THẬP NHỊ DANH NHƯ LAI LỄ
SÁM DIỆT TỘI
I.- LỄ BÁI SÁM HỐI
(Trước khi trì tụng, nên
súc miệng, rửa mặt, rửa tay sạch sẽ, rồi mặc áo tràng, đốt hương, kế chắp tay
đứng trước bàn Phật đọc bài kệ tán Phật, tiếp theo lễ bái.)
Đại-từ đại-bi mẫn chúng-sanh,
Đại-hỷ đại-xả tế
hàm-thức,
Tướng hảo quang-minh dĩ
tự-nghiêm,
Đệ-tử nhứt tâm quy-mạng
lễ.
1) -Nhứt tâm đảnh lễ:
Đông phương giải-thoát, chủ thế giới hư không Công đức mục tịnh vô cấu vi
trần, Đẳng đoan chánh công đức tướng, Quang minh hoa ba đầu ma, điểm lưu ly
quang sắc, Bảo thể hương, Tối thượng hương, Diệu cúng dường, Chủng chủng diệu
thái trang nghiêm, Đảnh kế diệu tướng, Vô lượng vô biên, Nhựt Nguyệt quang
minh, Nguyệt lực trang nghiêm, Biến hóa trang nghiêm, Quảng đại trang nghiêm,
Pháp giới cao thắng, VÔ NHIỄM BẢO VƯƠNG NHƯ LAI. (1 lạy)
2) -Nhứt tâm đảnh lễ:
Hào tướng thù thắng như nhựt nguyệt quang minh diệm, Bảo liên hoa quang sắc
thân kiện như Kim cang, Tỳ lô giá na vô chướng ngại nhãn, Viên mãn
thập phương, Phóng quang phổ chiếu, Nhất thiết Phật Sát TƯỚNG VƯƠNG NHƯ
LAI. (1 lạy)
3) -Nhứt tâm đảnh lễ:
Nhất thiết trang nghiêm VÔ CẤU QUANG NHƯ LAI. (1 lạy)
4) -Nhứt tâm đảnh lễ:
Nam phương thế giới BIỆN TÀI ANH LẠC TƯ NIỆM NHƯ LAI. (1
lạy)
5) -Nhứt tâm đảnh lễ:
Tây phương thế giới VÔ CẤU NGUYỆT TRÀNG TƯỚNG VƯƠNG DANH XƯNG NHƯ
LAI. (1 lạy)
6) -Nhất tâm đảnh lễ:
Bắc phương thế giới HOA TRANG NGHIÊM TÁC QUANG MINH NHƯ LAI. (1
lạy)
7) -Nhứt tâm đảnh lễ:
Đông Nam phương thế giới TÁC ĐĂNG MINH NHƯ LAI. (1 lạy)
8) -Nhứt tâm đảnh lễ:
Tây Nam phương thế giới BẢO THƯỢNG TƯỚNG DANH XƯNG NHƯ LAI. (1
lạy)
9) Nhứt tâm đảnh lễ:
Tây Bắc phương thế giới VÔ ÚY QUÁN NHƯ LAI. (1 lạy)
10)-Nhứt tâm đảnh lễ:
Đông Bắc phương thế giới VÔ ÚY VÔ KHIẾP MAO KHỔNG BẤT THỤ
DANH XƯNG NHƯ LAI. (1 lạy)
11) -Nhứt tâm đảnh lễ:
Hạ phương thế giới SƯ TỬ PHẤN TẤN CĂN NHƯ LAI. (1
lạy)
12) -Nhứt tâm đảnh lễ:
Thượng phương thế giới KIM QUANG OAI ĐỨC TƯỚNG VƯƠNG NHƯ LAI. (1
lạy)
NHỨT TÂM ĐẢNH LỄ:
NAM MÔ PHÁP GIỚI TẠNG THÂN A DI ĐÀ PHẬT. (1 lạy)
(Hồng-Danh Bửu-Sám)
(Quỳ Tụng) – Đức Phật bảo
Di Lặc Bồ Tát:
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào phạm các tội Tứ trọng ngũ
nghịch, Thập ác phỉ báng Tam Bảo , hàng tăng ni phạm tội Tứ khí, Bát
khí, người ấy tội nặng, giả sử như đem cõi Diêm phù đề này, nghiền nát
thành bụi nhỏ, mỗi hạt bụi là một kiếp tội, chỉ xưng lễ danh hiệu một vị
Phật đầu tiên một lạy, thì bao nhiêu vi trần kiếp tội ấy điều được tiêu trừ
. Huống chi ngày đêm đọc tụng, thọ trì, nhớ niệm không quên, kẻ đó sẽ được
công đức không thể nghĩ bàn.
