Nhất tâm kính lễ Thập Phương Pháp Giới Thường Trụ Tam Bảo (3 lễ)

Nhất tâm kính lễ Tu Di Đăng Vương Phật (1 lễ)

Nhất tâm kính lễ Bảo Vương Phật (1 lễ)

Nhất tâm kính lễ Bảo Thắng Phật (1 lễ)

Nhất tâm kính lễ A Di Đà Phật (1 lễ)

Nhất tâm kính lễ Tỳ Bà Thi Phật (1 lễ)

Nhất tâm kính lễ Đa Bảo Phật (1 lễ)

Nhất tâm kính lễ Thích Ca Mâu Ni Phật (1 lễ)

Nhất tâm kính lễ Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật cập Thập Nhị Bộ Tôn Kinh. (1 lễ)

Nhất tâm kính lễ Thập Phương Chư Đại Bồ Tát Ma-ha tát. (1 lễ)

 

NGHI THỨC TRÌ TỤNG

 

Nam mô Đại Thông Phương Quảng Hội Thượng Phật Bồ Tát. ( 3 lần )

 

Lò trầm vừa nóng

Pháp giới hương xông

Mười phương hải hội Phật xa thông

Tùy chỗ kết mây lành

Lòng thành khẩn mong

Chư Phật hiện hư không

 

Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát ( 3 lần )

 

Vô Thượng cao siêu pháp rộng sâu

Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu

Nay Con nghe thấy xin trì tụng

Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. ( 3 lần )

 


KINH ĐẠI THÔNG PHƯƠNG QUẢNG SÁM HỐI 

DIỆT TỘI TRANG NGHIÊM THÀNH PHẬT

 

QUYỂN THƯỢNG

 

Danh Hiệu Chư Phật Đời Quá Khứ


Như thế tôi nghe : Một thời Đức Phật ở tại thành Vương Xá, cùng với chư Bồ Tát ba vạn sáu ngàn vị, toàn là các bậc Nhất Sanh Bổ Xứ, oai đức tự tại, nói rõ phương tiện của Như Lai, mật làm Phật sự, đều được thành tựu tạng oai đức của chư Phật. Các vị ấy đã từng kiến lập Ðại thừa, thuyết pháp như sấm vang, như sư tử hống, danh lành lừng lẫy khắp mười phương, đức cao như Tu Di, trí sâu như biển cả, hàng phục các ma, dẹp yên ngoại đạo, khiến cho đều được thanh tịnh.


Chư Bồ Tát đó đầy đủ mọi lực, được vô ngại giải thoát, an trụ không động, niệm, định, tổng trì, nhạo thuyết, biện tài, Tứ Đẳng, Lục Độ, vô lượng phương tiện, tất cả pháp nghĩa, thảy đều đầy đủ. Các ngài tùy thuận chúng sanh, quay bánh xe Bất Thoái, chỉ rõ trí hữu, vô, khéo giải pháp tướng, hiện vào ba cõi, ngũ nhãn thấy suốt, biết căn chúng sanh, oai đức vô lượng, trùm cả đại chúng, thiền định trí tuệ, dùng để tu tâm, tướng tốt nghiêm thân vào bậc nhất trong tướng. Tâm các ngài như hư không, lìa cả thanh sắc, ở trong thế gian tỏ ngộ pháp tánh, trí huệ vô ngại, biết rõ nghiệp nhân luân chuyển của chúng sanh, đủ mọi Tam Muội, gần vô đẳng đẳng, trồng căn lành lâu, đã được trí huệ tự tại của Phật, đầy đủ Thập Lực, bốn Vô Sở Úy, mười tám pháp Bất Cộng, mở thông các cõi lành, đóng cửa mọi ác đạo, nhìn chúng sanh bình đẳng xem như con một, thị hiện sanh thân ở trong năm thú. Vì muốn độ chúng sanh, các ngài làm bậc đại Y Vương, ở trong sinh tử, khéo biết bịnh nhơn, tùy bịnh cho thuốc, khiến chúng phục hành, lìa hẳn sanh tử, nếu ai nghe biết đều được giải thoát. Các ngài đầy đủ như thế vô lượng công đức, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, từ đời quá khứ đã ngộ Phật tánh. Chư Bồ Tát ấy như các Như Lai, thường nói chúng sanh, đều có Phật tánh.


Các vị đó tên là: Mạn Thù Thất Lỵ Bồ Tát, Ðịnh Quang Bồ Tát, Long Thọ Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Ðại Thế Chí Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Pháp Tự Tại Vương Bồ Tát, Sư Tử Hống Bồ Tát, Ðà Ra Ni Bồ Tát, Bảo Tạng Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát, Bất Hưu Tức Bồ Tát, Tín Tướng Bồ Tát, Vô Năng Thắng Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát. Các vị Bồ Tát Ma Ha Tát như thế, gồm ba vạn sáu ngàn người.


Lại có tám mươi muôn ức chư thiên thần thông oai lực, các hàng Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Trời, Rồng, Dạ Xoa, Nhơn, Phi Nhơn các chúng. Vua trời Đao Lợi, Thích Ðề Hoàn Nhân cùng vô lượng chư Thiên đứng giữa hư không, rải các thiên hoa quý báu rơi xuống như mưa. Vô lượng âm nhạc tự nhiên vang dội. Các cõi trời Phạm Ma, Tam Bát đốt hương mầu nhiệm, cúng dường Như Lai, nguyện khói hương bay khắp mười phương vô lượng thế giới, đồng cúng dường khắp mười phương tất cả chư Phật, tất cả Tôn Pháp, tất cả chư đại Bồ Tát.


Các vị Thiên tử ấy, vì pháp lợi như thế mà cúng dường Tam Bảo, để cầu đạo Ðại thừa Vô Thượng.


