50 HIỆN TƯỢNG ẤM MA
Kinh Văn:
即時如來 將罷法座。於師子牀。攬七寶几。迴紫金山。再來凭倚。普告大眾 及阿難言。汝等有學緣覺聲聞。今日迴心趣大菩提 無 上 妙 覺。吾今已說 眞修行法。
Tức thời Như lai tương
bãi pháp tòa. Ư sư tử sàng, lãm thất bảo kỷ, hồi tử kim sơn, tái lai bằng ỷ,
phổ cáo đại chúng, cập A-nan ngôn: Nhữ đẳng hữu học Duyên giác Thanh văn , kim
nhật hồi tâm thú đại bồ-đề vô thượng diệu giác. Ngô kim dĩ thuyết chân tu hành
pháp.
Việt dịch:
Lúc bấy giờ Đức
Như Lai sắp rời pháp tòa. Từ tòa sư tử, ngài vin chiếc ghế bảy báu, xoay thân
hình như sắc núi vàng tía, rồi lại tựa lưng vào ghế, bảo đại chúng cùng A-nan
rằng: Các ông là hàng Thanh văn , Duyên giác hữu học, ngày nay hồi tâm hướng về
Vô thượng bồ-đề . Như Lai đã dạy pháp tu chơn chánh cho các ông rồi.
Giảng:
Lúc bấy giờ Đức
Như Lai sắp rời pháp tòa: là khi Đức Phật giảng gần xong hội Kinh
Thủ-lăng-nghiêm.
Từ tòa sư tử, ngài vin ghế bảy báu. Đức
Phật đang ngồi trên pháp tòa, tức tòa sư tử. Pháp âm của Như Lai ví như tiếng
gầm của sư tử. Khi sư tử gầm lên, tất cả các loài thú đều sợ hãi. Nên chỗ Như
Lai ngồi giảng pháp được gọi là tòa sư tử. Chiếc ghế mà Như Lai ngồi được làm
bằng bảy thứ báu để trang nghiêm.
Như Lai xoay thân hình như sắc núi vàng tía, rồi lại tựa lưng
vào ghế. Thân của Đức Phật như núi bằng vàng tía, ánh sáng rực chiếu
khắp mọi nơi, bảo khắp đại chúng cùng A-nan rằng: các ông là hàng Thanh
văn, Duyên giác hữu học. Trước khi đạt được bốn quả vị dành cho hàng
A-la-hán , họ vẫn được coi là hàng hữu học.
Thanh văn là những vị được giác ngộ do tu tập pháp “Tứ diệu
đế.” Duyên giác là những vị được giác ngộ do tu tập pháp “mười hai nhân
duyên.” Nay hồi tâm hướng về Vô thượng bồ-đề. A-nan và hàng Thanh
văn bây giờ đã hồi tâm, từ quả vị Tiểu thừa hướng về Đại thừa. A-nan cùng hàng
Nhị thừa đã phát tâm cầu Vô thượng bồ-đề, không có gì để sánh với sự giác ngộ
nhiệm mầu này.
Như Lai đã chỉ dạy pháp tu chân chính cho các ông rồi. Đức
Phật đã chỉ dạy rõ ràng phương pháp tu hành chơn chánh cho các vị rồi.
Kinh Văn:
汝猶未識修奢摩他毗婆舍那微細魔事。魔境現前。汝不能識。洗心非正。落於邪見。
Nhữ do vị thức
tu xa-ma-tha , tì-bà-xá-na vi tế ma sự. Ma cảnh hiện tiền, nhữ bất năng thức.
Tẩy tâm phi chính, lạc ư tà kiến.
Việt dịch:
Do các ông vẫn còn chưa biết những ma sự nhỏ nhiệm
xảy ra lúc tu chỉ và quán . Nếu các ông không nhận ra ma cảnh khi nó hiện ra là
do việc thanh tịnh tâm ý của ông không đúng với pháp chân thật, nên bị rơi vào
tà kiến.
Giảng:
Nhưng các ông
vẫn còn chưa biết những ma sự nhỏ nhiệm sẽ xảy ra khi tu tập chỉ quán .
Trước đây A-nan đã thưa thỉnh xin Đức Phật chỉ dạy cách thức
tu hành. Ngài đã vì chúng sanh trong đời vị lai mà thỉnh cầu giáo pháp.
Dù bây giờ Ngài A-nan đã hiểu được đạo lý tu hành rồi nhưng
vẫn chưa có kinh nghiệm tu tập. Ngài đã hiểu được lý thuyết, nhưng do thiếu
kinh nghiệm, nên Ngài không biết được những gì xảy ra trong khi hành trì nên
Đức Phật mới chỉ dạy như vậy. Tu chỉ tức là tu tập Thủ-lăng-nghiêm đại định.
Tu quán là một pháp quán chiếu rất vi mật. Các ma sự nhỏ nhiệm
sẽ xuất hiện vào lúc này. Trong tiến trình tu tập, rất nhiều ma cảnh sẽ hiện
ra. Không phải hiện tượng nào cũng hiển bày rõ ràng, nhưng chúng rất vi tế.
Nếu các ông không nhận ra ma cảnh khi nó hiện ra. Khi
các ông công phu theo phương pháp phản văn văn tự tánh (hướng
tánh nghe vào bên trong để nhận ra tự tánh vốn có của mình) thì ma cảnh sẽ xuất
hiện. Nếu các ông không nhận ra ma và không biết ma là gì, là do việc
thanh tịnh tâm ý của ông không đúng với pháp chân thật.
Vì ông đã tự thanh tịnh tâm ý mình, nhưng có hơi sai lệch,
không phù hợp với chánh tri kiến. Do đó bị rơi vào tà kiến. Nếu chánh tri kiến
của các ông không được chân chánh (không đúng với chánh pháp) thì các ông sẽ bị
dính mắc vào các ma cảnh.
Kinh Văn: Hoặc nhữ ấm ma,
hoặc phục thiên ma. Hoặc trước quỷ thần, hoặc tao quỷ mị. Tâm trung bất minh,
nhận tặc vi tử.
Việt dịch: Ông sẽ bị quấy nhiễu bởi một loài ma từ ngũ ấm của
ông. Hoặc là thiên ma, hoặc bị dính mắc bởi quỷ thần, hoặc gặp loài ly, mỵ. Nếu
tâm ông không sáng suốt, ông sẽ nhận lầm kẻ giặc làm con mình.
Giảng: Ông sẽ bị quấy
nhiễu bởi một loài ma từ ngũ ấm của ông.
Đó là một loại ma phát sinh từ chính tâm thức của mình. Hay là
một trong mười loại ma phát sinh từ sắc ấm, cũng là do từ tâm ông mà có.
Hoặc là thiên ma. Tại sao một loại ma từ
trên trời lại đến quấy phá ông được? Là vì ông tu mà nhắm tới mục đích để đạt
được định lực.
Đạt được chút định lực trong khi tu tập chẳng phải là điều
quan trọng, nhưng có thể làm cho cung điện của Ma vương rúng động giống như qua
một cơn động đất. Vì Ma vương có được thần thông, nên ngay khi cung điện của nó
bị rúng động, nó liền tìm hiểu “tại sao cung điện của ta bỗng nhiên rúng động.”
Nó khám phá ra ai đó nơi thế gian sắp sửa thành tựu đạo nghiệp. Định lực của
người ấy sẽ phá nát cung điện của nó, Thiên ma mới suy nghĩ: “Ông muốn phá hủy
cung điện của tôi, thì tôi sẽ làm tiêu hủy định lực của ông trước.” Thế là nó
đến phá hoại định lực của người đang tu hành.
Hoặc bị dính mắc bởi quỷ thần: Khi
quỷ thần thấy ông sắp đạt được kết quả tu tập, nó ghen tức, nó nghĩ: “Ồ! vậy là
ông sắp chứng đạo.” Nên trước hết nó đến phá hủy công phu tu tập của ông. Thế
là nó nhập vào tâm thức ông hay chiếm đoạt thân xác ông, khiến cho định lực của
ông không thể hoàn mãn.
Nó làm cho ông sẽ bị “tẩu hỏa nhập ma” và lệ thuộc vào nó. Từ
trước tôi đã giảng về việc bị dính mắc vào quỉ thần rồi phải không? Điều đó rất
quan trọng. Tại sao ông lại trở thành vật sở hữu của ma? Vì Việc thanh
tịnh tâm ý của ông không chân chánh, không đúng với chánh pháp và bởi
vì động cơ không chơn chính, dù chỉ một niệm tà ý nhỏ nhoi, ông cũng sẽ bị dính
mắc với quỉ thần. Điều đó được gọi là “tẩu hỏa nhập ma” vậy.
Hoặc gặp loài ly mị. Hoặc là vọng lượng.
Các loại ma này đều là những loại yêu quái. Nếu tâm ông không sáng suốt. Ông
sẽ nhận lầm kẻ giặc làm con. Nếu ông gặp dạng ma này mà không nhận ra
hoặc không hiểu gì về nó thì ông sẽ đi đến chỗ “nhận giặc làm con mình.” Hãy
suy nghĩ kỹ về điều này. Để nó khỏi đánh cắp tài sản của mình. Nếu mình để cho
kẻ trộm vào nhà, thì những thứ tài sản quý báu trong nhà đều bị nó lấy sạch.
Cái gì là tài sản quí báu nhất trong nhà mình?
Tôi sẽ nói một cách chân thành mộc mạc để cho các ông phải nhớ
thật kỹ điều này, các ông phải tin lời tôi nói. Bất cứ ông làm điều gì, cũng
đừng có quên lời tôi nói mà bỏ qua. Sao vậy? Vì đây là điều quan trọng đối với
tương lai và sinh mệnh của chính ông.
Cái gì là kho tàng quý giá của chính mình? Đó là kho tàng Chân
tánh Như Lai vốn sẵn có nơi ông. Tánh Như Lai tạng ấy, ông để mất được hay sao?
Các ông không nhớ tôi đã từng nói đến bản chất, năng lực cùng tinh thần của Như
Lai tạng ở trước rồi hay sao? Nếu ông muốn khôi phục lại Như Lai tạng của chính
mình, trước hết ông phải bảo trì tâm tánh, khí chất và tinh thần (tinh,
khí, thần) của mình. Nếu ông không chăm sóc bảo dưỡng chu đáo ba yếu tố này,
thế là ông để cho tài sản của mình bị cướp đoạt. Hãy hết sức cẩn trọng.
Kinh Văn: Hựu phục ư trung đắc tiểu vi túc. Như đệ tứ thiền Vô
Văn tỉ-khưu vọng ngôn chứng thánh. Thiên báo dĩ tất, suy tướng hiện tiền, báng
A-la-hán , thân tao hậu hữu. Đọa a-tì ngục.
Việt dịch: Lại nữa, do trong khi tu tập, cảm thấy hài lòng,
thỏa mãn khi có chút ít thành quả. Như tỷ-khưu Vô Văn , đã đạt được Tứ thiền,
vọng ngôn cho rằng mình đã chứng Thánh. Khi phước báo ở cõi trời hết, tướng suy
xuất hiện, nên phỉ báng rằng chứng quả a-la-hán còn phải chịu sanh tử. Ông liền
đoạ vào địa ngục a-tỳ.
Giảng: Lại nữa do
trong khi tu tập, cảm thấy hài lòng thỏa mãn khi có chút ít thành
quả.
Trong khi tu tập, dù nếu ông không bị dính mắc với quỷ thần,
ông cũng phải cần có trí tuệ chân chính và có con mắt trạch pháp nhãn. Trạch là
sự tuyển chọn, pháp là Phật pháp, nhãn là con
mắt của chính mình. Nếu ông nhận ra được Phật pháp, thì tự ông sẽ biết mình tu
tập đến trình độ nào. Đừng tự thấy mình có chút ít hiểu biết đạo lý rồi cảm
thấy thỏa mãn.
Như tỷ-khưu Vô Văn , đạt đến Tứ thiền , vọng ngôn cho rằng
mình đã chứng thánh.
Gọi là tỷ-khưu Vô Văn vì ông ta không hiểu biết nhiều. Ông ta
chỉ biết chút ít Phật pháp. Tại sao lại gọi ông ta là Vô Văn. Căn bản là khi
chứng được bốn quả vị a-la-hán thì được sanh lên cõi trời Tứ thiền. Đức Phật
dạy: vị nào chứng được tứ quả a-la-hán thì không còn chịu sanh tử luân hồi nữa.
Khi chứng được quả vị thứ hai được gọi là Nhất lai, phải còn thọ sanh một lần
trên cõi trời và một lần trở lại trong cõi người. Còn phải trải qua một lần
sinh tử nữa. Vị Thánh đạt quả vị thứ nhất (trong bốn quả vị a-la-hán) còn phải
chịu trải qua bảy lần sanh tử. Tất cả những cảnh giới này đều vượt hơn cõi trời
Tứ thiền.
Vô Văn tỷ-khưu chỉ mới đạt đến cảnh giới Thiền thứ tư trong
quá trình tu tập của ông thôi, nhưng ông ta tưởng rằng ông đã chứng được quả vị
thứ tư của a-la-hán. Thực ra ở trình độ cảnh giới Thiền thứ tư, vẫn chưa chứng
được quả vị gì, và vẫn còn là phàm phu (vì chỉ có định lực mà chưa phát huệ).
Nhưng tỷ-khưu Vô Văn tuyên bố rằng ông ta đã chứng được quả vị
thứ tư của hàng a-la-hán. Thế mà hiện nay vẫn có người cho rằng quả vị thứ tư
của hàng a-la-hán vẫn còn thấp so với họ. Họ trơ tráo tuyên bố rằng chính họ là
Phật. Nhưng một Đức Phật thì có đủ tam thân, tứ trí, ngũ nhãn, lục thông. Quý
vị có thể hỏi những người tự tuyên bố mình là Phật xem họ có được mấy món thần
thông. Chắc chắn là thiếu lậu tận thông. Tôi tin chắc những người
tự cho rằng mình là Phật thì chẳng có được dù chỉ là một món thần thông, chứ
đừng nói năm hoặc sáu. Chỉ có những người không có thần thông mới muốn khoe
mình là Phật. Những người quả thật chỉ có dù một món thần thông, họ sẽ không
bao giờ dám đưa ra lời đại vọng ngôn như thế.
Khi phước báo cõi trời hết. Khi đời sống của họ ở cõi trời kết
thúc, và những tướng suy xuất hiện. Các ông có nhớ năm tướng suy xuất hiện
không? Các ông có nhớ năm tướng suy tôi đã giảng phần trước không? Khi đời sống
của một chúng sanh ở cõi trời kết thúc và sắp mạng chung, thì có năm dấu hiệu
xuất hiện, gọi là năm tướng suy: một là vòng hoa trên đầu (vương miện) héo rũ,
hai là áo quần trở nên dơ bẩn, ba là ở nách thoát ra mồ hôi, bốn là thân thể
trở nên hôi thối dơ bẩn, năm là không thích ngồi lâu.
Ông ta phỉ báng rằng chứng quả a-la-hán còn phải chịu
sanh tử. Ông liền đoạ vào địa ngục a-tỳ.
Khi phước báo ở cõi trời sắp hết, năm tướng suy sẽ xuất hiện,
báo hiệu cuộc sống ở cõi trời đã đến lúc chấm dứt. Tỷ-khưu Vô Văn nổi giận. Ông
ta tức giận điều gì? Ông ta nghĩ: “Ta đã bị Phật lừa dối, Đức Phật là một kẻ
bịp bợm. Đức Phật nói rằng người nào chứng được tứ quả a-la-hán thì không còn
phải kinh qua sinh tử luân hồi nữa. Tại sao cuộc sống của tôi lại sắp kết thúc?
Tại sao tôi phải chịu tái sinh? Tại sao tôi phải chịu luân hồi? Tại sao tôi
phải chịu sinh ra một lần nữa? Đức Phật là một kẻ nói dối.” Chúng ta biết ngay
điều gì xảy ra khi ông phỉ báng Đức Phật như thế. Ông ta đọa ngay vào địa ngục
A-tì.
Địa ngục A-tì còn gọi là địa ngục vô gián. Vốn là do không
chứng được quả vị a-la-hán, mà tuyên bố đã chứng được, nên khi hưởng phước báo
ở cõi trời xong, khi chấm dứt mạng sống ở đó, liền rơi vào cảnh giới thấp kém
hơn. Ông ta không nhận ra lỗi lầm của mình mà còn cho rằng Đức Phật giảng pháp
không đúng. Thực sự Đức Phật đã nói rằng: “Ông chưa chứng được quả vị thứ tư
của hàng a-la-hán. Nếu ông đã chứng được, ông chẳng còn sinh tử luân hồi nữa.”
Tại sao lại có năm tướng suy hiện ra? Vì hủy báng Đức Phật. Do
vậy, Vô Văn tỷ-khưu liền rơi vào địa ngục vô gián.
Các ông có thể tưởng tượng được những người tự tuyên bố mình
là Phật sẽ đi về đâu. Tôi không biết rồi họ sẽ kết thúc sinh mạng ở nơi nào
nữa?
Kinh Văn: Nhữ ưng đế thính, ngô kim vị nhữ, tử tế phân biệt.
Việt dịch: Các ông nên lắng nghe kỹ. Như Lai sẽ giảng giải chi
tiết cho các ông.
Giảng: Các ông nên
lắng nghe kỹ. A-nan, ông nên đặc biệt lưu ý, hãy lắng nghe cho kỹ. Như
Lai sẽ giảng giải chi tiết cho các ông,giảng giải cho A-nan cùng đại chúng
tường tận từng chi tiết. Vậy nên đừng có thất vọng, đừng sanh tâm cô phụ.
Kinh Văn: A-nan khởi lập, tịnh kì hội trung, đồng hữu học giả,
hoan hỉ đảnh lễ, phục thính từ hối.
Việt dịch: A-nan đứng dậy, cùng hàng hữu học trong chúng hội
vui mừng đảnh lễ, im lặng lắng nghe lời chỉ dạy từ bi của Đức Phật.
Giảng: A-nan đứng dậy,
cùng hàng hữu học trong chúng hội. Đó là các vị Bồ-tát, các vị Đại
a-la-hán, các vị Đại tỷ-khưu, các vị hữu học, những người đã chứng được sơ quả,
đệ nhị, và đệ tam quả A-la-hán.
Vui mừng đảnh lễ. Vì Đức Phật sắp sửa
giảng giải vấn đề rất chi tiết, nên mọi người đều hớn hở. Cùng nhau vui mừng
đảnh lễ Đức Phật. Họ tự nhiếp phục tâm ý của mình, im lặng lắng nghe
lời chỉ dạy từ bi của Đức Phật. Không để cho một niệm tưởng lăng xăng
nào dấy khởi. Như vậy mới có thể lắng nghe với sự chú tâm trọn vẹn giáo pháp mà
Đức Phật sắp chỉ dạy.
Kinh Văn: Phật cáo A-nan cập chư đại chúng: Nhữ đẳng đương
tri, hữu lậu thế giới thập nhị loại sanh, bản giác diệu minh, giác viên tâm
thể, dữ thập phương Phật, vô nhị vô biệt.
Việt dịch: Đức Phật bảo ngài A-nan và mọi người trong chúng
hội: Các ông nên biết, mười hai loại chúng sanh trong thế giới hữu lậu đều vốn
có bản tâm sáng suốt nhiệm mầu, là tâm thể giác ngộ trọn vẹn, không khác tâm
thể mười phương chư Phật.
Giảng: Đức Phật bảo
ngài A-nan và mọi người trong chúng hội. Tất cả các ông
nên biết mười hai loài chúng sinh trong thế giới hữu lậu đều vốn có bản tâm
sáng suốt nhiệm mầu, là tánh giác sẵn có xưa nay, là chân tâm vốn sáng
suốt, nhiệm mầu là tâm thể giác ngộ hoàn toàn, không khác
tâm thể mười phương chư Phật. Hoàn toàn giống nhau, chẳng khác chút nào.
Chư Phật mười phương cũng có bản tâm sáng suốt nhiệm mầu ấy, và trong mười hai
loại chúng sanh cũng thừa hưởng được tâm thể hoàn toàn giác ngộ sáng suốt nhiệm
mầu (bản giác diệu minh–giác viên tâm thể) và còn được gọi là Tánh Như
Lai tạng .
Kinh Văn: Do nhữ vọng tưởng, mê lí vi cữu, si ái phát sanh,
sanh phát biến mê, cố hữu không tính. Hóa mê bất tức, hữu thế giới sanh. Tắc
thử thập phương vi trần quốc độ phi vô lậu giả, giai thị mê ngoan vọng tưởng an
lập.
Việt dịch: Do ông vọng tưởng, mê mờ chân lý nên phát sinh si
ái, khiến gây ra mê lầm cùng khắp, nên có hư không. Cái mê biến hóa không dừng
nên có thế giới. Do vậy, các cõi nước nhiều như vi trần trong mười phương chẳng
phải là vô lậu, đều dựng lập nên từ mê muội, vọng tưởng.
Giảng: Do ông vọng
tưởng, mê mờ chân lý. Này A-nan, tự tánh của ông và tự tánh của mười hai
loại chúng sinh cùng với chư Phật chẳng khác. Là một, là như nhau. Tuy nhiên,
nương nơi chân mà ông dấy khởi vọng tưởng sai lầm, trở nên mê muội chân lý. Mê
lầm sai trái từ đó phát sinh.
Nên si ái phát sinh.
Lỗi lầm lớn nhất là gì? Là si và ái. Có thể nói si và ái là
hai thứ, cũng có thể gom nó lại thành một thứ: si ái. Vô minh che lấp mọi hiểu
biết, chỉ biết đến ái dục, chỉ nghĩ đến ái dục từ sáng đến tối. Chẳng thể buông
bỏ được ái dục dù chỉ trong chốc lát. Nếu quý vị chú tâm nghiên cứu Phật pháp
cũng như khi say mê ái dục vậy thì sẽ thành Phật rất chóng. Nhưng tiếc thay,
quý vị không thể chuyển đổi ý thích dục lạc thành ý thích Phật pháp. Ông càng
học Phật pháp, ông càng thấy chán. Ông cho rằng: “Tôi có quá nhiều lỗi lầm.
Phật pháp vạch ra cho thấy hết thảy, tôi chẳng muốn học nữa. Phật pháp kêu gọi
tôi thay đổi tập khí, làm sao mà tôi có thể thay đổi được điều ấy? Đó là một ví
dụ về si ái. Ở trên, kinh văn đã nói: Do vọng tưởng nên mê lầm chân lý. Nay tôi
có thể nói rằng mọi lỗi lầm đều phát khởi từ si ái.
Khiến gây ra mê lầm cùng khắp.
Si ái gây nên sự mê lầm cùng khắp. Ông trở nên mê mờ lầm lẫn
về tất cả mọi việc. Khi ông trở nên si ái, ông không hiểu biết gì cả về mọi
việc. Không có việc gì đáng để ông quan tâm cả. Ông còn ngoan cố cho rằng: “Nếu
tôi có đọa địa ngục thì kệ tôi, việc gì phải bận tâm.” Ông chẳng còn bận tâm
đến việc gì nữa cả.
Nên có hư không.
Từ si ái mà ông gây nên lỗi lầm. Vì người đàn ông cứ nhớ nghĩ
đến người đàn bà suốt từ sáng đến tối, và người đàn bà lại nhớ tưởng tới người
đàn ông suốt ngày. Nên phát sinh một thứ hư vọng.
Cái mê biến hóa không cùng nên có thế giới.
Cái mê muội được nhân lên nhiều lần, một cái mê trở thành hai,
hai thành ba. Cái mê xoay chuyển không có chỗ dừng. Người thông minh nên thận
trọng ở điểm này. Nên khắc ghi ý nghĩa sâu sắc vào trong xương cốt. Nó đã chỉ
rõ cho ông toàn bộ sự mê lầm.
Do vậy, các cõi nước nhiều như vi trần trong mười phương đều
được dựng lập từ mê muội và vọng tưởng.
Thế giới khắp mười phương không thể tiêu hủy được. Đó chẳng
phải là thế giới vô lậu vì nó không có thể tánh riêng biệt của nó. Nó chỉ là sự
dựng lập của vọng tưởng sai lầm. Mê lầm cùng với thiếu hiểu biết. Mê muội cùng
với ngoan cố, không biết cách chuyển hóa, nên thế giới được dựng lập từ những
vọng tưởng mê lầm này.
Kinh Văn: Đương tri hư không, sanh nhữ tâm nội, do như phiến
vân điểm thái thanh lí. Huống chư thế giới tại hư không da?
Việt dịch: Nên biết hư không sanh trong tâm ông ví như phiến
mây điểm trên nền trời xanh. Huống nữa là các cõi nước ở trong hư không thì nhỏ
đến cỡ nào?
Giảng: A-nan, đừng mê
ngủ. Ông phải biết khi tôi nói đừng ngủ, có nghĩa là đừng có mê mờ. Đừng có bị
si ái một lần nữa, đừng có nhầm lẫn chân lý nữa.
Đức Phật bảo A-nan đừng mê ngủ, nay tôi bảo quý vị cũng hoàn
toàn đừng mê ngủ.
Vấn đề chủ yếu ngay bây giờ là phải nên biết: Hư không
sanh trong tâm ông ví như đám mây điểm trên trời xanh. Tất cả hư không
đều sanh từ tâm ông. Đem phiến mây trên bầu trời để so sánh với tâm ông. Một
phiến mây trên bầu trời thì nhỏ, nhưng bầu trời biểu hiện cho tâm ông thì lớn
mênh mông. Trong đoạn kinh trước (quyển 6) đã nói:
Không sanh đại giác trung,
Như hải nhất âu phát.
Nghĩa là: Hư không sanh trong biển lớn giác ngộ, giống như hòn
bọt nổi lên trong biển cả. Bây giờ lại nói: Hư không trong tâm ông giống như
đám mây điểm trên nền trời xanh. Huống nữa là các cõi nước ở trong hư
không thì nhỏ đến cỡ nào? Tất cả hư không hiện hữu đó đều nhỏ cả, thế
thì tâm ông lớn biết chừng nào? Tất cả thế giới so với cõi hư không ắt là nhỏ.
Nếu hư không ở trong tâm ông thì thế giới ắt còn phải nhỏ hơn nữa. Điểm này mô
tả tánh giác trùm khắp mọi nơi.
Kinh Văn: Nhữ đẳng nhất nhân, phát chân quy nguyên, thử thập
phương không, giai tất tiêu vẫn. Vân hà không trung, sở hữu quốc độ, nhi bất chấn
liệt?
Việt dịch: Nếu chỉ có một người trong các ông phát minh chân
lý và quay về bổn tánh, thì mười phương hư không đều tiêu mất. Làm sao các cõi
hư không kia lại không bị hủy diệt?
Giảng: Nếu chỉ có một
người trong các ông phát minh chân lý và quay về bổn tánh. Phát minh chân
lý và quay về bổn tánh có nghĩa là thành Phật. Chứng quả vị thứ tư của hàng
A-la-hán , cũng có thể được gọi là nhận ra chân tánh, quay về bổn tâm. A-nan,
nếu một người trong các ông thành Phật, thì mười phương hư không đều
tiêu mất. Làm sao mà các cõi hư không kia không bị hủy diệt?
Hư không không còn nữa thì làm sao thế giới còn tồn tại được?
Thế giới cũng đều tiêu trầm luôn vậy. (Hư không do si ái mà thành, khi phát
minh bổn tánh thành Phật thì si ái cũng không còn, nên hư không tiêu mất).
Có người nói: “Nếu có nhiều người đã thành quả vị Phật rồi,
thì lẽ ra hư không phải hoàn toàn tiêu diệt hết, thế tại sao hư không chưa biến
hẳn đi?”
Từ cái nhìn của hàng phàm phu thì hư không còn tồn tại, nhưng
chư Phật thì nhìn thấy chẳng còn có hư không. Đó là cái nhìn sai biệt. Thế nên
các ông không nên luận bàn theo lối khái quát. Ví dụ như người đạt được ngũ
nhãn thì có thể nhìn thấy được những gì đang xảy ra ở nước này và nước khác
cách xa ngàn dặm. Ông là người chưa có được Phật nhãn, liệu có thể nhìn thấy
được những việc này chăng? Do vậy ta không thể nói: Tôi thấy được nó nên nó
phải hiện hữu. Quý vị có thể thấy như nó đang tồn tại, nhưng qua tầm nhìn của
Đức Phật thì không có gì tồn tại cả. Ngay cả hư không cũng chẳng có.
Kinh Văn: Nhữ bối tu thiền, sức tam ma địa. Thập phương bồ-tát
cập chư vô lậu đại A-la-hán , tâm tinh thông vẫn, đương xứ trạm nhiên.
Việt dịch: Các ông tu thiền, đạt được chánh định. Tâm ông
thông suốt, hợp với tâm của chư vị Bồ-tát, và các vị vô lậu đại A-la-hán trong
mười phương đã an trụ trong trạng thái vắng lặng.
Giảng: Khi các ông tập
trung vào tu thiền, đạt được chánh định, chân tâm
ông thông suốt, hợp với chân tâm của chư vị bồ-tát và các vị vô lậu đại
A-la-hán trong khắp mười phương đã an trụ trong trạng thái vắng lặng.
Ông không còn phải tìm kiếm sự thanh tịnh vắng lặng ở đâu nữa,
mà nó ngay ở nơi ông. Sự thanh tịnh vắng lặng ở ngay nơi thân tâm ông đó chính
là Như Lai tạng tánh. Nó trùm khắp cả pháp giới.
Tại sao tâm của chư vị bồ-tát và các vị A-la-hán lại thông hợp
với những người tu tập thiền định? Vì cùng tu tập đại định như nhau, họ đều
dùng pháp “phản văn văn tự tánh .” Nghĩa là hướng tánh nghe vào bên
trong để nhận ra tự tánh của mình cho đến khi thành Phật đạo.
Quý Ngài đều tu tập hành trì Thủ-lăng-nghiêm đại định. Vì vậy
nên tâm thức họ hoàn toàn thông suốt, ngầm hợp. Như thể có dòng điện nối liền
giữa họ với nhau.
Sự liên quan này không chỉ xảy ra ở cảnh giới của chư Phật,
chư bồ-tát và các vị A-la-hán , mà nó cũng thường xảy ra đối với hàng phàm phu.
Ví dụ khi quý vị nghĩ về một người nào đó, thì tư tưởng của quý vị sẽ liên lạc
với người ấy, giống như đánh điện tín. Người kia có biết không? Quý vị thử hỏi
bản tánh của người ấy thì biết rõ, dù tâm thức của họ có thể không hề biết.
Trên bình diện bản thể thì hoàn toàn có thể biết được tâm thức của người khác.
“Như vậy nếu tôi nghĩ về một người nào đó thì người ấy cũng
nghĩ về tôi như vậy hay sao?
Ông có thể suy nghĩ cho đến khi chết mà chẳng có ích gì cả.
Giống như tánh si ái mà tôi giảng trước đây. Nếu một người si ái, anh ta sẽ
nghĩ về những cảnh đam mê tình ái suốt ngày, không lúc nào dừng lại được những
vọng tưởng ấy. Tự một mình anh ta suy nghĩ cho đến chết. Anh ta chết như thế
nào? Anh ta nghĩ đến một người phụ nữ cho đến khi hai người cùng nhau kết hôn.
Khi kết hôn rồi họ trở nên lộn xộn, rối loạn. Sau một thời gian sống trong hỗn
độn rối loạn rồi họ chết. Kết hôn có nghĩa là sống trong hỗn độn rối loạn,
không sáng suốt được chút nào cả.
Trong Hán văn, quý vị có thể suy luận về nghĩa của hai
chữ kết hôn 結 婚. Hôn 婚 có nghĩa là mờ tối.
Kinh Văn: Nhất thiết ma vương, cập dữ quỷ thần, chư phàm phu
thiên, kiến kỳ cung điện vô cố băng liệt, đại địa chấn sách, thủy lục phi đằng,
vô bất kinh nhiếp. Phàm phu hôn ám, bất giác thiên ngoa.
Việt dịch: Tất cả ma vương, cùng các loài quỷ thần, các cõi
trời phàm phu đều thấy cung điện của mình vô cớ bị tiêu hủy, đất đai rung động,
các loài thủy lục không hành thảy đều kinh sợ. Hàng phàm phu mê muội thì chẳng
hay biết những biến động này.
Giảng: Khi một người đạt được
đại định Thủ-lăng-nghiêm, là chân đại định, thì ma quân rúng động vì run
sợ. Tất cả ma vương, cùng các loài quỷ thần, các cõi trời phàm phu của
sáu cõi Dục và cõi trời Tứ thiền đều thấy cung điện của mình vô cớ bị
tiêu hủy. Tình trạng này thực là không hiểu nổi. Không rõ nguyên nhân gì mà
cung điện của chúng bỗng dưng hủy hoại dần.
Tôi đã từng kể cho quý vị nghe chuyện một chú đệ tử trẻ tuổi
của tôi ở Mãn-châu (Manchuria). Chú ấy chỉ khoảng mười bốn tuổi, mặc dù chú nhỏ
tuổi nhưng thần thông chẳng phải tầm thường. Chú có thể lên trời xuống đất tùy
ý. Tuy đã được khai ngũ nhãn nhưng chưa chứng được lục thông. Chú đã được năm
món thần thông, chỉ thiếu lậu tận không. Khi một người đạt được lậu tận thông
thì được gọi là a-la-hán.
Một hôm, chú lên trời chơi. Khi lên trên đó, thiên ma rất vui
mừng và dụ chú ta vào trong cung điện của chúng. Đó là một tòa lâu đài tuyệt
đẹp làm bằng ngọc lưu ly trong suốt. Chú sa-di đã bị mắc vào bẫy.
Do chú có được ngũ nhãn, nên chú có thể thấy được pháp thân
của mình đã bị cầm giữ bởi Tha hóa Tự tại vương. Tuy nhiên chú ta cũng tìm cách
báo cho tôi biết: “Thưa thầy, con lên trời chơi, nay không thể về được nữa.”
“Thế là chú bị kẹt trên trời rồi! Hừ! thế trước kia ai đã chỉ
cho chú lên đó?”
“Con nghĩ là ở đó sẽ rất vui nên con lên để xem cho biết. Bây
giờ người ở đây không muốn cho con trở lại.”
Tôi bảo: “Nếu chú muốn tiêu khiển, thì đừng có lên đó tìm vui.
Các thiên ma ở các tầng trời cõi Dục đều muốn tìm cơ hội để phá hủy định lực
của người tu đạo.” Tôi giải thích: “Đừng sợ, Thầy sẽ đưa con về.”
Tôi cố gắng đưa chú về, nhưng ma vương không muốn cho chú đi.
Đến lúc đó, chú thật sự hoảng sợ và nói: “Nó không cho con về. Làm sao bây
giờ?” Tôi bảo: “Đừng lo, thầy sẽ có cách đưa con về ngay.”
Rồi tôi dùng chú Thủ-lăng-nghiêm, là năm bộ tâm chú để trừ ma
chướng mà tôi đã giảng cho quý vị nghe trước đây. Cung điện của ma vương tức
khắc tan rã, và chú sa-di trở về ngay lúc ấy. Đây là một câu chuyện có thực.
Bấy giờ cung điện của ma vương hủy hoại rồi sụp đổ. Mặt
đất chấn động, nứt nẻ nhiều nơi. Các sinh vật ở dưới nước, trên
không thảy đều kinh sợ.
Tất cả những loài sinh vật ở dưới nước, trên mặt đất, các loài
bay nhảy, sợ hãi trở nên hoảng loạn không còn kiềm chế mình được nữa.
Hàng phàm phu mê muội thì chẳng hay biết những biến đổi này.
Hàng phàm phu chẳng có được tri giác bén nhạy, họ không nhận
ra được quả đất đang kinh qua những sự biến đổi như thế. Họ không có đủ sự nhạy
bén để nhận biết sáu tướng chấn động đang xảy ra trong trái đất.
Kinh Văn: Bỉ đẳng hàm đắc ngũ chủng thần thông, duy trừ lậu
tận, luyến thử trần lao. Như hà linh nhữ tồi liệt kỳ xứ? Thị cố quỷ thần cập
chư thiên ma, võng lượng yêu tinh, ư tam muội thời thiêm lai não nhữ.
Việt dịch: Các loài sinh vật ấy đều có năm thứ thần thông, trừ
lậu tận thông, đương luyến tiếc cảnh trần lao. Làm sao nó chịu để cho các ông
phá hoại chỗ ở của nó? Vậy nên các loài quỷ thần, thiên ma, ly mị, võng lượng,
yêu tinh… trong khi ông tu pháp tam-muội, chúng đều muốn đến phá ông.
Giảng: Bây giờ các ông hiểu
rồi chứ? Vì sao ma lại đến phá? Chỉ vì các loài sinh vật ấy đều có năm
thứ thần thông: thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm không, túc mạng
thông, thần túc thông, trừ lậu tận thông mà thôi. Nếu nó có
lậu tận thông, nó sẽ không quấy rầy ông nữa đâu. Nhưng vì không có lậu tận
thông, nên nó vẫn là kẻ ác, vẫn muốn đến phá hoại người tu đạo… Điều đó nghĩa
là sao? Tôi sẽ giảng rất tường tận về điều này.
Gọi là lậu tức là những suy nghĩ lan man. Đàn
ông nghĩ về đàn bà, đàn bà nghĩ đến đàn ông. Nếu quý vị không kết thúc những
suy nghĩ lan man này, thì chẳng thể nào tự mình thoát khỏi lậu hoặc được.
Bây giờ tôi sẽ giảng điều này sâu hơn, và tôi sẽ nói rất chân
thực. Nếu tôi nói không chân thực thì ông chẳng bao giờ biết đượclậu hoặc thật
sự liên quan đến mình như thế nào. Thoát khỏi mọi lậu hoặc có
nghĩa là còn giữ được nguyên vẹn bản chất của mình. Nếu đánh mất bản chất của
mình có nghĩa là bị lậu hoặc.
Bây giờ tôi sẽ nói rõ bí ẩn của trời đất. Nếu quý vị giữ được
bản chất của mình thì sẽ không bị lậu hoặc. Hơn thế nữa, không những ngăn ngừa
được bản tính của mình khỏi bị mất mát, mà còn có khả năng dứt được những ý
tưởng dâm dục ngay trong tâm niệm rất vi tế. Được như thế thì thật sự quý vị đã
thoát khỏi mọi lậu hoặc. Bây giờ quý vị hiểu rồi chứ? Tại sao thiên ma không
được tự tại thoát khỏi mọi lậu hoặc? Vì chúng còn niệm tưởng dâm dục. Quỷ thần
cũng còn niệm tưởng dâm dục ấy.
Vì nó đang còn luyến tiếc cảnh trần lao.
Trần lao, đơn giản là một dạng của dâm dục. Đó là những gì nó
đang tham luyến.
Làm sao nó lại chịu để các ông phá hoại chỗ ở của nó?
Vì nó vẫn còn tham luyến dâm dục, nên nó không muốn nhìn thấy
các ông đoạn tuyệt với chúng. Chúng nó muốn ông cũng tham đắm vào sắc dục. Nó
sẽ nói:
“Hai chúng ta là bạn thân của nhau, ta sẽ không đoạn tuyệt với
sắc dục đâu. Vậy, ông không nên từ khước nó.”
Đó là lý do tại sao ma quỷ lại đến. Nó đều không muốn các ông
vượt qua cảnh trần lao này.
Nên các loài quỷ thần, thiên ma, ly mỵ, yêu tinh sẽ
đến phá hoại khi ông tu tập pháp tam-ma-đề.
Khi tôi đề cập đến chữ yêu tinh trước đây, các ông chưa được
rõ nghĩa, bây giờ tôi sẽ giải thích. Ông có biết chữ yêu 妖 trong
tiếng Hán được viết gồm bộ nữ 女 bên
cạnh chữ yểu 夭 (sống ngắn ngủi). Có nghĩa là chết trước ba mươi tuổi. Các
ông có thể hiểu rõ được nghĩa chữ yêu, từ đó không cần phải giảng
nhiều. Tóm lại, người nào chết yểu, sẽ trở thành yêu tinh. (Chết yểu vì dục
lạc).
Khi ông tu tập tam-muội (định), nó đều đem hết cả lũ đến quấy
nhiễu ông. Mục đích của chúng như nó thường nói là: ăn thịt Đường tăng.
Đường tăng tức là Đại Pháp sư Huyền Trang. Rất nhiều yêu tinh muốn ăn thịt
ngài. Nghĩa là chúng nó muốn tiêu hủy định lực của ngài. Nếu ông tu tập đạt
được định lực thì yêu ma quỷ quái đều muốn ăn thịt ông cho bằng được. Thực ra
nó đâu chỉ muốn ăn thịt thôi đâu. Tôi sẽ hết sức chân thực trình bày cho quý vị
được rõ mà chẳng giữ lại điều gì. Điều gì thực sự sẽ xảy ra khi tinh, khí, thần
của ông sung mãn? Vì ông không nghĩ đến dâm dục, những loài ma quỷ này đều muốn
cưỡng đoạt kho tàng của ông. Đó là lý do tại sao nó đến quấy rầy ông. Nếu các
ông có một người bạn gái và các bà có một người bạn trai, thì những người ấy
cũng sẽ cướp đi kho báu của quý vị đi vậy. Quý vị thử nghĩ có điều gì khác nữa
sẽ xảy ra?
Quý vị sẽ nói:
“Phật pháp dạy cho tôi biết bố thí, vậy nên tôi đem cả kho
tàng của mình bố thí cho người khác.”
Thế thì tốt lắm! Trong tương lai ông sẽ chuyển thân thành loài
ngạ quỷ (quỷ đói). Khi điều đó xảy ra, người đã cướp mất kho tàng của quý vị sẽ
không nói:
–Đây này, tôi trả lại cho ông một ít của báu, để ông có thể
thoát ra khỏi cảnh giới ngạ quỷ này.”
Lúc đó hoàn toàn chẳng có ai giúp quý vị cả. Hãy nghĩ kỹ lại
đi.
Kinh Văn: Nhiên bỉ chư ma tuy hữu đại nộ, bỉ trần lao nội. Nhữ
diệu giác trung, như phong xuy quang, như đao đoạn thủy, liễu bất tương xúc.
Nhữ như phất thang, bỉ như kiên băng, noãn khí tiệm lân, bất nhật tiêu vẫn. Đồ
thị thần lực, đãn vi kì khách.
Việt dịch: Các loài ma ấy tuy có oai lực lớn, nhưng vẫn còn ở
trong trần lao. Trong khi ông ở trong tánh giác vi diệu, ma chẳng ảnh hưởng gì
đến ông, như gió thổi chẳng làm lay động ánh sáng, hoặc như dao chẳng cắt được
nước. Ông như nước sôi, trong khi ma vương giống như tảng băng, khi gần hơi
nóng, băng sẽ tiêu tan. Chúng nó dựa vào ma lực, nhưng đó chỉ là khách thôi!
Giảng: Khi ông đạt được
ít định lực trong công phu, ma vương sợ hãi nên đến phá hủy. Nó không muốn ông
đạt được định lực.
Các loài ma ấy đến để quấy nhiễu
ông và tuy có oai lực lớn, nhưng nó vẫn còn ở trong trần lao. Nó bị
sai sử bởi tình thức ô nhiễm.
Trong khi ông ở trong tánh giác vi diệu. Ma
chẳng ảnh hưởng gì đến ông, như gió thổi chẳng làm lay động ánh sáng
hoặc như dao chẳng cắt được nước.
Nó chẳng làm gì được ông cả, chỉ như gió không đủ làm ánh sáng
lay động, và chỉ như dao, dù bao nhiêu lần chém nước, nước chẳng hề hấn gì.
Ông như nước sôi, định lực phát sanh từ công phu tu tập
của ông được ví như nước sôi. Trong khi ma vương giống như
tảng băng, ma vương được ví như tảng băng giá lạnh trong mùa đông. Khi
gần hơi nóng, băng sẽ tiêu tan. Cứng như băng nhưng sức nóng của nước sôi
cũng sẽ dần dần làm băng tan chảy, chúng nó dựa vào ma lực, nhưng nó
chỉ là khách thôi.
Nó chỉ trông mong vào ma lực của chính nó nên nó chẳng bao giờ
được gọi là chủ, nó chỉ là “khách” (chẳng ở được lâu). Nó không thể thành công
trong nỗ lực quấy phá ông.
Kinh Văn: Thành tựu phá loạn, do nhữ tâm trung ngũ ấm chủ
nhân. Chủ nhân nhược mê khách đắc kì tiện
Việt dịch: Nó có thể phá rối được, là do người chủ của ngũ ấm
trong tâm ông. Nếu chủ nhân mê lầm thì khách mới được dịp quấy phá.
Giảng: Nó có thể phá
rối được, là do người chủ của ngũ ấm trong tâm ông: Căn bản là nó chẳng thể
phá rối được. Tuy nhiên, nếu chủ nhân mê lầm, nếu tâm ông là chủ nhân của ngũ
ấm mà mê lầm, thì khách mới được dịp quấy phá.
Khách sẽ được dịp quấy phá. Còn nếu như ông, là chủ nhân mà
không mê lầm thì nó không thể làm được điều gì hại ông cả. Ai là chủ? Đó là tự
tánh của ông, nếu tự tánh của ông bị mê lầm, thì ma quỷ có cách để hại ông. Còn
nếu tự tánh của ông không bị mê lầm, thì nó đành chịu bó tay, chẳng làm gì được
ông.
Kinh Văn: Đương xứ thiền-na, giác ngộ vô hoặc, tắc bỉ ma sự vô
nại nhữ hà? Ấm tiêu nhập minh, tắc bỉ quần tà hàm thụ u khí. Minh năng phá ám,
cận tự tiêu vẫn. Như hà cảm lưu nhiễu loạn thiền định?
Việt dịch: Khi trong thiền định, sáng suốt không mê lầm, thì
các ma sự kia không làm gì được ông. Khi năm ấm tiêu trừ, ông có thể nhập vào
bản tánh sáng suốt, mà tà ma kia đều nương vào ám khí. Do sáng phá được tối,
nên bọn chúng sẽ bị tiêu hủy khi đến gần ông. Sao còn dám đến gần ông để phá
rối thiền định?
Giảng: Khi trong
thiền định, ông làm cho tâm ý mình được thanh tịnh, đạt được chánh định,
ông được sáng suốt không mê lầm, các ma sự kia chẳng làm gì ông
được. Ma quỷ không thể nhiễu loạn ông bằng cách của nó được, khi năm ấm
tiêu trừ, ông có thể nhập vào bản tánh sáng suốt. Ma quỷ thuộc về bóng tối
(âm). Bóng tối có thể bị xua tan như băng bị tan trong nước sôi. Trí huệ của
ông rất sáng suốt nên ông hoàn toàn thể nhập vào với ánh sáng.
Bọn tà ma kia gồm ma quỷ, ngoại
đạo, đều nương vào ám khí. Mọi chiến thuật (phá hoại) của nó đều
nương vào bóng tối, do ánh sáng phá được tối. Nếu ông đạt được định
lực và trí tuệ chân chánh thì năng lực của ánh sáng trí huệ sẽ chiếu sáng và
xua tan mọi u ám. Nên bọn chúng sẽ bị tiêu hủy khi đến gần ông, sao còn
đám đến gần ông để phá rối thiền định? Còn nếu nó muốn đến gần thì cứ việc,
nhưng nó không dám quấy nhiễu ông.
Kinh Văn: Nhược bất minh ngộ, bị ấm sở mê, tắc nhữ
A-nan tất vi ma tử, thành tựu ma nhân.
Việt dịch: Nếu không tỏ ngộ, bị ngũ ấm làm mê lầm, thì chính
A-nan ắt phải làm con của ma, sẽ thành loài ma.
Giảng: Nếu không tỏ
ngộ. Nếu ông không hiểu biết và thức tỉnh mà lại bị mê lầm bởi ma
của ngũ ấm, thì chính ông, A-nan, ắt phải làm con của
ma, sẽ thành loài ma. Ông sẽ gia nhập vào đoàn tùy tùng của quân ma.
Kinh Văn: Như Ma-đăng-già thù vi miễu liệt. Bỉ tuy chú nhữ phá
Phật luật nghi. Bát vạn hạnh trung, kì hủy nhất giới. Tâm thanh tịnh cố, thượng
vị luân nịch.
Việt dịch: Như ông gặp nạn Ma-đăng-già, là việc nhỏ nhặt. Cô
ta dùng chú thuật bắt ông phá hủy luật nghi của Phật. Nó mong trong số tám vạn
bốn ngàn tế hạnh, ông chỉ hủy phạm một giới. Nhưng vì tâm ông thanh tịnh nên
không bị chìm đắm.
Giảng: Như ông gặp
nạn con gái của Ma-đăng-già, là việc nhỏ nhặt.
Đó chỉ là một việc dính líu đến ma sự bình thường. Cô ta dùng chú thuật
bắt ông phá hủy luật nghi của Phật, cô ta dùng chú thuật của Tiên Phạm
thiên để mê hoặc ông và bắt ông phải hủy phạm luật nghi của Phật. Nó
mong trong số tám vạn bốn ngàn tế hạnh, ông chỉ hủy phạm một giới. Nhưng
vì tâm ông thanh tịnh nên không bị chìm đắm. Vì ông đã chứng được quả vị đầu
tiên của hàng A-la-hán , ông hoàn toàn không bị nó quấy phá, nên ông không bị
đọa lạc.
Kinh Văn: Thử nãi huy nhữ bảo giác toàn thân. Như tể thần gia
hốt phùng tịch một, uyển chuyển linh lạc vô khả ai cứu
Việt dịch: Đây là nỗ lực muốn phá hoại hoàn toàn sự giác ngộ
quý báu của ông. (Nếu nó thành công) ông sẽ như quan Tể tướng bỗng nhiên bị
truất quyền, gia đình ông ta trở nên bơ vơ, tuyệt vọng không ai thương xót cứu
giúp.
Giảng: Đây là nỗ lực
muốn phá hoại hoàn toàn sự giác ngộ quý báu của ông. Đó là hành vi nỗ lực
làm cho ông bị đọa lạc. (Nếu nó thành công) ông sẽ như quan Tể tướng
bỗng nhiên bị mất quyền. Khi một quan chức cao cấp bị Vua tịch thu tài sản
của gia đình, gia đình ông ta trở nên bơ vơ không ai thương xót cứu
giúp. Ông hoàn toàn bị cô đơn, vô phương kêu cứu, không ai thương xót giúp
đỡ.
KINH LĂNG NGHIÊM
NĂM MƯƠI LOẠI ẤM MA
Hòa Thượng Tuyên
Hóa giảng tại
Phật Giáo Giảng Ðường
San Francisco
California _ USA _ 1968
SẮC ẤM
1.
TRẠNG THÁI TÂM LÝ THANH
TỊNH TRƯỚC KHI VÀO CẢNH GIỚI SẮC ẤM
Kinh Văn: A-nan đương tri, nhữ tọa đạo tràng, tiêu lạc chư
niệm. Kì niệm nhược tận. Tắc chư li niệm nhất thiết tinh minh. Động tĩnh bất
di, ức vong như nhất.
Việt dịch: A-nan nên biết, ông ngồi nơi đạo
tràng, phải dứt sạch các vọng niệm. Khi vọng niệm đã dứt sạch, thì các ly niệm
sáng tỏ rõ ràng. Động tịnh không đổi đời, nhớ quên đều như một.
Giảng: A-nan nên biết, khi ông
ngồi nơi đạo tràng, phải tiêu trừ các vọng niệm. A-nan ông nên biết
rằng: Ông chỉ là người đang tu pháp phản văn văn tự
tánh (hướng tánh nghe vào bên trong để nhận ra tự tánh của mình).
Khi công phu như vậy thì ông đã làm tiêu trừ mọi vọng niệm.
Khi các vọng niệm đã hết sạch, chẳng còn niệm phân biệt trong tâm ông. Trạng
thái thanh tịnh, sáng suốt, đầy trí huệ và định lực này, sẽ an trú trong
ông. Khi động tịnh không đổi đời, nhớ quên đều như một,
tâm ông không thay đổi, dù ông nhớ hay quên trạng thái đó đều như nhau, không
sai không khác.
PHẠM VI SẮC ẤM
Kinh Văn: Đương trụ thử xứ, nhập tam-ma-đề, như minh mục nhân
xử đại u ám. Tinh tính diệu tịnh, tâm vị phát quang. Thử tắc danh vi sắc ấm khu
vũ.
Việt dịch: Khi an trụ trong trạng thái đó mà vào được
chánh định, như người sáng mắt ở nơi tối tăm. Dù chân tánh nhiệm mầu
thanh tịnh, nhưng tâm chưa tỏa phát được trí huệ sáng suốt. Đây gọi là phạm vi
của Sắc ấm.
Giảng: Khi an trụ
trong trạng thái đó mà vào được chánh định.
A-nan nên biết, khi tu tập chánh định này, an trụ trong
trạng thái thanh tịnh, động tịnh không thay đổi, nhớ quên đều như một.Như
người sáng mắt nhận ra được chính mình ở nơi tối tăm.
Như người có đôi mắt sáng tỏ, sống trong ngôi nhà tối tăm, dù bản tánh thanh
tịnh sáng suốt nhiệm mầu, nhưng tâm chưa tỏa phát trí huệ sáng suốt. Dù
chân tánh thanh tịnh nhiệm mầu, nhưng tâm chưa phát sanh được sự
chiếu sáng của trí huệ sáng suốt chân thực.
Thì đây gọi là phạm vi của Sắc ấm .
KHI VƯỢT QUA SẮC ẤM,
THẤY ĐƯỢC CỘI GỐC CỦA SẮC ẤM
Kinh Văn: Nhược mục minh lãng, thập phương đỗng khai, vô phục
u ám, danh sắc âm tận. Thị nhân tắc năng siêu việt kiếp trược. Quán kì sở do,
kiên cố vọng tưởng dĩ vi kì bản.
Việt dịch: Như mắt sáng tỏ, rõ thấu mười phương,
không còn tối tăm, gọi là dứt sạch sắc ấm. Người ấy có thể vượt ra khỏi kiếp
trược. Xem kỹ nguyên do của sắc ấm, nhận ra vọng tưởng kiên cố chính là
cội gốc.
Giảng: Như mắt sáng tỏ, rõ thấu mười phương, không còn
tối tăm. Trạng thái này gọi là gì? Gọi là dứt sạch sắc ấm.
Trong năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức; sắc ấm đã tiêu trừ. Người
này có thể vượt ra khỏi kiếp trược. Xem kỹ nguyên do của sắc ấm,
nhận ra vọng tưởng kiên cố chính là cội gốc. Khi hành giả vượt
qua kiếp trược, mới thấy mọi hành vi của mình đều phát xuất từ vọng
tưởng kiên cố (3).
MƯỜI CẢNH GIỚI SAI BIỆT
CỦA SẮC ẤM
(NẾU BỊ MÊ LẦM KHÔNG
VƯỢT QUA ĐƯỢC SẮC ẤM)
1.
TÂM THOÁT NGẠ
Kinh Văn: A-nan, đương tại thử trung, tinh nghiên diệu minh,
tứ đại bất chức. Thiểu tuyển chi gian, thân năng xuất ngại. Thử danh tinh minh
lưu dật tiền cảnh. Tư đản công dụng tạm đắc như thị, phi vi thánh chứng. Bất
tác thánh tâm, danh thiện cảnh giới. Nhược tác thánh giải tức thọ quần tà.
Việt dịch: A-nan, ngay trong định ấy, quán xét thật
kỹ bản tánh diệu minh, thấy tứ đại không còn đan dệt với nhau nữa. Trong chốc
lát, thân thoát ra khỏi sự ngăn ngại. Trạng thái này gọi là tinh minh trôi
vào tiền cảnh. Đó chỉ là trạng thái nhất thời do dụng công, không phải là
biểu hiện sự chứng quả thánh. Nếu không khởi tâm chứng thánh thì đó là cảnh
giới tốt. Nhưng nếu nghĩ mình chứng thánh, liền rơi vào tà kiến.
Giảng: Bây giờ chúng ta sẽ đề
cập đến sự liên hệ của ma sự và ngũ uẩn (ấm): sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Có
mười loại ma trong mỗi uẩn. Nên có tất cả là Năm mươi hiện tượng ấm ma.
Hành giả phải có sự hiểu biết rõ ràng về Năm mươi hiện tượng ấm ma này.
Nếu quý vị không biết rõ những hiện tượng này, quý vị sẽ dễ dàng kết thúc huệ
mạng của mình trong quyến thuộc của ma vương mà vẫn không hay biết tại sao mình
lại rơi vào đó? Đó là lý do tại sao quý vị phải hết sức thận trọng khi tu tập.
A-nan, ngay trong
định ấy, quán xét thật kỹ bản tánh diệu minh, khi sắc ấm
sắp sửa tiêu dung, ông sẽ thấy mười phương rỗng rang, và cảm nhận được một loại
ánh sáng. Do vì ông đã dụng công cứu xét trạng thái vi tế nhiệm mầu và sáng
suốt.
Tứ đại không còn đan dệt với nhau nữa, trong
chốc lát thân có thể thoát ra khỏi
mọi ngăn ngại.
Tứ đại sẽ không còn kết hợp với nhau, không còn tác dụng ngăn
ngại. Chẳng bao lâu thân thể trở nên không bị chướng ngại, như hư không
rỗng rang. Đó được gọi là ý sanh thân, nghĩa là có một thân khác
tách rời khỏi thân vật chất (sự hiện thân tùy ý, không bị vật chất làm chướng
ngại).
Trước đây tôi đã kể chuyện về chú đệ tử của tôi đến các cung
trời bằng pháp thân của chú ấy, thân ấy cũng được gọi là ý sanh
thân. Ý đây liên quan đến thức, nó là một trong sáu thức:
nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Như sắc thân được tạo nên bằng tâm thức, thì
cũng có khả năng vượt ra khỏi chướng ngại của sắc thân kết hợp bằng tứ đại.
Trạng thái này gọi là tinh minh trôi vào tiền cảnh. Tánh
diệu minh cũng trôi vào cảnh giới bên ngoài (4).
Đó chỉ là trạng thái nhất thời, do dụng công
Cảnh giới này, bất quá chỉ do dụng công tu tập mà thôi,
nó không thường, chỉ là sự ngẫu nhiên thôi. Quả thật, tùy mọi lúc có thể vào ra
cảnh giới ấy, muốn đến nơi nào liền đến nơi ấy, muốn trở về lúc nào là trở về
lúc ấy. Hoàn toàn được tự tại:
Phóng chi tắc di lục hợp
Quyển chi tắc thối tàng ư mật.
Nếu phóng thả ra, nó sẽ tràn ngập khắp cả trời đất. Và rồi
người ta có thể thu lại bất kỳ lúc nào. Nếu ông không thể làm được việc này bất
kỳ lúc nào ông muốn, thì việc của ông chỉ là sự dụng công nhất thời. Đó là
một trạng thái mà ông sẽ đạt được khi mức độ tu tập của ông chín muồi. Tuy
nhiên trạng thái này chỉ là tạm thời. Ông sẽ không thường xuyên có được một sắc
thân vượt qua mọi sự chướng ngại, đây không phải là sự biểu hiện
chứng quả thánh.
Ông chưa phải đã đạt được quả vị Thánh. Người chưa đạt được
quả vị không phải có trạng thái như vậy.
Nếu không khởi tâm chứng thánh, thì đó là trạng thái tốt. Nghĩa
là ông không nên nói: “Ồ tôi đã có chút ít công phu tu hành, tôi có thể thoát
hồn ra khỏi thân từ một điểm trên đỉnh đầu.” Nếu ông trở thành kẻ tự mãn như
vậy thì điều gì sẽ xảy ra? Hoàn toàn do ở nơi ông cả. Tuy nhiên, nếu ông không
xem cảnh giới này như một bằng chứng của sự chứng đạt quả Thánh, thì cảnh giới
ấy không phải là một chướng ngại to lớn, và cũng chẳng có gì sai lầm nghiêm
trọng.
Nhưng một khi nghĩ rằng mình đã chứng thánh thì liền rơi vào
tà kiến.
Nếu như ông nghĩ: công phu tu tập của mình hiện nay quá siêu
tuyệt rồi. Ta thật là kỳ diệu, ta là Thánh nhân xuất thế, ta là a-la-hán. Nếu
ông nghĩ như thế, ma quỷ sẽ tấn công ông ngay. Một khi ma quỷ đến phá, thì ông
là người đầu tiên bị đọa vào địa ngục.
2.
NHẶT TRÙNG SÁN TRONG
THÂN
Kinh Văn: A-nan, phục dĩ thử tâm tinh nghiên diệu minh, kì
thân nội triệt. Thị nhân hốt nhiên ư kì thân nội thiệp xuất nhiêu hồi, thân
tướng uyển nhiên, diệc vô thương hủy. Thử danh tinh minh lưu dật hình thể. Tư
đãn tinh hành tạm đắc như thị, phi vi thánh chứng. Bất tác thánh tâm, danh
thiện cảnh giới. Nhược tác thánh giải, tức thọ quần tà.
Việt dịch: Lại nữa, A-nan, nếu dùng tâm ấy cứu xét tánh diệu
minh, thấy rõ suốt khắp thân. Bỗng nhiên có thể lượm ra những con trùng, con
sán từ trong thân mình, mà thân thể vẫn nguyên vẹn, không bị tổn thương. Trạng
thái này gọi là tinh minh tràn ra hình thể. Đây chỉ là trạng
thái nhất thời do tinh tấn công phu, chẳng phải là chứng thánh. Nếu người ấy
không nghĩ mình chứng thánh thì đó là trạng thái tốt. Nhưng nếu nghĩ mình
chứng thánh thì liền rơi vào tà kiến.
Giảng: Đây gọi là cảnh giới
thứ hai của hiện tượng Ngũ ấm ma. Ma cảnh này xuất hiện vì ông tinh
tấn tu tập, nếu ông không tinh tấn trong việc hành trì, thì ông chẳng thể nào
thu hút ma sự này. Dù ông muốn, ma cũng chẳng thèm để ý tới ông. Dưới mắt nó
ông chỉ là một kẻ nghèo nàn, nó chẳng có cớ thuận tiện để quấy
phá ông.
Nhưng nay vì ông đang lúc công phu. Ông vừa tích trữ được chút
ít của cải quý báu. Đó là lý do ma theo ông để quấy rối.
Vậy ông phải làm gì khi nó đến? Ông cần phải an trụ trong
trạng thái như như bất động và tỉnh giác, sáng suốt; không dính mắc, không phan
duyên với những hình tướng hiện ra bên ngoài. Hoàn toàn không dính mắc vào mọi
chuyện. Cũng đừng nên nghĩ: “Cảnh giới ấy quá tuyệt vời, ước gì nó lại hiện
ra.”
Đừng mong ngóng nó, cũng đừng ruồng rẫy xua đuổi nó, mà
chỉ xử sự như không có chuyện gì xảy ra cả. Nếu quý vị không tự xem mình
là bậc thánh, thì đó là tình trạng tốt. Còn nếu quý vị nghĩ rằng mình đã là
Thánh nhân. Bỗng nhiên thốt lên:
“Ồ! Ta là người phi thường, ta có thể nhặt từng loài chúng
sanh từ trong thân mình ra.”
Nếu ông nghĩ rằng mình đã đạt được thần thông tự tại thì quý
vị thực sự mê lầm. Chỉ với một niệm tự mãn ấy, ma quỷ liền len vào tâm và
cai quản, nó điều khiển ông cho đến khi ông mất hết định lực.
Do đó, ông phải hiểu thật rõ những đạo lý của việc tu hành.
Chỉ như thế mới có thể giữ cho ông khỏi bị rơi vào bẫy ma hay lạc vào đường tà.
Nếu ông không hiểu Phật pháp thì rất dễ bị lạc đường. Ông có chút nào công phu
không? Chuyện ấy chẳng thành vấn đề. Nhưng khi công phu có được chút ít định
lực rồi thì ma vương liền luôn luôn để mắt tới ông, chỉ cần có được dịp
thuận tiện thì nó liền đến quấy phá ông.
Lại nữa A-nan, nếu có người dùng tâm xét lại tánh diệu minh,
sẽ thấy rõ suốt khắp thân.
Nếu ông siêng năng miệt mài trong việc tu tập, cuối cùng ông
sẽ có khả năng thấy được mọi thứ bên trong thân ông. Đó là chuyện thường, nếu
ông muốn thấy được như thế. Nhưng nếu ông chỉ có khả năng thấy được cảnh
giới này trong phút chốc thôi, thì đó là trạng thái của sắc ấm.
Bỗng nhiên có thể lượm ra những con trùng, con sán từ trong
thân mình, mà thân thể vẫn nguyên vẹn, không bị tổn thương.
Trong cảnh giới này, bỗng nhiên ông có thể lượm trùng sán từ
trong bụng mình ra, đủ loại dài ngắn, lớn, nhỏ. Ông chỉ cần đặt tay vào là
lôi nó ra được. Những loại trùng được lôi ra là có thực mà chẳng tổn thương đến
khoang bụng. Ông nghĩ loài trùng được lấy ra như thế nào? Nếu ông đưa tay vào
trong bụng để lấy được trùng sán ra thì khoang bụng sẽ bị tổn thương, nhưng
khoang bụng hoàn toàn không bị rách bể, thân thể còn toàn vẹn. Trường hợp này
có thể giải thích theo hai cách:
Một, có thể hiểu là: thân thể của nó vẫn còn toàn vẹn, nghĩa
là: thân thể của loài trùng sán vẫn còn toàn vẹn chẳng bị tổn thương chút nào
và vẫn sống khỏe mạnh. Còn hiểu theo cách thứ hai là: khoang bụng trong thân
thể mình vẫn toàn vẹn không bị tổn thương.