Lại nếu xưng lễ 12 lạy Danh hiệu của chư Phật trên đây, trong vòng 10 ngày Sám
hối tất cả tội, khuyến thỉnh chư Phật trụ thế, và chuyễn pháp luân, tùy hỉ tất
cả công đức của tất cả chúng sinh, đem các căn lành mình tu, hồi hướng về giải
thoát, hành trì như thế sẽ diệt được tất cả tội, sẽ trừ được tất cả nghiệp
chướng, sẽ được trang nghiêm đầy đủ Phật độ, sẽ được đầy đủ đức vô úy, đầy đủ
tướng hảo, đầy đủ hạnh Bồ Tát, quyến thuộc vây quanh, đầy đủ vô lượng tam muội,
Đầy đủ cõi Phật trang nghiêm như ý, cho đến đầy đủ quả báo tốt đẹp, đáng ưa
thích của quả Vô thượng bồ đề.
Bấy giờ đức Thế Tôn liền
nói kệ rằng:
Nếu có thiện nam tử,
Cùng với thiện nữ nhơn,
Xưng lễ hiện Phật trên.
Trong đời đời kiếp kiếp.
Sẽ được người yêu kính,
Tùy chỗ sanh ngôi vị,
Cao quý hơn tất cả.
Ánh sáng oai lực lớn,
Thành tựu đạo Bồ Đề.
NAM MÔ CẦU SÁM HỐI BỒ
TÁT MA-HA-TÁT. (3 lần)
Nguyện tương dĩ thử
thắng công-đức,
Hồi-hướng vô-thượng chơn
pháp-giới,
Tánh tướng Phật, Pháp
cập Tăng-già,
Nhị đế dung thông
tam-muội ấn,
Như thị vô-lượng
công-đức hãi,
Ngã kim giai tất tận
hồi-hướng,
Sở hữu chúng-sanh thân,
khẩu, ý,
Kiến hoặc đàn báng ngã
pháp đẳng,
Như thị nhứt thiết chư
nghiệp-chướng
Tất giai tiêu-diệt tận
vô dư,
Niệm niệm trí châu ư
pháp-giới,
Quảng độ chúng-sanh giai
bất thối,
Nãi chí hư-không thế-giới
tận,
Chúng-sanh cập nghiệp
phiền-não tận,
Như thị tứ pháp quảng
vô-biên,
Nguyện kim hồi-hướng
diệc như-thị.
Nam-mô Ðại-hạnh Phổ-Hiền
Bồ-tát MA-HA-TÁT. (3 lần)
(Đứng lên chấp tay xướng)
Ðệ-tử Sám-hối, phát-nguyện rồi, chí-tâm đảnh-lễ
Tam-bảo. (1 lạy)
II.- TRÌ CHÚ NIỆM PHẬT
(Ngồi kiết già hoặc bán già trước bàn Phật; chắp tay
niệm)
TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN
ÁN LAM (7 lần)
TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN
TU RỊ TU RỊ MA HA TU RỊ TU TU RỊ TA-BÀ-HA (3 lần)
TỊNH BA NGHIỆP CHƠN NGÔN
ÁN TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐÀ TA PHẠ,
ĐẠT MẠ TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐỘ HÁM (3 lần)
PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN
ÁN NGA NGA NẴNG TAM BÀ PHẠ PHIỆT NHỰT RA HỒNG (3 lần)
Nam-mô thập phương thường trụ
Tam-Bảo (3 lần)
Cúi lạy đấng tam
giới Tôn
Quy mạng mười phương
Phật
Con nay phát nguyện rộng
LỄ THẬP NHỊ DANH
NHƯ LAI
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát Bồ-Đề TÂM
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi
Cực-Lạc.
Nam-mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật (3 lần)
(Vẫn chắp tay tụng tiếp bài tán Vô Lượng Thọ)
Quang, thọ khó suy
lường,
Sáng
lặng khắp mười phương.
