PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ

MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA

THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ



TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN

 

ÁN LAM (7 lần)


 

 TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN

 

TU RỊ TU RỊ MA HA TU RỊ TU TU RỊ TA-BÀ-HA (3 lần)

 

 

 TỊNH BA NGHIỆP CHƠN NGÔN

 

ÁN TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐÀ TA PHẠ,

ĐẠT MẠ TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐỘ HÁM (3 lần)

 

 

 PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN

ÁN NGA NGA NẴNG TAM BÀ PHẠ PHIỆT NHỰT RA HỒNG (3 lần)



 NAM-MÔ THẬP PHƯƠNG THƯỜNG TRỤ TAM-BẢO (3 lần)


      

Cúi lạy đấng tam giới Tôn

Quy mạng mười phương Phật

Con nay phát nguyện rộng

Thọ trì  THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ

Trên đền bốn ơn nặng

Dưới cứu khổ tam đồ

Nếu có ai thấy nghe

Ðều phát Bồ-Đề TÂM

Khi mãn báo-thân này

Sanh qua cõi Cực-Lạc. 

  


NAM-MÔ LĂNG-NGHIÊM HỘI-THƯỢNG PHẬT BỒ-TÁT. 

(3 lần)

 

 

Diệu trạm tổng trì bất động tôn, Thủ-Lăng-Nghiêm-Vương thế hi hữu, tiêu ngã ức kiếp điên-đảo tưởng.

 

Bất lịch tăng-kỳ hoạch pháp thân, nguyện kim đắc quả thành bảo-vương, hườn độ như thị hằng sa chúng, tương thử thâm tâm phụng trần sát, thị tắc danh vị báo Phật ân: phục thỉnh Thế-Tôn vị chứng-minh, ngũ-trược ác-thế thệ tiên nhập, như nhứt chúng-sanh vị thành Phật, chung bất ư thử thủ nê-hoàn. Ðại-hùng đại-lực đại-từ-bi, hi cánh thẩm trừ vi-tế hoặc, linh ngã tảo đăng vô-thượng giác, ư thập phương giới tọa đạo tràng; thuấn nhã đa tánh khả tiêu vong, thước-ca-ra tâm vô động chuyển.

 

Nam-mô thường-trụ thập-phương Phật.

 

Nam-mô thường-trụ thập-phương Pháp.

 

Nam-mô thường-trụ thập-phương Tăng.

 

Nam-mô Thích-Ca Mâu-Ni Phật.

 

Nam-mô Phật-đảnh Thủ-Lăng-Nghiêm.

 

Nam-mô Quán-Thế-Âm Bồ-tát.

 

Nam-mô Kim-Cang-Tạng Bồ-tát.

 

Nhĩ thời Thế-Tôn, tùng nhục-kế trung, dõng bá bảo-quang, quang trung dõng xuất, thiên diệp bảo liên, hữu hóa Như-Lai, tọa bảo hoa trung, đảnh phóng thập đạo, bá bảo quang-minh, nhứt nhứt quang-minh, giai biến thị hiện, thập hằng hà sa, Kim-Cang mật tích, kình sơn trì sử, biến hư-không giới, đại chúng ngưỡng quan, úy ái kiêm bảo, cầu Phật ai hựu, nhứt tâm thính Phật, vô-kiến đảnh tướng, phóng quang Như-Lai, tuyên thuyết thần chú:



PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ

MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA

THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ

 

 

ÐỆ NHỨT

 

Nam-mô tát đát tha tô già đa da a ra ha đế tam-miệu tam-bồ-đà-tỏa.Tát đát tha Phật đà cu-tri sắc ni sam.

 

Nam-mô tát bà bột đà bột địa, tát đa bệ tệ.

 

Nam-mô tát đa nẩm tam-miệu tam-bồ-đà cu-tri nẩm. Ta xá ra bà ca tăng-già nẩm.

 

Nam-mô lô kê a-la-hán đa nẩm.

 

Nam-mô tô lô đa ba na nẩm.

 

Nam-mô ta yết rị đà già di nẩm.

 

Nam-mô lô kê tam-miệu già đa nẩm. Tam miệu già ba ra để ba đa na nẩm.

 

Nam-mô đề bà ly sắt nỏa.

 

Nam-mô tất đà da tỳ địa da đà ra ly sắt nỏa. Xá ba noa yết ra ha ta ha ta ra ma tha nẩm.

 

Nam-mô bạt ra ha ma ni.

 

Nam-mô nhơn đà ra da.

 

Nam-mô bà già bà đế, lô đà ra da. Ô ma bát đế, ta hê dạ da.

 

Nam-mô bà già bà đế. Na ra dả noa da. Bàn-giá ma-ha tam mộ đà ra.

 

Nam-mô tất yết rị đa da.

 

Nam-mô bà già bà đế, ma ha ca ra da. Ðịa rị bác lặc na già ra. Tỳ đà ra ba noa ca ra da. A địa mục đế. Thi ma xá na nê bà tất nê. Ma đát rị già noa.

 

Nam-mô tất yết rị đa da.

 

Nam-mô bà già bà đế. Ða tha già đa cu ra da.

 

Nam-mô bát đầu ma cu na da.

 

Nam-mô bạt xà ra cu ra da.

 

Nam-mô ma ni cu ra da.

 

Nam-mô già xà cu ra gia.


 

Nam-mô bà già bà đế, đế rị trà du ra tây na, ba ra ha ra noa ra xà dà, đa tha già đa da.

 

Nam-mô bà già bà đế.

 

Nam-mô a di đa bà da, đa tha dà đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.

 

Nam-mô bà già bà đế, a sô bệ da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.

 

Nam-mô bà già bà đế, bệ sa xà da cu lô phệ trụ rị da, bát ra bà ra xà da, đa tha già đa da.

 

Nam-mô bà già bà đế, tam bổ sư bí đa, tát lân nại ra lặc xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.

 

Nam-mô bà già bà đế, xá kê dã mẫu na duệ, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.

 

Nam-mô bà già bà đế, lặc đác na kê đô ra xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da, đế biều nam-mô tát yết rị đa, ế đàm bà giá bà đa, tát đác tha già đô sắc ni sam, tát đác đa bác đác lam.

 

Nam-mô a bà ra thị đam, bác ra đế dương kỳ ra, tát ra bà bộ đa yết ra ha, ni yết ra ha yết ca ra ha ni, bạc ra bí địa da sất đà nể, a ca ra mật rị trụ, bát rị đát ra da nảnh yết rị, tát ra bà bàn đà na mục xoa ni, tát ra bà đột sắc tra đột tất phạp bát na nể phạt ra ni, giả đô ra thất đế nẫm, yết ra ha ta ha tát ra nhã xà, tỳ đa băng ta na yết rị, a sắc tra băng xá đế nẫm, na xoa sát đác ra nhã xà, ba ra tát đà na yết rị, a sắc tra nẫm, ma ha yết ra ha nhã xà, tỳ đa băng tát na yết rị, tát bà xá đô lô nể bà ra nhã xà, hô lam đột tất phạp nan giá na xá ni, bí sa xá tất đác ra, a kiết ni ô đà ca ra nhã xà, a bát ra thị đa cu ra ma ha bác ra thiện trì, ma ha điệp đa, ma ha đế xà, ma ha thuế đa xà bà ra, ma ha bạt ra bàn đà ra bà tất nể, a rị da đa ra, tỳ rị cu tri, thệ bà tỳ xà da, bạc xà ra ma lễ để, tỳ xá lô đa, bột đằng dõng ca, bạt xà ra chế hắt na a giá, ma ra chế bà bác ra chất đa, bạc xà ra thiện trì, tỳ xá ra giá, phiến đa xá bệ đề bà bổ thị đa, tô ma lô ba, ma ha thuế đa, a rị da đa ra, ma ha bà ra, a bác ra, bạt xà ra thương yết ra chế bà, bạt xà ra cu ma rị, cu lam đà rị, bạt xà ra hắc tát đa giá tỳ địa gia kiền giá na ma rị ca, khuất tô mẫu bà yết ra đá na, bệ lô giá na cu rị da, dạ ra thố sắc ni sam, tỳ chiết lam bà ma ni giá, bạt xà ra ca na ca ba ra bà, lô xà na bạt xà ra đốn trỉ giá, thuế đa giá ca ma ra sát xa thi ba ra bà, ế đế di đế, mẫu đà ra yết noa, ta bệ ra sám, quật phạm đô, ấn thố na mạ mạ tỏa.

 


ÐỆ NHỊ

 

Ô hồng, rị sắt yết noa, bác lặc xá tất đa, tát đát tha già đô sắc ni sam. Hổ hồng, đô lô ung chiêm bà na. Hổ hồng, đô lô ung tất đam bà na. Hổ hồng, đô lô ung ba ra sắc địa da tam bác xá noa yết ra. Hổ hồng, đô lô ung, tát bà dược xoa hắt ra sát ta, yết ra ha nhã xà, tỳ đằng băng tát na yết ra. Hổ hồng, đô lô ung, giả đô ra thi để nẫm, yết ra ha, ta ha tát ra nẫm, tỳ đằng băng tát na ra. Hổ hồng, đô lô ung, ra xoa, bà già phạm tát đát tha già đô sắc ni sam, ba ra điểm xà kiết rị, ma ha ta ha tát ra, bột thọ ta ha tát ra thất rị sa, cu tri ta ha tát nê đế lệ, a tệ đề thị bà rị đa, tra tra anh ca ma ha bạt xà lô đà ra, đế rị bồ bà na, man trà na, ô hồng, ta tất đế bạc bà đô, mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.

 

 

ÐỆ TAM

 

Ra xà bà dạ, chủ ra bạt dạ, a kỳ ni bà dạ, ô đà ca bà dạ, tỳ xa bà dạ, xá tát đa ra bà dạ, bà ra chước yết ra bà dạ, đột sắc xoa bà dạ, a xá nể bà dạ, a ca ra mật rị trụ bà dạ, đà ra ni bộ di kiếm ba già ba đà bà dạ, ô ra ca bà đa bà dạ, lặc xà đàng trà bà dạ, na già bà dạ, tỳ điều đát bà dạ, tô ba ra noa bà dạ, dược xoa yết ra ha, ra xoa tư yết ra ha, tất rị đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, cưu-bàn trà yết ra ha, bổ đơn na yết ra ha, ca tra bổ đơn na yết ra ha, tất kiền độ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, ô đàn ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra ha, hê rị bà đế yết ra ha, xã đa ha rị nẩm, yết bà ha rị nẩm, lô địa ra ha rị nẩm, mang ta ha rị nẩm, mê đà ha rị nẩm, ma xà ha rị nẩm, xà đa ha rị nữ, thị tỷ đa ha rị nẩm, tỳ đa ha rị nẩm, bà đa ha rị nẩm, a du giá ha rị nữ, chất đa ha rị nữ, đế sam tát bệ sam, tát bà yết ra ha nẩm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ba rị bạt ra giả ca hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, trà diễn ni hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma ha bát du bác đát dạ, lô đà ra hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, na ra dạ noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, đát đỏa già lô trà tây hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma-ha ca ra ma đát rị già noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ca ba rị ca hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, xà dạ yết ra, ma độ yết ra tát bà ra tha ta đạt na hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, giả đốt ra bà kỳ nể hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ rị dương hất rị tri, nan đà kê sa ra dà noa bác đế, sách hê dạ hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, na yết na xa ra bà noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, a-la-hán hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ đa ra già hất rị đởm, tỷ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, bạt xà ra ba nể, cu hê dạ, cu hê dạ, ca địa bát đế hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ra thoa vỏng, bà dà phạm, ấn thố na mạ mạ tỏa.

 

 

ÐỆ TỨ

 

Bà già phạm, tát đát đa bác đá ra, Nam-mô tý đô đế, a tất đa na ra lặc ca, ba ra bà tất phổ tra, tỳ ca tát đát đa bát đế rị, thập Phật ra thập Phật ra, đà ra đà ra, tần đà ra tần đà ra, sân đà sân đà. Hổ hồng. Hổ hồng, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, ta ha, hê hê phấn, a mâu ca da phấn, a ba ra đề ha đa phấn, ba ra bà ra đà phấn, a tố ra tỳ đà ra ba ca phấn, tát bà đề bệ tệ phấn, tát bà na già tệ phấn, tát bà dược xoa tệ phấn, tát bà kiền thát bà tệ phấn, tát bà bổ đơn na tệ phấn, ca tra bổ đơn na tệ phấn, tát bà đột lang chỉ đế tệ phấn, tát bà đột sáp tỷ lê hất sắc đế tệ phấn, tát bà thập bà lê tệ phấn, tát bà a bá tất ma lê tệ phấn, tát bà xá ra bà noa tệ phấn, tát bà địa đế kê tệ phấn, tát bà đát ma đà kê tệ phấn, tát bà tỳ đà da ra thệ giá lê tệ phấn, xà dạ yết ra ma độ yết ra, tát bà ra tha ta đà kê tệ phấn; tỳ địa dạ giá lê tệ phấn, giả đô ra phược kỳ nể tệ phấn, bạt xà ra cu ma rị, tỳ đà dạ ra thệ tệ phấn, ma ha ba ra đinh dương xoa tỳ rị tệ phấn, bạt ra xa thương yết ra dạ, ba ra trượng kỳ ra xà da phấn, ma ha ca ra dạ, ma ha mạt đát rị ca noa.

 

Nam-mô ta yết rị đa dạ phấn, tỷ sắc noa tỳ duệ phấn, bột ra ha mâu ni duệ phấn, a kỳ ni duệ phấn, ma ha yết rị duệ phấn, yết ra đàn trì duệ phấn, miệc đát rị duệ phấn, lao đát rị duệ phấn, giá văn trà duệ phấn, yết la ra đát rị duệ phấn, ca bác rị duệ phấn, a địa mục chất đa ca thi ma xá na, bà tư nể duệ phấn, diễn kiết chất, tát đỏa bà tỏa, mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.

 

  

ÐỆ NGŨ

 

Ðột sắc tra chất đa, a mạt đát rị chất đa, ô xà ha ra, già bà ha ra, lô địa ra ha ra, ta bà ha ra, ma xà ha ra, xà đa ha ra, thị tỷ đa ha ra, bạc lược dạ ha ra, kiền đà ha ra, bố sử ba ha ra, phả ra ha ra, bà tỏa ha ra, bác ba chất đa, đột sắc tra chất đa, lao đà ra chất đa, dược xoa yết ra ha, ra sát ta yết ra ha, bế lệ đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, cưu bàn trà yết ra ha, tất kiền đà yết ra ha, ô đát ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, trạch khê cách trà kỳ ni yết ra ha, rị Phật đế yết ra ha, xà di ca yết ra ha, xá cu ni yết ra ha, lao đà ra nan địa ca yết ra ha, a lam bà yết ra ha, kiền độ ba ni yết ra ha, thập Phật ra yên ca hê ca, trụy đế dược ca, đát lệ đế dược ca, giả đột thác ca, ni đề thập phạt ra, tỷ sam ma thập phạt ra, bạc để ca, tỷ để ca, thất lệ sắt mật ca, ta nể bác đế ca, tát bà thập phạt ra, thất lô kiết đế, mạt đà bệ đạt lô chế kiếm, a ỷ lô kiềm, mục khê lô kiềm, yết rị đột lô kiềm, yết ra ha yết lam, yết na du lam, đản đa du lam, hất rị dạ du lam, mạt mạ du lam, bạt rị thất bà du lam, tỷ lật sắc tra du lam, ô đà ra du lam, yết tri du lam, bạt tất đế du lam, ô lô du lam, thường già du lam, hắc tất đa du lam, bạt đà du lam, ta phòng án già bác ra trượng già du lam, bộ đa tỷ đa trà, trà kỳ ni thập bà ra, đà đột lô ca kiến đốt lô kiết tri, bà lộ đa tỳ, tát bác lô, ha lăng già, du sa đát ra, ta na yết ra, tỳ sa dụ ca, a kỳ ni ô đà ca, mạt ra bệ ra, kiến đa ra, a ca ra mật rị đốt đát liểm bộ ca, địa lật lặc tra, tỷ rị sắc chất ca, tát bà na cu ra, tứ dẫn già tệ yết ra, rị dược xoa, đác ra sô, mạt ra thị phệ đế sam, ta bệ sam, tất đát đa bác đát ra, ma ha bạc xà lô sắc ni sam, ma ha bác lặc trượng kỳ lam, dạ ba đột đà xá dụ xà na, biện đát lệ noa, tỳ đà da bàn đàm ca lô di, đế thù bàn đàm ca lô di, bát ra tỳ đà, bàn đàm ca lô di, đác điệc tha.

 

Án, a na lệ, tỳ xá đề, bệ ra bạt xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bán ni phấn. Hổ hồng, đô lô ung phấn, ta bà ha.

 

 


                                                        (Tụng 3 lần)





NGŨ ĐẠI TÂM CHÚ

 

MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA  ĐÀ RA NI CHÚ

 

 

Sất đà nể, A ca ra, Mật rị trụ, Bát rị đát ra da, Nảnh yết rị.

 

Đác điệc tha. Án, a na lệ, tỳ xá đề, bệ ra bạt xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bán ni phấn. Hổ hồng, đô lô ung phấn, ta bà ha.

 

 

UM! BÚT RUM!  HÙM!