Bấy giờ đức Thế Tôn có vô lượng vô biên đại chúng vi nhiễu, đi về rừng Sa La giữa ngày rằm tháng hai. Đến lúc sắp vào Niết Bàn, Phật dùng sức oai thần, tâm đại bi trùm khắp, vì tiếp độ chúng sanh, nên phát ra âm thanh lớn. Âm thanh ấy vang động mười phương, tùy nơi ứng hợp theo tiếng nói của mỗi loài, để bố cáo cho chúng sanh biết rằng : “ Hôm nay Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, thương xót chúng sanh, che chở chúng sanh, nhiếp thọ chúng sanh, nhìn chúng sanh bình đẳng xem như con một. Chúng sanh không chỗ nương nhờ, ta vì làm chỗ nương nhờ; kẻ chưa thấy Phật tánh ta cho thấy Phật tánh; kẻ chưa dứt phiền não, ta cho dứt phiền não; kẻ không được an ổn, ta cho được an ổn; kẻ chưa được giải thoát, ta cho được giải thoát; kẻ chưa được an lạc, ta cho được an lạc; kẻ chưa lìa nghi hoặc, ta cho lìa nghi hoặc; kẻ chưa sám hối, sẽ được sám hối; kẻ chưa được Niết Bàn, ta cho được Niết Bàn.


Khi đó Đức Thế Tôn đến một nơi Đạo Tràng thanh tịnh bằng phẳng, chỗ phước địa đẹp lành, dọc ngang mười ngàn do tuần. Thấy nơi đây bằng phẳng, rộng rãi thanh tịnh, Phật liền dừng lại nghỉ và bảo các Tỳ Kheo rằng: “ Ta có thể thuyết pháp tại chỗ này! ”


Lúc ấy ngài A Nan thưa rằng : “ Bạch Đức Thế Tôn, xưa nay tánh của Như Lai thường thích nơi rừng núi, chỗ vườn cây hoa quả, nước chảy suối trong. Tại đây không có suối chảy nước trong, vườn cây hoa quả cùng nhơn dân làng mạc. Hôm nay Như Lai muốn nói pháp tại chỗ này, đại chúng từ xa theo Phật lại đây đông đảo, mỏi mệt đói khát, thân tâm không yên. Bởi có ăn mới có sống, có sống mới có thân, có thân mới có đạo. Không ăn sẽ không sống, không sống sẽ không thân, không thân làm sao hành đạo? Ở đây có những việc không thích hợp như vậy, tại sao Đức Thế Tôn lại muốn dừng nghĩ để thuyết pháp? ”


Bấy giờ Tôn Giả Xá Lợi Phất nương nơi trí lực của Phật bảo ngài A Nan rằng: “ Trước tiên phải vì Pháp, không nên có quan niệm chi khác ! Như Lai Thế Tôn chẳng những đủ Thập Lực Vô Sở Úy, mà còn có vô lượng lực, nhứt thiết Vô Sở Úy, trí huệ vô lượng oai thần vô lượng. Kẻ không có chỗ quy y, Đức Thế Tôn vì họ làm chốn quy y. Kẻ chưa thấy Phật Tánh, khiến cho họ được thấy Phật tánh. Kẻ chưa lìa phiền não, khiến cho họ được lìa phiền não. Kẻ chưa an ổn, làm cho họ được an ổn. Kẻ chưa giải thoát, khiến cho họ được giải thoát. Kẻ chưa được yên vui, khiến cho họ được yên vui. Kẻ chưa đắc Niết Bàn, khiến cho họ được Niết Bàn. Như Lai Thế Tôn có vô lượng thần lực như thế, lo gì mọi việc không được thích hợp tự nhiên ! Tôi nhớ thuở trước nơi pháp hội của Duy Ma Ðại Sĩ, các Bồ Tát phương khác, cùng hàng Thanh Văn, Duyên Giác, chư Thiên oai lực, Long Thần đại chúng đồng tụ họp ở trong nhà mà chưa thấy có thức ăn. Khi đó tôi nghĩ rằng : “ Đã đến giờ thọ trai, đại chúng bây giờ lấy chi để ăn ? ” Ðại Sĩ Duy Ma liền bảo tôi rằng : “ Hàng Thanh Văn trí còn kém nhỏ. Hãy nên tôn trọng nghĩ đến chánh pháp. Tại sao lại nghĩ y thực là mạng sống, cùng giường tòa trước như vậy?” Khi Ðại Sĩ Duy Ma nói lời đó, thì trời người đắc đạo, đến nay tôi còn đem lòng hổ thẹn. Tâm niệm của ông hôm nay cũng lại như thế.”


Lúc đó Đức Như Lai bảo A Nan rằng : “ Thực đúng như lời Xá Lợi Phất nói. Nên tưởng niệm Ðại Thừa, chớ nghĩ an thân!” Nói xong Đức Thế Tôn vào Tam Muội, dùng sức oai thần khiến từ đất mọc lên một chồi kim hoa, cao bốn mươi muôn do tuần, che khắp tam thiên đại thiên thế giới. Trên hoa có màn lưới lưu ly, che phủ. Dưới hoa có nhiều bảo trì, cùng với hoa bình đẳng, gọi là ao Bát Công Đức, nước thơm tràn đầy. Lại có nhiều hoa quý như : Ưu Bát La hoa, Câu Vật Đầu hoa, Ba Đầu Ma hoa, Phân Đà Lợi hoa. Vô lượng danh hoa như thế để trang nghiêm cho ao. Nếu nhìn thấy kim hoa ao báu, sẽ được Pháp Nhãn Tịnh, huống chi vào trong tắm gội. Nếu được vào trong tắm gội, sẽ đắc Thanh Tịnh Vô Sanh Pháp Nhẫn. Dưới kim hoa có tòa Sư Tử báu, cao một trăm do tuần.


Khi ấy Ðức Thế Tôn ngồi trên bảo tọa Sư Tử. Từ các lỗ chân lông cùng những chi tiết trên dưới nơi thân Phật, đều phóng đại quang minh. Ánh quang minh vàng đồng với sắc hoa, tuông ra bốn phía, chiếu khắp mười phương tất cả cõi Phật. Ánh sáng của Phật cùng với ánh hoa soi chiếu đến đâu, khiến núi hang đất đai chỗ cao chỗ thấp đều bằng phẳng thuần sắc vàng, không còn nhơ uế. Cõi địa ngục tan biến thành không, các ngạ quỷ được giải thoát, duy trừ hạng Xiển Đề và kẻ báng kinh Phương Ðẳng. Thần lực của Phật khiến cho cõi này cùng cõi khác đều đồng như nhau không khác biệt. Chư Phật mười phương thấy ánh quang minh ấy đều khen Đức Phật Thích Ca rằng : “ Lành thay ! Lành thay ! Ðại từ Thế Tôn ! Nay kia phóng quang chiếu về phương đông trước, hôm nay phóng quang một lúc đồng cả bốn phương, soi khắp mười phương. Nên biết ánh quang minh này, là ý Từ Tôn muốn độ cho tất cả chúng sanh khổ não thoát ra ba cõi, đến Đại Niết Bàn !”