Thế
Tôn Vô Lượng Quang,
Cha
lành cõi Liên ban.
Thần
lực chẳng tư nghì,
Sống
lâu A tăng kỳ.
A
Di Đà Như Lai,
Tiếp
dẫn lên liên đài.
Cực
Lạc cõi thuần tịnh,
Công
đức lạ trang nghiêm.
Nơi
tất cả quần sanh,
Vượt
lên ngôi Bất thối.
Mười
phương hằng sa Phật.
Đều
ngợi khen Vô Lượng.
Cho
nên hôm nay con,
Nguyện
sanh về An Dưỡng.
Nam mô Liên trì hải hội Phật Bồ Tát. (3 lần)
PHẬT THUYẾT A-DI-ÐÀ KINH
NHƠN HẠNH VÃNG SANH
Xá-Lợi-Phất! Bất khả dĩ thiểu thiện-căn phước-đức
nhơn-duyên, đắc sanh bỉ quốc.
Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu thiện-nam tử, thiện-nữ nhơn, văn thuyết
A-Di-Ðà Phật, chấp trì danh-hiệu, nhược nhứt nhựt, nhược nhị nhựt, nhược tam
nhựt, nhược tứ nhựt, nhược ngũ nhựt, nhược lục nhựt, nhược thất nhựt, nhứt tâm
bất loạn.
Kỳ nhơn lâm mạng
chung thời, A-Di-Ðà Phật dữ chư Thánh chúng, hiện tại kỳ tiền, thị nhơn chung thời, tâm bất
điên-đảo, tức đắc vãng sanh
A-Di-Ðà Phật Cực-lạc quốc-độ.
Xá-Lợi-Phất! Ngã kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn,
nhược hữu chúng-sanh văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc
độ.
(Tiếp tụng)
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN
NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA.
NAM MÔ A RỊ DA. A MI TÁ BÀ DA. TÁT THA GA TÁ
DA. A RA HA TI. SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA. TÁT DA THA.
UM ! A MI RỊ TI. A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ.
A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ GA BÊ. A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ. A
MI RỊ TÁ SI TÊ. A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.
A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ
GA MI NỊ. A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI. A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA
PHẠ LI. SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI. SẠT VA MA CA LI. SA KHẤT SÁ
DU CA LI. SÓA HA.
UM! BÚT RUM! HÙM!
(7 hoặc 108 lần)
Khể thủ tây phương
An-Lạc quốc
Tiếp dẫn chúng-sanh đại
đạo sư
Ngã kim phát nguyện
nguyện vãng sanh
Duy nguyện từ-bi ai
nhiếp thọ
Ngã kim phổ vị tứ ân tam
hữu, cập pháp-giới chúng-sanh cầu ư chư Phật, nhứt thừa vô-thượng bồ-đề đạo-cố,
chuyên tâm trì niệm A-Di-Đà-Phật vạn đức hồng danh kỳ sanh tịnh-độ. Duy nguyện
Từ-Phụ A-Di-Đà Phật ai lân nhiếp thọ từ-bi gia hộ.
NAM-MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI ĐẠI TỪ ĐẠI BI
TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A-DI-ĐÀ PHẬT.
(Kế tiếp
niệm)
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
(Đứng lên đi nhiễu quanh bàn Phật,
vừa niệm hồng danh : đi ba vòng hoặc nhiều vòng rồi trở lại ngồi. Nên
niệm ra tiếng nho nhỏ theo pháp : “THẬP-NIỆM KÝ-SỐ” lấy 10 câu làm 1 đơn vị,
hoặc chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu : cứ hết 10 câu lần qua hột chuỗi.
Khi niệm đủ số hạn
định, quỳ trước bàn Phật, xưng danh hiệu TỨ THÁNH và đọc bài văn phát
nguyện hồi hướng).
III. PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
Nam mô A Di Đà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Quán Thế Âm
Bồ tát (10 lần)
Nam mô Đại Thế Chí
Bồ tát (10 lần)
Nam mô Thanh tịnh đại
hải chúng Bồ tát (10 lần)
NGUYỆN
A-Di-Ðà Phật, thường lai hộ trì, linh ngã thiện căn,
hiện tiền tăng tấn, bất thất tịnh nhơn, lâm mạng chung thời, thân tâm chánh
niệm, thị thính phân minh, diện phụng Di-Ðà, dữ chư thánh-chúng, thủ
chấp hoa đài, tiếp dẫn ư ngã.