 

 

 

(Tụng 108 lần)

 

 

 


KINH THỦ LĂNG NGHIÊM


Ðại Thế Chí Bồ-tát

Niệm Phật Viên Thông

 

 

VIÊN-THÔNG VỀ KIẾN-ĐẠI

 

Ngài Đại-thế-chí Pháp-vương-tử cùng với năm mươi hai vị Bồ-tát đồng-tu một pháp-môn, liền từ chổ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi nhớ hằng-sa kiếp trước, có đức Phật ra đời, tên là Vô-lượng-quang; lúc ấy mười hai đức Như-lai kế nhau thành Phật trong một kiếp đức Phật sau hết, hiệu là Siêu-nhật-nguyệt-quang, dạy cho tôi phép Niệm-Phật-tam-muội.

Ví-như có người, một đằng chuyên nhớ, một đằng chuyên quên, thì hai người ấy, dầu gặp cũng không là gặp, dầu thấy cũng là không thấy; nếu cả hai người đều nhớ nhau, hai bên nhớ mãi, khắc sâu vào tâm-niệm, thì đồng như hình với bóng, cho đến từ đời nầy sang đời khác, không bao-giờ cách-xa nhau.

Thập-phương Như-lai thương-tưởng chúng-sinh như mẹ nhớ con, nếu con trốn-tránh, thì tuy nhớ, nào có ích gì; nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì đời đời mẹ con không cách-xa nhau. Nếu tâm chúng-sinh nhớ Phật, tưởng Phật, thì hiện nay hay về sau, nhất-định thấy Phật; cách Phật không xa thì không cần phương-tiện, tâm tự được khai-ngộ như người ướp-hương thì thân-thể có  mùi thơm, ấy gọi là hương-quang-trang-nghiêm.

Bản-nhân của tôi là dùng tâm niệm Phật mà vào pháp vô-sinh-nhẫn, nay ở cõi nầy tiếp-dẫn những người niệm Phật về cõi Tịnh-độ. Phật hỏi về viên-thông, tôi thu-nhiếp tất-cả sáu căn, không có lựa-chọn, tịnh-niệm kế-tiếp, được vào Tam-ma-đề, đó là thứ nhất."


Nhứt tâm đảnh lễ:  Cõi Cực Lạc Phương Tây, Đại Thế Chí Bồ Tát, 

thân trí sáng vô biên, khắp pháp giới Bồ Tát.

(3 Lạy)

 


NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT

(Tùy ý, hoặc 1 ngàn câu trở lên)

 

CHUNG


Khai Thị Về Kinh 

Và 

Chú Thủ Lăng Nghiêm


Shurangama Mantra

Original verses and commentary by
Venerable Tripitaka Master Hsuan Hua

Translated by the Buddhist Text Translation Society: 
For list of credits see Issue #131

      As to the interaction of the Three Secret Practices: the first is the syllables of the mantra.

 

I) THE PLATFORM OF SYLLABLES OF THE MANTRA:

 

When you hold the mantra, you'll naturally have a platform. EACH TIME, ONE SHOULD HOLD THE ENTIRE MANTRA ONCE, AND THEN HOLD THE HEART OF THE MANTRA ONE HUNDRED EIGHT TIMES. Perhaps you do this practice early each day. Or, you do it several times a day. In any case, you first recite the entire mantra once, then the heart of the mantra one hundred eight times. The heart of the mantra begins with "DWO JR TWO NAN"--it is the last few lines of the last section:

 

      DWO JR TWO
      NAN
      E NA LI
      PI SHE TI
      PI LA BA SHE LA
      TWO LI
      PAN TWO PAN TWO NI
      BA SHE LA BANG NI PAN
      HU SYIN DU LU YUNG PAN
      SWO PE HE

 

544. Ðát điệt tha

545. Án 

546. A na lệ

547. Tỳ xá đề

548. Bệ ra

549. Bạt xà ra

550. Ðà rị

551. Bàn đà bàn đà nể

552. Bạt xà ra bán ni phấn

553. Hổ hồng đô lô ung phấn

554. Ta bà ha.



This forms the platform of syllables of the mantra. The heart of the mantra is ineffably  wonderful. If no one in this world is able to recite the Shurangama Mantra, the hordes of demons and weird beings will appear and make trouble. But, because there are people who are able to recite the Shurangama Mantra, especially the heart of the mantra, these troublemakers will run away. Within the heart of the mantra, the two lines:

 

      E NA LI
      PI SHE TI


 546. A na lệ

547. Tỳ xá đề


are extremely wonderful. One line extends vertically, the other horizontally. The vertical one pervades the ten directions. When the two lines are recited, they cause heavenly demons and those of outside ways to have no place to run, and they become very obedient. The power of just these two lines alone is inconceivable. OR ONE CAN HOLD THE ENTIRE MANTRA ONCE IN THE MORNING OR SIMPLY HOLD THE MANTRA HEART ONE HUNDRED EIGHT TIMES. IN THIS WAY ONE CAN STILL ATTAIN IMMEASURABLE BLESSINGS.

 

      When you recite the entire Shurangama Mantra once and the heart one hundred eight times, you will be able to obtain blessings that are measureless and boundless. That's why it's said, if you are able to recite the Shurangama Mantra, then in seven lives to come you'll have a reward of massive blessings and honor. That's if you're seeking blessings. If you want to seek to transcend the world, then you will also be able to obtain your aim. If you wish to seek these blessings of humans and gods, you will be able to obtain them. If you don't wish to seek for them, then you don't have to. This is the first part of the platform which consists of the syllables of the mantra.

    

 

II) THE PLATFORM OF MENTAL CONSIDERATION:

 

When you recite the heart of the mantra, you visualize the Sanskrit syllables.





     

There are things that you don't need to understand. If you were to understand, then you would lose interest. If you don't understand, then you have a feeling there's some meaning in it, there's something you don't know yet. It's just like before we eat something, we always anticipate that it will taste good. But, after we've eaten it, we say, "Oh, it's just like that, and we lose interest. Cultivating the Way is also like this. If you do not know the meaning of the mantra--you do not know the meaning of the sy11ab1es--you always feel it's ineffably wonderful. If you recognize these words, you're apt not to pay attention to them anymore.

 

Visualizing the Sanskrit syllables is like this as well, because we do not know what they mean. It's not like with your own native language, where you know that the word "big" just means big; the word "Bodhisattva" just means Bodhisattva. Of course, those who know Sanskrit will understand what these syllables mean, but those who have not studied Sanskrit will want to contemplate them.

 

      By contemplating these Sanskrit syllables you can obtain the five eyes and the six spiritual penetrations. You are able to contemplate these Sanskrit syllables one-by-one clearly, whether your eyes are open or closed. After some time, although you don't understand, the wonder of them will manifest, and you'll open your five eyes and obtain the six spiritual penetrations. Once you do this, you will understand causes and fathom effects. This is one of the methods of cultivating your mind. When you contemplate the Sanskrit syllables, your mind will not have any false thinking. You put each syllable in your heart and then with your eyes open and with your eyes closed you will see them clearly. After doing this for some time, you will have concentration, the power of Samadhi. ONLY THEN CAN ONE ACCOMPLISH SAMADHI.

 

Text:

 

      III. THE PLATFORM OF THE MUDRAS:

 

AFTER THE CONTEMPLATION, ONE SHOULD BE CLEAR ABOUT THE MUDRAS. ACCORDING TO THE "RECITATION CEREMONIES OF THE ONE-WORD BUDDHA-SUMMIT WHEEL-KING," THE WHITE CANOPY BUDDHA-SUMMIT MUDRA IS MADE BY PLACING THE PADS OF THE THUMBS OVER THE NAILS OF THE RING FINGERS AND THEN PLACING YOUR HANDS TOGETHER WITH PALMS FACING.

 

      THE FIRST TWO FINGERS WILL BE SLIGHTLY BENT WHEN THEY COME TOGETHER: THE LITTLE FINGERS WILL COME TOGETHER VERTICALLY, AND THIS MAKES THE APPEARANCE OF THE MUDRA. MOREOVER, THE MANTRA OF THE WHITE-CANOPY-SUMMIT-WHEEL-KING MUDRA IS THE SAME AS THE FIVE-BUDDHAS-SUMMIT MUDRA, IN WHICH THE TWO PALMS ARE HOLLOW. THE VAJRA PALMS MUDRA IS LIKE FLOWER PETALS ON THE PALM. ONE NEED ONLY MAKE ANY ONE OF THESE THREE MURAS, AND IN THIS WAY ONE ACCOMPLISHES THE SHURANGAMA KING-WHITE-CANOPY BUDDHA-SUMMIT-HEART MANTRA MUDRA.

 

      UPON COMPLETING THIS MUDRA, ONE SHOULD RECITE THE MANTRA. TOGETHER THIS FORMS THE INTERACTION OF THE THREE SECRET PRACTICES. ONE WILL THEN BE ABLE TO ATTAIN THE THREE WHEELS, THE INCONCEIVABLE TRANSFORMATION OF ALL BUDDHAS. WHATEVER YOU SEEK, WHETHER WORLDLY OR TRANSCENDENTAL, WILL BE AS-YOU-WILL.

 

      The Three Mantras of the Secret Division: UPON RECITING THESE MANTRAS, A PLATFORM IS SET UP:

 

1) FIRST RECITE THE TRUE WORDS OF THE DHARMA REALM:




 

Commentary:

     

III. THE PLATFORM OF THE MUDRAS:

 

AFTER THE CONTEMPLATION, ONE SHOULD BE CLEAR ABOUT THE MUDRAS. After you know the platform of language and the platform of contemplation, you should understand the platform of the mudra. ACCORDING TO THE "RECITATION CEREMONIES OF THE ONE-WORD BUDDHA-SUMMIT WHEEL-KING," THE WHITE CANOPY BUDDHA-SUMMIT MUDRA IS MADE BY PLACING THE PADS OF THE THUMBS OVER THE NAILS OF THE RING FINGERS AND THEN PLACING YOUR HANDS TOGETHER WITH PALMS FACING. The pads of your two thumbs (above the first joint) are placed over the nails of your two ring fingers. The ring finger is also known as the "no-name finger." Then you put your hands together with palms facing, so the tips of your first, second, and little fingers touch each other. That's called "making the gesture of the mudra and reciting the mantra." What's it for? I'll te11 you something very important: it's just to make you pay attention. You're so involved in the logistics of it, you don't have any other false thoughts. There's no other meaning to it. It does not mean that once you strike this mudra, it will become efficacious. It is just to cause you not to have any other false thinking. If you do not have any false thinking, then even if you don't hold the mudra position, the Three Secret Practices will interact nonetheless. You should know the truth behind this. Why do we speak of the interaction of the Three Secret Practices--the "Platform of the Syllables of the Mantra, the Platform of the Mental Consideration, and the Platform of the Mudras"? It's all to keep you from having any other false thoughts.

 

      When you are single-minded, it is efficacious.
      When you are scattered, then you lose it.

 

If you have one intention, then there can be a response.

 

      YOUR FIRST TWO FINGERS WILL BE SLIGHTLY BENT WHEN THEY COME TOGETHER. YOUR LITTLE FINGERS WILL COME TOGETHER VERTICALLY, AND THIS MAKES THE APPEARANCE OF THE MUDRA. After you place your thumb on your ring finger, your middle finger will join the middle finger on your hand, and your index finger joins the index finger on the other hand, and they will be slightly bent. The little finger joins together with the little finger of the other hand in a straight-up-and-down, vertical, position. This is the White-Canopy Buddha-Summit Mudra. There is another mudra called the Vajra Fist Mudra, which is quite simple. This is much easier, not as difficult as the last one. You place your thumb on the base of your ring finger, and then you close your fist. That's the Vajra Fist. All these samadhis arise from the Vajra Fist, the Vajra Palm, or the Varja Tying-up Hand. You can use either the Vajra Fist, or the Vajra Palm, or the Vajra Tying-up Hand. These three are very easy. You can use the Vajra Fist, but you should not glare at the same time. You can clench your fists together, but if you glare, then you'll be taken for "Ferocious Vajra Eyes!"

     

MOREOVER, THE MANTRA OF THE WHITE-CANOPY-SUMMIT-WHEEL KING MUDRA IS THE SAME AS THE FIVE-BUDDHAS-SUMMIT MUDRA, IN WHICH THE TWO PALMS ARE HOLLOW. THE VAJRA PALMS IS LIKE FLOWER PETALS ON THE PALM. ONE NEED ONLY MAKE ANY ONE OF THESE THREE MUDRAS. Vajra Palm is made by entwining your fingers inside on your palms--spreading them out so they curl upward like the petals of a flower. By keeping your fingers intertwined and turning your palms down, you make the Vajra Typing-up Hand. These are three mudras; you can use any one you please. When you recite the mantra, contemplate the Sanskrit words and assume the posture of the mudra--then the Three Platforms are in accord.

 

      IN THIS WAY ONE ACCOMPLISHES THE SHURANGAMA KING-WHITE CANOPY-BUDDHA SUMMIT-HEART MANTRA MUDRA. UPON COMPLETING THIS MUDRA, ONE SHOULD RECITE THE MANTRA. TOGETHER THIS FORMS THE INTERACTION OF THE THREE SECRET PRACTICES. ONE WILL THEN BE ABLE TO ATTAIN THE THREE WHEELS, THE INCONCEIVABLE TRANSFORMATIONS OF ALL BUDDHAS. The Three Wheels are your body, mouth, and mind, and they take on the inconceivable transformations of the Buddhas. WHATEVER YOU SEEK, WHETHER WORLDLY OR TRANSCENDENTAL, WILL BE AS-YOU-WILL. No matter what you seek, whether it's worldly or world transcending, you will be able to obtain it. But, the best is not to seek. If you are seeking something, then you have a mind of greed. If you are greedy, you may get some apparent results, but you won't obtain limitless merit and virtue. If you do not seek, then your merit and virtue will be extremely great.

 

      THE THREE MANTRAS OF THE SECRET DIVISION: If you do not know what's just been explained, then as an alternative, you could use the Three Mantras of the Secret School. Reciting this, you will also be able to establish a platform. 1) FIRST RECITE THE TRUE WORDS OF THE DHARMA REALM: NAN. WA DZ LA TOU DU WAN. 2) NEXT. RECITE THE TRUE WORDS OF PURIFICATION: NAN. LAN SWO HE. 3) LAST, RECITE THE TRUE WORDS OF THE THREE PLATFORMS: NAN. YA HUNG. These three platforms are the Buddha Platform, the Dharma Platform, and the Sangha Platform. This mantra is recited in the "ceremony for liberating lone or homeless spirits and demons." "NAN" represents Vairochana atop the crown of the head and is the Buddha Platform. "YA" is Amitabha Buddha. "HUNG" is Akshobhya Buddha. Amitabha Buddha is the Dharma Platform, and Akshobhya is the Sangha Platform. These are the Three Platforms. Once you recite these mantras, the Three Platforms are in accord. So, another good method is to recite these three mantras prior to reciting the Shurangama Mantra. The first one is purifying the Dharma realm True Words, and it clears up the Dharma realm. It is: NAN. WA DZ LA TOU DU WAN. You recite it seven times. The second is NAN LAN SO HE. You also recite it seven times. The third is NAN YA HUNG. You also recite this one seven times. When you recite these three mantras seven times each, there will be an interaction of the Three Secret Practices.

 

Text:

      NAMO SHURANGAMA ASSEMBLY OF BUDDHAS AND BODHISATTVAS.

 

Commentary:

 

      Before you recite the Mantra, you should return your life to the Shurangama Assembly of Buddhas and Bodhisattvas by reciting this line three times.

 

-to be continued



KỆ TỤNG CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM

Shurangama Mantra Verses


Ngũ Đại Tâm Chú

Five Great Mantra Hearts


 

104. Chr two ni

105. E jye la

106. Mi li ju

107. Bwo li dan la ye

108. Ning jye li

 

Shurangama Mantra

An Explanation of this Issue's Cover Verse

Verses and Commentary by Tripitaka Master Hua

 


104. Sất đà nể

 

Mantra: 104. CHR TWO NI

 

Verse:

 

Stopping other evil mantras and magic, rending the demons'nets;

Casting out accidental death and melting disasters and obstacles;

Saving all from the karma of hate and suffering;

This pure light is even more lucky still!

 

Commentary:

 

The next five lines of Mantra belong to Five Great Mantra Hearts, the first of which is the Kuan Yin As-You-Will Heart Mantra. If you recite this line, you can succeed in stopping other evil mantras and magic, rending the demons'nets. You can counteract all the mantras and magic of  the outside ways, heavenly demons and goblins, and break through the demons' nets. 

 

This Mantra is capable of casting out accidental death and melting disasters and obstacles. Suppose you are someone who is supposed to die in an accident—a fire, a flood, or some other calamity like an auto accident, plane crash, or a train or bus wreck. If you recite this line, you won't suffer the accident. All obstacles will be dispelled. 

 

Saving all from the karma of hate and suffering; this pure light is even more lucky still! All karma of hatred and pain is eradicated. When you recite this mantra, there is a pure light making things lucky and auspicious; an auspicious cloud appears.

 


105. A ca ra

 

Mantra: 105. E JYA LA 

 

Verse: 

 

Supreme is the great compassion of the heart-seal language. 

In the Western Lotus Division is a host of spirits. 

Add to that kindness, joy, giving, and renunciation, 

And its ingenious, wonderful function rivals the work of creation. 