Bấy giờ chư Phật mười phương khác miệng đồng lời, cùng bảo thị giả và chư đại Bồ Tát rằng : “ Thiện nam tử! Các ông nên biết ! Hôm nay nơi thế giới Sa Bà Phật Thích Ca Mâu Ni phóng đại quang minh, sẽ nói pháp mầu độ chúng sanh khổ. Các ông nên sang cõi đó cúng dường Phật, nghe kinh pháp, thưa hỏi những chỗ nghi ngờ. Chúng sanh nước đó từ trước đến nay cương ác, dối trá không thật, chẳng tin Nhất Thừa. Phật Thích Ca tâm từ rộng lớn, dùng đủ phương tiện khéo, diễn ra Ba Thừa, độ thoát ba cõi. Tuy nói Ba Thừa độ thoát ba cõi. Tuy nói Ba Thừa, song thượng ngữ cũng thiện, trung ngữ cũng thiện, hạ ngữ cũng thiện, ý nghĩa sâu xa, thuần hậu đầy đủ. Đức Phật Thế Tôn kia, trăm ngàn muôn kiếp, khó thể được nghe. Chúng sanh cõi ấy gặp thời có Phật thật chẳng dễ. Nay chỗ Phật Thích Ca sanh ra kim hoa mầu nhiệm, khó có duyên được thấy. Vì thế các ông hãy sang cõi kia, thưa hơi chỗ nghi để lợi ích mình và lợi lạc chúng sanh.”


Khi chư Phật nói lời như thế rồi, ở mười phương mỗi cõi đều có mười ức Bồ Tát, từ chỗ ngồi đứng lên làm lễ Phật, đoạn cùng nhau vân tập đến thế Sa Bà. Mỗi mỗi Bồ Tát đều đem theo trăm ngàn âm nhạc, mưa hoa, báu lạ, đến ngay chỗ Phật. Lúc tới nơi nhiễu Phật bảy vòng, đảnh lễ Như Lai, lui ra ngồi một bên, rồi cùng nhau khác miệng đồng lời khải thỉnh rằng : “ Bạch Đức Thế Tôn, chúng con hôm nay muốn hỏi một điều. Cúi xin Đức Từ Tôn vì chúng con giải nói, để quần sanh cùng được lợi ích !”


Khi đó Đức Phật bảo các Bồ Tát Ma Ha Tát rằng : “ Chư thiện nam tử ! Nếu có điều chi nghi ngờ, nay cứ nên hỏi. Ta sẽ vì các ông giải thích rành rẽ.”


Các vị Bồ Tát liền thưa : “ Bạch Đức Thế Tôn ! Ðức Phật nước con chỉ nói Nhất Thừa, tại sao Như Lai lại nói Tam Thừa?”


Bấy giờ Đức Thế Tôn dùng trí vô ngại, bảo chư Bồ Tát rằng : “ Hôm nay các ông vì lợi ích chúng sanh, nên hỏi ta nghĩa đó. Vậy hãy nghe cho kỹ! Chư thiện nam tử ! Ví như một người mà có ba tên. Khi còn thơ ấu gọi là tiểu đồng, lúc hai mươi tuổi gọi là trung niên, quá tám mươi tuổi gọi là lão niên. Ta nói Tam Thừa cũng lại như thế. Đối với kẻ tâm nhỏ hạng người Thanh Văn, ta nói pháp Tiểu Thừa. Vì những người tâm bậc trung là hàng Duyên Giác, ta nói Trung Thừa. Với các Bồ Tát tâm đạo rộng lớn, ta nói Ðại Thừa. Chư thiện nam tử ! Các ông nên hiểu lý không hai bên, cùng quy một điểm, giải tuy khác lối, trọn về Nhất Thừa. Lý là Nhất Thừa, chia ra thành ba. Thanh Văn, Duyên Giác đều vào Ðại Thừa. Đại Thừa đó tức là Phật Thừa. Cho nên Tam Thừa chính Nhất Thừa.”


Khi Phật nói pháp này, trong hội có tất cả mười ngàn Bồ Tát đắc Vô Sanh Nhẫn, tám trăm Tỳ Kheo chứng quả A La Hán, hai muôn chư Thiên được Pháp Nhãn Tịnh, tám trăm vạn người phát Bồ Đề Tâm.


Lúc đó chư Bồ Tát ở mười phương đến, cũng chắp tay bạch Phật rằng : “ Hôm nay chúng con nhờ sức chư Phật ở bản quốc, được đến cõi này, được thấy Thế Tôn, được nghe Ðại Thừa. Xin cho chúng con thọ trì kinh đây, sau khi Phật nhập Niết Bàn, ở quốc độ này và cõi nước khác, nơi gốc cây núi rừng, chỗ ở của thần tiên, cùng thành ấp xóm làng, đồng không mộ địa, chùa tháp phòng Tăng, nơi hội đồng giảng pháp, chỗ ở của người tục, mà truyền bá kinh này lan rộng khắp nơi, khiến cho không dứt mất. Bởi tại sao? Vì khi Kinh này tồn tại, sẽ khiến cho đường ác dứt lâu dài. Sở dĩ như thế, vì chúng con từng nghe Phật nói, địa ngục chẳng ngăn cách, nếu tụng một câu, chư Thiên hoan hỷ, thường đến gần gũi phát tâm tu thiện. Nếu có người nào nghe Kinh Phương Quảng, vui mừng kính tin, biên chép đọc tụng, lễ bái thọ trì, xưng niệm một danh hiệu Phật, một tên Bồ Tát ở trong Kinh, người ấy hiện đời sẽ được an vui lành mạnh, không gặp tai ác. Khi kẻ đó mạng chung, Bồ Tát chúng con sẽ hiện thân đến trước dẫn về bản độ, cùng sanh ở một chỗ. Tại sao thế ? Bởi người đó thọ trì kinh này. Thọ trì kinh này là trì thân Phật. Người trì thân Phật, tức là Bồ Tát. Kẻ ấy đồng học với chúng con. Bởi nhân duyên như thế, nên phải thọ trì Kinh này để nguyện sanh về một chỗ, không lìa bỏ nhau !”