Nhứt sát na khoảng, sanh tại Phật tiền, cụ Bồ-Tát đạo,
quảng độ chúng sanh đồng thành chủng-trí.
Chí tâm đảnh lễ : Nam-Mô A-Di-Ðà Phật Thế-Tôn.
Nguyện ngã Tội chưóng
tất tiêu diệt (1 lạy)
Nguyện ngã Thiện căn
nhựt tăng trưởng (1 lạy)
Nguyện ngã Thân tâm hàm
thanh-tịnh (1 lạy)
Nguyện ngã Nhứt tâm tảo
thành tựu (1 lạy)
Nguyện ngã Tam muội đắc
hiện tiền (1 lạy)
Nguyện ngã Tịnh nhơn tốc
viên mãn (1 lạy)
Nguyện ngã Liên đài dự
tiêu danh (1 lạy)
Nguyện ngã Kiến Phật ma
đảnh ký (1 lạy)
Nguyện ngã Dự tri mạng
chung thời (1 lạy)
Nguyện ngã Vãng sanh Cực
Lạc Quốc (1 lạy)
Nguyện ngã Viên mãn Bồ
tát đạo (1 lạy)
Nguyện ngã Quảng độ chư
chúng-sanh (1 lạy)
Chí tâm qui mạng đảnh lễ Nam mô Tây phương cực lạc
thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ
thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A-Di-Ðà Như-Lai biến
pháp giới Tam bảo (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại
đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh
tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại
chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
CHUNG
PHẬT THUYẾT A-DI-ÐÀ KINH
NHƠN HẠNH VÃNG SANH
Xá-Lợi-Phất! Bất khả dĩ thiểu thiện-căn phước-đức
nhơn-duyên, đắc sanh bỉ quốc.
Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu thiện-nam tử, thiện-nữ nhơn, văn thuyết
A-Di-Ðà Phật, chấp trì danh-hiệu, nhược nhứt nhựt, nhược nhị nhựt, nhược tam
nhựt, nhược tứ nhựt, nhược ngũ nhựt, nhược lục nhựt, nhược thất nhựt, nhứt tâm
bất loạn.
Kỳ nhơn lâm mạng
chung thời, A-Di-Ðà Phật dữ chư Thánh chúng, hiện tại kỳ tiền, thị nhơn chung thời, tâm bất
điên-đảo, tức đắc vãng sanh
A-Di-Ðà Phật Cực-lạc quốc-độ.
Xá-Lợi-Phất! Ngã kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn,
nhược hữu chúng-sanh văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc
độ.
( Xá- Lợi-
Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về
cõi đó.
Xá- Lợi- Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào
nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của Đức Phật đó, hoặc trong
một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu
ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tạp loạn.
Thời người đó đến lúc lâm chung Đức Phật A Di Đà cùng
hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của Đức
Phật A Di Đà.
Xá- Lợi- Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những
lời như thế. Nếu có chúng sanh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát
nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc. )
Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, Đại từ đại bi,
Tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.
(Kế tiếp
niệm)
Nam Mô A Di Đà Phật
(Tùy ý, hoặc 1 ngàn câu trở lên)
Chuyên tụng Vô Lượng Thọ Như Lai Đà Ra Ni cũng
được vãng sanh, nhưng vì câu chân ngôn dài khó nhiếp tâm hơn sáu chữ hồng danh,
nên sau khi trì chú lại tiếp niệm Phật.
Về
cách trì niệm, bút giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả,
khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai
đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – Ký số niệm:
Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người
hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu.
Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10
câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là ký số.
2 – Chứng số
niệm: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm
đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là chứng số. Lúc
này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 –Chỉ quán niệm: Lúc
mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là
Chỉ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha
thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý
tưởng đến Phật đó, gọi là Quán. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn
dùng phép Chỉ, hôn trầm dùng phép Quán.
4 – Tịch tĩnh
niệm: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền
một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo
lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng
sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn
nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là Tịch tĩnh
niệm.
Pháp
thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, bút
giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình.
Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
KINH NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT
PHẨM THỨ BẢY
KHUYẾN PHÁT NIỆM PHẬT và
ĐỌC TỤNG CHƠN NGÔN
NIỆM PHẬT VỚI “TỊNH-MẬT” VIÊN THÔNG
Lúc bấy giờ, ngài Phổ-Hiền Đại Bồ-Tát bạch
Phật rằng:
- Thưa Thế-Tôn, con nay vì thương tưởng chúng
sanh nơi thời Mạt pháp, khi ấy kiếp giảm, thọ mạng ngắn, phước
đức kém thiếu, loạn trược tăng nhiều, kẻ chân thật tu
hành rất ít. Con sẽ ban cho người niệm Phật thần
chú Đà-ra-ni nầy, để thủ hộ thân tâm, nhổ tận gốc rễ nghiệp
chướng trừ sạch phiền não, được mau chóng sanh về Cực-Lạc. Gọi là
Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắc Sanh Tịnh
Độ Đà-ra-ni. Liền nói thần chú:
BẠT NHỨT-THIẾT NGHIỆP-CHƯỚNG CĂN BỔN
ĐẮC SANH TỊNH-ĐỘ ĐÀ-RA-NI
NAM-MÔ A DI ĐA BÀ DẠ, ĐA THA DÀ ĐA
DẠ, ĐA ĐIỆT DẠ THA.
A DI RỊ ĐÔ BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TẤT ĐAM BÀ
TỲ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐẾ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐA, DÀ DI
NỊ DÀ DÀ NA, CHỈ ĐA CA LỆ TA BÀ HA.
Người niệm Phật phải giữ giới, ăn
chay, thân khẩu ý đều phải thanh khiết. Ngày đêm sáu thời, mỗi
thời tụng hai mươi mốt biến. Như vậy, diệt được các tội: Tứ trọng, ngũ
nghịch, thập ác, và hủy báng Chánh pháp. Thường được đức
Phật A-Di-Đà hiện trên đỉnh đầu. Hiện đời an ổn, phước lạc. Hơi
thở cuối cùng, được tùy nguyện mà vãng sanh Cực-Lạc. Hoặc tụng
đến ba chục muôn biến, liền thấy Phật ngay trước mặt mình.
Bấy giờ, ngài Quán-Thế-Âm Đại Bồ-Tát bước
ra trước Phật, bạch rằng:
- Nay con nương uy thần của đức A-Di-Đà,
mà ban cho chúng sanh quyết chí niệm Phật thời Mạt
pháp, một chân ngôn gọi là: Vô Lượng Thọ Như-Lai Chân
Ngôn. Đây là tạng pháp bí mật của Phật A-Di-Đà, ẩn chứa vô
biên thần lực tự tại bất tư nghị. Nếu hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,
hoặc Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di lỡ phạm giới căn bản, tụng xong bảy biến
liền trở lại được giới phẩm thanh tịnh. Tụng hai mươi mốt
biến, tiêu diệt các tội: Tứ trọng, ngũ nghịch, thập
ác và tất cả chướng ngại trên bước tu hành đều trừ
sạch. Hiện đời an lạc, thuận lợi, được sự nhiếp
thọ của vô lượng Như-Lai. Tụng một muôn biến, tâm
Bồ-đề hiển hiện nơi thân không quên mất. Thấy đức
Phật phóng quang tụ trên đỉnh đầu. Người niệm Phật lần
lần thể nhập tịnh tâm tròn sáng mát mẻ, tiêu
tan tất cả phiền não. Khi lâm chung, hành giả niệm Phật liền
thấy Phật A-Di-Đà cùng vô lượng muôn ức Bồ-Tát vây quanh, an
ủi, tiếp dẫn. Người niệm Phật tức khắc được sanh về Thượng
phẩm ở Cực-Lạc.
- Sau đây, con xin tuyên đọc Vô-Lượng-Thọ
Như-Lai chân ngôn:
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHƠN-NGÔN
NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ
DA.
NAM MÔ A RỊ DA. A
MI TÁ BÀ DA. TÁT THA GA TÁ DA. A RA HA TI. SAM DẮT SAM BUÝT
ĐÀ DA. TÁT DA THA.
UM ! A MI RỊ
TI. A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ GA
BÊ. A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ. A MI RỊ TÁ SI TÊ. A MI RỊ TÁ VI CA
LĂN TÊ.
