hóa, rỗng-trống thứ năm, trong tính trạm-liễu
của ông.
A-nan,
năm cái ấm đó, do năm vọng-tưởng tạo-thành. Nay ông muốn biết giới-hạn sâu-cạn,
thì chỉ sắc và không là biên-giới của Sắc-ấm, chỉ xúc và ly là biên-giới của Thụ-ấm; chỉ nhớ và quên là biên-giới của
Tưởng-ấm; chỉ diệt và sinh là biên-giới của Hành-ấm; đứng-lặng vào hợp với đứng-lặng
là biên-giới của Thức-ấm.
Năm
ấm ấy vốn trùng-điệp sinh-khởi; sinh, nhân Thức-ấm mà có, diệt, từ Sắc-ấm mà trừ;
lý, thì ngộ liền, nhân cái ngộ đều tiêu; sự, không phải trừ liền, theo thứ lớp
mà diệt hết.
Tôi
đã chỉ cho ông về cái nút khăn Kiếp-ba-la, có chỗ nào không rõ mà ông phải hỏi
lại. Tâm ông cần phải thông-suốt về cỗi-gốc vọng-tưởng đó, rồi đem truyền-bày
cho những người tu-hành trong đời mạt-pháp sau nầy, khiến cho họ biết hư-vọng,
tự sinh nhàm-chán và biết có Niết-bàn, không luyến-tiếc ba cõi.
LƯU
THÔNG KINH
ĐƯỢC
PHÚC HƠN CẢ
“A-nan,
ví-như có người đem các thứ thất-bảo đầy-nhẩy hư-không cùng khắp mười phương,
dâng lên chư Phật như số vi-trần, vâng-thờ cúng-dường, tâm không lúc nào
xao-lãng; ý ông nghĩ thế nào, người đó, do nhân-duyên cúng-dường Phật như thế,
được phúc có nhiều chăng?”
Ông
A-nan đáp rằng : “Hư-không không hết, trân-bảo không cùng; ngày xưa, có
chúng-sinh cúng Phật bảy đồng tiền, đến khi xả thân, còn được vị Chuyển-Luân-Vương;
huống nữa, hiện-tiền hư-không đã cùng hết, cõi Phật đã đầy khắp và đều cúng đồ
trân-bảo, thì dầu suy-nghĩ cùng-tột các kiếp, cũng không thể thấu được; phúc ấy
làm sao còn có bờ-bến”.
LƯU
THÔNG KINH
TIÊU
TỘI HƠN CẢ
Phật
bảo ông A-Nan: "Chư Phật Như-Lai, lời nói không hư-vọng. Ví-như có người
gây đủ các tội tứ-trọng, thập ba-la-di, giây-lát phải trải qua địa-ngục A-tỳ
phương nầy phương khác, cho đến cùng-tột các địa-ngục Vô-gián thập phương,
không nơi nào, không phải trải qua; nếu người đó, dùng một niệm đem pháp-môn nầy,
khai-thị cho người chưa học trong đời mạt-pháp thì tội-chướng người đó liền được
tiêu-diệt, biến cái nhân phải chịu khổ địa-ngục, thành cái nhân sinh về An-lạc-quốc,
được phúc vượt hơn người thí-cúng trước kia, trăm lần, ngàn lần, ngàn vạn ức lần,
như thế, cho đến toán-số thí-dụ không thể nói hết được.
LƯU
THÔNG KINH
TRỪ
MA HƠN CẢ
"A-Nan,
nếu có chúng-sinh, biết tụng-kinh nầy, biết trì-chú nầy, như tôi nói rộng ra,
thì cùng-tột các kiếp cũng không hết; nếu nương theo lời-dạy của tôi, y như lời-dạy
mà tu-hành, thì thẳng đến đạo Bồ-đề, không còn có các ma-sự".
CHÚNG
HỘI VUI MỪNG
Tu
theo NHĨ CĂN VIÊN THÔNG hay “NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG”… và trì CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM
để LƯU THÔNG KINH nầy.
Phật
nói kinh nầy rồi, các vị tỷ-khưu, tỷ-khưu-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, tất-cả loài
trời, loài, nguời, loài a-tu-la thế-gian, các vị Bồ-tát, Nhị-thừa, Thánh-tiên,
Đồng-tử cõi khác và các Đại-lực quỷ-thần mới phát-tâm, đều rất vui-mừng, làm-lễ
mà lui.
ĐẠI
PHẬT ĐẢNH NHƯ LAI MẬT NHƠN TU CHỨNG LIỄU NGHĨA
CHƯ
BỒ TÁT VẠN HẠNH THỦ LĂNG NGHIÊM KINH
Comments
Post a Comment