Bấy giờ Ðại Phạm Thiên Vương, Tam Thập Tam Thiên, Hộ Thế Tứ Vương, Kim Cương Mật Tích, chư Quỷ Thần Vương, Tán Chi Đại Tướng, Na La Long Vương, Nan Ðà Long Vương, Bạt Nan Ðà Long Vương, A Tu La vương, Ca Lâu La Vương, Ðại Biện Thiên Vương, Quỷ Tử Mẫu Thiên Vương, Chư Sơn Quỷ Thần Vương, Thọ Thần Vương, Hà Thần Vương, Hải Thần Vương, Ðịa Thần Vương, Thủy Thần Vương, Hỏa Thần Vương, Phong Thần Vương ; như thế vô lượng vô biên các Thần Vương và chư Thiên đều từ chỗ ngồi đứng lên đảnh lễ Phật, chắp tay cung kính mà thưa rằng : “ Bạch Đức Thế Tôn ! Chúng con từ nay nguyện thường hộ trì lời Thế Tôn nói. Chỗ nào có Kinh Phương Quảng này, Thần Vương chúng con thường ở trước chỗ ấy để làm thanh tịnh. Nếu ở trong tháp hoặc trong phòng, ở nhà bạch y hoặc chỗ vắng lặng, có người nào dùng tay không sạch cầm nắm kinh, hoặc chẳng cung kính khi đọc tụng kinh này, chúng con sẽ khiến cho kẻ đó lúc đi đứng nằm ngồi thân tâm đều chẳng yên, nơi nơi đều sanh lòng sợ hãi. Kẻ đó hiện thân phải chịu vướng mắc ác sự, đến khi mạng chung đọa vào địa ngục. Nếu người nào cung kính, thân tâm thanh tịnh, nâng đỡ kinh này, tắm rửa đốt hương, thọ trì đọc tụng hoặc biên chép, ghi nhớ không quên ; nhớ kinh Điển này không dám làm điều ác, được như thế, Thần Vương chúng con sẽ bảo hộ người đó. Kẻ ấy nếu nằm, chúng con đứng ở trước không cho thấy điều ác, cũng không cho ác nhơn ác thần làm hại. Nơi trụ xứ người đó, chúng con giữ gìn nhà cửa. Nếu đương nhơn muốn đi lại, Thần Vương chúng con sẽ đi trước để dẫn đường, dùng thức gì cho thức ấy, kẻ đó đi trong bốn phương không bị chướng ngại, thường thấy việc lành. Đến khi mạng chung lại được sanh lên cõi trời, do nhân duyên đó thường được gặp Phật, không mất tâm Ðại Thừa.”


Khi ấy Đức Thế Tôn bảo chư Bồ Tát và Thần Vương rằng : “ Như thế, Như thế, đúng như các ông nói. Kinh Điển này khó thể được nghe, phương chi được thấy ! Nếu muốn thọ trì đọc tụng kinh này phải tắm rửa, mặc áo mới sạch, quét dọn phòng xá, treo tràng phan bảo cái trang nghiêm trong nhà, đốt các hương thơm, như hương chiên đàn, hương bột, hương thoa, lễ bái sáu thời, đều từ một ngày cho đến bảy ngày. Trong thời gian đọc tụng kinh này, phải chánh tâm, chánh ý, chánh niệm, chánh quán, chánh tư duy, chánh tư nghị, chánh thọ trì, chánh dụng hành, chánh giáo hóa. Ngày đêm sáu thời, lễ bái danh hiệu chư Phật Bồ Tát, mười hai phần kinh. Nếu có thể lễ bái đọc tụng như thế, lại tin kính nhất tâm, như trong kinh này nói, thì các tội nặng đều diệt trừ hết, không còn nghi ngờ. Tại sao thế ? Vì Kinh Ðại Phương Quảng, mười phương chư Phật đều theo đây để tu hành, theo đây hộ trì, là mẹ chư Phật, là vua các Kinh, là kho tàng diệu nghĩa, là đạo Bồ Tát. Kinh Ðại Thừa Phương Quảng rất sâu mầu, cũng như thế gian có đủ Sáu Đại không thể nghĩ bàn. Những gì là sáu ? Một là đại Địa, hai là đại Thủy, ba là đại Hỏa, bốn là đại Phong, năm là đại Nhựt, sáu là đại Không. Kinh như đại Địa, đựng chở tất cả nhơ sạch tốt xấu. Kinh như đại Thủy, rửa trừ tất cả uế ác bất tịnh, cát bụi bợn nhơ. Kinh như đại Hỏa, đốt tiêu tất cả phiền não nhơ ác cùng các vật không sạch. Kinh như đại Phong thổi bay tất cả trần cấu bất tịnh. Kinh như đại Nhựt chiếu soi tất cả các chỗ tối tăm. Kinh như đại Không, dung thọ tất cả vũ trụ thế giới, các tướng lành dữ tốt xấu. Kinh Phương Quảng này là kinh Ðại Thừa, rộng lớn vô song, không thể sánh ví, trên đến chư Bồ Tát, giữa đến Thanh Văn, dưới đến loài hữu tình đều dung nạp tất cả. Vì thế các ông nên thọ trì Kinh này, lưu bá kinh này, tin kính kinh này. Như thế các ông và chư Bồ Tát sẽ được vào trí huệ Phật, thấy rõ Phật tánh. Kinh này sẽ khiến các ông, chư Thiên Thần vương, và người thọ trì, đọc tụng, thường được thấy Ta, cùng thấy tất cả chư Phật đời vị lai, chuyển đại pháp luân, ngồi Dạo Tràng Bồ Đề.”


Bấy giờ trong đại chúng có vị Bồ Tát tên là Tín Tướng từ chỗ ngồi đứng lên, chỉnh y phục, lễ nơi chân Phật mà thưa rằng : “ Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con hôm nay có điều muốn hỏi. Cúi xin Thế Tôn rũ lòng chỉ dạy. Lời Đức Thế Tôn nói, hay làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh ! ”


Khi đó Phật bảo Tín Tướng Bồ Tát rằng : “ Lành thay ! Lành thay ! Này thiện nam tử ! Nếu ông muốn hỏi điều chi thì cứ nên hỏi. Ta sẽ vì ông mà giải thích rành rẽ. Chỗ ông hỏi sẽ làm lợi ích lớn cho vô lượng loài hữu tình !”