Trạng thái này gọi là: tinh minh tràn ra hình thể.
Một loại ánh sáng rất trong suốt tràn ngập khắp thân thể của
ông. Thực ra ông chẳng đưa tay vào khoang bụng mình để nhặt những con trùng sán
ra, mà trùng sán tự thoát ra.
Đây chỉ là trạng thái nhất thời do tinh tấn công phu,
chẳng phải là chứng thánh. Trạng thái này không
phải như một việc gì đó thường xảy ra. Nếu đây là cảnh giới xảy ra thường xuyên
thì tình huống khác hẳn. Đây không phải cảnh giới khi chứng quả thánh.
Nếu không nghĩ mình chứng thánh thì đó là trạng thái tốt.
Sẽ là tốt đẹp, không gây nên vấn đề gì nghiêm trọng. Còn
nếu nghĩ mình đã chứng thánh thì liền rơi vào tà kiến.
Nếu quý vị cho rằng: “Ta vừa chứng quả vị thánh, ta có thể lấy
những trùng sán này từ trong bao tử mình ra. Chẳng tuyệt diệu hay sao? Các
người đâu được như thế!”
Nếu quý vị trở nên tự mãn, đắm chấp vào trạng thái vừa xảy ra
thì quý vị sẽ bị ma vương quyến rũ thành quyến thuộc của nó.
3.
NGHE TIẾNG THUYẾT PHÁP
GIỮA HƯ KHÔNG
Kinh Văn: Hựu dĩ thử tâm, nội ngoại tinh nghiên. Kì thời hồn
phách, ý chí tinh thần, trừ chấp thọ thân, dư giai thiệp nhập, hỗ vi tân chủ.
Hốt ư không trung, văn thuyết pháp thanh, hoặc văn thập phương, đồng phu mật
nghĩa. Thử danh tinh phách, đệ tương li hợp, thành tựu thiện chủng, tạm đắc như
thị, phi vi thánh chứng. Bất tác thánh tâm, danh thiện cảnh giới. Nhược tác
thánh giải, tức thọ quần tà.
Việt dịch: Lại nữa, nếu đem tâm ấy quán xét tinh
tường cả trong lẫn ngoài. Khi ấy hồn phách, ý chí, tinh thần, trừ ra sắc
thân, đều giao tiếp lẫn nhau thay phiên làm khách chủ. Rồi bỗng dưng nghe giữa
hư không có tiếng thuyết pháp, hoặc nghe mười phương đồng diễn bày nghĩa lý
thâm mật. Cảnh giới này gọi là: “Tinh thần hồn phách thay phiên nhau khi rời
xa, khi kết hợp để cùng nhau thành tựu những hạt giống tốt.” Nhưng đó chỉ là
trạng thái nhất thời, chẳng phải là chứng thánh. Nếu chẳng nghĩ mình đã chứng
thánh thì đó là cảnh giới tốt. Nếu nghĩ mình đã chứng thánh thì liền rơi vào tà
kiến.
Giảng: Lại nữa nếu có người đem tâm ấy
quán xét tinh tường cả trong lẫn ngoài, cứu xét tinh sâu mãi
không thôi, trong và ngoài nỗ lực đạt đến chỗ tuyệt đỉnh, không ngừng cố gắng
tinh luyện tiến trình ấy. Hồn, phách trải qua một sự thay đổi.
Có ba hồn và bảy phách (vía) ở trong thân thể con người. Tôi đã đề cập đến mười
anh em này trước rồi. Một số trong mười hồn vía ấy, chỉ có tai hoặc mắt,
có trường hợp chỉ có mũi nhưng không có môi, mắt, tai. Mỗi trường hợp chỉ làm
chủ một giác quan, thiếu năm giác quan kia, thế nên nó không có tác dụng riêng
lẻ, độc lập. Nó phải hợp tác hỗ tương với nhau như một đội bóng. Những ai có
tai sẽ giúp cho người không có tai, ai có mắt giúp cho người không có mắt. Nó
hỗ trợ giúp đỡ cho nhau. (5)
Mười thứ hồn phách ấy cùng với ý chí, tinh thần sẽ xen
vào nhau, thay phiên làm khách, làm chủ. Nó thay đổi vai trò hỗ tương giúp
đỡ lẫn nhau. Nó thay nhau đóng vai chủ và khách.
Rồi bỗng dưng nghe giữa hư không có tiếng thuyết pháp. Có
người đang thuyết pháp giữa hư không. Ai vậy? Ông nghe được tiếng nhưng không
thấy được hình. Thực ra đó chỉ là ý chí, tinh thần của chính ông. Nó thay
phiên nhau đóng vai chủ và khách để giảng pháp. Hoặc nghe mười phương
đều diễn bày nghĩa lý thâm mật. Ông có thể nghe tiếng giảng pháp từ giữa
không trung. Sao vậy? Vì sự công phu tu tập của ông trong những đời trước. Ông
đã từng nghe giảng rất nhiều kinh pháp, nên trong tinh thần, ý chí, tư tưởng
của ông không thể nào phai mờ được. Thế nên trong đời này, khi ông dụng công tu
tập đạt đến đỉnh cao nhất thì những kinh nghiệm trong quá khứ trào ra.
Cảnh giới này gọi là: Tinh thần thay phiên nhau khi rời xa,
khi kết hợp để cùng nhau gieo trồng những hạt giống tốt.
Nó cùng hợp tác với nhau, cùng lập thành một dây, cùng nhau
kết nhóm, cùng nhau tách rời ra. Chúng có thể giảng nói Phật pháp khiến cho ông
có thể hiểu được những điều mà trước nay ông chưa hiểu. Vậy nên ông có thể gieo
trồng những chủng tử tốt cho đời sau.
Đó chỉ là trạng thái nhất thời,
không phải là thường xuyên, không phải là chứng thánh. Đừng khởi ý
tưởng cho rằng trạng thái này rất vi diệu, rồi nói: “Hãy xem ta đây, ta chẳng
cần đến nơi pháp hội, ta có thể nghe giảng pháp ở trong không trung bất kỳ khi
nào ta muốn.” Ông có thể được nghe giảng pháp nhưng cũng không có nghĩa là ông
đã chứng thánh.
Nếu chẳng nghĩ mình đã chứng thánh thì đó là cảnh giới tốt, nếu
ông không trở nên tự mãn, không tự cho rằng mình là kẻ phi thường, nếu không
muốn dối gạt mọi người thì đó là trạng thái tốt. Giả sử như ông nói “Ồ ta có
thể nghe pháp ngay cả khi chẳng ai giảng nói cả. Ai có được điều ấy chăng?
Không! Thế mà chuyện ấy lại đến với ta.”
Nhưng nếu ông quảng cáo, khoe khoang trạng thái đó để mong có
người tin ông, thì điều gì sẽ xảy ra?
Nếu ông nghĩ rằng mình đã chứng Thánh thì liền rơi vào tà
kiến.
4.
PHẬT HIỆN THÂN
Kinh Văn: Hựu dĩ thử tâm, trừng lộ hiệu triệt, nội quang
phát minh. Thập phương biến tác, diêm-phù-đàn sắc. Nhất thiết chủng loại, hóa
vi Như Lai. Ư thời hốt nhiên, kiến Tì-lô giá-na, cư thiên quang đài,
thiên Phật vi nhiễu, bách ức quốc độ, cập dữ liên hoa câu thời xuất hiện. Thử
danh tâm hồn, linh ngộ sở nhiễm, tâm quang nghiên minh, chiếu chư thế
giới. Tạm đắc như thị, phi vi thánh chứng. Bất tác thánh tâm, danh thiện cảnh
giới. Nhược tác thánh giải, tức thọ quần tà.
Việt dịch: Lại đem tâm ấy lóng sạch, thấu triệt,
bên trong hào quang toả chiếu sáng ngời. Mười phương biến thành sắc diêm-phù-đàn. Tất
cả loài hữu tình đều hóa làm Như Lai. Lúc ấy bỗng thấy Đức Phật
Tỳ-lô-giá-nangồi trên đài thiên quang, có ngàn Đức Phật nhiễu quanh trăm
ức cõi nước, cùng với hoa sen đồng thời hiện ra. Cảnh giới này gọi là tâm
hồn được truyền dẫn bởi sự lĩnh ngộ, khi tập trung tham cứu đến tận nguồn tâm
thì ánh sáng từ trong tâm chiếu khắp cõi nước. Đây chỉlà trạng thái tạm thời,
không phải là chứng thánh. Nếu không nghĩ mình chứng thánh gọi là cảnh giới
tốt, nếu tự cho mình đã chứng thánh thì liền rơi vào tà kiến.
Giảng: Lại đem tâm ấy
lóng sạch, thấu triệt, bên trong hào quang toả chiếu sáng ngời, khi
tâm lặng yên, thanh tịnh, hiển bày, tỏ lộ sáng suốt tột bậc. Ánh sáng từ trong
tâm chiếu khắp cả, mười phương biến thành sắc diêm-phù-đàn. Ánh
sáng rực rỡ tỏa chiếu từ trong tâm, khắp mười phương cõi nước đều phủ màu
diêm-phù-đàn. Tất cả các loài hữu tình (thai sanh, thấp sanh,
hóa sanh, noãn sanh) và tất cả các loài chúng sanh khác đều hóa làm Như
Lai.
Lúc ấy, bỗng thấy Đức Phật Tỳ-lô-giá-na. Tỳ-lô-giá-na
nghĩa là “suốt khắp mọi nơi,” là danh hiệu của Đức Phật. Ngài không hiện hữu
riêng ở một nơi nào, vậy nên chẳng nơi nào mà ngài không có. Thân thể của ngài
trùm khắp mọi nơi. Người này bỗng nhiên thấy được Đức Phật Tỳ-lô-giá-na. Vì Đức
Phật có thân trùm khắp mọi nơi.
Ngồi trên đài thiên quang, làm bằng ánh sáng
của cõi trời, hiển bày thân cao ngàn trượng. Đức Phật
Tỳ-lô-giá-na được ngàn Đức Phật vây quanh cùng trăm ức cõi nước
cùng với hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng đồng thời hiện ra.
Cảnh giới này gọi là: “tâm hồn được truyền dẫn bởi sự
lĩnh ngộ, ông đừng cho rằng cảnh giới này là thật. Tâm thức ông bị
ảnh hưởng bởi một dạng linh cảm sự giác ngộ. Do vậy nó không thật. Do khi
tập trung tham cứu đến tận nguồn tâm thì ánh sáng từ trong tâm chiếu khắp các
cõi nước.
Khi tâm ông được sáng suốt, nó sẽ chiếu khắp tất cả mọi thế
giới.
Đây chỉ là trạng thái tạm thời, không phải là chứng
thánh. Những gì đang diễn ra không phải là lâu đài vĩnh viễn. Ông chẳng phải là
đã chứng Thánh quả. Nếu không nghĩ mình chứng thánh thì gọi là cảnh giới tốt.
Còn nếu tự cho mình chứng thánh thì liền rơi vào tà kiến.
Nếu ông nói: “Thật tuyệt diệu! Ta vừa thấy Đức Phật
Tỳ-lô-giá-na . Ông có thấy chăng? Công phu của ông chẳng sâu bằng tôi, tôi
thật là đã đạt được điều ấy.” Một khi ông khởi lên niệm như vậy thì ma vương
liền đến lôi kéo ông vào địa ngục.
5.
SẮC BÁU ĐẦY HƯ KHÔNG
Kinh Văn: Hựu dĩ thử tâm, tinh nghiên diệu minh,
quán sát bất đình. Ức án, hàng phục, chế chỉ siêu việt. Ư
thời hốt nhiên, thập phương hư không, thành thất bảo sắc, hoặc bách bảo sắc.
Đồng thời biến mãn, bất tương lưu ngại. Thanh hoàng xích bạch, các các thuần
hiện. Thử danh ức án, công lực du phận. Tạm đắc như thị, phi vi thánh chứng.
Bất tác thánh tâm, danh thiện cảnh giới. Nhược tác thánh giải, tức thọ quần tà.
Việt dịch: Lại đem tâm ấy, cứu xét tinh ròng mầu nhiệm
sáng tỏ. Quán sát không ngừng. Đè nén, hàng phục ngăn dứt quá phần. Bấy giờ
bỗng dưng thấy hư không mười phương biến thành màu sắc bảy loại châu báu, hoặc
màu sắc của trăm loại châu báu. Xuất hiện đồng thời đầy khắp, không ngăn ngại
lẫn nhau. Những mầu xanh, vàng đỏ, trắng hiện ra rõ ràng. Cảnh giới này gọi là
“Sức công phu hàng phục vọng tâm quá phần.” Mới được cảnh giới như vậy, chẳng
phải chứng thánh. Không khởi thánh tâm là trạng thái tốt. Còn nếu nghĩ rằng
mình đã chứng Thánh thì liền rơi vào tà kiến.
Giảng: Lại đem
tâm ấy, cứu xét tinh ròng mầu nhiệm sáng tỏ. Quán sát không ngừng. Đè nén, hàng
phục ngăn dứt quá phần.Cố gắng kiềm chế hàng phục vọng tâm của mình đến nỗi
nó không đạt đến chỗ siêu việt.
Bỗng dưng hư không trong mười phương biến thành mầu sắc của
bảy loại báu, hoặc mầu sắc của trăm loại châu báu, xuất hiện đồng thời khắp
trong không gian mà không ngăn ngại lẫn nhau, mà nó không hề chướng
ngại lẫn nhau.
Những loại màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng đều hiện ra rõ ràng.
Mỗi thứ đều phô bày mầu sắc riêng biệt của nó. Cảnh giới này gọi là: “sức hàng
phục vọng tâm quá mức.”
Ông dụng công tu tập chế ngự vọng tâm, không để cho vọng tưởng
xen vào, không để cho nó dấy khởi những tạp niệm. Sau khi sự kiềm chế ấy xảy ra
một thời gian dài, trở nên căng thẳng quá mức. Đó là ông đã vượt quá mức độ
bình thường lẽ ra nên có.
Mới được cảnh giới như vậy, chẳng phải chứng thánh. Ông
chỉ tạm thời thấy được sắc mầu bảy báu trong không trung thôi. Vậy nên
trạng thái này không có nghĩa là ông đã chứng được thánh quả.
Không khởi thánh tâm là trạng thái tốt. Còn nếu nghĩ rằng mình
đã chứng thánh thì liền rơi vào tà kiến.
Sẽ là hoàn toàn tốt đẹp, không phải là tình trạng xấu. Còn nếu
nghĩ rằng mình là bậc thánh, liền rơi vào tà kiến. Ông sẽ bị bao vây bởi bè lũ
tà kiến và ông sẽ đọa lạc.
6.
BAN ĐÊM NHƯ BAN NGÀY
Kinh Văn: Hựu dĩ thử tâm, nghiên cứu trừng triệt tinh quang
bất loạn. Hốt ư dạ bán, tại ám thất nội, kiến chủng chủng vật, bất thù bạch
trú, nhi ám thất vật, diệc bất trừ diệt. Thử danh tâm tế, mật trừng kỳ kiến, sở
thân đỗng u. Tạm đắc như thị, phi vi thánh chứng. Bất tác thánh tâm, danh thiện
cảnh giới. Nhược tác thánh giải, tức thọ quần tà.
Việt dịch: Lại đem tâm ấy, cứu xét tinh ròng, sáng suốt
không loạn. Bỗng nhiên giữa đêm có thể thấy các thứ hiện ra trong phòng
tối không khác gì ban ngày, mà các thứ ở trong phòng tối cũng không biến mất.
Đó gọi là: “Định tâm lặng đứng cái thấy, nên thấy suốt chỗ tối tăm.” Tạm được
như thế, không phải chứng thánh. Nếu không khởi tâm chứng thánh, đó là cảnh
giới tốt. Nếu nghĩ là chứng thánh, liền rơi vào tà kiến.
Giảng: Lại đem tâm
ấy, cứu xét tinh ròng, sáng suốt không loạn.
Lại nữa khi người ấy định tâm để quán sát mọi cảnh giới,
cho đến khi linh quang từ bản tâm sáng suốt trở nên rất lắng đọng, và đạt được
định lực.
Bỗng nhiên giữa đêm có thể thấy các thứ hiện ra trong phòng
tối.
Trong ngôi nhà có ánh sáng, ban đêm không khác gì ban
ngày, mà các vật ở trong phòng tối cũng không biến mất.
Không những ông chỉ có thể thấy các vật ở trong nhà mà
ông còn có thể thấy được các vật ở bên ngoài ngôi nhà. Không những ông chỉ thấy
được đồ vật đã có sẵn trong nhà, mà ông còn thấy được rất rõ ràng những vật
đang từ bên ngoài đến hiện ra trong nhà.
Cảnh giới này gọi là: “Định tâm lặng đứng cái thấy,
nên thấy suốt chỗ tối tăm.”
Tâm ông được tinh lọc đến chỗ cực điểm và cái thấy của ông
được thanh tịnh đến mức tột cùng. Với cái nhìn trong suốt ấy, ông có thể nhìn
được mọi vật ngay trong bóng tối.
Tạm được như thế, không phải chứng thánh
Nhưng đó chỉ là trạng thái tạm thời, không phải là chứng
thánh. Ông không nên nghĩ đó là quả vị của bậc thánh. Chắc chắn quả vị thánh
không phải là như vậy.
Nếu không khởi tâm chứng thánh, đó là cảnh giới lành. Nếu nghĩ
mình chứng thánh, liền mắc vào tà kiến.
Nếu ông khởi tâm tự cao tự mãn, nghĩ rằng mình đã đạt được
công phu lớn lao trong khi tu hành, thì ông sẽ tự rước lấy ma chướng vào mình.
Một số người tu đạo khi đạt đến trạng thái cực điểm vô cùng
thanh tịnh và trong suốt như thế, đột nhiên họ thấy được mọi vật. Đó là vì họ
đã mở được con mắt Phật (Phật nhãn). Tuy thế, không phải ai cũng có thể mở được
Phật nhãn. Ngay cả nếu có người đạt được Phật nhãn, cũng không phải là có được
mãi mãi. Cảnh giới được mô tả ở đây là hành giả chỉ được khai mở Phật nhãn
trong nhất thời, khiến hành giả có thể nhìn thấy đồ vật trong nhà tối, y như ở
đó có ánh sáng vậy.
Tôi lưu ý thêm là hành giả có thể thấy đồ vật từ bên ngoài đến
hiện ra trong nhà. Sẽ thấy được cái gì? Ví dụ ông có thể thấy thần, ma quỷ,
Bồ-tát hay Đức Phật từ bên ngoài đến hiện ra trong nhà tối, không nhất định là
hình ảnh nào.
Không phải ai cũng trải qua cảnh giới này, nhưng có một số
người sẽ có. Đây là cảnh giới sẽ hiện ra tại một thời điểm nào đó trong khi
hành giả dụng công tu tập. Nhưng đừng nghĩ rằng tất cả mọi người tu đạo đều
phải trải qua những cảnh giới giống nhau. Vì nó không phải là một dạng nhất
định.
Có người được mở Phật nhãn thường xuyên. Điều đó được gọi là
“thần thông có được như một phước báo.” Đó là những người trong đời trước đã
tinh tấn tu tập pháp môn nghìn tay nghìn mắt (thiên thủ thiên nhãn), và kết quả
dĩ nhiên là họ có thể mở được Phật nhãn đời này cho đến đời sau. Những người
khác chỉ có thể mở được Phật nhãn nhất thời thôi, vì tâm họ không ở
trong trạng thái hằng thanh tịnh. Nếu tâm họ thường thanh tịnh và họ đã tu tập
pháp môn Đại bi trong những đời trước, họ cũng có thể mơr được Phật nhãn thường
trực. Đó là những trường hợp khác biệt trong khi tu hành.
7.
THÂN KHÔNG CÒN CẢM GIÁC,
ĐỒNG NHƯ CÂY CỎ
Kinh Văn: Hựu dĩ thử tâm, viên nhập hư dung, tứ chi hốt nhiên
đồng ư thảo mộc, hỏa thiêu đao chước, tằng vô sở giác. Hựu tắc hỏa quang, bất
năng thiêu nhiệt, túng cát kì nhục, do như tước mộc. Thử danh trần tịnh, bài tứ
đại tính, nhất hướng nhập thuần. Tạm đắc như thị, phi vi thánh chứng. Bất tác
thánh tâm, danh thiện cảnh giới. Nhược tác thánh giải, tức thọ quần tà.
Việt dịch: Lại đem tâm ấy, hoàn toàn nhập vào tánh hư dung, tứ
chi bỗng nhiên đồng như cây cỏ, lửa thiêu dao cắt cũng không hay biết. Lửa đốt
không cháy thân, dù bị lóc thịt cũng như chẻ cây. Đó gọi là: trần cảnh và
tính tứ đại đều sạch hết, chỉ một hướng thuần chơn. Tạm được như thế,
không phải là chứng thánh. Nếu không nghĩ mình chứng thánh, là cảnh giới tốt.
Nếu nghĩ mình chứng thánh, liền rơi vào tà kiến.
Giảng: Lại đem tâm
ấy, hoàn toàn nhập vào tánh hư dung.
Lại nữa, khi tâm ấy hoàn toàn thể nhập vào tánh hư dung.
Tròn khắp đầy đủ mà lại hư dung. Tâm đó có rồi lại không đó.
Quý vị có thể nói tâm đó không có, nhưng tôi biết là có.
Tứ chi bỗng nhiên đồng như cỏ cây, lửa thiêu dao cắt cũng
không hay biết. Nếu ông lấy dao cắt hay lấy lửa đốt tay chân mình, sẽ không
có một chút cảm giác nóng hay khó chịu nào cả. Lửa đốt không cháy thân.
Khi ông có đốt thân, thân vẫn không thấy nóng. Dù bị lóc thịt cũng
giống như chẻ cây. Nếu ông lóc thịt ra khỏi tay chân, thì cũng chỉ như
bóc vỏ cây, chẳng thấy đau đớn hay kinh động gì cả.
Cảnh giới này gọi là: trần cảnh và tính tứ đại đều
sạch hết, chỉ một hướng thuần chơn.
Tướng tiền trần cùng nhau gom lại, và tánh đất, nước, gió, lửa
hợp lại thành một thể. Tạm được như thế, không phải là chứng
thánh. Tuy vậy, đó chỉ là cảnh giới tạm thời, một kinh
nghiệm ngẫu nhiên, không phải là cảnh giới vĩnh viễn, không phải là chứng
thánh. Đừng nghĩ rằng ông đã chứng được quả vị thánh.
Nếu không nghĩ mình chứng Thánh, gọi là cảnh giới tốt. Nếu
nghĩ là mình chứng Thánh, trở nên tự mãn, đại
ngã mạn, khởi tâm kiêu ngạo liền rơi vào tà kiến, sẽ bị tấn công và
bao vây bởi bè lũ ác kiến.
8.
BIẾN THÀNH CẢNH GIỚI CHƯ
PHẬT
Kinh Văn: Hựu dĩ thử tâm, thành tựu thanh tịnh. Tịnh tâm công
cực, hốt kiến đại địa, thập phương sơn hà, giai thành Phật quốc, cụ túc thất
bảo, quang minh biến mãn. Hựu kiến hằng diệu chư Phật Như Lai, biến mãn không
giới lâu điện hoa lệ. Hạ kiến địa ngục, thượng quán thiên cung, đắc vô chướng
ngại. Thử danh hân yểm, ngưng tưởng nhật thâm, tưởng cửu hóa thành, phi vi
thánh chứng. Bất tác thánh tâm, danh thiện cảnh giới. Nhược tác thánh giải, tức
thọ quần tà.
Việt dịch: Lại đem tâm ấy, thành tựu tánh thanh tịnh,
công phu tịnh tâm đến mức cùng tột. Bỗng thấy núi sông, đất liền khắp mười
phương biến thành cõi Phật, đầy đủ bảy loại báu, ánh sáng chiếu khắp mọi nơi.
Lại thấy chư Phật Như Lai nhiều như cát sông Hằng, khắp cõi hư không đầy lâu
đài tráng lệ. Dưới thấy địa ngục, trên xem thấy thiên cung mà không ngăn ngại.
Đó gọi là: tư tưởng thích, chán ngưng lắng ngày càng sâu, tưởng lâu
mà thành như vậy, không phải là chứng thánh. Không khởi tâm chứng thánh, gọi là
cảnh giới tốt. Nếu nghĩ mình đã chứng thánh liền rơi vào tà kiến.
Giảng: Lại đem tâm
ấy, thành tựu tánh thanh tịnh, công phu tịnh tâm đến mức cùng tột.
Chuyên chú tâm mình vào công phu tu tập, thực hành pháp tu tam-muội (chánh
định), đạt được trạng thái cực kỳ thanh tịnh.
Lúc đó bỗng thấy núi sông, đất liền, suốt khắp mười phương
biến thành cõi Phật, có đầy đủ bảy loại châu báu, ánh sáng chiếu khắp mọi
nơi.
Mỗi cung điện đều được trang hoàng bằng bảy loại châu báu:
Vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, xích châu, mã não, san hô. Các loại châu báu này phát
ra ánh sáng chiếu khắp mười phương.
Lại thấy chư Phật Như Lai nhiều như cát sông Hằng, khắp cõi hư
không đầy lâu đài tráng lệ. Dưới thấy địa ngục.
Nhìn xuống dưới thấy được toàn cõi địa ngục. Nhìn lên
phía trên có thể xem thấy được những gì xảy
ra ở thiên cung mà không ngăn ngại. Có thể thấy bất kỳ cung điện,
lâu đài nào mà mình thích thấy.
Cảnh giới này gọi là: tư tưởng thích, chán ngưng
lắng ngày càng sâu, tưởng lâu mà thành như vậy.
Tại sao ông lại có thể thấy được những cảnh này? Là vì ông
thường có tâm yêu và ghét. Ông muốn lên cõi trời, cõi Phật và ghét việc xuống
địa ngục.
Ông tập trung tư tưởng vào những niệm yêu, ghét này. Chú tâm
vào đó như gà mái ấp trứng, như mèo rình chuột, như rồng nuôi ngọc vậy. Chẳng
nghĩ đến chuyện gì khác, mà chỉ nghĩ về những cảnh giới tốt đẹp ở cõi Phật
và cảnh khổ đọa đày nơi địa ngục. Tâm ưa thích những nơi chốn an vui thánh
thiện và ghét nơi đau khổ bất hạnh… Cuối cùng những tư tưởng ấy đã tạo
nên loại cảnh giới này.
Đó không phải là chứng thánh. Không
nên nghĩ rằng mình đã chứng được quả vị Thánh và đạt được nhiều năng lực lớn
trong công phu.
Nếu không khởi tâm chứng thánh, gọi là cảnh giới tốt. Thế
thì không phải là xấu. Nếu nghĩ là chứng thánh, và nói: “Cảnh giới
này thật tuyệt, ta đang ở với chư Phật. Thực vậy, chính ta là Phật.”
Liền rơi vào tà kiến. Nếu nghĩ như vậy thiên
ma và ngoại đạo liền đến lôi kéo ông làm bạn đồng hành với nó. Ông nói ông đang
ở nơi chư Phật phải không? Tốt lắm, chúng ta cùng kết bạn và chúng tôi sẽ theo
thân cận với ông.
9.
BAN ĐÊM NHÌN THẤY XA
Kinh Văn: Hựu dĩ thử tâm, nghiên cứu thâm viễn, hốt ư trung dạ
diêu kiến viễn phương. Thị, tỉnh, nhai hạng, thân tộc, quyến thuộc, hoặc văn kì
ngữ. Thử danh bách tâm, bức cực phi xuất, cố đa cách kiến, phi vi thánh chứng.
Bất tác thánh tâm, danh thiện cảnh giới. Nhược tác thánh giải tức thọ quần tà.
Việt dịch: Lại đem tâm ấy, cứu xét sâu xa, bỗng nhiên giữa
khuya thấy được những nơi chốn xa xôi. Thấy chợ, giếng nước, đường phố, ngõ
hẻm, bà con thân quyến, cùng nghe họ đang nói chuyện với nhau.
Cảnh giới này gọi là: “Do dồn ép tâm đến mức cùng tột, nên tâm
phóng vọt ra thấy được nhiều thứ ở xa và cách ngại như vậy,” chứ không
phải là chứng thánh.
Nếu không nghĩ mình chứng thánh, là cảnh giới tốt. Còn
nếu cho mình chứng thánh, liền rơi vào tà kiến.
Giảng: Lại đem
tâm ấy, cứu xét sâu xa. Khi dụng tâm nghiên cứu sâu xa, bỗng
nhiên giữa khuya thấy được những nơi chốn xa xôi. Bỗng dưng có thể
thấy được những hiện tượng, những cảnh huống khác nhau ở những nơi chốn xa xôi
vào lúc giữa đêm khuya.Thấy chợ, giếng nước, đường phố, ngõ hẻm, bà con thân
quyến, cùng nghe họ đang nói chuyện với nhau. Có thể thấy được phố
chợ, nơi hàng hóa được bán đầy trên phố, giếng nước công cộng, nơi mọi người
lấy nước dùng đường phố lớn, ngõ hẻm nhỏ. Có thể thấy được luôn cả bà con,
quyến thuộc họ hàng thân tộc, cùng nghe được những lời họ nói chuyện với nhau.
Có thể nghe được họ bàn bạc nói chuyện với nhau.
Cảnh giới này gọi là: “Do dồn ép tâm đến mức cùng tột, nên tâm
phóng vọt ra thấy được nhiều thứ ở xa và cách ngại như vậy.”
Trong công phu ông đã chế ngự tâm phóng túng buông thả theo
vọng tưởng, thúc ép tâm mình đến mức cùng tột. Rồi trải qua cảm giác tâm được
phóng vọt ra và thấy hết mọi vật bất kể nó ở bao xa, những cảnh vật mà khi bình
thường dù cố gắng nhìn cũng không thể thấy được. Nhưng bây giờ bỗng dưng tâm
ông vỡ rời ra và ông có thể thấy được mọi vật.
Đó không phải là chứng thánh, không nên nghĩ rằng
đây là cảnh giới tốt.
Nếu không nghĩ mình đã chứng thánh thì đó là cảnh giới tốt.
Còn nếu tự xem mình là thánh, liền rơi vào tà kiến.
Nếu quý vị tuyên bố rằng mình đã chứng được thánh quả, trong
khi mình chẳng hề chứng được, hoặc quý vị tuyên bố đã chứng được những gì mình
không thể chứng được. Thì quý vị sẽ thấy mình bị bao vây bởi quân ma.
10.
THẤY THIỆN TRI THỨC BIẾN
DẠNG MÀ KHÔNG HIỂU NGUYÊN NHÂN
Kinh Văn: Hựu dĩ thử tâm, nghiên cứu tinh cực, kiến thiện tri
thức, hình thể biến di. Thiểu tuyển vô đoan, chủng chủng thiên cải. Thử danh tà
tâm, hàm thọ li mị, hoặc tao thiên ma, nhập kì tâm phúc, vô đoan thuyết pháp,
thông đạt diệu nghĩa, phi vi thánh chứng. Bất tác thánh tâm, ma sự tiêu yết.
Nhược tác thánh giải, tức thọ quần tà.
Việt dịch: Lại đem tâm ấy, cứu xét tinh ròng, thấy hình
thể của các vị thiện tri thức bị biến dạng. Chỉ trong chốc lát, thân họ biến
thành nhiều dạng khác nhau mà không biết vì cớ gì. Đó gọi là: “Tà tâm bị loài
lỵ mỵ hay bị thiên ma nhập vào, vô cớ thuyết pháp, rất thông suốt diệu lý,” chứ
không phải là chứng thánh. Nếu không nghĩ mình chứng thánh thì các ma sự
liền tiêu mất. Còn nếu nghĩ mình đã chứng thánh, liền rơi vào tà kiến.
Giảng: Đây là trạng thái ma
sự thứ mười của sắc ấm, gọi là “vọng kiến” và “vọng thuyết.”
Lại đem tâm ấy, cứu xét tinh ròng, thấy hình thể của các
vị thiện tri thức bị biến dạng. Người mà ông đã
theo học giáo pháp trong quá khứ. Chỉ trong chốc lát, thân họ biến
thành nhiều dạng khác nhau mà không biết vì cớ gì.
Vị thiện tri thức ấy biến đổi hình dạng ngay trước mặt ông,
chợt biến thành một ông lão, lát sau vị ấy biến thành một người trung niên, lát
sau nữa vị ấy biến thành một người thiếu niên. Còn nếu thiện tri thức vốn là
người nam biến thành người nữ, ông sẽ nghĩ rằng: Ồ người thiện tri thức của ta
đời trước là một người phụ nữ. Thực ra, những gì ông thấy đều không có thực.
Những sự biến đổi này là kết quả từ vọng tưởng của ông. Chỉ trong chốc lát,
nhiều sự biến chuyển xảy ra mà không giải thích được. Mọi việc đều biến đổi và
trở nên khác với bình thường.
Điều này tương tự với những gì mà người sử dụng ma túy đã
trải qua. Đối với họ, mọi vật trở nên có màu sắc sáng chói, họ không thể nhìn
rõ các vật thể ấy. Họ vẽ lên nhưng bức tranh kỳ quái không ai hiểu nỗi, vì họ
chỉ làm văng tung tóe bừa bãi các mầu sắc trên khung vải. Sau khi họ vẽ
xong, có người nói: “Ồ thật là một danh họa.” Có người đã khen thật. Quý vị
thấy đó! Đó là một loại.
Quý vị thắc mắc: “Nhưng đây có phải là trường hợp của người tu
đạo đã dùng ma túy không?
Không. Cảnh giới này gây nên do ma vương. Khi ông dùng ma túy,
ma vương cũng có việc làm. Nó cũng làm cho mọi cảm giác trong quý vị biến đổi
theo (6).
Những cảnh giới trong sắc ấm có thể biến chuyển thành tốt hoặc
trở nên xấu đi. Nếu hành giả có đầy đủ thiện căn, thì sự chuyển biến sẽ theo
chiều hướng tốt đẹp. Nếu hành giả có ít thiện căn, sẽ hướng sang chiếu bất
thiện. Đó là tất cả các dạng biến đổi.
Đó gọi là: “Tà tâm bị loài ly mỵ hay bị thiên ma nhập vào, vô
cớ thuyết pháp, rất thông suốt diệu lý.”
Khi loài ly mị hoặc thiên ma nhập vào, ông sẽ tự cho rằng:
Mình biết giảng kinh, biết thuyết pháp. Tự cho mình đã được khai ngộ, tự cho
mình là bậc Trưởng lão. Những người này bắt đầu giảng pháp mà không có nguyên
nhân, và họ không biết mình nói điều gì nữa. Họ nói rằng họ đã thông đạt diệu
nghĩa của Phật pháp, nhưng thật sự chẳng thông đạt được diệu nghĩa. Họ cũng
chẳng phải đang diễn nói Phật pháp nữa. Họ đã lấy những điều sai, diễn nói
thành đúng rồi tuyên bố rằng pháp của họ là vi diệu. Họ tự khen ngợi mình còn
hủy báng người khác. Nó tự xưng là bậc Trưởng lão.
Chứ không phải là chứng thánh. Đây
là một trạng thái không tốt.
Nếu không nghĩ mình chứng thánh, các ma sự liền tiêu tan. Bọn
quân ma sẽ tự biến mất.
Còn nếu nghĩ mình đã chứng thánh, liền rơi vào tà kiến. Nếu
ông nghĩ mình đã đạt được quả vị Thánh, ông sẽ nhận thấy mình đang ở địa ngục.
Ông sẽ đạt được quả vị của mình ở nơi địa ngục.
LỜI KHUYÊN RĂN TỔNG KẾT
CỦA ĐỨC THẾ TÔN VỀ SẮC ẤM
Kinh Văn: A-nan, như thị thập chủng, thiền-na hiện cảnh, giai
thị sắc ấm, dụng tâm giao hỗ, cố hiện tư sự .
Việt dịch: A-nan, mười cảnh giới hiện ra trong thiền định như
vậy, là do sắc ấm và tâm dụng công giao xen với nhau mà có.
Giảng: A-nan, mười
cảnh giới đã được mô tả ở trên hiện ra khi tập trung
quánchiếu trong thiền định. Do sắc ấm và tâm nôn
nóngdụng công giao xen nhau mà hiện ra. Cảnh giới này có liên quan với
sắc ấm, khi tâm dụng công hỗ tương với sự tham cứu về sắc ấm đến cùng cực.
Người tu đạo ai cũng có thể trải qua cảnh giới này.
Kinh Văn: Chúng sanh ngoan mê, bất tự thổn lượng. Phùng thử
nhân duyên, mê bất tự thức, vị ngôn đăng thánh, đại vọng ngữ thành, đọa vô
gián ngục.
Việt dịch: Chúng sanh mê muội không tự xét kỹ. Gặp nhân
duyên này, mê muội không tự biết, tự cho là chứng thánh, thành tội đại vọng
ngữ, sẽ đọa vào địa ngục vô gián.
Giảng: Chúng sanh mê
muội không tự xét kỹ. Chúng sanh ngoan cố khó chuyển hóa, ngu mê khó thức
tỉnh. Họ không tự duyệt xét lại mình để kiểm chứng lại mức độ tu học của mình
ngay từ đầu. Gặp nhân duyên này, gặp các cảnh giới ma sự, mê
muội không tự biếtmình, tự cho là chứng thánh.
Chúng tuyên bố: “Ồ! Ta là Phật. Ta giác ngộ rồi. Ta đã chứng
được thánh quả rồi.”
Như vậy thành tội đại vọng ngữ, chúng thật sự đã
nói những lời đại vọng ngữ, chắc chắn chúng sẽ đọa vào địa ngục vô gián.
Kinh Văn: Nhữ đẳng đương y, Như lai diệt hậu, ư mạt pháp
trung, tuyên kì tư nghĩa. Vô linh thiên ma, đắc kì phương tiện. Bảo trì phúc
hộ, thành vô thượng đạo.
Việt dịch: Các ông phải nương theo, sau khi Như Lai nhập
diệt, trong đời mạt pháp, phải truyền bá giáo pháp này. Đừng để cho thiên
ma có cơ hội quấy phá. Giữ gìn che chở cho mọi chúng sanh, khiến họ được thành
đạo vô thượng.
Giảng: Các ông phải
nương theo, sau khi Như Lai nhập diệt, trong đời mạt pháp, phải truyền bá
giáo pháp này.
A-nan, ông nên hết lòng nương theo và thực hành giáo pháp mà
tôi đã giảng dạy cho các ông. Trong đời mạt pháp, sau khi Như Lai diệt độ, các
ông phải truyền bá giáo pháp này.
Đừng để cho thiên ma có cơ hội quấy phá. Giữ
gìn che chở cho mọi chúng sanh, khiến họ được thành đạo vô thượng. Phải nên
duy trì và bảo hộ Phật pháp chân chính, mới mong được thành tựu đạo quả vô
thượng.
KINH
LĂNG NGHIÊM
NĂM MƯƠI LOẠI ẤM
MA
Hòa Thượng Tuyên
Hóa giảng tại
Phật Giáo Giảng Ðường
San Francisco
California _ USA
_ 1968
THỌ
ẤM
TÂM LÝ TRƯỚC KHI
VÀO CẢNH GIỚI THỌ ẤM
Kinh Văn: A-nan, bỉ thiện nam tử, tu tam-ma-đề, xa ma tha
trung, sắc âm tận giả, kiến chư Phật tâm, như minh kính trung, hiển hiện kì
tượng.
Việt dịch: A-nan, thiện nam tử ấy tu tập chánh định, trong
khi tu xa-ma-tha (chỉ ), sắc ấm dứt sạch, thấy tâm chư Phật như
bóng hiện ra trong gương.
Giảng: A-nan, thiện nam tử ấy tu tập
chánh định.
Tu tập công phu “phản
văn văn tự tánh ,” hướng tánh nghe vào bên trong để nhận ra
bản tánh của mình – Tu tam-ma-đề tức
tu tập chánh định, là tu nhĩ
căn viên thông, tức tu tập công phu “phản văn văn tự tánh,” hướng tánh
nghe vào bên trong để nhận ra bản tánh của mình, là công phu để đạt được trí
huệ viên mãn thông qua nhĩ căn. Khi tu pháp xa-ma-tha làm thanh
tịnh tâm ý, chuyển hóa tất cả mọi vọng tưởng để tập trung vào việc
quán chiếu. Khi trừ diệt các sắc ấm hết sạch rồi, có
thể thấy
tâm của chư Phật như bóng hiện ra trong gương.
Điều gì xảy ra thì ông tiêu trừ hết các sắc ấm? Ông có thể thấy
được pháp môn tâm ấn của chư Phật như thể ông nhìn thấy được chính mình trong
gương.
PHẠM
VI CỦA THỌ ẤM
Kinh Văn: Nhược hữu sở đắc, nhi vị năng dụng. Do như yểm
nhân, thủ túc uyển nhiên kiến văn bất hoặc, tâm xúc khách tà, nhi bất năng
động. Thử tắc danh vi thọ ấm khu vũ.
Việt dịch: Như có chỗ sở đắc, nhưng chưa dùng được. Ví như
người bị bóng mộc đè, tay chân còn y nguyên, thấy nghe không lầm, nhưng tâm bị
khách tà, không cử động được. Đó gọi là phạm vi của thọ ấm .
Giảng: Như có chỗ sở đắc, nhưng
chưa dùng được. Ví như người bị bóng mộc đè.
Trước tôi đã nói về loài quỷ Cưu-bàn-trà . Là một loài
yểm mỵ quỷ thường dùng bùa chú để ếm cho người bệnh chết. Khi một người bị loài
quỷ này ám, chân tay còn y nguyên, không bị mất đi, thấy nghe không lầm hay mê
muội nhưng tâm bị chế ngự bởi quần tà, đến mức không cử động được. Đây gọi là
phạm vi của thọ
ấm .
CỘI
GỐC CỦA THỌ ẤM
Kinh Văn: Nhược yểm cữu yết, kì tâm li thân, phản quán kì
diện, khứ trụ tự do, vô phục lưu ngại. Danh thọ ấm tận. Thị nhân tắc
năng siêu việt kiến trược. Quán kì sở do, hư minh vọng tưởng, dĩ vi kì bản.
Việt dịch: Khi mộc đè lắng dịu rồi thì tâm rời khỏi thân, trở
lại thấy được mặt mày, đi ở tự do, không còn ngăn ngại. Đây gọi là hết thọ
ấm . Người ấy có thể vượt qua kiến trược. Xét kỹ nguyên do, thì vọng tưởng
hư minh là gốc của thọ ấm.
Giảng: Khi tình
trạng tê liệt bởi bóng mộc
đè lắng dịu rồi thì tâm rời khỏi thân, trở lại thấy được mặt mày.
Khi ông còn ở trong phạm vi thọ ấm , giống như bị loài quỷ
Cưu-bàn-trà làm cho tê liệt, do đó ông không thể có được sự tự tại.
Nếu tình trạng này biến mất và thọ ấm được trừ sạch rồi, thì tâm sẽ thoát khỏi
thân và ông có thể nhìn thấy được mặt ông, và đi ở tự do. Ông có thể đi hay
không đi tùy ước muốn, hoàn toàn không bị trói buộc nữa, không bị ngăn
ngại. Đây
gọi là hết thọ ấm.
Khi thọ ấm đã tiêu dung, người ấy có thể vượt qua kiến
trược. Đó là một trong năm món ngũ trược ác thế.
Xét lại nguyên do, thì vọng tưởng hư minh là cội gốc của thọ ấm .
Khi thọ ấm được phá sạch rồi thì cái gốc của nó cũng tiêu tan luôn.
10
CẢNH GIỚI CỦA THỌ ẤM
* * *
1
– SỰ BI LỤY QUÁ ĐỘ (MA BI LỤY)
Kinh Văn: A-nan bỉ thiện nam tử, đương tại thử trung,
đắc đại quang diệu, kỳ tâm phát minh, nội ức quá phần. Hốt ư kì xứ, phát vô
cùng bi, như thị nãi chí, quán kiến văn manh, do như xích tử ,
tâm sinh lân mẫn, bất giác lưu lệ.
Việt dịch: A-nan, hành giả khi ở trong trạng thái này, tâm
rất sáng suốt, do bên trong đè nén quá phần. Bỗng dưng phát sanh tâm thương cảm
vô cùng, cho đến xem muỗi mòng như là con mới sinh, tâm thương xót bất
giác rơi lệ.
Giảng: A-nan, hành giả khi ở trong
trạng thái này, tâm rất sáng suốt, do bên trong đè nén quá phần. Một
loại cảm xúc đột nhiên sanh khởi. Ông ta đã liên tục ức chế tư tưởng quá trớn.
Khi sự dồn nén bên trong quá mức, bỗng
dưng phát sanh tâm thương cảm vô hạn và lòng thương mến
các loài chúng sanh, đến
nỗi xem muỗi mòng như là con mới sanh. Tiếng Hán gọi con mới
sanh là xích tử ,
do da của trẻ mới sanh có màu đỏ.
Tâm sinh thương xót, bất giác rơi lệ,
không biết tại sao mà ông bật khóc.
Kinh Văn: Thử danh công dụng ức tồi quá việt. Ngộ tắc vô
cữu, phi vi thánh chứng. Giác liễu bất mê, cửu tự tiêu yết. Nhược tác thánh
giải, tắc hữu bi ma nhập kì tâm phủ, kiến nhân tắc bi đề khấp vô
hạn. Thất ư chánh thọ, đương tòng luân trụy.
Việt dịch: Đây gọi là đè nén tâm quá mức trong khi công phu.
Nhận ra điều đó thì không có gì sai trái, chẳng phải là chứng thánh. Nếu biết
rõ như vậy không còn mê lầm, trạng thái đó dần tự tiêu vong. Nếu nghĩ là
mình chứng thánh thì bị loài ma bi lụy nhập vào trong tâm phủ, mỗi khi thấy
người thì thương xót kêu khóc không thôi. Nếu mất chánh định sẽ bị chìm đắm.
Giảng: Đây gọi là đè nén tâm quá mức
trong khi công phu.
Trạng thái này có thể sanh khởi trong khi dụng công tu tập. Nó
xảy ra vì ông đã đè nén tâm thái quá, nhận ra điều đó thì không có gì sai trái, chẳng phải là chứng thánh. Nếu
biết rõ như vậy không còn mê lầm, trạng thái đó dần tự tiêu vong, nếu
ông hiểu ra mình đã sai lầm và tự nhủ thầm tại sao ta lại khóc lóc vô cớ như
vậy, thì phải thay đổi ngay. Hiểu rõ như vậy rồi sẽ không còn trạng thái căng
thẳng nữa.
Cảnh giới này không phải chứng thánh. Đó không có nghĩa là ông
đã chứng được tâm đồng
thể đại bi . Đừng nghĩ rằng thương xót các loài muỗi mòng và
các loài côn trùng nhỏ nhít như là con mới đẻ của mình là tâm đồng thể đại bi.
Nếu biết rõ như vậy, không còn mê lầm nữa, trạng thái căng thẳng
đó tự tiêu vong. Nhưng
nếu nghĩ là mình đã chứng thánh,nếu ông nghĩ: “Ồ! Bây giờ ta đã
có được tâm đồng
thể đại bi , công phu tu tập của ta thực sự đã thành tựu” thế
là bị loài
ma bi lụynhập vào trong tâm phủ, nghĩa là gặp bất cứ người
nào cũng đều vô cớ bật khóc. Loài ma này mỗi khi gặp người thì thương xót kêu khóc không thôi,
khóc mà chẳng biết tại sao buồn thảm như thế.
Khi còn ở Mãn-châu (Manchuria), tôi biết một người phụ nữ
tên là Lưu Kim Đồng đã gặp phải trạng thái như vậy. Bất kỳ khi gặp
người nào, cô đều bật khóc và nói: “Trong tiền kiếp ngươi là con tôi. Bây giờ
con đã trở lại. Con đã tìm gặp được mẹ rồi đó.” Bằng nước mắt, bà ta hết sức làm
cho người ta bối rối, để họ phải tin rằng mình thực sự đã gặp được mẹ. Thực ra
người đó đã gặp ma. (8)
Nếu mất chánh định sẽ bị chìm đắm,
nếu ông nghe theo ma vương, ông sẽ rơi vào địa ngục.
2
– SỰ TÁO BẠO QUÁ MỨC
Kinh Văn: A-nan, hựu bỉ định trung, chư thiện nam tử, kiến sắc
ấm tiêu, thọ ấm minh bạch, thắng tướng hiện tiền, cảm kích quá phần.
Hốt ư kì trung, sanh vô hạn dũng, kỳ tâm mãnh lợi, chí tề chư Phật. Vị tam tăng
kì, nhất niệm năng việt.
Việt dịch: Lại nữa A-nan, khi hành giả ở trong trạng thái
định này, thấy sắc ấm đã tiêu dung, thọ ấm tỏ rõ, cảnh giới thù
thắng hiện ra, cảm kích quá phần. Bỗng dưng trong đó sinh tâm rất dõng mãnh,
thông minh bén nhạy, sánh đồng như Phật, cho rằng có thể vượt qua
ba a-tăng-kỳ kiếp chỉ trong một niệm.
Giảng: Lại nữa A-nan, khi hành giả,
bao gồm tất cả những thiện nhân đang tu tập Phật pháp, khi ở trong trạng thái định
này, thấy sắc ấm đã tiêu dung, thọ ấm tỏ rõ. Trong
năm uẩn, biết rõ sắc ấm đã tiêu rồi và hoàn toàn biết rõ, sáng suốt về thọ ấm.
Lúc ấy cảnh
giới thù thắng hiện ra. Một nhãn quan đặc biệt và hiếm có xuất
hiện trong tâm.
Hành giả cảm thấy rất là khoan khoái dễ chịu. Tuy nhiên, thái
quá như bất cập. Có một chút khác nhau giữa người đi quá xa và người đi khá xa
mà chưa đến đích. Cả hai trường hợp đó đều không hợp với nghĩa trung đạo .
Ví như khi đi du lịch, nếu ông đi vượt quá nơi ông muốn đến thì cũng đồng như
chưa đến đích vậy. Vậy nên, trong cảnh giới thiền định này người ấy cảm
kích quá phần, rồibỗng
dưng, phát ra tâm chí dõng mãnh, thông minh bén nhạy, sánh đồng như Phật,
Dõng mãnh tinh tấn một cách đáng sợ chưa từng có. Tự cho rằng
mình đồng như chư Phật, nói rằng Đức Phật và mình như nhau. Cho rằng mình có
thể vượt qua ba a-tăng-kỳ kiếp kiếp chỉ trong một
niệm.
Cho rằng có thể vượt qua a-tăng-kỳ kiếp thứ nhất, thứ hai,
thứ ba chỉ trong một niệm. Do đó anh ta nói mình là Phật. Không
những nói mình là Phật, mà anh ta còn nói mọi người là Phật. Loại người như thế
là đã rơi vào tà tri tà kiến.
Thực ra, mỗi người đều có một Đức Phật trong tâm, nhưng phải nhờ
công phu tu tập mới nhận ra Phật tánh. Ngay cả khi quyết tâm tu hành, cũng
không thể trở thành Phật chỉ trong một niệm, mà phải cần một thời
gian rất lâu xa. Dù thời gian ấy có thể rút ngắn lại nhờ hiểu biết và thực hành
đúng chánh pháp, vẫn khó có thể thành Phật chỉ trong một niệm. Người nếu có tu
hành nhưng không được thiện tri thức hướng dẫn chỉ dạy cho, dù có tu tập cần
khổ cách mấy đi nữa, anh ta cũng chỉ tăng trưởng tà kiến trong suốt thời gian
tu mà thôi. Tự thấy rằng trải qua một thời gian tu tập lâu dài như vậy cũng
không ngoài việc thành Phật, nên anh ta tự xác định rằng mình là Phật. Đây là
tự nâng mình lên ngang như chư Phật. Tình trạng này xảy ra khi thọ
ấm tan rã. Anh ta nói rằng mình đồng như chư Phật. Thực vậy, chỉ một
niệm sai lầm đó, anh ta liền dính mắc vào quyến thuộc của ma vương.
Kinh Văn: Thử danh công dụng, lăng suất quá việt. Ngộ tắc vô
cữu, phi vi thánh chứng. Giác liễu bất mê, cửu tự tiêu yết. Nhược tác thánh
giải, tắc hữu cuồng ma, nhập kì tâm phủ, kiến nhân tắc khoa, ngã mạn vô tỉ. Kỳ
tâm nãi chí, thượng bất kiến Phật, hạ bất kiến nhân. Thất ư chánh thọ, đương
tòng luân trụy.
Việt dịch: Đây gọi là dụng công lấn lướt quá mức. Nếu nhận
biết thì không sai lầm, đó không phải là chứng thánh. Nếu biết rõ như vậy và
duy trì sự sáng suốt, thì trạng thái ấy sẽ tiêu mất. Nhưng nếu nghĩ mình chứng
thánh, liền có ma cuồng nhập vào tâm phủ, khi gặp người sẽ khoe khoang về mình,
cực kỳ ngã mạn. Tâm họ đến mức trên không còn thấy chư Phật, dưới không thấy có
ai. Nếu bỏ mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.
Giảng: Nay quý vị đang nghe giảng Kinh Thủ-lăng-nghiêm.
Bây giờ chúng ta đã đến chương rất quan trọng nói về năm mươi hiện tượng ma sự
phát sinh từ ngũ ấm. Nếu những người tu hành mà không hiểu Năm mươi hiện tượng ấm ma này,
họ sẽ dễ dàng lạc đường công phu. Nếu quý vị nhận ra được những hiện tượng ngũ
ấm ma này, thì sẽ không bị mất tự chủ mà liều lĩnh khoác lác làm ra vẻ mình là
nhân vật quan trọng. Do vậy tôi khuyên quý vị nên khuyến khích bà con bạn bè
của mình đến để nghe giảng phần Năm
mươi hiện tượng ấm ma này, sẽ giúp cho quý vị biết được từng
loại cảnh giới khi tu hành.
Đây gọi là dụng công lấn lướt quá mức. Trạng
thái này xảy ra như một kết quả nỗ lực của hành giả trong khi tu hành. Vì hậu
quả từ công phu thái quá chuyển hóa bên trong tự tánh khiến ông trở nên dõng
mãnh như vậy. Chẳng có gì lầm lỗi trong sự dõng mãnh, tinh tấn, nếu quý vị dùng
nó trong việc nâng cao năng lực tu tập chánh pháp. Nhưng quý vị không nên tự
phụ nói rằng: “Ồ! Ta chính là Phật!.” Vậy ông là Phật? Đức Phật đã giảng Tam
tạng và mười hai bộ kinh, còn ông đã nói được bao nhiêu bộ kinh, bao nhiêu
tạng kinh? Ông còn chưa hiểu được kinh tạng, thì còn nói gì đến chuyện ông là
Phật? Vậy có phi lý không? Đức Phật đã giảng nói toàn bộ kinh tạng, còn ông chưa
từng nói được một kinh một tạng nào cả. Thế thì sao ông lại dám tuyên bố rằng
Ông thành Phật được. Ngay cả khi ông có thể thông hiểu từng đạo lý và giảng
giải rành mạch Tam tạng mười hai bộ kinh, thì cao nhất là ông có thể gọi mình
là một đệ tử của Đức Phật chứ không phải là Phật. Nhưng người này cảm thấy mọi
người trên thế gian đều kính mến, quí trọng Đức Phật nên muốn mình cũng thành
như Phật, để sau khi chết người ta sẽ cúng dường. Thật ra sau khi chết người ấy
sẽ được vùi sâu trong lòng đất, sẽ thành tro bụi, sẽ chẳng còn gì ở lại với ông
ta cả.
Nếu nhận biết thì không sai lầm, đó không phải là chứng thánh.
Hoàn toàn tốt đẹp nếu có được sự tinh tấn dõng mãnh như thế.
Miễn ông hiểu rằng: Đó chỉ là một cảnh giới, và đó không có nghĩa là
ông đã chứng quả Thánh. Trạng thái đó không phải là chứng Thánh. Nếu ông nhận rõ như vậy và duy
trì sự sáng suốt, lâu rồi trạng thái ấy sẽ tự tiêu mất.
Nhưng nếu tự cho mình chứng thánh.
Nói rằng: Ồ! Ta đã thành Phật. Liền
bị ma cuồng ngông nhập vào tâm phủ.
Nên quý vị thấy đó, nếu khi vẫn chưa hiểu rõ Năm mươi hiện tượng ấm ma,
thì làm sao mà thành Phật được. Loại ma này là một trong những loại ma ngông
cuồng, cống cao, ngã mạn. Nó len vào tâm ông, chiếm ông làm sở hữu của nó, điều
khiển tâm tánh người bị nó chiếm. Khi chiếm được rồi, ma vương sẽ kiểm soát và
hành động như người ấy.
Khi gặp bất luận người nào, liền khoe khoang về mình,
cho mình là đúng và mọi người khác đều sai. Nó dèm pha bôi nhọ người khác và tự
tán dương mình. Mọi người đều sai trái hết thảy chỉ có riêng mình nó
là đáng trọng thôi. Nó nghĩ nó đã thành Phật.
Người ấy trở nên cực kỳ ngã mạn đối với mọi người, Tâm họ đến
mức trên không còn thấy chư Phật, dưới không thấy có ai. Vì
sao? Vì tự nghĩ chính hắn ta là Phật. Và không còn thấy người nào dưới mình
nữa.
Thế thì anh ta thấy cái gì? Anh ta nói mọi người đều là Phật.
Chính anh ta cũng là Phật. Chẳng có vị Phật nào ở trên anh ta nữa. Trong tương
lai cũng không có vị Phật nào hơn. Đó là cảnh giới mà anh ta không còn thấy ai
ở dưới mình nữa.
Nếu bỏ mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.
Nếu không duy trì chánh định, chắc chắn sẽ bị đọa lạc.
3
– SỰ CHÁN NẢN QUÁ MỨC (MA TRẦM ỨC)
Kinh Văn: Hựu bỉ định trung, chư thiện nam tử, kiến sắc ấm tiêu,
thọ ấm minh bạch. Tiền vô tân chứng, quy thất cố cư. Trí lực
suy vi, nhập trung đọa địa, quýnh vô sở kiến. Tâm trung hốt nhiên, sanh đại khô
kiệt. Ư nhất thiết thời, trầm ức bất tán. Tương thử dĩ vi cần tinh tiến tướng.
Việt dịch: Lại nữa khi hành giả ở trong trạng thái định
này, thấy sắc ấm đã tiêu dung, thọ ấm tỏ rõ. Trước không không
thấy có cảnh giới mới để chứng, lui về thì mất chỗ cũ. Trí lực suy yếu, rơi vào
nơi cùng cực, không còn gì để trông mong. Bỗng dưng có cảm giác đơn điệu, khao
khát trỗi dậy. Trong mọi lúc đều thầm nhớ không quên. Lầm cho như vậy là tướng
tinh tấn.
Giảng: Lại khi hành giả ở trong trạng
thái định này, thấy sắc ấm đã tiêu dung, thọ ấm tỏ rõ. Trước không
không thấy có cảnh giới mới để chứng, lui về thì mất chỗ cũ. Trí lực suy
yếu. Không thấy có cảnh giới để tu chứng ngay.
Lui về thì mất trạng thái đã tự chứng được, vậy nên năng lực trí huệ yếu
dần.
Tiến lên, chẳng có gì để chứng đắc. Sau lưng hành giả, cảnh giới
xưa nay mình hằng an trụ đã biến mất. Trí huệ bây giờ trở nên yếu kém. Hành giả
không còn dũng mãnh, sắc bén như lúc đầu nữa. Đây là trường hợp bỗng dưng đang
tiến bộ rồi thình lình dừng lại.Bị
rơi vào nơi cùng cực, là nơi mà hành giả gần như đọa lạc,
thấy không
có gì để trông mong. Hành giả không có cảm giác hoặc cảm nhận
được điều gì nữa cả.
Bỗng dưng có cảm giác đơn điệu, khao khát trỗi dậy.
Cảm giác của hành giả lúc này là thấy quá đơn điệu, khô khan,
khao khát. Thấy mọi việc đều vô nghĩa và chán ngán, thấy khao khát vì anh ta
cần thấm nhuần nước của Phật pháp. Anh ta cảm thấy khô cằn, héo úa vì chẳng
thấy còn điều gì hơn nữa. Trạng thái này tương tự như người sơ cơ không chịu tu
tập, luôn luôn cảm thấy cô độc và chán nản. Sự cô độc và chán nản ấy chắc chắn
sẽ dẫn đến phiền não. Cái phiền não cố hữu.
Tôi không có dự tính nêu điều này ra, nhưng vì tôi sợ có người
không hiểu. Hơn thế nữa: nó giống như khi người nữ nhớ về người nam. Cô ta mơ
tưởng cho đến khi cô ta thấy bồn chồn và bất an. Cũng như khi người nam mơ
tưởng đến người nữ, họ cũng có cảm giác bất an tương tự. Họ đều cô đơn và buồn
tẻ như thể bị mất một điều gì mà không bao giờ tìm lại được.
Trong mọi lúc hành giả đều thầm nhớ không quên.
Đó là cảnh người nam, người nữ tương tư lẫn nhau, mơ tưởng về
nhau không bao giờ quên.
Lầm cho như vậy là tướng trạng tinh tấn.
Trạng thái này bám chắc trong tâm tưởng đến nỗi không tiêu tán,
khiến anh ta lầm tưởng đó là một dạng tinh tấn trong công phu.
Kinh Văn: Thử danh tu tâm, vô huệ tự thất, ngộ tắc vô cữu, phi
vi thánh chứng. Nhược tác thánh giải, tắc hữu ức ma, nhập kì tâm phủ. Đán tịch
toát tâm, huyền tại nhất xứ. Thất ư chánh thọ đương tòng luân trụy.
Việt dịch: Đây gọi là tu tâm mà thiếu trí huệ, nên tự gây
ra lầm lạc. Nếu nhận biết được thì không lầm lỗi, không phải là chứng thánh.
Nếu tự cho mình chứng thánh, liền bị loài ma nhớ nhập vào tâm. Ngày đêm
giữ tâm treo vào một chỗ. Bỏ mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.
Giảng: Đây gọi là tu tâm mà thiếu trí
huệ, nên tự gây ra lầm lạc. Trong phạm vi của thọ
ấm , điều nầy được gọi là tu tập mà thiếu trí huệ, nên tự gây ra sai lạc.
Quý vị chưa được phát trí huệ, nhưng đừng bận tâm vì chưa phát
trí huệ. Nếu
nhận biết được thì không lầm lỗi. Nếu quý vị hiểu ra đó
chỉ là một cảnh giới, thì không có chuyện gì. Nhưng nếu không hiểu
được thì quý vị luôn luôn vướng vào “chấp
không” và ngưng trệ trong sự tĩnh lặng. Nếu quý vị luôn luôn tán
tâm trong sự mơ tưởng, thì quý vị sẽ bị tiêu trầm, và sẽ không thành tựu được
đạo nghiệp.
Trạng thái này không
phải là chứng thánh. Điều này không có nghĩa là anh vừa chứng
đạt được một điều gì hay tự nhận mình là thánh. Đừng nhận giặc làm con.
Nếu tự cho mình đã chứng ngộ, thì sẽ bị loài ma nhớ nhập vào tâm.
Ông có nghe chăng? Điều này thật là nguy hiểm. Nếu ông xem đó là
cảnh giới tốt lành, một loại ma nhớ sẽ đến và giúp cho ông nhớ kỹ mọi việc. Còn
nếu ông không thể nhớ được điều gì hết thì sao? Nó sẽ giúp cho ông nhớ. Nó biết
ông muốn nhớ nhiều việc đến chừng nào, nó liền nhập vào tâm ông để giúp cho ông
nhớ. Đến chừng đó.
Ngày đêm như giữ tâm treo vào một chỗ.
Tâm ông sẽ bị thu hút và giữ vào một điểm.
Bỏ mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.
Khi thiếu chánh định (không dễ đạt được chánh định) sẽ bị chìm
đắm, trong tương lai sẽ đọa vào địa ngục.
4
– SỰ TỰ MÃN (ĐƯỢC ÍT CHO LÀ ĐỦ)
Kinh Văn: Hựu bỉ định trung, chư thiện nam tử, kiến sắc ấm tiêu,
thọ ấm minh bạch. Huệ lực quá định, thất ư mãnh lợi. Dĩ chư thắng tánh,
hoài ư tâm trung. Tự tâm dĩ nghi, thị Lô-giá-na, đắc thiểu vi túc.
Việt dịch: Lại nữa khi hành giả ở trong trạng thái định này,
thấy sắc ấm đã tiêu dung, thọ ấm tỏ rõ. Sức huệ hơn định, mắc
lỗi do trí mạnh mẽ sắc bén. Ôm giữ tánh siêu việt trong tâm. Ngỡ
mình là Đức Phật Lô-xá-na , được chút ít sở đắc tự cho là đủ.
Giảng: Lại nữa khi hành giả ở trong
trạng thái định này, thấy sắc ấm đã tiêu dung, thọ ấm tỏ rõ.
Sức huệ hơn định. Năng lực trí huệ
vượt quá năng lực của định.
Mắc lỗi do trí mạnh mẽ sắc bén, lầm
lẫn do trí có được sự sắc bén, mạnh mẽ, là trải qua cảm giác liều lĩnh, hấp
tấp. Thích ôm
giữ tánh siêu việt của mình trong tâm. Ngỡ mình là Đức Phật
Lô-xá-na , tưởng mình là Đức Phật Lô-xá-na.
Ở cảnh giới này hành giả xem bản tánh của mình siêu việt và
thường luôn luôn nhớ nghĩ về nó. Ôm ấp mơ tưởng về thắng tánh, lầm
cho chính mình là Đức Phật Lô-xá-na .