 

Commentary: 

 

Line 105 is the second of the Five Great Heart Mantras, the Supreme Compassion Heart-Mantra. Supreme is the great compassion of the heart-seal language. This refers to the secret Heart-Seal Dharma. 


In the Western Lotus Division is a host of spirits. The West is the Lotus Division where there are many dharma protecting good spirits. 


Add to that kindness, joy, giving, and renunciation, / and its ingenious, wonderful function rivals the work of creation. Use the four unlimited minds, perfect them, and then if you use them just right, you can rival all creation under heaven and on earth. Those who should die, don't have to die; those who should have inauspicious things happen to them will become lucky instead. This is very wonderful. The Five Great Heart Mantras are extremely important and extremely useful. In the Shurangama Mantra they are very important. 

 


106. Mật rị trụ

 

 Mantra: 106. MI LI JU 

 

Verse: 

 

Carrying mountains, brandishing pestles, pervading empty space, 

The Vajras in the East subdue the demon troops. 

Eighty-four thousand of them constantly protect, 

And cause the practitioner to enter the Great Center. 

 

Commentary: 

 

The Five Great Heart Mantras are the heart mantras of the Buddhas of the five directions. They destroy the mantras and magic of demons and those of outside ways. It doesn't matter what tricks or deviant dharmas they have, if you recite the Five Great Heart Mantras, you can break up the demons not only among people, but also the heavenly demons and those of outside ways. Recite it and they can't disturb you. All their tricks will not work. In the Shurangama Mantra, the Five Great Heart Mantras are extremely important, efficacious and inconceivable. 

 

MI LI JU means "solid vajra." It is one of the 108 Vajra Protectors in the East. This is the Vajra Division Heart Mantra. So it says, "Carrying mountains, brandishing pestles, pervading empty space, / the Vajras in the East subdue the demon troops." There are 84,000 Vajra Secret Trace Dharma Protectors in the Eastern Vajra Division. They conquer all heavenly demons and outside ways. When they subdue them, it is easy to be vigorous in one's cultivation. In cultivation you must have inner merit and outer virtue. Merit and virtue are of primary importance. 

 

Eighty-four thousand of them constantly protect. They always protect you. 

 

And cause the practitioner to enter the Great Center. They cause the cultivator to attain the Great Shurangama Samadhi and always give rise to genuine wisdom.

 


107. Bát rị đát ra da

 

Mantra: 107. Bwo Li Dan La Ye 

 

Verse: 

 

The As-You-Will pearl is wonderful and inconceivable.

In the Southern Division of Transformation Birth, it bestows fearlessness.

When the Heart Mantra is received and upheld, things reveal their original shape.

Li Mei and Wang Liang ghosts are drawn by its magnetic power.

 

Commentary: 

 

The As-You-Will pearl is wonderful and inconceivable. This is the Wonderful Jewel Heart Mantra, which is like the inconceivable As-You-Will precious pearl. 

 

In the Southern Division of Transformation Birth, it bestows fearlessness. The south is the Production of Jewels Division where there are inconceivable transformations and the giving of fearlessness. With the As-You-Will pearl, one universally gives to all living beings so they obtain all the jewel treasuries. 

 

When the Heart Mantra is received and upheld, things reveal their original shape. If you recite the Five Great Heart Mantras, no matter how fierce the goblins or demons, they must appear in their original form so that you can know them for what they are. 

 

Li Mei and Wang Liang are drawn by its magnetic power. Whether it is a Li Mei, a Wang Liang, or any other weird creature, as soon as you recite the Mantra, it's stuck--like being stuck to a magnet. Such creatures can't undergo their transformations anymore. This Mantra is hard to meet in a hundred, thousand, ten thousand eons. 

 

Only Sincerity Obtains a Response 

 

In cultivating all Dharma doors one must be sincere. It is said: 

 

Be clear and pure in body and mind; 

fast, maintain morality and cleanse the body. 

 

You should eradicate all false thinking as you cultivate Dharma doors. Then you can obtain a response with the Way, like an echo following a sound. That is called "having a response." If you aren't sincere, no matter how efficacious the Mantra is, it won't work. So we say: 

 

When the mind is sincere, then it's efficacious. 

If your mind is not sincere, it isn't magical. 

 

What is sincerity? It means having no doubts and instead having true faith in the inconceivable power of the Mantra--faith that its power will never fail. If you can be truly sincere, then your cultivation will succeed. Sometimes people may cultivate for a long time and get no response. Then they may start to think, "Is the Buddhadharma not efficacious? What's going on? I'm not getting a response. "It's not that the Mantra is not efficacious. You are not succeeding because you are not sincere. You are merely bumbling your way through it, going through the motions. You are cheating on materials--gold bricking--following the crowd. You have not brought forth true sincerity. So those who recite the Shurangama Mantra must be sincere and have true faith. 

 

Supreme, profound, wonderful Dharma 

Is hard to encounter in a million eons; 

I now see and hear it, receive and uphold it, 

And vow to understand the genuine meaning of samadhi. 

 

Question: If we suppress Li Mei and Wang Liang with the Shurangama Mantra, and those ghosts and goblins have a vengeful nature, won't they create bad energy and counter the effect of the Mantra by making one come down with strange illnesses or some such? 

 

Answer: That's called adding a head on top of a head. You shouldn't be false-thinking about suppressing Li Mei and Wang Liang all day long. It's true that those ghosts and goblins have their own weird magic and mantras and when they recite them, they can give one a headache, or make one ache all over, or even drive one crazy. However, you should not false-think all day long about subduing them. If you do, they will certainly show up. Why? It is because they will hear you false-thinking: "Why don't you show up? I have just the right mantra for you." You are, in essence, sending them an invitation card and they will turn up for certain. 

 

When you recite a mantra, you have to recite and hold it every day--just like holding the Great Compassion Mantra, you have to do it constantly. It's not for the sake of wanting to subdue anything that you recite and uphold a mantra. Rather you just do it for its own sake, and you do it very naturally. In such a way you will get a response to the point that you will be reciting it even when not reciting it. It will become that natural—that much a part of you. Then you will obtain the power of the mantra, and it will protect and guard you. If you cultivate well in your everyday practice, then when a state comes, whether you recite or not at that time, you still get a response and the problem will be solved very naturally. 

 

When People Don't Like You 

 

In cultivating the Way, sometimes you may find that you are unable to find the path, that you don't know how to go about cultivating. You may run into a fork in the road and you don't know which way to go. At that time, you need to have wisdom and samadhi power. You must also hold the precepts. 

 

As to relationships with people, sometimes you may be especially good to some people but they return your kindness with dislike. The better you are to them, the worse they will be to you. When this state manifests, you must break your attachment. What attachment? 

 

Your attachment to being good to people! When the better you are to people the worse they are to you, they are being your "reverse" good knowing advisors. They are helping you learn to take it easy when the going gets rough. This is based on experience in my own cultivation. Step by step, I have encountered these types of abuse and these sorts of tests. Abuse and tests are just to see whether you will still go forward or whether you'll retreat. If you really understand, then in opposing and according states, you will be vigorous. There is a saying: 

 

If your ideas aren't working, look within yourself;

If you are kind to people and they don't reciprocate, take a look at your kindness. 

If you give people orders and they don't follow them, take a look at your orders. 

If you pay respect to people and they don't return it, take a look at your manners. 

 

Say you are very good to someone, but they won't get near you. In that case, you have to return the light to see if your kindness is really adequate. If it is, eventually you will influence them towards the good. If people don't follow your instruction, return the light and think, "Could I be oppressing people?" If you nod or do a half bow when you see people, but they act as if they didn't even see you, once again, return the light: Do you really feel respectful towards them? If you can always return the light, you won't be too far away from the Path. You'll be on your way. This is very easy to talk about but very difficult to do! 

 

 

108. Nảnh yết rị

 

Mantra: 108. Ning Jye Li

 

Verse: 

 

Most supreme, Performing Dharma, the Vajra Heart,

Wheel-turning Honored One in the Northern Accomplishment Division.

Wisdom and proper samadhi take precepts as their root.

With great enlightenment, one is revered by people and gods.

 

Commentary: 

 

"Ning" means "most supreme." 

"Jye Li" means " doing of Dharma." 

 

Most supreme, Performing Dharma--the Vajra Heart. In this secret mantra, this is the Vajra Heart Mantra. 

 

Wheel-turing Honored One in the Northern Accomplishment Division. "Jye li" also means "Wheel-turing Heart Mantra" and belongs to the Northern Division of Accomplishment Buddha. 

 

Wisdom and proper samadhi take precepts as their root. In cultivation, you gain great wisdom because you have proper samadhi. Great wisdom  and proper samadhi come from keeping the precepts. Precepts are the root source. If you don't keep precepts, you won't have samadhi or wisdom. Precepts are the basic foundation. 

 

With great perfect enlightenment, one is revered by people and gods.  You can become a Buddha with great and perfect enlightenment, at which time the gods and humans will all pay respect to you.



LĂNG  NGHIÊM THẦN CHÚ  có 5 hội:

 

HỘI THỨ NHẤT

TỲ-LÔ-GIÁ-NA CHÂN PHÁP HỘI

 

Đây là “TỲ-LÔ-GIÁ-NA CHÂN PHÁP HỘI”, có nghĩa: Những lời bí mật của 12 pháp môn đoạn dưới đều từ nơi PHÁP-THÂN hay TỲ LÔ CHÂN TÁNH LƯU LỘ RA.

 

HỘI THỨ HAI

THÍCH-CA ỨNG-HÓA HỘI

 

Đây là “THÍCH-CA ỨNG-HÓA HỘI” hay LĂNG NGHIÊM GIÁO CHỦ HỘI, có nghĩa: Năm bộ Tam-Bảo trong thần chú gồm chư DƯỢC-XOA, THẦN-VƯƠNG, KIM-CANG MẬT-TÍCH, cho đến tất cả Pháp môn, đều do đức Phật  Thích Ca và chư Phật THỊ HIỆN RA.

 

HỘI THỨ BA

QUÁN-THẾ-ÂM HIỆP-ĐỒNG-HỘI

 

Đây là “QUÁN-THẾ-ÂM HIỆP-ĐỒNG-HỘI”. Bốn môn trong đây đều là do đức Quán-Thế-Âm trên đồng dưới hiệp, VIÊN-THÔNG TU CHỨNG chẳng thể nghĩ bàn, đức mầu VÔ-TÁC thành tựu một cách tự-tại.

 

HỘI THỨ TƯ

KIM-CANG-CHIẾT-NHIẾP-HỘI

 

Đây là “KIM-CANG-CHIẾT-NHIẾP-HỘI”, do HỎA-THỦ-KIM-CANG BỒ-TÁT KHAI HIỂN, nên chư Kim-Cang-Tạng-Vương sau khi nghe niệm chú, đều dùng sắc lịnh để hộ vệ, đối với kẻ ác thì chiết phục, với kẻ thiện thì nhiếp thâu.

 

Chư Kim-Cang Mật-Tích cũng đều hiện phần bản tích ứng hóa của mình.

 

HỘI THỨ NĂM

VĂN-THÙ-PHÚ-HỘ-HOẰNG-TRUYỀN-HỘI

 

Đây là “VĂN-THÙ-PHÚ-HỘ-HOẰNG-TRUYỀN-HỘI”. Đức Văn-Thù hay Mạn-Thù-Thất-Lỵ sau khi lãnh chú đến che chở hộ trì rồi thay đại chúng thưa hỏi pháp môn tu. Nếu chẳng phải là bậc đại trí đức thì không thể thông hiểu và hoằng truyền pháp môn nầy.

 

Năm hội trên tượng trưng cho NGŨ-TRÍ ĐẢNH của Tỳ Lô Giá Na. Hiệp cả năm hội lại gọi chung là PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ CỨU CÁNH KIÊN CỐ ĐẠI BẠCH TÁN CÁI THẦN CHÚ.



CỰC LẠC DU LÃM KÝ

(Hòa Thượng Thích THIỀN-TÂM)




PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ

MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA

THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ

 

PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ là trên ĐẢNH PHẬT phóng ra 10 đạo hòa QUANG bách bảo và TỤ lại trên ĐẢNH CHÚNG-SANH trong Pháp Giới, khi Qúy-vị tụng Thần Chú Thủ-Lăng Nghiêm.

Đây là Hóa Thân Phật dùng THẦN CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM để  “ẤN-TÂM” cho Qúy-vị sẽ thành Phật trong vị lai.

 

ĐẠI (Lớn) là “THỂ” của  Chú Lăng Nghiêm, không đối đãi phân biệt, biến khắp tận cùng hư không pháp giới, nên gọi là MA HA.

 

BẠCH (Trắng)  là “TƯỚNG” của Chú Lăng-Nghiêm, thanh tịnh không ô nhiễm, nên gọi là TÁT ĐÁT ĐA.

 

TÁN CÁI (Tàng Lọng)  là “DỤNG” của Chú Lăng Nghiêm, có khả năng che chở, bảo hộ, TRUỞNG DƯỠNG THIỆN CĂN,  TIÊU TRỪ NGHIỆP CHƯỚNG TRONG VÔ LƯỢNG KIẾP, KHÔNG TRẢI QUA 3 A-TĂNG KỲ, MÀ QÚY VỊ  CŨNG CHỨNG ĐƯỢC PHÁP THÂN, nên gọi là BÁT ĐÁT RA.

 

 CỨU CÁNH KIÊN CỐ  là THỦ LĂNG NGHIÊM ĐẠI ĐỊNH, định này là VUA trong các định.

 

THẦN  là thần diệu linh thông, khó mà suy lường được.

 

CHÚ là khi qúy vị TỤNG , thì có công năng PHÁ TÀ LẬP CHÁNH, tiêu trừ nghiệp ác, phát sanh phước đức căn lành.



TRÊN ĐẢNH CỦA PHẬT TỲ LÔ GIÁ NA (PHẬT PHÁP-THÂN)  LƯU LỘ RA  NGŨ-TRÍCHO NÊN, GỌI  LÀ “NGŨ-TRÍ” ĐẢNH CỦA TỲ -LÔ-GIÁ-NA.


1)      PHÁP GIỚI TRÍ 

TRÍ cùng  khắp hư không, vì dùng LƯỚI ĐẠI QUANG MINH chiếu khắp PHÁP GIỚI CHÚNG SANH. CHO NÊN, GỌI LÀ PHÁP GIỚI TRÍ. 


2)      ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ 

3)      BÌNH ĐẲNG TÁNH TRÍ 

4)     DIỆU QUÁN SÁT TRÍ 

5)     THÀNH S TÁC TRÍ 



 

Nhìn gẫm đường trần đầy khổ nhọc

Lòng tưởng Tây Phương cõi Thiên Trúc

Đầu non trăng sáng tiếng chuông ngân

Canh khuya cầm quyển Lăng Nghiêm đọc.

 

 

 

( Niệm Phật Phải Vì Thoát Sanh Tử)

 

 


KHAI THỊ “ KINH THỦ LĂNG NGHIÊM” 

(của HT. THÍCH THIỀN-TÂM)


Đức Phật nói: “Lành thay! A-Nan, các ông nên biết tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay chịu sanh tử tương tục do vì không nhận ra “CHƠN TÂM THƯỜNG TRỤ”, thể tánh vốn trong sạch sáng suốt, mà nhận lầm các vọng tưởng. Các vọng tưởng này vốn chẳng chân thật, thế nên bị luân chuyển.”

 

Nay ông muốn thấu rõ quả vị vô thượng bồ-đề và phát minh chân tánh, ông phải dùng trực tâm đáp ngay lời Như Lai hỏi. Mười phương Như Lai ra khỏi sinh tử, đều nhờ trực tâm. Do tâm và lời nói đều ngay thẳng như thế, đến khoảng thời gian trước, sau, và thời kỳ trung gian tuyệt nhiên không có lời nói quanh-co.

 

A-Nan, nay tôi hỏi ông: “Ngay khi ông vừa mới phát tâm là do ông thích 32 tướng tốt của Như Lai, Vậy ông lấy gì để thấy và ông ưa thích cái gì? A-Nan thưa: “Bạch Thế Tôn! Sự yêu thích như thế là do TÂM và MẮT của con. Do mắt thấy tướng thù thắng của Như Lai nên tâm ưa thích và phát tâm nguyện xả bỏ sinh tử.”

 

Đức Phật bảo A-Nan: “Như ông nói, thật chỗ yêu thích là do tâm và mắt. Nếu ông không biết tâm và mắt ở đâu thì không thể nào hàng phục được trần lao.”

 

Ví như quốc vương, khi có giặc đến xâm chiến nước mình, muốn phát binh đi trừ dẹp, thì cần phải biết giặc ở nơi đâu.

 

Lỗi lầm là ở tâm và mắt khiến ông bị lưu chuyển. Nay tôi hỏi ông, riêng TÂM và mắt nay ở chỗ nào?

 

(KINH LĂNG NGHIÊM)

 

 

Mỗi câu tràng hạt (THỦ NHÃN) Phật là tâm

Phật rõ là tâm, uổng chạy tìm!

Bể Phật dung hòa tâm với cảnh

Trời tâm bình đẳng Phật cùng sanh

 

Bỏ tâm theo Phật còn mơ mộng

Chấp Phật là tâm chẳng trọn lành.

Tâm, Phật nguyên lai đều giả huyễn

Phật, tâm đồng diệt đến viên thành.

 

(NIỆM PHẬT THẬP YẾU (Sự Trì, Lý Trì) - HT. THÍCH THIỀN-TÂM) 




Nam-mô Lăng-Nghiêm Hội-thượng Phật Bồ-tát. 