Tín Tướng Bồ Tát liền thưa rằng : “ Bạch Đức Thế Tôn ! Con nhớ thuở xưa, cánh vô lượng kiếp về đời quá khứ, có đức Phật Thế Tôn tên là Bảo Thắng. Chúng sanh nghe danh hiệu Đức Phật ấy dù chỉ một lần, đều được sanh lên cõi trời. Về sau chẳng bao lâu, trong cánh đồng rộng, nơi quốc độ của nhà vua Thiên Tự Tại Quang ở xứ ấy, có một ao to nước đã khô cạn. Trong ao có mười ngàn cá lớn bị ánh nắng mặt trời chiếu, phơi thân nóng bức sắp vào chỗ chết. Lúc ấy có một Ðại Sĩ tên là Lưu Thủy, nhìn thấy bầy cá sanh lòng thương xót, chở nước đổ vào ao cho cá được sống thêm ít ngày. Ông biết chẳng lâu chúng sẽ phải chết, nên vì cá xưng niệm danh hiệu Phật Bảo Thắng ba lần. Bầy cá nghe xong đều chết hết cả, được sanh lên cõi trời Ðao Lợi.


Bởi có nhân duyên như thế, nay xin Đức Thế Tôn vì trong đại hội đây và chúng sanh ở đời vị lai nói hồng danh chư Phật. Lại nữa khi nghe danh hiệu Thích Ca Mâu Ni, cũng được vô lượng lợi ích, vô biên công đức, thường được giàu vui. Chúng sanh được nghe hồng danh, được thấy chư Phật, đều do nhân duyên. Cho nên nay con khẩn cầu, nguyện xin nói ra, cũng để độ thoát những chúng sanh mê lầm, phạm các cấm giới, gây nên tội nặng.”


Khi đó Phật bảo Tín Tướng Bồ Tát Ma ha tát rằng : “ Nầy thiện nam tử ! Nếu ta nói rộng những danh hiệu chư Phật mười phương, thì dù trăm ngàn muôn kiếp cũng không thể nói hết. Có thể biết được số giọt của tất cả thứ nước : ao, hồ, sông, biển, cho đến nước mưa, nhưng danh hiệu chư Phật không thể biết hết. Có thể biết được cân lượng của các núi Tu Di, nhưng danh hiệu chư Phật không thể biết hết. Có thể biết được độ số của tất cả miền đại địa, nhưng danh hiệu chư Phật không thể biết hết. Có thể biết tận bờ mé của hư không thế giới, nhưng danh hiệu chư Phật không thể biết hết. Nay Ta vì ông mà nói lược qua danh hiệu chư Phật ba đời. Nếu kẻ nào có duyên nghe qua một lần, đến lúc mạng chung, cũng được sanh lên cõi trời. Như nghe rồi tin kính, lại hay biên chép, xưng danh lễ bái, sẽ diệt được vô lượng trọng tội trong nhiều kiếp sống chết, được vô lượng phước, người đó khi mạng chung, tùy ý vãng sanh mười phương thế giới, cũng được thấy Ta và thấy chư Phật ở Hiền kiếp đời vị lai.”


Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo đại chúng rằng : “ Chư đại chúng nên chỉnh đốn y phục, chánh tâm, chánh thân, chánh ý, chánh niệm và chánh quán sát. Muốn được nghe pháp, phải nhất tâm kính lễ Đức Phật Tu Di Ðăng Vương, kính lễ Đức Phật Bảo Vương, kính lễ đức Phật Bảo Thắng, kính lễ đức Phật A Di Ðà, kính lễ đức Phật Tỳ Bà Thi, kính lễ Đức Phật Ða Bảo, kính lễ đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Lại xin kính lễ Bậc Nhiếp Trì tất cả các pháp, kính lễ ngôi Quá Xứng Lượng, kính lễ ngôi Không Sánh Ví, kính lễ Vô Biên Pháp, kính lễ ngôi Khó Nghĩ Bàn, kính lễ ngôi Trụ Lực, Lực Trung Lực, kính lễ ngôi Thập Lực, Vô Sở Úy. Kính lễ đấng Tam Giới Tôn. Kính lễ bậc Đại Đạo Sư của tất cả. Kính lễ bậc hay dứt trừ các kiết phược. Kính lễ Đấng đã đến bờ bên kia. Kính lễ Đấng đã vượt khỏi các thế gian. Kính lễ Đấng đã lìa hẳn đường sanh tử. Kính lễ Bậc được Tam Muội Giải Thoát. Kính lễ Đấng như hư không chẳng nương tựa. Kính lễ Bậc Đại Pháp Vương trong chúng. Kính lễ Đấng đã phá hoại bốn loại ma. Kính lễ Bậc Đại Từ Phụ xem chúng sanh như con một. Cúi xin đời đời được gặp chư Phật, được tỏ thấy Phật Tánh, kết cuộc được đến Đại Niết Bàn. Bởi tại sao ? Vì tất cả các loài hữu hình đều có Phật Tánh. Ðại chúng nên chắp tay một lòng nghe kỹ và nhất tâm cúng dường.”


Đại chúng hãy nhiếp tâm

Nghe Ta nói danh hiệu

Phật mười phương ba đời

Dù phạm năm Vô Gián

Cũng sẽ được giải thoát

Đến người không căn lành

Ta cũng vì tuyên nói

Chúng tự không thể hiểu

Như mầm héo bỏ đi

Huyễn vọng sẽ tiêu tan

Duy còn có chân thật

Trừ bỏ tướng Tiểu Thừa

Chỉ còn có Đại Thừa

Lại bỏ Hai Thừa trên

Duy còn có Nhứt Thừa

Nếu người không căn lành

Chẳng được nghe danh hiệu

Từng cúng vô lượng Phật

Nay được nghe danh Phật

Hãy nhiếp tâm nghe kỹ

Nên khéo biết thọ trì

Người ít phần giải thoát

Nên trụ nơi vắng lặng

Ở trong đạo pháp Ta

Kinh hành làm việc Phật

Thọ trì và đọc tụng

Lễ bái danh hiệu Phật

Lìa bỏ các việc ma

Không phạm bốn trọng cấm

Cùng Vô Gián, Xiển Đề

Kẻ ấy đời vị lai

Sẽ được thành Phật đạo

Người chẳng sanh lòng tin

Quyết đọa ba đường ác

Sanh tin siên lễ bái

Sẽ thấy vô lượng Phật

Vậy phải sanh lòng tin

Và chí tâm kính lễ

Danh hiệu Phật mười phương

Nguyện trừ vô lượng tội.