Lô-xá-na, gốc tiếng Phạn có nghĩa là “Ánh sáng chiếu khắp mọi nơi.”
Hành giả đừng tưởng rằng mình đã là Phật Lô-xá-na.
Được chút ít sở đắc tự cho là đủ. Tự
hài lòng với chút ít sở đắc của mình.
Hành giả có được chút ít tiến bộ trở nên hài lòng. Thật ra định
lực ấy khác hẳn năng lực đại định của Đức Phật rất xa. Mà anh ta lại tuyên bố
là mình đã thành Phật Lô-xá-na.
Kinh Văn: Thử danh dụng tâm, vong thất hằng thẩm, nịch ư tri
kiến. Ngộ tắc vô cữu, phi vi thánh chứng. Nhược tác thánh giải, tắc hữu hạ
liệt, di tri túc ma, nhập kì tâm phủ. Kiến nhân tự ngôn, ngã đắc vô thượng đệ
nhất nghĩa đế. Thất ư chánh thọ, đương tòng luân trụy.
Việt dịch: Trạng thái này gọi là “dụng công mà quên mất tánh suy
xét thường xuyên, ngưng trệ nơi tri kiến.” Nếu biết thì không mắc sai lầm. Đó
chẳng phải là chứng thánh. Nếu cho là chứng thánh thì loài ma hạ liệt chuyển
tính thấy đủ, nhập ngay vào tâm phủ, khi gặp người liền tự xưng Ta
đã được Vô thượng dệ nhất nghĩa đế. Khi mất chánh định, chắc chắn bị chìm đắm.
Giảng: Trạng
thái này gọi là “dụng
công mà quên mất tánh suy xét thường xuyên, ngưng trệ nơi tri kiến.” Ông
không thường công phu ngay việc thường thường thẩm sát lại chính mình, trở nên
ngưng trệ nơi tri kiến, do không thể phân biệt những gì ông biết và suy nghĩ,
nên ông bị ngưng trệ và kẹt vào những ý tưởng và quan niệm riêng tư của ông.
Nếu biết thì không mắc sai lầm,
sẽ chẳng có vấn đề gì xảy ra.
Trạng thái đó
chẳng phải là chứng thánh. Nhưng nếu nghĩ là chứng thánh.
Nếu nghĩ rằng ông đã chứng được cảnh giới siêu việt nào đó, thì loài ma hạ liệt,
là loại ma thấp kém, suy đồi ghê tởm nhất, chuyển tính thấy đủ, nhập ngay vào tâm phủ, sẽ
thấy hài lòng, trong bất kỳ tình huống nào, nhập ngay vào tâm phủ ông,
ma ấy sẽ bám vào tâm ông, chiếm tâm ông làm sở hữu của nó. Nó đuổi tinh thần
của ông ra khỏi thân ông. Mọi thứ còn lại chỉ là cái xác thân mê
lầm, nhưng ông vẫn không nhận thức được điều đó.
Mỗi khi
gặp người liền tự xưng: Ta đã được Vô thượng dệ nhất nghĩa đế. Hiện
nay có một người thường đứng trên đại lộ Grand Avenue, thuộc phố Hoa kiều
(Chinatown) ngay tại khu trung tâm thương mại của San Francisco. Người ấy mặc y
phục, đủ màu sắc lòe loẹt, thường nói với khách bộ hành:
“Tôi tu trong rừng núi đã năm năm, nay đã chứng ngộ. Giờ đây tôi
đã có những thần thông như thế, như thế…”
Trước đây anh ta đã lạy tôi làm sư phụ, và trở thành đệ tử của
tôi. Nhưng anh ta không tuân theo những gì tôi dạy. Trước khi tôi đến Hoa Kỳ,
quý vị có thể đoán được ông ta đã làm những gì? Ông ta đeo một quả bầu có một
vạch sơn trên vai, anh ta tuyên bố là đệ tử của tôi, và đã học được rất nhiều
công phu nơi tôi. Lại nữa ông ta tuyên bố là có thể giải đáp bất kỳ vấn đề gì
khi có ai đến hỏi. Anh ta đã dùng tên tôi để lừa đảo mọi người. Bây giờ tôi đã
đến Hoa Kỳ, anh ta vẫn còn lừa đảo mọi người. Nhưng anh ta không sử dụng tên
tôi để lừa bịp nữa. Đây chính là loại ma mà đoạn kinh này đang đề cập đến. Hắn
ta tuyên bố đã đạt được Đệ nhất nghĩa đế.
Khi mất hết chánh định, chắc chắn sẽ bị chìm đắm.
Anh ta đã mất sạch chánh định, không còn tuân theo những gì tôi
đã dạy nữa. Từ khi tôi đến đây, anh ta không bao giờ đến nghe giảng kinh hay
nghe thuyết pháp mà chỉ tuyên bố là đã đạt đạo, đã được giác ngộ, đã
có thần thông. Rốt cục anh ta có được thần thông gì? Các bạn không bao giờ ngờ
tới được! Đó là tiền, tiền, tiền. Cho nên anh ta chắc chắn sẽ bị đọa lạc.
5
– SỰ LO SỢ BUỒN BÃ (GIAN HIỂM MA)
Kinh Văn: Hựu bỉ định trung, chư thiện nam tử, kiến sắc ấm tiêu,
thọ ấm minh bạch. Tân chứng vị hoạch, cố tâm dĩ vong. Lịch lãm nhị
tế, tự sanh gian hiểm. Ư tâm hốt nhiên, sanh vô tận ưu, như tọa thiết
sàng, như ẩm độc dược. Tâm bất dục hoạt, thường cầu ư nhân, linh hại kì
mạng, tảo thú giải thoát.
Việt dịch: Lại nữa khi hành giả ở trong định ấy, thấy sắc ấm đã
tiêu dung, thọ ấm tỏ rõ, chỗ chứng mới chưa được, còn tâm cũ
đã mất. Xem xét kỹ hai bên, thấy mình như gặp hiểm nạn. Tâm bỗng
nhiên thấy buồn vô hạn, như thể ngồi trên giường sắt, như uống thuốc độc. Không
muốn sống nữa, thường mong người khác hủy hoại thân mình để chóng giải
thoát.
Giảng: Lại nữa, khi hành giả ở trong
định ấy.
Bây giờ hành giả đã có chút định lực sâu hơn. Thấy sắc ấm đã tiêu dung, thọ
ấm tỏ rõ, chỗ chứng mới chưa được, còn tâm cũ đã mất. Hành
giả thấy không có điều gì để chứng đạt nữa, cảnh giới tâm chứng từ trước đã
biến mất. Xem
xét kỹ hai bên, thấy mình như gặp hiểm nạn. Khi
quán sát kỹ hai bờ mé quá khứ và tương lai, thấy
cả hai đều biến mất, cảm thấy mình như đang gặp hiểm nạn lớn.
Anh ta nghĩ: “Ồ không! Đây thực là nguy hiểm! khủng khiếp quá!”
Tâm bỗng nhiên thấy buồn vô hạn.
Anh ta thấy lòng tràn ngập ưu sầu, phiền não về mọi việc. Chính ưu phiền đã đưa
đến phiền não. Phiền não như thế nào? Như thể ngồi trên giường sắt. Từ
sáng đến tối anh ta tự nghĩ:
“Ồ ta như đang ngồi trên giường sắt trong địa ngục. Ta phải làm
gì bây giờ? Có thân này thật là khổ”
Như uống thuốc độc và thấy như sắp
chết. Không
muốn sống nữa.
Suốt ngày anh ta tự nghĩ: Ta chết đi thì tốt hơn.
Ở Trung Hoa có ngạn ngữ: “Tốt hơn là nên chết đi, đỡ tốn quần
áo.”
Người này có lẽ đã suy nghĩ như thế, nên anh ta nói: “Chết đi
thì tốt hơn! Chết đi thì tốt hơn!”
Trong hầu hết những trường hợp tự tử, thường có sự can dự của
ma. Ma hướng về nạn nhân khấu đầu đảnh lễ rồi đọc chú. Nhưng nạn nhân không
nghe được ma đọc chú gì. Nghĩa của câu chú mà Ma thường đọc là: “Anh nên chết
thì tốt hơn, anh nên chết thì hay hơn! Hãy nhanh lên, càng kết thúc sự sống
càng sớm càng tốt!”
Vì nạn nhân quá chú tâm vào việc tự sát nên không thể nghe được
bằng tai, nhưng qua tiềm thức, lời chú của ma đã chiếm trọn tâm hồn. Vì ma có
tha tâm thông nên nó có thể khiến ma lực len vào tâm nạn nhân và xúi dục tự
sát. Tâm nạn nhân nghe lời ma dụ dỗ và tin những gì ma nói: Thế là họ uống thuốc
độc, tự treo cổ, hoặc trầm mình xuống biển, hay nhảy từ trên cầu Kim Môn
(Golden Gate Bridge–Mỹ) xuống sông. Đó là cách mà nạn nhân tự sát. Có rất nhiều
ma ở quanh cầu Kim Môn. Nó chẳng dám quấy rầy bạn nếu trong bạn tràn đầy dương
khí. Nhưng nếu có ai đi qua chỗ ấy mà dương khí yếu kém, cả tinh, khí, thần của
người ấy đều yếu thì ma liền nói: “Ông chết đi là hơn, tốt hơn là ông nên chết
đi!…,” và người ấy nhảy xuống sông. Hầu hết mọi trường hợp tự tử đều do
ma kích động.
Thường mong người khác hủy hoại thân mạng mình để sớm được giải
thoát.
Anh ta thường hay bảo người khác rằng: Xin hãy giết tôi đi! Nếu
anh có cách nào giúp tôi kết liễu mạng sống, thì rất tốt. Tôi sẽ được giải
thoát.
Kinh Văn: Thử danh tu hành, thất ư phương tiện. Ngộ tắc vô cữu,
phi vi thánh chứng. Nhược tác thánh giải, tắc hữu nhất phần, thường ưu sầu ma,
nhập kì tâm phủ. Thủ chấp đao kiếm tự cát kì nhục, hân kì xả thọ, hoặc thường
ưu sầu, tẩu nhập sơn lâm, bất nại kiến nhân. Thất ư chánh thọ, đương tòng luân
trụy.
Việt dịch: Đây gọi là tu hành sai mất phương tiện. Nếu biết
được, thì không lầm lỗi, dó không phải là chứng thánh. Nếu nghĩ mình đã chứng
thánh thì sẽ bị loài ma ưu sầu nhập vào tâm phủ. Tay dùng dao kiếm tự cắt
thịt mình, thích được tự sát, hoặc thường ưu sầu, chạy vào rừng sâu, không
thích thấy người. Khi thiếu chánh định, chắc chắn sẽ bị đọa lạc.
Giảng: Đây gọi là tu hành sai mất
phương tiện.
Vì hành giả không hiểu rõ pháp môn phương tiện nên mới phát sinh
sự chấp trước sai lầm này. Sau khi phát sanh sự dính mắc, nếu hành giả biết được thì không lầm lỗi,
không có vấn đề gì, không
phải là chứng thánh. Điều này không có nghĩa là anh ta đã chứng
thánh. Nay quý vị đã được nghe đạo lý từ Kinh này rồi, quý vị phải nên cực kỳ
thận trọng, đừng buông thả tâm ý tha hồ trôi trong vọng tưởng. Đừng khởi lên
suy nghĩ muốn chết. Hoặc khởi tâm ý là mình không thể đạt được những điều mình
mong muốn. Nếu ông vẫn còn giữ suy nghĩ như vậy, ông sẽ thu hút loại ma này đến
ngay. Trong thế giới này, chúng nó có mặt rất nhiều. Vì thế nên ông không nên
buông thả tâm mình trong vọng tưởng, hoặc nói năng bất cẩn, tùy tiện. Nếu ông
làm như thế, loại ma này sẽ xâm chiếm ông ngay. Khi điều ấy xảy ra, ông sẽ
không thể nào chịu dựng nỗi. Ông sẽ mất tự do, ngay cả khi ông không muốn chết,
cũng không có cách nào tránh được cái chết.
Nhưng nếu
nghĩ mình chứng Thánh, thì sẽ bị một loại ma ưu sầu. Ông nghĩ
rằng ông buồn rầu thất vọng. Sự lo thất vọng ấy cũng có liên quan đến một loại
ma. Tại sao quý vị lại thất vọng hay giận dữ. Nếu quý vị mở được con mắt Phật
(Phật nhãn) nơi chính mình, quý vị sẽ thấy rằng nếu người ta không nóng giận,
thì không có loài ma nào cả, nhưng ngay khi người ta nóng giận, ma liền trêu
tức: “Hãy nổi nóng lên đi, hãy cuồng nộ lên đi! Hãy làm loạn lên đi!”
Đằng sau cảnh tượng này, nó thúc giục quý vị nổi nóng. Cho dù
quý vị không tin tôi, thì những gì tôi nói vẫn là sự thật, còn nếu quý vị không
tin lời tôi nói, chỉ còn cách phí mất thì giờ. Hãy thử xem!
Nhập vào tâm phủ, xâm chiếm lấy
thân ông, tay
dùng dao kiếm tự cắt thịt mình.
Tôi đã từng nói về Vương Hiếu Tử (người con chí hiếu
họ Vương) rồi phải không? Ngài chính là Thường Nhân Đại Sư , Ngài đã từng
thực hành hạnh hiếu bên cạnh mộ của cha mẹ. Một hôm ngài đang trong định, thấy
bọn cướp bắt đứa cháu của ngài đi và sắp bắn nó ở nơi cách ngài Thường Nhân
chừng năm dặm, nhưng ngay khi tên cướp sắp bóp cò súng, thì từ trong định, ngài
Thường Nhân dùng tay gạt khẩu súng làm viên đạn không trúng người cháu, nên nó
chạy thoát được. Đằng sau sự kiện này, có một con ma muốn cướp mạng sống của
người cháu. Chính nó đã khiến tên cướp đến bắt trói và tìm cách giết đứa cháu.
Đó là những liên hệ nhân quả. Ma tìm cách giết đứa cháu, nhưng
ngài Thường Nhân cản trở nên ma chỉ biết đứng sau lưng ngài chứ
không làm gì được ngài. Nó liền tìm đến người em trai ngài là Vương Nhị
Gia , chiếm đoạt người này thế người anh. Vương Nhị Gia tay cầm dao, đến
mộ tìm ngài Thường Nhân, nó định tự sát trước mặt ngài.
Ma muốn giết người em, nhưng lạ thay, khi nó cầm dao sẵn sàng
đâm vào đầu, thì ma không thể hạ độc thủ xuống được. Trong khi đó, ngài Thường
Nhân đang tụng kinh Kim Cang. Trong khi Ngài đang tụng niệm thì sư phụ tôi
(Thường Trí Đại Sư ), lúc ấy ngài chưa xuất gia, cảm thấy bồn chồn trong
dạ như thể có điều gì khủng khiếp lắm. Ngài Thường Trí thấy lo lắng và bất an.
Ngài tự hỏi có việc gì xảy ra với Vương Hiếu Tử ở ngoài mộ chăng.
Ngài vội vã đi ngay ra nghĩa địa để xem sao. Quả nhiên Ngài thấy Vương Nhị
Gia đang cầm dao sắp tự đâm mình.
Vương Hiếu Tử (Sư Thường Nhân) đã viết sẵn mấy chữ
cho thầy tôi (Thường Trí Đại Sư ): “Ngài đi mua cho một ít giấy vàng mã
(theo phong tục của người Trung Hoa, người ta đốt giấy vàng mã cúng cho người
chết). Tôi sẽ tụng Kinh Kim Cang cầu nguyện cho hồn ma này được siêu độ. Có một
con ma liên quan đến chuyện này. Ước nguyện của tôi như vậy đó. Sau khi Vương
Hiếu Tử trì kinh để cầu siêu cho hồn ma thì không có việc gì xảy ra nữa.
Tuy nhiên, đây chỉ là ví dụ về một loài ma mà ta đang
bàn luận. Nhưng trong trường hợp này, ma đến vì nó muốn đoạt mạng người, không
phải vì công phu tu tập. Vì Vương Hiếu Tử trong khi tu tập vẫn còn
quan tâm đến duyên sự của người trong thân quyến. Ngài đã ngăn chặn được việc
loài ma này muốn giết người em trai. Ma không thể giết được Vương Hiếu Tử vì
ngài có định lực và không khởi vọng tưởng, nên ma không thể làm gì được ngài mà
lại đến hại người em.
Thích được tự sát. Thích được chết đi.
Hoặc thường ưu sầu. Giờ đây quý vị đã
được nghe giảng đoạn kinh này rồi, hãy cẩn trọng đừng âu sầu suốt ngày nữa.
Đừng luôn miệng kêu than và cảm thấy phiền muộn nữa. Nếu quí vị cứ cảm thấy
buồn nản, thất vọng thì loài ma này sẽ đến chiếm đoạt thân xác quí vị ngay.
Điều này xảy ra là do một phần năng lực của loài ma và một phần do chính tâm
quý vị. Ma lợi dụng tinh thần của quý vị mà hành động. Nếu tâm quý vị an trụ
trong chánh kiến, thì sẽ không có vấn đề gì xảy ra, nhưng nếu tư duy của quý vị
không được chân chính, thì sẽ bị ma sai sử. Nếu nó nói với quý vị
hãy buồn rầu đi, quý vị trở nên buồn rầu, cho đến khi chạy
trốn vào chốn thâm sâu, lẩn tránh hết mọi người.
Chạy vào rừng sâu, không thích gặp người. Khi thiếu chánh định
sẽ bị đọa lạc.
Người như vậy chắc chắn trong tương lai sẽ bị rơi vào địa ngục.
6̉
– SỰ VUI MỪNG VÔ HẠN (MA HỶ DUYỆT)
Kinh Văn: Hựu bỉ định trung, chư thiện nam tử, kiến sắc ấm
tiêu, thọ ấm minh bạch. Xử thanh tịnh trung, tâm an ổn hậu. Hốt
nhiên tự hữu, vô hạn hỉ sanh. Tâm trung hoan duyệt, bất năng tự chỉ .
Việt dịch: Lại trong định ấy, hành giả thấy sắc ấm đã tiêu dung,
thọ ấm tỏ rõ. Trong chỗ thanh tịnh, tâm được an ổn. Bỗng sanh niềm
vui vô hạn. Trong tâm mừng rỡ, không thể kềm chế.
Giảng: Lại trong định ấy, hành giả
thấy sắc ấm đã tiêu dung, thọ ấm tỏ rõ. Lại nữa
hành giả khi ở trong định, thấy sắc ấm tiêu trừ, nhận rõ thọ ấm. Khi ở trong chỗ thanh tịnh của
chánh định tâm
được an ổn. Tâm tuyệt đối an tĩnh và ổn định, không còn chút
tán loạn và vọng tưởng nào. Ngay tại điểm ấy, thọ ấm lại phát sanh tác dụng
khác.
Bỗng dưng phát sanh niềm vui vô hạn trong
tâm. Cảm thấy dâng tràn niềm vui và biết niềm vui ấy vô bờ bến, mức độ của nó không
thể hạn lượng được.Trong
tâm mừng rỡ, không thể kềm chế. Không thể tự ngăn
được. Cho dù ông có muốn chấm dứt niềm hoan lạc ấy, cũng không thể được.
Kinh Văn: Thử danh khinh an, vô huệ tự cấm. Ngộ tắc vô
cữu, phi vi thánh chứng.
Việt dịch: Đây gọi là tâm khinh an, nhưng thiếu trí tuệ để tự
điều phục. Nếu hiểu rõ thì không lầm lỗi, không phải là chứng thánh.
Giảng: Đây gọi là tâm khinh an nhưng
thiếu trí tuệ để tự điều phục trạng thái vui mừng ấy. Hành
giả không có trí tuệ để điều khiển cảm giác vui mừng này.
Nếu hiểu rõ thì không lầm lỗi, không phải là chứng thánh.
Điều này không có nghĩa là ông đã trở thành một bậc thánh.
Kinh Văn: Nhược tác thánh giải, tắc hữu nhất phần, hảo hỉ lạc ma
nhập kì tâm phủ, kiến nhân tắc tiếu, ư cù lộ bàng, tự ca tự vũ. Tự vị dĩ đắc,
vô ngại giải thoát. Thất ư chánh thọ, đương tòng luân trụy.
Việt dịch: Nhưng nếu tự xem mình đã chứng thánh, thì có
loài ma thích vui vẻ nhập vào tâm, gặp người liền cười, cùng ca hát nhảy
múa trên đường. Tự xưng đã được vô ngại giải thoát. Sai lạc chánh định, sẽ bị
chìm đắm.
Giảng: Nhưng nếu tự xem mình đã chứng
thánh.
Nếu ông nói: “Ồ! Bây giờ ta đã nhập vào nơi Hoan hỷ địa, ta
là Bồ-tát Hoan hỷ địa đây!” thì có loài ma thích vui sẽ nhập vào tâm ông.
Mỗi khi gặp
người liền cười, cùng ca hát nhảy múa trên đường. Giống như một
gã hippie đã
hoàn toàn mất tự chủ. Vẫy hai tay, dậm hai chân, hát và nhảy múa cùng ca hát
hết thảy các loại nhạc.
Tự xưng đã được vô ngại giải thoát. Thiếu chánh định chắc
chắn sẽ bị chìm đắm.
Đánh mất hết thảy chánh định, chánh tri kiến và mất hết năng lực
của lý trí. Cuối cùng rơi vào địa ngục.
7
– ĐẠI NGÃ MẠN (MA NGÃ MẠN)
Kinh Văn: Hựu bỉ định trung, chư thiện nam tử, kiến sắc ấm tiêu,
thọ ấm minh bạch, tự vị dĩ túc. Hốt hữu vô đoan, đại ngã mạn khởi, như thị
nãi chí, mạn dữ quá mạn, cập mạn quá mạn, hoặc tăng thượng mạn, hoặc ti liệt
mạn, nhất thời câu phát. Tâm trung thượng khinh, thập phương Như Lai, hà huống
hạ vị, Thanh văn Duyên giác.
Việt dịch: Lại trong định ấy, hành giả thấy sắc ấm đã tiêu dung,
thọ ấm tỏ rõ, tự cho là đủ rồi. Bỗng không nguyên do, khởi tâm
đại ngã mạn, như thế cho đến khởi tâm kiêu mạn, tâm mạn quá mạn, tâm tăng
thượng mạn, hoặc ty liệt mạn, đều cùng phát ra một lúc. Tâm khinh thường cả
mười phương Như Lai, huống gì các bậc thấp như Thanh văn , Duyên giác.
Giảng: Lại trong định ấy, hành giả
thấy sắc ấm đã tiêu dung, thọ ấm tỏ rõ, tự cho là đủ rồi.
Thấy mình đã có đầy đủ mọi thứ, đã chứng được các quả vị,
đã chứng ngộ, đã thành Phật.
Bỗng không nguyên do, khởi tâm đại ngã mạn.
Ngã mạn là một hình thức của kiêu mạn. Nó chẳng kính trọng người nào, xem
thường tất cả. Nghĩ rằng chẳng có ai được như hắn ta.
Như thế cho đến khởi tâm kiêu mạn,
cống cao ngã mạn. Một loại ngã mạn rất cao. Tâm mạn quá mạn,
cực kỳ ngã mạn.Tâm
tăng thượng mạn không còn lối ngạo mạn nào cao hơn loại
này nữa – ngã mạn chồng lên tăng thượng mạn và ty liệt mạn.
Cảm thấy mọi người đều thấp hèn hơn anh ta và khinh thường hết thảy mọi người.
Đây là những tướng trạng khác nhau của ngã mạn, đều cùng phát ra một lúc.
Trong tâm
khinh thường cả mười phương các Đức Như Lai.
Anh ta ngã mạn đến mức độ nào? Không chỉ ngã mạn đối
với người mà còn ngã mạn đối với chư Phật. Thế nên anh ta xem thường các đức
Như Lai, thấy các ngài không được như anh ta. Nghiêm trọng biết bao khi quý vị
thốt ra lời này.
Huống gì nữa là những quả
vị thấp như
là Thanh văn , Duyên giác. Anh ta càng xem thường những vị
này. Thái độ của anh ta là: “Các ông chẳng là gì cả, chỉ là một vị
A-la-hán tu hạnh tiểu thừa, các ông có gì hay ho lắm đâu?”
Anh ta đã nghĩ mình cao hơn chư Phật, nhưng đáng tiếc là anh ta
chẳng được tên gọi như vậy.
Kinh Văn: Thử danh kiến thắng, vô huệ tự cứu. Ngộ tắc vô cữu,
phi vi thánh chứng.
Việt dịch: Đây gọi là kiến giải quá cao, nhưng thiếu trí huệ để
tự cứu. Nếu nhận ra thì không sai lầm, đó không phải là chứng thánh.
Giảng: Đây gọi là kiến giải quá cao,
cứu, một trạng thái xảy ra ngẫu nhiên trong thọ ấm , nhưng thiếu trí huệ để tự cứu.”
Người ấy không có trí huệ để tự cứu hộ lấy mình. Nếu nhận ra thì không sai lầm.
Nếu nhận ra đây là do mê lầm của mình thì ma sẽ không có dịp phát huy tác dụng.
Như người ta thường nói: Nếu anh hiểu biết tức không lầm lẫn, nếu anh lầm lẫn
tức thiếu hiểu biết. Nếu anh hiểu biết, cũng giống như nắm thanh kiếm trí huệ
chặt đứt mọi mê lầm.
Đó không phải là chứng thánh. Cảnh
giới này không phải là chứng thánh. Trường hợp ấy không phải là ông đã chứng
được quả vị thánh.
Kinh Văn: Nhược tác thánh giải,
tắc hữu nhất phần, đại ngã mạn ma, nhập kì tâm phủ, bất lễ tháp miếu, tồi hủy
kinh tượng. Vị đàn việt ngôn, thử thị toàn đồng, hoặc thị thổ mộc; kinh
thị thụ diệp, hoặc thị chiên hoa; nhục thân chân thường, bất tự cung kính,
khước sùng thổ mộc, thật vi điên đảo. Kì thâm tín giả, tòng kì hủy toái, mai
khí địa trung. Nghi ngộ chúng sanh, nhập vô gián ngục. Thất ư chánh thọ, đương
tòng luân trụy.
Việt dịch: Nếu hành giả
nhận là chứng thánh, thì có loại ma đại ngã mạn nhập vào tâm phủ. Không lễ chùa
tháp, phá hủy kinh tượng. Nói với đàn việt rằng: tượng
chỉ là đồng, hoặc là gỗ đất; kinh chỉ là lá hoặc là giấy lụa;
thân xác thịt là chân thường mà không quí trọng, lại sùng bái gỗ đất, thật là
điên đảo.
Những kẻ đã quá tin, theo lời đập phá kinh tượng hoặc chôn trong
đất. Do gây nghi ngờ lầm lạc cho chúng sanh, nên sẽ đọa vào vô gián địa ngục.
Thiếu mất chánh định sẽ bị đọa lạc.
Giảng: Nếu hành giả nhận là chứng
thánh. Nếu như ông cho rằng: “Đây là cảnh giới tốt,” thì có loài ma đại ngã mạn sẽ
nhập vào tâm phủ, chiếm đoạt thân xác ông. Không lễ chùa, tháp.
Nó không lạy Phật hay tháp, cũng chẳng lạy Phật khi vào trong chùa. Phá hủy kinh, tượng.
Nó sẽ đốt kinh đập phá tượng Phật. Đốt kinh, hủy tượng là những chướng nạn dẫn
đến địa ngục. Nhưng nó lại nói: “những thứ này đều là thứ giả.”
Nói với đàn việt . Nó có những đệ
tử thân tín và nó bảo với đệ tử như vậy. Đàn (s: dāna ) nghĩa
là bố thí, việt (越 s: pati )
nghĩa là vượt qua. Nên trong Phật giáo, những người cúng dường Tam bảo được gọi
là đàn việt.
Ma cũng có những kẻ đàn việt và đệ tử riêng. Ma nói với những người này rằng:
Tượng này chỉ là vàng, đồng, đất, gỗ… Kinh chỉ là lá,
giấy, lụa.
Tượng Phật thì được làm bằng vàng, đồng hoặc được nhồi bằng đất
hoặc tạc bằng gỗ. Kinh thì được viết trên lá hay trên vải, lụa, có gì đáng giá
để thờ phụng? Sao các ông lại lạy các vật đó? Ðó chỉ là những
vật không có ý thức.
Thân xác thịt này là chân thực.
Cái thân thịt của tôi là có thực vĩnh cửu mà không quí trọng, ông không quý
trọng thân tôi đây, lại
đi sùng bái gỗ đất.
Ông thích lạy gỗ, đất hơn thì có được ích lợi gì? Có ích lợi gì
khi lễ lạy những ngẫu tượng ấy. Tốt hơn là các ông nên lễ lạy tôi hơn là những
vị ấy.
Thật là hoàn toàn điên đảo.
Ông lạy những ngẫu tượng ấy, nhưng nó chỉ là những mảnh gỗ, nó đâu
có tri giác, ông thật là điên rồ khi lạy chúng! Những kẻ đã quá tin vào
ma. Những người đã tin sâu vào ma sẽ
theo lời nó, đập phá tượng Phật, đốt kinh và chôn sạch dưới đất.
Qua hành vi này. Do
gây nghi ngờ và lầm lạc cho chúng sanh, khiến họ không tin vào
Phật pháp, thay vào đó lại nghi ngờ hoang mang. Nó gây nghi ngờ cho chúng sanh
như vậy nên nó nhất định sẽ
đọa vào Vô gián địa ngục. Khi thiếu chánh định sẽ bị đọa lạc.
8
– SỰ NHẸ NHÀNG SẢNG KHOÁI (MA KHINH AN)
Kinh Văn: Hựu bỉ định
trung, chư thiện nam tử, kiến sắc ấm tiêu, thọ ấm minh bạch. Ư tinh
minh trung, viên ngộ tinh lí, đắc đại tùy thuận. Kì tâm hốt sanh vô lượng khinh
an. Dĩ ngôn thành thánh, đắc đại tự tại. Thử danh nhân huệ, hoạch chư khinh
thanh. Ngộ tắc vô cữu, phi vi thánh chứng.
Việt Dịch: Lại trong
định ấy, hành giả thấy sắc ấm đã tiêu dung, thọ ấm tỏ rõ. Từ trong
chỗ sáng suốt tinh anh, giác ngộ được chân lý vi diệu, mọi thứ đều tùy thuận
theo sở nguyện. Tâm bỗng nhiên được khinh an vô bờ bến. Tự cho mình đã
thành thánh, được đại tự tại. Đây gọi là nhân trí tuệ mà đạt được khinh
thanh (nhẹ nhàng thanh thoát). Nếu rõ biết thì không sai lầm, đó không phải là
chứng thánh.
Giảng: Lại trong định ấy, hành giả
thấy sắc ấm đã tiêu dung, thọ ấm tỏ rõ. Từ trong chỗ sáng suốt tinh
anh.
Giác tri trở nên sáng suốt tinh anh hơn lúc nào hết. Giác ngộ được hoàn
toàn chân
lý vi diệu. Lúc này hành giả đạt được sự hiểu biết thông suốt
những chân lý nhiệm mầu vi diệu. Mọi
thứ đều tùy thuận theo sở nguyện. Tâm bỗng nhiên đạt được sự
khinh an không bờ bến, tự cho mình đã thành bậc thánh, thành
Phật, đạt được
đại tự tại, đạt được niềm an lạc tối thượng hơn cả.
Đây gọi là: Nhân
trí huệ mà đạt được khinh thanh (nhẹ nhàng thanh thoát). Vừa
khai mở được chút ít trí huệ, liền đạt đến trạng thái nhẹ nhàng, thanh thoát và
đó là tất cả. Chắc chắn nó chẳng đáng kể so như cảnh giới rốt ráo.
Nếu rõ biết thì không sai lầm,
không có vấn đề gì. Không
phải chứng quả vị thánh. Ông không nên cho rằng trạng thái này
là chứng quả vị thánh, vì nó vốn không phải như vậy.
Kinh Văn: Nhược tác thánh giải, tắc hữu nhất phần, hiếu thanh
khinh ma, nhập kì tâm phủ. Tự vị mãn túc, cánh bất cầu tiến. Thửđẳng đa tác, Vô
Văn tỷ-khưu, nghi ngộ hậu sanh, đọa a-tì ngục. Thất ư chánh thọ,
đương tòng luân trụy.
Việt dịch: Nếu nhận là chứng thánh, thì có loại ma thích khinh
thanh nhập vào tâm phủ, tự thấy đã thỏa mãn, không cần tiến bộ nữa. Phần nhiều
những người này làm như tỷ-khưu Vô Văn , gây nghi ngờ lầm lạc
cho chúng sanh, đọa vào ngục a-tì. Thiếu mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.
Giảng: Nhưng nếu nhận là chứng thánh,
nếu như khi có được trạng thái khinh thanh này, nghĩ là mình đã được quả vị
thánh thì
có loại ma thích khinh thanh nhập vào tâm phủ. Loại ma này cũng
đã trải qua trạng thái khinh thanh, sẽ chiếm đoạt người này. Tự cho là đã thỏa mãn,
là nó đã hoàn thành mọi việc. Không
mong cầu tiến bộ nữa. Trên nó không có quả vị Phật để đạt đến,
vì nó đã thành Phật rồi. Cũng chẳng cần cứu độ chúng sanh, vì nó đã hoàn tất
việc cứu độ rồi. Nó đã đạt được quả vị Phật như đã mong muốn, và cũng đã cứu độ
chúng sanh trong ý nghĩa nó muốn cứu độ. Do vậy nó không mong cầu sự tiến bộ
nào cả.
Phần nhiều những kẻ tu hành này, đều làm giống như tỷ-khưu Vô Văn đã
được đề cập trước đây. Do thiếu trí huệ, ông ta tưởng cảnh giới tứ thiền là quả
vị thứ tư của a-la-hán .
Gây nghi ngờ lầm lạc cho chúng sanh.
Vì vậy nên họ không nhận ra được con đường chân chánh (chánh đạo) và không hiểu
biết Phật pháp. Do làm mê lầm và chướng ngại cho chúng sanh nên sẽ đọa vào địa ngục a-tì.
Trong tương lai loại người này sẽ rơi vào vô gián địa ngục. Sao vậy? Thiếu mất
chánh định sẽ bị chìm đắm. Vì khi đã bị lạc mất chánh định, nhất định phải rơi
vào địa ngục vô gián.
9
– CHẤP ĐOẠN DIỆT, BÀI BÁC NHÂN QUẢ
Kinh Văn: Hựu bỉ định trung, chư thiện nam tử, kiến sắc ấm tiêu,
thọ ấm minh bạch. Ư minh ngộ trung, đắc hư minh tánh. Kì trung hốt
nhiên, quy hướng vĩnh diệt, bát vô nhân quả, nhất hướng nhập không. Không tâm
hiện tiền, nãi chí tâm sanh trưởng đoạn diệt giải. Thử danh định tâm trầm
một, thất ư chiếu ứng. Ngộ tắc vô cữu, phi vi thánh chứng.
Việt dịch: Lại trong định ấy, hành giả thấy sắc ấm đã tiêu dung,
thọ ấm tỏ rõ. Trong chỗ tỏ ngộ, đạt được tánh hư minh. Bỗng dưng
trong ấy hành giả bỗng xoay lại theo hướng đoạn diệt, bài bác nhân quả, cho mọi
việc đều là không. Tâm rỗng không hiện tiền, cho đến tăng trưởng nhận định đoạn
diệt vĩnh viễn. Nếu biết thì không sai lầm, không phải là chứng thánh. Đây gọi
là định tâm phân tán, mất đi sự chiếu diệu. Nếu rõ biết được thì không sai lầm,
đó không phải là chứng thánh.
Giảng: Lại trong định ấy, hành giả
thấy sắc ấm đã tiêu dung, thọ ấm tỏ rõ. Lúc đó trong chỗ tỏ ngộ,
khi ông tưởng như rõ ràng rồi nhưng chưa chân thực giác ngộ, đạt được tánh hư minh.
Trong chỗ minh ngộ ấy đạt được một loại ánh sáng suốt hư vọng mà không xác định
được thực tại. Bỗng
dưng trong ấy hành giả bỗng xoay lại theo hướng đoạn diệt, bài bác nhân quả,
cho mọi việc đều là không. Trong ấy, trong chỗ hư minh ấy,
bỗng dưng xảy ra một sự thay đổi. Đó là gì? Hành giả có khuynh hướng đoạn diệt,
bài bác nhân quả, cho mọi pháp đều là không.
Nó nói: “Khi chết, người đó ra đi vĩnh viễn. Do vậy, nói về nhân
quả là sai lầm. Chẳng có nhân quả, khi chết chẳng có gì tồn tại nên làm sao mà
có nhân quả. Mọi pháp đều là không, tạo tội cũng là không, mà làm việc phước
thiện cũng là không, tất cả đều là không.”
Tâm rỗng không hiện tiền, cho đến tăng trưởng nhận định đoạn
diệt vĩnh viễn.
Càng nghĩ nó càng cảm thấy nó đúng:
“Ồ! Đúng nó là không. Một khi ông chết là hết tất cả, mọi việc
đều là không!” Lúc ấy nó trở nên tin tưởng rằng: Mọi người đều vĩnh viễn biến
mất sau khi chết. Trong kinh văn nói: “Nếu rõ được thì không sai lầm, đó không
phải là chứng Thánh quả.” Một câu được trích ra từ một bộ kinh mỗi khi nó được
in từ nguyên bản. Chúng ta nên in đính kèm theo câu này.
Đây gọi là: “Định tâm phân tán, mất đi sự chiếu diệu.”
Lúc này định tâm không còn nữa, vậy nên phát sanh tư tưởng chấp
không, mất đi khả năng nhận biết điều gì là đúng đắn. Nếu rõ biết được thì không sai
lầm. Đó không phải là chứng thánh.
Đây không phải là cảnh giới khi chứng được quả vị thánh.
Kinh Văn: Nhược tác thánh giải, tắc hữu không ma, nhập kì tâm
phủ. Nãi báng trì giới, danh vi tiểu thừa, bồ-tát ngộ không, hữu hà trì phạm.
Kì nhân thường ư, tín tâm đàn việt , ẩm tửu đạm nhục, quảng hành dâm uế.
Nhân ma lực cố, nhiếp kì tiền nhân, bất sanh nghi báng. Quỷ tâm cửu nhập, hoặc
thực thỉ niệu, dự tửu nhục đẳng, nhất chủng câu không. Phá Phật luật nghi, ngộ
nhập nhân tội. Thất ư chánh thọ, đương tòng luân trụy.
Việt dịch: Nếu nhận là chứng thánh, liền có loại ma không nhập
vào tâm phủ. Nó liền phỉ báng người giữ giới, gọi họ là “tiểu thừa,” cho rằng
“bồ-tát đã ngộ tánh, không có gì là giữ, là phạm.”. Người này ở nhà đàn
việt uống rượu, ăn thịt, phóng đãng dâm ô. Do ma lực nên nó nhiếp
phục được mọi người không khởi tâm nghi báng nó. Sau khi ma nhập vào tâm rồi nó
khiến hành giả ăn phân uế, uống nước tiểu, ăn thịt, uống rượu, cho những thứ
này đều là không. Nó phá hoại luật nghi của Phật, làm cho người khác mê lầm
phạm tội. Lạc mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.
Giảng: Nếu nhận là chứng thánh.
Nếu xem đây như là sự chứng đạt quả vị thánh, liền có loại ma không nhập vào
tâm phủ. Ma nhập vào chiếm hữu xác thân hành giả. Ma liền phỉ báng những người giữ
giới coi họ là “tiểu thừa.” Ma nói:
“Đừng giữ giới làm gì, đó là pháp tiểu thừa. Hàng Bồ-tát
Đại thừa không nên bị phiền toái trong những câu thúc ấy. Các ông không
nên quá quan tâm đến những giới ấy.”
Hoặc ma nói: “Voi lớn không đi đường thỏ. Kẻ đại ngộ không nên
câu chấp tiểu tiết. Một khi ông là người đại ngộ rồi chẳng còn việc gì quan hệ
đến ông nữa hết. Mọi pháp đều là không. Ta chẳng nói điều này trước đây hay
sao? Rượu thịt trôi qua bụng, còn Phật ở tại tâm. Mọi pháp đều do tâm, tâm
chính là Phật, Phật chính là tâm.”
Đó là những gì ma nói. Ma còn phỉ báng những người giữ giới:
“Chỉ có những người chấp dính vào Tiểu thừa mới giữ giới. Đệ tử
của Đại thừa không bận tâm đến chuyện này.”
Thực ra, Phật tử tu tập theo Đại thừa giữ giới rất tinh nghiêm,
hiếm có người hủy phạm giới cấm. Ma chỉ lừa dối những người kém hiểu
biết thôi. Thực ra những người ấy không bao giờ chịu học hỏi Phật pháp và không
tìm hiểu kỹ những đạo lý mà Đức Phật đã giảng giải. Đó là lý do tại sao, bất
luận những gì ma nói, nó đều xem như một mệnh lệnh buộc người khác phải tuân
theo, buộc mọi người phải tin theo lời ma nói là đúng. Tại sao họ lại tin lời
ma nói? Chỉ vì chưa bao giờ họ được nghe giảng dạy Phật pháp, và dù có nghe
không hiểu được Phật pháp là gì?
Nói rằng: Hàng Bồ-tát Đại thừa đã ngộ tánh không của các pháp,
có gì là giữ, là phạm? Sao lại cứ giữ mãi giới điều hay
lo sợ việc hủy phạm giới điều. Chẳng có các việc như vậy. Người này đã
bị ma xâm chiếm, ở
nơi nhà đàn việt , những vị Phật tử thường hộ trì Phật
pháp và tin tưởng nó uống
rượu ăn thịt, phóng đãng, dâm dục.
Ý trong kinh văn, phóng đãng, dâm dục rất là quan trọng. Vì đạo
Phật dạy người không nên có tâm dâm dục, mà tâm dâm dục của nó lại tăng trưởng.
Má còn khuyến khích làm việc dâm ô, và người ta vẫn tin vì nó có ma lực. Do ma lực nên nó vẫn nhiếp
phục được mọi người không khởi tâm nghi ngờ hủy báng nó. Họ tin
tưởng nó một cách cuồng nhiệt.
Sau khi ma nhập vào tâm rồi, nó khiến người ấy ăn phân uế, uống
nước tiểu, ăn thịt uống rượu. Cho những thứ này đều là không.
Vì hành giả đã bị ma nhập rồi nên không biết được phân là thứ
bất tịnh, và nó thường uống nước tiểu. Nó nói rằng phân uế, nước tiểu là thứ
bất cấu, bất tịnh.” Nó dùng ý từ Kinh Bát-nhã để ngụy biện. Đó là chỗ
hiểu sai ý nghĩa của kinh điển. Ma sẽ cư xử bằng cách biểu hiện sự bất cần mọi
việc dù nó sạch sẽ hay dơ bẩn. Nó sẽ tuyên bố ăn thịt, uống rượu là không, ăn
phân uế và uống nước tiểu là không. Nói tóm lại, nó cho tất cả đều là không.
Nó phá hoại luật nghi của Phật, làm cho người khác mê lầm, phạm
tội. Thế rồi lạc
mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.
10
– THAM ÁI CUỒNG LOẠN (MA THAM ÁI)
Kinh Văn: Hựu bỉ định trung,
chư thiện nam tử, kiến sắc ấm tiêu, thọ ấm minh bạch. Vị kì không
minh, thâm nhập tâm cốt. Kì tâm hốt hữu vô hạn ái sanh. Ái cực phát cuồng, tiện
vi tham dục. Thử danh định cảnh, an thuận nhập tâm, vô huệ tự trì, ngộ nhập chư
dục. Ngộ tắc vô cữu, phi vi thánh chứng.
Việt dịch: Lại nữa, khi
hành giả ở trong định, thấy sắc ấm tiêu trừ, thọ ấm tỏ rõ. Thích
nghiền ngẫm trạng thái hư minh, khắc sâu vào tâm cốt. Trong lòng bỗng phát sanh
lòng yêu thương vô hạn. Thương quá phát cuồng, thích việc dâm dục. Đây gọi
là cảnh định an thuận, thâm nhập vào tâm mà thiếu trí tuệ để tự điều phục
mình, nên mê lầm, đắm nhiễm ngũ dục. Nếu hiểu rõ điều này thì không sai lầm. Ðó
không phải là chứng thánh.
Giảng: Lại nữa, khi hành giả ở trong
định, thấy sắc ấm tiêu trừ.
Khi hành giả đã đạt được định từ trong phạm vi thọ ấm .
Thấy sắc ấm tiêu trừ, sắc ấm không còn nữa. Thọ ấm tỏ rõ,
nhận thức rõ ràng về thọ ấm. Thích
nghiền ngẫm trạng thái hư minh, cảnh giới mà hành giả đã
chứng được, và nay khắc
sâu vào tâm cốt. Có một sự chuyển biến tâm lý đột nhiên xảy
ra. Trong
lòng bỗng phát sanh lòng yêu thương vô hạn. Điều này giống như
một người nào đó nói rằng: “Mình yêu thương tất cả mọi người và tính mình thích
bàn tán về loại chuyện ấy.”
Thương quá phát cuồng, thích việc dâm dục. Khi
lòng yêu thương và ham muốn dâng lên đến cực điểm, hành giả phát cuồng, thích
việc dâm dục. Hành giả không thể kềm chế được cảm xúc của mình. Khi trở nên
điên cuồng, hành giả giống như người phụ nữ tên Lưu Kim Đồng mà tôi
đã nói từ trước. Khi gặp đàn ông, cô ta ôm chầm lấy họ, khóc và thể hiện những
cử chỉ quyến rũ. Cô ta là một ví dụ điển hình cho loại ma này. Làm
sao mà một người đàn ông bình thường còn giữ được lòng mình không xúc động
trước sự dụ dỗ này. Sau khi mê hoặc giới đàn ông. Cô ta bảo “Lấy món tiền này
mua cho em món nữ trang ấy.” Anh ta liền đáp “Vâng, Vâng!” rồi cô ta bảo lấy
món tiền này mua cho cô ta món khác và anh ta cũng vâng lời làm theo. Tại sao
vậy? Đơn giản là vì cô ta thỏa mãn tình dục cho người đàn ông, và anh ta bị mê
muội bởi ma lực. Khi tình yêu lên đến cực điểm, người đàn ông trở nên điên
cuồng vì tham lam và dâm dục. Dâm dục phát sanh từ tâm tham lam.
Đây gọi là cảnh định an
thuận, thâm nhập vào tâm mà thiếu trí tuệ để tự điều phục mình,
nên mê lầm, đắm nhiễm ngũ dục.
Khi trong định, có trạng thái khinh an, hài lòng, nhập vào trong
tâm, nhưng thiếu trí tuệ để tự kềm chế cảm xúc và ham muốn của mình. Kết thúc
là buông thả vào trong các thứ ham muốn dâm dục.
Nếu hiểu rõ điều này thì không sai lầm.
Đây chỉ là trạng thái nhất thời và ngẫu nhiên. Hành
giả nên nhận ra trạng thái này là một cảnh giới ma, và không phải là chứng thánh.
Nếu ông hiểu ra thì rất tốt, chỉ đáng sợ là khi quý vị không nhận ra ma cảnh mà
mình đang chìm đắm. Quý vị sẽ bị rơi vào mê hồn trận, không cách nào thoát khỏi
được.
Kinh Văn: Nhược tác thánh giải, tắc hữu dục ma nhập kì tâm phủ.
Nhất hướng thuyết dục, vi bồ-đề đạo. Hóa chư bạch y, bình đẳng hành dục, kì
hành dâm giả, danh trì pháp tử. Thần quỷ lực cố, ư mạt thế trung, nhiếp kì phàm
ngu, kì số chí bách, như thị nãi chí, nhất bách nhị bách, hoặc ngũ lục bách, đa
mãn thiên vạn. Ma tâm sanh yểm, li kì thân thể. Oai đức kí vô, hãm ư vương nạn.
Nghi ngộ chúng sanh, nhập vô gián ngục. Thất ư chánh thọ, đương tòng luân trụy.
Việt dịch: Nếu tự nhận mình là bậc thánh thì loại ma tham dục sẽ
nhập vào tâm. Một mặt cho rằng dâm dục là đạo bồ-đề, dạy hàng bạch y bình
đẳng hành dâm dục, gọi những người hành dâm là trì pháp tử. Do ma lực
trong thời mạt pháp, khiến nó thu hút giới phàm phu đến cả trăm, cho đến hai
trăm, năm trăm, sáu trăm, nhiều đến mức có cả ngàn, vạn người. Khi ma chán rồi,
nó sẽ bỏ rơi người ấy. Khi sức quyến rũ của ma hết, người ấy bị rơi vào vòng
lao lý. Do gieo sự nghi lầm cho chúng sanh nên đọa vào ngục vô gián. Thiếu mất
chánh định, sẽ bị chìm đắm.
Giảng: Nếu tự nhận mình là bậc thánh, thì loại ma tham dục sẽ nhập
vào tâm. Nếu hành giả xem đây là sự chứng đạt quả thánh,
vì quan niệm sai lầm nên loại ma dâm và tham dục sẽ nhập vào tâm và chiếm hữu
thân ông. Một
mặt cho rằng dâm dục là đạo bồ-đề, nó sẽ trở thành người
hết mình ủng hộ cho việc dâm dục, gọi đó là đạo bồ-đề.
Nó sẽ nói rằng: “Ngoài dâm dục ra chẳng có gì cả.”
Cũng giống như ở nước Mỹ, có một giáo phái chủ trương đa thê chủ
nghĩa. Họ cho rằng “càng có nhiều vợ càng tốt.” Giáo phái này hoàn toàn giống
như loài ma kia vậy. Khuyến khích và quyến rũ sự ham muốn dâm dục bằng cách nói
“Rất tốt khi có nhiều vợ, chẳng có gì nghiêm trọng cả. Đó là đạo bồ-đề, càng có
nhiều vợ càng hay.”
Nó dạy hàng bạch y bình đẳng hành dâm dục, gọi
những người hành dâm là trì pháp tử. Nó dạy
đệ tử bình đẳng hành dâm dục. Nó nói: “Đừng phân biệt giữa người này với người
khác, hãy cùng nhau hưởng sự hoan lạc.” Chẳng bận tâm vợ của mình hay vợ của kẻ
khác, họ chỉ việc hành xử theo sở thích. Ở nước Mỹ, có một thứ sở
thích đổi vợ thật là kỳ quặc (wife
swapping fad). Có một nơi mọi người đến đổi vợ cho nhau. Việc này
tương tự như việc làm của loài ma đang đề cập trong kinh.
Gọi những người hành dâm là trì
pháp tử. Những người tham gia vào việc hành dâm với y được gọi là người
giữ gìn pháp tử, là người nối pháp do ma trao truyền.
Do ma lực trong thời mạt pháp, khiến nó thu hút và mê hoặc đồ đệ
từ giới phàm phu đến cả trăm, cho đến năm trăm, sáu trăm, đến cả ngàn vạn
người. Cuối cùng khi
ma vương chán rồi các bạn nghĩ điều gì sẽ xảy ra? Nó bỏ rơi người ấy.
Điều gì sẽ xảy ra khi ma bỏ rơi? Người ấy sẽ không còn thần thông nữa.
Khi sức quyến rũ của ma đã hết, người ấy bị rơi vào vòng lao lý.
Sức quyến rũ của nó có được là nhờ vào thần thông. Ma vương có
được thần thông. Nhưng bây giờ ma vương đã bỏ đi rồi, vì thế người ấy không còn
thần thông nữa. Bạn biết điều gì xảy ra không? Nó vi phạm luật pháp quốc gia.
Trước đây, khi nó còn thần thông ma vương có thể giúp đỡ nó thoát khỏi luật
pháp quốc gia và ngăn chặn không cho nhà chức trách biết sự việc ấy. Nhưng khi
ma vương bỏ đi, kẻ phàm phu này trở lại như một người bình thường, thì anh ta
là một kẻ phạm pháp. Người ta sẽ nhận ra anh ta là một ông thầy thuộc giới bàng
môn tả đạo. Chuyên bịp bợm, lừa dối học trò bằng bùa ngải kỳ dị. Vì vi phạm
luật pháp nên bị bắt và tống giam.
Do gieo sự nghi lầm cho chúng sanh,
nên không gặp được chánh đạo, sẽ
đọa vào ngục vô gián. Cũng sẽ nhất định rơi vào ngục a-tì. Sao
vậy? Vì lạc
mất chánh định, nên sẽ bị chìm đắm.
LỜI
KHUYÊN RĂN TỔNG KẾT CỦA ĐỨC THẾ TÔN VỀ THỌ ẤM
Kinh Văn: A-nan, như thị
thập chủng thiền-na hiện cảnh, giai thị thọ ấm , dụng tâm giao hỗ, cố hiện
tư sự. Chúng sanh ngoan mê, bất tự thốn lượng, phùng thử nhân duyên, mê bất tự
thức, vị ngôn đăng thánh, đại vọng ngữ thành đọa vô gián ngục.
Việt dịch: A-nan, mười
trạng thái trên hiện ra trong thiền định như thế, đều do thọ ấm và
tâm dụng công giao xen nhau, nên hiện ra như vậy. Chúng sanh ngu mê lầm lẫn,
không biết tự lượng xét, gặp nhân duyên này mê muội không tự biết, bảo là chứng
thánh, thành tội đại vọng ngữ, sẽ đọa vào địa ngục vô gián.
Giảng: A-nan, mười trạng thái trên
hiện ra trong thiền định như thế, đều do thọ ấm và tâm dụng công
giao xen nhau, nên hiện ra như vậy.
A-nan! Những trạng thái biểu hiện trong khi tu tập thiền định
như thế, đều ở trong phạm vi của thọ ấm giao xen với nỗ lực dụng công
khi tu tập. Những sự kiện này là kết quả của những biến tướng khác nhau xảy ra
trong khi hành giả nỗ lực công phu tu tập.
Chúng sanh ngu mê lầm lẫn không biết tự lượng xét.
Chúng sanh do mê lầm, không biết quay trở lại tự
quán xét bên trong mình.
Gặp nhơn duyên này mê muội không tự biết.
Chúng sanh không nhận ra được mình là ai.
Bảo là mình đã chứng được bậc thánh.
Rồi họ bảo rằng họ đã đạt được những điều mà họ chưa từng đạt
được và chứng được những gì chưa từng chứng được. Họ tuyên bố đã đạt đạo và chứng
được thánh vị, trong khi họ chưa hề đạt được những điều ấy.
Thành ra mắc vào tội đại vọng ngữ. Chắc
chắn sẽ bị
đọa vào vô gián địa ngục.
Kinh Văn: Nhữ đẳng diệc đương, tương Như Lai ngữ, ư ngã diệt
hậu, truyền thị mạt pháp, biến linh chúng sanh khai ngộ tư nghĩa. Vô linh thiên
ma đắc kì phương tiện. Bảo trì phúc hộ, thành vô thượng đạo.
Việt dịch: Sau khi Như Lai nhập diệt độ, các ông nên lưu truyền
lời dạy của Như Lai, để cho chúng sanh trong thời mạt pháp đều tỏ ngộ được ý
chỉ này. Chớ để cho thiên ma có cơ hội quấy phá. Giữ gìn, hộ trì
chúng sanh tu tập cho đến khi thành tựu quả vị vô thượng.
Giảng: Sau khi Như Lai nhập diệt đô,
các ông nên lưu truyền lời dạy của Như Lai, để cho chúng sanh trong thời mạt
pháp đều tỏ ngộ được ý chỉ này.
A-nan sau khi Như Lai nhập niết-bàn, các ông nên lưu truyền lời
dạy của Như Lai. Hãy truyền đạt những lời Như Lai đã dạy.
Để cho chúng sanh trong thời mạt pháp đều tỏ ngộ được ý
chỉ này. Khiến cho chúng sanh nghe được đạo lý, hiểu và giác ngộ
được.
Chớ để cho thiên ma có cơ hội quấy phá. Đừng để cho loài ma có dịp
thuận tiện phá rối người tu hành.
Giữ gìn hộ trì cho chúng sanh tu tập đến khi thành tựu đạo Vô
thượng.
KINH LĂNG NGHIÊM
NĂM MƯƠI LOẠI ẤM MA
Hòa Thượng Tuyên Hóa
giảng tại
Phật Giáo Giảng Ðường
San Francisco
California _ USA _ 1968
TƯỞNG ẤM
TRẠNG THÁI TÂM LÝ TRƯỚC
KHI VÀO CẢNH GIỚI TƯỞNG ẤM
Kinh Văn: A-nan, bỉ thiện nam tử, tu tam-ma-đề, thọ
ấm tận giả, tuy vị lậu tận, tâm li kì hình, như điểu xuất lung. Dĩ năng
thành tựu, tùng thị phàm thân, thượng lịch bồ-tát lục thập thánh vị, đắc ý
sanh thân, tùy vãng vô ngại.
Việt dịch: A-nan, hành giả kia tu
tập pháp tam-ma-địa, khi thọ ấm tiêu dung, tuy chưa hết mê lầm,
nhưng tâm người ấy có thể rời thoát khỏi thân như chim ra khỏi lồng. Đã thành
tựu điều ấy, từ thân phàm phu đã có khả năng vượt qua 60 thánh vị của hàng
Bồ-tát, đạt được ý sanh thân, đến đi tự tại, không bị ngăn ngại.
Giảng: A-nan, hành
giả kia tu tập pháp tam-ma-địa, khi thọ ấm tiêu dung. Khi thọ ấm
đã sạch. Tuy chưa hết mê lầm, nhưng tâm người ấy có thể rời thoát khỏi
thân như chim ra khỏi lồng. Tuy chưa hết mê, nhưng đã có chút ít thần
thông rồi, tâm có thể thoát khỏi thân như chim ra khỏi lồng.
Trước kia hành giả đạt chỉ mơi đến mức tiêu dung
thọ ấm , họ như người bị nhốt kín trong xác thân của họ. Giống y như con
chim bị nhốt trong lồng. Bây giờ, chim mới có thể thoát ra khỏi lồng.
Đã thành tựu điều ấy, từ thân phàm phu đã có khả năng vượt qua
60 thánh vị của hàng Bồ-tát,
Từ thân phàm phu đã thành tựu điều ấy, có nghĩa là có chút ít
thần thông, đã có khả năng vượt qua sáu mươi thánh vị của hàng Bồ-tát. Ngay nơi
thân phàm phu, hành giả có thể trở thành Bồ-tát, chứng được sáu mươi thánh vị
của hàng Bồ-tát.
Đạt được ý sanh thân, đến đi tự tại, không bị ngăn ngại.
Hành giả phải xác lập rõ ràng sự tha thiết, miệt mài trong
công phu tu tập trước khi có được năng lực thần thông của ý sanh thân.
Đạt được thân này, hành giả có thể đi lại bất kỳ nơi đâu mình muốn.
Sáu mươi thánh vị của hàng Bồ-tát là gì? Đó là năm mươi
lăm vị đã giảng nói ở phần trước; cọng ba vị tiệm thứ, thêm Càn
huệ địa và Diệu giác . Thành tất cả là sáu mươi thánh
vị.
PHẠM VI TƯỞNG ẤM
Kinh Văn: Thí như hữu nhân, thục mị nghệ ngôn. Thị nhân tuy
tắc, vô biệt sở tri, kì ngôn dĩ thành, âm vận luân thứ, linh bất mị giả, hàm ngộ
kì ngữ. Thử tắc danh vi, tưởng âm khu vũ.
Việt dịch: Như người ngủ say
nói mớ. Tuy người ấy không biết mình nói gì, nhưng lời nói kia vẫn có âm vận
mạch lạc rõ ràng, khiến những người thức đều biết rõ. Đó là phạm vi của tưởng
ấm .
Giảng: Như người ngủ say
nói mớ. Đây là một sự so sánh. Phạm vi của tưởng ấm tương tự như
người nói mớ trong khi mê ngủ. Khi ngủ mê anh ta bắt đầu nói những gì anh ta
muốn nói. Tuy người ấy không biết mình nói gì, nhưng lời nói kia vẫn có
âm vận và mạch lạc rõ ràng, dù hành giả không biết mình nói gì trong khi
ngủ mê nhưng những gì anh ta nói đều mạch lạc, trôi chảy theo một trình tự hợp
lý, có ý nghĩa rõ ràng. Nhưng anh ta không hề biết mình đã nói những gì.
Nhưng những người thức điều biết rõ.
Thí dụ như người ấy nói “Hôm nay tôi muốn ăn đậu phụ nên tôi
đi ra tiệm mua mười tấm. Trở về nhà, tôi hấp bánh lên rồi ăn.”
Anh ta không hề biết mình đã nói những gì. Nhưng những người
khác đang thức đều biết rất rõ: “Ồ hôm nay anh ta ăn đậu phụ.”
Tại sao anh ta lại nói những điều như thế? Vì anh ta chưa quên
những gì anh ta đã ăn, anh ta vẫn còn nhớ chuyện ăn, nên anh ta còn nhắc nhở
chuyện ấy ngay trong giấc mơ.
Đây là phạm vi của tưởng ấm .
Đó là điều tương tự như lãnh vực của tưởng ấm . Nhưng quý
vị đừng tưởng điều này đơn giản như thế mà cho rằng: “Tưởng ấm
chỉ là như nói sảng mớ trong khi ngủ mê” thật là sai lầm khi suy
diễn như vậy. Đây chỉ là một sự so sánh tương tự.
CỘI GỐC CỦA TƯỞNG ẤM
Kinh Văn: Nhược động niệm tận, phù tưởng tiêu trừ. Ư giác minh
tâm, như khử trần cấu. Nhất luân sanh tử, thủ vĩ viên chiếu, danh tưởng
ấm tận. Thị nhân tắc năng, siêu phiền não trược. Quán kì sở do, dung thông
vọng tưởng, dĩ vi kì bản.
Việt dịch: Nếu hết động niệm, tiêu trừ sạch vọng tưởng
thô phù. Trong tâm giác ngộ sáng suốt, như rủ bỏ hạt bụi dơ. Một dòng sanh tử
trước sau soi chiếu tròn khắp, gọi là tiêu dung tưởng ấm . Người ấy có thể
vượt khỏi phiền não trược. Quán sát lại nguyên do của tưởng ấm , thấy
nguồn gốc của nó là vọng tưởng dung thông.
Giảng: Nếu hết động
niệm, tiêu trừ sạch vọng tưởng thô phù. Vọng tưởng
cực kỳ vi tế là ở thức thứ sáu, và tiêu trừ hết vọng tưởng thô phù. Do vì các
thứ tưởng vi tế này trong thức thứ sáu đã được tiêu trừ, nên các tưởng hư vọng
thô phù này cũng được tiêu trừ theo.
Trong tâm giác ngộ sáng suốt, như rủ bỏ hạt bụi dơ. Tâm
giác ngộ sáng suốt này là thức thứ tám. Giờ đây rõ ràng là thức thứ tám đã
thanh tịnh hóa mọi dơ bẩn của vọng trần.
Một dòng sanh tử trước sau soi chiếu tròn khắp. Có
mười hai loại chúng sanh; từ loài thai sanh, noãn sanh cho đến loài phi vô
tưởng . Hành giả biết được rõ ràng nhân từ trước đã gây ra và kết quả sau
này phải thọ nhận của tất cả mọi loài chúng sanh.
Đó gọi là tiêu dung tưởng ấm . Vào lúc hành
giả đạt được túc mạng thông, người ấy có thể vượt qua phiền não trược.
Quán xét lại nguyên do của tưởng ấm .
Quán xét lại nguyên do sâu xa mọi tạo tác của hành giả. Nguồn gốc của
nó là vọng tưởng dung thông.
Đến lúc này, các vọng tưởng trở nên dung thông với nhau, mỗi
vọng tưởng trở thành nguồn gốc của chính nó.
CẢNH GIỚI CỦA TƯỞNG ẤM
* * *
1 – THAM CẦU THIỆN XẢO
Kinh Văn: A-nan, bỉ thiện nam tử, thọ ấm hư diệu, bất tao
tà lự, viên định phát minh, tam ma địa trung, tâm ái viên minh, nhuệ kì tinh
tư, tham cầu thiện xảo.
Việt dịch: A-nan, khi thọ ấm đã hư diệu,
không còn vướng mắc các tà lự, phát minh tính viên định, trong tam-ma-đề, tâm
mong muốn có được sự sáng suốt viên mãn, thúc bách tư tưởng tham cầu thiện xảo.
Giảng: A-nan, khi thọ
ấm đã hư diệu, không còn vướng mắc các tà lự, không còn một
niệm tưởng xấu ác nào có thể khuấy động hành giả được nữa.
Phát minh được viên định, trong tam-ma-đề, tâm
mong muốn có được sự sáng suốt viên mãn nên thúc bách tư tưởng, tham cầu thiện
xảo.
Thúc bách có nghĩa là quá sức tinh ròng trong việc
quán chiếu lại nội tâm, đó cũng là trạng thái viên minh. Hành giả
mong cầu có được phương tiện thiện xảo để giáo hóa chúng sanh. Tâm tham cầu do
vậy mà phát sinh.
Kinh Văn: Nhĩ thời thiên ma, hậu đắc kì tiện, phi tinh phụ
nhân, khẩu thuyết kinh pháp.
Việt dịch: Khi ấy thiên ma chờ được cơ hội thuận tiện,
cho tinh thần gá vào người khác, dùng miệng người đó giải thuyết kinh pháp.
Giảng: Khi ấy thiên
ma (Lục dục thiên) chờ được cơ hội thuận tiện.