37. The Jeweled Sutra Hand and Eye

The Sutra says: “For much learning and extensive study, use the Jeweled Sutra Hand.”


The Mantra: Syi two ye. Swo pe he.
                    Mwo he syi two ye. Swo pe he.


The True Words: Nan. E he la. Sa la wa ni.
                                    Ni ye two la. Bu ni di. Sa wa he.



The verse:


First place in erudition goes to Ananda;
For broad learning and fine memory, there’s Confucius’ Yen Yuan.
Reading and reciting the Great Vehicle’s profound Prajna,
One’s wisdom flows forth just like a bubbling spring.




37. Bảo-Kinh Thủ Nhãn Ấn Pháp


Kinh nói rằng: “Nếu muốn được học rộng nghe nhiều, nên cầu nơi Tay cầm quyển
                      Kinh-báu.”



Thần-chú rằng: Tất Đà Dạ. Ta Bà Ha.
                       Ma Ha Tất Đà Dạ. Ta Bà Ha [53-56]

Chơn-ngôn rằng: Án-- a hạ ra, tát ra phạ ni,
                                    nể dã đà ra, bố nể đế, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:

Đa văn đệ nhất thuộc A Nan
Quảng học thiện ký Khổng Nhan Uyên
Độc tụng đại thừa thâm bát nhã
Trí huệ thao thao như dũng tuyền.

[
Đứng đầu ĐA-VĂN học rộng là A-Nan.
Học rộng NHỚ LÂU, có Khổng-Tử và Nhan-Uyên.
Thâm nhập BÁT-NHÃ nhờ đọc tụng KINH ĐẠI-THỪA THỦ LĂNG NGHIÊM,
Cho nên, TRÍ-HUỆ VÔ-NGẠI như dòng suối vọt lên không ngừng.
]



Nếu QÚY-VỊ trì Bảo-kinh thủ nhãn ấn pháp nầy thành tựu, thì được ĐA-VĂN như tôn giả       A-nan, trong TÂM có khả năng tụng lại TAM TẠNG KINH ĐIỂN của phật THÍCH-CA trong một đời thuyết pháp, còn về thế gian thì có thể học rộng NHỚ LÂU như Khổng-tử, như Nhan-uyên vậy.

Lại nữa, thường trì thủ nhãn nầy thì KHAI MỞ TRÍ-HUỆ VÔ-NGẠI, như dòng suối vọt lên tuôn chảy mãi không ngừng, cũng như NGƯỜI thường đọc tụng KINH ĐẠI THỪA  “Ðại Phật Ðảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh” vậy. Vì đây là BẢO-KINH KHAI MỞ TRÍ-HUỆ trong PHẬT-GIÁO.

Nhưng tại sao KINH THỦ LĂNG NGHIÊM là
                                         BẢO-KINH KHAI MỞ TRÍ-HUỆ trong PHẬT-GIÁO?  

Vì KINH nầy PHẬT dạy chúng ta phân biệt được VỌNG TÂM, CHƠN TÂM và con đường chơn chánh vào CHƠN TÂM THƯỜNG TRỤ không sanh không diệt, đó là NHĨ CĂN VIÊN THÔNG của bồ-tát QUÁN-THẾ-ÂM là đệ nhất.

Tuy biết con đường CHƠN THẬT chứng nhập CHƠN TÂM, nhưng trải qua các địa vị tu chứng  gặp phải 50 loại ma chướng cùng với tập khí nhiều đời khó đoạn trừ, nếu MÊ MỜ CHƠN TÁNH,  tự nghĩ rằng mình đã CHỨNG THÁNH, THÀNH PHẬT thì sẽ đi vào  TÀ MA NGOẠI ĐẠO, khó CÓ NGÀY quây đầu trở lại theo CON ĐƯỜNG CHƠN THẬT.

 Cho nên, PHẬT dạy phải trì CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM, thì không bị những TẬP KHÍ NHIỀU ĐỜI cùng MA-CHƯỚNG đến phá HOẠI CON ĐƯỜNG CHƠN THẬT THẲNG đến qủa DIỆU-GIÁC của Phật.

A-NAN CẦU XIN PHẬT TUYÊN NÓI LẠI
CHÚ THỦ LĂNG-NGHIÊM

Tại sao ngài A-NAN cầu xin PHẬT tuyên nói lại CHÚ THỦ LĂNG-NGHIÊM? Vì chú nầy khiến cho NGÀI A-NAN được giải thoát khỏi TÀ-THUẬT của PHẠM-THIÊN và cũng để cứu-giúp cho những người HIỆN ĐỜI cùng với người ĐỜI SAU, được nhờ MẬT-ÂM của PHẬT, mà THÂN TÂM có thể AN-NHẪN các CHƯỚNG DUYÊN, thẳng tắc trên con đường BỒ-ĐỀ của chư PHẬT, nhưng NGÀI A-NAN chưa được nghe.



Có lẽ, NGÀI VĂN-THÙ chỉ đọc trong TÂM, không ra tiếng,nên cực kỳ nhanh, chỉ trong KHỞI TÂM ĐỘNG NIỆM thì xong. Hoặc NGÀI VĂN-THÙ tuy có đọc ra tiếng, nhưng bấy giờ TÂM NGÀI A-NAN BỊ MÊ MỜ  vì bị TÀ-THUẬT của PHẠM-THIÊN, cho nên không còn HUỆ ĐA-VĂN nữa.

Cũng có thể, ngài VĂN-THÙ chỉ đọc “NGŨ ĐẠI TÂM CHÚ”, để phá TÀ-THUẬT mà thôi, cho nên ngài A-nan không được nghe toàn bộ CHÚ LĂNG-NGHIÊM chăng? Cho nên, mới cầu PHẬT tuyên nói lại chăng?


Ngũ-Đại Tâm Chú

Sất đà nể, A ca ra, Mật rị trụ, Bát rị đát ra da, Nảnh yết rị.




Kệ tụng:

Cửa rồng tăm cá vượt
Đỉnh nhạn bóng chim qua
Khách đi nghìn dặm biệt sơn hà

Đường tu gian khổ
Chướng ngại trải hằng-sa
Nghịch thuận duyên ma-khảo

Thương ghét nợ oan-gia
Khá thương kham nhẫn cõi Ta-Bà

Khổ vui bao quản
Vinh nhục tợ sương hoa
Nhẫn nại bền lòng tinh tiến mãi
Ác vàng thỏ bạc
Năm tháng sẽ dần dà...


(Niệm Phật Phải An Nhẫn Các Chướng Duyên -HT THIỀN-TÂM)



KINH VĂN:

Ông A-nan đảnh-lễ chân Phật mà bạch Phật rằng: "Từ khi xuất-gia, tôi ỷ-lại nơi lòng thương-yêu của Phật; vì cầu huệ đa-văn, chưa chứng quả vô-vi, nên bị tà-thuật Phạm-thiên kia bắt-buộc; tâm tuy rõ-ràng, nhưng sức không tự-do, nhờ gặp ngài Văn-thù, khiến cho tôi được giải-thoát.

Tuy tôi thầm nhờ sức của thần-chú Phật-đảnh Như-lai, nhưng chánh mình còn chưa được nghe chú ấy, xin nguyện đức Đại-từ tuyên-nói lại cho, thương-xót cứu-giúp các hàng tu-hành trong Hội nầy và những người đời sau, còn trong luân-hồi, được nhờ mật-âm của Phật, mà thân-ý được giải-thoát.

Lúc bấy giờ, tất-cả đại-chúng trong Hội thảy đều làm lễ, chờ nghe những câu chú bí-mật của Như-lai.

Lúc đó, đức Thế-tôn, từ nơi nhục-kế phóng ra trăm thứ hào-quang báu, trong hào-quang hiện ra hoa sen báu ngàn cánh, có hóa-thân Như-lai ngồi trong hoa sen, trên đảnh phóng ra mười đạo hào-quang bách-bảo; trong mỗi mỗi đạo hào-quang, đều hiện ra những vị Kim-cang mật-tích, số-lượng bằng mười số cát sông Hằng, xách núi, cầm xử, khắp cõi hư-không. Đại-chúng ngửa lên xem, vừa yêu vừa sợ, cầu Phật thương-xót che-chở, một tâm nghe đức Phóng-quang Như-lai, nơi Vô-kiến-đảnh-tướng của Phật, tuyên-nói thần-chú :


Chú Thủ Lăng Nghiêm phân làm năm bộ, biểu thị cho năm phương: Đông, Nam, Trung Ương, Tây và Bắc.


1.  Đông phương là Kim-cang bộ, do đức Phật A Súc là Bộ chủ.
2.  Nam phương là  Bảo-sanh bộ, do đức Phật Bảo sanh là Bộ chủ.
3.  Trung ương là Phật bộ, do đức Phật Tỳ Lô Giá Na là Bộ chủ.
4.  Tây phương là Liên-hoa bộ, do đức Phật A Di Đà là Bộ chủ,
5.  Bắc phương là Yết-Ma bộ, do đức Phật Thành Tựu là Bộ chủ.


Nhân vì trên thế giới có năm đại ma quân, nên có năm phương Phật ngăn chặn, chấn áp. Trong năm bộ của CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM, nhìn chung có hơn 30 pháp, nếu giảng rộng ắt có hơn trăm pháp. Nhưng có năm loại pháp chánh yếu như sau:


1)       Pháp Thành tựu: Có nghĩa là  qúi vị trì CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM, THÌ TU PHÁP GÌ, cầu nguyện mong cầu điều gì CŨNG ĐƯỢC THÀNH TỰU VIÊN MÃN NHƯ Ý MUỐN của QÚY-VỊ.


2)      Pháp Tăng ích: Tức là khi quý vị tụng thần chú này, chẳng những chánh quý vị được TĂNG TRƯỞNG THIỆN CĂN CÔNG ĐỨC, mà cả những người khác CŨNG ĐƯỢC NHƯ VẬY.


3)      Pháp Câu triệu: Là hiệu lịnh và bắt giữ tất cả TÀ-MA, NGOẠI ĐẠO, không ai có thể thoát được. Chẳng hạn như có ai đó gây hại cho người nào đó, rồi xa chạy cao bay. Nếu QÚY-VỊ biết sử dụng pháp câu triệu, thì chắc chắn kẻ đó không trốn thoát được.


4)     Pháp Hàng phục:  Là vì Loài quỷ cũng có pháp thuật và chú thuật để chúng sử dụng. Nhưng nếu quý vị trì tụng chú Lăng Nghiêm, thì sẽ phá tan các loại chú của chúng. Tôi cũng đã nói qua về uy lực của chú THỦ LĂNG NGHIÊM, có công năng HÀNG PHỤC và hủy diệt chú thuật của bọn ma vương gây hại. Đối với những ai chưa học cũng nên lưu ý điều nầy. Nhưng tại sao khi tụng chú Lăng Nghiêm thì chú của Phạm Thiên thành ra vô hiệu?



Đây là vì “Ngũ đại tâm chú”

104. Sất đà nể
105. A ca ra
106. Mật rị trụ
107. Bát rị đát ra da
108. Nảnh yết rị





Năm câu trên là “Ngũ đại tâm chú”. TÂM CHÚ này khi sử dụng thì mọi chú thuật của bọn TÀ MA NGOẠI ĐẠO đều ra vô hiệu. Nếu quý vị có lòng thành tôi sẽ truyền cho quý vị, hoàn toàn miễn phí.


5)      Pháp Tức tai: Là Tất cả mọi tai họa đều được ngăn ngừa, tránh khỏi. Chẳng hạn có ai đó bị rơi xuống biển, nhưng nếu người đó đã từng trì tụng chú Lăng Nghiêm,thì chắc chắn sẽ tránh được tai họa, tức không chết chìm.

Có thể quý vị ở trong con tàu lẽ ra phải chìm, nhưng quý vị tụng thần chú này, con tàu sẽ không chìm. Hoặc có thể đi trên máy bay bị hư hỏng, nhưng nếu tụng trì chú Lăng Nghiêm, thì máy bay cũng sẽ hạ cánh an toàn.

Tôi xin kể một câu chuyện thật khó tin, lần đó tôi đi từ Miến Điện sang Thái Lan, đường bay lúc đó rất nguy hiểm. Nhưng suốt cuộc hành trình, máy bay chẳng có dấu hiệu gì là bất ổn, và chuyến đi hết sức bình yên, thuận lợi.

 Ngay cả viên phi công cũng lấy làm lạ: “Tại sao chuyến bay lại được êm xuôi như thế?”  Anh ta không biết trong suốt chặng đường đã có Thiện thần, Thiên long Bát bộ, và cả chư Phật, chư Bồ tát, cùng hộ trì chuyến bay được an toàn, thuận lợi.


Đây là pháp Tức tai. Khi có một sự cố gì xảy ra, nó có thể hóa lớn thành nhỏ, và
hóa nhỏ thành không có tai nạn gì cả. Thường, khi có sự cố xảy ra, qúi vị  không bị nguy hiểm”,  vì quý vị thường trì tụng chú Thủ Lăng Nghiêm.


Lợi ích của chú rất lớn, cho dù TÔI có bỏ ra vài năm để giảng giải cũng không hết. Ở đây, tôi chỉ nói lược qua 5 PHÁP mà thôi.
  


(HT TUYÊN HÓA giảng giải)



PHẬT KHAI-THỊ
THẦN-CHÚ PHẬT-ĐẢNH THỦ-LĂNG-NGHIÊM

A-nan, những câu nhiệm-mầu, bí-mật "TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA” của hóa-thân nơi hào-quang đảnh-Phật, sinh ra tất-cả chư Phật trong thập phương. Thập phương Như-lai nhân chú-tâm nầy, thành được Vô-thượng-chánh-biến-tri-giác.

Thập phương Như-lai nắm chú-tâm nầy, uốn-dẹp các ma, chế-phục các ngoại-đạo. Thập phương Như-lai vận chú-tâm nầy, ngồi hoa sen báu, ứng-hiện trong các cõi-nước nhiều như số vi-trần. Thập phương Như-lai ngậm chú-tâm nầy, nơi cõi-nước như số vi-trần, CHUYỂN ĐẠI PHÁP LUÂN.

Thập phương Như-lai giữ chú-tâm nầy, có thể ở nơi mười phương xoa đảnh thọ-ký, tự mình quả-vị chưa thành, cũng có thể được chư Phật 10 phương Thọ-ký. Thập phương Như-lai nương chú-tâm nầy, có thể ở nơi mười phương cứu-vớt các khổ như địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sinh, đui, điếc, ngọng, câm; các khổ oán-tắng-hội, ái-biệt-ly, cầu-bất-đắc, ngũ-ấm-xí-thịnh; những tai-nạn lớn nhỏ đồng-thời được giải-thoát; nạn giặc, nạn binh, nạn vua, nạn ngục, nạn gió, lửa, nước, cho đến đói-khát bần-cùng, liền được tiêu-tan.

Thập phương Như-lai theo chú-tâm nầy, có thể ở nơi mười phương, phụng-sự thiện-tri-thức, trong bốn uy-nghi, cúng-dường được như-ý; trong Pháp-hội hằng-sa Như-lai, được suy-tôn là vị Đại-pháp-vương-tử. Thập phương Như-lai dùng chú-tâm nầy, có thể ở nơi mười phương, nhiếp-thọ các nhân-thân, khiến cho các hàng Tiểu-thừa nghe tạng bí-mật, không sinh lòng kinh-sợ.

Thập phương Như-lai tụng chú-tâm nầy, thành-đạo Vô-thượng-giác, ngồi dưới cây Bồ-đề, vào Đại-niết-bàn. Thập phương Như-lai truyền chú-tâm nầy, sau khi diệt-độ rồi, phó-chúc Pháp-sự của Phật, được trụ-trì rốt-ráo; giới-luật nghiêm-tịnh, thảy đều trong-sạch."

Nếu tôi nói chú "Phật-đảnh-quang-tụ bát-đát-ra" nầy, từ sáng đến tối, các tiếng nối nhau, trong đó những chữ, những câu cũng không trùng-điệp, trải qua kiếp-số như cát sông Hằng, rốt-cuộc không thể hết được. Chú nầy cũng gọi tên là Như-lai-đảnh.
Hàng hữu-học các ông chưa hết luân-hồi, phát-tâm chí-thành tu chứng quả A-la-hán, nếu không trì-chú nầy, khi ngồi đạo-trường, mà khiến thân tâm xa-rời được các ma-sự, thì không thể được.



A-nan, nếu trong các thế-giới, có những chúng-sinh, tùy cõi-nước mình sinh ra, nào vỏ cây, nào lá bối, nào giấy trắng, nào bạch-diệp, dùng để viết-chép chú nầy, đựng trong túi thơm; nếu người đó tối-tăm chưa tụng được, chưa nhớ được, thì đeo trên mình, hoặc viết để trong nhà ở, thì nên biết người ấy, trọn đời tất-cả các thứ độc không thể hại được.