Tất cả đại chúng hãy chắp tay nghe kỹ, nhiếp trì thân tâm chớ cho loạn động. Lại nên gieo năm vóc xuống đất, một lòng nghe nhận.


Bấy giờ Đức Thế Tôn dùng Phạm âm xưng danh hiệu chư Phật đời quá khứ rằng:

 

Nam-mô Quá Khứ Vô Lượng Chư Phật.

Nam-mô Quá Khứ Trang Nghiêm Kiếp Thiên Phật.

Nam-mô Nhị Vạn Đồng Hiệu Nhật Nguyệt Ðăng Minh Phật.

Nam-mô Tam Vạn Đồng Hiệu Nhiên Ðăng Phật.

Nam-mô Ðại Thông Trí Thắng Phật cập Thập Lục Vương Tử Phật.

Nam-mô Không Vương Phật.

Nam-mô Ða Bảo Phật.

Nam-mô Vân Tự Tại Ðăng Vương Phật.

Nam-mô Oai Âm Vương Phật.

Nam-mô Vô Số Quang Phật.

Nam-mô Tư Thiện Phật.

Nam-mô Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức Phật.

Nam-mô Tịnh Hoa Tú Vương Phật.

Nam-mô Tịnh Trang Nghiêm Vương Phật.

Nam-mô Long Tôn Vương Phật.

Nam-mô Vân Lôi Âm Vương Phật.

Nam-mô Vân Lôi Tú Chủ Hoa Trí Phật.

Nam-mô Bảo Vương Phật.

Nam-mô Sa La Thọ Vương Phật.

Nam-mô Thượng Oai Ðức Bảo Vương Phật.

Nam-mô Quang Minh Vương Phật.

Nam-mô Bá Ức Đồng Hiệu Ðịnh Quang Phật.

Nam-mô Quang Viễn Phật.

Nam-mô Nguyệt Quang Phật.

Nam-mô Chiên Ðàn Hương Phật.

Nam-mô Thiện Sơn Vương Phật.

Nam-mô Tu Di Thiên Quang Phật.

Nam-mô Tu Di Ðẳng Diệu Phật.

Nam-mô Nguyệt Sắc Phật.

Nam-mô Chánh Niệm Phật.

Nam-mô Ly Cấu Phật.

Nam-mô Vô Cấu Trược Phật.

Nam-mô Long Thiên Phật.

Nam-mô Bất Ðộng Ðịa Phật.

Nam-mô Lưu Ly Diệu Hoa Phật.

Nam-mô Lưu Ly Kim Sắc Phật.

Nam-mô Kim Tạng Phật.

Nam-mô Diệm Quang Phật.

Nam-mô Diệm Căn Phật.

Nam-mô Ðịa Chủng Phật.

Nam-mô Nguyệt Tượng Phật.

Nam-mô Nhật Âm Phật.

Nam-mô Giải Thoát Hoa Phật.

Nam-mô Trang Nghiêm Quang Minh Phật.

Nam-mô Hải Giác Thần Thông Phật.

Nam-mô Thủy Quang Phật.

Nam-mô Ðại Hương Phật.

Nam-mô Ly Hư Cấu Phật.

Nam-mô Xả Yếm Ý Phật.

Nam-mô Bảo Diệm Phật.

Nam-mô Diệu Ðảnh Phật.

Nam-mô Dõng Lập Phật.

Nam-mô Công Ðức Trí Huệ Phật.

Nam-mô Tể Nhật Nguyệt Phật.

Nam-mô Nhật Nguyệt Lưu Ly Quang Phật.

Nam-mô Vô Thượng Lưu Ly Quang Phật.

Nam-mô Tối Thượng Thủ Phật.

Nam-mô Bồ Ðề Hoa Phật.

Nam-mô Nguyệt Minh Phật.

Nam-mô Nhật Quang Phật.

Nam-mô Hoa Sắc Vương Phật.

Nam-mô Thủy Nguyệt Quang Phật.

Nam-mô Trừ Nghi Minh Phật.

Nam-mô Ðộ Khổ Hạnh Phật.

Nam-mô Tịnh Tín Phật.

Nam-mô Thiện Tú Phật.

Nam-mô Oai Thần Phật.

Nam-mô Pháp Huệ Phật.

Nam-mô Loan Âm Phật.

Nam-mô Sư Tử Âm Phật.

Nam-mô Long Âm Phật.

Nam-mô Xử Thế Phật.

Nam-mô Tự Tại Phật.

Nam-mô Vô Lượng Thọ Phật.

Nam-mô Vô Lượng Quang Phật.

Nam-mô Vô Biên Quang Phật.

Nam-mô Vô Ngại Quang Phật.

Nam-mô Vô Ðối Quang Phật.

Nam-mô Diệm Vương Quang Phật.

Nam-mô Thanh Tịnh Quang Phật.

Nam-mô Hoan Hỷ Quang Phật.

Nam-mô Trí Huệ Quang Phật.

Nam-mô Bất Ðoạn Quang Phật.

Nam-mô Nan Tư Quang Phật.

Nam-mô Vô Xưng Quang Phật.

Nam-mô Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật.

Nam-mô Tướng Hảo Tử Quang Phật.

Nam-mô Viễn Chiếu Phật.

Nam-mô Bảo Tạng Phật.

Nam-mô Vô Lượng Âm Phật.

Nam-mô Cam Lồ Vị Phật.

Nam-mô Long Thắng Phật.

Nam-mô Thắng Lực Phật.

Nam-mô Đức Thủ Phật.

Nam-mô Diệu Đức Sơn Phật.

Nam-mô Nhân Vương Phật.

Nam-mô Vô Thượng Hoa Phật.

Nam-mô Oai Lực Vương Phật.

Nam-mô Long Tự Tại Vương Phật.