A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ
GA MI NỊ. A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI. A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA
PHẠ LI. SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI. SẠT VA MA CA LI. SA KHẤT SÁ
DU CA LI. SÓA HA.
Ngài Quán-Thế-Âm vừa đọc xong bài chân
ngôn ấy, bỗng vô lượng vô biên vô số thế
giới đều chấn động sáu cách, quang minh chiếu rực
cả mười phương. Đức Thích-Ca cùng chư Phật khắp thế giới hư
không giới, đồng thanh khen ngợi : "Lành thay ! Lành
thay !"
Lúc bấy giờ, Diệu-Nguyệt trưởng giả vui
mừng vô hạn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, vén áo phơi bày vai
hữu, đi nhiễu quanh đức Phật Thích-Ca ba vòng, rồi chấp
tay, quỳ gối, hướng lên đức Phật mà đọc kệ khen ngợi :
Đức Phật Thế-Tôn, Chánh Biến Tri
Tướng hảo đoan nghiêm đều viên mãn,
Rủ lòng đại từ bi vô hạn,
Mở bày đại pháp cứu quần mê.
Niệm Phật hiện tiền đắc Phật tướng,
Thâm nhập cảnh giới bất tư nghị.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Quyết định một lòng xưng niệm Phật,
Hồng danh chứa nhóm vô lượng nghĩa,
Lợi lạc muôn ức chúng hữu tình.
Đức Phật Thế-Tôn, đấng Vô-thượng
Tri kiến, giác ngộ đều quang minh,
Rắc rải tuệ nhật khắp mười phương,
Rưới trận mưa pháp như Cam lộ.
Niệm Phật vãng sanh cõi Cực-Lạc,
An nhiên chứng đắc Vô-Sanh-Nhẫn.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Gìn giữ thân tâm bằng Phật hiệu,
Hồng danh tỏ ngộ Chân Như Tánh,
Dẫn dắt chúng sanh vào Tam-muội.
Đức Phật Như-Lai đấng Bất-động
Chẳng đến, chẳng đi, chẳng đoạn thường,
Xa lìa chấp hữu hoặc chấp vô,
Tự tại chỉ bày phương tiện lực.
Niệm Phật an trụ nơi bản giác,
Tùy nghi hòa hợp với tánh Không.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Trang nghiêm tự thân bằng niệm Phật,
Hồng danh hiển phát Hư-Không-Tạng,
Tức thời thẳng vào Viên-giác-tánh.
Con nay xưng tán Đại Đạo-Sư,
Khen ngợi hồng danh vô lượng lực.
Nguyện đem hồi hướng khắp chúng sanh,
Mong cầu hết thảy cùng niệm Phật.
Lúc bấy giờ, trưởng-giả Diệu-Nguyệt ở trước đức Thế-Tôn,
đọc bài kệ khen ngợi Phật rồi, thành khẩn thưa hỏi như thế
nầy:
Kính bạch đức Thế-Tôn Toàn-giác, Toàn-trí, kinh này tên
gọi là gì ? Chúng con phải thọ trì như thế nào ?
Phật bảo ông Diệu-Nguyệt trưởng giả rằng:
Kinh này gọi là NIỆM PHẬT BA LA MẬT, còn
gọi là XƯNG TÁN HỒNG DANH CÔNG ĐỨC KINH cũng có tên
là NIỆM PHẬT BÁT NHÃ TAM MUỘI KINH.
CÁC NGƯƠI Y
THEO ĐÓ MÀ THỌ TRÌ.
PHẦN CHÁNH-TÔNG
CHUNG
Khi tụng VÔ LƯỢNG
THỌ NHƯ LAI CHƠN-NGÔN này, kiết ấn Vô Lượng liên hoa. Hai xoa bên ngoài
hữu áp tả. Dựng hai ngón giữa đầu dụm cong lại như cánh sen. Có thể
kiết ấn này tụng chân ngôn ba lần, xả ấn lên đảnh, rồi lần chuỗi ký số. Đà
ra ni này, tụng một biến, diệt các tội Tứ trọng, Ngũ nghịch, Thập ác trong tự
thân, tất cả tội chướng đều tiêu diệt.