A-nan, nay tôi vì ông tuyên nói lại chú nầy, để cứu-giúp trong thế gian được đại-vô-úy và thành-tựu trí xuất-thế-gian cho chúng-sinh. Nếu sau khi tôi diệt-độ rồi; chúng-sinh trong đời mạt-pháp, có người biết tự mình tụng, hoặc dạy người khác tụng-chú nầy, nên biết những chúng-sinh trì-tụng như vậy, lửa không đốt được, nước không đắm được, độc lớn, độc nhỏ không thể hại được, cho đến các hàng thiên, long, quỷ, thần, tinh, kỳ, ma, mị, có những chú-dữ, đều không làm gì được. Tâm người ấy được chánh-thọ; tất-cả chú-trớ, yểm-cổ, thuốc-độc, kim-độc, ngân-độc và độc-khí muôn vật như cỏ, cây, sâu, rắn, vào miệng người ấy đều  biến thành vị cam-lộ.


NGŨ ĐẠI TÂM CHÚ  mà TÔI đã nói qua là Biểu thị cho NĂM PHƯƠNG, NĂM BỘ và NĂM VỊ PHẬT. Quý vị không nên xem thường. Chú nầy là của chư Phật trong năm phương, có công năng hủy diệt mọi chú trớ của các loài ma quỷ. Khi quý vị trì tụng chú Lăng Nghiêm, thì quý vị sẽ được chánh định. Tất cả mọi chú trớ, mọi chú thuật của Thiên ma cùng quyến thuộc đều không thể gây hại cho quý vị. YỂM-CỔ là một loài phù chú ở khu vực Đông Nam Trung Quốc, hoặc Đông Nam Châu Á như Miến Điện, Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore, Malaysia và các nơi khác. Phù chú sử dụng gọi là “Cổ”, làm cho mê hoặc người là công năng của chú thuật nầy. Nếu quý vị ăn phải loài Cổ-độc đó, thì  hoàn toàn bị lệ thuộc vào họ, phải làm theo những gì họ sai khiến, nếu chống lại thì sẽ bị chết.

Ở Australia, trong các vùng núi, có TÔN GIÁO đã dùng chú thuật thu nhỏ đầu người nhỏ lại như một quả trứng, và trưng bày như là một biểu tượng cho uy lực. Trong thế giới mênh mông này có rất nhiều sự việc siêu nhiên. Quý vị đừng cho rằng mình không thấy thì dứt khoát không tin là có sự thực. Nếu ai đó không tin thì thực là ngu ngốc! Tại sao tôi lại nói như vậy? Có nhiều sự việc quý vị không bao giờ nhìn thấy được, còn như muốn tìm hiểu, chứng kiến tận mắt rồi mới tin thì e là đến cuối  cuộc đời cũng không biết được.

Cũng như nước Mỹ , thời xưa không ai biết được, nếu như quý vị gặp ai đó và cố gắng giải thích rằng có một lục địa khác, cũng có núi có sông, có cư dân, thì chắc chắn họ sẽ không tin. Thế nhưng, cho dù họ có tin hay không tin thì nước Mỹ vẫn hiện hữu ở nơi xa xôi kia.

Cũng vậy, nếu quý vị không tin vào những chuyện lạ là vì cho là vô lý, nhưng thực sự không phải vậy. Chúng ta thường phủ nhận những gì mình không chứng kiến, căn bản là vì quý vị không nhận thức rõ về sự thực thế giới này.




Một người bị YỂM CỔ  làm hại thì khó lòng thoát khỏi, còn như chống lại ắt sẽ bị chết. Nhưng Sự độc hại của YỂM CỔ cùng với thuốc độc, kim độc, ngân độc, những độc khí của vạn vật như cỏ, cây, sâu, rắn, vào miệng của người TRÌ CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM thì sẽ BIẾN THÀNH VỊ CAM LỘ.

Nếu quý vị đề nghị với Tôi là QÚY-VỊ  muốn thử nghiệm điều ấy, thì cũng được thôi. Nhưng phải đợi khi nào quý vị trì CHÚ LĂNG NGHIÊM có THÀNH TỰU, thì  thể thử nghiệm; còn như chưa THÀNH TỰU thì không nên làm.

(HT TUYÊN HÓA giảng giải)

KINH VĂN:

Tất-cả ác-tinh với các quỷ-thần, lòng dữ hại người, đối với người ấy, cũng không thể khởi ra ác-niệm; Tần-na, Dạ-ca và các quỷ-vương dữ khác, cùng với quyến-thuộc, đều lãnh-ơn sâu, thường gìn-giữ ủng-hộ.

A-nan, nên biết chú nầy, thường có 84.000 na-do-tha hằng-hà-sa câu-chi chủng-tộc Kim-cang-tạng-vương Bồ-tát, mỗi mỗi đều có những chúng Kim-cang làm quyến-thuộc, ngày đêm theo hầu.

Giả-sử có chúng-sinh, với tâm tán-loạn, chứ không phải Tam-ma-địa, tâm nhớ tụng-trì chú nầy; thì các Kim-cang-vương đó, cũng thường theo bên thiện-nam-tử kia, huống nữa là những người có tâm Bồ-đề quyết-định; đối với những người nầy, các vị Kim-cang-tạng-vương Bồ-tát đó, dùng tịnh-tâm thầm xúc-tiến, phát-huy thần-thức; người ấy liền khi đó, tâm nhớ lại được 84.000 hằng-ha-sa kiếp, rõ-biết cùng khắp, được không nghi-hoặc.

Từ kiếp thứ nhất cho đến thân cuối-cùng, đời đời người ấy không sinh vào các loài dược-xoa, la-sát, phú-đan-na, ca-tra-phú-đơn-na, cưu-bàn-trà, tỳ-xá-già..., cùng các loài ngạ-quỷ, có hình, không hình, có tưởng, không tưởng và những chỗ dữ như thế.

Thiện-nam-tử đó, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc viết, hoặc chép, hoặc đeo, hoặc giữ, hoặc cúng-dường nhiều cách chú nầy, thì kiếp kiếp không sinh vào những nơi bần-cùng hạ-tiện, không ưa-thích.



Các chúng-sinh đó, dù cho chính mình không làm việc phước, thập phương Như-lai có các công-đức đều cho họ hết, do đó, họ được trong những kiếp hằng-sa vô-số, không thể nói, không thể nói hết, thường cùng chư Phật đồng sinh một chỗ; vô-lượng công-đức nhóm-lại như trái ác-xoa, đồng một chỗ huân-tu, hằng không phân-tán.

Vậy nên, có thể khiến người phá giới, mà giới-căn cũng được thanh-tịnh; người chưa được giới, khiến cho được giới; người chưa tinh-tấn, khiến cho tinh-tấn; người không trí-huệ, khiến được trí-huệ; người không thanh-tịnh, mau được thanh-tịnh; người không giữ trai-giới, tự thành có trai-giới.

A-nan, thiện-nam-tử ấy, khi trì-chú nầy, giả-sử có phạm cấm-giới khi chưa thọ-trì, thì sau khi trì-chú, các tội phá giới, không luận nặng nhẹ, một thời, đều tiêu-diệt, dù đã uống rượu, ăn thứ ngũ tân và các thứ không sạch, tất-cả chư Phật, Bồ-tát, Kim-cang, Thiên-tiên, Quỷ-thần không cho là có lỗi; dù mặc y-phục rách-nát không sạch, thì một cái đi, một cái đứng, thảy đồng như thanh-tịnh; dù không lập đàn, không vào đạo-trường, cũng không hành-đạo mà tụng-trì chú nầy, thì công-đức cũng như vào đàn, hành-đạo, không có khác vậy; dù gây những tội nặng ngũ-nghịch, vô-gián và phạm những tội tứ-khí, bát-khí của tỷ-khưu và tỷ-khưu-ni, thì khi tụng-chú nầy rồi, cũng như gió mạnh thổi-tan đống cát, những nghiệp nặng như vậy, đều diệt-trừ hết, không còn chút mảy-may.

A-nan, nếu có chúng-sinh, từ vô-lượng vô-số kiếp đến nay, có tất-cả những tội-chướng nhẹ, nặng mà trong các đời trước, chưa kịp sám-hối, nếu biết đọc, tụng, viết, chép chú nầy, giữ đeo trên thân mình hay để nơi chỗ ở, như trang, trạch, viên, quán, thì những nghiệp chứa-nhóm từ trước như vậy, đều tiêu-tan như nước sôi tiêu tuyết, chẳng bao lâu, đều ngộ được vô-sinh-nhẫn.

Lại nữa, A-nan, nếu có người đàn-bà chưa sinh con trai, con gái, mong-cầu có thai, mà biết chí-tâm nhớ niệm-chú, hoặc ở trên mình đeo chú Tát-đát-đa-bát-đát-ra nầy, thì liền sinh những con trai, con gái có phúc-đức trí-huệ; người cầu sống lâu, thì được sống lâu, người cầu quả-báo mau được viên-mãn, thì mau được viên-mãn, cho đến về thân-mệnh, sắc-lực, thì cũng được viên-mãn như vậy; sau khi mệnh-chung, tùy nguyện được vãng-sinh trong thập phương quốc-độ, chắc-chắn không sinh nơi biên-địa hạ-tiện, huống nữa là các tạp-hình.

A-nan, nếu các cõi-nước, các châu, các huyện, các làng-xóm bị nạn đói-kém, dịch-lệ, hoặc ở những nơi có đao-binh, tặc-nạn, đánh nhau, cãi nhau và tất-cả những nơi có ách-nạn khác, viết thần-chú nầy, để trên bốn cửa thành, cùng các tháp hay trên các tràng phan và khiến chúng-sinh hiện có trong cõi-nước, kính-rước chú nầy, lễ-bái cung-kính nhất-tâm cúng-dường, khiến trong nhân-dân, mỗi mỗi người đeo chú trong mình, hoặc để nơi chỗ ở, thì tất-cả tai-ách thảy đều được tiêu-diệt.

A-nan, chúng-sinh trong cõi-nước, chỗ nào có được chú nầy, thì thiên-long vui-mừng, mưa-gió thuận-thời, ngũ-cốc được mùa, dân-chúng an-vui; lại có thể trấn được tất-cả ác-tinh, nó tùy nơi, biến ra những điều quái-dị; tai-chướng không khởi lên, người không hoạnh-tử, chết-yểu, gông-cùm, xiềng-xích không dính vào mình, ngày đêm ngủ yên, thường không ác-mộng.

A-nan, cõi Ta-bà nầy có 84.000 ác-tinh tai-biến, 28 đại-ác-tinh làm thượng-thủ, lại có 8 đại-ác-tinh làm chủ, xuất-hiện trên đời với nhiều hình-trạng, có thể sinh ra các tai-nạn dị-kỳ cho chúng-sinh; chỗ nào có chú này, thì tất-cả đều tiêu-diệt, lấy 12 do-tuần làm vòng kết-giới, các tai-biến hung-dữ, hẳn không thể vào được.

Vậy nên Như-lai tuyên-dạy chú nầy, bảo-hộ cho những người tu-hành sơ-họctrong đời vị-lai, vào Tam-ma-địa, thân tâm thư-thái, được đại-an-ẩn, không còn tất-cả các ma, quỷ-thần, và những oan-khiên đời trước, nghiệp cũ, nợ xưa, từ vô-thủy tới nay, đến khuấy-hại nhau. Ông với những người hữu-học trong chúng và những kẻ tu-hành trong đời vị-lai, y như lời-dạy mà lập đàn-tràng, đúng theo pháp mà trì-giới, gặp được tăng-chúng thanh-tịnh chủ-trì việc thọ-giới, đối với chú-tâm nầy, không sinh TÂM nghi-hối; những thiện-nam-tử như thế, chánh nơi cái thân cha mẹ sinh ra, mà không được Tâm-thông, thì thập phương Như-lai bèn là vọng-ngữ.

Phật dạy lời ấy rồi, vô-lượng trăm ngàn Kim-cang trong Hội, một thời đứng trước Phật, chấp tay đảnh-lễ mà bạch Phật rằng: "Như lời Phật dạy, chúng tôi phải thành tâm bảo-hộ những người tu-đạo Bồ-đề như vậy".

Khi bấy giờ, Phạm-vương và Thiên-đế-thíchTứ-thiên đại-vương cũng ở trước Phật, đồng-thời đảnh-lễ mà bạch Phật rằng: "Xét có người lành tu-học như vậy, chúng tôi phải hết lòng chí-thành bảo-hộ, khiến cho trong một đời, tu-hành được như nguyện".

Lại có, vô-lượng Đại-tướng-dược-xoa, các vua La-sátvua Phú-đan-na, vua Cưu-bàn-trà, vua Tỳ-xá-già, các Đại-quỷ-vương như Tần-na, Dạ-ca, và các Quỷ-xoái, cũng ở trước Phật, chất tay đảnh-lễ mà bạch Phật rằng: "Chúng tôi cũng thệ-nguyện hộ-trì cho người đó, khiến cho tâm Bồ-đề mau được viên-mãn".

Lại có, không lường Nhật, Nguyệt thiên-tử, Phong-sư, Vũ-sư, Vân-sư, Lôi-sư cùng với Điện-bá và các Niên-tuế-tuần-quan, chư tinh và quyến-thuộc..., cùng ở trong Hội, đảnh-lễ chân Phật mà bạch Phật rằng: "Chúng tôi bảo-hộ người tu-hành ấy, lập ra đạo-trường, được không e-sợ".

Lại có, vô-lượng Sơn-thầnHải-thần, tất-cả tinh-kỳ, đất-đai muôn vật, thủy, lục, không, hành, với Phong-thần-vương và Chư-thiên Vô-sắc-giới, ở trước Như-lai, đồng-thời cúi đầu bạch Phật rằng: "Chúng tôi cũng bảo-hộ người tu-hành ấy, được thành Bồ-đề, hẳn không ma-sự".

Khi bấy giờ, 84.000 na-do-tha hằng-hà-sa Câu-chi Kim-cang-tạng-vương Bồ-tát, ở trong đại Hội, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:

"Thế-tôn, như bọn chúng tôi, công-nghiệp tu-hành, đã thành đạo Bồ-đề lâu rồi, mà không nhận-lấy Niết-bàn, thường theo chú nầy, cứu-giúp những người chân-chánh tu-hành pháp Tam-ma-địa trong đời mạt-pháp.”

Bạch Thế-tôn, những người tu-tâm vào chánh định như thế, dù ở đạo-trường, hay là những lúc kinh-hành, cho đến khi tán-tâm đi chơi trong làng-xóm, đồ-chúng chúng tôi thường phải đi theo thị-vệ người ấy, dù cho Ma-vương, Đại-tự-tại-thiên muốn được phương-tiện khuấy-phá, cũng không thể được; các quỷ-thần nhỏ, phải cách xa người lành ấy, ngoài 10 do-tuần, trừ khi, họ phát-tâm thích người tu-thiền.

Bạch Thế-tôn, những ác-ma như thế, hay quyến-thuộc của ma, muốn đến xâm-lấn khuấy-phá người lành ấy, chúng tôi dùng bảo-xứ đập-nát cái đầu như vi-trần, thường khiến cho người ấy tu-hành được như nguyện.

Ta thấy KINH THỦ LĂNG NGHIÊM dạy, cho dù QÚY-VỊ tu theo HIỂN-GIÁO hay là MẬT-GIÁO gì cũng được VIÊN THÔNG VÔ-NGẠI, cho nên có thể gọi “BẢO-KINH” nầy là:
 “ HIỂN-MẬT VIÊN THÔNG THÀNH PHẬT TÂM-ẤN” cũng được.

Tóm lại, nếu qúy-vị thường trì tụng BẢO-KINH THỦ NHÃN ẤN PHÁP thì cũng như NGƯỜI thường trì tụng bộ KINH THỦ LĂNG NGHIÊM, tức là KINH “ HIỂN-MẬT VIÊN THÔNG THÀNH PHẬT TÂM-ẤN”, thì sẽ rõ biết con đường chơn thật tu hành từ khi mới phát tâm cho đến  khi thành tựu QỦA DIỆU-GIÁC của CHƯ PHẬT như trong lòng bàn tay vậy.

CHO NÊN, DÙ CHO QÚY-VỊ TU THEO PHÁP MÔN NÀO CŨNG ĐỀU ĐƯỢC VIÊN-THÔNG VÔ-NGẠI. TẠI SAO VẬY ? VÌ ĐỀU DÙNG “TRÍ KIM-CANG” KHÔNG SANH CŨNG KHÔNG DIỆT MÀ KHỞI TU, NÊN ĐƯỢC TỰ-TẠI.

TRÍ KIM-CANG là: “NHẬP ĐẠO YẾU MÔNQUÁN LÝ NHƯ-HUYỄN.” THÌ SẼ  TU CHỨNG TỪNG PHẦN CHO ĐẾN QỦA DIỆU-GIÁC CỦA CHƯ PHẬT. (Kinh Lăng Nghiêm)

Kệ tụng:

Đa văn đệ nhất thuộc A Nan
Quảng học thiện ký Khổng Nhan Uyên
Độc tụng đại thừa thâm bát nhã
Trí huệ thao thao như dũng tuyền.



Bảo-Kinh Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Bảy



Tất Đà Dạ. Ta Bà Ha.
                                    Ma Ha Tất Đà Dạ. Ta Bà Ha. [53-56]



Án-- a hạ ra, tát ra phạ ni,
                              nể dã đà ra, bố nể đế, tát-phạ hạ.




53) Tất Đà Dạ

Theo trong KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG” nói rằng : “Khi Qúi vị trì tụng câu chú Tất Đà Dạ, thì Bồ-tát XÁ-LỢI-PHẤT sẽ  “XUẤT HIỆN” , NGÀI thường trì tụng “BẢO-KINH THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, giúp cho Qúy vị “THÔNG ĐẠT TẤT CẢ PHÁP MÔM”.