Biết hành giả tu tập định lực gần hoàn chỉnh, nó đợi dịp thuận tiện để gá vào.
Nó rình rập một vài cá tính của hành giả để mở đường thâm nhập. Khi định lực
của hành giả thiếu kiên cố thì lối vào hiển bày. Một khi hành giả sanh khởi
vọng niệm, thì định lực không còn kiên cố nữa và thiên ma liền có dịp may để gá
vào. Vậy nên nói ma được cơ hội thuận tiện.
Cho tinh thần gá vào người khác, dùng miệng người ấy giảng
thuyết kinh pháp.
Thiên ma ra lệnh cho đồ chúng của nó “Đến nơi đó phá hủy định
lực của người tu hành kia.” Trước khi sắc ấm và thọ ấm hết sạch,
Thiên ma chiếm đoạt và quấy rối người tu hành. Nhưng sau khi sắc ấm và thọ ấm
tiêu dung, hành giả đến phạm vi tưởng ấm , thì thiên ma không thể chiếm
đoạt hành giả được nữa. Nó phải chiếm đoạt thân xác của người khác, rồi giảng
pháp cho hành giả ấy nghe thông qua miệng người mà ma đoạt được thân xác. Người
ấy giảng Kinh, nhưng pháp người ấy giảng lại là tà pháp, nên các ông phải nhận
thức cho được điều sai lạc ấy.
Kinh Văn: Kì nhân bất giác, thị kỳ ma trước, tự ngôn
vị đắc vô thượng niết-bàn. Lai bỉ cầu xảo, thiện nam tử xứ, phu tòa thuyết
pháp. Kỳ hình tư tu, hoặc tác tỷ-khưu, linh bỉ nhân kiến, hoặc vi Đế
thích , hoặc vi phụ nữ, hoặc tỷ-khưu ni, hoặc tẩm ám thất, thân hữu quang
minh.
Việt dịch: Người này không biết bị ma gá vào. Tự tuyên bố
chứng được Vô thượng niết-bàn. Ma đến nơi hành giả đang móng tâm tham cầu thiện
xảo, nó trải tòa rồi thuyết pháp. Trong chốc lát nó hiện thân tỷ-khưu, khiến
cho hành giả được thấy, hoặc hóa làm Đế thích , làm phụ nữ, hoặc tỷ-khưu
ni, hoặc hiện thân phát ra ánh sáng khi nằm trong phòng tối.
Giảng: Các ông có thể thấy
được tệ hại ra sao khi gặp phải ma cảnh này.
Người này thật không
biết bị ma gá vào. Thật là vô lý khi ma lại đến giúp đỡ anh ta. Tự
mình tuyên bố chứng được Vô thượng niết-bàn. Anh ta tuyên bố đã được diệu
quả niết-bàn
Khi ma đến nơi hành giả đang tham cầu thiện xảo, nó
trải tòa rồi thuyết pháp, cho hành giả đang mong cầu thiện xảo nghe.
Trong chốc lát, rất nhanh chóng, nó có
thể hóa hiện làm tỷ-khưu, khiến cho hành giả được thấy, hóa
làm Đế thích (vua Trời), làm phụ nữ, hoặc kỷ-khưu ni.
Khi hành giả tham cầu thiện xảo, thấy thế sự biến hóa như vậy bèn nghĩ: “Ông ta
ắt hẳn là Quán Thế Âm Bồ-tát.” Mà không hề biết đó là thiên ma. Đó là lý do tại
sao các ông không nên dính mắc với bất kỳ cảnh giới nào mà các ông chứng được,
không bất luận đó là cảnh giới gì.
Hoặc hiện thân phát ra ánh sáng khi đang nằm trong phòng tối. Khi
người không hiểu Phật pháp nhìn thấy vậy, liền thán phục: “Ồ thân thể ông ta
phát ra ánh sáng. Nếu ông ta không là Phật, thì ít nhất phải là Bồ-tát hay
A-la-hán .” Họ không nhận ra rằng người ấy đã bị ma vương gá vào, nó thi
thố thần thông để đánh lừa người tu hành.
Do vậy khi hành giả chưa hiểu rõ ràng tường tận Phật
pháp một cách chân chính thì không nên để mình bị xoay chuyển bởi cảnh
giới mình đã thấy được, dù cảnh giới ấy là gì đi nữa. Đừng trở nên dao động bởi
những cảnh giới ấy. Quý vị nên xử trí thế nào khi gặp cảnh giới như vậy? Hãy
xem như không có gì tồn tại cả. Xem cảnh giới ấy như chưa từng thấy vậy. Nếu
quý vị trở nên phấn chấn khi thấy ma, thì quý vị sẽ bị xoay chuyển bởi ma cảnh.
Vậy quý vị nên hành xử ra sao? Chỉ nên duy trì tinh thần trung đạo , không
thích mà cũng không ghét, thấy như chưa từng thấy, nghe như chưa hề nghe. Quý
vị không nên nghĩ rằng: “Thật là kỳ diệu, ước gì ta gặp lại lần nữa.” Nếu quý
vị có tư tưởng ấy, là liền mắc vào sai lầm.
Kinh Văn: Thị nhân ngu mê, hoặc vi bồ-tát. Tín kì giáo hóa,
diêu đãng kì tâm, phá Phật luật nghi, tiềm hành tham dục.
Việt dịch: Hành giả ngu mê, lầm cho đó là Bồ-tát, tin lời giáo
hóa của ma, tâm bị dao động, nên phá luật nghi của Phật, lén lút làm chuyện
tham dục.
Giảng: Hành giả.
Người tu tập chánh định, ngu mê, lúc này, lầm cho đó là
Bồ-tát. Khi thấy một người có thể hiện làm tỷ-khưu, Đế
thích hoặc nữ cư sĩ, hoặc tỷ-khưu ni, hoặc bỗng chốc biến hóa từ
người này sang người khác. Hành giả cho rằng người này ắt hẳn là một vị Bồ-tát.
Rồi anh ta tin lời giáo hóa của ma, khiến tâm bị dao động, nên phá hủy
luật nghi của Phật chế.
Ta nên quán sát điều gì nơi người tu hành? Hãy xem
họ có giữ giới luật của Phật chế không? Nếu họ không trì giữ thì đó chắc chắn
là ma. Nếu người ấy tinh nghiêm gìn giữ giới luật thì đó chân thực là một vị
Bồ-tát. Thế mà có người tự xưng là Phật tử, tự gọi mình là Trưởng lão Hòa
thượng, tự khoác thêm vào nhiều danh hiệu khác.
Và lén lút làm chuyện tham dục. Nó lén lút làm
chuyện dâm dục mà cố gắng dấu giếm không cho mọi người biết.
Kinh Văn: Khẩu trung hảo ngôn tai tường biến dị, hoặc ngôn Như
Lai, mỗ xứ xuất thế, hoặc ngôn kiếp hỏa, hoặc thuyết đao binh. Khủng bố ư nhân,
linh kì gia tư, vô cố hao tán.
Việt dịch: Người ấy ưa nói những chuyện tai ương quái dị, hoặc
nói Như Lai xuất hiện chỗ nọ chỗ kia. Hoặc nói có kiếp hỏa, hoặc nói có đao
binh. Dọa cho người sợ hãi, khiến họ vô cớ tiêu tán của cải, tài sản.
Giảng: Người ấy,
người bị ma gá ưa nói những việc tai ương quái dị, những biến
chuyển lạ kỳ.
Người bị ma gá thường thích nói những điều gì? Họ thích nói về
những tai họa, những biến cố thảm khốc. Họ có thể nói về mọi tai ương chắc chắn
sẽ xảy ra chính xác ở một nơi nào đó, hay một điềm lành sẽ xảy ra ở một nơi nào
đó, hay một biến động bất thường sẽ xảy đến.
Hoặc nói Như Lai xuất hiện ở một nơi nào đó.
Anh ta nói: “Ông có biết gì không, Đức Phật đó, danh hiệu ấy
đã xuất thế ở nơi kia rồi!”
Hoặc nói đến thảm khốc
của kiếp hỏa, hoặc nói đến chiến tranh đao
binh. Anh ta nói: “Tam tai: thủy, hỏa, phong và bát nạn đã đến với
chúng ta rồi!”
Hoặc nói: “Kiếp này sắp hoại diệt rồi.” Hoặc dọa chiến tranh
sắp sửa xảy ra nơi đây. Hoặc nói Liên Xô sắp khai chiến với nước ấy, nước kia.
Dọa cho người sợ hãi khiến họ vô cớ tiêu tán của cải gia sản.
Anh ta luôn luôn nói những điều để thu hút sự chú ý của mọi
người, rồi khiến họ bị dao động. Một khi mọi người nghe tin này, họ hốt hoảng
lên” Ồ! Không! Chiến tranh sắp xảy ra, mạng sống ta nguy rồi!”
Hoặc ma nói: “Chiến tranh sắp xảy ra. Nếu các ông nộp tiền cho
tôi ngay, tôi sẽ bảo đảm sinh mạng cho ông an toàn. Nếu ông không đưa tiền cho
tôi, ông sẽ bị mất mạng.” Nó luôn nói như thế để lừa đảo mọi người.
Nếu ông muốn xác định ai là người chân chính hay giả
dối, dù người ấy là bồ-tát hay thiên ma, ông chỉ cần nhìn vào các
điểm sau: Trước hết xem xét người đó có tâm tham dục không? Thứ hai xem người
ấy có tham tiền không. Nếu người ấy lừa lọc mọi người để thỏa mãn lòng tham lam
tài sản, lòng hiếu sắc, thì người ấy không phải là người chân chính. Thế nào là
tham tài? Ví dụ. Người ấy có thể nói: “Có một tai họa lớn sắp xảy ra nơi chúng
ta, thế giới sắp đến hồi tận diệt. Một quả bom nguyên tử sắp nổ ở nơi kia. Một
quả bom H sắp thả vào chỗ kia.”
Nó nói những chuyện như vậy, làm cho mọi người hoang mang, rồi
đem tiền bạc đến dâng cho nó. Nếu các ông tỉnh giác với mẹo lừa của nó. Ngay cả
khi nó phóng ra ánh sáng, nó làm cho đất chấn động, hay làm những việc kỳ đặc
khác nữa, các ông cũng không nên tin nó, vì nó có tâm tham. Một người không có
tâm tham, mới là người chân chánh. Một người tham lam là người giả dối. Phương
pháp tôi dạy hiện nay là thực hành và khảo nghiệm thực tế.
Kinh Văn: Thử danh quái quỷ, niên lão thành ma, não loạn thị
nhân. Yểm túc tâm sanh, khứ bỉ nhân thể. Đệ tử dữ sư, câu hãm vương nạn.
Việt dịch: Đây gọi là giống quỷ quái, tuổi già thành ma,
quấy rối người tu hành. Sau khi quấy phá chán rồi, nó rời bỏ thân người vừa gá
vào. Nên cả thầy trò đều rơi vào lưới pháp luật.
Giảng: Đây gọi là
giống quỷ quái, sống một thời gian dài, tuổi già thành ma. Nó
chuyên quấy rối người tu hành. Sau khi quấy phá chán rồi,
nó rời bỏ thân người vừa gá vào. Cuối cùng, nó chán trò chơi này. Nó
đã thấy đủ rồi nên nó thôi gá vào người khác. Khi điều này xảy ra. Cả
thầy trò đều rơi vào lưới pháp luật. Nó bị chính quyền truy nã, bị tố cáo
là kích động quần chúng, có thể bị tử hình hoặc những án tù tương đương như
thế.
Kinh Văn: Nhữ đương tiên giác, bất nhập luân hồi. Mê hoặc bất
tri, đọa vô gián ngục.
Việt dịch: Ông phải nên biết trước, để khỏi rơi vào luân hồi.
Nếu mê lầm không biết, sẽ đọa vào địa ngục vô gián.
Giảng: Ông phải nên
biết trước, để khỏi rơi vào luân hồi, các ông phải nên sớm tỉnh ngộ điều
này, và đừng sa vào vòng sinh tử của ma vương.
Nếu mê lầm không biết, trong tương lai
sẽ đọa vào ngục vô gián.
2 – THÍCH ĐI DU LỊCH
Kinh Văn: A-nan, hựu thiện nam tử, thọ ấm hư diệu,
bất tao tà lự. Viên định phát minh, tam-ma-địa trung, tâm ái du đãng, phi kì
tinh tư, tham cầu kinh lịch.
Việt dịch: A-nan, lại hành giả kia, thụ ấm đã hư diệu, không
mắc các tà lự, tính viên định phát minh. Trong tam-ma-địa, tâm thích dạo
chơi, cho tư tưởng bay ra, tham cầu đi nhiều nơi.
Giảng: A-nan, lại hành giả kia, thụ ấm đã
hư diệu, không mắc các tà lự. Trong cảnh giới rỗng suốt vi diệu, có
được sau khi thọ ấm đã tiêu dung. Hành giả đang tu tập tam-ma-địa không
còn các tà lự nữa, phát minh, an trụ trong định sáng suốt tròn đầy. Trong
tam-ma-địa, tâm đã có những vọng tưởng thích dạo
chơi.
Đó là “Ra khỏi đỉnh đầu và lang thang theo linh hồn” có nghĩa
là linh hồn đi lãng du khắp mọi nơi. Nên tư tưởng phóng vọt ra tham cầu lãng
du. Cho tinh thần phóng vọt ra ngoài và mong muốn đi khắp
nơi đâu đó để ngắm cảnh tiêu dao.
Kinh Văn: Nhĩ thời thiên ma, hầu đắc kì tiện, phi tinh phụ
nhân, khẩu thuyết kinh pháp.
Việt dịch: Khi ấy, thiên ma chờ được cơ hội thuận tiện, đem
tinh thần, gá vào người khác, dùng miệng người ấy giảng kinh pháp.
Giảng: Khi ấy thiên
ma chờ được cơ hội thuận tiện. Ma vương ở cõi trời lại trở nên ghen
tức và chờ đợi sơ hở để gá vào.
Đem tinh thần nó gá vào người khác. Nó
lại cho tùy tùng thân tín gá vào người kia. Dùng miệng người ấy giảng
nói kinh pháp. Nó đến để quấy nhiễu người tu. Vì sao người tu lại bị ma gã
vào? Đơn giản là vì ông ta tham cầu lãng du, mong ước được đi du lịch, đi lang
thang đây đó. Ngay khi ông ta vừa móng niệm mong cầu du lãng, tức liền cung cấp
cho thiên ma cơ hội thuận tiện để não loạn mình ngay. Ma không thể gá vào đâu
được nếu như người tu đạo không khởi vọng tưởng tham cầu như vậy.
Kinh Văn: Kì nhân diệc bất giác tri ma trước, diệc ngôn tự
đắc, vô thượng niết-bàn. Lai bỉ cầu du, thiện nam tử xứ, phu tòa thuyết pháp,
tự hình vô biến. Kì thính pháp giả, hốt tự kiến thân, tọa bảo liên hoa, toàn
thể hóa thành, tử kim quang tụ. Nhất chúng thính nhân, các các như thị, đắc vị
tằng hữu.
Việt dịch: Người ấy thật không biết bị ma gá vào, còn tự nói
rằng mình đã được vô thượng bồ-đề. Ma đến nơi người mong cầu lãng du kia, trải
tòa ngồi thuyết pháp. Hình người giảng pháp thì không biến đổi, nhưng những
người nghe pháp bỗng dưng thấy mình đang ngồi trên những tòa sen báu, toàn thân
hóa thành khối vàng tía chói sáng. Mỗi người đang nghe pháp đều cảm thấy như
vậy, cho rằng mình đạt được chuyện chưa từng có.
Giảng: Người ấy thật
không biết bị ma gá vào, còn tự nói rằng mình đã được vô thượng
bồ-đề, tự tuyên bố mình đã đạt đến quả vị nhiệm mầu của Vô
thượng niết-bàn. Khi ma đến nơi người mong cầu lãng du kia, đó là
hành giả đã khởi vọng niệm mong muốn thần thức mình thoát ra khỏi đỉnh đầu rồi
đi rong chơi đây đó.
Ma trải tòa ngồi giảng pháp. Tự thân hình
người giảng pháp thì không biến đổi.
Trong đoạn kinh văn tôi đã giảng trước, thì thân thể của người
bị gá vào biến thành tỷ-khưu, tỷ-khưu ni, Đế thích , nữ cư sĩ hay vô số
hình dạng khác. Nhưng trường hợp này thì thân người bị ma gá lại không biến
đổi. Có nhiều loại ma khác nhau, và các ông không nên xem những sự tình tầm
thường thành ra thiện pháp. Nếu chuyện đó xảy ra mà các ông không nhận thức
chính xác, thì ma sẽ gá vào ông ngay.
Nhưng những người nghe pháp bỗng dưng thấy mình đang ngồi trên
tòa sen báu, toàn thân hóa thành khối sắc vàng tía chói sáng.
Thình lình mọi người thấy như mình đang ngồi trên tòa sen báu,
và toàn thân mình hóa thành khối sắc vàng tía chói ngời.
Mọi người đang nghe giảng pháp đều cảm thấy như vậy, cho rằng
mình đạt được việc chưa từng có.
Kinh Văn: Thị nhân ngu mê, hoặc vi bồ-tát, dâm dật kì tâm, phá
Phật luật nghi, tiềm hành tham dục.
Việt dịch: Hành giả ngu mê, lầm cho đó là bồ-tát, tâm hóa dâm
dật, phá hủy luật nghi của Phật, lén làm chuyện tham dục.
Giảng: Hành giả ngu
mê, lầm cho người ấy là bồ-tát .
Không những người này mà tất cả những người đang nghe giảng
pháp đều rất u mê, tâm họ trở nên nghi hoặc và nghĩ rằng: “Ông ấy chắc hẳn là
một vị bồ-tát, ông ta có thể làm cho mình ngồi trên tòa sen bằng bảy báu, và
biến thân mình thành khối sắc vàng tía chói ngời.”
Quý vị nên tự hỏi lại mình rằng: “Mình thực sự có ngồi trên
tòa sen và tỏa chiếu sắc vàng tía được chăng?” Làm sao mà quý vị với thân tướng
phàm phu mà lại có trạng thái như thế? Phải chăng đây là thiên ma đến để mê
hoặc? Tại sao một vị bồ-tát lại hiển bày cảnh giới như vậy? Vị bồ-tát ấy
gá vào nơi quý vị để làm gì?
Tâm hóa dâm dật.
Tâm của những người nghe nó giảng kinh pháp trở nên dao động,
bắt đầu sinh khởi tâm dâm dục.
Phá hủy giới luật Phật chế.
Họ không còn giữ gìn giới luật của Phật chế nữa. Quý vị đều
phải nhớ, sau khi quý vị thọ nhận giới pháp rồi thì chớ nên bị lừa dối bởi
những cảnh giới mê hoặc này. Ngay cả khi vị Pháp sư thi triển đại thần thông đi
nữa, thì quý vị cũng phải quán xét ông ta cẩn thận xem ông ta có tâm
tham cầu hay không. Nếu ông ta tham tiền hoặc có tâm tham dục, thì ông ta chẳng
phải là người có tâm chân chính. Ông ta là kẻ giả mạo. Còn nếu người ấy không
còn tâm dâm dục, tham lam. Không có che dấu ý đồ bên trong thì ông ta là người
chân chính. Nếu ông ta là người hủy phá giới luật Phật chế thì đó là kẻ dối
gạt.
Lén lút làm chuyện dâm dục.
Nó phóng túng, dâm loạn một cách lén lút.
Kinh Văn: Khẩu trung hảo ngôn, chư Phật ứng thế. Mỗ xứ mỗ
nhân, đương thị mỗ Phật, hóa thân lai thử. Mỗ nhân tức thị, mỗ bồ-tát đẳng lai
hóa nhân gian. Kì nhân kiến cố, tâm sanh khát ngưỡng, tà kiến mật hưng, chủng
trí tiêu diệt.
Việt dịch: Người ấy ưa nói chư Phật ứng hiện ra đời.
Người đó, chỗ đó, chính là vị Phật ấy, hóa thân thị
hiện. Hoặc nói người kia là bồ-tát hóa thân đến đây giáo hóa nhân
gian. Hành giả nghe vậy, tâm sanh khát ngưỡng, tà kiến âm thầm lớn mạnh,
chủng trí bị tiêu diệt.
Giảng: Người ấy ưa
nói chư Phật ứng hiện ra đời. Miệng ma ưu nói chư Phật hiện thân nơi
này, nơi kia.
Người bị ma gá ưa thích đi lang thang đây đó. Rồi lợi dụng vào
việc lãng du ấy nói về những việc huyền hoặc kỳ bí, những chuyện nó nói quá ư
là huyễn hoặc khiến người ta khó tin. Anh ta nói: “Nay chư Phật đang ứng hiện
thân ở thế gian để cứu độ chúng sanh.”
Anh ta nói người đó, chỗ đó, chính là vị Phật ấy, hóa
thân thị hiện, vị Phật ấy đã ứng hiện thân ra đời nơi người ấy, ở tại
chỗ ấy.
Nó nói ông ấy chính là Đức Phật như vậy, như vậy… Đã hóa thân
đến nơi ấy để cứu độ muôn loài. Hoặc nói người kia chính là bồ-tát
hóa thân đến đây để giáo hóa nhân gian.
Thí như có người đệ tử của tôi tên Cát-lợi (Gary)
kể lại rằng: Đệ tử Sa Ma Lâu Tát bảo rằng: Thầy mình (Sa Ma Lâu Tát)
là một vị Bồ-tát. Thật là lố bịch. Đó là loại bồ-tát gì? Bồ-tát ma chăng?
Họ chỉ được lừa dối người. Tôi sẽ nói cho quý vị rõ. Một Đức Phật
hay một vị Bồ-tát không bao giờ nhận mình là Phật hay Bồ-tát, lại càng không
bao giờ để đệ tử mình đi quảng cáo mình.
“Thầy tôi là Bồ-tát.” Quý vị đừng bao giờ nói về Thầy của quý
vị như vậy cả. Tại sao quý vị lại đi nói rằng Thầy của mình là Phật? Quý vị
không bao giờ được nói về tôi như vậy. Chẳng phải tôi đã từng nói với quý vị
rằng tôi là con ma hay sao? Chỉ nên nói về thầy của quý vị là một con ma. Tôi
không muốn được gọi là Phật hay Bồ-tát. Thật đáng thương xót cho những người
này! Ở đây họ lại nói rằng: “Đây là một vị Bồ-tát hiện thân đến để giáo
hóa chúng sanh trong thời mạt pháp.”
Người tu hành thấy vậy, tâm sanh khát ngưỡng.
Vì những người ấy có hiểu biết còn non nớt, không thực hiểu về
Phật pháp. Họ nghĩ rằng:
“Ồ! Ông ta là một vị Bồ-tát, hay quá, hãy nhanh chóng đến nghe
ông ta giảng pháp và xin làm đệ tử.”
Ví như ngày hôm qua có vài người đến nghe trộm pháp. Tôi hỏi
ai là thầy của họ, họ trả lời người ấy, người ấy… Đó là một trường hợp liên
quan đến điều đang nói. Tâm họ ngập tràn sự khát ngưỡng, hâm mộ.
“Ta nên lại xin vị bồ-tát ấy làm thầy, và xin thân cận học hỏi
pháp bồ-tát nơi thầy.”
Vì ông ta là bồ-tát nên tất nhiên những đệ tử học pháp với ông
ta cũng thành bồ-tát . Như một kết quả tất yếu.
Tà kiến âm thầm lớn mạnh. Dần dần tà kiến trở
nên dầy cộm hơn và chủng trí bị tiêu hủy.
Chủng trí của Phật và các
loại trí tuệ đều bị tiêu hủy. Hạt giống của trí tuệ bị tiêu diệt rồi,
thật là nguy hiểm.
Kinh Văn: Thử danh bạt quỷ, niên lão thành ma, não loạn thị
nhân, yểm túc tâm sanh, khứ bỉ nhân thể. Đệ tử dữ sư, câu hãm vương nạn.
Việt dịch: Đây là loại bạt quỷ, tuổi già thành ma, quấy
rối người tu hành. Đến khi nó đã nhàm chán, liền rời khỏi thân người mà nó đã
gá vào. Khi ấy cả thầy và trò đều sa vào lưới pháp luật.
Giảng: Đây là loại bạt quỷ, tuổi già thành
ma.
Bất kỳ nơi đâu mà loại bạt quỷ này đến, nơi
đó không có mưa, hạn hán kéo dài ít nhất sáu tháng và có khi kéo dài đến một,
hai hoặc năm năm. Hễ loại ma này đến nơi nào nơi đó sẽ không có mưa. Khi còn
trẻ nhỏ, nó được gọi là ma, khi đã nhiều tuổi nó càng trở nên độc ác, đểu giả,
nên nó biến thành quỷ. Có câu ngạn ngữ của cổ nhân như sau:
“Lão nhi bất tử thị vi tặc” nghĩa là: Già mà không chết
là kẻ tinh quái. Lại càng tinh quái hơn đối với loài quỷ. Nếu ma già mà không
chết nó trở thành quỷ.
Nó quấy rối người tu hành. Đến khi đã nhàm chán.
Sau khi nó chơi trò lừa bịp một thời gian dài, ma trở nên chán
việc ấy, không có gì thú vị nữa. Liền rời khỏi thân người mà nó đã gá
vào. Khi ấy cả thầy và trò đều rơi vào lưới pháp luật. Cả
hai đều bị bắt và bị bỏ tù. Có thể bị xử tử hình hoặc án tù chung thân. Đời
sống như thể đang ở địa ngục.
Kinh Văn: Nhữ đương tiên giác, bất nhập luân hồi. Mê hoặc bất
tri, đọa vô gián ngục.
Việt dịch: Các ông nên biết trước, thì khỏi bị luân hồi. Nếu
ông mê lầm không biết, sẽ rơi vào địa ngục vô gián.
Giảng: Các ông nên biết trước, thì khỏi bị luân hồi,
trong vòng của ma vương, không bị làm quyến thuộc của ma vương. Nếu ông
mê lầm không biết. Nếu ông không nhận ra những việc làm của ma vương, thì
ông sẽ theo ma vương rơi vào địa ngục vô gián.
3 – THAM CẦU SỰ KHẾ HỢP
Kinh Văn: Hựu thiện nam tử, thọ ấm hư diệu, bất tao
tà lự. Viên định phát minh, tam-ma-địa trung, tâm ái miên vẫn, trừng kì tinh
tư, tham cầu khế hợp.
Việt dịch: Lại nữa thiện nam tử kia, thụ ấm đã hư diệu,
không mắc các tà lự, tính viên định phát minh. Trong tam-ma-địa, tâm ưa sự thầm
hợp, lóng lặng tư tưởng, tham cầu khế hợp.
Giảng: Lại nữa thiện nam tử kia, thụ ấm đã hư diệu,
không mắc các tà lự, tính viên định phát minh.
Lại nữa trong cảnh giới rỗng suốt vi diệu, có được sau khi thọ
ấm đã tiêu dung, hành giả không còn tà lự nữa, an trú trong định
sáng suốt tròn đầy. Trong tam-ma-địa, tâm ưa sự thầm hợp, tâm
thích sự hợp nhất tinh thần.
Tâm muốn thân cận với các bậc Hiền Thánh. Lóng lặng tư
tưởng, tham cầu sự khế hợp. Hành giả nỗ lực lắng đọng tâm tư, đạt đến sự
tinh thuần. Do vì ẩn dấu một niệm tham cầu sự khế hợp, nên hành giả đã cho ma
vương một cơ hội tốt để phá anh ta.
Kinh Văn: Nhĩ thời thiên ma, hậu đắc kì tiện, phi tinh phụ
nhân, khẩu thuyết kinh pháp.
Việt dịch: Lúc ấy thiên ma được cơ hội thuận tiện, dùng tinh
thần nó gá vào người khác, dùng miệng người ấy giảng thuyết kinh pháp.
Giảng: Lúc ấy thiên
ma được cơ hội thuận tiện. Dùng tinh thần nó gá vào người khác, dùng miệng
người ấy giảng thuyết kinh pháp.
Thiên ma thấy được cơ hội thuận tiện, vậy nên nó phóng tinh
thần nhanh chóng chiếm đoạt người ấy và dùng miệng người ấy để giảng nói kinh
pháp.
Kinh Văn: Kì nhân diệc bất giác tri ma trước, diệc ngôn tự
đắc, vô thượng niết-bàn. Lai bỉ cầu hợp thiện nam tử xứ, phu tòa thuyết pháp.
Kì hình cập bỉ, thính pháp chi nhân, ngoại vô thiên biến, linh kì thính giả, vị
văn pháp tiền, tâm tự khai ngộ. Niệm niệm di dịch, hoặc đắc túc mệnh,
hoặc hữu tha tâm, hoặc kiến địa ngục, hoặc tri nhân gian, hảo ác chư sự, hoặc
khẩu thuyết kệ, hoặc tự tụng kinh. Các các hoan ngu, đắc vị tằng hữu.
Việt dịch: Người ấy thật không biết bị ma gá vào, lại tự cho
rằng mình đã chứng được vô thượng niết-bàn. Khi nó đến nơi người mong cầu sự
hợp nhất tinh thần ấy, liền trải tòa ngồi giảng pháp. Thân hình người đó và
những người ngồi nghe pháp, bên ngoài không có gì thay đổi, nhưng lại khiến cho
thính giả trước khi nghe pháp có cảm giác trở nên được “khai ngộ,” nên họ thấy
được từng niệm từng niệm đổi đời. Hoặc họ được túc mạng thông, hoặc có tha tâm
thông, hoặc thấy địa ngục, hoặc biết được những việc tốt xấu trong cõi người,
hoặc nói kệ, tụng kinh. Mọi người đều vui vẻ, như được việc chưa từng có.
Giảng: Người bị
gá ấy thật không biết bị ma gá vào, lại tự cho rằng mình đã
chứng được diệu quả vô thượng niết-bàn. Khi nó đến nơi người
mong cầu sự hợp nhất tinh thần ấy, liền trải pháp tòa bước
lên rồi ngồi giảng pháp. Thân hình người đó và những người
phe pháp bề ngoài thì không có gì thay đổi.
Thân tướng của nó cùng với những người nghe pháp không có gì
biến đổi. Không có gì xảy ra phía bên ngoài thân xác của họ. Ý nghĩa đoạn này
khác với đoạn kinh trước, là người nghe pháp bỗng thấy mình ngồi trên tòa sen
báu, hoặc thấy thân mình phát ra ánh sáng mầu vàng tía rực rỡ. Cũng không như
khi họ thấy người giảng pháp biến hóa thành Đế thích , tỷ-khưu, tỷ-khưu
ni, phụ nữ. Trường hợp này không có sự biến hóa như thế.
Nhưng thay vào đó, lại khiến cho thính giả trước khi
nghe pháp có cảm giác trở nên được “khai ngộ.” Sau cảm giác khai ngộ
ấy, họ thấy như vừa trải qua một cơn say rượu hay vừa trải qua một giấc mơ mà
trong đó mình được giàu có. Cảm giác khai ngộ này không phải là khai ngộ chân
thực, nó chỉ là một loại huyễn cảnh. Cũng giống như khi xem phim,
hoặc uống thuốc Hallucinogenic –huyễn giác hoàn vậy
thôi. Họ thấy mọi chuyện đều ở trong cơn biến hóa huyễn ảo, nên tâm họ
thấy được từng niệm từng niệm đổi dời.
Hoặc họ có được túc mạng thông,
nhưng thật ra túc mạng thông ấy cũng không thực. Những gì nó thấy đều là huyễn
ảo. Hoặc họ có tha tâm thông, hoặc thấy được tất cả cảnh giới ở địa
ngục, hoặc biết được những việc tốt xấu ở cõi người, hoặc có
thể tùy việc nói kệ theo lối riêng của nó, hoặc tùy hứng tụng kinh. Mọi
người đều vui vẻ, cảm thấy như được việc chưa từng có.
Họ đều nói: “Ông ấy thực là một vị Bồ-tát, ông ta chính là
Phật, ông ta đã làm cho tôi khai ngộ, ông ta đã khiến cho tôi có túc mạng
thông.” Tuy nhiên cảm giác ấy chỉ có được khi họ đang nghe ma giảng
pháp. Đó là điểm then chốt cho ta biết pháp ấy chẳng chật.
Kinh Văn: Thị nhân ngu mê, hoặc vi bồ-tát, miên ái kì tâm, phá
Phật luật nghi, tiềm hành tham dục.
Việt dịch: Hành giả ngu mê, lầm cho người ấy là bồ-tát . Tâm
trở nên vướng mắc chuyện yêu đương, nên hủy phạm luật nghi của Phật Lén lút làm
chuyện tham dục.
Giảng: Hành giả ngu
mê, lầm cho người ấy là bồ-tát. Hành giả ấy cực kỳ mê muội, nghĩ tưởng kẻ
đang bị gá vào là bồ-tát. Tâm trở nên vướng mắc chuyện yêu đương.
Anh ta giao tình với ma, nên hủy phạm luật nghi của Phật, không còn
tuân giữ giới luật nữa.Lén lút làm chuyện tham dục. Âm thầm làm chuyện
dâm dục.
Kinh Văn: Khẩu trung hiếu ngôn, Phật hữu đại tiểu;mỗ Phật tiên
Phật, mỗ Phật hậu Phật. Kì trung diệc hữu chân Phật giả Phật, nam Phật nữ Phật;
bồ-tát diệc nhiên. Kì nhân kiến cố, tẩy địch bản tâm, dị nhập tà ngộ.
Việt dịch: Nó ưa nói có Phật lớn, Phật nhỏ; vị Phật này trước,
vị Phật này sau; trong đó còn có Phật thật, Phật giả, Phật nam, Phật nữ;
bồ-tát cũng như thế. Người tu hành nghe vậy liền tin, tẩy sạch bản tâm,
dễ rơi vào tà ngộ.
Giảng: Nó ưa nói có
Phật lớn, Phật nhỏ.
Ma thích nói những chuyện gì? Nó nói: “Các ông đã học Phật
pháp, vậy các ông có biết Phật là gì không? Có các Phật lớn và các Phật nhỏ,
Phật già, Phật trẻ.” Nó còn giải thích chi tiết hơn.
Vị Phật này là trước, vị Phật này là sau, vị Phật này là thật,
vị Phật kia là giả. Ma tuyên bố rằng chính nó là Phật thật, trong khi các vị
khác là Phật giả. Nó còn nói có Phật nam, Phật nữ. Nó khăng
khăng “Quan hệ giữa các vị nam và nữ tạo ra các vị Phật. Đó là nguồn gốc các vị
Phật, đó là bồ-đề tâm.”
Dĩ nhiên điều này gây cho người ta mê lầm. Họ nghĩ rằng: “Ồ đó
là cách mà người ta thành Phật.” Thế rồi họ buông thả vào cuộc sống trác táng
trụy lạc. Họ thà chết còn hơn là không được sống thác loạn trong dâm dục.
Nó phân biệt các vị bồ-tát cũng như vậy.
Ma vẫn nói rằng: “Có bồ-tát lớn, có bồ-tát nhỏ,
bồ-tát nam, Bồ-tát nữ.” Thực ra, trừ phi quý vị không muốn thành Phật thì
thôi, còn nếu quý vị muốn thành Phật, thì quý vị phải có thân người nam. Thân
nữ không thể thành Phật được. Quý vị muốn thành bồ-tát cũng phải là thân
nam, thân nữ không thể thành bồ-tát được.
Người tu hành nghe vậy liền tin, tẩy sạch bản tâm,
dễ rơi vào tà ngộ.
Khi nghe ma nói những điều ấy và nghĩ: “Ông ấy nói đúng thật.
Tôi luôn thấy Bồ-tát Quán Thế Âm được mô tả như một phụ nữ. Đó là bằng
chứng xác định vậy.” Những người ấy không thấu hiểu Phật pháp. Bồ-tát Quán Thế
Âm chẳng phải nam cũng chẳng phải nữ. Ngài tùy nguyện lực của các loại chúng
sanh mà ứng hiện. Ngài tùy theo từng loại căn cơ của chúng sanh mà giáo hóa họ.
Rất khó phân biệt được sơ ứng hiện của Bồ-tát, trừ thần lực của ma vương. Vì ma
vương cũng có thần thông, nó có thể tự hóa hiện thành. Các ông làm sao mà biết
được ai là ma? Hãy quán xét họ xem có tham dục hay không?
Niềm tin ban đầu bị biến mất hẳn. Tâm tu hành chân chính ban
đầu nay đã bị xóa sạch hẳn…
Dễ bị rơi vào hiểu biết tà vạy.
Kinh Văn: Thử danh mị quỷ, niên lão thành ma, não loạn thị
nhân. Yểm túc tâm sanh, khứ bỉ nhân thể. Đệ tử dĩ sư, câu hãm vương nạn.
Việt dịch: Đây là loại mỵ quỷ, tuổi già thành ma, nó khuấy rối
người tu hành. Khi đã nhàm chán, nó rời khỏi thân người mà nó đã gá vào. Cả
thầy và trò đều sa vào lưới pháp luật.
Giảng: Đây gọi là mỵ quỷ. Một loại ma trong các
loại ly, mỵ, võng, lượng. Tuổi già thành ma. Nó khuấy phá
người tu hành, tu tập chánh định. Khi đã nhàm chán, nó rời
khỏi thân người mà nó đã gá vào. Cả thầy và trò đều sa vào lưới pháp luật.
Khi tâm ma đã nhàm chán việc đó rồi, cuối cùng
không gá thân người nữa. Cả đệ tử và thầy đều rơi vào lưới pháp luật. Họ đều bị
bắt và tống giam.
Kinh Văn: Nhữ đương tiên giác, bất nhập luân hồi. Mê hoặc bất
tri, đọa vô gián ngục.
Việt dịch: Các ông nên giác ngộ sớm để khỏi bị luân hồi. Nếu
mê lầm không biết, sẽ rơi vào địa ngục vô gián.
Giảng: Các ông nên
giác ngộ sớm để khỏi bị luân hồi. Các ông nên thức tỉnh ngay lúc ban sơ để
khỏi rơi vào vòng sanh tử của ma vương, nếu thiếu trí huệ
và mê lầm không biết những gì đang xảy ra, sẽ rơi vào
địa ngục vô gián.
4 – THAM CẦU SỰ HIỂU
BIẾT
Kinh Văn: Hựu thiện nam tử, thọ ấm hư diệu, bất tao tà
lự, viên định phát minh. Tam-ma-địa trung, tâm ái căn bản, cùng lãm
vật hóa, tánh chi chung thủy. Tinh sảng kì tâm, tham cầu biện tích.
Việt dịch: Lại nữa thiện nam tử kia, thụ ấm đã hư diệu, không
mắc các tà lự, tính viên định phát minh. Trong tam-ma-địa, tâm ưa thích được
biết nguồn gốc của các sự vật, nên cứu xét cùng tột bản chất của sự vật cùng sự
biến hóa từ gốc đến ngọn. Niệm tưởng tinh ròng bén nhạy do vì tham cầu phân
tích rõ sự vật.
Giảng: Lại nữa thiện
nam tử kia, thụ ấm đã hư diệu, không mắc các tà lự, tính viên định phát minh.
Lại nữa, trong cảnh giới rỗng suốt vi diệu sau khi thọ
ấm đã tiêu dung, hành giả người tu tập chánh định không còn tà lự
nữa, an trú trong định sáng suốt tròn đầy. Trong tam-ma-địa, tâm ưa
thích biết được nguồn gốc của sự vật. Anh ta quyết định: Mình sẽ
nghiên cứu nguồn gốc vật lý của vụ trụ thế giới.
Nên hành giả cứu xét cùng tột bản chất của sự vật, cùng
sự chuyển hóa từ gốc đến ngọn, để tìm xem rốt ráo chúng là gì? Làm cho niệm
tưởng tinh ròng bén nhọn do vì tham cầu phân tích rõ sự vật.
Kinh Văn: Nhĩ thời thiên ma, hậu đắc kì tiện, phi tinh phụ
nhân, khẩu thuyết kinh pháp.
Việt dịch: Lúc đó thiên ma có được cơ hội thuận tiện. Phóng
tinh thần nó đến gá vào người khác, dùng miệng người bị gá giảng nói kinh pháp.
Giảng: Lúc đó thiên
ma có được cơ hội thuận tiện
Lúc đó thiên ma biết được và nói: “A ha! Ông vừa khởi dậy tâm
tham, quá tuyệt! Bây giờ ta có thể đưa đệ tử ta đến cám dỗ ông.” Như thế nó có
được cơ hội thuận tiện. Lần nữa ma vương gởi một trong số đồ đệ của nó và phóng
tinh thần nó ra đến gá vào người khác và dùng miệng người bị gá vào giảng nói
kinh pháp của ma vương.
Kinh Văn: Kì nhân tiên bất giác tri ma trước, diệc ngôn tự
đắc, vô thượng niết bàn. Lai bỉ cầu nguyên thiện nam tử xứ, phu tòa
thuyết pháp. Thân hữu oai thần, tồi phục cầu giả, linh kì tòa hạ, tuy vị văn
pháp, tự nhiên tâm phục. Thị chư nhân đẳng, tương Phật niết-bàn bồ-đề pháp
thân, tức thị hiện tiền, ngã nhục thân thượng. Phụ phụ tử tử, đệ đại tương
sanh, tức thị pháp thân thường trụ bất tuyệt. Đô chỉ hiện tại, tức vi Phật
quốc, vô biệt tịnh cư, cập kim sắc tướng.
Việt dịch: Người này không biết mình bị ma gá vào,
lại còn cho mình đã được vô thượng niết-bàn. Ma liền đến gặp
người mong cầu biết cội nguồn sự vật kia, nó trải tòa ngồi thuyết pháp. Thân nó
có oai thần hàng phục được người cầu pháp, khiến cho thính chúng tự nhiên kính
phục dù chưa nghe pháp. Nó nói bồ-đề, niết-bàn, pháp thân của Phật đều là
thân xác thịt hiện tiền. Nó nói: “Cha con cùng sinh ra nhau từ đời này đến đời
khác chính là pháp thân thường trụ không mất. Tất cả đều chỉ là hiện
tại, đó chính là cõi Phật, chẳng có cõi Tịnh cư riêng biệt nào, và cũng chẳng
có thân tướng sắc vàng nào cả.
Giảng: Người này
không biết mình bị ma gá vào, lại còn cho mình đã được vô thượng
niết-bàn
Đây là một trường hợp ma thường hay nói: “Mọi người là Phật.”
Đó chỉ là một chiêu bài mà thiên ma thường dùng. Người này thật
không biết bị ma gá vào. Anh ta hoàn toàn không có một ý niệm nào là anh ta bị
ma vương gá vào, bởi vì anh ta đã trở nên mê muội, mất hết tri giác khi bị ma
nhập. Ma nắm toàn bộ sự kiểm soát và trở thành phát thanh viên của người bị gá.
Nó tự bảo đã đạt được diệu quả vô thượng niết-bàn. Khi ma
liền đến gặp người mong cầu biết được cội nguồn sự vật kia, mong tìm biết
được toàn bộ hiểu biết các hiện tượng vật lý về vũ trụ. Nó trải tòa
ngồi thuyết pháp. Thân nó (ma vương) có oai thần, nên hàng phục
được người cầu pháp, người tham cầu nguồn gốc vũ trụ vạn vật. Khiến
cho thính chúng tự nhiên kính phục dù chưa nghe pháp. Tâm họ đã bị hàng
phục rồi và rất kính trọng.
Nó nói bồ-đề, niết-bàn, pháp thân của Phật đều là thân
xác thịt hiện tiền của ma. Nó nói: “Bồ-đề
niết-bàn là gì? Nó ở ngay đây, nơi xác thân thịt của ta.”
Nó nói cha con cùng sinh ra nhau từ đời này đến đời khác chính
là pháp thân thường trụ không mất.
Cha sinh ra con, con lớn lên trở thành cha rồi trở lại sinh
con. Sự tương tục của những thế hệ là thường hằng, là pháp thân thường trụ bất
diệt. Những gì ông thấy được bây giờ chính là cõi Phật. Nơi đây bây giờ chính
là cõi Phật. Chẳng có cõi Tịnh cư riêng biệt nào khác và cũng chẳng có
thân tướng sắc vàng nào cả.
Chẳng có cõi tịnh độ nào để cư trú, hoặc thân sắc vàng nào
khác, những thứ đó đều là giả dối. Từ lời nói, biết rõ đó là đặc trưng của ma,
và đặc trưng của quỷ. Tôi thường dùng từ ma khí để nói về ma. Đây là những gì
gọi là ma khí, là năng lực tiềm tàng của ma do ma gá vào nó, nên mọi người đều
tiếp nhận những gì ma đã giảng nói.
Kinh Văn: Kì nhân tín thọ, vong thất tiên tâm, thân mạng quy
y, đắc vị tằng hữu. Thị đẳng ngu mê hoặc vi bồ-tát. Suy cứu kì tâm, phá Phật
luật nghi, tiềm hành tham dục.
Việt dịch: Người ấy tin vào những điều ma nói, bỏ
mất tín tâm ban đầu, đem hết thân mạng mình quy y với ma, cảm thấy được việc
chưa từng có. Ngu mê tự cho mình là bồ-tát. Theo đuổi ảo tưởng như vậy, nên phá
hủy luật nghi của Phật chế, lén lút làm việc tham dục.
Giảng: Người ấy tin
vào những điều ma nói, bỏ mất tín tâm ban đầu.
Khi nghe ma nói những điều như vậy, hành giả nghĩ rằng: “Nói
quá đúng, cha sinh con, con lớn lên làm cha, trở lại sinh ra con, thế hệ này
tiếp nối thế hệ khác. Đó là pháp thân thường trụ bất diệt, xưa nay vốn như
vậy.” Hành giả hoàn toàn tin điều ấy.
Bỏ mất tín tâm ban đầu, hành giả quên mất chánh tri kiến. Hành
giả tin vào ma mạnh hơn tin vào chánh pháp. Khi thiên ma và ngoại đạo bảo anh
ta phải làm những gì, anh ta không dám trái lời. Khi một vị đạo sư chân chính
dạy anh ta làm việc tốt lành thì anh ta hoang mang giữa nghi ngờ và tin tưởng.
Ma vương quấy nhiễu anh ta bằng năng lực tiềm tàng của ma, cho nên anh ta tin
vào bất kỳ những gì ma nói.
Nếu các ông yêu cầu ma vương giảng kinh này (Kinh
Thủ-lăng-nghiêm), nó sẽ không giảng được. Vì sao, vì ngay khi nó nói thì căn
tướng của nó liền hiển lộ. Đó là lý do tại sao tôi nói ở Mỹ quốc, nếu các ông
yêu cầu người nào tự tuyên bố mình tinh thông Phật học giảng nói bộ kinh này,
thì họ sẽ không giám giảng. Họ sợ bị lộ hình tướng.
Đem hết thân mạng quy y với ma, cảm thấy như được việc chưa
từng có. Hành giả ngu mê, tự cho mình là bồ-tát. Anh ta
thật là đáng thương xót, anh ta nghĩ rằng ma chính là bồ-tát, theo đuổi
ảo tưởng như vậy, nên anh ta thọ giáo với ma và học các pháp thuật. Anh ta
không còn giữ giới luật nữa, thay vì vậy, anh ta phá hủy luật nghi Phật
chế, lén lút làm chuyện dâm dục. Nó bí mật buông thả trong dục lạc mà không
ai biết.
Kinh Văn: Khẩu trung hảo ngôn nhãn nhĩ tỉ thiệt, giai vi tịnh
độ. Nam nữ nhị căn, tức thị bồ-đề niết-bàn chân xứ. Bỉ vô tri giả, tín thị uế
ngôn.
Việt dịch: Ma thường ưa nói: mắt, tai, mũi, lưỡi đều là tịnh
độ; nam căn, nữ căn, đích thật là bồ-đề, niết-bàn. Bọn người vô tri kia
đều tin lời nói dơ bẩn ấy.
Giảng: Loại ma vương này thật
là tệ hại! Ma thường ưa nói: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều là tịnh
độ, các ông chẳng cần phải tìm pháp môn tịnh độ. Ở nơi nào khác. Nó bảo mọi
người: “Pháp môn ấy ngay nơi sáu căn của mình.” Nó cũng nói nam căn, nữ
căn, đích thật là bồ-đề, niết-bàn, là hạt giống
bồ-đề, là chốn bồ-đề, niết-bàn chân thật. Quý vị
có tưởng tượng nổi những lời ấy chăng?
Bọn người vô tri kia đều tin lời nói dơ bẩn ấy.
Những người thiếu tri thức, thiếu trí huệ nghe vậy nói rằng: “Ồ! Trước đây ta
chưa từng nghe hoặc thấy chuyện gì giống như vậy, bồ-đề, niết-bàn chỉ là
như thế.”
Với sự coi thường toàn bộ cuộc đời của mình, họ xem việc phóng
chạy trên con đường đưa đến cõi chết là việc đáng làm nhất trên đời, vì họ đã
tin vào lời nói dơ bẩn ô uế ấy.
Kinh Văn: Thử danh cổ độc, yểm thắng ác quỷ, niên lão thành ma
,não loạn thị nhân. Yểm túc tâm sanh, khứ bỉ nhân thể. Đệ tử dữ sư, câu hãm
vương nạn.
Việt dịch: Đây là giống quỷ cổ độc và quỷ ác
thắng, tuổi già thành ma, quấy rối người tu hành. Đến khi nhàm chán, nó rời
khỏi thân người đã gá vào. Khi ấy cả thầy và trò đều sa vào lưới pháp luật.
Giảng: Đây là giống
quỷ cổ độc và quỷ ác thắng, còn được gọi là
quỷ cưu-bàn-trà, tuổi già thành ma. Nó khuấy phá người tu
hành, người tu tập chánh định. Nhưng đến khi nhàm chán rồi, nó
rời khỏi thân người đã gá vào, nó không gá vào thân người nữa.
Nên đệ tử và thầy đều rơi vào lưới pháp luật. Họ bị chính quyền can
thiệp, hạn chế sinh hoạt, cả thầy và trò bị bắt giữ và tống giam vào tù.
Kinh Văn: Nhữ đương tiên giác, bất nhập luân hồi. Mê hoặc bất
tri, đọa vô gián ngục
Việt dịch: Các ông nên giác ngộ sớm để khỏi bị luân hồi. Nếu
mê lầm không biết, sẽ rơi vào địa ngục vô gián.
Giảng: Các ông nên
giác ngộ sớm để khỏi bị luân hồi. Nếu mê lầm không biết, sẽ rơi vào địa ngục vô
gián.
Các ông nên sớm tỉnh giác, để khỏi rơi vào luân hồi. Đừng rơi
vào cám dỗ của ma vương. Nếu ông mê lầm không biết chắc chắn sẽ rơi vào địa
ngục Vô gián.
5 – THAM CẦU SỰ THẦM CẢM
Kinh Văn: Hựu thiện nam tử, thọ ấm hư diệu. bất tao tà
lự, niên định phát minh, tam-ma-địa trung, tâm ái huyền ứng, chu lưu tinh
nghiên, tham cầu minh cảm.
Việt dịch: Lại nữa thiện nam tử kia, thụ ấm đã hư diệu, không
mắc các tà lự, tính viên định phát minh. Trong tam-ma-địa, tâm ưa thích biết
việc trước sau, soi xét cùng khắp, tham cầu sự thầm cảm.
Giảng: Lại nữa thiện
nam tử kia, thụ ấm đã hư diệu, không mắc các tà lự, tính viên định phát minh.
Lại nữa, trong cảnh giới rỗng suốt vi diệu sau khi thọ
ấm tiêu dung, hành giả, người tu tập chánh định không còn tà lự nữa,
an trú trong chánh định sáng suốt tròn đầy.
Lúc này hành giả không còn bị tà ma ngoại đạo nhiễu hại được
nữa. Trong tam-ma-địa, tâm bỗng dưng mong
cầu được biết các việc trước sau, những việc huyền bí, xảy ra ở những nơi
rất xa. Ví dụ như quý vị đang ở San Francisco và muốn biết những gì đang xảy ra
ở New York. Nếu quý vị có khả năng biết được việc ấy, là quý vị đã đạt được cái
gọi là “huyền ứng ” (biết được các việc bí ẩn từ xa).
Nên soi xét cùng khắp, tham cầu sự thầm cảm. Dồn
hết tâm lực tinh ròng nghiên cứu, tham cầu sự thầm cảm.
Anh ta dồn hết sức nghiên cứu vào vấn đề huyền bí này, mong
cầu có được sự cảm ứng huyền bí. Ví dụ ngay khi anh ta ngồi thiền ở San
Francisco, anh ta có thể thấy rõ ràng những người bà con họ hàng và bạn bè đang
làm việc ở New York, và nghe rõ ràng những gì họ đang nói chuyện. Sau đó anh ta
khám phá ra những gì mình nghe được đểu xảy ra rất chính xác vào thời gian ấy.
Đó là loại huyền ứng mà anh ta muốn chứng đạt được.
Kinh Văn: Nhĩ thời thiên ma, hậu đắc kì tiện, phi tinh phụ
nhân, khẩu thuyết kinh pháp.
Việt dịch: Vào lúc đó thiên ma có được cơ hội thuận tiện, phóng
tinh thần gá vào người khác, dùng miệng người bị gá giảng nói kinh pháp.
Giảng: Vào lúc đó
thiên ma có được cơ hội thuận tiện. Vào lúc ấy thiên ma để ý thấy được
định lực của hành giả sắp được hoàn mãn, nó trở nên ganh tức. Có được cơ hội
thuận tiện nó phái con cháu đến rình chờ sơ hở. Ngay khi nó thấy cơ hội, phóng
tinh thần gá vào người khác, dùng miệng người bị gá giảng nói kinh pháp.
Kinh Văn: Kì nhân nguyên bất giác tri ma trước, diệc ngôn tự
đắc vô thượng niết-bàn. Lai bỉ cầu ứng thiện nam tử xứ, phu tòa thuyết pháp.
Năng linh thính chúng, tạm kiến kì thân, như bách thiên tuế. Tâm sanh ái nhiễm,
bất năng xả li. Thân vi nô bộc, tứ sự cúng dường, bất giác bì lao. Các các linh
kì, tòa hạ nhân tâm, tri thị tiên sư, bổn thiện tri thức, biệt sanh pháp ái,
niêm như giao tất, đắc vị tằng hữu.
Việt dịch: Người ấy vốn không biết mình bị ma nhập, còn nói
mình chứng vô thượng niết-bàn. Ma liền đến nơi người mong cầu huyền
ứng kia, trải tòa thuyết pháp. Trong chốc lát, khiến cho thính chúng
thấy mình hiện thân thành người già trăm ngàn tuổi. Họ sinh lòng ái nhiễm,
không thể rời người ấy. Họ tự thân làm như nô bộc, đem cúng dường cho ma bốn
thứ mà không hề mệt mỏi. Thính chúng ở dưới pháp tòa đều tin rằng người ấy là
vị thầy trong đời trước của mình, phát khởi lòng riêng yêu mến pháp sư, dính
chặt như keo sơn, như được điều chưa từng có.
Giảng: Người ấy vốn không biết mình bị ma nhập, còn
nói mình chứng vô thượng niết-bàn. Ma liền đến nơi người mong cầu
huyền ứng kia, trải tòa thuyết pháp.
Hành giả, người đã bị ma gá vào, trong chốc lát, khiến cho
thính chúng thấy mình hiện thân thành người già trăm ngàn tuổi.
Quý vị nên biết cái cảm quan ấy là nhất thời. Khi một người
trong chúng hội thấy anh ta với đầu tóc bạc phơ của một ông lão trong thân xác
một đứa trẻ con, họ sẽ nghĩ rằng đó là một người tu hành lão luyện, một lão
tỷ-khưu.
Họ sinh lòng ái nhiễm, không thể rời người ấy. Lòng
yêu mến không trong sáng này, sự vướng mắc và nhiễm ô, khi nó đã phát khởi
thành tình yêu, liền có sự vẩn đục. Với sự nhiễm ô, liền đánh mất sự thanh
tịnh.
Tất cả những người đến nghe ma giảng pháp đều muốn theo nó
suốt đêm ngày. Vì sao vậy? Họ đã bị mê hoặc bởi sự thu hút của riêng
chúng. Họ tự thân làm như nô bộc, đem cúng dường cho nó bốn thứ không
hề mệt mỏi.
Bốn thứ cúng dường là: 1. Thức ăn uống, 2. Y phục, 3. Giường
nằm và tọa cụ, 4. Thuốc men, y dược. Họ không bao giờ cảm thấy chán ngán, mệt
mỏi khi cúng dường những vật này cho ma. Có người ngạc nhiên tự hỏi sao lại làm
như vậy? Người chân chính tu hành, một đệ tử đích thực của Phật, sẽ không bao
giờ thân cận và cúng dường như thế này. Đó chỉ là vì thiên ma có một
sức thu hút, quyến rũ riêng khiến mọi người thích thân cận bên nó.
Thính chúng ở dưới pháp
tòa tin rằng người ấy (ma) là vị thầy trong đời trước của mình. Nó
gây nên tình trạng mập mờ đến nỗi mọi người tin rằng người bị ma nhập kia là
thiện tri thức đời trước của họ. Họ nghĩ rằng: “Ông ấy là thầy tôi từ kiếp
trước.”
Họ phát khởi lòng riêng yêu mến vị pháp sư của mình,
dính chặt với vị ấy như keo sơn. Cảm thấy như
được điều chưa từng có. Họ nghĩ rằng: Từ trước đến nay chưa từng được như
vậy.
Kinh Văn: Thị nhân ngu mê, hoặc vi bồ-tát. Thân cận kì tâm phá
Phật luật nghi, tiềm hành tham dục.
Việt dịch: Hành giả mê lầm, cho rằng kẻ kia là bồ-tát.
Bị cuốn hút vào tâm ma, phá hủy luật nghi của Phật chế, lén lút làm chuyện dâm
dục.
Giảng: Hành giả mê
lầm, đến mức cực điểm, cho rằng kẻ kia là người có thể tự
biến hóa được, nên ắt hẳn là một vị Phật hoặc là bồ-tát. Hồ ly tinh và các loại
yêu ma quỷ quái khác đều có thể biến hóa được. Nhưng anh ta không thể suy nghĩ
thấu đáo được rằng người biến hóa tài tình thì không nhất thiết người ấy là
bồ-tát hoặc Phật. Ông đã từng gieo trồng những thiện căn gì không? Mà bây
giờ mong gặp được chư Phật, chư Bồ-tát .
Bị cuốn hút vào tâm ma. Người ấy thân cận với
người bị ma gá vào. Phá hủy luật nghi của Phật chế. Đây là
điểm rất quan trọng. Làm thế nào để ta biết được người ấy là ma? Ta có thể nêu
ra ngay là nó đã phá hủy giới luật Phật chế và lén lút làm chuyện dâm
dục.
Kinh Văn: Khẩu trung hảo ngôn, ngã ư tiền thế, ư mỗ sanh
trung, tiên độ mỗ nhân, đương thời thị ngã, thê thiếp huynh đệ, kim
lai tương độ, dữ nhữ tương tùy, quy mỗ thế giới, cúng dường mỗ Phật. Hoặc ngôn
biệt hữu, đại quang minh thiên, Phật ư trung trụ,nhất thiết Như Lai, sở hưu cư
địa. Bỉ vô tri giả, tín thị hư cuống, di thất bản tâm.
Việt dịch: Ma thích nói rằng: “Ta vào kiếp trước
đã độ người kia, lúc đó là vợ, hoặc là huynh đệ của ta, nên nay lại đến
để độ nhau, ta sẽ cùng các người theo nhau đến cảnh giới kia để cúng dường Đức
Phật nọ.” Hoặc nó nói: “Có cõi trời Đại Quang Minh , nơi đức Phật và các
đức Như Lai đang nghỉ ngơi.” Những người mê muội tin vào lời phỉnh gạt
ấy, đánh mất bản tâm.
Giảng: Bất kỳ lúc nào nó gặp
được người, ma thích nói rằng: “Ta vào kiếp trước đã độ người
kia, lúc đó là vợ, hoặc là huynh đệ của ta, nên nay lại đến để độ nhau
Giống như chuyện của Lưu Kim Đồng mà tôi đã kể
trước đây. Cô ta thường nói với nạn nhân của cô ta rằng: Họ đã từng là con của
cô ta từ đời trước và là chồng của cô ta ở một kiếp khác trong quá khứ. Nay
người ấy lại nói:
“Từ kiếp trước vào đời nọ: Đôi khi vào đời thứ một trăm lẻ một
hay một trăm lẻ hai nào đó.
Ta đã độ người kia, lúc đó là vợ hoặc là huynh đệ của ta. Cứ
nói như thế. Nay ta đến để độ nhau, ta sẽ cùng các người theo nhau không tách
rời. Ta sẽ cùng các người theo nhau đến cõi giới kia để cúng dường Đức
Phật nọ.
Hoặc nó nói: “Có cõi trời Đại Quang Minh , chúng ta sẽ
đến đó.” Thực ra cõi trời mà nó đề cập đến là nơi ma vương đang cư ngụ. Nó
nói: Đó là nơi nơi đức Phật và các đức Như Lai đang nghỉ
ngơi. Đó là nơi Đức Phật đời này, tất cả chư Phật hiện đời mà
ông đang tin kính đều là giả, và các đức Như Lai đang nghỉ ngơi trong đó. Khi
chư Phật đã mệt mỏi vì việc giáo hóa chúng sanh ở thế gian, thì họ trở về cõi trời
Đại Quang Minh để nghỉ ngơi.”
Khi những người mê muội tin vào lời phỉnh gạt ấy,
kết quả là họ đánh mất bản tâm, tín tâm ban đầu của mình.
Kinh Văn: Thử danh lệ quỷ, niên lão thành ma, não loạn thị
nhân. Yếm túc tâm sanh, khứ bỉ nhân thể. Đệ tử dữ sư câu hãm vương nạn.
Việt dịch: Đây là loại lệ quỷ, tuổi già thành ma, khuấy
rối người tu hành. Ðến khi nhàm chán, không gá thân vào người kia nữa. Cả thầy
và trò đều sa vào lưới pháp luật.
Giảng: Đây là một
loại lệ quỷ, sau hơn ba ngàn đến năm ngàn năm, tuổi già
hóa thành ma. Nó khuấy rối, nhiễu loạn người tu
hành, nỗ lực phá hủy định lực của người tu. Nhưng sau một thời gian, khi
nó đã giở hết tất cả các trò chơi lừa phỉnh rồi, và các món chơi không
có gì mới nữa. Nó đã nhàm chán, không gá thân vào người kia nữa. Khi
ấy cả thầy trò đều rơi vào lưới pháp luật.
Một khi thiên ma rời khỏi xác thân người ấy. Nó không còn ma
lực thu hút hấp dẫn nữa, thế nên mọi người bắt đầu nghi ngờ về nó. Cuối cùng nó
bị thưa kiện và tống giam.
Kinh Văn: Nhữ đương tiên giác, bất nhập luân hồi. Mê hoặc bất
tri, đọa vô gián ngục.
Việt dịch: Các ông nên rõ biết trước, để khỏi rơi vào luân
hồi. Nếu mê lầm không biết, sẽ đọa vào địa ngục vô gián.
Giảng: Các ông nên
biết rõ trước những việc này, các ông nên sớm giác ngộ đạo lý
này để khỏi rơi vào vòng luân hồi, đừng rơi vào
lưới cám dỗ của ma. Đừng rơi vào vòng luân hồi sinh tử của ma vương. Nếu
mê lầm không biết đạo lý này, sẽ đọa vào địa ngục vô gián chắc
chắn.
6 – THAM CẦU TĨNH LẶNG
Kinh Văn: Hựu thiện nam tử, thọ ấm hư diệu, bất tao
tà lự, viên định phát minh. Tam-ma-địa trung, tâm ái thâm nhập, khắc
kỉ tân cần, nhạo xứ âm tịch, tham cầu tĩnh mật.
Việt dịch: Lại nữa thiện nam tử kia, thụ ấm đã hư diệu, không
mắc các tà lự, tính viên định phát minh. Trong tam-ma-địa, tâm thích đi vào sự
tinh cần khắc khổ, thích sống nơi vắng vẻ, tham cầu yên lặng.
Giảng: Lại nữa thiện
nam tử kia, thụ ấm đã hư diệu, không mắc các tà lự,
Lại nữa, trong cảnh giới vi diệu rỗng suốt sau khi thọ
ấm tiêu dung, hành giả người tu tập chánh định không còn tà lự
nữa, tính viên định phát minh, an trụ trong định sáng suốt
tròn đầy. Trong tam-ma-địa, tâm phát khởi tham muốn ưa thích
đi sâu vào công phu tinh cần khắc khổ, thích sống nơi vắng vẻ.
Hành giả tự kiềm chế mình rất chặt chẽ và đặt hết sức lực vào
công phu tu tập. Thích sống nơi có nhiều âm khí, ít ánh sáng mặt trời, anh ta
ưa thích những nơi ít người, như hang động hay núi sâu hoặc thung lũng hẻo
lánh, anh ta chọn một nơi để sống ẩn dật. Do vì anh ta quá ham sự tĩnh
lặng, nên ma vương liền đến.
Trong công phu tu tập, không nên quá tham cầu. Đừng nên mong
cầu việc tốt, cũng đừng tham việc chẳng lành, Bình thường tâm thị đạo.
Chủ yếu là giữ cho tâm được bình thường, đừng có móng khởi một tâm niệm nào cả.
Bất luận quý vị tham cầu việc gì, đều là chẳng phải.
Kinh Văn: Nhĩ thời thiên ma, hậu đắc kì tiện. Phi tinh phụ
nhân, khẩu thuyết kinh pháp.