Nếu hàng xuất gia tăng ni, hoặc tại gia thiện tín, phạm
giới căn bản, tụng xong bảy biến trở lại được giới phẩm thanh tịnh. Khi kiết ấn
tụng chơn ngôn nầy, liền cảnh giác đức Vô Lượng Thọ Như Lai phóng quang trụ nơi
đảnh của hành-giả, và được sự nhiếp thọ. Tụng đến một vạn biến, Tâm bồ đề hiển
hiện trong thân không quên mất.
Người trì niệm lần lần thể nhập vào tịnh tâm tròn sáng
mát mẻ trong sạch như trăng thu, tiêu tan tất cả phiền não. Khi lâm chung, hành
giả thấy Phật A Di Đà cùng với vô lượng trăm ức chúng Bồ Tát vây quanh
đến an ủi tiếp dẫn. Đương nhơn liền sanh về phẩm Thượng thượng ở Cực Lạc.
Câu: “UM! BÚT RUM! HÙM!” là chân ngôn “Nhứt
Tự chuyển luân”, như bánh xe nâng đỡ, khi phối hợp vào, có công năng làm
cho các chơn ngôn khác mau kiến hiệu và thành tựu. Trên đây là pháp thức
Tịnh độ của Mật giáo. Các vị tu Mật tông muốn sanh về Cực Lạc, chỉ chuyên tụng
chú nầy.
Tệ nhơn vì xét thấy nhiều liên hữu khi tu bị phiền não
và ma nạn khuấy rối, nên phối hợp dụng chân ngôn nầy đi tiên phong dẹp chướng
ngại, khiến cho thân tâm dễ được thanh tịnh trước khi niệm Phật. Tuy nhiên
chúng sanh túc tập và sở báo đều khác.
Vị nào thích tụng chú Đại Bi hoặc Chuẩn
Đề, thì chỉ cần đổi bài kệ tán Đại Bi, Chuẩn Đề. Và sau khi tụng chú
hộ thân, Lục tự đại minh, tiếp tụng môn đà ra ni của mình. Và hành giả nào
thích tụng kinh Kinh Cang hoặc Pháp Hoa, chỉ đổi
đoạn trì chú thành tụng kinh, rồi tiếp tục niệm Phật.
Chân ngôn Vô Lượng Thọ thuộc về Bất tư nghì thần
lực, câu niệm Phật thuộc về Bất tư nghì công đức. Cả hai, bên
Mật bên Hiển, cùng một nguồn gốc, đều có năng lực đưa hành giả về Tịnh độ. Nếu
phối hợp lại, tất công năng vãng sanh càng thêm kiến hiệu.
Tụng chân ngôn xong, tiếp chắp tay đọc bài kệ khen tướng
hảo đức A Di Đà và tiếp qua niệm Phật.)
THÍCH THIỀN-TÂM
cẩn chí
( Lại CHUYÊN
NIỆM “ Nam Mô A Di Đà Phật”. Nghĩa là ngoài thời khóa kể trên, trong
một ngày đêm, khi nào có thể liền nhiếp THÂN TÂM vào danh hiệu “NAM MÔ A-DI-ĐÀ
PHẬT”, lâu ngày sẽ được NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT, mới biết diệu dụng của câu niệm
phật “BẤT KHẢ TƯ NGHỊ”, không thể dùng văn tự ngôn ngữ SUY NGHĨ mà bàn luận
biết được. Cho nên, qúi vị phải hành trì cho thiết thật.
Niệm Phật Phải Hành Trì Cho Thiết Thật
Lặng
ngồi chốn tĩnh lâu
Trăng
sáng, gió canh thâu!
Bát-Nhã
hương lòng nhẹ.
Lăng-Già
niệm ý sâu
Phật,
Tâm chung một vẻ.
Thiền,
Tịnh chẳng hai mầu
Ngưng
chuỗi, thầm riêng hỏi
Hoa đêm
điểm điểm đầu...
Tuy nhiên, nếu qúi vị
thích chuyên trì “CHÚ ĐỊA-BI”, chuyên trì “ 1 THỦ-NHÃN”, chuyên “
THAM-THIỀN”, chuyên “TỤNG KINH”… thì cũng phải hành như “CHUYÊN” NIỆM PHẬT
vậy).
PHẬT THUYẾT KINH A DI ĐÀ
Hòa Thượng Thích
Trí-Tịnh Việt dịch
Comments
Post a Comment