Nam-mô Sư Tử Y Vương Phật.

Nam-mô Tự Tại Vương Phật.

Nam-mô Phổ Quang Phật.

Nam-mô Phổ Minh Phật.

Nam-mô Phổ Tịnh Phật.

Nam-mô Ða Ma La Bạt Chiên Ðàn Hương Phật.

Nam-mô Chiên Ðàn Hương Quang Phật.

Nam-mô Ma Ni Tràng Phật.

Nam-mô Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích Phật.

Nam-mô Nhất Thiết Thế Gian Nhạo Kiến Thượng

Đại Tinh Tấn Phật.

Nam-mô Ma Ni Tràng Ðăng Quang Phật.

Nam-mô Huệ Cự Chiếu Phật.

Nam-mô Hải Ðức Quang Minh Phật.

Nam-mô Kim Cang Lao Cường Phổ Tán Kim Quang Phật.

Nam-mô Ðại Cường Tinh Tấn Dõng Mãnh Phật.

Nam-mô Đại Bi Quang Phật.

Nam-mô Từ Lực Vương Phật.

Nam-mô Từ Tạng Phật.

Nam-mô Chiên Ðàn Khốt Trang Nghiêm Thắng Phật.

Nam-mô Hiền Thiện Thủ Phật.

Nam-mô Thiện Giác Ý Phật.

Nam-mô Quảng Trang Nghiêm Vương Phật.

Nam-mô Kim Hoa Quang Phật.

Nam-mô Bảo Cái Chiếu Không Tự Tại Lực Vương Phật.

Nam-mô Hư Không Bảo Hoa Quang Phật.

Nam-mô Lưu Ly Trang Nghiêm Vương Phật.

Nam-mô Phổ Hiện Sắc Thân Quang Phật.

Nam-mô Bất Ðộng Trí Quang Phật.

Nam-mô Hàng Phục Chúng Ma Vương Phật.

Nam-mô Thiện Tài Quang Minh Phật.

Nam-mô Từ Bi Trí Huệ Thắng Phật.

Nam-mô Di Lặc Tiên Quang Phật.

Nam-mô Thiện Tịch Nguyệt Âm Diệu Tôn Trí Vương Phật.

Nam-mô Thế Tịnh Quang Phật.

Nam-mô Long Chủng Thượng Trí Tôn Vương Phật.

Nam-mô Nhật Nguyệt Quang Phật.

Nam-mô Nhật Nguyệt Châu Quang Phật.

Nam-mô Huệ Tràng Thắng Trang Nghiêm Vương Phật.

Nam-mô Sư Tử Hống Tự Tại Lực Vương Phật.

Nam-mô Diệu Âm Thắng Phật.

Nam-mô Thường Quang Tràng Phật.

Nam-mô Quan Thế Ðăng Vương Phật.

Nam-mô Huệ Oai Ðăng Vương Phật.

Nam-mô Pháp Tràng Thắng Vương Phật.

Nam-mô Tu Di Quang Phật.

Nam-mô Tu Ma Na Hoa Quang Phật.

Nam-mô Ưu Đàm Bát La Hoa Quang Thù Thắng

Lực Vương Phật.

Nam-mô Đại Huệ Lực Vương Phật.

Nam-mô A Súc Tỳ Hoan Hỷ Quang Phật.

Nam-mô Vô Lượng Âm Thanh Vương Phật.

Nam-mô Tài Quang Phật.

Nam-mô Kim Hải Quang Phật.

Nam-mô Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Phật.

Nam-mô Ðại Thông Quang Phật.

Nam-mô Nhất Thiết Pháp Tràng Mãn Vương Phật.

Nam-mô Hiện Vô Ngu Phật.

Nam-mô Kim Sơn Bảo Cái Phật.

Nam-mô Kim Hoa Diệm Quang Tướng Phật.

Nam-mô Đại Cự Quang Minh Phật.

Nam-mô Bảo Cái Đăng Vương Phật.

Nam-mô Vô Cấu Tạng Phật.

Nam-mô Quang Minh Tướng Phật.

Nam-mô Kim Diệm Quang Minh Phật.

Nam-mô Kim Diệm Quang Minh Tạng Phật.

Nam-mô Quá Khứ Vô Lượng Phân Thân Chư Phật.


Nam-mô Quá Khứ Nhất Phật, Thập Phật, Bá Phật, Thiên Phật, Vạn Phật, hay trừ tội nặng từ vô lượng kiếp sanh tử cho đến ngày nay. ( 1 lạy )


Nam-mô Quá Khứ Nhất ức, Thập ức, Bá ức, Thiên ức, Vạn ức, Na Do Tha, Hằng Hà Sa, Vô Lượng A Tăng Kỳ Chư Phật, hay trừ tội nặng từ vô lượng kiếp sanh tử cho đến ngày nay. ( 1 lạy )


Nếu người nào được nghe vô lượng a tăng kỳ danh hiệu chư Phật đời quá khứ, kẻ đó được tám mươi muôn kiếp không đọa địa ngục khổ. Vì thế cho nên phải cung kính lễ.


Do nhân duyên lễ bái

Chư Phật đời quá khứ

Diệt tội hoàn bản tâm

Chẳng còn tạo mười ác

Cùng với tội ngũ nghịch

Thường được nghe Chánh Pháp

Ðầy đủ đạo Ðại Thừa

Cho nên nay kính lễ

Chỉ trừ hai hạng người

Một, báng kinh Phương Ðẳng

Hai, hạng Nhứt Xiển Đề

Là khó nỗi diệt tội

Nếu người tâm thanh tịnh.

Chẳng phải Nhất Xiển Đề

Sẽ thấy vô lượng Phật

Cho nên nay kính lễ

Nếu có phạm tội Tứ Trọng

Cùng tội Ngũ vô gián

Mà lòng tin thanh tịnh

Cũng được như pháp trụ

Lại do nhân duyên kính lễ

Diệt trừ nghiệp Thập ác

Quyết được giới Ðại Thừa

Vì thế nên kính lễ.


Khi Đức Thế Tôn nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát chứng Vô Sanh Nhẫn, tám trăm Thanh Văn phát Thiểu Phần Tâm, năm ngàn Tỳ Kheo đắc đạo A La Hán, một ức trời và người được Pháp Nhãn Tịnh.