Việt dịch: Khi ấy thiên ma có được cơ hội, phóng tinh thần gá
vào người khác, dùng miệng người đó giảng nói kinh pháp.
Giảng: Trạng thái này cũng
giống như trường hợp trước. Khi ấy thiên ma có được cơ hội, khi
thời cơ thuận tiện đến. Liền phóng tinh thần gá vào thân người khác,
và dùng miệng người ấy giảng nói kinh pháp. Ma sai khiến đồ đệ của
nó gá vào một người khác, rồi khiến người đó đến nơi hành giả đang móng tâm
tham cầu để giảng nói kinh pháp.
Kinh Văn: Kì nhân bổn bất giác tri ma trước, diệc ngôn tự đắc
vô thượng niết-bàn. Lai bỉ cầu âm thiện nam tử xứ, phu tòa thuyết pháp. Linh kì
thính nhân, các tri bản nghiệp. Hoặc ư kì xứ, ngữ nhất nhân ngôn. Nhữ kim vị
tử, dĩ tác súc sanh. Sắc sử nhất nhân, ư hậu đạp vĩ, đốn linh kì
nhân, khởi bất năng đắc. Ư thị nhất chúng, khuynh tâm khâm phục. Hữu nhân khởi
tâm, dĩ tri kì triệu. Phật luật nghi ngoại, trùng gia tinh khổ. Phỉ báng
tỷ-khưu, mạ lị đồ chúng, kiết lộ nhân sự, bất tị cơ hiềm. Khẩu trung hảo ngôn,
vị nhiên họa phúc, cập chí kì thời, hào bị vô thất.
Việt dịch: Người này vốn không biết mình bị ma gá vào,
còn tự tuyên bố mình đã chứng vô thượng niết-bàn. Nó đến bên hành giả
tham cầu tịch tịnh, trải tòa ngồi thuyết pháp. Nó khiến mọi người nghe đều biết
rõ nghiệp đời trước của mình. Hoặc nó bảo với một người ở đó rằng “Ông nay chưa
chết mà đã làm súc sanh.” Rồi bảo người ở phía sau đạp lên đuôi người
phía trước, bỗng nhiên người kia không đứng dậy được. Lúc bấy giờ cả hội chúng
đều hết lòng kính phục. Nếu có người móng khởi tâm niệm nghi ngờ, ma liền biết
ý. Ngoài luật nghi của Phật, nó tinh chuyên khổ hạnh, phỉ báng tỷ-khưu,
mắng chửi đồ chúng, rao lỗi người khác, không ngại chê bai tị hiềm. Miệng
ưa nói họa phước chưa đến, khi việc xảy ra, quả nhiên chẳng sai mảy
may.
Giảng: Người này vốn
không biết mình bị ma gá vào. Anh ta tự tuyên bố như ma vương nói, là mình
đã chứng vô thượng niết-bàn.
Lấy cái gì làm bằng chứng để xét đoán người nào là ma vương? Ở
điểm hầu như phần nhiều là ma rất thích tự khen ngợi mình.
Nó nói “Các ông có biết chăng? Ta vừa chứng được niết-bàn..”
Hay có thể nó nói: “Ta vừa chứng được quả vị đầu tiên của hàng A-la-hán .”
Hay là: “Ta đã được quả vị thứ tư của hàng A-la-hán rồi.” Hoặc ta nay đã thành
một vị bồ-tát, các ông có nhận ra không?”
Ngay khi một người nào tự tuyên bố như vậy, các ông không cần
phải hỏi cũng đã biết người ấy là ma rồi. Đức Phật không bao giờ nói:
“Ta là Phật, hãy nhanh chóng đến đảnh lễ ta. Nếu các ông không
lạy ta, là các ông đã bỏ lỡ một dịp may, vì ta đã là Phật, nên các ông thật đần
độn khi không lạy ta.”
Bất kỳ kẻ nào tự tuyên bố mình là Phật, là Bồ-tát, là
A-la-hán , thì người ấy là ma chứ chẳng phải là gì khác. Quý vị có thể
nhận biết ngay, chẳng cần phải hỏi han gì cả. Đó là lời của ma. Một Đức Phật
không bao giờ tự cho mình là Phật. Một vị bồ-tát hiện thân nơi thế gian
không bao giờ tự xưng mình là bồ-tát. Ngay cả khi có người nào tôn xưng họ là
bồ-tát, họ cũng không thừa nhận điều ấy.
Ngay cả khi nếu người ấy là Phật và có người bảo: “Tôi biết
ngài là Phật.” Họ cũng không công nhận điều ấy. Người đã thật sự giác ngộ không
bao giờ thừa nhận với người khác việc mình đã giác ngộ. Nếu có người nói “Tôi
là người giác ngộ” thì đừng có bận tâm với người ấy, người ấy không xứng đáng
so sánh ngay cả một con vật. Đừng có nghe lời khoác lác và tự đề cao mình như
thế.
Nghe giảng kinh là để tự trang bị cho mình một cái kính chiếu
yêu. Nên một khi yêu, ma, quỷ quái hiện hình, các ông liền biết rõ ngay về nó.
Còn nếu các ông không hiểu rõ Phật pháp, thì sẽ không biết được những gì
nó nói, nên liền bị nó đánh lừa.
Nó đến bên hành giả tham cầu tịch tịnh, trải tòa ngồi thuyết
pháp.
Khi anh ta (người đã bị ma gá) đến bên hành giả tham cầu tịch
tĩnh, nó trải tòa thuyết pháp. (24), (25). Nó khiến cho mọi người nghe
đều biết rõ nghiệp đời trước của mình.
Mọi người đều có cảm giác biết rõ được mình như trong giấc mơ,
mình là gì, là ai trong đời trước. Có người nói: “Trong một kiếp xa xưa, tôi là
con chó giữ nhà.” Có người nói: “Tôi là con mèo.” Có người khác nói: “Tôi là
một con gà.” Người khác nữa lại nói: “Đời trước tôi là một con bò.” Chẳng
có ai là người cả.
Hoặc nó (ma vương) bảo
với một người ở đó rằng: “Ông nay tuy chưa chết, mà đã làm súc sanh.”
Nó muốn nói điều gì? Điều ấy là: “Ông đã là chó trong kiếp trước, nay dù ông
chưa chết ông cũng hóa thành chó lại rồi. Ông không tin tôi sao?” Rồi
bảo một người khác ở phía sau đạp lên đuôi người phía trước.
Nó bảo với mọi người: “Ông ấy không tin những gì tôi nói. Hãy ra sau lưng nó và
dẫm lên cái đuôi của nó xem thử nó đứng dậy được không?”
Rồi nó đạp mạnh chân lên mặt đất và nói nó đang đạp lên đuôi
của người phía trước. Bỗng nhiên người kia không đứng dậy được.
Chắc hẳn các ông sẽ cho rằng người ấy có thần thông thật rồi. Sau khi ma nói
người kia có đuôi, rồi bảo người khác dẫm lên, người kia không đứng
dậy được. Người ấy không còn cách nào khác hơn là phải tin vào nó. “Ông ta bảo
tôi là súc vật, bây giờ thật sự tôi đã có một cái đuôi, nếu không tại sao có
người dẫm lên sau đuôi thì tôi không thể nào đứng dậy được.”
Lúc bấy giờ, cả chúng hội đều hết lòng kính phục.
“Thật là thần diệu!” Họ nói: “Ông ta biết trước người ấy sẽ
hóa thành súc vật ngay khi còn sống. Ông ta chắc phải là một vị Phật hay bồ-tát
sống.” Thật ra họ đã bị ma lừa bịp mà không nhận ra điều ấy. Họ gặp quỷ hay ma
vương mà nhận lầm là bồ-tát. Đó thật là các điên đảo của chúng sanh.
Nếu có người móng khởi tâm niệm nghi ngờ, ma liền biết ý.
Trong chúng hội nếu có người hoài nghi, nghĩ rằng: “Sao lại
như thế được? Thật là không hợp lý.” Ngay khi móng khởi tâm niệm nghi ngờ, ma
liền biết và trả lời: “Thế là các ông không tin ta hay sao?” Những người này
nhìn lại nó một lát rồi nói: “Ồ! Ông ta thật sự là một vị bồ-tát. Tôi không nói
ra những gì tôi nghĩ trong tâm vậy mà ông ta biết rất rõ, ông ta đã bóc trần ra
mọi nghi ngờ của tôi. Thật là kỳ lạ.” Từ đó anh ta không dám tỏ ra bất tín nữa.
Ngoài luật nghi của Phật, nó tinh chuyên khổ hạnh,
Nó nói: “Luật nghi của Phật chưa đủ đối với tôi, tôi sẽ lập
nên một giới luật mới cho các ông. Tôi muốn các ông trở thành những vị Phật
mới, và ta sẽ sáng lập ra một đạo Phật mới. Đạo Phật hiện nay đã quá lỗi thời
và không còn thích hợp nữa. Bây giờ là kỷ nguyên của khoa học, kỷ nguyên hạt
nhân, mọi việc đều phải được hiện đại hóa và phải được cải thiện. Lối suy nghĩ
xưa kia không còn ích lợi nữa. Phật giáo cổ xưa ấy không còn ứng dụng gì được
nữa.”
Đó là cách nó biến đổi đạo Phật. Nó nói rằng mọi người đều có
thể biến thành các bậc tôn túc hoặc là các vị tỷ-khưu, hay thành bất kỳ ai mà
họ muốn.
Nó phỉ báng tỷ-khưu.
Nó nói rằng: Tỷ-khưu à! Tỷ-khưu là gì? Nó đùa bỡn danh
xưng ấy. Nó nói: “Ông gọi người ấy là tỷ-khưu hả? Tôi gọi đó là concá trạnh –
tiếng Trung Hoa, chữ tỷ-khưu và nê thu 泥 鰍 (cá
trạnh) có âm cuối đọc giống nhau.
Nó mắng chửi đồ chúng, rao lỗi người khác,
Nó mạ lỵ mắng nhiếc đồ chúng của nó bất kỳ lúc nào nó thích.
Nó mắng họ rằng: “Các ông là chó, là mèo, các ông là heo, là thỏ…” Đồ chúng
nghe nó mắng nhiếc, chấp nhận những lời sỉ vả ấy vì nghĩ rằng đó là bồ-tát.
“Ông ấy bảo ta là heo, vậy thì ta là heo cũng được, ông ta bảo mình là chó, thì
ta là chó cũng vậy.” Họ không dám cãi lại. Ma vương có một năng lực dữ dội làm
mê hoặc mọi người, khiến mọi người đều tin vào những gì nó nói.
Nó rao lỗi người khác. Thí dụ một người nam
và một người nữ có làm điều gì thiếu lịch sự chút ít, nó liền nói với người phụ
nữ: “Cô đã làm việc ấy với người đàn ông ấy ở chỗ ấy.” Người phụ nữ liền tự
nghĩ: “Làm sao ông ta lại biết được.” Hoặc là nó rao lỗi trước công chúng: “Ở
đây có hai kẻ bất hảo, họ đã làm những việc thiếu đoan chính, những việc nói ra
thật bất tiện, tại nơi đó nơi kia vậy. Hãy hỏi cô ta về việc ấy, cô ta sẽ không
dám chối đâu!” Nó muốn đưa ra điều mà thực sự họ đã làm, nên họ không dám chối.
Nó làm thế để chứng tỏ cho mọi người biết rằng: Nó có thần thông, nó biết cả
mọi việc sắp sửa xảy ra. Nó phơi bày lỗi lầm riêng tư của người khác mà chẳng
ngại cách chê bai hay tỵ hiềm. Nó tiết lộ từng bí mật của cá nhân mà không
sợ bị họ khinh bỉ.
Miệng ưa nói họa phước chưa đến, khi việc xảy ra,
quả nhiên chẳng sai mảy may.
Nó ưa tiên đoán việc họa phước. Nó thích nói những chuyện như:
“Ông nên thận trọng, ngày mai là một ngày xấu cho ông, có người muốn đầu độc
ông, ông phải xem kỹ thức ăn, nếu không sẽ bị chết vì thuốc độc.”
Nó ưa nói trước cả việc tốt và việc xấu. Khi việc ấy xảy ra,
quả nhiên chẳng sai mảy may. Khi sự việc xảy ra, tỏ bày chính xác những gì nó
đã tiên đoán. Đó là lý do vì sao mà mọi người đều tin vào nó. Loại ma vương như
thế khiến người ta dễ tin hơn cả một vị bồ-tát.
Kinh Văn: Thử đại lực quỷ, niên lão thành ma, não loạn thị
nhân. Yếm túc tâm sanh, khứ bỉ nhân thể. Đệ tử dữ sư, đa hãm vương nạn. Nhữ
đương tiên giác, bất nhập luân hồi. Mê hoặc bất tri, đọa vô gián ngục.
Việt dịch: Đây là loại đại lực quỷ, loài ma sống lâu mà
thành, quấy rối người tu hành. Khi nó đã nhàm chán, liền rời khỏi thân người nó
đã gá vào. Khi ấy cả thầy và trò đều sa vào lưới pháp luật. Các ông nên rõ biết
trước những việc này, để khỏi rơi vào vòng luân hồi. Nếu mê lầm không biết, sẽ
đọa vào địa ngục vô gián.
Giảng: Đây là loại đại lực quỷ,
là loài ma sống lâu mà thành. Ma hóa thành quỷ khi về già. Cũng
giống như những người không tu tập, gieo trồng nhân đức thì đến tuổi già sẽ trở
thành tinh quái. Như tôi thường hay nói với quý vị. Người Trung Hoa có câu:
“Già mà không chết thì thành giặc –Lão nhi bất tử thị vi tặc...”
Khi người sống lâu và trải qua nhiều kinh nghiệm, họ thường
làm nhiều chuyện kỳ quái. Cũng thế làm ma lâu năm thì thành quỷ.
Nó khuấy rối người tu hành. Nó ghen tức với công
phu tu tập của người tu hành, ma thích phá hủy định lực của người tu.
Khi nó đã nhàm chán, liền rời khỏi thân người mà nó đã gá vào.
Khi ấy cả thầy và trò đều sa vào lưới pháp luật. Điều
đó cũng tương tự như đọa vào địa ngục. Nên có lời nói:
Mông đổng truyền mông đổng
Nhất truyền lưỡng bất đổng
Sư phụ hạ địa ngục
Đồ đệ vãng lý củng.
Tạm dịch:
Kẻ ngu dạy người ngu
Học rồi càng mờ mịt
Thầy rơi vào địa ngục
Trò nối gót theo sau.
Lời ấy cũng giống như đạo lý trong kinh, do không gặp được bậc
minh sư, đệ tử cũng thuộc hạng độn căn, nên khi thấy thầy vào địa ngục thì mình
cũng theo thầy vào đó luôn. Thầy thấy thế quay lại hỏi: “Ông đến đây làm gì?”
Đệ tử trả lời: “Con thấy thầy vào đây, dĩ nhiên là con phải
theo thầy.”
Thầy bảo: “Ồ! Không nên. Đây không phải là nơi an ổn. Đáng lẽ
ra ông không nên đến đây!
Đệ tử đáp lại:
– Nhưng thầy đã vào trước rồi! Làm sao con lại không theo
thầy. Con đã thọ giáo với thầy, Thầy đi đâu con theo đó.
Thầy nghĩ: “A! Chính ta là người bị đọa vào địa ngục, mang
theo luôn cả đệ tử của ta vào đây. Ta thực là có lỗi với ông. Rất tiếc!”
Các ông nên rõ biết trước những việc này, để khỏi rơi vào vòng
luân hồi. Nếu mê lầm không biết, sẽ đọa vào địa ngục vô gián.
7 – THAM CẦU HIỂU BIẾT
TÚC MẠNG
Kinh Văn: Hựu thiện nam tử, thọ ấm hư diệu, bất tao
tà lự, viên định phát minh. Tam-ma-địa trung, tâm ái tri kiến, cần
khổ nghiên tầm, tham cầu túc mạng.
Việt dịch: Lại nữa thiện nam tử kia, thụ ấm đã hư diệu, không
mắc các tà lự, tính viên định phát minh. Trong tam-ma-địa, tâm thích được thêm
nhiều hiểu biết, siêng năng khổ nhọc truy tìm, mong biết được đời sống trong
kiếp trước.
Giảng: Lại nữa thiện
nam tử kia, thụ ấm đã hư diệu, không mắc các tà lự, tính viên định phát
minh. Trong cảnh giới vi diệu rỗng suốt, sau khi thọ
ấm tiêu dung, hành giả không còn tà lự nữa. An trụ trong định sáng
suốt tròn đầy. Trong tam-ma-địa, tâm ưa thích được thêm nhiều sự hiểu
biết.
Trong định, hành giả ham muốn hiểu biết thêm nhiều vấn đề,
mong có được sự thông hiểu về đời sống trong những kiếp trước. Anh ta dùng hết nỗ
lực để công phu, không sợ khó nhọc.
Nên siêng năng khổ nhọc truy tìm, mong biết được đời sống
trong kiếp trước.
Kinh Văn: Nhĩ thời thiên ma, hậu đắc cầu tiện, phi tinh phụ
nhân, khẩu thuyết kinh pháp. Kì nhân thù bất giác tri ma trước, diệc ngôn tự đắc
vô thượng niết-bàn. Lai bỉ cầu tri thiện nam tử xứ, phu tòa thuyết
pháp.
Việt dịch: Khi ấy thiên ma có được cơ hội thuận tiện,
liền phóng tinh thần gá vào thân người ấy và dùng miệng người đó giảng nói kinh
pháp. Người này không biết mình bị ma gá vào, còn tự tuyên bố mình đã chứng
được vô thượng niết-bàn. Nó đến bên hành giả tham cầu hiểu biết, trải tòa ngồi
thuyết pháp.
Giảng: Khi ấy thiên
ma có được cơ hội thuận tiện, liền phóng tinh thần gá vào thân người khác và
dùng miệng người đó giảng nói kinh pháp. Người này không biết mình
bị ma gá vào. Hoàn toàn không biết rằng thân xác mình đã bị ma chiếm đoạt
sai khiến.
Tự tuyên bố mình đã chứng được vô thượng niết-bàn. Nó đến bên
hành giả tham cầu hiểu biết, trải tòa ngồi thuyết pháp.
Kinh Văn: Thị nhân vô đoan, ư thuyết pháp xứ, đắc đại bảo
châu. Kì ma hoặc thời, hóa vi súc sanh, khẩu hàm kì châu, cập tạp trân
bảo, giản sách phù độc, chư kì dị vật. Tiên thụ bỉ nhân, trước kỳ
thể. Hoặc dụ thính nhân, tàng ư địa hạ. hữu minh nguyệt châu, chiếu diệu kỳ xứ.
Thị chư thính giả, đắc vị tằng hữu. Đa thực dược thảo, bất
xan gia thiện. Hoặc thời nhật xan, nhất ma nhất mạch, kỳ hình phì sung, quỷ lực
trì cố. Phỉ báng tỳ-khưu, mạ lị đồ chúng, bất tị kị hiềm.
Việt dịch: Trong pháp hội, người ấy bỗng dưng như được
viên ngọc to lớn. Có khi ma hóa thành súc vật, miệng ngậm châu báu, thẻ tre bùa
chú và những vật quái dị khác. Trước trên, đến trao cho người ấy rồi sau rồi
mới gá vào thân họ. Hoặc là ma mê hoặc người đến nghe pháp, bằng cách chôn một
vật xuống đất rồi nói rằng: Có một hạt “minh châu” đang tỏa sáng ở nơi đó. Nên
các người nghe đều cảm thấy mình được việc chưa từng có. Ma thường
chỉ ăn các loại dược thảo chứ không dùng thực phẩm có sẵn. Hoặc nó
chỉ dùng ngày một hạt mè, một hạt lúa mạch mà vẫn thấy khỏe mạnh, là nhờ sự duy
trì của ma lực. Nó phỉ báng các tỷ-khưu, mắng chửi đồ chúng, không ngại dùng cả
lời chê bai tị hiềm.
Giảng: Trong pháp
hội, người ấy bỗng dưng như được viên ngọc to lớn, đó có thể là kim
cương hay là viên ngọc như ý.
Có khi ma hóa thành súc vật, miệng ngậm châu báu, thẻ tre bùa
chú và những vật quái dị khác, nói rằng các vị bồ-tát
có thể biến hóa thân mình thành mọi thứ. Miệng con vật mà ma đã hóa thân thành
ngậm châu báu, thẻ tre bùa chú.
Thẻ tre (giản sách ) là những vật để
dùng cho việc ghi chép vào thời cổ đại. Chữ được viết trên một mặt, rồi người
ta tách đôi thẻ tre ra, nên chữ hiện rõ ở trên bề mặt của mỗi thẻ tre. Khi cần
dùng các thẻ tre này đã làm chứng từ, người ta đem ghép hai thẻ lại với nhau
Nếu trùng hợp thì thẻ tre ấy được xem như một chứng từ, nếu hai phần của thẻ
tre đã được ghi chữ không trùng hợp, có nghĩa là không đáng tin.
Phù độc tức bùa chú,
là thứ dùng để hàng phục, bắt giữ yêu ma quỷ quái và con vật mà ma hóa
thân có thể mang những vật quái dị khác. Những thứ này đều kỳ dị, hiếm có và
rất giá trị.
Trước trên, đến trao cho người ấy rồi sau rồi mới gá vào thân
họ.
Hoặc là ma mê hoặc người đến nghe pháp, bằng cách chôn một vật
xuống đất rồi nói rằng: Có một hạt “minh châu” đang tỏa sáng ở nơi đó.
Nó chôn hạt châu xuống đất rồi lừa bịp người đến nghe pháp.
Nói rằng: “Ở dưới này có một viên minh châu, ánh sáng nó giống như mặt trăng
phát ra ánh sáng nơi đây.”
Nên các người nghe đều cảm thấy mình được việc chưa từng có.
Họ thán phục: “Ồ! Người này đúng là chân thực. Ông ta không
thể nào là ma được!”
Đích thị kẻ ấy là ma, mà họ cứ khăng khăng cho là không phải.
Thương thay cho những người đến nghe nó giảng pháp.
Ma thường chỉ ăn các loại dược thảo chứ không dùng
thực phẩm có sẵn.
Nó thường chỉ ăn các loại dược thảo, không dùng
những thực phẩm thông thường. Nó không dùng những thức ăn ngon. Nó dùng nhân
sâm và một số thuốc bổ.
Khi tôi ở Hồng Kông, có gặp một người nói rằng không bao giờ
dùng những thức ăn thông thường. Anh ta làm xác đồng trung gian (medium)
cho những người cầu sống lâu, cầu con trai, cầu tài lộc và những thức khác. Bất
kỳ lúc nào anh ta ở nhà người khác, anh đều thông báo là không ăn những thực
phẩm thông thường. Thế anh ta ăn gì? Anh ta ăn trái óc chó (walnut –
trái hạnh đào). Trong quả óc chó có nhân, chứa rất nhiều chất dầu, rất bổ cho
não, chỉ cần ăn chút ít cũng đủ cho cơ thể hoạt động rồi. Nếu thường
ăn một bát cơm, thì chỉ ăn nửa bát quả óc chó là đủ rồi. Hoặc là nó cũng ăn
nhân hạt thông. Nói tóm lại nó toàn ăn những thứ bổ dưỡng nhất.
Hoặc nó chỉ dùng ngày một hạt mè, một hạt lúa mạch
mà vẫn thấy khỏe mạnh. Còn mập hơn heo nữa. Đó là nhờ sự duy trì của ma
lực. (27)
Nó phỉ báng các tỷ-khưu và mắng chửi đồ chúng, không
ngại dùng lời chê bai và tị hiềm.
Nó chuyên mạ lỵ những Hòa thượng, những người xuất gia. “Người
xuất gia ư? Họ xuất gia để làm gì? Họ chẳng tu hành gì cả, người xuất gia không
tham tiền hay sao? Với họ thì càng nhiều càng tốt!”
Hoặc nó nói: “Tại sao các ông lại tin vào các ông ấy? Họ cũng
chỉ là người, rốt cục các ông thật là đồ khùng.”
Khi có người tin vào các vị tỷ-khưu, nó gọi họ là “đồ khùng”
nó mắng chửi đồ chúng của nó là súc vật. Và những thứ đại loại tệ hại như thế,
nó hoàn toàn không ngại dùng những lời vu cáo.
Kinh Văn: Khẩu trung hảo ngôn, tha phương bảo tạng, thập phương
thánh hiền, tiềm nặc chi xứ. Tùy kỳ hậu giả, vãng vãng kiến hữu, kì dị chi
nhân.
Việt dịch: Nó ưa nói về kho báu ở nơi xa lạ, hoặc nơi ẩn
cư của các bậc Thánh hiền. Những người đi theo nó thường thấy những nhân vật kỳ
lạ.
Giảng: Nó ưa nói về
kho báu ở nơi xứ lạ. Nó thích nói về những chuyện gì? Nó nói: “Ở nơi đó,
nơi kia có vàng, bạc và những loại châu báu, ông có muốn lấy không?” Nó tung
lời đồn đãi như vậy để mê hoặc mọi người, hoặc nó thích nói nơi ẩn cư
của mười phương các vị Thánh hiền. Nó nói với mọi người: “Có chư Phật và
Bồ-tát đang tu hành ở nơi ấy mà ông hoàn toàn không biết được.”
Những người đi theo nó thường thấy những nhân vật kỳ lạ, nó
có thể làm phát ra ánh sáng hoặc hiển bày những đặc điểm rất kỳ lạ.
Kinh Văn: Thử danh sơn lâm, thổ địa thành hoàng, xuyên nhạc
quỷ thần, niên lão thành ma. Hoặc hữu tuyên dâm, phá Phật giới luật, dữ thừa sự
giả, tiềm hành ngũ dục; hoặc hữu tinh tiến, thuần thực thảo mộc, vô định hành
sự, não loạn bỉ nhân. Yếm túc tâm sanh, khứ bỉ nhân thể. Đệ tử dữ sư, đa hãm
vương nạn.
Việt dịch: Đây gọi là một loại ma, hoặc thần núi rừng,
thổ địa, thành hoàng, sông núi, tuổi già thành quỷ. Người bị ma gá vào, tán
thành việc dâm dục, phá hủy giới luật Phật chế. Nó lén lút hành dâm với đệ tử,
hoặc nó lại tinh tấn ăn toàn thảo mộc, hành xử thất thường, quấy rối người tu
hành. Ðến khi chán rồi, không gá vào người nữa. Cả đệ tử và thầy đều rơi vào
lưới pháp luật.
Giảng: Đây là loại sinh vật
gì? Đây là một loại ma, hoặc thần núi rừng, thổ địa, thành hoàng sông
núi, tuổi già sau một thời gian dài thành quỷ. Người
bị ma gá tán thành việc dâm dục, phá hủy giới luật Phật chế. Niệm tưởng dâm
dục khiến nó phá hủy giới luật. Nó lén lút hành dâm với đệ tử,
những người cùng thích năm thứ dục lạc: tài, sắc, danh, thực, thùy.
Hoặc nó lại tinh tấn ăn toàn thảo mộc, hành xử thất thường. Nó
không ngồi thiền hay công phu tu tập gì cả, nó chỉ theo lối tu khổ
hạnh vô ích thôi.
Khuấy rối người tu hành, khiến cho họ không thể
tu đạo được nữa.
Nhưng sau một thời gian khi chán rồi, nó không gá vào
người nữa, cả thầy và trò điều rơi vào lưới pháp luật.
Kinh Văn: Nhữ đương tiên giác, bất nhập luân hồi. Mê hoặc bất
tri, đọa vô gián ngục.
Việt dịch: Các ông nên biết rõ trước việc này, để khỏi rơi vào
vòng luân hồi. Nếu các ông mê lầm không biết, sẽ đọa vào địa ngục vô gián.
Giảng: Các ông nên
biết rõ việc này, để khỏi rơi vào luân hồi.
Tỉnh giác sớm trước tình trạng này để khỏi rơi vào bẩy của ma.
Đừng rơi vào lưới luân hồi sinh tử của ma giăng ra.
Nếu các ông mê lầm không biết, sẽ đọa vào địa ngục vô gián.
8 – THAM CẦU CÓ THẦN LỰC
Kinh Văn: Hựu thiện nam tử, thọ ấm hư diệu, bất tao
tà lự, viên định phát minh. Tam-ma-địa trung, tâm ái thần thông, chủng
chủng biến hóa. Nghiên cứu hóa nguyên, tham thủ thần lực.
Việt dịch: Lại nữa thiện nam tử kia, thụ ấm đã hư diệu, không
mắc các tà lự, tính viên định phát minh. Trong tam-ma-địa, tâm thích thần thông
và các loại biến hóa, nên nghiên cứu căn nguyên các phép ấy, tham cầu có thần
lực.
Giảng: Lại nữa thiện
nam tử kia, thụ ấm đã hư diệu, trong cảnh giới vi diệu, rỗng suốt sau
khi thọ ấm tiêu dung, không mắc các tà lự, tính viên định
phát minh. Trong tam-ma-địa, tâm thích thần thông. Anh ta có một vọng
tưởng khác. Nhất định muốn có được thần thông và các khả năng
biến hóa, để có thể thi thố mười tám loại biến hóa trong không
trung. Anh ta muốn trên thân bắn ra nước, dưới thân phóng ra lửa dưới thân
phóng ra nước, trên thân phóng ra lửa. Anh ta nóng lòng được như các vị
a-la-hán để có thể thi triển mười tám món thần thông này lơ lửng trên không.
Nên nghiên cứu căn nguyên các phép ấy, nghiên
cứu nguồn gốc căn bản của các phép biến hóa, tham cầu có thần lực.
Kinh Văn: Nhĩ thời thiên ma, hậu đắc kì tiện, phi tinh phụ
nhân, khẩu thuyết kinh pháp.
Việt dịch: Lúc ấy thiên ma có được cơ hội thuận tiện, phóng
tinh thần đến gá vào người khác, dùng miệng người ấy giảng nói kinh pháp.
Giảng: Lúc ấy thiên ma được cơ hội thuận tiện, phóng
tinh thần đến gá vào người khác, dùng miệng người ấy giảng nói kinh pháp.
Thiên ma đã từ lâu chờ cơ hội thuận tiện, liền phóng tinh thần
của nó gá vào người khác, rồi sai sử người ấy giảng Kinh pháp.
Kinh Văn: Kì nhân thành bất giác tri ma trước. Diệc ngôn tự
đắc vô thượng niết-bàn. Lai bỉ cầu thông thiện nam tử xứ, phu tòa thuyết pháp.
Thị nhân hoặc phục, thủ chấp hỏa quang, thủ toát kì quang, phân ư sở thính, tứ
chúng đầu thượng, thị chư thính nhân,đỉnh thượng hỏa quang, giai trưởng sổ
xích, diệc vô nhiệt tánh, tằng bất phần thiêu. Hoặc thượng thủy hành, như lí
bình địa, hoặc ư không trung, an tọa bất động, hoặc nhập bình nội, hoặc xử nang
trung, việt dũ thấu viên, tằng vô chướng ngại. Duy ư đao binh, bất đắc tự tại.
Tự ngôn thị Phật, thân trước bạch y, thọ tỉ khưu lễ, phỉ báng thiền luật, mạ lị
đồ chúng, yết lộ nhân sự, bất tị cơ hiềm.
Việt dịch: Người ấy không biết bị ma gá vào, còn tự bảo
mình đã được vô thượng niết-bàn. Nó đến nơi người tham cầu thần thông,
trải tòa ngồi thuyết pháp. Người đó hoặc nắm lửa trên tay, gom lửa lại rồi trải
ra trên đầu tứ chúng đang nghe pháp, lửa trên đầu họ tỏa cao vài thước,
mà họ không thấy nóng hoặc bị đốt cháy. Hoặc nó có thể đi trên nước như đi trên
mặt đất, hoặc có thể ngồi bất động trên không, hoặc có thể đi vào trong bình
hay trong túi xách, hoặc vượt qua cửa sổ, đi qua tường vách mà không ngăn ngại.
Duy chỉ đối với binh đao thì không được tự tại. Nó tự tuyên bố đã
thành Phật, nhưng mặc y phục cư sĩ, để cho tỉ-khưu lễ lạy. Nó hủy báng
thiền định và giới luật, mạ lỵ đệ tử và rao bày lỗi người khác, không
ngại cả cách chê bai và hiềm tỵ.
Giảng: Người ấy không biết bị ma gá vào, còn tự bảo mình
đã chứng được quả vị vi diệu vô thượng niết-bàn. Nó đến nơi hành giả tham cầu
thần thông, trải tòa ngồi thuyết pháp.
Người đó hoặc nắm được lửa trên tay, nắm
lửa trong một bàn tay, gom lửa với tay kia lại rồi rải lửa ra trên đầu
của tứ chúng đang nghe pháp. Nó bỏ lửa trên đầu từng người một trong thính
chúng đến nghe pháp. Lửa trên đầu họ tỏa cao vài thước. Khi bỏ lửa
lên đầu, thì còn nhỏ rồi lửa cao dần dần cho đến vài feet. Mà
họ không thấy nóng hoặc bị đốt cháy, dù họ không dùng bất kỳ vật gì cách ly
với lửa.
Hoặc nó (người bị ma gá) có thể đi trên nước như đi trên mặt
đất, hoặc có thể ngồi bất động trên không. Chẳng có gì giữ cho
anh ta lơ lửng trong không nhưng anh ta có thể ngồi yên trên đó…
Hoặc có thể đi vào trong bình hay trong túi xách, hoặc vượt
qua cửa sổ, đi qua tường vách mà không ngại. Cửa sổ cửa lớn dù bị
đóng, nhưng nó có thể đi qua một cách dễ dàng mà không cần mở mà chẳng vướng
chút chướng ngại nào.
Duy chỉ đối với binh đao (vũ khí) thì không được tự
tại. Nó sợ bị đâm bằng dao hoặc thương kiếm. Đó là vì nó vẫn còn
thân vật chất đang ngăn ngại. Cho dù đã có năm thứ thần thông, nó vẫn sợ bị
thương tích do các loại binh đao gây nên.
Nó tự tuyên bố là đã thành Phật, nhưng
mặc y phục của hàng cư sĩ chứ không mặc y phục của hàng xuất gia.
Để cho các tỉ-khưu lễ lạy. Mặc y phục cư sĩ nhưng
lại nhận sự lễ lạy của các vị tỷ-khưu. Nó hủy báng thiền định và giới
luậtxem đây là loại vô ích và không hợp lý.
Nó mạ lỵ đệ tử và rao bày lỗi của người khác. Nó
phơi trần lỗi lầm riêng tư của người khác. Không ngại cả cách chê bai
và hiềm tỵ.
Kinh Văn: Khẩu trung thường thuyết, thần thông tự tại, hoặc
phục linh nhân, bàng kiến Phật độ. Quỷ lực cảm nhân, phi hữu chân thực.
Tán thán hành dâm, bất hủy thô hạnh. Tương chư ổi tá, dĩ vi truyền pháp.
Việt dịch: Nó thường nói đến thần thông và tự tại, hoặc khiến
cho người khác thấy được cõi Phật. Cõi ấy không thật, chỉ hiện ra do
ma lực để huyễn hoặc người ta. Nó tán thán tham dục, không từ bỏ những việc thô
tục. Làm những hạnh bất tịnh, cho đó là truyền pháp.
Giảng: Nó thường nói
đến các loại khác nhau của thần thông và tự tại, hoặc
khiến cho người khác thấy được cõi Phật trong suốt khắp cả mười phương. Cõi ấy
không thật chỉ hiện ra do ma lực để huyễn hoặc người ta. Thực ra
chính nó không có được năng lực công phu gì cả, điều mà nó tán thán nhất
là tham dục. Nó nói: “Đó thật là điều kỳ diệu nhất, đó là nguồn cội
của bồ-đề và niết-bàn.” Nó không từ bỏ những việc thô tục. Nó
nói: “Chẳng có gì sai trái với việc ấy cả, đừng bận tâm với việc giữ giới làm
gì.”
Làm những hạnh bất tịnh, cho đó là truyền pháp. Nó
sử dụng tất cả những việc bất tịnh, cho đó như là phương tiện để truyền pháp.
Kinh Văn: Thử danh thiên địa, đại lực sơn tinh, hải tinh phong
tinh, hà tinh thổ tinh, nhất thiết thảo mộc, tích kiếp tinh mị. Hoặc phục long
mị, hoặc thọ chung tiên, tái hoạt vi mị. Hoặc tiên kì chung, kế niên ưng tử, kì
hình bất hóa, tha quái sở phụ. Niên lão thành ma, não loạn thị nhân. Yếm túc
tâm sanh, khứ bỉ nhân thể. Đệ tử dữ sư, đa hãm vương nạn.
Việt dịch: Đây gọi là những giống sơn tinh, hải tinh,
phong tinh, hà tinh, thổ tinh, và những loài tinh mị của tất cả cỏ cây đã sống
nhiều kiếp, có sức rất mạnh trong trời đất. Hoặc là loại long mỵ (yêu
quái rồng), hoặc là các vị tiên tuổi thọ đã hết, tái sanh làm yêu quái. Hoặc là
những vị Tiên quả báo đã hết, đáng ra phải chết, nhưng thân thể không bị hủy
hoại, nên loài yêu quái khác đến gá vào. Các loài nầy sống lâu thành quỷ, quấy
nhiễu người tu hành. Khi chán rồi không gá thân người nữa. Cả đệ tử và thầy đều
rơi vào lưới pháp luật.
Giảng: Đây gọi là những giống sơn tinh, hải tinh,
phong tinh, hà tinh, thổ tinh, và những loài tinh mị của tất cả cỏ cây đã sống
nhiều kiếp, có sức rất mạnh trong trời đất. Hoặc là loại long mỵ (yêu
quái rồng), hoặc là các vị tiên tuổi thọ đã hết, tái sanh làm yêu quái, có
khi cả ngàn, hai ngàn, ba ngàn hoặc đến năm ngàn năm tuổi thọ đã hết, tái sanh
làm yêu quái. Hoặc là những vị tiên quả báo đã hết, đáng ra phải chết, nhưng
thân thể của tiên sau khi chết không bị hủy hoại, hay biến
đổi, nên bị loài yêu quái khác đến gá vào.
Các loài này sống lâu thành quỷ, quấy nhiễu định
lực của người tu hành. Cuối cùng khi chán rồi, nó không gá
thân người nữa.
Hễ ma còn gá vào thân, thì người bị gá có một định lực phi
thường. Nhưng một khi nó không gá vào nữa thì cả đệ tử và thầy đều rơi
vào lưới pháp luật.
Kinh Văn: Nhữ đương tiên giác bất nhập luân hồi. Mê hoặc bất
tri đọa vô gián ngục
Việt dịch: Các ông nên biết rõ trước việc này, để khỏi rơi vào
vòng luân hồi. Nếu các ông mê lầm không biết, sẽ đọa vào địa ngục vô gián.
Giảng: A-nan, các ông nên biết rõ trước việc này, để
khỏi rơi vào vòng luân hồi của ma vương. Đừng để mình rơi vào sự cám
dỗ của ma vương.
Nếu các ông mê lầm không biết, sẽ đọa vào địa ngục vô gián.
9 – THAM CẦU SỰ RỖNG
KHÔNG SÂU LẮNG (MA TRẦM KHÔNG)
Kinh Văn: Hựu thiện nam tử, thọ ấm hư diệu,
bất tao tà lự, viên định phát minh. Tam-ma-địa trung, tâm ái nhập
diệt, nghiên cứu hóa tánh, tham cầu thâm không.
Việt dịch: Lại nữa thiện nam tử kia, thụ ấm đã hư diệu, không
mắc các tà lự, tính viên định phát minh. Trong tam-ma-địa, tâm ưa vào nơi tịch
diệt, nghiên cứu tánh biến hóa, mong cầu tánh rỗng không sâu lắng.
Giảng: Lại nữa thiện nam tử kia, thụ ấm đã hư diệu,
không mắc các tà lự, tính viên định phát minh. Trong cảnh giới vi
diệu, rỗng suốt sau khi thọ ấm tiêu dung, hành giả không còn tà lự
nữa. An trụ trong định sáng suốt tròn đầy. Trong tam-ma-địa, tâm ưa vào
nơi tịch diệt, nghiên cứu tánh biến hóa, mong cầu tánh rỗng không sâu lắng.
Hành giả nghiên cứu trạng thái chuyển biến của một vật thể từ
khi hiện hữu đến khi trở thành không, và làm thế nào mà từ không lại chuyển
biến thành có. Hành giả nghiên cứu cách biểu hiện của sự biến hóa này, mong cầu
được trải qua một cảnh giới rỗng không nhiệm mầu.
Kinh Văn: Nhĩ thời thiên ma hậu đắc kì tiện, phi tinh phụ
nhân, khẩu thuyết kinh pháp.
Việt dịch: Lúc ấy thiên ma có cơ hội thuận tiện, liền phóng
tinh thần bay đến gá vào người khác, dùng miệng người ấy giảng nói kinh pháp.
Giảng: Lúc ấy thiên
ma có cơ hội thuận tiện, thiên ma trông chờ khi nó thấy được cơ hội thuận
tiện liền phóng tinh thần bay đến gá vào người khác, dùng miệng người
ấy giảng nói kinh pháp.
Ma giảng pháp bằng miệng của người mà nó đã gá vào.
Kinh Văn: Kì nhân chung bất giác tri ma trước, diệc ngôn tự
đắc vô thượng niết-bàn. Lai bỉ cầu không thiện nam tử xứ, phu tòa thuyết pháp.
Ư đại chúng nội, kì hình hốt không, chúng vô sở kiến, hoàn tùng hư
không, đột nhiên nhi xuất, tồn một tự tại. Hoặc hiện kì thân, đỗng như lưu
li, hoặc thuỳ thủ túc, tác chiên đàn khí, hoặc đại tiểu tiện, như hậu thạch
mật. Phỉ huỷ giới luật, khinh tiện xuất
gia.
Việt dịch: Người ấy thật không biết bị ma gá vào, còn tự
tuyên bố mình được vô thượng niết-bàn. Nó đến nơi người tham cầu không tịch,
trải tòa ngồi thuyết pháp. Ở trong đại chúng, thân hình nó bỗng dưng biến thành
không, chẳng ai thấy được, rồi từ hư không bỗng dưng nó lại hiện ra, khi còn,
khi mất một cách tự tại. Hoặc hiện thân trong suốt như ngọc lưu ly, khi
duỗi tay chân, thơm mùi hương chiên đàn. Hoặc đại tiểu tiện ra chất cứng như
đường phèn. Nó phỉ báng, huỷ phạm giới luật, khinh thường các vị xuất gia.
Giảng: Người ấy thật
không biết bị ma gá vào, còn tự tuyên bố mình được vô thượng niết-bàn. Nó
đến nơi người tham cầu không tịch, đến nơi hành giả tham
cầu thần thông, trải tòa ngồi thuyết pháp.
Ở trong đại chúng, thân hình nó bỗng dưng biến thành không,
chẳng ai thấy được.
Ma lực làm cho thân thể người bị gá đột nhiên biến mất. Nó
đang ngồi nói pháp ở đó bỗng dưng không còn ai thấy nó nữa. Đây là một dạng “nhân
không, pháp không.” Người và pháp đều không. Rồi từ hư
không bỗng dưng nó lại hiện ra, khi còn, khi mất một cách tự tại.
Rồi một vài phút sau, từ ma lực làm cho thân thể của người bị
gá đột nhiên biến mất. Nó đang ngồi nói pháp ở đó, bỗng dưng nó lại hiện ra.
Khi hiện ra, khi biến mất tùy ý muốn. Nếu nó muốn hiện ra thì nó hiện, nếu muốn
biến mất thì nó biến. Nó đều tự điều khiển theo ý của nó.
Hoặc hiện thân trong suốt như ngọc lưu ly, pha
lê đến nỗi các ông có thể nhìn suốt qua thân thể của nó. Khi duỗi tay
chân ra thơm mùi hương chiên đàn. Hoặc đại tiểu tiện ra chất cứng
như đường phèn. Nó phỉ báng giới luật. Nó nói: “Đừng bận tâm với việc giữ
giới luật. Đó là việc của hàng tiểu thừa, các ông cần gì phải giữ nó. Giới luật
chẳng có gì quan trọng cả.”
Khinh thường các vị xuất gia. Nó nói: “Không cần
phải xuất gia. Nếu muốn tu hành, thì cứ việc tu, cần gì phải xuất gia mới tu được?
Có gì khác nhau giữa cư sĩ với người xuất gia nào?” Đó là cách nó khinh tiện
giới xuất gia.
Kinh Văn: Khẩu trung thường thuyết vô nhân vô quả. Nhất tử
vĩnh diệt, vô phục hậu thân, cập chư phàm thánh, tuy đắc không tịch, tiềm hành
tham dục. Thọ kì dục giả, diệc đắc không tâm, bát vô nhân quả.
Việt dịch: Nó thường nói không có nhân quả. Khi chết là hoàn
toàn mất hẳn. Chẳng có đời sau, chẳng có thánh phàm, dù các vị ấy đã được
không tịch, nhưng vẫn lén lút làm chuyện dâm dục. Người cùng nó làm chuyện dâm
dục cũng được tâm rỗng không và bài bác nhân quả.
Giảng: Nó thường nói
không có nhân quả “Đừng tin vào luật nhân quả.” Nó nói: “Chuyện ấy
hoàn toàn sai lầm, chẳng bao giờ có việc ấy.” Nó nói: Khi chết là hoàn
toàn mất hẳn. Một khi đã chết đi là mình vĩnh viễn không trở lại,
giống như ngọn đèn đã hoàn toàn tắt ngấm.”
Nó nói: Chẳng có đời sau, chẳng có người phàm kẻ thánh.
Bất quá chỉ là những lời nói mà thôi. Mặc dù các vị ấy đã
được không tịch, nhưng vẫn lén lút làm chuyện dâm dục mặc dù đã chứng
được vài nguyên lý về không, họ vẫn lén lút hành dâm. Người
cùng nó làm chuyện dâm dục cũng được tâm rỗng không và bài bác nhân quả. Nó
có cảm tưởng không cần phải tin vào luật nhân quả nữa.
Kinh Văn: Thử danh nhật nguyệt, bạc thực tinh khí, kim ngọc
chi thảo, lân phượng quy hạc. Kinh thiên vạn niên, bất tử vi linh, xuất sanh
quốc độ, niên lão thành ma, não loạn thị nhân. Yếm túc tâm sanh, khứ bỉ nhân
thể. Đệ tử dữ sư, đa hãm vương nạn.
Việt dịch: Đây là tinh khí do nhật thực, nguyệt thực tụ vào
các loại vàng ngọc, các loại nấm quý hiếm, kỳ lân, phụng hoàng, rùa hạc.
Tinh khí ấy giúp cho các sinh vật đó sống hàng ngàn, hàng vạn năm không chết,
rốt cuộc thành tinh linh, sinh ra nơi cõi nước này, tuổi già thành ma, phá rối
người tu hành. Đến khi chán rồi, không gá vào người nữa, cả thầy trò đều rơi
vào lưới pháp luật.
Giảng: Đây là tinh
khí do nhật thực, nguyệt thực tụ vào các loại vàng ngọc, các loại nấm quý
hiếm, kỳ lân, phụng hoàng, rùa hạc.
Đây là loại quỷ gì? Đây
là những giống quỷ được tạo nên từ tinh khí do nhật thực, nguyệt thực. Khi có
sự giao hòa giữa mặt trăng, mặt trời, đó gọi là hiện tượng nhật thực, nguyệt
thực. Có luồng tinh khí tỏa khắp mặt đất tụ vào các loại vàng ngọc, và một vài
loại nấm quý hiếm, loại kỳ lân, phụng hoàng, rùa hạc. Tinh khí ấy giúp
cho các sinh vật đó sống hàng ngàn, hàng vạn năm không chết, rốt cuộc thành
tinh linh, sinh ra nơi cõi nước này, tuổi già thành quỷ. Nó phá rối
người tu hành, người đang tu tập chánh định. Nhưng cuối cùng đến
khi chán rồi, không gá vào người nữa, nó chấm dứt không gá vào người nữa. Cả
thầy trò đều rơi vào lưới pháp luật. Nó sẽ bị pháp luật truy tố.
Kinh Văn: Nhữ đương tiên giác, bất nhập luân hồi. Mê hoặc bất
tri, đọa vô gián ngục.
Việt dịch: Các ông nên biết rõ trước việc này, để khỏi rơi vào
vòng luân hồi. Nếu các ông mê lầm không biết sẽ đọa vào địa ngục vô gián.
Giảng: Các ông nên
biết rõ trước việc này, để khỏi rơi vào vòng luân hồi của ma
vương. Nếu các ông mê lầm không biết. Nếu các ông không giác
ngộ lẽ này, sẽ bị đọa vào địa ngục vô gián.
10 – THAM CẦU SỐNG LÂU
Kinh Văn: Hựu thiện nam tử, thọ ấm hư diệu, bất tao tà
lự, viên định phát minh. Tam-ma-địa trung, tâm ái trường thọ, tân khổ
nghiên cơ, tham cầu vĩnh diệt, khí phân đoạn sanh. Đốn hi biến dị, tế tướng
thường trụ.
Việt dịch: Lại nữa thiện nam tử kia, thụ ấm đã hư diệu, không
mắc các tà lự, tính viên định phát minh. Trong tam-ma-địa, tâm ưa sống lâu, khổ
nhọc nghiên cứu tinh vi, mong cầu được bất tử, thoát khỏi sự sống chết nơi thân
xác (phần đoạn sanh tử ). Nôn nóng tham cầu tướng vi tế biến dịch sinh tử,
mong được thường trụ lâu dài trong ấy.
Giảng: Lại nữa thiện
nam tử kia, thụ ấm đã hư diệu, không mắc các tà lự, tính viên định phát
minh. Trong cảnh giới vi diệu, rỗng suốt sau khi thọ
ấm tiêu dung.
Bây giờ thọ ấm đã trở nên rỗng suốt và vi diệu,
hành giả, người tu tập chánh định, không còn tà lự nữa. An trụ trong định sáng
suốt tròn đầy. Trong tam-ma-địa, vi diệu viên mãn, có một sự đột
biến chợt xảy ra. Việc gì vậy? Tâm ưa sống lâu. Đột nhiên hành giả
suy nghĩ” Sẽ kỳ diệu làm sao nếu được sống mãi mãi không chết.”
Nên khổ nhọc nghiên cứu tinh vi, mong cầu được bất
tử. Nên hành giả khổ nhọc , tinh chuyên nghiên cứu tinh tế những phép
bí mật và vi diệu nhất, để nong cầu được bất tử, anh ta muốn trẻ mãi không già.
Thoát khỏi và từ bỏ sự sống chết (phần đoạn sanh tử ) nơi
thân xác.
Nghĩa của từng chữ “phần đoạn sanh tử ” có liên
quan đến sự sống chết của riêng từng người. Mỗi người có một phần, và mỗi người
có riêng một đoạn. Nghĩa của chữ phần là gì? Các ông có thân
tôi cũng có thân. Các ông là người tôi cũng là người. Các ông có phần của các
ông và tôi cũng có phần của riêng tôi. Đoạn là gì? Là thời
gian sống, là khoảng cách thời gian từ khi sống đến khi chết.Đoạn cũng
có nghĩa là tầm vóc của thân thể, từ đầu đến chân.
Nôn nóng tham cầu tướng vi tế biến dịch sinh tử.
Kẻ phàm phu phải trải qua phần đoạn sanh tử . Còn các vị
đã chứng được bốn quả vị a-la-hán thì không còn trải qua trạng thái này nữa.
Nhưng vẫn còn phải trải qua tình trạng “biến dịch sanh tử .” Nghĩa
là từng niệm, từng niệm đổi dời, nghĩa là trải qua sự sống chết trong từng
niệm. Thay đổi trong từng niệm nên gọi là biến dịch. Đó gọi là biến
dịch sanh tử vậy. Điều này liên quan đến sự tương tục không ngừng của
tâm niệm. Niệm niệm tương tục là niệm này vừa sanh khởi thì niệm kia liền tàn
hoại như trong một dòng chảy vô tận. Khi hành giả không còn bị phần
đoạn sanh tử nữa, đột nhiên anh ta mong cầu đạt được biến dịch
sanh tử .
Để được thường trụ mãi trong tướng vi tế ấy. Đó là
một dạng rất tinh tế và vi diệu. Thường trú mãi mãi trong ấy có nghĩa là đạt
được đời sống vĩnh cửu.
Kinh Văn: Nhĩ thời thiên ma, hậu đắc kì tiện. Phi tinh phụ
nhân khẩu thuyết kinh pháp.
Việt dịch: Lúc ấy thiên ma có được cơ hội thuận tiện, phóng
tinh thần bay đến gá vào người khác, dùng miệng người ấy giảng nói kinh pháp.
Giảng: Ngay khi hành giả ấp ủ
ảo tưởng tham cầu đời sống vĩnh cửu.
Lúc ấy, thiên ma có được cơ hội thuận tiện, phóng tinh thần
bay đến gá vào người khác. Thiên ma liền sai
một số trong đồ đệ của chúng đến gá vào một người khác, dùng miệng
người ấy giảng nói kinh pháp cho hành giả đang tu tập chánh định nghe.
Kinh Văn: Kì nhân cánh bất giác tri ma trước, diệc ngôn tự đắc
vô thượng niết-bàn. Lai bỉ cầu sanh thiện nam tử xứ, phu tòa thuyết pháp. Hảo
ngôn tha phương, vãng hoàn vô trệ, hoặc kinh vạn lí, thuấn tức tái lai. Giai ư
bỉ phương, thủ đắc kì vật. Hoặc ư nhất xứ, tại nhất trạch trung, xúc bộ chi
gian, linh kì tòng đông, nghệ chí tây bích, thị nhân cấp hành, luy niên bất
đáo. Nhân thử tâm tín, nghi Phật hiện tiền.
Việt dịch: Người này thật không biết bị ma gá, còn tự tuyên bố
đã chứng được vô thượng niết-bàn. Nó đến bên người tham cầu sống lâu,
trải tòa ngồi thuyết pháp. Nó thích khoe việc có thể đi lại mọi nơi, rồi
trở về mà không ngăn ngại, có thể dạo chơi ngàn dặm rồi trở về trong chớp mắt.
Nó có thể lấy đem về những đồ vật từ những nơi nó đã đến. Hoặc nó có thể bảo
một người đi từ phía đông sang phía tây của một căn phòng trong khoảng cách
chỉ cần đi vài bước, thế mà người ấy có đi hết năm cũng không đến được.
Do đó mọi người đều tin lời người bị ma gá, lầm cho đó là Phật.
Giảng: Do tâm của người
này hoàn toàn bị chế ngự bởi thiên ma nên chính anh ta thật
không biết bị ma gá, còn tự tuyên bố đã chứng được quả vị vi diệu vô thượng
niết-bàn. Nó đến bên hành giả tham cầu sống lâu, trải tòa ngồi thuyết pháp.
Nó thích khoe việc có thể đi lại mọi nơi, rồi trở về mà
không ngăn ngại. Ma thích nói những gì?
Nó nói: “Trong khoảnh khắc rất ngắn, tôi có thể đến một nơi nào đó cách xa cả
ngàn vạn dặm rồi trở về ngay lập tức. Tôi có thể qua Nhật Bản mà không cần đi
máy bay, và mua hàng hóa về. Nếu ông không tin, tôi sẽ biểu diễn cho các ông
xem.”
Nó luôn biểu diễn thần thông cho người xem. Nó thích được mọi
người nhìn thấy những kỳ tích không thể nghĩ bàn mà nó biểu diễn. Nó nói: “Ta
có thể đi lại tùy ý chỉ trong vòng chớp mắt.”
Nó có thể dạo chơi ngàn dặm rồi trở về trong chớp mắt. Nó
nói: “Ta có thể đi về trong khoảng ông hít vào thở ra thôi.”
Nó có thể lấy đem về những đồ vật từ những nơi nó đã đến.
Không chỉ như thế, nó có thể lấy về những đồ vật từ
những nơi nó đã đến. Nó có thể mua hàng hóa đem về rồi hỏi: “Các ông không tin
tôi hay sao? Hãy nhìn những món hàng này, tôi đã mua nó từ công ty… Ở Nhật Bản,
đó là loại hàng mẫu đặc biệt, chỉ dành riêng bán cho khách quen…” Rồi nó đưa ra
cho mọi người cái máy cassette hoặc radio do Nhật chế tạo, không qua thuế hải
quan hay thuế nhập khẩu, mà thực sự được chế tạo ở một công ty của Nhật Bản.
Hoặc nó có thể bảo một người đi từ phía Ðông sang phía Tây của
một căn phòng trong khoảng cách chỉ cần đi vài bước (có
thể đi chừng bảy tám bước chân). Thế mà dù người ấy có đi hết năm cũng
không thể hết được. Nó không thể dàn trải khoảng không gian của sàn nhà đến
mức tối đa bằng thời gian một năm. Thấy nó biểu diễn như vậy. Do đó mọi
người đều tin lời người bị ma gá, lầm cho đó là Đức Phật.
Họ nghĩ: “Ồ đó là một Đức Phật đến để giảng pháp cho chúng ta
nghe.”
Kinh Văn: Khẩu trung thường thuyết, thập phương chúng
sanh, giai thị ngô tử. Ngã sanh chư Phật, ngã xuất thế giới, ngã thị
nguyên Phật, xuất sanh tự nhiên, bất nhân tu đắc.
Việt dịch: Nó thường nói: Chúng sanh trong mười phương
đều là con của ta. Ta sinh ra chư Phật, ta tạo ra thế giới. Ta là Phật đầu
tiên, ta tạo dựng thế giới này một cách ngẫu nhiên, không do tu mà thành.
Giảng: Nó thường nói:
Các ông biết không? Chúng sanh trong mười phương đều là con của ta, ta
sinh ra chư Phật. Nó huênh hoang không biết xấu hổ nói rằng nó sinh ra chư
Phật.
Ta tạo ra thế giới, ta là Phật đầu tiên. Ta
là Phật trước nhất không có Phật nào trước ta cả. Ta tạo ra thế giới này một
cách ngẫu nhiên. Không do tu mà thành. Ta tạo nên thế giới này một cách
tự nhiên, không do tu mà thành, và ta đã là Phật khi đến
thế giới này. Ta chẳng cần phải tu tập mới trở thành Phật.”
Kinh Văn: Thử danh trụ thế tự tại thiên ma, sử kì quyến thuộc,
như giá- văn-trà cập Tứ thiên vương, Tì xá đồng tử, vị phát tâm giả, lợi kì hư
minh, thực bỉ tinh khí. Hoặc bất nhân sư, kì tu hành nhân, thân tự quan kiến,
xưng chấp kim cương, dữ nhữ trường mệnh. Hiện mĩ nữ thân, thạnh hành tham dục.
Vị du niên tuế, can não khô kiệt, khẩu kiêm độc ngôn, thính nhược
yêu mị. Tiền nhân vị tường, đa hãm vương nạn. Vị cập ngộ hình, tiên
dĩ càn tử. Não loạn bỉ nhân, dĩ chí tồ vẫn.
Việt dịch: Đây gọi là Trụ thế tự tại
thiên ma, khiến loại quyến thuộc chưa phát tâm như giá-văn-trà, hay
Tỳ-xá đồng tử ở cõi Tứ thiên vương, thích hư minh, đến ăn tinh khí của
người tu hành. Hoặc không nương nơi thầy (người bị ma gá vào) mà chính hành giả
thấy, bọn đó tự xưng là thần Chấp kim cang đến cho sống
lâu. Hoặc bọn đó biến thành phụ nữ xinh đẹp, cùng hành giả cuồng nhiệt làm việc
dâm dục. Nên chưa đầy một năm, gan não hành giả khô kiệt, miệng lẩm nhẩm một
mình, nghe như tiếng của loài yêu mỵ. Người ngoài chưa rõ nguyên nhân, nên phần
nhiều người bị như thế đều rơi vào pháp luật. Chưa kịp chịu hình
phạt, đã bị chết khô. Ma quấy phá người tu, cho đến phải chết.
Giảng: Đây gọi là Trụ
thế tự tại thiên ma, khiến loại quyến thuộc chưa phát tâm như
giá-văn-trà
Giá-văn-trà (s: chamunda ), nghĩa là “lệ
quỷ : quỷ nô lệ.” Là loại ma quỷ làm việc như nô lệ. Nó
cũng có nghĩa Tật đố quỷ, là loại quỷ luôn luôn ghen tức với
mọi điều tốt lành mà mọi người khác đạt được. Nó luôn tìm cách ngáng trở mọi
người muốn học Phật pháp. Nếu có người nào muốn trở thành người lương thiện thì
nó lôi kéo họ trở về phía xấu ác. Đó là một loại ác ma. Thiên ma ở cõi trời Trụ
thế tự tại sai loại ma này đến để quấy phá công phu tu tập chánh định của
người tu hành. Hoặc là nó sai loài Tỳ-xá đồng tử từ cõi
trời Tứ thiên vương.
Quỷ Tỳ-xá-giá đặc biệt rất thích ăn tinh khí.
Nó ăn tinh khí của thảo mộc, thực vật và ăn của người được thì càng tốt. Khi
nam nữ giao hợp làm chuyện dâm dục, có một loại tinh khí tiết ra, nó sẽ ăn thứ
tinh khí này. Có rất nhiều loại quỷ chờ đợi bên cạnh để ăn thứ tinh khí này nên
rất nguy hiểm.
Thích hư minh, đến ăn tinh khí của người tu hành.
Lợi dụng hư minh của người kia, đến ăn tinh khí của người tu
hành. Những loài quỷ này chưa phát tâm (có nghĩa là bị Thiên ma sai khiến). Như
loại quỷ Tỳ-xá-giá và những loại khác, thích lợi dụng hư minh
của người tu hành. Nó thích ăn tinh khí của người tu hành, nhưng hành giả vẫn
không biết điều ấy.
Hoặc không nương nơi thầy (người bị ma gá vào) mà chính hành
giả thấy, bọn đó tự xưng là thần Chấp kim cang đến cho sống
lâu.
Hoặc không nhờ nơi thầy (người bị ma gá vào), mà hành giả thấy
có người tự xưng: “Ta là thần Chấp kim cang (thần Hộ pháp), đến ban cho ông
được sống lâu.” Nào bây giờ ta đến để ban cho ông được sống trường thọ, ông sẽ
được sống vĩnh viễn.
Hoặc bọn đó biến thành phụ nữ xinh đẹp, cùng hành giả cuồng
nhiệt làm việc dâm dục.
Hoặc sau khi nói xong người ấy biến thành phụ nữ xinh đẹp,
cùng hành giả cuồng nhiệt làm việc dâm dục. Có nghĩa là cả hai thường xuyên làm
việc ấy không dừng nghỉ.
Nên chưa đầy một năm, gan não hành giả khô kiệt. miệng lẩm
nhẩm một mình, nghe như tiếng của loài yêu mỵ.
Nên trong một năm sinh lực cạn kiệt bởi sự tham dâm vô độ ấy.
Sinh lực, tinh khí thần chưa đầy một năm đã bị khô kiệt. Bởi vì thái quá. Chữ
quan trọng nhất là “mãnh hành.” Từ này khó diễn tả bằng sự kiện thông
thường. Có điều chắc chắn là người đàn bà nói rằng: “Ông càng say đắm trong
tình dục thì ông càng được sống lâu, ông sẽ sớm đạt được cuộc sống vĩnh cửu.”
Bằng sự tham cầu có được mạng sống vô tận, nó không nhận ra mạng sống của mình
đang bị vắt kiệt, rút ngắn dần từng phút. Trải qua chưa đầy một năm là mạng
sống kết thúc.
Miệng lẩm nhẩm một mình. Lúc ấy
miệng nó lẩm nhẩm một mình. Thực ra không phải nó nói chuyện với chính nó mà
nói chuyện với ma. Nghe tiếng như của loài yêu mỵ. Nó nói chuyện
với ma nhưng người ở xung quanh không thấy ma.
Trước đây tôi cũng đã gặp loài ma này. Có lần tôi gặp một
người đàn ông. Ông ta được người phụ nữ đến thăm vào mỗi đêm. Cô ta không bao
giờ đến thăm lúc ban ngày. Nhưng nếu mỗi tối cô ta đến, mọi người trong căn hộ
đều nghe tiếng lạch cạch từ đôi guốc của cô ta gõ xuống sàn gỗ. Họ nghe thấy
tiếng nó đi, nhưng không thấy được hình. Bất kỳ khi nào người phụ nữ đến, thì
anh ta cởi áo quần rồi bò lóp ngóp lên giường. Anh ta làm việc ấy chẳng cần
biết có người xung quanh hay không. Đó là một ví dụ về loài ma này.
Sau đó một vị thần linh lâu năm ở vùng ấy nhập vào một xác
đồng chữa bệnh đến đó để trừ yểm con ma nữ ấy. Đêm đó, khi ma nữ đến, nó được
nói chuyện với vị thần ấy. Ma nói: “Tốt! Ông muốn chữa trị cho người đàn ông
này? Được rồi, từ nay ông ấy sẽ khỏi. Nhưng từ đây, tôi sẽ đến chỗ ông. Ta sẽ
thi đấu pháp thuật với nhau.”
Sau đó quả là nó đến tìm vị thần, nó không đến với người đã
cùng nó làm chuyện bất chính suốt từ sáng đến tối nữa.
Tôi đã nói với quý vị nhiều lần là loại ma quỷ này rất lợi
hại.
Người ngoài chưa rõ nguyên nhân, nên phần nhiều người bị
như thế đều rơi vào pháp luật. Chưa kịp chịu hình phạt, đã bị chết khô.
Ma quấy phá người tu, cho đến phải chết.