Cho nên, “QÚY VỊ” tu pháp nào cũng được “VIÊN THÔNG VÔ NGẠI”, làm việc gì cũng được “SỰ KIẾT-TƯỜNG NHƯ Ý”.


BỒN-THÂN NGÀI XÁ-LỢI-PHẤT BỒ-TÁT

 

( Thường TRÌ “BẢO-KINH THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, để giúp cho Qúi vị “THÔNG ĐẠT TẤT CẢ PHÁP MÔM”, làm việc gì cũng được “SỰ KIẾT-TƯỜNG NHƯ Ý”.

Và ngược lại nếu “QÚI VỊ” Thường TRÌ “BẢO-KINH THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, thì Qúi vị là “HÓA THÂN” của Bồ-tát XÁ-LỢI-PHẤT, nghĩa là cũng đạt được như Ngài vậy.)


Còn theo “KỆ TỤNG” thì khi TRÌ TỤNG “BẢO-KINH THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, thì Bồ-tát XÁ-LỢI-PHẤT sẽ “XUẤT HIỆN” với THÂN TƯỚNG TRANG NGHIÊM, để cứu độ cho chúng sanh hữu duyên được sanh về cõi “THƯỜNG TỊCH QUANG” của CHƯ PHẬT, vì cùng “CHƯ PHẬT” ở chung một chổ, cho nên thông đạt tất cả các pháp môn, rồi trở lại “TA BÀ” độ tất cả kẻ thân người oán đồng được vãng sanh, đồng thành PHẬT ĐẠO.

 

Kệ tụng :


Mỹ diệu tướng hảo trang nghiêm thân

Thông đạt nhất thiết chư pháp môn

Phổ độ hữu duyên sanh Cực Lạc

Thường Tịch Quang độ chơn hựu chơn


54) Ta Bà Ha

 

Theo trong KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG” nói rằng : “Khi Qúi vị trì tụng câu chú Ta Bà Ha, thì Bồ-tát HẰNG-HÀ-SA  sẽ  “XUẤT HIỆN” đứng trên đầu “CÁ-NGAO” (HÌNH GIỐNG NHƯ CON RỒNG) DẠO TRONG BIỂN PHÁP VÔ BIÊN, giúp cho Qúi vị MAU CHÓNG TRỌN VẸN “TÂM” VẮNG LẶNG.

 

BỔN-THÂN NGÀI HẰNG-HÀ-SA BỒ-TÁT

 

( Thường TRÌ “BẢO-KINH THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, để giúp cho Qúi vị MAU CHÓNG TRỌN VẸN “TÂM” VẮNG LẶNG.

 

Và ngược lại nếu “QÚI VỊ” Thường TRÌ “BẢO-KINH THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, thì Qúi vị là “HÓA THÂN” của Bồ-tát HẰNG-HÀ-SA , nghĩa là cũng đạt được như Ngài vậy.)

 

Còn theo “KỆ TỤNG” thì khi TRÌ TỤNG “BẢO-KINH THỦ NHÃN ẤN PHÁP”,  thì “HÓA THÂN” của Bồ-tát HẰNG-HÀ-SA sẽ “XUẤT HIỆN” nhiều như SỐ CÁT SÔNG HẰNG, đứng SỪNG SỮNG THẲNG CAO  trên đầu “CÁ-NGAO” (HÌNH GIỐNG NHƯ CON RỒNG)CƯỜI VUI VẺ VÀO TRONG BIỂN “SÂU RỘNG” KHÔNG THỂ ĐO LƯỜNG, ĐỂ CỨU ĐỘ CHÚNG SANH LÌA (LY) NGÃ CHẤP CÙNG PHÁP CHẤP 

 

Kệ tụng :

 

 

“Hằng HÀ SA” số chư Bồ tát

Tủng lập ngao đầu tiếu ha ha

Pháp hải uông dương vô bất độ

Chúng sanh dữ ngã ly tự tha 


55) Ma Ha Tất Đà Dạ

 

Theo trong KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG” nói rằng : “Khi Qúy vị trì tụng câu chú Ma Ha Tất Đà Dạ, thì Bồ-tát  PHÓNG-QUANG sẽ  “XUẤT HIỆN” Tay cầm cây “PHƯỚN ĐỎ”.

Đây là đấng đã thành tựu “BẢO-KINH THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, giúp cho Qúy vị MAU ĐẠT ĐƯỢC “ĐỦ MỌI PHÁP” MỘT CÁCH RỘNG LỚN”.


 

BỔN-THÂN NGÀI PHÓNG-QUANG BỒ-TÁT


 

( Thường TRÌ “BẢO-KINH THỦ NHÃN ẤN PHÁP” , để giúp cho Qúy vị MAU ĐẠT ĐƯỢC “ĐỦ MỌI PHÁP” MỘT CÁCH RỘNG LỚN”.

 

Và ngược lại nếu “QÚY VỊ” Thường TRÌ “BẢO-KINH THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, thì Qúy vị là “HÓA THÂN” của Bồ-tát PHÓNG-QUANG, nghĩa là cũng đạt được như Ngài vậy.)

 

 

Còn theo “KỆ TỤNG” thì khi TRÌ TỤNG “BẢO-KINH THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, thì Bồ-tát PHÓNG QUANG sẽ “XUẤT HIỆN”, Ngài dùng “QUANG MINH” CHIẾU KHẮP THẾ GIAN, LÀM CHO 4 LOẠI CHÚNG SANH “NOÃN, THAI, THẤP, HÓA”…ĐỀU ĐƯỢC NO ĐỦ LÌA ĐƯỢC NẠN ĐÓI KHÁT “NHƯ BỊ TREO NGƯỢC” KHÔNG ĂN MÓN GÌ ĐƯỢC, CŨNG NHƯ CHÚNG SANH Ở “NGẠ QUỶ” VẬY.

CHÚNG SANH TRONG 9 PHÁP GIỚI TRÌ THỦ NHÃN NẦY, THÌ THÀNH “CHÁNH GIÁC”, THÌ ĐƯỢC “THƯỜNG, LẠC, NGÃ, TỊNH” NHƯ CHƯ PHẬT VẬY.

 

 

Kệ tụng :

 

 

“PHÓNG” đại “QUANG” minh chiếu thế gian

Thai noãn thấp hóa ly đảo huyền

Cửu giới chúng sanh thành chánh giác

Thường lạc ngã tịnh phẩm tự cao 


56) Ta Bà Ha

 

Theo trong KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG” nói rằng : “Khi Qúy vị trì tụng câu chú Ta Bà Ha, thì Bồ-tát MỤC-KIỀN-LIÊN sẽ  “XUẤT HIỆN” với Tay cầm cây “TÍCH-TRƯỢNG” quảy áo “CÀ-SA”.

Đây là đấng đã thành tựu “BẢO-KINH THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, giúp cho Qúy vị “DIỆT TRỪ TẤT CẢ TAI NẠN”.

 

BỔN-THÂN NGÀI MỤC-KIỀN-LIÊN BỒ-TÁT

 

( Thường TRÌ “BẢO-KINH THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, giúp cho Qúy vị “DIỆT TRỪ TẤT CẢ TAI NẠN”.

Và ngược lại nếu “QÚY VỊ” Thường TRÌ “BẢO-KINH THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, thì Qúy vị là “HÓA THÂN” của Bồ-tát MỤC-KIỀN-LIÊN, nghĩa là cũng đạt được như Ngài vậy.)

 

 

Còn theo “KỆ TỤNG” thì khi TRÌ TỤNG “BẢO-KINH THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, thì Bồ-tát MỤC-KIỀN-LIÊN sẽ “XUẤT HIỆN”.

Đây là đấng rất HY HỮU có “THẦN THÔNG BIẾN HÓA” đệ nhất, thường dùng cây “TÍCH-TRƯỢNG” vào trong ĐỊA NGỤC làm cho CHÚNG SANH LY-KHỔ PHÁT “BỒ-ĐỀ TÂM”.

Cho nên, chúng sanh trong “ĐỊA NGỤC” đều chịu “ƠN SÂU” của ngài.

Theo HT.TUYÊN HÓA trong “Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Thiển Thích” thì Tôn Giả Ma Ha Mục Kiền Liên chính là ĐỊA-TẠNG BỒ TÁT.

 

 

Kệ tụng :

 

 

Thần thông biến hóa thuộc đệ nhất

Kim tích trượng cứu thế gian hy

Địa ngục chúng sanh mông ân thọ

Ly chư chướng nạn phát bồ đề

 

KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”

HT. THIỀN-TÂM Dịch ra VIỆT-VĂN

 

KỆ TỤNG

HT. TUYÊN-HÓA Kệ-tụng




53. Tất đà da
54. Ta bà ha
55. Ma ha tất đà da
56. Ta bà ha


Chữ Tất đà da có năm nghĩa: Thứ nhất là “Thành tựu đốn kiết”. Thứ hai là “thành biện”. Thứ ba là “thành lợi”.Thứ tư là “nhất thiết nghĩa thành tựu” và thứ năm là “sở cung xưng tán”.

Thành tựu đốn kiết nghĩa là khi sử dụng thần chú này, thì mọi sở cầu, sở nguyện của hành giả liền tức khắc (đốn) được an lành (kiết), toại nguyện.

Có người hỏi: “Tại sao tôi cũng trì chú Đại Bi, mà không được toại nguyện tức thì”? Vì sự trì niệm chú Đại Bi đòi hỏi phải có sự tương ứng từ nỗ lực dụng công. Nếu không có sự nỗ lực hành trì tương ứng, thì sẽ không có sự thành tựu. Nếu có sự cảm ứng, dung thông thì mọi sở cầu, sở nguyện của hành giả đều được thành tựu.

Tất đà dạ còn có nghĩa là “thành biện”. Nghĩa là hành giả làm bất cứ việc gì thì kết quả đều đạt được viên mãn.

Cũng gọi là “thành lợi” là vì mọi việc làm đều được thành tựu lợi ích.
Nhất thiết nghĩa thành tựu có nghĩa là làm bất kỳ việc gì cũng đều được thành tựu.

Sở cung xưng tán có nghĩa là mọi người đều đến khen ngợi, cung kính tán dương công đức của hành giả.

Ma ha tất đà dạ. Ai cũng đều biết Ma ha có nghĩa là lớn. Câu chú này có nghĩa là hành giả đạt được mọi sự nghiệp to lớn, thành tựu được công đức thù thắng và đạo nghiệp viên mãn. Trong mọi việc, hành giả đều đạt được sự thành tựu viên mãn cao tột.

Cả hai câu chú hợp lại Tất đà dạ ta bà ha Ma ha tất đà dạ ta bà ha là Bảo kinh thủ nhãn ấn pháp. Bảo Kinh là sự quý giá vô ngàn của Kinh điển, chính là Pháp bảo. Nếu quý vị tu tập ấn pháp này thì sẽ đạt được lợi lạc vô cùng vô tận. Trong tương lai, trí tuệ và sức ghi nhớ của quý vị sẽ rất tinh anh. Nghĩa là có được khả năng “bác văn cường ký” – nghe nhiều, nhớ kỹ.

Ký ức của chúng ta thường hoạt động theo một lối riêng. Cũng như không thể nào đi nếu không có cây gậy. Sau khi đọc được điều gì, chúng ta không thể nhớ rõ ràng hết được. Chỉ khi nào cần cho sự học tập của mình, chúng ta mới lục lại tìm kiếm hay tra cứu lại những ghi chép. Tại sao trí nhớ của mình lại quá kém. 

Vì quý vị chưa từng hành trì Bảo kinh thủ nhãn ấn pháp này. Nếu quý vị hành trì ấn pháp này, quý vị sẽ đạt được sự hiểu biết thông tuệ và kiến thức rất đa dạng. Giống như Tôn giả A Nan, là đệ tử đa văn đệ nhất của đức Phật. Có thể nói Ngài A Nan đã hành trì Bảo kinh ấn pháp mà chẳng nghi ngờ gì. Ngài đã thành tựu ấn pháp này từ vô lượng kiếp rồi, nên khi nghe được điều gì, thì không còn quên nữa. Ngay cả Ngài có thể nhớ được những điều Ngài chưa từng nghe. Tại sao tôi nói như vậy? 

Vì Tôn giả A Nan ra đời cùng ngày đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo. Như thế nên hai mươi năm trước, khi A Nan chưa xuất gia, thì những bài thuyết pháp của đức Phật Ngài A Nan chưa được nghe. Thế thì làm sao A Nan có thể kết tập toàn bộ Kinh điển sau khi đức Phật nhập Niết bàn? 

Vì A Nan được nghe các vị trưởng lão giảng lại những bài Kinh mà đức Phật đã thuyết từ trước, hoặc chính do đức Phật giảng lại cho A Nan nghe khi A Nan nhập định nên A Nan thừa biết rõ nguyên nhân của sự nhớ giỏi này là nhờ đã hành trì Bảo kinh thủ nhãn ấn pháp thành tựu.

Có người hỏi tôi: “Làm thế nào để có được trí nhớ tốt?” Câu trả lời đơn giản là hãy hành trì Bảo kinh ấn pháp. Những người nhớ được Kinh rõ ràng là có duyên với ấn pháp này.

Ở trong đồ hình mạn đà la, đây là ấn pháp Bồ tát phóng quang. Ngài phóng ra hào quang và tay cầm một tràng phan màu đỏ. Toàn thân Bồ tát phóng ra những luồng hào quang sáng chói biểu tượng cho sự khai mở trí tuệ, sự cường ký, trí lực đa văn quảng kiến và công đức thành tựu viên mãn.


ĐẠI BI CHÚ
Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa
Bản dịch của THÍCH NHUẬN CHÂU
CÚ GIẢI
(Giảng giải từng câu)




36. The Transformation Palace Hand and Eye

The Sutra says: “For always being present in the palaces of the Buddhas throughout all  
                         successive lives and births and never receiving a body born from a   
                         womb, use the Transformation Buddha Hand.”

                             

The Mantra: Fa mwo la.

The True Words: Nan. Wei sa la. Wei sa la. Hung pan ja.



The verse:



In all incarnations, in every life, born in the Dharma King’s house,
Born from a wonderful lotus blossom in a multi-storied palace.
Not undergoing birth from a womb, one’s body is clean and pure,
To believe, understand, practice, and prove to the Way of the Great Budhisattva.





36. Hóa-Cung-Điện Thủ Nhãn Ấn Pháp



Kinh nói rằng: “Nếu muốn đời đời kiếp kiếp thường ở trong cung điện Phật, không thọ
                      sanh ở bào thai, nên cầu nơi Tay hiện Hóa-Cung-Điện.”

Thần-chú rằng: Phạt Ma Ra [34]
Chơn-ngôn rằng: Án-- vi tát ra, vi tát ra, hồng phấn tra.


Kệ tụng:

Thế thế sinh sinh pháp vương gia
Cung điện lâu các diệu liên hoa
Bất thọ thai tạng thân thanh tịnh
Tín giải hành chứng ma ha tát.


[

Đời đời kiếp kiếp, được sanh ra trong nhà của ĐẤNG PHÁP-VƯƠNG.
Hóa sanh từ DIỆU LIÊN HOA trong CUNG ĐIỆN LÂU CÁC.
THÂN TÂM thanh tịnh, không còn thọ thân BÀO THAI nữa.
TÍN, GIẢI, HÀNH, CHỨNG thành Bồ-tát ĐẲNG-GIÁC Ma-ha-tát. 

]



Muốn được vào nhà của đấng PHÁP-VƯƠNG, phải dùng TRÍ KIM-CANG quán lý như HUYỄN-TRỤ, cũng như đồng-tử Ðức-Sanh và đồng-nữ Hữu-Ðức dạy thiện-tài quán 10 môn huyễn-trụ. Xong rồi dạy tới vị THIỆN TRI THỨC THỨ 51, tức là DI-LẠC BỒ-TÁT để được vào  MỘT TÒA LÂU CÁC rộng lớn tên là Tỳ-Lô-Giá-Na-Trang-Nghiêm Tạng, đây cũng là một cõi nước của BỒ-TÁT DI-LẠC do TÂM TỪ-BI hóa hiện ra để HÓA ĐỘ CHÚNG-SANH, có đủ Y-BÁO và CHÁNH BÁO như ở cõi CỰC-LẠC của PHẬT A-DI ĐÀ vậy. Trong đó thì biết rõ thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo, thế nào Tín giải hành chứng vào TÁNH PHÁP-GIỚI, không còn thọ THÂN BÀO THAI nữa. 