Kính lạy đời quá khứ,
Chánh Pháp Minh Như Lai.
Chính là đời hiện nay,
Quán Thế Âm Bồ Tát,

Bậc thành công đức diệu,
Đủ lòng đại từ bi,
Nơi trong một thân tâm
Hiện ra ngàn tay mắt

Soi thấy khắp pháp giới
Hộ trì các chúng sanh
Khiến phát lòng đạo sâu
Dạy trì chú Viên Mãn

Cho xa lìa đường ác (TỨ ÁC THÚ)
Được sanh trước Như Lai
Những tội nặng vô gián
Cùng bịnh ác lâm thân,
Khó nỗi cứu vớt được
Cũng đều khiến tiêu trừ

Các tam muội, biện tài
Sự mong cầu hiện tại
Đều cho được thành tựu
Quyết định chẳng nghi sai

Khiến mau được ba thừa
Và sớm lên quả Phật
Sức oai thần công đức
Khen ngợi chẳng hay cùng!

Cho nên con một lòng
Quy mạng và đảnh lễ



THIÊN-THỦ THIÊN-NHÃN
QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT QUẢNG-ÐẠI VIÊN-MÃN
VÔ NGẠI ĐẠI-BI TÂM ÐÀ-RA-NI 

(3 lần 3 lạy )




 

( Ngồi kiết già hoặc bán già trước bàn Phật)



Thứ Hai Mươi Lăm





 
 Án-- thương yết lệ, tát-phạ hạ.



(108 lần)




          Quang, thọ khó suy lường,

          Sáng lặng khắp mười phương.

          Thế Tôn Vô Lượng Quang,

          Cha lành cõi Liên ban.

          Thần lực chẳng tư nghì,

          Sống lâu A tăng kỳ.

          A Di Đà Như Lai,

          Tiếp dẫn lên liên đài.

          Cực Lạc cõi thuần tịnh,

          Công đức lạ trang nghiêm.

          Nơi tất cả quần sanh,

          Vượt lên ngôi Bất thối.

          Mười phương hằng sa Phật.

          Đều ngợi khen Vô Lượng.

          Cho nên hôm nay con,

          Nguyện sanh về An Dưỡng.

 

Nam mô Liên trì hải hội Phật Bồ Tát. (3 lần)


(Tiếp tụng)


 

VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN


 

NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA. 

NAM MÔ A RỊ DA.  A MI TÁ BÀ DA.  TÁT THA GA TÁ DA.  A RA HA TI.  SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA.  TÁT DA THA. 

UM !  A MI RỊ TI.  A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ.  A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ.  A MI RỊ TÁ GA BÊ.  A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ.  A MI RỊ TÁ SI TÊ.  A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.

A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ.  A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI.  A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI.  SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI.  SẠT VA MA CA LI.  SA KHẤT SÁ DU CA LI.  SÓA HA. 

 

UM! BÚT RUM!  HÙM!

 

( 7, 21, 49... hoặc 108 lần )

 


PHẬT THUYẾT A-DI-ÐÀ KINH



NHƠN HẠNH VÃNG SANH


        Xá-Lợi-Phất! Bất khả dĩ thiểu thiện-căn phước-đức nhơn-duyên, đắc sanh bỉ quốc. 

        Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu thiện-nam tử, thiện-nư nhơn, văn thuyết A-Di-Ðà Phật, chấp trì danh-hiệu, nhược nhứt nhựt, nhược nhị nhựt, nhược tam nhựt, nhược tứ nhựt, nhược ngũ nhựt, nhược lục nhựt, nhược thất nhựt, nhứt tâm bất loạn. 

        Kỳ nhơn lâm mạng chung thời, A-Di-Ðà Phật dữ chư Thánh chúng, hiện tại kỳ tiền, thị nhơn chung thời, tâm bất điên-đảo, tức đắc vãng sanh A-Di-Ðà Phật Cực-lạc quốc-độ. 

        Xá-Lợi-Phất! Ngã kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn, nhược hữu chúng-sanh văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ.


        ( Xá- Lợi- Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó.


        Xá- Lợi- Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của Đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tạp loạn. 

        Thời người đó đến lúc lâm chung Đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.


        Xá- Lợi- Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế. Nếu có chúng sanh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc. )


Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, Đại từ đại bi,

Tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.

        

  (Kế tiếp niệm)

 

Nam Mô A Di Đà Phật

(Tùy ý, hoặc 1 ngàn câu trở lên)

 

Chuyên tụng Vô Lượng Thọ Như Lai Đà Ra Ni cũng được vãng sanh, nhưng vì câu chân ngôn dài khó nhiếp tâm hơn sáu chữ hồng danh, nên sau khi trì chú lại tiếp niệm Phật.

          Về cách trì niệm, tệ nhơn lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:

 

1 – Ký số niệm: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là ký số.

 

2 – Chứng số niệm: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là chứng số. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.

 

3 –Chỉ quán niệm: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là Chỉ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt.  Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là Quán. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép Chỉ, hôn trầm dùng phép Quán.

 

4 – Tịch tĩnh niệm: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là Tịch tĩnh niệm.

 

          Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, tệ nhơn đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.



( Lại  CHUYÊN NIỆM “ Nam Mô A Di Đà Phật”. Nghĩa là ngoài thời khóa kể trên, trong một ngày đêm, khi nào có thể liền nhiếp THÂN TÂM vào danh hiệu “NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT”, lâu ngày sẽ được NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT, mới biết diệu dụng của câu niệm phật “BẤT KHẢ TƯ NGHỊ”, không thể dùng văn tự ngôn ngữ SUY NGHĨ mà bàn luận biết được.  Cho nên, qúi vị phải hành trì cho thiết thật.


Tuy nhiên, nếu qúi vị thích chuyên trì “CHÚ ĐỊA-BI”, chuyên trì “ 1 THỦ-NHÃN”, chuyên “ THAM-THIỀN”, chuyên “TỤNG KINH”… thì cũng phải hành như “CHUYÊN” NIỆM PHẬT vậy).



PHẬT THUYẾT KINH A DI ĐÀ

Hòa Thượng Thích Trí-Tnh Việt dịch



Đại Thông Phương Quảng

Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật 


Đại Bi Sám Pháp

 

Hòa ThượngThích Thiền-Tâm Việt dịch 

Comments

Popular posts from this blog