Người ngoài không hiểu được những gì xảy ra. Họ hoàn toàn
không biết được tình trạng này. Trong mọi trường hợp, những người như thế đều
bị rơi vào pháp luật. Hành động ấy của ma sẽ bị pháp luật bắt giữ.
Nhưng trước khi nó chịu hình phạt. Trước khi nó bị đem ra xét
xử, nó bị chết khô. Trong khi bị giam ở lao ngục nó chết vì toàn thể tinh khí
thần của nó bị khô kiệt. Ma khuấy phá mê hoặc người tu cho đến khi chết. Nó đã
phá hủy định lực của người tu hành cho đến khi người ấy chết khô.
Kinh Văn: Nhữ đương tiên giác, bất nhập luân hồi. Mê hoặc bất
tri, đọa vô gián ngục.
Việt dịch: Các ông nên biết rõ tình trạng này, để khỏi rơi vào
vòng luân hồi. Nếu các ông mê lầm không biết, sẽ đọa vào địa ngục vô gián.
Giảng: A-nan, các ông
nên biết rõ tình trạng này, hiểu rõ tường tận tình trạng này để
khỏi rơi vào vòng luân hồi. Nếu các ông nhận biết rõ trạng thái ma sự này,
thì các ông sẽ tránh được bẫy của thiên ma. Các ông khỏi phải làm quyến thuộc
nhà ma nhưng nếu các ông mê lầm không biết sẽ đọa vào địa ngục vô gián.
Dù có chút mảy may ân huệ được làm người cũng bị mất hẳn.
LỜI KHUYÊN RĂN CỦA ĐỨC
THẾ TÔN TỔNG KẾT VỀ TƯỞNG ẤM
Kinh Văn: A-nan đương tri, thị thập chủng ma, ư mạt thế thời,
tại ngã pháp trung, xuất gia tu đạo, hoặc phụ nhân thể, hoặc tự hiện hình. Giai
ngôn dĩ thành chánh biến tri giác.
Việt dịch: A-nan nên biết, trong thời mạt pháp mười thứ ma ấy,
hoặc xuất gia tu tập theo giáo pháp của Như Lai, hoặc chúng gá vào thân người,
hoặc tự biến thành nhiều dạng khác nhau. Chúng đều tự xưng đã thành bậc chánh
biến tri.
Giảng: A-nan nên biết,
đặc biệt trong thời mạt pháp mười thứ ma ấy. Những thứ xuất
hiện trong mười cảnh giới ma liên quan đến tưởng ấm , hoặc xuất
gia tu tập trong giáo pháp của Như Lai, hoặc chúng gá vào thân
người. Ma vương có thể gá vào thân người khác hoặc tự biến thành
nhiều dạng khác nhau. Nó có thể biểu diễn thần thông như ma vương và hiện
ra đủ loại hình dạng. Nó có thể hiện ra Phật, Bồ-tát, A-la-hán hoặc
người ở cõi trời. Ma vương có thể hiện ra bất kỳ hình dạng nào.
Chúng đều tự xưng đã thành bậc chánh biến tri. Chánh biến tri
là một trong mười danh hiệu của Đức Phật. Đức Phật là người có đầy đủ chánh
tri và biến tri. Chánh tri nghĩa là biết
rằng tâm bao hàm vạn pháp và biến tri nghĩa
là biết rằng vạn pháp đều chỉ là tâm. Khi mọi người có
được sự hiểu biết chân chánh đích thực như thế, thì người ấy sẽ được thành
Phật, thành một bậc Chánh biến tri.
Thiên ma ngụy tạo cho mình là Phật, và giả tạo tuyên bố đã đạt
được Chánh biến tri . Khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni sắp
nhập niết-bàn, Ngài triệu tập các ma vương lại và dạy: “Các ông từ ngay bây giờ
phải an trú trong giới luật, chớ nên hủy phạm.”
Ma vương đáp lời: “Thế Ngài muốn chúng tôi thực hành theo giới
luật ngài chế ra. Được thôi! Đến thời mạt pháp tôi sẽ đắp y của ngài, ăn thực
phẩm của ngài rồi đại tiện vào trong bình bát của ngài.”
Lời nói đó có nghĩa là chúng nó sẽ hủy phạm giáo pháp từ ngay
bên trong.
Khi Đức Phật nghe như thế, Đức Phật bảo: “Thế thì chẳng còn
cách nào cứu giúp được cho các ông, phương cách hành xử của các ông quá độc ác
và tàn hại.”
Nên nói rằng: “Trùng trong thân sư tử ăn thịt sư tử.” Có nghĩa
là trong thời mạt pháp, ma thì mạnh và pháp thì yếu. Do vậy, người tu hành phải
rất cẩn trọng. Ma vương giống như loại gì? Thông thường nó khác hẳn với mọi
người. Nó có ma khí bên trong, có một số hiện tượng khác thường nó biểu hiện ở
bên ngoài, để chứng tỏ nó là ma vương.
Kinh Văn: Tán thán dâm dục, phá Phật luật nghi. Tiên ác
ma sư, dữ ma đệ tử, dâm dâm tương truyền. Như thị tà tinh, mị kì tâm phủ, cận
tắc cửu sanh, đa du bách thế. Linh chân tu hành, tổng vi ma quyến.
Việt dịch: Chúng nó khen ngợi dâm dục, phá luật nghi của Phật
chế. Thầy trò ma truyền dạy nhau về dâm dục. Tinh thần tà vạy như thế, mê hoặc
tâm ý người tu hành, trải qua ít nhất chín đời, nhiều thì cả trăm thế hệ. Khiến
kẻ chân tu đều rơi vào quyến thuộc của ma.
Giảng: Chúng nó khen
ngợi dâm dục.
Bằng cách nào mà ta có thể kết luận người đó là ma? Đó là: ma
thì không bao giờ tán thán phương pháp tu hành chân chánh. Nó tán dương dâm
dục, và công khai tuyên truyền việc dâm dục.
Phá hủy luật nghi Phật chế.
Nó nói: “Giới luật của Phật thật là vô dụng, đừng giữ làm gì.
Giới luật ấy chỉ để cho hàng đệ tử Tiểu thừa thực hành mà thôi. Còn
chúng ta là hàng Bồ-tát Đại thừa nên chẳng cần giữ gìn làm gì!”
Thầy trò ma, đệ tử của ma vương, truyền dạy nhau việc dâm dục. Họ
thực tập việc dâm dục với nhau và khen ngợi việc ấy. Nói rằng: “Đó là pháp môn
vi diệu, tuyệt vời nhất. Lý chân không diệu hữu đều ở ngay trong đó.”
Tinh thần tà vạy như thế, đó là tán dương dâm
dục. Mê hoặc tâm ý người tu hành. Do vì tâm ý của người tu hành đã
bị tà ma gá vào mê hoặc rồi, họ đắm mình trong dâm dục và công khai tán dương.
Họ làm tất cả chuyện ấy vì ma đã chiếm đoạt làm chủ toàn bộ tâm ý.
Trải qua ít nhất chín đời, nhiều thì cả trăm thế hệ. Khiến kẻ
chân tu đều rơi vào quyến thuộc của ma.
Ít nhất là trải qua chín đời. Đời có nghĩa là sao? Có phải là
khoảng thời gian sống của một người, từ khi sinh ra đến khi chết đi không?
Không phải, mà còn hơn thế nữa. Đó là một thời gian khoảng một trăm năm. Do vậy
chín đời là chín trăm năm, và nhiều nhất là trải qua một trăm thế hệ. Một thế
hệ là ba mươi năm, một trăm thế hệ là ba ngàn năm. Người tu hành chân chính bị
lạc vào quyến thuộc ma vương ít nhất là chín đời (chín trăm năm), lâu nhất là
một trăm thế hệ (ba ngàn năm).
Kinh Văn: Mệnh chung chi hậu, tất vi ma dân. Thất chánh biến
tri, đọa vô gián ngục.
Việt dịch: Sau khi chấm dứt mạng sống, ắt phải đọa làm dân của
ma. Đánh mất chánh biến tri, và đọa vào địa ngục vô gián.
Giảng: Sau khi chấm
dứt mạng sống. Khi đã mãn phần, bất kỳ khoảng thời gian nào đó trong chín
đời đến một trăm thế hệ, người tu hành bị chết đi, ắt phải đọa làm dân
của ma. Người ấy không thể làm ma vương, nó chỉ có thể làm
một ma dân xoàng xĩnh, một công dân bình thường trong đám dân ma.
Đánh mất chánh biến tri. Nó bị mất chánh tri
kiến, chỉ còn lại tà tri, tà kiến, nó sẽ chấp hành theo việc ma
vương sai sử. Và cuối cùng nó sẽ bị đọa vào địa ngục vô gián. Sau
khi nó hưởng hết phước làm ma, mạng sống của ma dân chấm dứt, nó sẽ bị đọa vào
địa ngục vô gián.
Kinh Văn: Nhữ kim vị tu, tiên thủ tịch diệt, túng đắc vô học.
Lưu nguyện nhập bỉ mạt pháp chi trung, khởi đại từ bi, cứu độ chánh tâm thâm
tín chúng sanh. Linh bất trước ma, đắc chánh tri kiến. Ngã kim độ nhữ dĩ xuất
sanh tử. Nhữ tuân Phật ngữ, danh báo Phật ân.
Việt dịch: A-nan, ông nay chưa nên vội vào niết-bàn, dù ông đã
đạt được quả vị vô học. Hãy lưu giữ lời nguyện đi vào cõi đời mạt pháp
kia, phát lòng đại bi cứu độ các chúng sanh có lòng tin chân chánh sâu xa,
khiến cho họ không mắc vào tà ma, giúp cho họ có được chánh tri kiến. Nay Như
Lai đã giúp ông thoát ra khỏi sinh tử. Nay ông vâng lời Phật dạy, đó gọi là báo
ơn Phật.
Giảng: A-nan, ông nay
chưa nên vội vào niết-bàn, chưa nên nhập niết-bàn sớm. Hãy thay Như Lai, ở
lại cõi ta-bà này mà giáo hóa chúng sanh.
Mặc dù ông đã đạt được quả vị vô học. Hãy
lưu giữ lời nguyện đi vào cõi đời mạt pháp kia. Dù nay ông đã đạt được quả
vị vô học (Lúc ấy A-nan đã chứng được quả vị thứ nhì của hàng
a-la-hán, chưa chính thức đạt được quả vị vô học. Tuy vậy, con
đường công phu tu tập dẫn đến việc chứng ngộ của A-nan rất sáng sủa, thế nên
ngài được xem như người đã đạt được quả vị ấy).
Đức Phật dạy: Ông nên nhớ lấy lời nguyện đại từ bi, khi thời
kỳ chánh pháp đã qua, thời tượng pháp không
còn nữa, thời mạt pháp sẽ đến. Lúc ấy hãy phát lòng
đại từ bi cứu độ các chúng sanh có lòng tin chân chánh sâu
xa, . A-nan, ông hãy phát tâm đại từ đại bi cứu độ tất cả chúng sanh
có lòng tin chân chánh ở trong thời mạt pháp.
Khiến họ không mắc vào tà ma. Hãy cứu độ chúng sanh,
khiến họ phát khởi niềm tin vào nơi ông, để họ khỏi bị mê hoặc bởi ma vương,
khiến họ không theo ma vương, dùng phương tiện của ma nhiễu hại chúng sanh nữa.
Giúp họ, những chúng sanh trong
thời mạt pháp có được chánh tri kiến. Có nghĩa là ông và tôi,
và những chúng sanh ngay bây giờ chớ không ai khác. Quý vị nên nhắc nhở thức
tỉnh lấy mình, tự mình phải có chánh tri kiến.
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại dạy:
Này A-nan, Như Lai đã giúp ông ra khỏi sanh tử. Ông đã
chấm dứt được sanh tử luân hồi, ông đã chứng được quả vị thứ hai của hàng
a-la-hán, và ông đã biết được con đường đi đến quả vị thứ tư. Vì thế qua kết
quả công phu tu hành của ông, có thể nói rằng ông sẽ vượt qua sanh tử.
Nay ông vâng lời Phật dạy, đó gọi là báo ơn Phật.
Bây giờ quý vị hãy lắng nghe lời Phật dạy, hãy thực hành những
gì Phật dạy và đừng quên. Bằng cách tôn trọng và vâng lời Phật dạy, thì quý vị
mới có thể đền đáp ân sâu của chư Phật.
Báo đáp ân Phật nghĩa là gì? Nếu chúng ta tôn trọng thực hành
lời Phật dạy, thì đó là báo ân Phật. Nếu chúng ta muốn đền đáp ân Phật, ta phải
vâng lời đức Phật đã dạy. A-nan muốn báo ơn Phật ngài cũng phải theo lời dạy
của Đức Phật. Chúng ta nên vâng làm theo lời Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cũng như
các vị pháp sư đã dạy ta học tập kinh điển và đạo lý. Đó là lý do từ đầu tôi
yêu cầu quý vị phải tin thuận làm theo lời Phật dạy. Tôi không phải là Đức
Phật, nên tôi cũng vâng lời Đức Phật dạy. Bất cứ việc gì chúng ta cũng không
nên quên lời Đức Phật dạy.
Kinh Văn: A-nan như thị, thập chủng thiền na hiện cảnh, giai
thị tưởng ấm, dụng tâm giao hỗ, cố hiện tư sự.
Việt dịch: A-nan, mười cảnh giới hiện ra trong thiền định như
thế, đều do tưởng ấm và tâm dụng công giao xen.
Giảng: A-nan, mười
cảnh giới được giải thích nó chỉ hiện ra trong khi
hành giả tu tập thiền định. Khi nỗ lực hết sức, dụng công để đạt
đến mục tiêu. Những cảnh giới này hiện ra từ đâu? Nó xảy ra đều do
tưởng ấm và tâm dụng công giao xen, do dụng
tâm tu quán phối hợp tạo nên.
Đó là những sự biến đổi xảy ra trong lúc tiêu trừ tưởng
ấm , như là kết quả của sự nỗ lực dụng công đến cực điểm. Khi quý vị dụng
công tu tập đến mức tối đa, trạng thái như thế này sẽ phát sinh. Nhưng khi nó
phát khởi, thì đừng dại nhận giặc làm con, đừng bị mê lầm bởi những cảnh giới
này. Khi các ông ngồi thiền, sự nỗ lực dụng công quán chiếu giao xen
với tưởng ấm, tạo nên một bãi chiến trường, như trong một cuộc chiến tranh. Nếu
định lực của ông mạnh hơn, thì tưởng ấm sẽ bị chinh phục. Nhưng nếu tưởng ấm
thắng, công phu định lực của ông yếu hơn và thất tán, thì hành giả sẽ bị rơi
vào cảnh giới của ma, và mười cảnh giới này sẽ xuất hiện.
Kinh Văn: Chúng sanh ngoan mê, bất tự thốn lượng, phùng thử
nhân duyên, mê bất tự thức, vị ngôn đăng thánh, đại vọng ngữ thành,
đọa vô gián ngục.
Việt dịch: Chúng sinh ngu mê, không biết lượng sức mình, gặp
nhân duyên đó, mê không tự biết, còn nói đã chứng thánh, thành tội đại vọng
ngữ, phải đọa vào địa ngục vô gián.
Giảng: Chúng sinh ngu
mê, không biết tự lượng sức mình. Chúng sinh thường có tâm chấp
trước. Họ rất ngoan cố, không biết uyển chuyển, nhu nhuyến mà lại ngu si, thiếu
trí huệ, không tự mình suy tính được việc gì chân chánh cả.
Gặp nhân duyên đó,mê không tự biết. Khi
gặp ma cảnh như thế, không đủ sức sáng suốt thẩm định. Điều quan trọng nhất là
nếu các ông thẩm định được trạng thái đang xảy ra, thì các ông không bị
ma chuyển. Nếu các ông sáng suốt nhận thức rõ ràng về nó, thì các ông sẽ không
bị nhầm lẫn. Nếu các ông không nhận ra, thì sẽ bị mê lầm. Mê lầm là do không
nhận thức minh bạch. Và điều gì sẽ xảy ra khi hành giả không hiểu rõ cảnh giới
này.
Nói đã chứng thánh. Nó nói những lời như:
“Các ông có biết tôi không? Tôi đã thành Phật rồi, và tôi sẽ kể cho các ông
nghe. Đối với tôi thành Phật quá dễ, còn rẻ hơn cả một tấm đậu phụ.”
Thật là quá dễ phải không? Dễ nên những người như thế thường
nói rằng họ đã thành Phật, họ đã chứng đạo, họ đã giác ngộ, họ đã tham được
thoại đầu và hiểu được những thoại đầu ấy.
Chẳng hạn như có người Mỹ vừa đến đây vào hôm nay, anh ta là
một loại như “Lục Tổ của nước Mỹ” đã đến cách đây vài hôm. Anh ta không lạy Phật,
không nghe pháp. Chỉ ăn trưa rồi đi. Lý do anh ta đi là vì ma kéo đi. Trong
người anh ta có quá nhiều ma khí đến nỗi anh ta cảm thấy bất tiện khi phải lưu
lại đây dù chỉ thêm một phút sau khi ăn trưa. Quý vị nên có nhận
định rõ ràng, tổng quát về người bị ma gá. Phong cách của nó biểu hiện qua suy
nghĩ nó đã thành Phật, nên chẳng cần lạy Phật nữa.
Thành tội đại vọng ngữ, sẽ rơi vào địa ngục vô gián.
Trong tương lai, chắc chắn nó sẽ rơi vào địa ngục vô gián.
Đừng có trông mong một khoảnh khắc tạm thời ngưng nghỉ. Ít nhất cũng là chín
đời, dài nhất là một trăm thế. Không nghe theo phật Pháp là vì ma lực đã chiếm
đoạt no rồi. Dù nó muốn nghe, thì thân tâm nó vẫn thấy rất khó chịu, khiến nó
không thể ngồi yên.
Trước đây tôi đã kể cho quý vị nghe chuyện này, quý vị nên hết
sức lưu tâm. Khi quý vị đến chùa hoặc Niệm Phật Ðường nào, quý vị cũng phải
tuân theo Thiền môn quy củ nơi đạo tràng ấy. Hãy làm theo những gì mọi người
đang làm. Đừng đứng khi mọi người đang lạy Phật. Những người hành xử như thế sẽ
không bao giờ học được Phật Pháp. Khi học Phật pháp, quý vị phải hết sức khiêm
tốn, cung kính và chân thành.
Kinh Văn: Nhữ đẳng tất tu, tương Như Lai ngữ, ư ngã diệt hậu,
truyền thị mạt pháp, biến linh chúng sanh, khai ngộ tư nghĩa. Vô linh thiên ma
đắc kì phương tiện. Bảo trì phúc hộ, thành vô thượng đạo.
Việt dịch: Vào thời mạt pháp, sau khi Như Lai nhập niết-bàn,
các ông cần phải đem lời dạy của Như Lai chỉ bày cho chúng sinh,
khiến cho họ được tỏ ngộ nghĩa đó. Đừng để cho thiên ma có dịp quấy phá. Phải
giữ gìn, che chở cho chúng sanh thành đạo vô thượng.
Giảng: Vào thời mạt
pháp, sau khi Như Lai nhập niết-bàn, các ông cần phải đem lời dạy của Như Lai
chỉ bày cho chúng sanh.
Các ông, là A-nan và các vị Đại
bồ-tát, các vị Đại tỷ-khưu trong hội chúng cùng các vị Đại Trưởng lão.
Đây là lời khuyến tấn của Đức Phật. “Các ông phải truyền dạy giáo pháp của Như
Lai liên tục cho đến thời mạt pháp. Khiến cho họ được tỏ ngộ nghĩa đó.
Dạy cho họ hiểu được Kinh Thủ-lăng-nghiêm. Dạy cho họ về Năm mươi loại
ấm ma. Về từng tướng trạng ma trong Sắc ấm , Thọ ấm, Tưởng ấm,
Hành ấm, Thức ấm mà tôi đã giảng giải cho ông. Hãy hết lòng truyền bá
giáo lý này cho chúng sanh được hiểu.
Đừng để cho thiên ma có dịp quấy phá. Nếu
các ông cứ để cho ma muốn làm gì tùy ý thì các ông sẽ bị phiền nhiễu.
Giữ gìn che chở, hộ trì Phật
pháp, giúp cho chúng sanh được thành đạo vô thượng.
HÀNH ẤM
TRẠNG THÁI TÂM LÝ TRƯỚC
KHI VÀO CẢNH GIỚI HÀNH ẤM
Kinh Văn: A-nan bỉ thiện nam tử, tu tam-ma-đề, tưởng ấm tận
giả, thị nhân bình thường, mộng tưởng tiêu diệt, ngộ mị hằng nhất. Giác
minh hư tĩnh, do như tình không, vô phục thô trọng, tiền trần ảnh sự.
Quán chư thế gian, đại địa hà sơn, như cảnh giám minh, lai vô sở niêm, quá vô
tung tích, hư thọ chiếu ứng, liễu võng trần tập, duy nhất tinh chân.
Việt dịch: A-nan, thiện nam tử kia,
tu pháp tam-ma-đề, tưởng ấm đã tiêu dung, mộng tưởng bình thường
cũng hết hẳn, ngủ thức đồng một thể. Tính giác minh rỗng lặng như hư không,
không còn những tướng tiền trần thô trọng. Xem mọi hiện tượng trong thế gian
như sông núi đất liền, như lòng gương sáng, ảnh hiện không dính mắc, đi không
lưu lại dấu vết, thong dong phản chiếu sự vật, sạch hết tập khí cũ, thuần nhất
chân tánh tinh anh.
Giảng: A-nan, thiện nam tử kia, tu pháp tam-ma-đề.
Thiện nam tử nào đề cập ở đây? Chính là người đang nỗ lực trong
công phu “hướng tánh nghe vào bên trong để nhận ra tự tánh của mình – phản
văn văn tự tánh ,” là người đang tu tập Thủ-lăng-nghiêm đại định, và
chính xác ai là người này? Đơn giản là bất kỳ người nào đang tu tập chánh định.
Thiện nam tử ở đây là không chỉ đề cập đến một cá nhân riêng biệt
nào, cũng không phải là một danh xưng độc nhất. Nếu quý vị là người đang tu
hành, thì tên gọi đó là dành cho quý vị. Nếu tôi là người đang tu hành thì danh
hiệu đó dành cho tôi. Nếu cô ấy, ông ấy đang tu tập, thì nó dành cho cô ấy, bà
ấy. Mọi người đều có thể nhận lấy tên gọi ấy. Đó là, các ông đều có tên gọi đó
nếu tự xét mình là người có công phu tu tập. Còn nếu không tu tập thì ngược
lại. Việc đó hoàn toàn hợp lý. Đó là người đang tu pháp tam-ma-đề.
Tu có nghĩa là siêng năng tọa thiền, không ăn nhiều bữa trong
ngày, chủ yếu là tọa thiền, nghe giảng kinh, học Phật pháp. Tu tập điều gì? Đó
là tu tập định lực. Tu tập định lực là sao? Chủ yếu là ở tọa thiền. Định lực
phát sanh do việc trì giới, khi chúng ta đã thọ giới rồi, thì phải giữ giới cho
tinh nghiêm, đừng bao giờ vướng vào việc dâm dục. Nam giới phải theo quy củ
phép tắc của nam. Nữ phải giữ phép tắc quy củ của nữ. Như Quan Công, một danh
tướng thời Tam Quốc. Ông ta trung thành với vợ mình suốt đời, ông ta không bao
giờ đến gần người đàn bà khác. Các ông có thấy khuôn mặt đỏ của ông ta không?
Nó chứng tỏ chất chính khí, hào hiệp nơi ông. Bây giờ quý vị đã thọ giới, tôi
muốn nói với quý vị là phải giữ lòng trung thành với ý trung nhân của mình.
Đừng có vướng mắc vào sự ham muốn nhiều vợ, nhiều chồng rồi tìm kiếm bạn tình
khắp nơi. Đừng nên hủy phạm giới luật, nên tuân thủ mọi quy củ, hành xử một
cách quang minh chính đại, chỉ có cách ấy mới đạt được định lực. Sau
khi thọ giới quý vị mới nên tu định, tu định rồi sẽ đạt được định lực, có định
lực thì có được năng lực trí huệ.
Tại sao người ta bị ma gá? Nếu định lực của quý vị yếu và năng
lực trí huệ không sung mãn, thì quý vị sẽ gặp ma chướng. Nếu công phu thiền
định của quý vị chín muồi, quý vị sẽ chinh phục được ma quỷ.
Tưởng ấm đã tiêu dung.
Trong số năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Tưởng ấm đã bị
tiêu trừ. Hành giả dụng tâm muốn giao hỗ với tưởng ấm mà anh ta vừa
chinh phục nó, khi đã vượt qua được tưởng ấm.
Mộng tưởng bình thường cũng hết hẳn.
Trong trạng thái này, hành giả vẫn ngủ, vẫn ăn nhưng không còn
mơ nữa.
Khổng Tử có lần nói:
“Than ôi! Ta suy yếu rồi! Từ lâu ta không còn mộng thấy Chu
Công .”
Chu Công là người bảo hộ cho Thành Vương vào
đời nhà Chu. Tại sao Khổng Tử không còn mộng nữa? Có lẽ đến lúc
ấy Khổng Tử đã một phần vượt qua tưởng ấm rồi, tuy nhiên, do ông ta
không biết được điều này, nên ông ta ngạc nhiên.
“Này, sao ta không còn mộng nữa? Ồ, ta đã già rồi!”
Khổng Tử đã có chút ít trong công phu tu tập, có
thể ông ta đã tiêu trừ được tưởng ấm , mà không hề biết gì về việc ấy. Ông
ta không hiểu nên ông ta đoán rằng do ông ta đã già yếu nên không còn mộng nữa.
Một khi tưởng ấm tiêu dung thì ngủ không còn mộng nữa.
Ngủ thức đồng một thể.
Nếu quý vị có đọc văn học cổ điển Trung Hoa, quý vị có thể
liên hệ đến câu chuyện nhan đề “Trịnh Bá Khắc đoạn ư Yên.” Xưa Trịnh
Vũ Công cưới vợ là Thần Vu Giáp , gọi là Vũ Khương. Sinh ra được hai người
con: Trang Công và Cung Thúc Đoạn . Trang Công được sinh ra khi
mẹ là bà Vũ Khương đang ngủ. Khi bà mẹ thức dậy, đã sinh Trang Công xong rồi.
Trang Công được gọi là “Ngụ sinh.”
Trạng thái thức ngủ như nhau có nghĩa là: Khi ngủ cũng như thể
là thức. Hành giả lúc thức cũng tỉnh táo vì anh ta không điên đảo, và ngủ cũng
không có mộng. Khi các ông vượt qua được tưởng ấm , các ông có thể xa rời
được những điên đảo, xa rời mộng tưởng và đạt được cảnh giới niết-bàn. Nếu các
ông chưa tiêu dung được tưởng ấm, thì cái điên đảo này khó mà tiêu trừ được.
Các ông nên lưu tâm đến điều này.
Trong việc học Phật pháp của chúng ta, ngũ ấm được
đề cập trong Kinh Thủ-lăng-nghiêm rất là quan trọng. Hơn thế nữa, các ông nên
học cách mở sáu nút. Nếu các ông không biết những nút này, thì không bao giờ mở
được và không bao giờ được tự tại. Nếu mở được sẽ có tự do.
Tính giác minh rỗng lặng như hư không, không còn những tướng
tiền trần thô trọng.
Đến điểm này hành giả có thể ngủ hay thức tùy ý, nhưng theo
anh ta, hai trạng thái ấy hoàn toàn giống nhau. Loại trạng thái ấy là gì? Hành
giả thực sự ngủ rất ít, anh ta chỉ cần phục hồi sinh lực bằng cách
chợp mắt một lát. Không như những người ngủ từ sáng đến tối và ngủ từ tối đến
sáng. Lý do họ ngủ không bao giờ thấy đủ, là vì họ chưa vượt qua
được tưởng ấm . Anh ta thường hay ngủ lơ mơ một chút, khi anh ta vượt
qua tưởng ấm được rồi, anh ta trở nên rất lanh lợi và sáng suốt, thức
và ngủ trở nên là một đối với anh ta. Điều này không có gì xa lạ, nếu quý vị
nói chuyện khi anh ta đang ngủ, anh ta cũng nghe được hết. Đó là một trạng thái
vi diệu, đừng cho rằng có thể mạ lỵ anh ta khi đang ngủ, vì anh ta biết được
những gì các ông đang nói. Anh ta chỉ không để cho quý vị biết được những gì
anh ta biết. Thật là cảnh giới kỳ diệu, một số chư thiên không ăn cũng không
ngủ mà luôn thấy lanh lợi và tỉnh táo.
Tâm giác ngộ sáng suốt rỗng lặng như hư không. Như lời trong
bài kệ:
“Vạn lý vô vân vạn lý thiên”
(Muôn dặm không mây, muôn dặm trời).
Trên bầu trời trong vắt, ánh sáng mặt trời tỏa lan đến cả ngàn
dặm chung quanh. Trong trạng thái này tâm hành giả không còn những bóng dáng
của tiền trần thô trọng. Tất cả bóng dáng bên ngoài của tiền trần đều bị tiêu
mất.
Xem mọi hiện tượng trong thế gian như sông núi đất liền, như
lòng gương sáng, ảnh hiện không dính mắc, đi không lưu lại dấu vết,
Cảm nhận về mọi hiện tượng trong thế gian này như là tấm gương
sáng. Trong đó phản chiếu tất cả sự vật, gương trở lại tướng không khi ảnh
không chiếu soi nữa, nó không để lại dấu vết gì cả. Bất luận cảnh giới gì hiện
ra, hành giả cũng không dính mắc vào nó, khi cảnh giới ấy đi qua thì chẳng còn
dấu vết gì lưu lại. Khi ra đi nó đi một cách đơn giản, nên trong Kinh Kim Cương
nói:
“Quá khứ tâm bất khả đắc. Hiện tại tâm bất khả đắc. Vị lai tâm
bất khả đắc.”
Tâm quá khứ không thể nắm bắt được. Tâm hiện tại không thể nắm
bắt được. Tâm vị lai không thể nắm bắt được. Ba cảnh giới ấy đều không thể nắm
bắt được. Đó là lý do tại sao khi cảnh đến chẳng có gì dính mắc, khi di chẳng
lưu lại dấu vết gì.
Thong dong phản chiếu sự vật, sạch hết tập khí cũ. Hành
giả sạch hết tập khí cũ như xấu xa, ác độc phá hoại. Hãy quan sát tập khí xấu
của một số người. Có người chỉ thích nói về những chuyện xấu xa,
điên rồ. Đó là tập khí hôi thối (xú tập khí). Có người chỉ thích nói những
chuyện hèn hạ, bỉ ổi. Đó là tập khí phá hoại. Có người thường rất cống cao ngã
mạn. Tóm lại, chúng ta có rất nhiều tập khí xấu, nhưng hành giả ấy đã từ bỏ tất
cả những tập khí cũ ấy.
Thuần nhất chân tánh tinh anh.
Chỉ còn lại tánh chân thật tinh anh. Đó là thức thứ tám. Đến
đây sáu thức trước và thức thứ bảy đã tiêu mất, bây giờ chỉ còn thức
thứ tám, và nó sẽ chuyển thành Đại viên cảnh trí như chư Phật. Bây
giờ hành giả đã đạt được mức độ này rồi (thức thứ tám) chớ chưa chuyển qua Đại
viên cảnh trí được. Đó là ý nghĩa chỉ còn lại thuần nhất chân tánh tinh anh.
PHẠM VI HÀNH ẤM
Kinh Văn: Sanh diệt căn nguyên, tòng thử phi lộ, kiến chư thập
phương, thập nhị chúng sanh, tất đàn kì loại. Tuy vị thông kì, các mệnh do tự,
kiến đồng sanh cơ, do như dã mã , tập tập thanh nhiễu , vi
phù căn trần, cứu cánh xu huyệt. Thử tắc danh vi, hành ấm khu vũ.
Việt dịch: Căn nguyên của sinh diệt
từ đó lộ ra, thấy được mười hai loại chúng sanh trong khắp mười phương, rõ hết
các loài. Dù chưa thông suốt manh mối của mỗi loại, nhưng đã thấy chúng có
chung một cơ sở sinh diệt, giống như sóng nắng chớp nhoáng bập bềnh, làm điểm
then chốt để phát sinh các phù căn trần. Đây gọi là phạm vi của hành
ấm
Giảng: Căn nguyên của sinh diệt từ đó lộ ra. Từ
đâylộ bày rõ ra nguồn gốc của sự sinh diệt.
Điều này liên quan đến nguồn gốc của sự sinh ra và chết đi. Nó
nằm trong loại động tướng vi tế của thức thứ bảy và thức thứ sáu. Lúc này,
tưởng ấm đã tiêu dung, hành giả đạt đến hành ấm . Do vậy, nguồn
gốc của sự sanh diệt mới được hiển lộ.
Hành giả thấy được toàn thể mười hai loại chúng sanh
trong khắp mười phương.
Hiểu được một cách tường tận mỗi thứ trong mười hai loại chúng
sanh, bao gồm các loài sinh từ trứng (noãn sinh ) cho đến loài phi vô
tưởng .
Dù chưa thông suốt manh mối, nguồn
gốc riêng của mỗi loại, nhưng đã thấy chúng có chung một cơ sở sinh
diệt, giống như sóng nắng chớp nhoáng bập bềnh.
Hành giả chưa hoàn toàn biết rõ nguồn gốc riêng của từng loại
chúng sanh, nhưng đã nhận rõ nguồn gốc của mười hai loại chúng sanh. Căn nguyên
này giống như sóng nắng (dã mã ). Đôi khi vào mùa xuân, quý vị có thể nhìn
thấy có thứ gì đó giống như nước từ đằng xa, nhưng khi đến nơi thì chẳng có
nước. Trang Tử gọi ảo giác này là dã mã. Đó là thị vi hóa
về hình ảnh một đám mây bị cuộn lên theo sau đám ngựa phi nhanh. Trong Kinh Thủ-lăng-nghiêm,
theo văn kinh gọi đó là “dương diệm – sóng nắng.” Có nghĩa là hơi nước bốc
lên từ mặt đất vào mùa xuân, tạo thành một cảnh tượng hư ảo. Người ta cho rằng
ở nơi đâu có hiện tượng này thì nơi ấy phong thủy địa lý rất tốt. Do vậy dù
trong kinh Phật gọi đó là dương diệm hay dã mã cũng đều có
nghĩa là ảo tưởng.
“Chớp nhoáng – tập tập .” Có
nghĩa là có chút ít ánh sáng, lúc có lúc không, không sáng rõ.
“Bập bềnh – thanh nhiễu ” Nghĩa
là: Trạng thái nhiễu loạn dao động nhẹ nhàng.
Làm điểm then chốt để phát sanh các phù căn trần.
Sáu phù căn trần là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
Tất cả các thứ ấy đều không thực, chỉ là huyễn tượng. Trong tiếng
Trung Hoa, chữ then chốt được biểu tượng bằng cái chốt cửa mà
người Trung Hoa dùng để đóng hay mở cửa. Ngày nay chúng ta dùng hai miếng bản
lề bằng kim loại. Nhưng vào thời xưa, ở Trung Hoa cái cửa được quay nhanh một
cái trục gọi là then và chốt vào lỗ để đóng lại.
Đây gọi là phạm vi của hành ấm .
CỘI GỐC CỦA HÀNH ẤM
Kinh Văn: Nhược thử thanh nhiễu, tập tập nguyên tánh,
tánh tập nguyên trừng, nhất trừng nguyên tập. Như ba lan diệt, hóa vi trừng
thủy. Danh hành ấm tận. Thị nhân tắc năng siêu chúng sanh trọc. Quán kì sở
do, u ẩn vọng tưởng dĩ vi kì bản.
Việt dịch: Nếu cội gốc của tánh bập
bềnh chớp nhoáng ấy nhập vào bản chất trong lặng vốn sẵn có xưa nay, thì tập
khí của hành giả sẽ lóng lặng, như sóng lặng nước yên. Đây gọi là hành
ấm tiêu dung. Người ấy có thể vượt qua được chúng sanh trược. Quán
xét nguyên do cội gốc của hành ấm, chính là u ẩn vọng tưởng.
Giảng: Nếu cội gốc của tánh bập bềnh chớp nhoáng ấy
nhập vào bản chất trong lặng vốn sẵn có xưa nay, thì tập khí của hành giả sẽ
lóng lặng. Như sóng lặng nước yên.
Bản chất của ánh sáng chớp nhoáng bập bềnh này là như thế, sau
một thời gian dài nó sẽ trở về với thể tánh rỗng lặng trong suốt vốn sẵn có xưa
nay. Một khi nó đã lắng xuống và trở nên trong trẻo, thì bản tánh thanh tịnh
hiển bày, khi bản tánh hiển lộ thì những tập khí sẽ tiêu tan như sóng lặng
xuống.
Tưởng ấm, như một dòng nước chảy xiết (bạo lưu). Trong kinh
văn ở đoạn trước đã có sự so sánh ấy rồi. Bây giờ dùng sóng để ví dụ. Giống như
một dòng nước chảy xiết, rất nhanh và dữ dội.
Đây gọi là hành ấm tiêu dung.
Tưởng ấm như dòng nước phun vọt ra, còn hành ấm như
sóng gợn lăn tăn trên mặt nước. Đến khi chỉ còn thức ấm ,
thì mới hết sóng, nước lắng yên và trong veo. Đây gọi là hành ấm tiêu
dung.
Hành giả có thể vượt qua được chúng sanh trược, đó
là sự hỗn độn, mờ đục của thế giới chúng sanh. Quán xét nguyên do cội
gốc của hành ấm , chính là u ẩn vọng tưởng.
Khi quý vị tu tập đạt đến mức độ này rồi, quý vị vẫn còn có
vọng tưởng, nhưng không quá lộ liễu, nó bị che khuất trong khoảng tối tăm mù
mịt, không dễ dàng quán xét để biết rõ ràng tường tận thứ vọng tưởng
ấy được. Loài vọng tưởng cực kỳ vi tế này là nguồn gốc của hành ấm .
10 CẢNH GIỚI CỦA HÀNH ẤM
* * *
1 – HAI LOẠI TÀ KIẾN VÔ
NHÂN
Kinh Văn: A-nan đương tri, thị đắc chánh tri, xa ma tha trung,
chư thiện nam tử, ngưng minh chánh tâm, thập loại thiên ma, bất đắc kì tiện.
Phương đắc tinh nghiên, cùng sanh loại bản, ư bản loại trung, sanh nguyên lộ
giả, quán bỉ u thanh, viên nhiễu động nguyên, ư viên nguyên trung
khởi kế độ giả. Thị nhân đọa nhập nhị vô nhân luận.
Việt dịch: A-nan, nên biết, các
thiện nam tử ấy đã được sự nhận biết chân chính trong khi tu xa-ma-tha ,
chánh tâm ngưng lặng, sáng suốt, không bị quấy phá bởi mười loại thiên ma.
Trong lúc nghiên cứu tinh vi cùng tột gốc của các loại chúng sanh, khi thấy
manh mối sinh diệt của các loại hiện ra, quán xét cội gốc thường
chuyển động lăng xăng cùng khắp u ẩn kia, trong đó lại khởi tâm so đo
chấp là tính viên nguyên, thì liền rơi vào hai thứ luận vô nhân.
Giảng: A-nan, nên
biết, các thiện nam tử ấy đã được sự nhận biết chân chính trong khi tu
xa-ma-tha (chỉ ), còn gọi là tịch tĩnh.
Chánh tâm ngưng lặng, sáng suốt, không bị quấy phá bởi mười
loại thiên ma.
Tâm đã được điều phục ngưng lặng, sáng suốt. Trong định, tâm
hành giả trở nên sáng suốt ngưng lặng. Không bị quấy phá bởi mười loại thiên
ma. Thiên ma không có cơ hội để quấy phá hành giả.
Trong lúc nghiên cứu tinh vi cùng tột gốc của các loại chúng
sanh. Bây giờ hành giả có thể có được cơ hội nghiên cứu tinh vi cùng
tột cội gốc sinh diệt của mười hai loại chúng sanh.
Khi thấy manh mối sinh diệt của các loài hiện ra.
Khi hành giả vạch ra được manh mối sinh diệt của mỗi loài
chúng sanh. Hành giả có thể quán sát cội gốc thường chuyển
động lăng xăng trùm khắp uẩn kia.
Hành giả quán sát trạng thái lăng xăng mờ mịt rất
khó nhận ra ấy. Trạng thái bập bềnh tỏa khắp này là một sự dao động rất vi tế
thuộc phạm vi thức thứ bảy.
Trong đó lại khởi tâm so đo chấp là tính viên nguyên,
thì liền rơi vào hai thứ luận vô nhân.
Nhưng nếu hành giả đột nhiên bắt đầu có một sự thay đổi và bắt
đầu khởi tâm so đo chấp trước vào cội nguồn trùm khắp ấy, là tự tánh xưa nay
vốn tròn đầy thì liền rơi vào hai thứ luận vô nhân.
Kinh Văn: Nhất giả thị nhân kiến bản vô nhân. Hà dĩ cố? Thị
nhân kí đắc, sanh cơ toàn phá. Thừa vu nhãn căn, bát bách công đức, kiến bát
vạn kiếp, sở hữu chúng sanh, nghiệp lưu loan hoàn, tử thử sanh bỉ. Kì kiến
chúng sanh luân hồi kì xứ. Bát vạn kiếp ngoại, minh vô sở quán.
Việt dịch: Một là, người ấy thấy cái gốc không có nhân. Vì
sao? Vì người ấy đã hoàn toàn chuyển hóa cơ chế của sự sinh ra. Nhờ tám trăm
công đức của nhãn căn, thấy được toàn bộ chúng sanh theo vòng nghiệp báo mà
xoay vần trong tám vạn kiếp, chết nơi này sanh nơi kia. Thấy chúng sanh luân
hồi trong đó, nhưng ngoài tám mươi ngàn kiếp thì không biết được gì.
Giảng: Luận điểm trước tiên của thuyết vô nhân là: Hành giả
thấy được nguồn gốc của sự sống vốn không có nhân.
Một là, người ấy thấy cái gốc không có nhân.
Hành giả thấy rằng: Nơi nguồn gốc của toàn thể vạn vật chẳng
có một nguyên nhân nào khiến một người thành người.
Vì sao? Vì người ấy đã hoàn toàn chuyển hóa cơ chế của sự sinh
ra.
Nghĩa là: Anh ta đã cắt đứt được tưởng ấm , còn hành
ấm thì như sóng gợn lăn tăn trên mặt nước. Sau khi hành giả tiêu
dung được tưởng ấm rồi, là đã chuyển hóa được toàn bộ cơ chế của sinh diệt. Có
nghĩa là: cơ chế sinh khởi vọng tưởng đã được chuyển hóa, và hành giả không còn
vọng tưởng nữa. Trong đoạn kinh văn trước đã nhắc đến người sẽ không còn mộng
nữa khi tiêu dung được tưởng ấm, vì đã chuyển hóa được cơ chế sinh khởi vọng
tưởng.
Nhờ tám trăm công đức của nhãn căn, thấy được toàn bộ chúng sanh
theo vòng nghiệp báo mà xoay vần trong tám vạn kiếp, chết nơi này sanh nơi kia.
Mặc dù mỗi căn có khả năng một ngàn hai trăm công đức, riêng
cái dụng của nhãn căn không có năng lực toàn diện nên chỉ có tám
trăm công đức. Một khi hành giả vượt qua được tưởng ấm , anh ta có thể
nhìn thấy những sự kiện xảy ra trong phạm vi tám vạn kiếp. Anh ta có thể thấy
chúng sinh, chết nơi này sanh ở nơi kia, thấy chúng sanh luân hồi trong đó.
Dòng nghiệp tạo nên bởi chúng sanh trong thế gian này có thể
ví như dòng nước hoặc như mặt biển. Anh ta có thể thấy được toàn bộ chúng sinh
xoay vần trong dòng chảy đó trong thời gian tám vạn đại kiếp, chết nơi này sinh
nơi kia, đời này kế tiếp đời sau.
Thấy chúng sanh luân hồi trong đó, nhưng ngoài tám mươi ngàn
kiếp thì không biết gì.
Nhưng ngoài tám vạn kiếp, những biến cố sự kiện xảy ra trong
khoảng ấy thì không biết được gì.
Kinh Văn: Tiện tác thị giải, thử đẳng thế gian thập phương
chúng sinh, bát vạn kiếp lai, vô nhân tự hữu.
Việt dịch: Do vậy hành giả có
kiến giải rằng, những loại chúng sanh trong mười phương thế giới này từ tám vạn
kiếp trở lại, hiện hữu mà không có nguyên nhân.
Giảng: Do vậy, vì hành
giả không nhìn thấy được những sự kiện xảy ra trong hơn tám vạn đại kiếp trở
lại, nên có kiến giải những loại chúng sanh trong mười phương thế giới này từ
tám vạn kiếp trở lại, thành chúng sanh mà không có nguyên nhân.
Tự nó làm chúng sanh, không có nhân duyên nào cả, tất cả đều
tình cờ ngẫu nhiên mà sanh ra.
Kinh Văn: Do thử kế độ, vong chánh biến tri, đoạ lạc ngoại đạo,
hoặc bồ-đề tánh.
Việt dịch: Do sự suy đoán này, nên mất chánh biến
tri, bị lạc vào ngoại đạo, trở nên mê lầm tánh bồ-đề.
Giảng: Do sự suy đoán
này. Sự phỏng đoán ấy đã lạc đường, là hướng ra bên ngoài mà suy lường. Nên
hành giả đánh mất chánh biến tri, lạc vào hàng ngoại đạo,
theo hàng ngoại đạo tà giáo. Trở nên mê lầm tánh bồ-đề… là tánh
giác ngộ sáng suốt từ bản tâm.
Kinh Văn: Nhị giả thị nhân kiến mạt vô nhân. Hà dĩ cố?
Thị nhân ư sanh, kí kiến kì căn. Tri nhân sanh nhân, ngộ điểu sanh điểu. Ô tòng
lai hắc, hộc tòng lai bạch. Nhân thiên bản thụ, súc sanh bản hoành. Bạch phi
tẩy thành, hắc phi nhiễm tạo. Tòng bát vạn kiếp, vô phục cải di.
Việt dịch: Thứ hai là người ấy thấy cái ngọn là không có
nguyên nhân. Tại sao? Vì đã nhận ra cội gốc sinh diệt. Biết loài người luôn
luôn sanh ra người, chim luôn luôn sanh ra chim. Quạ vốn xưa nay là đen, chim
hộc vốn xưa nay là trắng. Loài người, loài trời luôn luôn đứng thẳng, loài vật
luôn luôn có thân nằm ngang. Sắc trắng không do rửa mà thành, mầu đen không do
nhuộm mà có. Suốt tám vạn kiếp việc ấy không hề thay đổi.
Giảng: Thứ hai là
người ấy thấy cái ngọn là không có nguyên nhân.
Luận điểm thứ hai là gì? Hành giả thấy chỗ tận cùng của sự
sống là không có nguyên nhân.
Luận điểm thứ nhất là thấy sự sinh khởi không có nguyên nhân.
Bây giờ là quan niệm về sự biến diệt, sự chấm dứt cuộc sống không có nguyên
nhân.
Vì sao? Vì hành
giả đã nhận ra được cội gốc của sự sinh diệt là sự khởi thủy
của toàn bộ chúng sanh. Biết người luôn luôn sinh ra người, chim luôn
luôn sanh ra chim. Hành giả nhận thấy rằng mình đã giác ngộ, đạt được trí
huệ vĩ đại, anh ta nghĩ rằng mình biết được mọi điều. Anh ta cho rằng mình biết
được điều gì? Anh ta nói: “Người rốt cục lại sanh ra người, chim rồi lại sanh
làm chim.” (33)
Chim quạ vốn xưa nay là mầu đen. Quạ có mầu đen từ
khởi thủy, nó chẳng phải do nhuộm mà có mầu đen, và chim hộc(ngỗng
trời) vốn xưa nay là màu trắng, nó mang mầu trắng từ khi mới sanh
ra.
Loài người, loài trời luôn luôn đứng thẳng. Loài
người và chư thiên thì đi thẳng, đi bằng hai chân.
Loài vật luôn có thân nằm ngang. Súc
sinh đi ngang bằng bốn chân trên mặt đất. Điều này là chính xác từ xưa nay rồi.
Sắc trắng không phải do rửa mà thành, mầu
đen không phải do nhuộm mà có. Chẳng hạn như quạ có màu đen, nhưng chẳng do
nhuộm mà thành đen. Cũng thế ngỗng trời có màu trắng, chẳng phải do tẩy rửa mà
thành trắng.
Suốt trong tám vạn kiếp, việc ấy không hề thay đổi.
Kinh Văn: Kim tận thử hình, diệc phục như thị. Nhi ngã bản
lai, bất kiến bồ-đề, vân hà cánh hữu, thành bồ-đề sự? Đương tri kim nhật nhất
thiết vật tượng, giai bản vô nhân.
Việt dịch: Cho đến hết đời này cũng như vậy. Mà ta từ xưa nay,
chưa từng thấy có gì là bồ-đề, thì làm sao có chuyện thành tựu bồ-đề? Các ông
ngày nay nên biết, các vật tượng hiện hữu đều không có nguyên nhân.
Giảng: Cho đến hết đời
này cũng như vậy.
Người ấy có thể thấy được những hiện tượng xảy ra trong phạm
vi tám vạn đại kiếp, nên nói: “Nay tôi xem xét đến cùng tận cõi đời này là cuộc
sống của thân vật chất, cũng thấy như vậy, cũng giống như mọi loài chúng sanh
mà nó thấy được trong tám vạn đại kiến ấy.
Mà ta từ xưa nay, chưa từng thấy có gì là bồ-đề, thì làm sao
có chuyện thành tựu bồ-đề? Thân nó cũng không có
nguồn gốc sanh khởi. Nó nói: “Thực vậy từ xưa đến nay, ta chưa từng thấy có gì
là bồ-đề. Ta chưa từng thấy bồ-đề như thế nào? Làm sao lại có việc thành đạo
bồ-đề?
Ta đã nhìn qua tám vạn đại kiếp, chưa từng thấy được bồ-đề,
thế nên làm sao ta có thể tin là có người chứng được đạo bồ-đề.
Các ông ngày nay nên biết các vật tượng hiện hữu đều không có
nguyên nhân.
Các hiện tượng ấy hiện hữu chẳng do bất kỳ nguyên nhân nào mà.
Thực ra, anh ta chỉ có thể thấy được các hiện tượng trong phạm vi
tám vạn đại kiếp. Còn những hiện tượng xảy ra ngoài thời gian đó, thì anh ta
hoàn toàn không biết.
Khi Đức Phật còn tại thế, có một lão già đến tinh xá gặp Phật
xin được xuất gia. Gặp khi Đức Phật đang trên đường du hóa, không có ở tinh xá.
Các vị A-la-hán ở đó đều nhìn lão già. Đó là một người khoảng ngoài
tám mươi tuổi, da nhăn, tóc bạc, dáng đi lụm cụm run rẩy. Bất kỳ lúc nào có
người đến tinh xá xin xuất gia, các vị A-la-hán đều quán sát những
nhân duyên người ấy đã gieo trồng từ nhiều kiếp trước và quả báo mà người ấy sẽ
gặt và đời sau. Nay chư vị A-la-hán quán sát những nghiệp nhân người già
ấy đã gieo và thấy được trong tám vạn kiếp trước, lão già ấy không gieo
trồng chút thiện căn nào cả.
Vị đại A-la-hán bảo: “Vì ông không trồng căn lành,
nên không thể xuất gia được. Ông chớ nên nghĩ rằng xuất gia là dễ. Để
được làm người xuất gia, các ông phải gieo trồng nhiều hạt giống bồ-đề trong
đời này và những đời sau. Mặc dù ông muốn xuất gia ngay đời này, nhưng do vì
ông đã không gieo nhân lành nên chúng tôi không thể nhận ông vào trong đoàn thể
những người xuất gia. Tốt hơn là ông nên về nhà đi.”
Lão già nghe vậy bèn bật khóc. Ông khóc khi nghĩ về số phận
kém may mắn của mình. Cũng như trong một lần trước, ông đã từng ước
nguyện được xuất gia và cũng bị từ chối bởi các vị A-la-hán đệ tử
Phật. Ông lão vừa đi vừa khóc, suy nghĩ: “Tốt nhất là ta nên tự tử chết cho
rồi, ta nên treo cổ hoặc trầm mình chết dưới sông. Ta chẳng muốn sống để làm gì
nữa!”
Vậy mà một niệm chân thành của ông đã cảm ứng đến chư Phật.
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni liền đến gặp ông và hỏi: “Tại sao ông khóc?”
Ông trả lời: “Con muốn sống đời xuất gia, nhưng Thế tôn không
có ở tinh xá, các đệ tử của ngài không chấp nhận con vào Tăng đoàn. Họ nói con
không gieo trồng căn lành và chẳng làm được việc gì tốt trong tám vạn kiếp vừa
qua hết thảy. Nên con suy nghĩ thà chết còn hay hơn. Chẳng còn mục đích gì để
sống cả.”
Đức Phật nói:
– Đừng khóc nữa! Ta sẽ giúp ông. Ta sẽ đồng ý cho ông xuất
gia. Hãy theo ta về tinh xá.”
Lão già theo Đức Phật trở về tinh xá. Và được Đức Phật cho
xuất gia. Tất cả những vị A-la-hán đều lấy làm khó hiểu. Họ suy
nghĩ:
– Lạ thật! Đức Phật xưa nay chỉ nhận toàn những
người đã gieo trồng nhiều căn lành. Tại sao ngày nay lại nhận lão già chẳng
gieo trồng chút căn lành nào cả?
Đức Phật biết vậy mới bảo với họ rằng:
– Các ông là hàng A-la-hán , chỉ mới có thể
biết được những việc xảy ra trong vòng tám vạn đại kiếp. Còn ngoài khoảng thời
gian ấy, các ông hoàn toàn không biết được. Cách đây hơn tám vạn đại kiếp, lão
già này là tiều phu đốn củi trong rừng. Một hôm ông ấy gặp phải cọp và leo lên
cây để tránh. Con cọp bắt đầu gặm gốc cây, chực muốn ăn sống nuốt tươi người
tiều phu. Người ấy quá hoảng hốt kêu lên “Nam-mô Phật.” Con cọp liền bỏ đi, khi
cọp đã đi xa rồi, ông tiều phu mới trở về nhà, thoát khỏi nạn cọp vồ.
Chỉ niệm một câu “Nam-mô Phật,” là ông ta đã gieo trồng một
thiện căn trong hơn tám vạn đại kiếp trước. Đến bây giờ là lúc hạt giống ấy nẩy
mầm và kết trái. Đó là lý do ông lão được nhận cho xuất gia.
Đức Phật giải thích sự sự thắc mắc của các đệ tử
A-la-hán như vậy.
Người ấy cho rằng các sự vật hiện hữu đều không có nguyên nhân
là vì anh ta không thể biết được những hiện tượng xảy ra trong khoảng thời gian
ngoài tám vạn đại kiếp ấy.
Kinh Văn: Do thử kế độ, vong chánh biến tri, đọa lạc ngoại
đạo, hoặc bồ-đề tánh.
Việt dịch: Do sự suy đoán như vậy,
người ấy đánh mất chánh biến tri, lạc vào ngoại đạo trở nên mê mờ tánh bồ-đề.
Giảng: Do sự suy đoán
như vậy, người ấy đánh mất chánh biến tri, lạc vào ngoại đạo, trở nên mê mờ
tánh bồ-đề.
Anh ta chẳng hiểu được tánh bồ-đề.
Kinh Văn: Thị tắc danh vi, đệ nhất ngoại đạo, lập vô nhân
luận.
Việt dịch: Đây gọi là ngoại đạo thứ nhất, lập nên luận thuyết
vô nhân.
Giảng: Ma lập nên luận
thuyết, cho rằng mọi hiện tượng đều không có nguồn gốc, hoặc không có nguyên
nhân tạo ra.
2 – TÀ KIẾN CHẤP THƯỜNG
Kinh Văn: A-nan, thị tam ma trung, chư thiện nam tử, ngưng
minh chánh tâm, ma bất đắc tiện. Cùng sanh loại bản, quán bỉ u thanh,
thường nhiễu động nguyên. Ư viên thường trung, khởi kế độ giả, thị nhân trụy
nhập tứ biến thường luận.
Việt dịch: A-nan, các thiện nam tử đó, trong tam-ma-đề chánh
tâm đứng lặng sáng suốt, thiên ma không có cơ hội quấy phá. Trong khi
quán xét sâu xa nguồn gốc sự phát sinh của muôn loài, xét cội gốc
thường nhiễu động lăng xăng vi tế kia. Trong đó, nếu khởi tâm chấp trước là
tánh viên thường, thì sẽ rơi vào bốn luận thuyết biến thường.
Giảng: A-nan, các
thiện nam tử đó, trong tam-ma-đề chánh tâm đứng lặng sáng suốt. Hành
giả trong lúc thiền quán , chánh tâm đứng lặng, sáng trong. Chánh tâm của
hành giả có được trí tuệ từ năng lực của thiền định. Nên thiên ma không có
cơ hội quấy phá. Bây giờ, thiên ma không còn có thể dùng ma thuật để nhiễu
loạn hành giả được nữa. Nhưng thỉnh thoảng từ trong hành ấm lại hiện
ra một loại biến hóa, khiến cho hành giả khởi vọng niệm, tà ý. Đây gọi là: “Ma
sinh từ trong tâm.” Là một loại ma sinh khởi từ trong tâm của chính hành giả.
Trong khi quán sát sâu xa nguồn gốc phát sinh của
muôn loài, hành giả xét cái cội gốc thường chuyển động lăng
xăng u ẩn kia.
Anh ta quán sát tánh chất của manh mối cực kỳ u ẩn
của tất cả mọi loài chúng sanh. Nơi ấy anh ta thấy được một sự lăng xăng nhiều
động thường xuyên rất vi tế.
Trong đó, nếu khởi tâm chấp đó là tánh viên thường, thì
sẽ rơi vào bốn luận thuyết biến thường.
Anh ta có thể sẽ phát khởi một thứ tà kiến, một loại suy lường
sai lạc. Nên rơi vào bốn quan niệm biến thường. Bốn thứ luận biến
thường là gì?
Kinh Văn: Nhất giả thị nhân, cùng tâm cảnh tính, nhị xứ vô
nhân. Tu tập năng tri, nhị vạn kiếp trung, thập phương chúng sanh, sở hữu sanh
diệt, hàm giai tuần hoàn, bất tăng tán thất, kế dĩ vi thường.
Việt dịch: Một là, người ấy nghiên
cứu tột cùng tâm cảnh, cả hai đều không có nhân. Tu tập biết được trong hai
muôn kiếp, chúng sanh trong mười phương trải qua xoay vần sanh diệt mà không
mất hẳn, nên chấp là thường.
Giảng: Một là, người
ấy nghiên cứu tột cùng tâm cảnh. Hành giả nghiên cứu tột cùng bản tánh
của tâm và cảnh. Anh ta phát khởi một suy nghĩ sai lạc và kết luận rằng cả
hai tâm và cảnh đều không có nhân. Đều không có cội gốc,
nơi mà chúng sinh khởi.
Tu tập biết được trong hai muôn kiếp, chúng sanh trong mười
phương trải qua xoay vần sanh diệt mà không mất hẳn
Nhờ có công phu tu tập, anh ta có thể biết được trong
hai muôn kiếp những chúng sanh trong mười phương trải qua vòng sanh diệt vô
cùng vô tận mà không dứt hẳn.
Do tu tập mà có định lực nên biết được sự sinh ra và chết đi
của toàn thể các loại chúng sanh ở mười phương trong vòng hai vạn kiếp. Thấy
được chúng sanh trải qua những vòng luân hồi bất tận, sanh ra rồi chết đi liên
tục mãi mãi mà không bao giờ tan mất hẳn.Nên chấp là thường. Do
vậy hành giả chấp tâm cảnh ấy là thường. Không bao giờ cải biến thay đổi cả.
Kinh Văn: Nhị giả thị nhân, cùng tứ đại nguyên, tứ tánh thường
trụ. Tu tập năng tri, tứ vạn kiếp trung, thập phương chúng sanh, sở hữu sanh
diệt, hàm giai thể hằng, bất tăng tán thất, kế dĩ vi thường.
Việt dịch: Hai là người ấy nghiên
cứu tột cùng cội gốc của tứ đại, cho rằng tánh của nó là thường trụ. Tu tập
biết được trong bốn muôn kiếp, chúng sanh trong mười phương tuy có trải
qua sống chết, nhưng bản thể là thường hằng, không bao giờ tan mất, nên chấp đó
là thường.
Giảng: Luận điểm thứ hai là
gì? Là người ấy nghiên cứu tột cùng cội gốc của tứ đại, cho rằng tánh
của nó là thường trụ. Hành giả nghiên cứu tột cùng cội gốc của tứ đại
đất nước, lửa gió, kết luận tánh của nó là thường trụ.
Anh ta tuyên bố rằng: “Bản thể của đất nước gió lửa là thường
còn, không thể biến hoại.” Thực ra đất nước gió lửa có được là do vọng tưởng
của chúng sanh và hoàn toàn không có thể tánh. Không có thể tánh làm sao nó lại
thường được? Đây là một quan niệm sai lầm.
Qua công phu tu tập, biết được trong bốn muôn kiếp,
chúng sanh trong mười phương tuy có trải qua sống chết, nhưng bản thể của
chúng sanh lại thường hằng, không bao giờ tan mất. Do vậy, nên hành
giả chấp trạng thái ấy là thường.
Anh ta cho rằng bản chất của sanh diệt là thường hằng không
biến đổi, nó không bao giờ gián đoạn. Đó là luận điểm thứ hai.
Kinh Văn: Tam giả thị nhân, cùng tận lục căn, mạt-na chấp thọ,
tâm ý thức trung, bản nguyên do xứ, tánh thường hằng cố. Tu tập năng tri bát
vạn kiếp trung, nhất thiết chúng sanh tuần hoàn bất thất, bản lai thường trụ.
Cùng bất thất tánh, kế dĩ vi thường.
Việt dịch: Ba là, người ấy nghiên cứu cùng tột nguyên do bản
lai của lục căn, của sự chấp thụ ở thức mạt-na và của tâm ý thức,
thấy bổn tánh của nó vốn thường hằng. Tu tập biết được trong tám vạn
kiếp, tất cả chúng sanh xoay vần không mất, xưa nay vốn thường trụ.
Nghiên cứu cùng tột tánh không mất ấy, chấp cho là thường.
Giảng: Ba là, người
ấy nghiên cứu cùng tột nguyên do bản lai của lục căn
Người ấy nghiên cứu cùng tột nguyên do bản lai của thức thứ
sáu. Thức thứ sáu còn gọi là ý thức. Mạt-na thức còn gọi là nhiễm ô thức.
Của sự chấp thủ ở thức Mạt-na, và của tâm ý thức, tức
là của thức thứ sáu và thức thứ bảy.
Thấy bổn tánh của nó vốn thường hằng. Qua
công phu tu tập. Dùng công phu: “phản văn văn tự tánh .” Biết
được trong tám vạn kiếp, tất cả chúng sanh trong mười phương xoay vần luân
chuyển trong luân hồi không hề tan mất và
không hề thay đổi,vốn xưa nay vốn thường trụ. Nghiên cứu cùng
tột tánh không tan mất ấy chấp cho là thường. Không bị chi phối bởi sự thay
đổi.
Kinh Văn: Tứ giả thị nhân, kí tận tưởng nguyên. Sanh lí cánh
vô, lưu chỉ vận chuyển, sanh diệt tưởng tâm, kim dĩ vĩnh diệt. Lí
trung tự nhiên thành bất sanh diệt. Nhân tâm sở độ kế dĩ vi thường.
Việt dịch: Thứ tư là người ấy đã tiêu dung được căn
nguyên tưởng ấm . Lý sanh khởi không còn nữa, trạng thái lưu chuyển đứng
lặng xoay vần, tâm tưởng sanh diệt, nay vĩnh viễn không còn. Trong lý tự nhiên,
thành không sanh diệt. Do tâm niệm suy lường như thế, mà chấp cho là thường.
Giảng: Thứ tư là
người ấy đã tiêu dung được căn nguyên tưởng ấm .
Thứ tư là do hành giả đã tiêu dung được căn gốc của tưởng
ấm ,.
Lý sanh khởi không còn nữa.
Một khi đã vượt qua được tưởng ấm , thì cội nguồn của sự
sanh khởi vọng tưởng cũng không còn nữa. Hành giả có được định lực, hóa giải
hết những vọng tưởng từ tâm thức. Với tâm ngưng lặng sáng suốt, hành giả không
còn cơ hội nuôi dưỡng vọng tưởng nữa.
Trạng thái lưu chuyển đứng lặng xoay vần của
hành ấm , tâm tưởng–vốn là nguyên nhân của sanh diệt,
nay vĩnh viễn không còn nữa.
Hành giả không còn vọng tưởng nữa.
Trong lý tự nhiên, thành không sanh diệt.
Thế nên tự nhiên nghĩ rằng: Đây là trạng thái không sanh
diệt. Do tâm niệm suy lường như thế, hành giả chấp cho
là thường.
Kinh Văn: Do thử kế thường, vong chánh biến tri, đọa lạc ngoại
đạo, hoặc bồ-đề tánh. Thị tắc danh vi, đệ nhị ngoại đạo, lập viên thường
luận.
Việt dịch: Do suy luận chấp thường ấy, quên mất chánh biến
tri, lạc vào ngoại đạo, mê mờ tánh bồ-đề. Đây là loại ngoại đạo thứ hai, lập ra
thuyết viên thường.