KINH VĂN:

Ðức-Sanh và Hữu-Ðức nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Chúng tôi chứng được bồ-tát giải-thoát tên là huyễn-trụ.
Vì được môn giải-thoát nầy nên thấy:

1)      Tất cả THẾ-GIỚI đều là huyễn trụ, do nhơn-duyên mà sanh khởi.
2)      Tất cả CHÚNG-SANH đều là huyễn trụ, do nghiệp phiền-não mà khởi.
3)      Tất cả THẾ-GIAN đều là huyễn trụ, do vô-minh, hữu, ái  xoay vần làm duyên sanh khởi.
4)      Tất cả PHÁP đều là huyễn trụ, do những huyễn-duyên ngã-kiến… sanh khởi.
5)      Tất cả TAM THẾ đều là huyễn trụ, do những điên đảo trí ngã-kiến… sanh khởi.
6)      Tất cả CHÚNG-SANH SANH DIỆT, SANH LÃO BỊNH TỬ ƯU BI KHỔ NÃO đều là huyễn trụ, do hư-vọng phân-biệt sanh khởi.
7)      Tất cả QUỐC-ĐỘ đều huyễn trụ, do tưởng-đảo, tâm-đảo, kiến-đảo và vô-minh hiện khởi.
8)      Tất cả THANH-VĂN và BÍCH-CHI-PHẬT đều là huyễn trụ, do trí-đoạn phân-biệt  mà thành.
9)      Tất cả BỒ-TÁT đều là huyễn trụ, do những hạnh nguyện hay tự điều phục và giáo-hóa chúng-sanh mà thành.
10)  Tất cả PHẬT Bồ-tát chúng-hội biến-hoá điều-phục, những công-hạnh đều là huyễn-trụ, do nguyện-trí-huyễn mà thành.

Nầy Thiện-nam-tử! Huyễn-cảnh tự-tánh bất-tư-nghì.
Chúng tôi chỉ biết môn giải-thoát huyễn-trụ nầy.

Như chư đại Bồ-Tát khéo nhập vô-biên sự huyễn.  Chúng ta thế nào biết được nói được công-đức-hạnh đó.

Ðồng-Tử và Ðồng-Nữ nói môn giải-thoát của mình đã chứng xong, dùng sức thiện-căn bất-tư-nghì làm cho thân Thiện-Tài được nhu nhuyến bóng sáng, mà nói rằng:
Nầy Thiện-nam-tử! Phương nam đây có nước Hải-Ngạn. Trong nước ấy có khu vườn Ðại-Trang-Nghiêm. Trong vườn CÓ MỘT TÒA LÂU CÁC rộng lớn tên là Tỳ-Lô-Giá-Na-Trang-Nghiêm Tạng.

“Lâu các nầy có ra là do bồ-tát thiện-căn quả báo, do bồ-tát niệm-lực, nguyện-lực, tự-tại-lực, thần thông-lực, do bồ-tát thiện-xảo phương-tiện, do bồ-tát phước-đức trí Huệ.”
Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát trụ bất-tư-nghì giải-thoát dùng tâm đại-bi vì các chúng-sanh mà hiện cảnh-giới như vậy, chứa họp những trang-nghiêm như vậy.

Di-Lặc đại Bồ-Tát ở trong lâu các ấy để nhiếp thọ phụ mẫu quyến-thuộc và nhơn-dân làm cho họ được thành-thục. Lại muốn cho những chúng-sanh đồng thọ-sanh, đồng tu-hành ở trong đại-thừa được kiên-cố. Lại muốn cho tất cả chúng-sanh ấy, tùy bậc tùy thiện-căn, đều được thành-tựu.


 
Di-Lặc Đại Bồ-Tát
Vị Thiện-tri-thức thứ 51

Ðến nước Hải-Ngạn, Thiện-Tài dùng tâm tôn trọng như vậy, cúng-dường như vậy, xưng tán như vậy, quán-sát như vậy, nguyện lực như vậy, tưởng niệm như vậy, vô-lượng cảnh-giới trí-huệ như vậy, ở trước đại lâu-các Tỳ-Lô-Giá-Na Trang-Nghiêm-Tạng gieo năm vóc đảnh lễ, tạm thời nhiếp niệm tư duy quán-sát

Bấy giờ Thiện-Tài nói kệ rằng:

Lâu các đây là chỗ ở của
Ðức Từ-Thị lợi ích thế-gian
Quán-đảnh đại-bi thanh-tịnh-trí
Pháp-Vương-Tử nhập Như-Lai cảnh.
Sau khi dùng vô-lượng pháp xưng tán để tán dương chư Bồ-Tát ở trong đại lâu-các Tỳ-Lô-Giá-Na-Trang-Nghiêm, Thiện-Tài cung kính đảnh lễ nhất-tâm nguyện thấy Di-Lặc Bồ-Tát để thân-cận cúng-dườngbèn thấy đức Di-Lặc Bồ-Tát từ chỗ khác đến, vô-lượng Thiên, Long, Bát-Bộ, Ðế-Thích, Phạm-Vương, Tứ-Thiên-Vương cùng vô-lượng thân-quyến và vô-số chúng-sanh theo Di-Lặc Bồ-Tát.

Thiện-Tài vui mừng hớn hở, gieo mình mọp lạy.

Di-Lặc Bồ-Tát quan-sát Thiện-Tài, chỉ-thị với đại-chúng về công-đức của Thiện-Tài mà nói kệ rằng:
Ngươi dùng tâm tín giải
Mà đến kính lễ ta
Chẳng lâu sẽ vào khắp
Tất cả phật-pháp-hội.

Lành thay chân Phật-Tử
Cung kính tất cả Phật
Chẳng lâu đủ các hạnh
Ðến bờ phật  công-đức.

Ngươi nên mau đến chỗ
Của Ðại-Trí Văn-Thù
Ngài sẽ khiến ngươi được
Hạnh thâm-diệu Phổ-Hiền.
Nầy Thiện-nam-tử! Như ngươi hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo?
Ngươi nên vào trong lâu các Tỳ-Lô-Giá-Na-Ðại-Trang-Nghiêm nầy, ngươi quán-sát khắp nơi thời có thể biết rõ học bồ-tát-hạnh, học rồi thời thành-tựu vô-lượng công-đức.

Thiện-Tài Ðồng-Tử cung kính hữu-nhiễu Di-Lặc Bồ-Tát, rồi thưa rằng:
Xin Ðại-Thánh mở cửa lâu các cho tôi được vào.

Lúc ấy Di-Lặc Bồ-Tát đến trước cửa LÂU CÁC đàn chỉ ra tiếng, cửa liền mở. Bồ-Tát bảo Thiện-Tài vào.

Thiện-Tài rất hoan-hỷ đi vào trong lâu các, cửa liền đóng lại.


Thiện-Tài ở một chỗ thấy tất cả chỗ. Nơi tất cả chỗ đều thấy như vậy.

Thiện-Tài thấy lâu các Tỳ-Lô-Giá-Na-Trang-Nghiêm-Tạng có bất-tư-nghì cảnh-giới tự-tại như vậy, lòng rất vui mừng hớn hở vô-lượng, thân tâm nhu nhuyến, rời tất cả tưởng, trừ tất cả chướng, diệt tất cả hoặc, chỗ thấy chẳng quên, chỗ nghe đều nhớ, chỗ nghĩ chẳng tạp, chứng nhập môn vô-ngại giải-thoát, vận dụng tâm cùng khắp, thấy cùng khắp, kính lễ cùng khắp.

Vừa mới cúi đầu, do thần-lực của Di-Lặc Bồ-Tát, Thiện-Tài tự thấy thân của mình ở khắp trong tất cả lâu các, thấy đủ những cảnh-giới tự-tại bất-tư-nghì:

Những là thấy Di-Lặc Bồ-Tát lúc mới phát tâm tên hiệu như vậy, chủng-tộc như vậy, thiện-hữu khai ngộ khiến gieo trồng căn lành như vậy, thọ mạng như vậy, ở kiếp như vậy, gặp Phật tại quốc-độ như vậy, tu hành như vậy, phát nguyện như vậy.

Chư Phật Như-Lai ấy, những chúng-hội, thọ-mạng, thân-cận cúng-dường đều thấy rõ cả.

Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát tối-sơ chứng được từ-tâm tam-muội, từ đó đến nay hiệu là từ-thị.




Kinh Hoa Nghiêm
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh

 

Tóm lại, nếu Qúy-vị thường trì HÓA-CUNG-ĐIỆN THỦ NHÃN ẤN PHÁP thì cũng như THIỆN TÀI, được BỒ TÁT DI-LẠC mở của cho vào CUNG ĐIỆN LÂU CÁC, đây cũng là một cõi nước của BỒ-TÁT DI-LẠC do TÂM TỪ-BI hóa hiện ra để ĐỘ CHÚNG-SANH, có đủ Ý-BÁO và CHÁNH BÁO như ở cõi CỰC-LẠC của PHẬT A-DI ĐÀ vậy. Trong đó thì biết rõ thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo, thế nào Tín giải hành chứng vào TÁNH PHÁP-GIỚI, không còn thọ THÂN BÀO THAI nữa.




Kệ tụng:


Thế thế sinh sinh pháp vương gia
Cung điện lâu các diệu liên hoa
Bất thọ thai tạng thân thanh tịnh
Tín giải hành chứng ma ha tát.


 


Hóa-Cung-Điện Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Sáu

Phạt Ma Ra [34]
Án-- vi tát ra, vi tát ra, hồng phấn tra.



---o0o---

34) Phạt Ma Ra

 

Theo trong KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG” nói rằng : “Khi Qúi vị trì tụng câu chú Phạt Ma Ra, thì BỔN THÂN NGÀI ĐẠI-HÀNG-MA KIM CANG  sẽ  “XUẤT HIỆN” Tay cầm KIM-LUÂN, giúp cho Qúi vị đời đời kiếp kiếp thường ở trong cung điện Phật, không thọ sanh ở bào thai.

 

Đây là đấng “TỐI THÙ THẮNG, VÔ CẤU NHIỂM” đã thành tựu “HÓA-CUNG-ĐIỆN THỦ NHÃN ẤN PHÁP”.

 

BỔN-THÂN NGÀI ĐẠI-HÀNG-MA KIM-CANG 

(Đây là đấng “TỐI THÙ THẮNG, VÔ CẤU NHIỂM” đã thành tựu “HÓA-CUNG-ĐIỆN THỦ NHÃN ẤN PHÁP”. Cho nên có thể giúp cho QÚI VỊ  đời đời kiếp kiếp thường ở trong cung điện Phật, không thọ sanh ở bào thai”.

Và ngược lại nếu “QÚI VỊ” Thường TRÌ  HÓA-CUNG-ĐIỆN THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, thì Qúi vị là “HÓA THÂN” của NGÀI ĐẠI-HÀNG-MA KIM-CANG,  nghĩa là cũng đạt được như Ngài vậy.)

 

Còn theo “KỆ TỤNG” thì khi TRÌ TỤNG BCH-PHT TH NHÃN N PHÁP  hay HÓA-CUNG-ĐIN TH NHÃN N PHÁP”, THÌ NGÀI “ĐẠI-HÀNG-MA KIM-CANG” SẼ “XUẤT HIỆN”, DÙNG “TÂM” ĐẠI TỪ BI, ĐẠI BÌNH ĐẲNG, ĐẠI TRÍ HUỆ (BA-LA-MẬT), ĐẠI THÙ THẮNG LÀM CHO CHÚNG SANH HỮU DUYÊN MAU ĐẠT ĐẾN BỜ GIẢI THOÁT NHƯ CHƯ PHẬT VẬY.

NÓI CHUNG LÀ TẤT CẢ ĐỀU LÀ : “YẾT-ĐẾ YẾT-ĐẾ … BỒ-ĐỀ TÁT BÀ HA”.

LẠI CÒN,  CÓ THỂ DÙNG “UY THẦN” CHIẾT PHỤC NHỮNG TÀ MA NGOẠI ĐẠO, TU THEO THIỆN PHÁP.

 

Kệ tụng :

 

Chiết phục ma ngoại hiện thần uy

Đại từ cứu thế pháp vương khôi

Bình đẳng phổ tế ba la mật

Hữu duyên chúng sanh hoạch YẾT-ĐẾ”

 

KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”

HT. THIỀN-TÂM Dịch ra VIỆT-VĂN

 

KỆ TỤNG

HT. TUYÊN-HÓA Kệ-tụng


34. Phạt ma la

Phạt ma ra là “Hàng ma kim cang hộ pháp”, tay cầm bánh xe bằng vàng. Vị hộ pháp này có thể hoá thân lớn như núi Tu Di.

Phạt ma ra. Hán dịch là “Tối Thắng Ly Cấu”, có nghĩa đó là pháp thù thắng nhất, xa lìa tất cả mọi cấu nhiễm ở thế gian. Còn có nghĩa là “vô tỷ như ý”. Vì không có gì có thể sánh với pháp này và tuỳ tâm nguyện của mình mà mọi điều xảy ra như ý muốn.

Đây là Hoá cung Điện thủ nhãn ấn pháp. Nếu quí vị hành trì được ấn pháp này thành tựu, thì đời đời quí vị sẽ được sống cùng một trụ xứ với đức Phật (như trong một cung điện), không còn phải thọ sinh vào các loài thai sinh, noãn sinh và thấp sinh nữa. Công dụng của sự thành tựu ấn pháp này là đời đời được sống cùng chư Phật.

ĐẠI BI CHÚ
Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa
Bản dịch của THÍCH NHUẬN CHÂU
CÚ GIẢI
(Giảng giải từng câu)





35. The Transformation Buddha on the Palm Hand and Eye

                                              

The Sutra says: “For never being apart from the Buddhas throughout all successive
                        lives, use the Transformation Buddha Hand.”



The Mantra: E  la shen         

The True Words: Nan. Jan nwo la. Pe han ja li.
                         Jya li nwo. Chi li nwo. Chi li ni.
                         Hung pan ja.
  


The verse:


In the past one planted the roots of virtue, planting seeds of superior causes,
So that one takes as one’s retinue the Buddhas and Bodhisattvas.
In the sea of the enlightenment, placid and clean, the moon of the heart appears;
In the Wisdom of the Great and perfect mirror, the past and the present are clear.






35) Chưởng-Thượng Hóa-Phật Thủ Nhãn Ấn Pháp



Kinh nói rằng: “Nếu muốn tùy theo chỗ sanh, thường ở bên Phật, nên cầu nơi Tay hiện
                      Hóa-Phật.”


Thần-chú rằng: A Ra Sâm [38]

Chơn-ngôn rằng: Án-- chiến na ra, ba hàm tra rị,
                                   ca rị na, chỉ rị na, chỉ rị nỉ, hồng phấn tra.

Kệ tụng:

Túc thực đức bản chủng thắng nhân
Chư Phật Bồ tát quyến thuộc thân
Giác hải trừng thanh tâm nguyệt hiện
Đại viên kính trí cổ kim minh.


[

Trong quá khứ đã trồng THIỆN CĂN CÔNG ĐỨC, nhưng chưa  từng gieo chủng nhân thù thắng.

Vì vậy, nên không được làm QUYẾN THUỘC của
 chư Phật và Bồ-Tát.

Trong biển giác ngộ, KHI TÂM THANH TỊNH THÌ xuất hiện MẶT TRĂNG DƯỚI NƯỚC,

                                    dụ cho TÂM PHẬT cùng TÂM BỒ-TÁT HIỆP NHAU, tức là ĐẲNG-GIÁC BỒ TÁT.

Trong  đại viên cảnh trí, TẤT CẢ BA ĐỜI QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI và VỊ LAI ĐIỀU HIỆN 
rất rõ ràng,
                                                                                thì thành VÔ-THƯỢNG ĐẠO, tức là DIỆU-GIÁC.

]




Chúng ta được được “QUY Y TAM BẢO”, y theo “PHẬT PHÁP TĂNG” mà tu hành là gì trong đời qúa khứ chúng ta đã trồng nhiều “THIỆN CĂN CÔNG ĐỨC”  với TAM BẢO.

Nhưng chúng ta chưa từng gieo CHỦNG NHÂN THÙ THẮNG, nên hiện tại không được gặp CHƯ PHẬT BỒ TÁT, không được LÀM  QUYẾN THUỘC, không được ở chung một CHỔ VỚI CHƯ PHẬT BỒ-TÁT.
Tại  vì sao? Vì chúng ta chưa từng tu CHƯỞNG-THƯỢNG HÓA-PHẬT THỦ NHÃN ẤN PHÁP.

Cho nên, nếu Qúy-vị trì thủ nhãn này, tức là gieo được chủng nhân thù thắng, nhất định trong đời vị lai sẽ làm quyến thuộc của chư PHẬT BỒ TÁT.

Lại nữa, Niệm PHẬT A-DI-ĐÀ CẦU VÃNG SANH, cũng là gieo chủng nhân thù thắng vì được vãng sanh tây phương cùng chư phật bồ tát ở chung một chỗ.



KINH VĂN:

“ Xá- Lợi- Phất! Lại trong cõi Cực Lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bực bất thối chuyển. Trong đó có rất nhiều vị bực nhất sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà hết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a-tăng-kỳ để nói thôi!


Xá- Lợi- Phất! Chúng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sanh về nước đó. Vì sao? Vì đặng cùng với các bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ.


Lại nữa, khi trì thủ nhãn nầy được NHẤT TÂM, thì cũng như  PHẬT và BỒ-TÁT gặp nhau ở tại biển giác ngộ, đây là cảnh giới “TÂM ẤN TÂM”, tức là ĐẲNG-GIÁC BỒ TÁT.


Giác hải trừng thanh tâm nguyệt hiện.




Trì THỦ NHÃN đến đây phải dùng “TÂM KIM-CANG” hay “TRÍ KIM-CANG”, QUÁN LÝ NHƯ HUYỄN ĐỂ PHÁ TRỪ  VI-TẾ SANH-TƯỚNG VÔ-MINH, THÀNH VÔ SỞ ĐẮC, tức là chuyển TẠNG THỨC thành ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ, thì biết rõ ràng KHẮP QUÁ KHỨ VỊ LẠI, đây là qủa DIỆU GIÁC CỦA CHƯ PHẬT.

Đại viên kính trí cổ kim minh.