Giảng: Do suy luận
chấp thường ấy.
Do suy luận về bốn luận thuyết chấp viên thường ấy, quên
mất chánh biến tri, hành giả bỏ mất trí huệ có được từ chánh
biến tri, lạc vào ngoại đạo, mê mờ tánh bồ-đề.
Một khi đã rơi vào tà thuyết ngoại đạo, người ấy không thể
nhận ra được tánh bồ-đề.
Đây là loại ngoại đạo thứ hai lập ra thuyết viên thường.
3 – TÀ KIẾN VỪA CHẤP
THƯỜNG VỪA CHẤP ĐOẠN
Kinh Văn: Hựu tam ma trung, chư thiện nam tử, kiên ngưng chánh
tâm, ma bất đắc tiện. Cùng sanh loại bản, quán bỉ u thanh, thường
nhiễu động nguyên, ư tự tha trung, khởi kế độ giả. Thị nhân trụy nhập, tứ điên
đảo kiến, nhất phần vô thường, nhất phần thường luận.
Việt dịch: A-nan, các thiện nam tử đó, trong tam-ma-đề chánh
tâm đứng lặng sáng suốt. Thiên ma không có cơ hội quấy phá. Trong khi
quán xét sâu xa nguồn gốc sự phát sinh của muôn loài, quán xét cội
gốc thường nhiễu động lăng xăng kia, khởi tâm suy lường giữa mình và cái khác. Người
ấy sẽ rơi vào bốn kiến chấp điên đảo của luận thuyết một phần vô thường,
một phần thường.
Giảng: A-nan, các
thiện nam tử đó, trong tam-ma-đề chánh tâm đứng lặng sáng suốt. Thiên ma không
có cơ hội quấy phá.
Khi hành giả công phu đến mức đạt được định lực kiên cố có
được chính tâm. Nên tà ma ngoại đạo không có cơ hội gây chướng ngại hành giả
nữa. Tuy nhiên, một loại tà ma có thể sanh khởi ngay trong tự tâm của mình.
Trong khi quán xét sâu xa nguồn gốc sự phát sinh
của muôn loài, quán xét manh mối thường chuyển động lăng xăng u ẩn
kia. Xuất hiện trong hành ấm ngay tại giai đoạn công phu này.
Nếu móng khởi tâm suy lường giữa mình và cái khác,
thì hành giả sẽ rơi vào bốn kiến chấp điên đảo của luận thuyếtmột phần
vô thường, một phần thường.
Say mê thích thú trong sự suy lường về giữa mình và người
khác. Hành giả tạo nên một thứ ma ngay trong tâm mình và rơi vào bốn thứ kiến
chấp điên đảo. Nó nói rằng: “Các pháp là thường lẫn vô thường, là sinh lẫn
diệt, là động lẫn tịnh, là ô nhiễm lẫn trong sạch, là sống lẫn chết.” Nó bào
chữa biện hộ cho cả hai phía. Không quyết đoán ở một phía nào cả. Nó nói: “Bên
này đúng và bên kia cũng đúng.” Nó nói vạn pháp là vô thường nhưng cũng nói vạn
pháp là thường. Đó là điên đảo, thiếu tính nhất quán , làm rối loạn tâm
người.
Kinh Văn: Nhất giả thị nhân, quán diệu minh tâm,
biến thập phương giới. Trạm nhiên dĩ vi, cứu cánh thần ngã. Tòng thị tắc kế,
ngã biến thập phương, ngưng minh bất động. Nhất thiết chúng sanh, ư ngã tâm
trung, tự sanh tự tử. Tắc ngã tâm tánh, danh chi vi thường, bỉ sanh diệt giả,
chân vô thường tánh.
Việt dịch: Một là, người ấy quán xét tâm tánh sáng
suốt vi diệu khắp cùng mười phương. Cho trạng thái lặng lẽ sâu kín ấy làthần
ngã rốt ráo. Nên hành giả chấp cái ngã của mình thì trong
lặng sáng suốt, bất động, trùm khắp mười phương. Còn các loài chúng sanh đều
lưu xuất từ tâm ta, chúng tự sinh tự diệt. Vậy nên tâm tánh của ta
là thường, trong khi các loài kia phải trải qua sanh diệt, nên chúng thực
sự là vô thường.”
Giảng: Hành giả nói gì trong
luận điểm thứ nhất này?
Một là, người ấy quán xét tâm tánh sáng suốt vi
diệu khắp cùng mười phương.
Trước tiên hành giả, người đang tu đạo, quán sát
tâm tánh sáng suốt, vi diệu khắp cùng mười phương. Cho rằng trạng thái
lặng lẽ sâu kín và thanh tịnh ấy là thần ngã rốt ráo. Nên hành giả
chấp “cái ngã” của mình thì trong lặng sáng suốt, bất động trùm khắp mười
phương.
Tâm ta là một cảnh giới như như bất động, sung mãn định lực,
đầy đủ trí huệ sáng suốt và bất động.
Nó nói: “Do vì tâm ta trùm khắp mười phương nên tất cả
các loài chúng sanh đều lưu xuất từ tâm ta, chúng nó tự sinh tự diệt mãi
không ngừng. Do vậy tâm tánh của ta là thường, không phải chịu sanh
tử trong khi các loài kia phải trải qua sanh diệt, nên chúng thực sự là
vô thường.”
Chúng sanh lưu xuất từ tâm ra vẫn liên tục chịu sự sanh diệt.
Do vậy bản chất chúng nó phải là vô thường. Còn tâm tánh ta trùm khắp mười
phương, thường hằng không biến đổi. Nhưng các loài chúng sanh trong đó phải
trải qua sanh diệt, nên chẳng phải là vô thường.
Kinh Văn: Nhị giả thị nhân, bất quán chân tâm, biến
quán thập phương, hằng sa quốc độ. Kiến kiếp hoại xứ, danh vi cứu cánh, vô
thường chủng tánh. Kiếp bất hoại xứ, danh cứu cánh thường.
Việt dịch: Thứ hai là, người ấy không
quán xét tâm mình, lại quán xét mười phương cõi nước nhiều như
cát sông Hằng. Thấy có nơi đang trong kiếp hoại, cho nơi đó có tính rốt ráo vô
thường. Còn những nơi rốt ráo thường hằng là không ở trong kiếp hoại.
Giảng: Thứ hai là,
người ấy không quán xét tâm mình, lại quán xét mười phương cõi
nước nhiều như cát sông Hằng.
Hành giả không quán xét nơi tâm mình, mà trên hết
lại thấy tâm mình trùm khắp mười phương. Hơn nữa, hành giả nhìn ra ngoài cõi
nước mười phương nhiều như cát sông Hằng.
Thấy có nơi đang trong kiếp hoại, cho nơi đó có tính rốt ráo
vô thường. Còn những nơi tốt ráo thường hằng là không ở trong
kiếp hoại.
Anh ta thấy một thế giới nào đó đã đến kiếp hoại trong vòng
biến chuyển thành, trụ, hoại, không. Anh ta tuyên bố rằng: “Nơi ấy có tánh vô
thường một cách tuyệt đối.” Còn thấy những nơi chưa đến kiếp hoại thì anh ta
cho rằng nơi ấy rốt ráo thường hằng. Đó là cả hai thứ quan niệm thường và vô
thường.
Kinh Văn: Tam giả thị nhân, biệt quán ngã tâm, tinh
tế vi mật, do như vi trần, lưu chuyển thập phương, tánh vô di cải, năng linh
thử thân tức sanh tức diệt. Kì bất hoại tánh, danh ngã tánh thường. Nhất thiết
tử sanh, tòng ngã lưu xuất, danh vô thường tánh.
Việt dịch: Thứ ba, người ấy quán sát
chỉ riêng tâm mình, thấy nó rất mầu nhiệm, vi tế, giống như vi trần
lưu chuyển khắp mười phương mà tánh chất không dời đổi, khiến cho thân này sinh
rồi lại diệt. Nến chấp tánh không biến diệt ấy là tánh thường của mình. Còn tất
cả sự sanh diệt lưu xuất từ tâm mình là tánh vô thường.
Giảng: Thứ ba, người
ấy quán sát chỉ riêng tâm mình. Trong luận
thuyết điên đảo thứ ba, Hành giả quán sát chỉ riêng tâm mình,thấy nó rất mầu
nhiệm vi tế. Hành giả nghiên cứu kỹ lưỡng tâm mình trong lãnh vực vi tế,
tinh mật nhất. Nhưng lãnh vực này quá vi diệu đến nỗi rất khó nhận ra. Đó là
tính chất của hành ấm . Trạng thái này giống như những loại sóng gợn lăn
tăn trên mặt nước, hoặc làgiống như vi trần lưu chuyển khắp mười phương.
Liên tục trôi chảy không hề dừng nghỉ, mà tánh chất không dời đổi,
trong khi thân này sinh rồi lại diệt. Điều ấy khiến cho thân mạng phải
trải qua vô số lần sanh tử.
Nên chấp tánh không biến diệt trong
dòng lưu chuyển liên tục ấy là tánh thường của mình.
Anh ta nói: “Đây là tánh thường hằng của tự tánh tôi.”
Còn tất cả các hiện tượng phải trải
qua sanh diệt, lưu xuất từ tâm mình là tánh vô thường.
Anh ta nói: “Tất cả chúng sanh đều trôi trong vòng sống chết
vô tận, đều lưu xuất từ bản tánh vô thường ở trong tâm ta. Nên hết thảy chúng
sanh ấy đều được gọi là vô thường.
Kinh Văn: Tứ giả thị nhân, tri tưởng ấm tận, kiến
hành ấm lưu. Hành ấm thường lưu, kế vi thường tánh. Sắc thọ tưởng
đẳng, kim dĩ diệt tận, danh vi vô thường.
Việt dịch: Thứ tư, người ấy biết rằng tưởng
ấm đã tiêu dung, thấy hành ấm đang lưu chuyển. Chấp sự
lưu chuyển liên tục của hành ấm là thường. Còn sắc ấm, thọ ấm , tưởng ấm
đã được tiêu dung rồi là vô thường.
Giảng: Thứ tư, người
ấy biết rằng tưởng ấm đã tiêu dung, hành giả biết tưởng ấm
đã không còn, thấy hành ấm đang lưu chuyểnmột cách vi tế
như gợn sóng lăn tăn trên mặt nước. Trong công phu quán chiếu, hành
giả chấp sự lưu chuyển liên tục của hành ấm là thường. Thấy sự lưu
chuyển ấy liên tục không có gì thay đổi, nên kết luận: “Ồ! Tánh chất của nó
chắc là thường hằng.”
Còn sắc ấm, thọ ấm , tưởng ấm đã được tiêu
dung rồi là vô thường.
Do vì thọ ấm , tưởng ấm không còn nữa nên anh
ta nghĩ chúng phải là vô thường.
Kinh Văn: Do thử kế độ, nhất phần vô thường, nhất phần thường
cố, đọa lạc ngoại đạo, hoặc bồ-đề tánh. Thị tắc danh vi, đệ tam ngoại đạo, nhất
phần thường luận.
Việt dịch: Do những chấp trước về một phần thường và một phần
vô thường này nên người ấy rơi vào ngoại đạo, mê mờ tánh bồ-đề. Đây là thuyết
ngoại đạo thứ ba chủ trương luận thuyết một phần thường.
Giảng: Do những luận
thuyết sai lầm căn cứ vào chấp trước về một phần thường và một phần vô thường
này nên hành giả sẽ đánh mất chánh biến tri, rơi vào ngoại đạo,
thành ra mê mờ tánh Bồ-đề.
Anh ta nói: “Hiện tượng này là thường, và hiện tượng kia là vô
thường.” Vì anh ta đã mang quan điểm điên đảo này rồi, và chẳng hiểu được những
điều sâu kín trong lý luận ấy, nên anh ta bị lạc vào tà thuyết của ngoại đạo,
và trở nên mê mờ tánh bồ-đề.
Đây là tà thuyết ngoại đạo thứ ba, chủ trương luận thuyết một
phần thường, đó là luận thuyết điên đảo thứ ba mà hàng ngoại đạo chủ
trương, xác quyết rằng mọi vật là một phần thường, một phần vô thường.
4 – TÀ KIẾN CHẤP CÓ
Kinh Văn: Hựu tam ma trung, chư thiện nam tử, kiên ngưng chánh
tâm, ma bất đắc tiện. Cùng sanh loại bản, quán bỉ u thanh thường
nhiễu động nguyên, ư phần vị trung, sanh kế độ giả. Thị nhân trụy nhập,
tứ hữu biên luận.
Việt dịch: Lại nữa các thiện nam tử đó, trong tam-ma-đề, chánh
tâm đứng lặng sáng suốt, thiên ma không có cơ hội quấy phá. Trong khi
quán xét sâu xa nguồn gốc phát sinh của muôn loài, quán xét cội gốc
thường nhiễu động lăng xăng kia, khởi tâm suy lường về phận vị. Người ấy
rơi vào bốn thứ luận hữu biên.
Giảng: Lại nữa các
thiện nam tử đó, trong tam-ma-đề, chánh tâm ngưng lặng sáng suốt, thiên ma
không có cơ hội quấy phá.
Hành giả trong lúc thiền quán , chánh tâm ngưng lặng
sáng suốt, thiên ma không khuấy phá được nữa.
Điều này liên quan đến những người tu tập pháp môn phản
văn văn tự tánh , đã đạt được sự viên thông của nhĩ căn. Khi hành giả vượt
qua được ba ấm: sắc ấm, thọ ấm , tưởng ấm ; là đã có được định lực
kiên cố và chánh tâm. Do đó thiên ma ngoại đạo không thể nhiễu loạn tâm tánh
hành giả được nữa. Trong khi sắc ấm, thọ ấm chưa tiêu dung. Thiên ma có thể
nhiễu loạn hành giả một cách trực tiếp. Nhưng khi hành giả đang tiêu trừ tưởng
ấm, thiên ma không thể nhiễu hại bằng cách trực tiếp nữa, mà phải thông qua
tưởng ấm, việc gá vào một người khác mới có thể phá hủy được định lực của hành
giả. Bây giờ, tại giai đoạn chuyển hóa hành ấm , Thiên ma không còn phá
hủy định lực của hành giả, cho dù nó có gá vào người khác đi nữa. Đó là ý nghĩa
của chánh tâm ngưng lặng sáng suốt. Thiên ma không có dịp thuận tiện khuấy
phá được nữa.
Trong khi quán xét sâu xa nguồn gốc phát sinh của
muôn loài, hành giả có thể nghiên cứu cùng tột cội nguồn của các mười hai
loại chúng sanh, thấy được manh mối thường chuyển động vi tế kia.
Hành giả quán sát được tính chất tạm bợ thoáng
chốc, và ẩn mật sâu kín của các loại chúng sinh ở trong sự chuyển động vi tế
nhỏ nhiệm của hành ấm này.
Khởi tâm suy lường về phận vị. Người ấy rơi vào bốn thứ
luận hữu biên.
Nhưng nếu hành giả khởi niệm suy lường, lập nên sự phân biệt…
Trầm tư suy xét, lập nên bốn loại phân biệt mà ta sẽ thảo luận sau đây. Liền
rơi vào bốn thứ luận hữu biên. Sự suy lường ấy làm sinh khởi trong tâm hành giả
một thứ vọng chấp về hữu biên. Đó là vọng chấp về bốn loại luận hữu biên, đó
một tà thuyết của ngoại đạo.
Kinh Văn: Nhất giả thị nhân, tam kế sanh nguyên, lưu dụng bất
tức, kế quá vị giả, danh vi hữu biên, kế tương tục tâm, danh vi vô biên.
Việt dịch: Một là người ấy suy luận về cội gốc sanh diệt trôi
chảy biến dịch không ngừng, xét đoán quá khứ tương lai là hữu biên, còn chấp sự
tương tục của tâm là vô biên.
Giảng: Luận điểm đầu tiên về
bốn thứ phân biệt có quan hệ đến thời gian: quá khứ, hiện tại, vị lai. Nên có
câu:
“Tam tế cầu tâm, tâm bất hữu.”
Nghĩa là, dù có bỏ hết cả ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai
mà cầu thấy tâm, rốt ráo không thể được.
“Hiện tại tâm bất khả đắc, quá khứ tâm bất khả đắc, vị lai tâm
bất khả đắc.”
Tại sao vậy? Hãy nhìn vào quá khứ. Cái gì là quá khứ? Cái quá
khứ đã đi mất rồi. Thế nên cái tâm quá khứ không thể nắm bắt được. Cũng như
hiện tại nó không hề dừng. Ngay bây giờ, nếu quý vị nói đây là hiện tại, thì nó
cũng đã đi trôi qua rồi! Hiện tại không bao giờ ở yên cố định cả. Vậy thì tâm
hiện tại của quý vị nay ở nơi đâu? Còn tâm vị lai thì sao? Tương lai chưa đến.
Vì nó chưa đến, nên nó không hiện hữu. Do vậy.
Tam tế cầu tâm, tâm bất hữu
Tâm bất hữu xứ, vọng nguyên vô.
Tâm đã rốt ráo không rồi, thì vọng tưởng do đâu mà có? Nếu quý
vị hiểu được đạo lý này. Quý vị sẽ nhận ra vạn pháp xưa nay vốn là không, đều
lưu xuất từ tánh Như Lai tạng .
Tuy nhiên hành giả đã móng khởi một niệm chấp trước, chấp
trước điều gì? Đó là quan niệm hữu biên và vô biên. Anh ta nói rằng vạn vật vừa
là hữu biên, vừa là vô biên. Lập nên cái gọi là “luận thuyết” về hữu biên và vô
biên của vạn vật.
Một là người ấy suy luận về cội gốc sanh diệt trôi chảy biến
dịch không ngừng,
Trong trạng thái chuyển hóa hành ấm , hành giả phỏng đoán
rằng cội gốc của mười hai loại chúng sanh trôi nổi sống chết không cùng tận.
Dòng biến dịch trôi chảy không ngừng ấy là một sự biểu thị cho hành ấm vậy.
Lúc ấy hành giả xét đoán quá khứ tương lai là hữu
biên. Anh ta nói rằng “quá khứ và vị lai cả hai đều có giới hạn cả”
thật là vô lý. Quá khứ, vị lai làm sao mà đặt giới hạn cho nó được? Căn cứ vào
suy luận sai lạc, và suy chấp này. Anh ta cho rằng quá khứ vị lai là hữu biên.
Nhưng thực ra quá khứ, vị lai thì vô biên.
Trong quá trình tu tập do vì thiếu trí huệ nên hành giả đã bị
lạc đường, nên vừa tiêu dung được tưởng ấm , anh ta bị lạc mất chính lộ
khi đang chuyển hóa hành ấm . Đó là lý do tại sao hành giả sanh khởi kiến
chấp hữu biên vô biên.
còn chấp sự tương tục của tâm là vô biên.
Anh ta nói: “Sự tương tục không dừng nghĩ của tâm niệm trong
hiện tại thì không có ngằn mé và giới hạn nên nói là vô biên.”
Kinh Văn: Nhị giả thị nhân, quán bát vạn kiếp, tắc
kiến chúng sanh. Bát vạn kiếp tiền, tịch vô văn kiến. Vô văn kiến xứ, danh vi
vô biên, hữu chúng sanh xứ, danh vi hữu biên.
Việt dịch: Hai là người ấy quán sát trong tám vạn
kiếp, thấy có chúng sanh. Còn ngoài tám vạn kiếp thì vắng bặt, không thấy không
nghe được gì cả. Cho rằng nơi không thấy không nghe được gì là vô biên, còn nơi
có chúng sanh là hữu biên.
Giảng: Loại phân biệt thứ hai
là gì? Đó phân biệt về những gì anh ta nghe thấy được, và những gì anh ta không
nghe thấy được. Anh ta sắp xếp những gì anh ta nghe thấy được về một phía và
những gì không nghe thấy được về một phía khác. Vì thế anh ta lại rơi vào thế
nhị biên một lần nữa. Chưa đạt được nghĩa trung đạo .
Hai là người ấy quán sát trong tám vạn kiếp, thấy
có chúng sanh.
Khi hành giả ngồi thiền, năng lực của định giúp cho hành giả
có thể thấy được những hiện tượng trong tám vạn đại kiếp, và có thể thấy được
mười hai loại chúng sanh trong phạm vi ấy.
Còn ngoài tám vạn kiếp thì vắng bặt, không thấy không nghe
được gì cả. Anh ta có thể thấy được rất rõ ràng những sự kiện trong khoảng
tám vạn kiếp. Anh ta có thể thấy được các loại chúng sanh phải chịu trải qua vô
số lần sinh tử. Nhưng anh ta không thể nghe hoặc thấy những hiện tượng xảy ra
bên ngoài khoảng thời gian ấy.
Hành giả cho rằng nơi không thấy không nghe được gì cả
là vô biên, không có giới hạn. Và nơi có chúng sanh là hữu biên. Hành
giả lại rơi vào nhị biên lần nữa. Thành ra chấp có và chấp không. Có nghĩa dính
chặt vào quan niệm mọi hiện tượng đều là ngoan không. Chấp có nghĩa là dính mắc
với sắc. Cả hai đều chẳng khế hợp với trung đạo . Do vậy Đức Phật phê
phán hạng người này là theo tà giáo ngoại đạo.
Kinh Văn: Tam giả thị nhân, kế ngã biến tri, đắc vô biên tánh,
bỉ nhất thiết nhân, hiện ngã tri trung, ngã tằng bất tri, bỉ chi tri tánh. Danh
bỉ bất đắc, vô biên chi tâm, đãn hữu biên tánh.
Việt dịch: Ba là người ấy chấp rằng mình biết cùng khắp, là
được tánh vô biên, còn các người kia đều hiện ra trong cái biết của mình, mà
mình chưa từng biết họ nhận ra được tánh biết. Cho rằng những người kia không
đạt được tâm tánh vô biên mà chỉ đạt được tâm tánh hữu
biên.
Giảng: Ba là người ấy
chấp rằng mình biết cùng khắp, là được tánh vô biên. Hành giả
chấp rằng cái biết cùng khắp của mình là tánh vô biên. Loại phân biệt thứ ba là
phân biệt giữa cái ta của hành giả và cái khác. Cái
khác ở đây liên quan đến tất cả chúng sanh, và ngã liên quan đến
chính hành giả. Anh ta tạo nên một vọng chấp nữa và trở nên dính mắc với nó.
Anh ta nói: “Tôi cảm thấy tôi có một loại trí tuệ biết trùm khắp tất cả.” Nghĩa
là sao? Biết khắp tất cả có nghĩa là không có gì mà chẳng biết. Do vậy nó có
khả năng đạt đến một loại tánh vô biên.
Còn các người kia, các loại chúng
sanh đều hiện ra trong cái biết của mình tất cả đều được bao
quát trong trí tuệ của hành giả. Mà mình chưa từng biết họ nhận ra được
tánh biết. Hành giả cho rằng những người kia không đạt được tâm
tánh vô biên, mà chỉ đạt được tâm tánh hữu biên.
Chúng sanh chưa đạt được tâm vô biên, nhưng chính hành giả lại
có. Do vì anh ta không biết được tánh biết của họ nên cho rằng họ không đạt
được tâm vô biên và không có trí tuệ hiểu biết vô biên, mà chỉ có
một trí tuệ hạn cuộc. Đó là sự phân biệt giữa tự ngã và cái khác.
Kinh Văn: Tứ giả thị nhân, cùng hành ấm không. Dĩ
kì sở kiến, tâm lộ trù độ, nhất thiết chúng sanh, nhất thân chi trung, kế kì
hàm giai, bán sanh bán diệt. Minh kì thế giới, nhất thiết sở hữu. Nhất bán hữu
biên, nhất bán vô biên.
Việt dịch Bốn là người ấy khi nghiên cứu tột cùng hành
ấm đến chỗ rốt ráo không. Do những điều thấy được, suy luận rằng tất
cả chúng sanh trong mỗi thân phần, gồm có nữa phần sanh, nửa phần diệt. Cho
rằng rõ ràng mọi thứ trong đời một nửa là hữu biên, một nửa là vô biên.
Giảng: Bốn là người
ấy khi nghiên cứu tột cùng hành ấm đến chỗ rốt ráo không. Hành
giả nghiên cứu cùng tột hành ấm đến chỗ rốt ráo không. Loại phân biệt thứ tư là
gì? Đó là sự sanh và diệt. Hành giả nghiên cứu hành ấm đến mức tột cùng đến khi
nó biến thànhkhông.
Do những điều thấy được. Căn cứ
vào những điều thấy được, và hiểu được từ nghiên cứu, suy luận rằng tất
cả chúng sanh, trong mỗi thân phần, gồm có nửa phần sanh, nửa phần diệt.
Đây là một vọng chấp khác. Hành giả thấy trong trọn phần thân
thể của mỗi chúng sanh, đều có một phần sanh, một phần diệt. Vì tất cả chúng
sanh đều như thế. Hành giả đi đến kết luận như thế và toàn thể pháp giới.
Từ đây, kết luận rằng tất cả vạn vật trong
đời đều có một nửa là hữu biên, một nửa là vô biên.
Sự sanh ra là một mặt của hữu biên. Sự hoại diệt là mặt khác
của vô biên. Đó là sự suy lường của hành giả. Mới thấy anh ta càng lúc càng đi
xa mục tiêu.
Kinh Văn: Do thử kế độ, hữu biên vô biên, đọa lạc ngoại đạo,
hoặc bồ-đề tánh. Thị tắc danh vi, đệ tứ ngoại đạo, lập hữu biên luận.
Việt dịch: Do những chấp trước hữu biên, vô biên như thế, nên
người ấy rơi vào ngoại đạo, mê lầm tánh bồ-đề. Đây là luận hữu biên, thuyết thứ
tư của hàng ngoại đạo.
Giảng: Do những chấp
trước hữu biên, vô biên như thế, nên người ấy rơi vào ngoại đạo, mê lầm tánh
bồ-đề. Theo bốn thứ suy luận về hữu biên và vô biên, anh ta phỏng đoán
những gì? Nếu nó không hữu biên, thì nó vô biên. Nếu nó không vô biên thì nó
hữu biên. Anh ta cứ lý luận lẩn quẩn như vậy. Nói tóm lại hành giả không thể
đạt được lý trung đạo . Hoặc là anh ta đi đã quá xa, hoặc là anh ta
đi chưa đủ xa. Hoặc là anh ta chạy đã quá đà, hoặc là chưa đi được. Dù
chỉ một bước chân. Do vậy nên hành giả đánh mất
chánh biến tri và rơi vào ngoại đạo.
Tà thuyết của ngoại đạo là: khi thì thái quá, khi thì bất cập.
Không thái quá, chẳng bất cập mới được gọi là trung đạo . Chúng ta
nên tu tập theo lý trung đạo. Đức Phật giảng dạy chân lý Tối thượng
về trung đạo là chẳng chấp và không, cũng chẳng rơi vào có. Nếu chúng
ta trệ vào phía hữu biên hoặc nghiêng vào phía vô biên, có nghĩa là đã rơi vào
nhị biên, và như thế là mê lầm tánh bồ-đề chân thật, là không
nhận thức rõ được chân tánh bồ-đề.
Đây là luận hữu biên, thuyết thứ tư của hàng ngoại đạo.
5 – TÀ KIẾN VỀ BỐN THỨ
LUẬN THUYẾT ĐIÊN ĐẢO
Kinh Văn: Hựu tam ma trung, chư thiện nam tử, kiên ngưng chánh
tâm, ma bất đắc tiện. Cùng sanh loại bản, quán bỉ u thanh, thường nhiễu
động nguyên, ư tri kiến trung, tánh kế độ giả. Thị nhân trụy nhập, tứ chủng
điên đảo, bất tử kiểu loạn, biến kế hư luận.
Việt dịch: Lại nữa các thiện nam tử đó, trong tam-ma-đề, chánh
tâm đứng lặng sáng suốt, thiên ma không có cơ hội quấy phá. Trong nguồn
gốc sâu xa phát sinh của muôn loài, quán xét cội gốc thường nhiễu
động lăng xăng kia, khởi tâm suy lường về những gì mình thấy và biết. Người ấy
rơi vào bốn thứ luận điên đảo, hư vọng suy lường chấp trước, ngụy biện về bất
tử.
Giảng: Lại nữa các
thiện nam tử đó, trong tam-ma-đề, chánh tâm đứng lặng sáng suốt, thiên ma không
có cơ hội quấy phá.Hành giả trong khi thiền quán , chánh tâm ngưng lặng
vững chắc. Thiên ma không khuấy phá được nữa.
Điều này liên quan đến hết thảy các vị đang công phu tu tập và
an trú trong chánh định. Chánh định này ai tu cũng được, không dành riêng cho
một người nào. Vì hành giả phải có tâm kiên cố, giữ
cho định và huệ đều quân bình. Thì chẳng có một khe hở nào
để ma lọt vào. Nhưng dù ngoại ma chẳng xâm nhập được vào hành giả để khuấy phá,
thì nội ma lại xuất hiện. Nội ma là một loại ma sanh khởi từ sự chuyển biến tâm
thức của hành giả.
Trong nguồn gốc sâu xa phát sinh của muôn loài,
quán xét cội gốc thường nhiễu động lăng xăng kia. Hành
giả có thể nghiên cứu cùng tột cội nguồn của các loài chúng sanh, thấy được
manh mối thường chuyển động vi tế kia.
Hành giả xem xét kỹ nguồn gốc của mười hai loài chúng sanh,
quán sát bản tánh thanh tịnh tối sơ của các loài, thấy sự nhiễu động
thường hằng rất là vi tế ấy xuất hiện ở trong hành ấm .
Khởi tâm suy lường về những gì mình thấy và biết. Nhưng
nếu hành giả khởi niệm suy lường về những gì mình thấy biết.
Khi chưa khởi niệm suy lường ấy, thì chẳng có vấn đề gì. Nhưng
ngay khi những niệm này sanh khởi liền có rắc rối xảy ra. Cho nên nói:
“Khai khẩu tiện thố, cử niệm tức quai.”
Nghĩa là: Mở miệng liền sai lầm, khởi niệm là sai ngay. Ngay
khi vừa khởi vọng niệm, vấn đề rắc rối liền nảy sanh. (34)
Người ấy rơi vào bốn thứ luận điên đảo, hư vọng suy lường chấp
trước, ngụy biện về bất tử.
Chấp trước, suy lường là tánh biến kế chấp mà tôi
đã giảng ở trước. Nó là một loại vọng chấp, hành giả trở nên chấp trước với
những việc không chân chánh. Đó gọi là tánh biến kế chấp.
Kinh Văn: Nhất giả thị nhân, quán biến hóa nguyên,
kiến thiên lưu xứ, danh chi vi biến, kiến tương tục xứ, danh chi vi hằng. Kiến
sở kiến xứ, danh chi vi sanh. Bất kiến kiến xứ, danh chi vi diệt. Tương tục chi
nhân, tánh bất đoạn xứ, danh chi vi tăng. Chánh tương tục trung, trung sở li
xứ, danh chi vi giảm. Các các sanh xứ, danh chi vi hữu. Hỗ hỗ vong xứ, danh chi
vi vô. Dĩ lí đô quán, dụng tâm biệt kiến. Hữu cầu pháp nhân, lai vấn kì
nghĩa, đáp ngôn ngã kim, diệc sanh diệc diệt, diệc hữu diệc vô, diệc tăng diệc
giảm. Ư nhất thiết thời, giai loạn kì ngữ, linh bỉ tiền nhân, di thất chương
cú.
Việt dịch: Một là người ấy quán sát cội gốc của sự
biến hóa, thấy chỗ đổi dời, nên gọi là biến. Thấy chỗ tương tục, gọi là
thường hằng. Thấy chỗ thấy được, gọi đó là sanh. Chỗ không thấy được, thì gọi
là diệt. Chỗ các nhân tương tục, tánh không dứt đoạn, thì gọi là tăng. Chính
trong tương tục, không xa lìa nhau, thì gọi là giảm. Chỗ mỗi mỗi sinh ra,
thì gọi là có. Chỗ nương nhau hư hoại, thì gọi là không. Dùng lý quán sát, thấy
đều do dụng tâm mà dẫn đến những kiến chấp sai biệt. Nếu có người đến cầu pháp,
hỏi về nghĩa ấy thì đáp rằng ta cũng sinh, cũng diệt, cũng có, cũng không, cũng
tăng, cũng giảm. Luôn luôn giải thích một cách càn loạn, khiến người nghe không
thể hiểu được.
Giảng: Một là người
ấy quán sát cội gốc của sự biến hóa, thấy chỗ đổi dời, nên gọi
là biến. Hành giả, người sắp sửa đi vào con đường mê loạn, quán
sát cội gốc của sự biến hóa ở trong hành ấm thấy chỗ biến dịch trôi
chảy nên gọi là biến. Anh ta quan sát sự trôi chảy của hành ấm và nói rằng nó
đang trải qua sự biến đổi.
Thấy chỗ tương tục, gọi là thường hằng. Nhận
thấy hành ấm tương tục, không hề dừng nghỉ, hành giả gọi là thường
hằng.Thường nghĩa là không biến đổi. Biến đổi hàm ý vô thường. Trong
khi không biến đổi hàm ý là thường.
Thấy chỗ thấy được, gọi đó là sanh. Thấy
nơi có thể thấy được gọi đó là sanh. Khi quán sát hành ấm ,
hành giả có thể thấy được một số vùng. Thấy được sự nhiễu động vi tế và mô tả
nơi ấy là sinh.
Chỗ không thấy được, gọi đó là diệt, hành
giả không thể dò thấu những nhiễu động u ẩn của hành ấm , nên gọi đó
là diệt.
Nói cách khác, hành giả có thể hiểu rõ được những hiện tượng
trong phạm vi tám vạn đại kiếp rồi cho đó là sinh. Anh ta không thể thấy được
những gì ngoài phạm vi tám vạn đại kiếp, nên gọi đó là diệt. Điều này tương tự
như trường hợp trước.
Hành giả cho rằng, chỗ các nhân tương tục, tánh không dứt
đoạn, thì gọi là tăng.
Khi cái nhân tương tục, không bị gián đoạn. Anh ta gọi đó là
thêm. Đó là một trạng thái khác của hành ấm mà anh ta cảm nhận được.
Chính trong tương tục, không xa lìa nhau, thì gọi là
giảm
Trong phạm vi tương tục, mà có sự tạm dừng, hành giả gọi là
bớt. Chẳng hạn như khi hai mươi lăm vị thánh trình bày về pháp tu viên thông
của mình. Một trong các vị ấy trình bày về sự ngưng lại giữa hơi thở ra và hơi
thở vào. Đó cũng là chỗ dừng. Các ngài gọi sự dừng nghỉ trong phạm vi
tương tục là giảm. Nhưng quý vị đừng có theo lý thuyết này, vì đó chỉ là
thuật ngữ, là những khái niệm do các ngài lập ra. Nên nó hoàn toàn không thực.
Đừng có truy tìm những nguyên do trong các lý thuyết trên. Đó là lý do tại sao
những lý thuyết này được ngoại đạo vận dụng để mê hoặc. Chẳng có nguyên do nào
xác đáng ở trong những lý thuyết ấy cả.
Chỗ mỗi mỗi sinh ra, thì gọi là có.
Cho rằng sự sinh khởi của tất cả vạn pháp là có, hành giả
quan sát vạn pháp sinh khởi trong phạm vi hành ấm , rồi gọi là nó có sự
hiện hữu.
Chỗ nương nhau hư hoại, thì gọi là không.
Sự hư hoại của vạn vật là không. Anh ta gọi nơi mà vạn
vật hoại diệt và không còn hiện hữu nữa là không. Đây là bốn thứ lý luận
điên đảo.
Dùng lý quán sát, thấy đều do dụng tâm mà dẫn đến
những kiến chấp sai biệt.
Do sự dụng tâm của hành giả mà đưa đến những mâu thuẫn.
Nếu quý vị dùng lý để quán sát, quý vị sẽ thấy những lý luận trên
hoàn sai. Hành giả đã dụng tâm hoàn toàn sai lầm.
Vào lúc ấy nếu có người đến cầu pháp, thỉnh
cầu chỉ dạy về pháp yếu của đạo Phật, hỏi về nghĩa ấy, đáp
rằng ta cũng sinh, cũng diệt, cũng có, cũng không, cũng tăng, cũng giảm.
Anh ta trả lời :“Nay ta cũng sinh cũng diệt, cũng có cũng
không, cũng tăng cũng giảm.”
Luôn luôn giải thích một cách càn loạn.
Anh ta luôn luôn biện hộ bào chữa cho hai cực đoan này. Nếu
anh ta không nói về có, thì anh ta kết luận nó là không. Nếu anh ta
tránh bàn luận về không thì anh ta nói đến sắc, vì anh ta đề cập
đến cả hai khía cạnh, nên không thể đạt đến lý trung đạo .
Khiến người nghe không thể nào hiểu được. Gây
cho người tìm hiểu Phật pháp đối diện với lối giải thích càn loạn. Người hỏi
hoàn toàn quên mất những vấn đề mình đang cần tìm hiểu và không thể nhớ là mình
đến đây để xin chỉ dạy điều gì nữa. Các ông nên gọi đó là loại giáo
dục gì? Khi người ta đến xin chỉ dạy, nhưng hành giả làm cho họ bị rối loạn đầu
óc cho đến khi họ đánh mất toàn bộ nhận thức chân chính. Không những họ bị đánh
mất những tri thức có được do học hỏi, mà còn bị mê mờ luôn cả trí tuệ thanh
tịnh vốn hằng có xưa nay. Người này đã bị mê lầm và còn tiếp tục làm cho nhiều
người khác bị mê lầm.
Kinh Văn: Nhị giả thị nhân, đế quán kì tâm, hỗ hỗ
vô xứ. Nhân vô đắc chứng. Hữu nhân lai vấn, duy đáp nhất tự, đãn ngôn kì vô.
Trừ vô chi dư, vô sở ngôn thuyết.
Việt dịch: Hai là người ấy quán sát chân xác tâm
mình, thấy hết thảy mọi thứ đều là không. Nhân nơi cái không mà
có chứng đắc. Nên khi có người đến hỏi chỉ đáp một chữ không.
Ngoài chữ không ra, không nói điều gì.
Giảng: Hành giả
chỉ biết về không, nên nói một cách điên loạn như vậy. Anh ta
chối bỏ sự hiện hữu của mọi vật. Bất luận quý vị có hỏi anh ta điều gì. Anh ta
đều đáp: không. Đó là lời đáp duy nhất của anh ta.
Hai là người ấy quán sát chân xác tâm mình, thấy
hết thảy mọi thứ đều là không. Trong mười hai loại
chúng sanh, hành giả thấy khi tâm mình đã tiêu dung được hành ấm , thì nó
cùng với mình đều là không hiện hữu.
Nhân nơi cái không mà có chứng đắc. Hành
giả thấy có sự chứng đắc nhân nơi nhận thức về cái không này. Anh ta cho rằng
mình đã giác ngộ được nhận nơi nhận thức về không ấy rồi. Thực ra,
anh ta chẳng hiểu gì cả. Anh ta đã đi quá xa với đạo lý chân chính. Nhận thức
của anh ta hoàn toàn sai lạc. Anh ta phát khởi một kiến chấp
vào không và cho đó là điều giác ngộ. Anh ta giác ngộ cái gì? Giác
ngộ chữ không.
Vì thế, nên khi có người đến hỏi chỉ đáp một
chữ không. Anh ta chỉ đáp một chữ. Mọi người đều nghĩ rằng anh ta
là người tu hành dày dặn. Vì anh ta luôn luôn nhắm mắt lại để dưỡng thần. Suốt
ngày không nói một chữ nào. Anh ta chỉ ăn vài trái chuối trong ngày. Mọi người
cho rằng anh là thánh, nên đến cầu xin giảng pháp. Khi họ hỏi, anh ta chỉ biết
giả dạng mô phạm bằng cách chỉ đáp một chữ. Chiến thuật này được gọi
là Thiền một chữ. Người ta gọi thế là vì họ không hiểu anh ta nói gì.
Bất kỳ quý vị hỏi anh ta về điều gì.
Anh ta chỉ đáp không.
Nếu quý vị có hỏi:
– Tôi nên tu hành như thế nào?
Anh ta đáp: không.
– Tôi nên niệm Phật như thế nào? không.
– Thọ giới, giữ gìn luật nghi, việc ấy ông nghĩ tốt chăng?
– Không.
Anh ta liên tục đáp không khiến quý vị hoang mang và quên hết
những gì định hỏi. Quý vị thắc mắc không hiểu ông ta nói khônglà không cái
gì? Quý vị không thể tự giải đáp nổi. Cuối cùng nó đánh mạnh vào tâm thức quý
vị “Ồ! Thực ra là chẳng có cái gì cả. Đúng là chẳng có cái gì hết.”
Ngoài chữ không ra, ngoài
những chữ không, không nói điều gì, anh ta chẳng nói gì cả.
Quý vị có thể hỏi anh ta một đến 100, 1.000, vạn câu hỏi.
Nhưng anh ta sẽ luôn luôn trả lời không. Thế là quý vị nghĩ rằng: “Lý
thiền ông ta nói quá cao xa. Chúng ta không thể nào với tới được.”
Kinh Văn: Tam giả thị nhân, đế quán kì tâm, các các
hữu xứ. Nhân hữu đắc chứng. Hữu nhân lai vấn, duy đáp nhất tự, đãn ngôn kì thị.
Trừ thị chi dư, vô sở ngôn thuyết.
Việt dịch: Ba là người ấy quán sát chân xác tâm
mình, thấy hết thảy mọi thứ đều hiện hữu (có). Nhân nơi
cái có mà chứng đắc. Nên khi người đến hỏi chỉ đáp một
chữ có. Ngoài chữ có ra, không nói gì khác.
Giảng: Trong loại lý luận
điên đảo càn loạn thứ ba này.
Ba là người ấy quán sát chân xác tâm mình, thấy hết
thảy mọi thứ đều hiện hữu (có).
Anh ta tự quán sát vào sâu trong tâm mình và thấy
mười hai loại chúng sinh đều trải qua chỗ có sự sinh tử này. Nhân
nơi cái cómà chứng đắc. Nghĩ rằng mình có sự chứng đắc từ nhận
thức về có. Thực vậy, anh ta chẳng chứng được quả vị gì cả. Trong kinh
chỉ nói để mô tả sự nhầm lẫn của anh ta mà thôi. Hành giả quán sát các
loại chúng sanh rồi nói: “À! Toàn là có cả.” Thấy được điều này anh
ta nghĩ là mình đã giác ngộ và chứng được quả vị.
Nên khi có người đến hỏi. Chỉ đáp một chữ có.
Bất luận người ta hỏi về pháp gì? Anh ta cũng
chỉ đáp một chữ có.
Quý vị hỏi:
Tôi muốn rời gia đình xuất gia làm một vị Tăng. Việc ấy nên
chăng?
Anh ta sẽ đáp: Có.
– Tôi muốn thọ trì năm giới được chăng?
– Có!
Bây giờ, tốt nhất là tôi nên làm điều gì?
– Có!
Ngoài chữ có ra, anh ta không
nói gì khác.
Anh ta không nói điều gì khác ngoài chữ có. Nên quý vị sẽ
nghĩ rằng: “Ồ! Đây thực sự là thiền một chữ. Ông ta chắc là một vị cao
Tăng. Pháp mà ông ta nói quá hay đến nỗi ta không thể nào hiểu được.”
Nó hay chỉ vì quý vị hoàn toàn không hiểu được nó.
Chẳng hạn như bấy giờ nếu quý vị hiểu được những gì trong Kinh mà tôi đang
giảng cho quý vị nghe, thì điều đó chẳng hay tí nào cả! Quý vị có thể nói:
“Nói lui nói tới hoài mà tôi chẳng hiểu Pháp sư này giảng
những gì nữa?” Trường hợp như vậy, thì thật đáng mừng cho quý vị. Đơn giản
chỉ vì quý vị không hiểu. Đó là điều rất tốt. Một khi quí vị hiểu
được, thì nó không còn hay ho gì nữa. Tại sao vậy. Vì đã hiểu được. Bất luận
thứ gì khi mà chưa hiểu thì đều hay đều đẹp. Do vậy, nếu quý vị muốn được điều
kỳ diệu, thì chẳng nên học Phật pháp (theo kiểu ấy).
Nếu quý vị không học, thì quý vị chẳng biết được đạo lý, nên
thấy mọi việc đều lạ và hay cả.
Bất luận khi có người hỏi điều gì. Nó đều đáp: có. Sao
vậy? Anh ta nghĩ rằng mình đã giác ngộ từ cái có, vì thế anh ta truyền
phápcó ấy cho quý vị.
Kinh Văn: Tứ giả thị nhân, hữu vô câu kiến. Kì cảnh chi cố, kì
tâm diệc loạn. Hữu nhân lai vấn, đáp ngôn diệc hữu, tức thị diệc vô; diệc vô
chi trung, bất thị diệc hữu. Nhất thiết kiểu loạn, vô dung cùng cật.
Việt dịch: Bốn là người ấy chấp
cả có và không. Do cảnh phân tán, tâm cũng tán loạn. Khi
có người đến hỏi, thì đáp cũng có tức là cũng không;
trong cái cũng không, chẳng phải là cũng có. Tất cả hoàn toàn càn
loạn, khi suy xét kỹ lưỡng, thấy không thể nói hết được.
Giảng: Bốn lý luận càn loạn
này là sự hỗn loạn của lý thuyết “hữu” hay “vô.” Lý thuyết này là gì? Hành giả
đề cập cả hai vấn đề có vàkhông. Nhưng anh ta nói rằng những vật
không hiện hữu thì không thể cũng có, và những vật hiện hữu thì không thể cũng
không. Anh ta chẳng biết vạn vật hiện hữu như thế nào nữa. Nói một cách điên
dại như người say rượu.
Bốn là người ấy chấp cả có và không.
Trong phạm vi hành ấm , anh ta nhận thấy hành ấm giống
như sóng gợn lăn tăn trên mặt nước, không hề dừng nghỉ. Nên anh ta cho
rằng có. Anh ta cho rằng sự tạm dừng trong khi sóng ngưng lặng
là không.
Do cảnh phân tán, tâm cũng tán loạn.
Tâm hành giả sinh khởi một niệm phân tích chia chẻ. Giống như
những cành nhánh trên một thân cây. Thế nên anh ta tuyên bố rằng vạn pháp vừa
có vừa không. Tâm hành giả rối loạn vì không có trí huệ chân chánh, hay định
lực. Do định lực và trí huệ không quân bình.
Lúc này, hành giả trở nên chấp trước và không thể nào tìm được
lối thoát ra khỏi mớ hỗn độn. Anh ta gặp một con đường tà kiến và chẳng biết
con đường nào là chánh đạo.
Khi có người đến hỏi, thì đáp cũng có tức
là cũng không, trong cái cũng không, chẳng phải là cũng có.
Khi có người đến hỏi, thỉnh cầu chỉ dạy Phật pháp
thì đáp rằng: cũng có tức là cũng không. Vật hiện hữu thì cũng giống như
không hiện hữu. Nhưng trong cái cũng không, chẳng phải là cũng có.” Nhưng
những vật không hiện hữu rồi thì không thể nào trở thành có được.”
Những vật nào đã hiện hữu rồi cũng tức là không hiện hữu.
Nhưng những vật không hiện hữu thì không tồn tại. Rốt cục, lý luận này là loại
gì?
Là thứ hoàn toàn càn loạn. Đó là một thứ lý luận
lầm lạc. Anh ta chẳng biết mình nói gì nữa. Đó là lý do tại sao tôi cho rằng
anh ta nói như người say rượu.
Khi suy xét kỹ lưỡng, thấy không thể dung hợp được. Không có
cách nào để chấp nhận lý lẽ của anh ta. Thế lúc ấy, các ông nên làm gì? Chỉ nên
áp dụng một phương pháp. Đó là vả vào mồm xem thử anh ta còn nói có,
không được nữa chăng? Nếu quí vị vả vào mồm anh ta. Anh ta sẽ nói: “Tại
sao lại đánh ta?.”
Nhưng ông không hiện hữu, ông có nhớ không? Vậy nên tôi đánh
ông cũng như không đánh!
Hoặc có một cách khác nữa, quý vị cầm một con dao và nói: “Nè!
Tôi đến để giết ông,” và xem hỏi anh ta có tồn tại hay không? Quý vị
chẳng cần lý sự với anh ta làm gì. Những gì anh ta nói đều không thể nào chấp
nhận được khi soi xét bằng đạo lý. Quý vị không nên hỏi đạo nơi những người như
thế.
Kinh Văn: Do thử kế độ, kiểu loạn hư vô, đọa lạc ngoại đạo,
hoặc bồ-đề tánh. Thị tắc danh vi đệ ngũ ngoại đạo, tứ điên đảo tánh, bất tử
kiểu loạn, biến kế hư luận.
Việt dịch: Do chấp trước càn loạn rỗng không này,
người ấy rơi vào ngoại đạo, mê mờ tánh bồ-đề. Đây là tà thuyết ngoại đạo thứ
năm, lập bốn luận thuyết hư vọng, điên đảo biến kế, càn loạn bất tử.
Giảng: Do chấp trước
vào bốn lý thuyết càn loạn rỗng không này. Lý thuyết của anh ta không thể
nào tưởng tượng nổi. Những điều anh ta nói là không thể nào có được. Đều là một
thứ lý thuyết vô lý. Do đó, người ấy rơi vào ngoại đạo.
Tại sao lại gọi là tà thuyết ngoại đạo? Vì đạo lý không chân
chính. Tri kiến của anh ta đều lầm lạc, nên những nguyên lý anh ta đưa ra không
được chính xác, không đạt được chỗ rốt ráo của hiện tượng. Mê mờ tánh
bồ-đề. Anh ta hoàn toàn không biết con đường dẫn đến giác ngộ. Anh ta không
được ánh sáng giác ngộ chân chính soi sáng.
Đây là tà thuyết ngoại đạo thứ năm, lập bốn luận thuyết hư
vọng, điên đảo biến kế, càn loạn bất tử.
Trong lý luận thứ nhất, anh ta nói mình vừa sống vừa chết, cả
có cả không; cả tăng cả giảm.
Trong lý thuyết thứ hai, anh ta trả lời các câu hỏi
chỉ bằng một chữ “không.” Nói “không, không, không” suốt ngày và
không nói một chữ nào khác. Bất luận người ta hỏi điều gì, anh ta chỉ đáp một
chữ “không.” Nếu quý vị có hỏi trăm ngàn câu, chỉ nhận được rất nhiều lời đáp
“không.”
Trong trường hợp thứ ba, anh ta chỉ đáp một tiếng
“có.” Nếu như quý vị hỏi “Tôi làm giặc được không.” Anh ta liền đáp:
“có.”
Hỏi: “Tôi thọ giới được không?
Đáp: Có.
Hỏi: Ăn phân người được không?
Đáp: Có.
Hỏi: Uống nước tiểu được chăng?
Đáp: Có
Hỏi: Ông có chết không?
Đáp: Có
Hỏi: Ông có còn tiếp tục sống trên thế gian này không?
Đáp: Có.
Bất luận các ông hỏi điều gì, anh ta đều đáp “có,” dù ngàn vạn
lần hỏi, cũng chẳng có lời đáp nào khác ngoài chữ “có.” Chữ “có” của anh ta
biểu thị cho sự tồn tại. Mọi vật đều hiện hữu, đều là “có.”
Trong trường hợp thứ tư, là trường hợp đang đề cập hôm nay.
Anh ta nói rằng cái “có” bao hàm cái “không,” nhưng cái “không” lại không bao
hàm cái “có.” Rốt cục đó là loại lý luận gì? Đó là loại lý thuyết mà anh ta đã
giãi bày. Bốn loại lý luận căn cứ vào sự càn loạn bất tử. Đó là lý luận không
mạch lạc và chẳng sáng suốt tý nào.
Đó hoàn toàn là những suy loạn hư vọng, không thực. Trước đây
tôi đã giảng về tam tánh:
Tánh biến kế chấp .
Tánh y tha khởi .
Tánh viên thành thật .
Không biết quý vị đã hiểu rõ ý nghĩa của ba tánh này
chưa?
Tánh biến kế chấp là gì? Giả sử như các ông thấy
một sợi dây thừng nằm trên đường vào một đêm không có trăng, quý vị có
thể nghĩ “Ồ! Có lẽ là rắn.” Đó là biến kế chấp. Đó chỉ là một
sợi dây thừng, mà quý vị khởi lên một nhận định sai lạc đó là con rắn.
Giá như khi quý vị thấy bóng cây trong đêm trăng, quý vị sẽ nghĩ
“Ồ! có lẽ là ma” rồi phát sợ.
Có khi trong đêm quý vị thấy một con chó và nghĩ: “Ồ! đó là
chó sói hay cọp.” Đó là sự sinh khởi của tánh biến kế chấp , khi quý
vị nhìn kỹ, thấy nó chỉ là con chó, chẳng phải là sói, chẳng phải là
cọp. Đây gọi là tánh “Y tha khởi.”
Nương vào con chó. Tánh biến kế chấp của quý
vị sinh khởi và hoạt động. Nó thực sự chỉ là con chó. Con chó là gì?
Là một súc vật. Bởi vì quý vị có sẵn tánh biến kế chấp , nên lầm chó
với chó sói, với cọp, hay lầm một sinh vật nào khác. Hoàn toàn tương tự như khi
ban đêm quý vị nhìn một bóng cây dưới trăng. Quý vị tưởng rằng sợi dây thừng
kia là con rắn. Nhưng khi quý vị nhìn kỹ, thì nó chỉ là sợi dây thừng. Sợi dây được
gọi là tánh y tha khởi . Tánh y tha khởi là gì? Sợi dây
thừng làm bằng gì? Nó làm bằng sợi gai. Sợi gai được gọi là tánh viên
thành thật , sợi gai có thể làm thành dây thừng, đó là y tha
khởi . Nương nơi tánh viên thành thật, mà tánh y tha
khởi phát sinh. Nên khi quý vị không quán sát hiện tượng một
cách kỹ lưỡng, thì tánh biến kế chấp sinh khởi. Tà thuyết ngoại đạo
cũng tương tự như vậy.
Những gì họ nói không phải là những gì thực sự biểu hiện của
vạn vật. Họ phát khởi những tà thuyết này là hoàn toàn dựa vàobiến kế
chấp .
6 – TÀ KIẾN VỀ HỮU TƯỚNG
Kinh Văn: Hựu tam ma trung, chư thiện nam tử, kiên ngưng chánh
tâm, ma bất đắc tiện. Cùng sanh loại bản, quán bỉ u thanh, thường nhiễu
động nguyên, ư vô tận lưu sanh kế độ giả, thị nhân trụy nhập, tử hậu hữu tướng,
phát tâm điên đảo.
Việt dịch: Lại nữa các thiện nam tử
đó, trong tam-ma-đề, chánh tâm đứng lặng sáng suốt, thiên ma không có cơ hội
quấy phá. Trong nguồn gốc sâu xa phát sinh của muôn loài,
quán xét cội gốc thường nhiễu động lăng xăng kia, khởi tâm chấp đó
là dòng sinh diệt vô tận, thì người ấy rơi vào tư tưởng điên đảo, cho rằng sau
khi chết còn có tướng.
Giảng: Lại nữa các
thiện nam tử đó, trong tam-ma-đề, chánh tâm đứng lặng sáng suốt, thiên ma không
có cơ hội quấy phá.
Trong khi thiền quán , chánh tâm ngưng lặng, vững chắc
thiên ma không khuấy phá được nữa.
Điều này liên quan đến những hành giả khi tu tập đã đạt được
chánh định kiên cố, bởi vì anh ta có được định lực kiên cố và chánh tâm, nên
thiên ma không có cách nào quấy nhiễu được. Ma thuật hoàn toàn hết hiệu nghiệm.
Mặc dù ma lực không thể dụng được đến hành giả, nhưng thiên ma lại sinh khởi
ngay trong tâm hành giả. Loại ma từ tự tâm sinh khởi rất khó hàng phục.
Trong nguồn gốc sâu xa phát sinh của muôn loài,
quán xét cội gốc thường nhiễu động lăng xăng kia. Hành
giả có thể nghiên cứu cùng tột cội gốc của các loài chúng sanh. Đó là manh mối,
nguồn gốc của mọi loài chúng sanh.
Quán xét cội gốc thường nhiễu động lăng xăng kia. Thấy
được manh mối thường chuyển động vi tế kia. Hành giả quán sát được
nguồn cội bản chất của cái nhiễu động nhẹ nhàng, lăn tăn vi tế u ẩn của mười
hai loài chúng sanh. Cội gốc của tánh chất ấy chính làhành ấm , được biểu
hiện qua tướng nhiễu động rất vi tế kia.
Nhưng nếu hành giả khởi tâm chấp đó là dòng sinh diệt
vô tận, thì người ấy rơi vào tư tưởng điên đảo, cho rằng sau khi chết còn có
tướng.
Nhưng nếu hành giả khởi niệm suy lường chấp đó là dòng sanh
diệt vô tận, thì người ấy rơi vào tư tưởng điên đảo, cho rằng sau khi
chết còn có tướng.
Tướng nhiễu động vi tế kia giống như sự tương tục của sóng lăn
tăn gợn trên mặt nước, nếu chấp như vậy, thì hành giả sẽ bị rơi vào tư
tưởng mê lầm điên đảo, cho rằng sau khi chết vẫn còn sắc tướng. Do chấp rằng
vẫn còn hiện hữu sau khi chết, nên tâm người ấy trở nên mê loạn.
Kinh Văn: Hoặc tự cố thân, vân sắc thị ngã. Hoặc kiến ngã
viên, hàm biến quốc độ, vân ngã hữu sắc. Hoặc bỉ tiền duyên, tùy ngã hồi hậu,
vân sắc thuộc ngã. Hoặc hậu ngã y, hành trung tương tục, vân ngã tại sắc.
Việt dịch: Hoặc tự củng cố thân mình, cho rằng sắc là ta. Hoặc
thấy cái ta bao trùm khắp các cõi nước, cho rằng ta có sắc. Hoặc thấy các tiền
trần kia, đều theo ta quay về, nên cho rằng sắc thuộc về ta. Hoặc cho
rằng cái ta nương theo hành ấm mà tương tục, nên cho rằng ta ở trong
sắc.
Giảng: Hoặc tự củng
cố thân mình, cho rằng sắc là ta.
Hoặc hành giả tự chấp cứng lấy thân mình, cho rằng sắc chính
là ngã.
Người phát khởi loại vọng chấp này, là mong muốn thân xác mình
được lâu dài và kiên cố. Anh ta tuyên bố rằng sắc là một yếu tố trong tứ đại,
đơn giản chính là ngã.
Hoặc thấy cái ta bao trùm khắp các cõi nước, cho rằng ta có
sắc.
Hoặc thấy mình bao trùm khắp các cõi nước, cho rằng trong ngã
có sắc, chấp rằng tự tánh của mình viên dung vô ngại, bao hàm khắp các
cõi nước trong mười phương. Do đó, anh ta cho rằng Ngã chứa đựng cả sắc. Đó là
loại sắc gì? Anh ta nói: “Ta có cái sắc vĩ đại vô cùng.”
Hoặc thấy các tiền trần kia, đều theo ta quay về, nên
cho rằng sắc thuộc về ta.
Hoặc thấy các tiền trần kia đều quay về bên cái Ta, nên cho
rằng sắc thuộc về ngã. Hoặc anh ta cho rằng các tiền trần kia đều theo anh ta
đi khắp mọi nơi và sắc trong tứ đại hoàn toàn thuộc về ngã.
Hoặc cho rằng cái ta nương theo hành ấm mà tương
tục, nên cho rằng ta ở trong sắc. Cho rằng ngã nương nơi
hành ấm mà tương tục, nên cho rằng ngã ở trong sắc.
Kinh Văn: Giai kế độ ngôn, tử hậu hữu tương. Như thị tuần
hoàn, hữu thập lục tướng.
Việt dịch: Từ tất cả kiến chấp này, đều cho rằng sau khi chết
còn có tướng. Xoay vần như thế có 16 tướng.
Giảng: Từ tất cả kiến
chấp này, đều cho rằng sau khi chết còn có tướng. Từ tất cả kiến chấp
này, hành giả cho rằng sắc còn tồn tại sau khi chết.
Trước đây khi giảng về sắc và triền trần, tôi có nói về bốn lý
luận của hành giả:
1.
Sắc trong tứ đại thuộc về ta.
2.
Sắc trong tứ đại chính là ta.
3.
Sắc ở trong ta, thế nên ta lớn và sắc thì nhỏ.
4.
Tách rời khỏi ta, chẳng có sắc.
Tóm lại: lý luận của anh ta đều vô nghĩa. Chẳng có chút gì hợp
lý. Qua bốn lý thuyết này, anh ta chấp rằng có sự hiện hữu sau khi chết.
Xoay vần như thế có 16 tướng.
Theo kiến chấp ấy, hành giả rơi vào mười sáu trường hợp hiện
hữu của sắc tướng.
Anh ta lấy bốn lý thuyết trên và liên hệ chúng với bốn thứ:
Sắc ấm , thọ ấm , tưởng ấm và hành ấm . Như vậy thành
ra 16 trường hợp hiện hữu của sắc, thọ, tưởng hành và tứ đại: đất, nước, gió, lửa.
Thật là vô ích khi hỏi tại sao lại đặt ra những lý luận này. Vì căn bản là bất
hợp lý, trong đó chẳng có ý nghĩa gì cả. Tôi chẳng hiểu gì về bốn lý thuyết đó.
Vì trước hết là chúng chẳng có gì rõ ràng minh bạch cả.
Kinh Văn: Tòng thử hoặc kế, tất cánh phiền não, tất cánh
bồ-đề, lưỡng tánh tịnh khu, các bất tương xúc.
Việt dịch: Từ đó, chấp rằng rốt ráo phiền não, tột cùng bồ-đề,
hai tánh ấy đều khu biệt, không mâu thuẫn nhau.
Giảng: Bốn lần bốn làm thành mười sáu cách mà sắc có thể hiện
hữu. Hành giả thấy rằng bốn lý thuyết ấy có thể liên hệ với mỗi thứ trong bốn
ấm: sắc ấm, thọ ấm , tưởng ấm , hành ấm ; hoặc với tứ đại: đất
nước, gió, lửa.
Từ đó, chấp rằng rốt ráo phiền não, tột cùng bồ-đề, hai
tánh ấy đều khu biệt.
Cho rằng phiền não luôn luôn là phiền não, bồ-đề luôn luôn là
bồ-đề.
Anh ta cho rằng phiền não mãi mãi là phiền não, bồ-đề vĩnh
viễn là bồ-đề. Như vậy nên câu: phiền não tức bồ-đề là sai.
Không mâu thuẫn nhau.
Hai tánh chất này cùng tồn tại song song, không mâu thuẫn
nhau.
Anh ta tuyên bố hai chức năng này tồn tại song song nhau,
không phá vỡ nhau. Nhưng chúng tương tác với nhau. Nhưng quan điểm này hoàn
toàn sai lạc. Căn bản là điều ấy không thể có được. Tại sao anh ta nói như thế?
Vì mê mờ tánh bồ-đề.
Kinh Văn: Do thử kế độ, tử hậu hữu cố, đọa lạc ngoại đạo, hoặc
bồ-đề tánh. Thị tắc danh vi đệ lục ngoại đạo, lập ngũ ấm trung, tử hậu
hữu tướng, tâm điên đảo luận.
Việt dịch: Do chấp sau khi chết vẫn còn hiện hữu, nên
rơi vào ngoại đạo và trở nên mê mờ tánh bồ-đề. Đây là ngoại đạo thứ sáu, lập
nên lý thuyết điên đảo, cho rằng trong ngũ ấm, sau khi chết có tướng.
Giảng: Do chấp
sau khi chết vẫn còn hiện hữu, nên rơi vào ngoại đạo và trở nên mê mờ
tánh bồ-đề.
Bốn loại sắc ấm, thọ ấm , tưởng ấm , hành
ấm , nhân với bốn, làm thành mười sáu loại tồn tại của sắc. Hành giả nói
rằng: Sắc tướng còn hiện hữu sau khi chết. Do vì chấp rằng sau khi chết vẫn còn
hiện hữu. Hành giả rơi vào ngoại đạo và trở nên mê mờ tánh bồ-đề là chân tánh
vốn có từ xưa của anh ta.
Đây là ngoại đạo thứ sáu, lập nên lý thuyết điên đảo, cho rằng
trong ngũ ấm, sau khi chết có tướng.
Đây là tà thuyết ngoại đạo thứ 6, lập nên lý thuyết điên
đảo về sự hiện hữu của sắc tướng sau khi chết trong phạm vi ngũ ấm.
Ngũ ấm ở đây chỉ liên quan đến bốn thứ, đó
là: sắc ấm, thọ ấm , tưởng ấm , hành ấm . Không liên quan
đến thức ấm . Anh ta nói rằng con người sau khi chết rồi, họ vẫn tiếp
tục còn có hình tướng. Khi tâm ý anh ta bị rối loạn, mất phương hướng. Anh ta
đưa ra loại lý thuyết này.
7 – TÀ KIẾN SAU KHI CHẾT
KHÔNG CÒN SẮC TƯỚNG
Kinh Văn: Hựu tam ma trung, chư thiện nam tử, kiên ngưng chánh
tâm, ma bất đắc tiện. Cùng sanh loại bản, quán bỉ u thanh, thường nhiễu
động nguyên, ư tiên trừ diệt, sắc thọ tưởng trung, sanh kế độ giả. Thị nhân
trụy nhập, tử hậu vô tướng, phát tâm điên đảo.