ĐẲNG-GIÁC

Như-lai ngược dòng trở lại, vị Bồ-tát đó thuận dòng đi tới, giác-ngộ vào chỗ giao-tiếp với nhau; gọi là Đẳng-giác.
[
ĐẲNG-GIÁC là sự giác ngộ đồng với CHƯ PHẬT. 12 CHỦNG LOẠI CHÚNG-SANH thì hướng tới QỦA PHẬT, còn CHƯ PHẬT thì hướng tới chúng sanh để HỘ NIỆM, làm cho chúng sanh PHÁT BỒ ĐỀ TÂM, tu hành được sự giác ngộ như PHẬT; thì gọi là ĐẲNG-GIÁC BỒ-TÁT.
]

A-nan, từ tâm Càn-huệ đến Đẳng-giác rồi, giác đó mới bắt-đầu được Sơ-càn-huệ-địa trong tâm Kim-Cang.

]

Từ Càn-huệ địa đến Đẳng-giác rồi, vì còn chấp mình LÀ ĐẲNG-GIÁC BỒ-TÁT, NÊN CÒN CÓ VI-TẾ SANH-TƯỚNG VÔ-MINH, phải dùng “TÂM KIM-CANG” để phá trừ tất cả sở đắc, như là SƠ-CÀN-HUỆ-ĐỊA trong TÂM KIM-CANG, THẬP TÍN trong TÂM KIM-CANG…ĐẲNG-GIÁC trong TÂM KIM-CANG. CHO NÊN, GỌI LÀ SƠ-CÀN-HUỆ-ĐỊA TRONG TÂM KIM-CANG.

]




DIỆU-GIÁC


Như vậy lớp-lớp tu đơn, tu kép 12 vị mới cùng tột Diệu-giác, thành đạo Vô-thượng.

[

Tu Đơn, tu kép 12 vị :
1)    CÀN HUỆ ĐỊA        
2)    THẬP TÍN                          
3)    THẬP TRỤ
4)    THẬP HẠNH
5)    THẬP HỒI HƯỚNG
6)    NOÃN
7)    ĐẢNH
8)    NHẪN
9)    THẾ ĐỆ NHỨT
10)  THẬP ĐỊA
11)   ĐẲNG-GIÁC
12)   TÂM KIM CANG

( dùng TÂM KIM CANG phá trừ từng phần VÔ-MINH cho đến VI-TẾ VÔ-MINH mới cùng tột Diệu-giác, thành đạo Vô-thượng.)

]

Các thứ địa ấy, đều lấy trí Kim-cang quán-sát mười thứ ví-dụ như-huyễn sâu-xa, trong Xa-ma-tha, dùng phép Tỳ-bà-xá-na của các đức Như-lai mà thanh-tịnh tu-chứng, lần-lượt đi sâu vào.

[
Các địa vị ấy, đều dùng “TÂM KIM-CANG” hay “TRÍ KIM-CANG” QUÁN LÝ “NHƯ-HUYỄN SÂU-XA”,
tức là CHỈ và QUÁN KHÔNG HAI, ĐỊNH HUỆ BẤT NHỊ mà thanh tịnh tu chứng, lần lượt đi sâu vào.

Dùng “TRÍ KIM-CANG” QUÁN LÝ “NHƯ-HUYỄN SÂU-XA” LÀ:



1. Quán NGƯỜI như huyễn
2. Quán ÁNH NẮNG (DƯƠNG DIỆM) như huyễn
3. Quán TRĂNG DƯỚI NƯỚC như huyễn
4. Quán HOA ĐỐM TRONG HƯ KHÔNG như huyễn
5. Quán TIẾNG VANG TRONG HANG ĐỘNG như huyễn
6. Quán THÀNH CÀN THÁT BÀ ( LÀM BẰNG HƠI SƯƠNG TRONG BIỂN) như huyễn
7. Quán MỘNG như huyễn
8. Quán BÓNG như huyễn
9. Quán TƯỢNG TRONG GƯƠNG như huyễn
10. Quán ẢO HÓA như huyễn.
]

Thân như bọt
Bể thương tang
Chìm nổi kiếp mênh mang!
Dưới trăng suy cạn khoảng đêm tàn
Chỉ nương Vô Lượng Quang.


Trời niệm tâm
Núi kiên quyết
Vọng tình xin cách tuyệt
Dần dà khó thể nhập Liên Bang
Khi nao thật được nhàn?

Thân như bọt
Bể thương tang
Chìm nổi kiếp mênh mang!
Dưới trăng suy cạn khoảng đêm tàn
Chỉ nương Vô Lượng Quang.

(Niệm Phật Phải Khắc Kỳ Cầu Chứng Nghiệm- HT. Thiền-Tâm)


A-nan, như thế, đều dùng ba tiệm-thứ tăng-tiến, nên khéo thành-tựu 55 vị trong đường Bồ-đề chân-thậtLàm cái quán như vậy, gọi là chính-quán; nếu quán cách khác, gọi là tà-quán".

]

Muốn thành tựu 55 vị trong đường Bồ-đề chân thật, trước phải tu 3 TIỆM THỨ TĂNG TIẾN là:

1)    Không ăn NGŨ VỊ TÂN
2)    PHẢI NGHIÊM TRÌ GIỚI LUẬT
3)    PHẢI NGĂN CHẶN VỌNG KHỞI CỦA HIỆN NGHIỆP PHÁT SANH

KẾ TIẾP dùng TÂM KIM CANG quán LÝ NHƯ HUYỄN, để thành tựu 55 địa vị tu chứng.



Năm mươi lăm vị trong đường Bồ đề ( vì Càn-huệ-địa là con đường mà chẳng CHÂN-THẬT, còn DIỆU-GIÁC thì CHƠN THẬT mà chẳng phải là con đường, ĐÂY LÀ QỦA PHẬT. cho nên, chỉ có 55 vị trong đường Bồ-đề chân-thật mà thôi.)



1. Thập tín [10]
2. Thập trụ [10]
3. Thập hạnh [10]
4. Thập hồi hướng [10]
5. Tứ gia hạnh [4]
6. Thập địa [10]
7. Đẳng giác [1]


]

Tóm lại, nếu Qúy-vị trì thủ nhãn này tức là gieo trồng chủng nhân thù thắng, thì đời đời kiếp kiếp sẽ được làm quyến thuộc của CHƯ PHẬT BỒ TÁT, nếu trì được NHẤT TÂM, thì cũng như “TÂM KIM CANG” hay “TRÍ KIM-CANG” phá trừ từng phần VÔ-MINH cho đến VI-TẾ SANH-TƯỚNG VÔ-MINH mới cùng tột Diệu-giác, thành đạo Vô-thượng.

Kệ tụng:

Túc thực đức bản chủng thắng nhân
Chư Phật Bồ tát quyến thuộc thân
Giác hải trừng thanh tâm nguyệt hiện
Đại viên kính trí cổ kim minh.


 
Chưởng-Thượng Hóa-Phật Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Lăm


A Ra Sâm [38]

Án-- chiến na ra, ba hàm tra rị,
                                                 ca rị na, chỉ rị na, chỉ rị nỉ, hồng phấn tra.


---o0o---

38) A Ra Sâm

Theo trong KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG” nói rằng : “Khi Qúi vị trì tụng câu chú A Ra Sâm, thì Bồ-tát QUÁN-THẾ-ÂM sẽ  “XUẤT HIỆN” với “THÂN TƯỚNG” 3 THỦ NHÃN, THỦ NHÃN CẦM CUNG-TÊN, THỦ NHÃN  CẦM BÀNG-BÀI và THỦ NHÃN CẦM NỎ-THẦN, ĐỂ GIÚP CHO “QÚY VỊ” MAU THÀNH TỰU “DIỆU PHÁP” RỘNG SÂU KHÔNG CÙNG TẬN.

Đây là đấng “CHUYỂN-PHÁP-LUÂN-VƯƠNG”  nghĩa là NGÀI THƯỜNG TUYÊN THUYẾT GIÁO NGHĨA ĐẠI THỪA.

ĐẶC BIỆT LÀ NGÀI THƯỜNG DÙNG “CHƯỞNG-THƯỢNG HÓA-PHẬT THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, để tiếp dẫn chúng sanh trong 10 phương vãng sanh về TỊNH-ĐỘ.

 

 

NGÀI QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT

 

( Thường TRÌ “CHƯỞNG-THƯỢNG HÓA-PHẬT THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, để tiếp dẫn chúng sanh trong 10 phương vãng sanh về TỊNH-ĐỘ.

 

Và ngược lại nếu “QÚI VỊ” Thường TRÌ “CHƯỞNG-THƯỢNG HÓA-PHẬT THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, thì Qúi vị là “HÓA THÂN” của Bồ-tát QUÁN-THẾ-ÂM, nghĩa là cũng đạt được như Ngài vậy.)

 

 

Còn theo “KỆ TỤNG” thì khi “PHÁT TÂM” TRÌ TỤNG 42 THỦ-NHÃN ẤN PHÁP, thì Bồ-tát QUÁN-THẾ-ÂM sẽ XUẤT HIỆN với “THÂN TƯỚNG” 3 THỦ NHÃN, THỦ NHÃN CẦM CUNG-TÊN, THỦ NHÃN  CẦM BÀNG-BÀI và THỦ NHÃN CẦM NỎ-THẦN, ĐỂ GIÚP CHO “QÚY VỊ” MAU THÀNH TỰU “DIỆU PHÁP” RỘNG SÂU KHÔNG CÙNG TẬN.

CHO NÊN, TẤT CẢ CHÚNG SANH TRONG PHÁP GIỚI TỪ “CÕI-TRỜI” CHO ĐẾN “ĐỊA-NGỤC” ĐỀU ĐƯỢC ĐỘ THOÁT RA KHỎI “TRẦM-LUÂN” TRONG TAM GIỚI.

 

TUY CÓ “SỨC MẠNH UY THẦN” CỦA VI DIỆU PHÁP, NHƯ NGÀI CHỈ DÙNG “ĐỨC” NHU HÒA NHẪN NHỊN, ĐỂ CẢM HÓA NHỮNG CHÚNG SANH CAN CƯỜNG, ĐẶC BIỆT LÀ NGÀI DÙNG “THÂN-GIÁO” LÀM GƯƠNG CHO CHÚNG SANH LÀM THEO, ĐỂ RA KHỎI VÒNG SANH TỬ “TRẦM-LUÂN” RẤT LÀ THẦN TỐC. (Bài nỗ cung tiễn uy thần tốc)

 

 

Kệ tụng :

 

Tứ thập nhị thủ diệu vô cùng

Thông thiên đạt địa cảm mê mông

Bài nỗ cung tiễn uy thần tốc

Cường giả điều phục nhược giả hưng

 

 

 

KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”

HT. THIỀN-TÂM Dịch ra VIỆT-VĂN

 

KỆ TỤNG

HT. TUYÊN-HÓA Kệ-tụng


38. A ra sam 


A ra sam dịch là “Chuyển luân pháp vương”, tức là vị Đại Pháp Vương thường chuyển cỗ xe đại pháp, thường tuyên thuyết diệu nghĩa Đại thừa. Giáo nghĩa này thậm thâm vi diệu, không ai có thể diễn nói tường tận được, nhưng hiện nay quý vị đang được nghe giảng từng chi tiết rõ ràng.

Đó là ý nghĩa của câu chú này. Đây là “Chưởng thượng hóa Phật ấn thủ nhãn ấn pháp”. Quý vị nên hành trì ấn pháp này. Khi thành tựu rồi, đời đời khi được sinh ra liền thân cận bên Phật để học hỏi giáo pháp.

Có rất nhiều cách để giảng giải chú Đại Bi. Chẳng hạn có một vị pháp sư khác giảng mỗi thủ nhãn này là danh hiệu của một vị Bồ tát. Chẳng hạn vị ấy cho rằng: Chưởng thượng hóa Phật thủ nhãn này là Chưởng thượng hóa Phật Bồ tát. Đây chính là trường hợp sai một ly đi một dặm. Sao vậy? ở đây hoàn toàn chẳng có một vị Bồ tát nào cả. Quý vị có thể đọc hết cả Tam tạng kinh điển nếu quý vị muốn nhưng sẽ chẳng thấy vị Bồ tát nào có danh hiệu là Chưởng thượng hóa Phật Bồ tát cả.

Có thể nói như thế này: Chưởng thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp là pháp tu của chư vị Bồ tát, chứ không thể gọi đó là Chưởng thượng hóa Phật Bồ tát. Nếu gọi như thế là một sai lầm.

Nên khi nói Bảo bát thủ nhãn ấn pháp quý vị có thể hiểu rằng: Bảo Bát ấn pháp là pháp tu của chư vị Bồ tát. Còn Bảo Bát không phải là danh hiệu của một vị Bồ tát. Mới đây tôi được xem qua bộ “Đại Bi Kinh giảng nghĩa” ở Hồng Kông gửi sang, trong kinh này họ đã giảng bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp là danh hiệu của bốn mươi hai vị Bồ tát. Đó hoàn toàn sai lầm. 

Bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp trong kinh là các pháp tu của hàng Bồ tát. Người học Phật pháp nên ghi nhớ kỹ điểm này, không nên xác tín mà không căn cứ trên sự thực hiển nhiên. Trong khi giải thích Phật pháp cho người nghe, quý vị phải có một lập trường vững chãi, chính xác về những gì mình đưa ra, còn không quý vị sẽ phạm sai lầm.

A ra sam là Chưởng thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp mà các vị Bồ tát đều phải tu hành.

Quý vị lại hỏi: “Bồ tát nào?”

Đây chẳng phải là một vị Bồ tát nào riêng biệt cả. Bất kỳ người nào hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp thì người ấy chính là Bồ tát. 

Bất luận người nào không tu tập bốn mươi hai ấn pháp thì người ấy không phải là Bồ tát. Nếu quý vị tu tập bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp được thành tựu thì có thể minh chứng rõ ràng quý vị đã dự vào hàng Bồ tát rồi.

ĐẠI BI CHÚ
Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa
Bản dịch của THÍCH NHUẬN CHÂU
CÚ GIẢI
(Giảng giải từng câu)

MA-HA BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA TÂM KINH



Quán-tự-tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thụ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.

Xá-Lợi-Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thụ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh, diệc vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc.

Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu tam bồ-đề.

Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chân thật bất hư.

Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:

 

Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát ba ha.

 

Ma-ha Bát-nhã Ba la-mật-đa.

(3 lần)



 “BÁT-NHÃN TÂM-KINH” nói rằng :



Quán-tự-tại Bồ-tát “QUÁN THẤY”...


Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức;

( không có ngũ-uẩn)

vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp;

( không có 12 nhập)

vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới;

(không có 18 giới)

vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận;

(không có 12 nhân duyên)

vô khổ, tập, diệt, đạo;

(không có 4 đế)

vô trí diệc vô đắc.

(không có TRÍ của Bồ-tát do tu Lục-độ, cũng không có ĐẮC qủa Phật)

Lại nói, Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.

(Ba đời  “Chư Phật” y “VÔ SỞ ĐẮC”, mà đắc “PHẬT QỦA”)

Còn nói, Bát-nhã là Đại-thần, là đại minh, là vô-thượng, là vô đẳng đẳng chú... như lại phải nhờ thần-chú  “Yết-đế Yết-đế, Ba-la yết-đế, Ba la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha.”,  để tiêu trừ vô-minh vi tế của “A-LẠI-DA THỨC” (sở tri chướng),  mà thành tựu  “ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ” hay “NHẤT THIẾT CHỦNG TRÍ”, TỨC THÀNH PHẬT.

 

Tóm lại,  “QUÁN-TỰ-TẠI BỒ-TÁT” y “VÔ SỞ ĐẮC”, mà đắc “PHẬT QỦA


Ma-ha Bát-nhã Ba la-mật-đa.

(3 lần)


 

Năm Thứ Mười Ba niên hiĐại Nghip, Đức Tứ Tổ Đạo Tín dđồ chúng đến Cát Châu thì gp bn cướp vây thành by tun (by mươi ngày) chng lui tan, mi ngườđều sợ hãi.

Tổ thương xót, dy bày ni“Ma Ha Bát Nhã Ba La MĐa.” Khi y, bn cướp nhìn lên trên thành như có thn binh, bèn bo nhau: “Trong thành t có dị nhân, không thể đánh được”. Bèn ln ln bỏ đi.


( KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG)



Trời, A-Tu-La, Dạ-Xoa thảy
 Ai đến nghe pháp phải hết lòng
 Ủng-hộ Phật-Pháp cho thường còn
 Mọi người siêng tu lời Phật dạy
 Bao nhiêu thính-giả đến chỗ này
 Hoặc ở cõi đất hoặc trên không
 Nương theo chánh-pháp ngày đêm tu
 Xót thương người đời luôn cứu-hộ
 Cầu cho Thế-giới thường an-ổn
 Pháp-trí vô-biên lợi quần-sanh
 Tất cả tội-nghiệp đều tiêu trừ
 Dứt hẳn quả khổ vào viên-tịch
 Thường dùng giới-hương thoa vóc sáng
 Luôn gìn định-phục mặc che thân
 Hoa mầu trí-giác khắp trang-nghiêm
 Khắp xứ, khắp nơi thường an-lạc.



Nam-Mô Hộ-Pháp Chư-Tôn Bồ-Tát ( 3 lần )

Ma-Ha-Tát 1 lần )


CHUNG

Comments

Popular posts from this blog