Việt dịch: Lại nữa các thiện nam tử đó, trong tam-ma-đề, chánh
tâm đứng lặng sáng suốt, thiên ma không có cơ hội quấy phá. Trong nguồn
gốc sâu xa phát sinh của muôn loài, quán xét cội gốc thường nhiễu
động lăng xăng kia, khởi tâm suy lường về sắc ấm, thọ ấm ,
tưởng ấm đã được trừ diệt rồi, thì người ấy sẽ rơi vào tư tưởng điên
đảo, cho rằng sau khi chết, không còn có tướng.
Giảng: Lại nữa các
thiện nam tử đó, trong tam-ma-đề, chánh tâm đứng lặng sáng suốt, thiên ma không
có cơ hội quấy phá.
Trong khi thiền quán , chánh tâm ngưng lặng vững chắc.
Đây nói đến người tu tập định lực. Người ấy đã đạt được định lực kiên cố và trí
tuệ. Thiên ma không còn khuấy phá được nữa.
Dù trí tuệ chưa đạt đến mức cứu cánh và chân chánh trí tuệ,
nhưng ma vương không làm gì được anh ta. Tuy nhiên, anh ta chưa hàng phục được
ma ở trong tâm của anh ta.
Trong nguồn gốc sâu xa phát sinh của muôn loài,
quán xét cội gốc thường nhiễu động lăng xăng kia. Hành
giả có thể nghiên cứu cùng tột cội gốc của các loại chúng sanh, thấy được manh
mối của cái thường nhiễu động vi tế kia.
Anh ta nhìn thấy được căn tánh khinh thanh, u ẩn của tất cả
các loại chúng sanh, biểu hiện qua sự nhiễu động vi tế thường xuyên ấy.
Khởi tâm suy lường về sắc ấm, thọ ấm , tưởng
ấm đã được trừ diệt rồi. Nhưng nếu hành giả khởi
niệm suy lường về ba loại sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm đã trừ diệt xong rồi, thì
hành giả sẽ bị rơi vào ý tưởng mê lầm điên đảo; cho rằng sau khi chết,
không còn sắc tướng.
Anh ta nói rằng chẳng có gì tồn tại sau khi chết. Đó là loại
lý luận điên đảo mà anh ta nghĩ ra.
Kinh Văn: Kiến kì sắc diệt, hình vô sở nhân. Quán kì tưởng
diệt, tâm vô sở hệ. Tri kì thọ diệt, vô phục liên xuyết. Âm tánh tiêu tán, túng
hữu sanh lí, nhi vô thọ tưởng, dữ thảo mộc đồng.
Việt dịch: Thấy sắc ấm đã diệt, thân không còn chỗ y cứ. Quán
sát tưởng ấm đã tiêu dung, thấy tâm không ràng buộc. Biết thọ
ấm đã tiêu trừ, chẳng còn dính dáng vào đâu. Các ấm này đã tiêu tán,
dù còn có lý sinh khởi, nhưng thọ ấm, tưởng ấmkhông còn nữa, nên hành giả
cho rằng mình như cây cỏ.
Giảng: Thấy sắc ấm đã
diệt, thân không còn chỗ y cứ.
Sắc ấm đã diệt, không rõ nguyên nhân nào mà thân
xác còn hiện hữu. Hình hài không còn nơi nương gá nữa. Như đã cho mất đi rồi.
Quán sát tưởng ấm đã tiêu dung, thấy tâm
không ràng buộc.
Thấy tưởng ấm đã tiêu dung, thấy tâm như không bị
ràng buộc. Hành giả đã vượt qua được tưởng ấm. Tưởng ấm đã tiêu dung rồi. Không
còn nơi chốn cho tâm nương gá vào nữa, không còn nơi để sinh khởi vọng tưởng
nữa.
Biết thọ ấm đã tiêu trừ, chẳng còn dính dáng vào đâu.
Biết thọ ấm đã tiêu trừ, chẳng còn liên hệ gì nữa.
Thọ ấm của mình đã tiêu dung rồi, không còn liên hệ với ngoại duyên nữa. Các ấm
này đã tiêu tán. Ba loại: Sắc ấm , thọ ấm, tưởng ấm đã tiêu
dung.
Dù còn lý sinh khởi, dù những hiện tượng
rất nhỏ, vết tích của hành ấm còn tồn tại.
Nhưng thọ ấm và tưởng ấm không còn nữa,
khiến hành giả cho rằng mình giống như cây cỏ. Do
đã hết sạch thọ ấm và sắc ấm. Anh ta xem mình đồng với cây cỏ.
Kinh Văn: Thử chất hiện tiền, do bất khả đắc, tử hậu vân hà,
cánh hữu chư tướng? Nhân chi khám hiệu, tử hậu tướng vô. Như thị tuần
hoàn, hữu bát vô tướng.
Việt dịch: Rồi nghĩ rằng, hiện tiền thể chất này
còn không nắm bắt được, làm sao sau khi chết lại còn sắc tướng? Do nghiệm xét
như thế, nên cho rằng sau khi chết không còn sắc tướng. Xoay vần như vậy, có
tám thứ luận vô tướng.
Giảng: Rồi nghĩ rằng,
hiện tiền thể chất này còn không nắm bắt được.
Thể chất này nay chẳng tồn tại, không chỉ là sắc
tướng không tồn tại mà tâm cũng thế. Anh ta cho rằng phương diện vật chất của
sắc và tâm bây giờ đã tiêu tán. Điều này liên quan đến bốn thứ: sắc ấm, thọ
ấm , tưởng ấm , hành ấm . Nhớ rằng hành giả cho thân mình đồng
như cây cỏ. Đó có nghĩa là anh ta không có tri giác. Dù anh ta còn sống, nhưng
chẳng có được gì cả.
Làm sao sau khi chết lại còn sắc tướng? Nếu
hành giả không thể tìm thấy được dấu tích nào của sự hiện hữu, bất kỳ cái gì
thực sự là hình và tướng, ngay bây giờ trong lúc còn sống, thì làm sao mà có
được chút sắc tướng tồn tại sau khi chết?
Do vì nghiệm xét như thế nên cho rằng sau khi chết không còn
sắc tướng.
Anh ta nghiền ngẫm ý tưởng này, xem xét nó qua nhiều khía
cạnh. “Nếu ngay đời này chẳng có sắc tướng, làm sao sau khi chết lại có được?
Nên sau khi chết cũng chẳng có sắc tướng.”
Nếu không có bằng chứng cho sự hiện hữu của sắc ấm, thọ
ấm , tưởng ấm , hành ấm trong khi sống, thì chắc chắn cũng
chẳng có bằng cớ nào cho sự hiện hữu của chúng sau khi chết.
Xoay vần như vậy, có tám thứ luận vô tướng.
Phát triển ý tưởng như vậy, nên hành giả rơi vào tám thứ luận
vô tướng.
Đó là bốn trường hợp không hiện hữu của sắc ấm, thọ ấm ,
tưởng ấm , hành ấm trong khi còn sống, và bốn trường hợp không
hiện hữu của bốn thứ ấy sau khi chết. Tất cả đều biến mất.
Kinh Văn: Tòng thử hoặc kế, niết-bàn nhân quả, nhất thiết giai
không. Đồ hữu danh tự, cứu cánh đoạn diệt.
Việt dịch: Do đây, cho rằng niết-bàn nhân quả tất cả đều
là không, chỉ có tên gọi, rốt ráo đều là đoạn diệt.
Giảng: Do đây, vì
lý luận của anh ta là bốn uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành) đều không tồn tại. Căn cứ
vào tám thứ luận vô tướng. Cho rằng niết-bàn nhân quả tất cả đều là
không. Hoặc hành giả chấp rằng niết-bàn, nhân quả đều là không. Hành
giả cho rằng không có niết-bàn, và phủ nhận nhân quả. Nếu thực sự như vậy, thì
chẳng có lý do gì để mọi người có thể tu tập thành Phật. Tại sao vậy? Theo lý
luận của anh ta thì chẳng có gì tồn tại hết thảy.
Anh ta nghĩ: chỉ có tên gọi, rốt ráo đều là đoạn
diệt. Các pháp chẳng là gì cả, chỉ là danh tự. Thực sự chẳng có gì tồn tại.
Đó là những gì anh ta quan niệm.
Kinh Văn: Do thử kế độ, tử hậu vô cố, đoạ lạc ngoại đạo, hoặc
bồ-đề tánh. Thị tắc danh vi, đệ thất ngoại đạo, lập ngũ ấm trung, tử hậu vô
tướng, tâm điên đảo luận.
Việt dịch: Do chấp sau khi chết không còn có tướng như
vậy, nên rơi vào ngoại đạo, mê mờ tánh bồ-đề. Đây gọi là ngoại đạo thứ bảy, lập
nên những thứ luận điên đảo, chấp trong ngũ ấm, sau khi chết không còn có
tướng.
Giảng: Do chấp sau
khi chết không còn có tướng như vậy. Anh ta cho rằng sau khi chết
chẳng còn gì cả. Mọi vật đều là không.
Do chấp rằng sau khi chết không còn sắc tướng. Nên rơi
vào ngoại đạo, mê mờ tánh bồ-đề. Hành giả rơi vào một thứ ngoại đạo,
mê mờ tánh bồ-đề. Đây là tà thuyết ngoại đạo thứ bảy, lập nên những thứ
luận điên đảo, chấp trong ngũ ấm, sau khi chết không còn có tướng.
Anh ta cho rằng sau khi chết chẳng còn gì tồn tại trong phạm
vi của ngũ ấm. Do đó thứ lý luận điên đảo từ tâm anh ta lập nên.
8 – TÀ KIẾN PHỦ NHẬN CẢ
CÓ VÀ KHÔNG CÓ TƯỚNG SAU KHI CHẾT
Kinh Văn: Hựu tam ma trung chư thiện nam tử, kiên ngưng chánh
tâm ma bất đắc tiện. Cùng sanh loại bản, quán bỉ u thanh, thường
nhiễu động nguyên, ư hành tồn trung kiêm thọ tưởng diệt, song kế hữu vô, tự thể
tương phá. Thị nhân trụy nhập, tử hậu câu phi, khởi điên đảo luận.
Việt dịch: Lại nữa các thiện nam tử đó, trong tam-ma-đề, chánh
tâm đứng lặng sáng suốt, thiên ma không có cơ hội quấy phá. Trong nguồn
gốc sâu xa phát sinh của muôn loài, quán xét cội gốc thường nhiễu
động lăng xăng kia, trong trạng thái hành ấm chưa tiêu dung,
nhưng thọ ấm và tưởng ấm đã tiêu trừ, nếu khởi
tâm chấp trước cả hai cái có và không, thì tự thể phá nhau. Người ấy rơi vào
luận thuyết điên đảo, phủ nhận cả có, cả không còn gì tồn tại sau khi chết.
Giảng: Lại nữa các
thiện nam tử đó, trong tam-ma-đề, chánh tâm đứng lặng sáng suốt, thiên ma không
có cơ hội quấy phá.
Hành giả trong khi thiền
quán , chánh tâm ngưng lặng, vững chắc, thiên ma không khuấy phá được nữa.
Điều này đề cập đến người tu tập chánh định, có được định lực
mạnh mẽ và kiên cố, mặc dù ngoại ma không thể đến khuấy rối anh ta được nữa,
nhưng mà từ trong tâm thì rất khó hàng phục.
Trong nguồn gốc sâu xa phát sinh của muôn loài,
quán xét cội gốc thường nhiễu động lăng xăng kia. Hành
giả có thể nghiên cứu cùng tột cội gốc của mười hai loại chúng sanh, thấy được
manh mối của trạng thái thường nhiễu động vi tế kia. Anh ta quán sát được trạng
thái khinh thanh u ẩn trong tâm. Vào lúc ấy, tình trạng đó là tướng thường
nhiễu động vi tế của hành ấm .
Trong trạng thái hành ấm chưa được tiêu dung, nhưng
thọ ấm , tưởng ấm đã được diệt trừ. Nếu hành
giả khởi tâm chấp cả có và không, thì tự thể phá
nhau, .
“Bản ngã” riêng của anh ta đã bị xóa sạch, nó không còn tồn
tại nữa. Nên nó mâu thuẫn trong tâm. Nếu cho rằng mọi vật đều tồn tại, thì anh
ta cũng tồn tại. Nếu nói rằng mọi vật không còn tồn tại, thì anh ta cũng không
tồn tại. Khi anh ta tự mâu thuẫn với chính mình, thì anh ta cũng bị hủy hoại
lấy mình, anh ta tự nhận lý thuyết của chính mình.
Người ấy rơi vào luận thuyết điên đảo, phủ nhận cả có, cả
không còn gì tồn tại sau khi chết.
Anh ta cho rằng sau khi anh ta chết, chẳng có gì tồn tại lẫn
không tồn tại. Thế thì đó là cái gì? Có phải cái “chẳng tồn tại cũng chẳng
không tồn tại” là trung đạo chăng? – Không. Anh ta chẳng quan
tâm đến trung đạo , cũng chẳng quan tâm đến việc mình có chứng
được trung đạo hay không? Đây là điểm anh ta sai lầm và trở nên mê
hoặc.
Kinh Văn: Sắc thọ tưởng trung, kiến hữu phi hữu. Hành thiên
lưu nội, quán vô bất vô.
Việt dịch: Thấy sắc ấm, thọ ấm , tưởng
ấm có mà chẳng phải có. Xét trong dòng chuyển biến của hành
ấm , thấy cái khôngchẳng phải là không.
Giảng: Thấy sắc ấm,
thọ ấm , tưởng ấm có mà chẳng phải có. Chú ý
vào sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, ba ấm mà hành giả đã tiêu
trừ và vượt qua được, thấy sự hiện hữu đó không thực là hiện hữu. Hành giả nhận
biết một trạng thái hiện hữu, nhưng nó không thực sự hiện hữu.
Xét trong dòng chuyển biến của hành ấm ,
hành giả thấy rằng cái không hiện hữu không thực sự là không, thấy
cái khôngchẳng phải là không..
Trong sự nhiễu động vi tế của hành ấm , hành giả thấy
rằng những gì không hiện hữu, dường như cũng có sự hiện hữu. Do đó, chẳng có sự
tồn tại và cũng chẳng có cái không tồn tại. Nên anh ta kiến lập lý thuyết này.
Kinh Văn: Như thị tuần hoàn, cùng tận âm giới, bát câu phi
tướng. Tùy đắc nhất duyên, giai ngôn tử hậu, hữu tướng vô tướng.
Việt dịch: Xoay vần như thế, cùng tột các ấm ,
lập thành tám tướng “chẳng phải có, chẳng phải không.” Gặp duyên gì cũng đều
nói rằng sau khi chết là có tướng, không tướng.
Giảng: Xoay vần như
thế, cùng tột các ấm , lập thành tám tướng “chẳng phải có, chẳng phải
không.”
Trước đây hành giả thấy một trạng thái, trong đó, sự hiện hữu
từ trước kia của các sắc ấm, thọ ấm , tưởng ấm , hành
ấm trở nên bị tiêu dung không còn nữa, và dòng chuyển động trôi chảy
lăn tăn của hành ấm lẽ ra sau đó sẽ không còn hiện hữu nữa, mà nay vẫn còn tồn
tại.
Quán xét cùng tột trước sau các ấm này. Hành giả khảo sát tuần
tự từng món, cố gắng khám phá nguyên lý cơ bản. Anh ta nghiên cứu kỹ lưỡng bốn
món sắc ấm, thọ ấm , tưởng ấm , hành ấm , quán xét
chúng từ tất cả mọi khía cạnh. Lập thành tám tướng hoàn toàn phủ định sự hiện
hữu. Có tám trường hợp, đều phủ nhận sự hiện hữu của sắc tướng.
Gặp duyên gì cũng đều nói rằng sau khi chết là có tướng, không
tướng.
Bất luận khi đề cập đến ấm nào, anh ta chỉ có một
câu trả lời. Hành giả đều nói rằng sau khi chết, chẳng có sự không hiện hữu
(có), cũng chẳng có sự hiện hữu (vô) .
Kinh Văn: Hựu kế chư hành, tánh thiên ngoa cố, tâm phát thông
ngộ, hữu vô câu phi, hư thực thất tán.
Việt dịch: Lại thấy hành ấm thay đổi
liên tục, tâm phát thông ngộ, chấp tất cả đều chẳng phải có, chẳng
phải không
Giảng: Lại nữa, thấy
các hành ấm thay đổi liên tục, hành giả nghiên cứu kỹ lưỡng hơn
về bản chất của hành ấm, vì hành ấm có sự thường nhiễu động lăng xăng rất nhỏ
nhiệm, nó luôn luôn trôi chảy và biến dạng.
Tâm phát thông ngộ, tâm phát ra một sự hiểu
biết sáng suốt, khiến phủ nhận cả có lẫn không hiện hữu.
Chấp tất cả đều chẳng phải có, chẳng phải không. Một sự
hiểu biết sáng suốt nhầm lẫn (tà ngộ) xảy ra trong tâm ý hành giả, và anh ta
quyết đoán rằng cả có lẫn không hiện hữu, cả hai đều không có căn cứ. Phải
chăng đây là trung đạo ? Không. Anh ta không hiểu được nghĩa
rốt ráo của trung đạo . Đó là lý do tại sao anh ta chẳng quan tâm
đến trung đạo . Anh ta chỉ quan tâm đến hiện hữu (có) và
(không) hiện hữu.
Nên anh ta không thể quyết đoán được điều gì là thực, điều gì
là hư.
Hư thực lộn lạo. Vạn vật chẳng hư chẳng
thật. Quý vị nói vạn vật là thực, anh ta lại chối từ điều đó. Quý vị nói vạn
vật là hư, anh ta cũng phủ nhận điều ấy. Vì anh ta chủ trương rằng chẳng thực
cũng chẳng hư, nên anh ta đã bị tán loạn.
Kinh Văn: Do thử kế độ, tử hậu câu phi, hậu tế hôn mông, vô
khả đạo cố. Đọa lạc ngoại đạo, hoặc bồ-đề tánh. Thị tắc danh vi đệ bát ngoại
đạo, lập ngũ ấm trung, tử hậu câu phi, tâm điên đảo luận.
Việt dịch: Do những kiến chấp sau khi chết “chẳng phải
có, chẳng phải không” như thế mà đường sau mờ mịt, không còn lối đi. Nên rơi
vào ngoại đạo, mê mờ tánh bồ-đề. Đây là tà thuyết ngoại đạo thứ tám, lập luận
điên đảo, chấp trong ngũ ấm, sau khi chết, chẳng phải có, chẳng phải
không.
Giảng: Do những kiến
chấp sau khi chết “chẳng phải có, chẳng phải không” như thế mà đường sau mờ
mịt, không còn lối đi.
Do những thứ kiến chấp mà anh ta đã lập từ trước nầy,
nên phủ nhận cả sự tồn tại lẫn không tồn tại sau khi chết. Đối với hành giả,
tương lai mờ mịt, không thể nói được điều gì về điều ấy cả.
Anh ta nói rằng sau khi chết, còn có cả sự hiện hữu lẫn không
hiện hữu. Hoàn toàn không biết được nơi sẽ kết thúc của hành ấm . Vì không
thể biết gì về điều ấy cả, nên không có thể bàn luận, không có gì để nói về
điều ấy cả.
Do vậy, nên rơi vào ngoại đạo, mê mờ tánh bồ-đề. Hành
giả rơi lạc vào ngoại đạo, vì lạc vào tà thuyết ngoại đạo, nên mê lầm tánh
bồ-đề.
Đây là tà thuyết ngoại đạo thứ tám, lập nên lý luận điên đảo, chấp
trong ngũ ấm, sau khi chết, chẳng phải có, chẳng phải không. Phủ
nhận cả sự hiện hữu lẫn không hiện hữu, trong phạm vi ngũ ấm sau khi chết.
Anh ta nói rằng sau khi chết còn có sự hiện hữu, cũng như còn
có sự không hiện hữu trong phạm vi của ngũ ấm. Vì tâm thức hành giả trở nên mê
loạn, nên phát ra loại lý luận điên đảo này.
9 – TÀ KIẾN VỀ ĐOẠN DIỆT
Kinh Văn: Hựu tam ma trung, chư thiện nam tử, kiên ngưng chánh
tâm, ma bất đắc tiện. Cùng sanh loại bản, quán bỉ u thanh, thường nhiễu
động nguyên, ư hậu hậu vô, sanh kế độ giả. Thị nhân trụy nhập thất đoạn diệt
luận.
Việt dịch: Lại nữa các thiện nam tử đó, trong tam-ma-đề, chánh
tâm đứng lặng sáng suốt, thiên ma không có cơ hội quấy phá. Trong nguồn
gốc sâu xa phát sinh của muôn loài, quán xét cội gốc thường nhiễu
động lăng xăng kia, sinh tâm kế chấp sau nầy là không, người ấy rơi vào mê lầm
với bảy luận thuyết đoạn diệt.
Giảng: Lại nữa các
thiện nam tử đó, trong tam-ma-đề, chánh tâm đứng lặng sáng suốt, thiên ma không
có cơ hội quấy phá.Hành giả trong khi thiền quán , chánh tâm ngưng
lặng, vững chắc. Thiên ma không khuấy phá được nữa.
Hành giả, người tu thiền quán đã phát triển được
định lực đến mức kiên cố và chánh tâm. Vậy nên thiên ma không còn cách nào quấy
nhiễu được. Hành giả có thể nghiên cứu cùng tột cội gốc của mười hai loài chúng
sinh, thấy được manh mối trạng thái thường nhiễu động vi tế kia. Hành giả quán
sát bản chất bí ẩn, hư ảo trong sáng nhẹ nhàng. Đến lúc này trong hành
ấm có sự nhiễu động rất vi tế. Nhưng nếu, anh ta không biết được
trạng thái khi vượt qua hành ấm, sinh tâm kế chấp sau khi chết không còn
sự hiện hữu, người ấy rơi vào mê lầm với bảy luận thuyết đoạn diệt. Người ấy sẽ
tin vào bảy thứ luận đoạn diệt.
Kinh Văn: Hoặc kế thân diệt, hoặc dục tận diệt, hoặc khổ tận
diệt, hoặc cực lạc diệt, hoặc cực xả diệt.
Việt dịch: Hoặc chấp hết thân này là diệt, hoặc chấp hết ngũ
dục là diệt, hoặc chấp hết khổ là diệt, hoặc chấp tột vui là
diệt, hoặc chấp cực điểm của xả bỏ là diệt.
Giảng: Hoặc chấp hết thân
này là diệt.
Hành giả quán xét thấy rằng loài chúng sinh có thân
xác ở khắp mọi nơi, thân xác ấy cuối cùng sẽ hủy hoại. Những nơi này là bốn
châu lớn trong thiên hạ: Nam Diêm-phù-đề , Đông Thắng Thần Châu , Tây
Ngưu Hóa Châu , Bắc Câu Lô Châu , và ngay cả nơi cõi trời Lục
dục .
Hoặc chấp hết ngũ dục là diệt. Hoặc
phỏng đoán khi tham muốn ngũ dục đã hết. Khi vượt qua được Dục giới ở cõi trời
Sơ thiền còn gọi là Ly sinh hỷ lạc địa đó là
đoạn diệt. Ở cõi trời Sơ thiền, quý vị thoát khỏi sự cấu nhiễm của chúng sinh
và hưởng được nhiều niềm vui.
Hoặc chấp hết khổ là diệt. Hoặc
chấp sau khi khổ chấm dứt, trong cõi trời thứ hai, gọi là Định sanh hỷ
lạc địa đó là đoạn diệt. Đến đây, thấy vui vì đã đạt được định
lực.
Hoặc chấp tột vui là diệt. Hoặc
chấp niềm vui khi đạt đến tột đỉnh đó là đoạn diệt. Hành giả cho rằng trạng
thái cực lạc ở cõi trời thứ ba (Ly hỷ diệu lạc địa) cũng sẽ chấm dứt. Vì khi đã
trải qua được niềm vui tột cùng vi diệu, hành giả ước đoán rằng cõi Thiền thứ
ba cũng sẽ đoạn diệt.
Hoặc chấp cực điểm của xả bỏ là diệt. Hoặc
chấp sự xả bỏ khi đến cực điểm là đoạn diệt. Hành già phỏng đoán cõi trời thiền
thứ tư (Xả niệm thanh tịnh địa ) cũng sẽ đoạn diệt. Anh ta suy đoán cõi
trời Tứ không, nơi không còn chướng ngại của sắc chất cũng sẽ đoạn diệt.
Thời gian trôi qua rất nhanh, chỉ trong nhấp nháy
mắt mùa hạ đã trôi qua rồi. Ở Trung Hoa, Khổng Tử ví cuộc đời như
dòng nước trôi qua không ngừng nghỉ. Thời gian trôi qua không bao giờ trở lại.
Có câu ngạn ngữ:
“Nhất thốn quang âm nhất thốn kim
Thốn kim nan mại thốn quang âm.”
Nghĩa là: “Một khoảnh khắc thời gian đáng giá cả lượng vàng.
Nhưng lượng vàng khó mua nổi một khoảnh khắc thời gian.” Một khoảnh khắc thời
gian giá trị bằng cả lượng vàng. Nếu quý vị mất vàng, quý vị có thể sắm lại
được. Nhưng một khi thời gian mất đi thì chẳng có cách nào lấy lại được. Do vậy
thời gian còn quý hơn cả vàng. Nên trong đạo Phật nói rằng: “Một khoảnh khắc
thời gian cũng như một cõi đời người.” Khi thời gian rút ngắn lại, đời sống con
người lại càng ngắn hơn. Chúng ta phải nên quý trọng thời gian đừng để nó tùy
tiện trôi qua trong sự vô ích.
Suốt mùa hạ này, chúng ta đã bắt đầu thời khóa tụng kinh, ngồi
thiền vào lúc sáu giờ sáng mỗi ngày. Từ sáng sớm cho đến 9 giờ tối. Mọi người
đã đem hết tâm lực để dụng công tu tập. Tôi tin rằng thời gian này chắc hẳn là
quý hơn vàng, giá trị hơn kim cương. Nay mọi người hãy cùng nhau hết lòng lắng
nghe, thấm nhuần những điều đã được học, phát tâm tu tập. Đây là khoảnh khắc
thời gian quý giá nhất trong đời. Thật đáng tiếc khi thời gian trôi qua
chỉ trong chớp mắt. Cho dù thời khắc gần như đã đi qua, Phật pháp mà
chúng ta vừa học được cũng như hạt giống kim cương trong tâm thức ta gieo vào
mảnh đất là thức thứ tám (A-lại-da thức ). Trong tương lai chắc chắn
sẽ sinh ra quả kim cương bất hoại. Đó cũng là Phật quả, nghĩa là chúng ta sẽ
được thành Phật.
Khi nào thì chúng ta sẽ thành Phật? Tùy thuộc vào cách chúng
ta siêng năng canh tác, tưới tẩm các hạt giống một khi nó đã được gieo vào lòng
đất rồi. Cũng như người nông dân, chúng ta phải tưới nước, nhổ cỏ dại, xới đất
cho tơi xốp để hạt giống có thể nảy mầm. Thế nào gọi là nhổ cỏ dại? Cỏ dại có
nghĩa là vào mọi lúc, ta phải đề phòng sự phát triển rất vi tế của tạp niệm và
trừ bỏ những vọng tưởng ấy đi.
Hằng ngày ta phải nỗ lực công phu theo cách này như người nông
dân chăm sóc và tưới tẩm ruộng vườn của họ. Tưới nước và nhổ cỏ dại hằng ngày,
hạt giống kim cương mà quý vị đã gieo vào lòng đất sẽ nảy chồi bồ-đề, dần dần
chồi non bồ-đề ấy sẽ lớn thành cây bồ-đề; rồi nó sẽ kết thành quả bồ-đề. Nhưng
quý vị phải chăm sóc bảo vệ chồi non Bồ-đềấy, nếu quý vị xao lãng việc tưới
nước và vun xới cho nó, thì nó sẽ tàn lụi đi.
Tước nước nghĩa là gì? Nếu quý vị học Phật pháp hằng ngày, có
nghĩa là quý vị đang tưới cho mầm bồ-đề bằng nước của Pháp. Đúng lúc quả kim
cang sẽ chín muồi. Nếu quý vị không tiếp tục chăm sóc hạt giống kim cang sau kỳ
pháp hội này, thì không dễ gì hạt kim cang sẽ nảy chồi. Quý vị phải chăm sóc
hạt giống thật chu đáo. Đừng nên theo thói quen thích làm những việc mình ưa thích.
Hãy tuân thủ theo giới luật và cư xử cho hòa hợp, đừng bừa bãi, khinh suất
trong khi hành xử. Nếu quý vị giữ đúng giới luật, nghĩa là quý vị hòa hợp với
Phật pháp. Nếu không tuân thủ giới luật, thì chưa hiểu Phật pháp. Quý vị nhất
định phải nên tuân thủ theo giới luật, đừng quá phóng túng và không tự kiềm chề
mình được. Đây là điều tôi hy vọng ở quý vị.
Trong pháp hội giảng kinh Thủ-lăng-nghiêm vào mùa hạ này, nhất
định sẽ giống như trong trường hợp:
“Nhất lịch nhĩ căn, vĩnh vi đạo tràng”
Nghĩa là: “Ngay khi nghe được ý chỉ của kinh này
rồi, vĩnh viễn nơi tâm thức của quý vị đã là đạo tràng, là mảnh đất tâm đã được
gieo hạt giống bồ-đề.”
Kinh Văn: Như thị tuần hoàn, cùng tận thất tế, hiện tiền tiêu
diệt, diệt dĩ vô phục. Do thử kế độ, tử hậu đoạn diệt. Đọa lạc ngoại đạo hoặc
bồ-đề tánh. Thị tắc danh vi đệ cửu ngoại đạo. Lập ngũ ấm trung tử hậu đoạn
diệt. tâm điên đảo luận.
Việt dịch: Xoay vần như thế, cùng tột đến bảy quan niệm chấp
trước hiện tiền là tiêu diệt, đã diệt rồi thì không hồi phục lại nữa. Do chấp
sau khi chết là đoạn diệt như thế, nên rơi vào ngoại đạo, lầm mất tánh bồ-đề.
Đây là ngoại đạo thứ 9, lập nên những thứ luận điên đảo, chấp trong ngũ ấm, sau
khi chết là đoạn diệt hẳn.
Giảng: Xoay vần như
thế, cùng tột đến bảy quan niệm chấp trước hiện tiền là tiêu diệt, đã diệt rồi
thì không hồi phục lại nữa.
Vì những kế chấp đoạn diệt sau khi chết. Hành giả vẫn duy trì
tư tưởng cho rằng sau khi chết, chẳng còn bất cứ thứ gì tồn tại. Mọi vật đều
tiêu diệt. Nên rơi vào ngoại đạo, lầm mất tánh bồ-đề. Hành giả
sẽ rơi vào ngoại đạo, mê mờ tánh bồ-đề, mê mờ về tánh giác ngộ chân
chánh. Đây là tà thuyết ngoại đạo thứ chín, lập
nên những thứ luận điên đảo. Chấp trong ngũ ấm, sau khi chết là
đoạn diệt hẳn.
Cho rằng sau khi chết trong phạm vi ngũ ấm là đoạn diệt hẳn.
Với tâm mê muội, hành giả nghĩ rằng sự đoạn diệt sau khi chết là ở trong phạm
vi của sắc ấm, thọ ấm , tưởng ấm và hành ấm .
10 – TÀ KIẾN VỀ NIẾT BÀN
Kinh Văn: Hựu tam ma trung, chư thiện nam tử, kiên ngưng chánh
tâm, ma bất đắc tiện. Cùng sanh loại bản, quán bỉ u thanh, thường
nhiễu động nguyên, ư hậu hậu hữu, sanh kế độ giả. Thị nhân trụy nhập ngũ
niết-bàn luận.
Việt dịch: Lại nữa các thiện nam tử đó, trong tam-ma-đề, chánh
tâm đứng lặng sáng suốt, thiên ma không có cơ hội quấy phá. Trong nguồn
gốc sâu xa phát sinh của muôn loài, quán xét cội gốc thường nhiễu
động lăng xăng kia, sinh tâm kế chấp sau nầy là có. Người ấy rơi vào năm thứ
luận về niết-bàn.
Giảng: Lại nữa các
thiện nam tử đó, trong tam-ma-đề, chánh tâm đứng lặng sáng suốt, thiên ma không
có cơ hội quấy phá.
Trong khi tu tập thiền quán , chánh tâm ngưng lặng vững
chắc. Thiên ma không khuấy phá được nữa. Vì hành giả đã được định lực vững chắc
và chính tâm thuần hòa, thanh tịnh. Thiên ma không có cơ hội quấy phá,
thiên ma chẳng có ảnh hưởng gì đến hành giả được nữa.
Trong nguồn gốc sâu xa phát sinh của muôn loài,
quán xét cội gốc thường nhiễu động lăng xăng kia, sinh tâm kế chấp
sau nầy là có.
Hành giả nghiên cứu cùng tột cội gốc của các loài chúng sinh,
thấy được manh mối trạng thái thường nhiễu động vi tế kia. Khảo sát tâm thức
của các loài chúng sinh kia, vốn u ẩn, khinh thanh trong dòng nhiễu động rất vi
tế.
Người ấy rơi vào năm thứ luận về niết-bàn.
Nhưng nếu hành giả sinh tâm kế chấp về sự hiện hữu sau khi
chết, sẽ rơi vào năm thứ luận sai lạc về niết-bàn .
Vượt qua hành ấm , hành giả lại nhận thấy có sự hiện hữu.
Căn cứ vào sự thường hằng của từng niệm, từng niệm trôi chảy không ngừng trong
phạm vi hành ấm. Anh ta có kiến chấp sai lầm về sự hiện hữu và tin vào năm thứ
luận về Niết Bàn.
Kinh Văn: Hoặc dĩ dục giới, vi chánh chuyển y,
quán kiến viên minh, sinh ái mộ cố. Hoặc dĩ sơ thiền tánh vô
ưu cố. Hoặc dĩ nhị thiền, tâm vô khổ cố. Hoặc dĩ tam thiền, cực duyệt tuỳ cố.
Hoặc dĩ tứ thiền, khổ lạc nhị vọng, bất thọ luân hồi, sanh diệt tánh cố.
Việt dịch: Hoặc xem Dục giới là chuyển y chân chánh, do
thấy sáng suốt cùng khắp nên sanh tâm yêu thích. Hoặc nhận cõi Sơ
thiền là nơi chuyển y chân chánh, do tâm không còn lo buồn. Hoặc
nhận cõi Nhị thiền là chuyển y chân chánh, do tâm không khổ lụy nữa. Hoặc nhận
Tam thiền, vì rất vui đẹp. Hoặc nhận Tứ thiền vì cả vui khổ thực sự
tiêu vong, không còn chịu sinh diệt trong luân hồi nữa.
Giảng: Hoặc xem Dục
giới là chuyển y chân chánh. Đó là nơi mà anh ta sẽ đi đến, anh ta thấy cõi
trời Dục giới là nơi chuyển y chân chánh. Tại sao?
Do vì hành giả thấy sáng suốt cùng khắp và sanh tâm yêu thích
nơi ấy. Cõi trời Dục giới hiện ra rất hoàn mãn và sáng rực, nên anh ta phát
khởi tâm luyến mộ và ước ao sinh về nơi đó. Anh ta nhận nơi đó như một nơi chốn
để quay về, như là một cảnh giới niết-bàn. Anh ta nghĩ rằng Dục giới là một cõi
niết-bàn chân thực.
Hoặc nhận cõi Sơ thiền là nơi chuyển y chân chánh,
do tâm không còn lo buồn. Anh ta nghĩ rằng
chúng sinh trong cõi trời Sơ thiền (Ly sinh hỷ lạc ) đã bỏ lại hết đằng
sau những âu lo, phiền não rồi, đồng thời sinh khởi một cảm giác hoan hỷ. Do
vậy nên hành giả ao ước được sanh về nơi đó.
Hoặc nhận cõi Nhị thiền là chuyển y chân chánh, do tâm không
khổ lụy nữa. Trong khi thiền quá, hành giả có thể đạt đến cõi trời Nhị
thiền, nơi tâm không còn khổ nữa, vì hành giả đã phát triển được định lực. Cõi
trời này gọi là Định sanh hỷ lạc .
Hoặc nhận Tam thiền, vì rất vui đẹp, vì
rất ham thích niềm vui tột bực ở đó. Anh ta nghĩ rằng mình sẽ đạt được bất kỳ
điều gì mình muốn ở đó, vì thế anh ta cho rằng đây là cõi trời kia là cảnh giới
niết-bàn.
Hoặc nhận Tứ thiền vì cả vui khổ thực sự tiêu vong,
không còn chịu sinh diệt trong luân hồi nữa.
Hành giả cho rằng mình không còn trải qua sự luân hồi sanh tử
nữa. Hành giả cho rằng trong cõi trời Tứ thiền , gọi là Xả niệm thanh
tịnh địa , nơi khổ vui đều tiêu dung và không còn tái sinh trong tam giới
nữa. Do vì cảnh giới này rất thanh tịnh, nên hành giả xem đó là cảnh giới
niết-bàn, muốn quay về an trụ nơi đó.
Kinh Văn: Mê hữu lậu thiên, tác vô vi giải, ngũ xứ an
ổn, vi thắng tịnh y. Như thị tuần hoàn, ngũ xứ cứu cánh.
Việt dịch: Mê chấp các cõi trời hữu lậu, phát khởi kiến giải
vô vi, lầm sự an ổn năm chỗ ấy là nơi nương tựa thắng tịnh. Tuần
hoàn rốt ráo trong năm chỗ như vậy .
Giảng: Mê chấp các
cõi trời hữu lậu, phát khởi kiến giải vô vi.
Những cõi trời này còn trong vòng hữu lậu, nhưng hành giả mê
lầm “Nhận giặc làm con” khởi nên kiến giải vô vi, và xem năm trạng thái này là
nơi nương tựa thù thắng. Lầm sự an ổn năm chỗ ấy là nơi nương tựa
thắng tịnh. Anh ta cảm thấy rằng năm trạng thái này là an ổn và bảo
đảm, đó là nơi tuyệt đối thanh tịnh, thù thắng để quay về an trụ.
Tuần hoàn rốt ráo trong năm chỗ như vậy .
Cứu xét kỹ lưỡng theo cách ấy, nên quyết đoán có năm chỗ rốt
ráo. Anh ta nghĩ các cảnh giới ấy là trạng thái tột cùng nơi anh ta có thể nhập
niết-bàn. Anh ta không nhận ra những cõi trời này vẫn còn trong vòng hữu lậu.
Kinh Văn: Do thử kế độ, ngũ hiện niết-bàn, đọa lạc ngoại đạo
hoặc bồ-đề tánh. Thị tắc danh vi, đệ thập ngoại đạo. Lập ngũ ấm trung, ngũ hiện
niết-bàn, tâm điên đảo luận.
Việt dịch: Do kế chấp năm thứ niết-bàn hiện có như vậy,
nên rơi vào ngoại đạo, mê mờ tánh bồ-đề. Đây là ngoại đạo thứ mười, lập nên
những luận điên đảo, chấp trong ngũ ấm, có năm thứ niết-bàn hiện có.
Giảng: Do kế chấp năm
thứ niết-bàn hiện có như vậy, nên rơi vào ngoại đạo, mê mờ tánh
bồ-đề. Đánh mất trực giác về bản tánh giác ngộ sáng suốt. Đây
là ngoại đạo thứ mười, lập nên những luận điên đảo, chấp trong ngũ ấm, có
năm thứ niết-bàn hiện có.
Đây là tà thuyết ngoại đạo thứ mười, lập nên những luận thuyết
sai lầm về năm loại niết-bàn hiện có, trong phạm vi của ngũ ấm. Những
luận thuyết ấy là hoàn toàn sai lạc và điên đảo.
LỜI KHUYÊN TỔNG KẾT CỦA
ĐỨC THẾ TÔN VỀ CÁC TÀ KIẾN
Kinh Văn: A-nan, như thị thập chủng, thiền-na cuồng giải, giai
thị hành ấm, dụng tâm giao hỗ, cố hiện tư ngộ.
Việt dịch: A-nan, tất cả mười thứ tri giải cuồng loạn trong
thiền-na như thế, đều do tâm dụng công giao xen với hành ấm nên
phát ra ngộ giải này.
Giảng: A-nan, tất cả
mười thứ tri giải cuồng loạn trong thiền-na như thế, tất cả mười thứ
tri giải cuồng loạn sai lầm như thế được nói ở trên xảy ra trong thiền
định. đều do tâm dụng công giao xen với hành ấm nên
phát ra ngộ giải này. Chính là do tâm nỗ lực công phu thiền
quán giao xen với hành ấm.
Vấn đề gì sẽ xảy ra ở đây? Vì hành giả vừa vượt qua hành
ấm . Nếu chánh tri, chánh kiến của hành giả thắng lướt, thì anh ta có thể
nhảy vượt qua rào cản này. Nếu hành ấm thắng thì anh ta sẽ bị ma gá
vào. Nên phát ra ngộ giải này.
Kinh Văn: Chúng sanh ngoan mê bất tự thốn lượng. Phùng thử
hiện tiền, dĩ mê vi giải, tự ngôn đăng thánh. Đại vọng ngữ thành, đọa vô gián
ngục.
Việt dịch: Chúng sinh ngu mê, không tự suy xét được. Gặp
phải cảnh ấy, nhận mê làm ngộ, nói rằng mình đã chứng thánh. Thành tội đại vọng
ngữ, sẽ đọa vào ngục vô gián.
Giảng: Chúng sinh ngu
mê, không tự suy xét được.
Chúng sinh thường bướng bỉnh, si mê và vô ý thức, không có một
niệm phản tỉnh tự hỏi mình là ai và căn tánh của mình là gì?
Gặp phải cảnh ấy khi trạng thái này
xảy ra, liền bị bối rối hoảng loạn, nhưng vì không gặp được vị thiện tri thức
sáng mắt chỉ điểm cho.
Nhận mê làm ngộ, nói rằng mình
đã chứng thánh. Anh ta tuyên bố đã giác ngộ và đã thành Phật. Thành
tội đại vọng ngữ vì anh ta đã phạm tội đại vọng ngữ như vậy, nên
sẽ đọa vào ngục vô gián.
Kinh Văn: Nhữ đẳng tất tu, tương Như Lai tâm, ư ngã diệt hậu,
truyền thị mạt pháp, biến linh chúng sanh, giác liễu tư nghĩa. Vô linh tâm ma,
tự khởi thâm nghiệt. Bảo trì phúc hộ, tiêu tức tà kiến.
Việt dịch: Sau khi Như Lai nhập diệt, các ông nên đem lời dạy
của Như Lai truyền bá trong đời mạt pháp, khiến cho tất cả chúng sinh hiểu rõ
nghĩa này. Đừng để cho tâm ma tự gây những tội chướng sâu nặng. Giữ gìn che chở
cho chúng sanh tiêu trừ tà kiến.
Giảng: Sau khi Như Lai nhập diệt, các ông nên đem lời dạy của
Như Lai truyền bá trong đời mạt pháp, khiến cho tất cả chúng sinh hiểu rõ nghĩa
này.
Sau khi Như Lai nhập niết-bàn . Trong tương lai A-nan và quý
vị trong Tăng đoàn nên truyền bá lời dạy này của Như Lai. Những lời Như Lai đã
giảng nói. Chỉ bày và giáo hóa cho chúng sinh trong đời mạt pháp được hiểu rõ
nghĩa chân thực này. Quý vị nên chỉ bày cho toàn thể chúng sinh hiểu
được những đạo lý này.
Đừng để cho tâm ma tự gây những tội chướng sâu nặng. Giữ gìn
che chở cho chúng sanh tiêu trừ tà kiến.
Đừng để cho tà ma sinh khởi trong tâm, gây nên những tội
chướng sâu nặng. Đừng để cho mọi loài chúng sinh tạo nên nghiệp xấu. Bảo hộ che
chở cho chúng sanh tiêu trừ tà kiến. Hộ trì Phật pháp, tiêu trừ tà kiến.
Kinh Văn: Giáo kì thân tâm, khai giác chân nghĩa. Ư vô thượng
đạo, bất tao chi kì. Vật linh tâm kì, đắc thiểu vi túc. Tác đại giác vương,
thanh tịnh tiêu chỉ.
Việt dịch: Dạy cho họ giác ngộ đạo nghĩa chân thật. Nơi đạo vô
thượng, không lạc vào đường tẻ. Đừng để cho chúng sinh hài ỉòng với chút ít
hiểu biết rồi tự cho là đủ. Phải làm mẫu mực thanh tịnh của bậc Đại giác vương.
Giảng: Dạy cho họ giác ngộ đạo nghĩa chân thật. Dạy cho chúng
sinh giác ngộ nghĩa sâu rộng chân thật của đạo Vô Thượng, giúp cho thân và tâm
chúng sinh trong đời mạt pháp hiểu được giáo lý chân thật tối thượng.
Nơi đạo vô thượng, không lạc vào đường tẻ. Giúp
cho chúng sinh không lạc vào đường tẻ. Đừng để cho chúng sinh đuổi theo các
giáo pháp nông cạn thô thiển, mà không ham thích giáo pháp căn bản. Đừng để cho
chúng sinh khi gặp phải những con đường tẻ thì hoang mang không biết đi đường
nào.
Đừng để cho chứng sinh hài lòng vói chút ít hiểu biết rồi tư
cho là đủ. Đừng để cho chúng sinh khao khát đạo giác ngộ Vô thượng mà trở
thành tự mãn, hài lòng với chút ít sở
đắc trong công phu.
Làm mẫu mực thanh tịnh của bậc Đại giác vương. Các
ông nên tự biến mình thành bậc Đại giác vương, làm mẫu mực khuôn phép cho giáo
nghĩa thanh tịnh. Tức thời biến mình thành bậc chúa tể trong đạo giải thoát,
làm vị lãnh tụ mẫu mực, mô phạm thanh tịnh, không chấp nhận được chút ít sở đắc
trong công phu tu tập là đủ. Một bề hướng thượng tinh tấn tu tập.
KINH LĂNG NGHIÊM
NĂM MƯƠI LOẠI ẤM MA
Hòa Thượng Tuyên Hóa
giảng tại
Phật Giáo Giảng Ðường
San Francisco
California _ USA _ 1968
— o0o —
THỨC ẤM
TRẠNG THÁI TÂM LÝ TRƯỚC
KHI VÀO THỨC ẤM
Kinh Văn: A-nan, bỉ thiện nam tử, tu tam-ma-đề,
hành ấm tận giả, chư thế gian tánh, u thanh nhiễu động, đồng phận
sanh cơ, thúc nhiên huy liệt. Trầm tế cương nữu, bổ-đặc-già-la, thù nghiệp thâm
mạch cảm ứng huyền tuyệt.
Việt dịch: A-nan, thiện nam
tử kia tu pháp tam-ma-đề, khi hành ấm hết rồi, cái then
chốt nhiễu động u ẩn, nơi phát sinh chung các loài trong thế gian, bỗng
nhiên được xóa sạch. Giềng mối vi tế, quan hệ sâu xa, gây nghiệp thọ báo
của bổ-đặc-già-la nơi mỗi chúng sinh cũng được chấm dứt.
Giảng: A-nan, thiện
nam tử kia tu pháp tam-ma-đề, khi hành ấm hết rồi. Khi
hành giả, người đang tu tập trong phạm vi hành ấm, tu pháp
tam-ma-đề đến mức tiêu dung được hành ấm. Cái then chốt
nhiễu động u ẩn, nơi phát sinh chung các loài trong thế gian, bỗng nhiên được
xóa sạch. Then chốt nhiễu động vi tế nơi chốn thâm u của nội tâm, là
nơi phát sinh chung của các loài trên thế gian, bỗng nhiên được xóa sạch.
Sự nhiễu động vi tế, không thể nhận thấy, này biểu thị đặc
điểm của tất cả mười hai loại chúng sinh trong thế gian, và đó cũng là nguồn
gốc sinh khởi chung của các loài ấy; bỗng dưng được tiêu hủy sạch.
Ở Trung Hoa chữ cương nữu 綱紐 –giềng mối, có nghĩa: sợi dây thừng lớn giăng quanh mạng
lưới gọi là “cương – giềng. Còn trên cổ áo có các nút để buộc áo lại gọi
là nữu – mối. Cũng giống như trục chính của chiếc xe gọi là khu
nữu 驅紐 vậy.
Bổ-đặc-già-la , tiếng Phạn là pudgala , dịch
nghĩa là: “thường chấp giữ, duy trì sự tái sinh.” Đó là cái sinh rồi lại sinh,
tương tục mãi mãi. Nó cũng được gọi là “trung hữu thân” hay “hữu tình.” Mọi
chúng sinh trong loài hữu tình đều phải trải qua giai đoạn “trung hữu thân”
này. Khi ta chết, chúng ta sẽ qua một giai đoạn gọi là “trung ấm thân.”
Giềng mối vi tế, quan hệ sâu xa, gây nghiệp thọ báo
của bổ-đặc-già-la nơi mỗi chúng sinh cũng được chấm dứt.
Giềng mối vi tế quan hệ sâu xa gây nên nghiệp báo của
bổ-đặc-già-la, là thân trung hữu nơi mỗi chúng sinh cũng được
chấm dứt.
Trong sự tương quan thù báo lẫn nhau. Sự giao lưu của nghiệp
quả diễn biến rất sâu mầu, nhân quả nối tiếp nhau không bao giờ dứt. Vì hành
ấm đã tiêu dung, dòng sinh tử cũng đã chấm dứt. Nhân quả cũng đã
dừng hẳn. Đây là mô tả trạng thái tiêu dung của hành ấm và sự
khởi đầu của thức ấm .
PHẠM VI THỨC ẤM
Kinh Văn: Ư niết-bàn thiên, tương đại minh ngộ, như kê hậu
minh, chiêm cố đông phương, dĩ hữu tinh sắc. Lục căn hư tĩnh, vô phục trì dật.
Nội ngoại trạm minh, nhập vô sở nhập. Thâm đạt thập phương, thập nhị chủng
loại, thọ mệnh nguyên do. Quán do chấp nguyên, chư loại bất triệu. Ư thập phương
giới dĩ hoạch kì đồng. Tinh sắc bất trầm, phát hiện u bí. Thử tắc danh vi thức
ấm khu vũ.
Việt dịch: Bầu trời niết-bàn sắp tỏa
sáng rực rỡ, như sau khi gà gáy sáng, có ánh bình minh ló dạng ở phương
Đông. Sáu căn rỗng rang thanh tịnh, không còn giong ruỗi nữa.Trong ngoài đều
phát ra ánh sáng sâu mầu, vào được tính vô sở nhập. Thấu suốt được nguyên
do thọ mạng của mười hai loại chúng sinh trong suốt mười phương. Xét rõ nguồn
gốc do chấp trước gây ra, nên các lòai không thu hút được. Nhận được tính
đồng nhất với mười phương thế giới. Tinh minh không tiêu trầm, những gì ẩn mật
từ trước nay đều hiển bày. Đây gọi là phạm vi của thức ấm.
Giảng: Bầu trời
niết-bàn sắp tỏa sáng rực rỡ.
Bầu trời của niết-bàn sắp được tỏa sáng rực rỡ. Đó là bầu trời
của tự tánh niết-bàn. Hành giả đã ở ngay bờ mé của sự khai ngộ. Hành giả sắp
đạt được đại giải thoát, so sánh cảnh giới đó như sau khi gà gáy sáng,
có ánh bình minh ló dạng ở phương Đông. Khi gà gáy lần thứ nhất, rồi lần
thứ hai báo hiệu trời sáng, lúc ấy vẫn chưa có ánh sáng ở phương Đông, bầu trời
vẫn còn tối đen. Nếu ta hướng về phương Đông nhìn lâu sẽ thấy ánh sáng bình
minh le lói khi gà gáy xong lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng.
Sáu căn rỗng rang thanh tịnh.
Thọ ấm đã tiêu dung rồi, nên sáu căn không còn có cảm
giác nữa. Nó hoàn toàn rỗng lặng. Tưởng ấm đã tiêu dung rồi, nên
không còn vọng tưởng nữa. Do vậy, nên tưởng ấm cũng hoàn toàn tịch
lặng. Lúc này, không còn cảm thọ và vọng tưởng tác động khiến tâm thức lang
thang dao động nữa.
Không còn giong ruỗi nữa.
Điều này có nghĩa là sự biến hóa, trôi chảy nhiễu động lăng
xăng của hành ấm cũng đã chấm dứt. Sự nhiễu động lăng xăng, thiên
lưu biến hóa của hành ấm tợ như những đợt sóng tương tục nhau mãi không dừng,
nhưng nay nó đã chìm lắng xuống hẳn, không còn rong duỗi nữa.
Trong ngoài đều phát ra ánh sáng sâu mầu.
Đến lúc này, khi chỉ còn thức ấm chưa
được tiêu trừ, hành giả thấy có một luồng ánh sáng rất sâu mầu phát ra từ bên
trong lẫn bên ngoài.
Vào được tính vô sở nhập. Hành
giả đã vào được nơi xưa nay vốn không thể vào được.
Do vì các căn, các trần đều đã tiêu dung. Sáu căn, sáu trần đã
hòa nhập làm một. Căn trần không còn đi sóng đôi với nhau nữa. Đã thành bất
nhị. Không còn sự phân biệt giữa sáu căn, sáu trần nữa. Do vậy, nên không còn
chỗ gọi là “nhập” cho hành giả đi vào nữa.
Thấu suốt được nguyên do thọ mạng của mười loại chúng sinh
trong suốt mười phương. Xét rõ nguồn
gốc do chấp trước gây ra, nên các lòai không thu hút được.
Thấy rõ nguồn gốc ấy mà không bị thu hút.
Hành giả thâm nhập vào nơi nguồn gốc sinh mệnh tối sơ của các
loại chúng sinh. Quán chiếu rõ ràng căn do của mười hai loại chúng sinh ấy, mà
không bị thu hút hấp dẫn vào bất kỳ tánh chất của một loại nào. Không có loại
nào tác động được hành giả, anh ta không còn một quan hệ nào nữa với mười hai
loại chúng sanh ấy nữa cả.
Nhận được tính đồng nhất với mười phương thế giới. Tinh
minh không tiêu trầm, những gì ẩn mật từ trước nay đều hiển bày. Đây gọi là
phạm vi của thức ấm .
Hành giả trở nên đồng nhất với mười phương thế giới. Anh ta có
cảm giác đồng nhất thể tánh với khắp pháp giới. Ánh sáng ấy không bị chìm mất,
ánh sáng lưu xuất từ trí tuệ này không biến mất. Những gì ẩn mật trước nay được
hiển bày. Những trạng thái bí ẩn nhất và khó hiểu, khó giải bày nhất từ trước
đến nay được phơi bày một cách hiển nhiên, rõ ràng.
Trạng thái này gọi là phạm vi của thức ấm , hành giả đang
đi vào trong phạm vi thức ấm.
CỘI GỐC CỦA THỨC ẤM
Kinh Văn: Nhược ư quần triệu, dĩ hoạch đồng trung, tiêu ma lục
môn, hợp khai thành tựu. Kiến văn thông lân, hỗ dụng thanh tịnh. Thập phương
thế giới cập dữ thân tâm, như phệ lưu li, nội ngoại minh triệt, danh thức
ấm tận. Thị nhân tắc năng, siêu việt mệnh trọc. Quán kì sở do, võng
tượng hư vô, điên đảo vọng tưởng, dĩ vi kì bản.
Việt dịch: Như trong tính đồng của
các loài đã chứng được, tiêu dung luôn sáu căn, Khiến việc khai hợp sáu căn đều
thành tựu. Cái thấy, cái nghe dung thông với nhau một cách thanh tịnh. Mười
phương thế giới và trong ngoài thân tâm trong suốt như lưu ly. Đây là sự chấm
dứt của thức ấm . Người ấy có thể vượt qua mạng trược. Xét lại nguyên do
của thức ấm, mới thấy cỗi gốc là vọng tưởng điên đảo, huyễn hoá rỗng
không.
Giảng: Như trong tính
đồng của các loài đã chứng được.
Nếu hành giả trở nên đồng nhất với các loài, mà không bị các
loài chiêu dẫn. Vì có sự tương quan mật thiết nhân quả với mười hai loại chúng
sanh, hành giả trở nên đồng nhất với chúng. Tuy nhiên hành giả không bị ảnh
hưởng bởi chúng. Vì hành giả đã đoạn trừ tất cả mối tương quan với chúng, không
còn tái sinh trong đó nữa.
Tiêu dung luôn sáu căn.
Nên có thể tiêu dung
luôn sự đồng nhất của sáu căn. Đến điểm này, lối vào của sáu căn không còn hoạt
dụng được nữa. Nó hoàn toàn bị tiêu ma. Bằng cách nào mà nó không hoạt dụng
được nữa? Đây không có nghĩa là mắt không còn thấy, tai không còn nghe, mũi
không còn ngửi, lưỡi không nếm được mùi vị, mà còn hơn thế nữa. Điều gì xảy ra
khi sáu căn hỗ dụng? Nếu khi quý vị vượt qua được thức ấm , thì quý vị sẽ
trải qua trạng thái này. Nghĩa là, mắt có thể nhìn thấy và nó cũng có thể ăn và
nói. Tai vốn xưa chỉ dùng để nghe, nay có thể thấy được. Quý vị có thể
thấy bằng mũi và lưỡi. Mỗi căn (giác quan) có đủ sáu chức năng. Đó là ý nghĩa
tiêu dung sự đồng nhất của sáu căn. Những tướng trạng của tiền trần nay đều đã
biến mất.
Khiến việc khai hợp sáu căn đều thành tựu
Thành tựu việc dung hợp hay tách rời sáu căn ấy.
“Khai” là khi sáu căn trở thành một, “hợp” là khi mỗi căn đảm nhiệm chức năng
của cả sáu căn.
Cái thấy, cái nghe dung thông với nhau một cách thanh tịnh.
Mười phương thế giới và trong ngoài thân tâm trong suốt như lưu ly.
Có một sự dung thông, hỗ tương giữa sáu căn ấy. Giống như bà
con láng giềng quan tâm giúp đỡ lẫn nhau vậy. Chức năng của sáu căn đã liên kết
với nhau. Thấy có kỳ diệu không? Trạng thái này thật là vi diệu.
Mười phương thế giới và trong ngoài thân tâm hành giả trong
suốt như ngọc lưu ly. Giống như sắc xanh của ngọc lưu ly trong suốt. Đây là sự
chấm dứt của thức ấm . Khi quý vị đạt đến trạng thái này. Đây là
sự chấm dứt của thức ấm. Như thế cả năm ấm đều được chuyển hóa. Nhưng trước
khi đến được, mức độ này thì thức ấm vẫn chưa được tiêu vong.
Người ấy có thể vượt qua mạng trược. Xét lại nguyên do
của thức ấm , mới thấy cỗi gốc là vọng tưởng điên đảo, huyễn hoá rỗng
không.
Xét lại nguyên do của thức ấm , mới thấy sự phủ nhận hiện
hữu và cũng như phủ nhận cái không hiện hữu đều là hư vọng, và vọng tưởng điên
đảo là nguồn gốc của nó.
Vấn đề hiện hữu hay không hiện hữu, đều là hư vọng và mơ hồ.
Vọng tưởng điên đảo ấy là cội gốc của cảnh giới mà hành giả vừa trải qua.
Kinh Văn: A-nan đương tri, thị thiện nam tử, cùng chư hành
không, ư thức hoàn nguyên, dĩ diệt sanh diệt, nhi ư tịch diệt, tinh diệu vị
viên.
Việt dịch: A-nan nên biết, thiện nam tử ấy đã
quán sát tường tận tính không của các hành, nên trở
lại bản tính của thức, đã chấm dứt sinh diệt rồi, nhưng chưa viên mãn
tính tịnh diệu của tịch diệt.
Giảng: A-nan nên
biết, thiện nam tử ấy đã quán sát tường tận tính không của
các hành.
Hành giả, người tu tập thiền định đã quán sát tường
tận hành ấm là không. Dù hành giả có gặp những ma cảnh, dù bị quấy
nhiễu bởi thiên ma, hoặc ma khởi từ tâm mình, hoặc bất kỳ các loại ma nào khác,
chúng nó vẫn không tác động đến định lực của hành giả được nữa. Hoặc ma có thể
xuất hiện khi hành giả tu thiền định, nhưng hành giả không phải mắc cảnh giới của
ma. Hoặc hành giả có thể gặp cảnh giới ma, nhưng nhận ra ngay, không bị chúng
mê hoặc nhiễu loạn. Một khi hành giả phá trừ được sự mê lầm thì hành ấmlại
bị trừ diệt.
Nay hành giả đang bắt đầu chuyển hóa thức ấm . Anh
ta đã vượt qua hành ấm và thấy nó là “không.”
Nên trở lại bản tính của thức. Bây
giờ hành giả đang trong giai đoạn phá trừ thức ấm . Khi công phu tu tập
đến giai đoạn này, hành giả phải quay trở về nguồn cội, đó là Như Lai
tạng .
Đã chấm dứt sinh diệt rồi, nhưng chưa viên mãn tính tịnh diệu
của tịch diệt.
Sự sinh diệt đã chấm dứt hẳn rồi, nhưng chưa viên mãn đạt đến
sự tịch diệt tinh thần, vi diệu. Hành giả chưa đạt được tánh tịch diệt vi diệu
viên mãn.
Kinh Văn: Năng linh kỉ thân, căn cách hợp khai, diệc dữ thập
phương chư loại thông giác. Giác tri thông hốt, năng nhập viên nguyên. Nhược ư
sở quy, lập chân thường nhân, sanh thắng giải giả, thị nhân tắc đọa, nhân sở
nhân chấp. Sa-tì-ca-la, sở quy minh đế, thành kì bạn lữ, mê Phật bồ-đề, vong
thất tri kiến.
Việt dịch: Người đó có thể khiến nơi thân mình, các căn khi
hợp, khi chia lìa, còn thông suốt với sự hay biết các loài chúng sinh trong
mười phương. Tánh hay biết đó thông suốt, nên có thể nhập vào tánh nguyên viên.
Nếu xem chỗ quay về, lập nên nhân chân thường, cho là đúng đắn tuyệt đối, thì
người ấy rơi vào cái chấp nhân sở nhân. Trở thành bè bạn với Sa-tì-ca-la,
chấp vào minh đế, mê mờ tánh bồ-đề của Phật, bỏ mất chánh tri
kiến.
Giảng: Người đó có thể khiến nơi thân mình, các căn
khi hợp, khi chia lìa.
Có thể khiến các căn của mình, khi hợp, khi chia. Bây giờ nơi
thức ấm , hành giả sinh khởi một vọng chấp. Đó là tưởng rằng mình đã ở nơi
tuy chưa đạt được sự tịch diệt tinh thuần vi diệu, nhưng có thể khiến sáu căn
hỗ dụng cho nhau. Mỗi căn có chức năng của sáu căn kia. Mắt có thể nói và nghe.
Tai có thể ăn và ngửi. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều có thể sử dụng chức
năng hỗ tương với nhau, để thấy, nghe, ngửi, nếm và xúc chạm.
Quý vị nghĩ rằng tai thì không thể dùng để ăn. Nhưng khi một
người đã đạt được sáu căn hỗ dụng, thì có thể làm được điều ấy. Quý vị ngạc
nhiên hỏi: “Thế thì răng của họ ở đâu?” Hỏi tai của quý vị. Họ không ăn theo
cách mà chúng ta thường ăn. Khi họ muốn ăn, thì răng tự nhiên mọc ra. Răng ấy
cũng sẽ không rụng đi. Có khi họ không cần dùng răng. Hoặc là có khi răng sẽ
mọc khi họ cần ăn. Đây là loại năng lực chân thực của khoa học. Mỗi căn đều có
đủ chức năng của mỗi căn khác.
“Hợp” là khi sáu căn kết hợp lại với nhau thành một căn.
“Khai” là khi một căn trải ra để có đủ chức năng của cả sáu căn. Quý vị cho đây
là thần thông hay khoa học? Bất luận bao nhiêu khám phá mà các nhà khoa học đã
tìm được. Ngay dù họ có ghép được tim, gan, hoặc các bộ phận khác của cơ thể
con người, họ vẫn không có khả năng làm cho mỗi căn có đủ chức năng của tất cả
sáu căn. Đó là điều mà khoa học không thể nào với tới được. Bất luận khoa học
có tiến bộ đến đâu, tôi nghĩ nó cũng không thể đạt được trình độ ấy. Nhưng nếu
quý vị phát triển khoa học từ trong tự tánh của mình, thì quý vị có thể đạt
được năng lực ấy.
Còn thông suốt với sự hay biết các loài chúng sinh trong mười
phương. Biết khắp các loài chúng sinh trong mười phương. Không những
hành giả người có khả năng “khai,” “hợp” sáu căn để có năng lực hỗ dụng, mà còn
có thể biết được mười hai loại chúng sinh sẽ đi về đâu, trong khắp mười phương.
Hành giả và các loài chúng sinh đều có cùng tánh giác tri dung thông với nhau.
Tánh hay biết đó thông suốt, nên có thể nhập vào tánh nguyên
viên. Do tánh giác tri của hành giả thông suốt. Hành giả có thể biết
được căn tánh của toàn thể chúng sinh khắp mười phương. Nên có thể nhập vào
“tánh nguyên viên.” Đó là căn nguyên viên mãn của bổn tánh.
Nếu xem chỗ quay về, lập nên nhân chân thường, cho là đúng đắn
tuyệt đối, thì người ấy rơi vào cái chấp nhân sở nhân.
Giả sử như hành giả vọng chấp nơi quay về của mình. Chấp điều
gì? Cho rằng nơi ấy là chân thường và cho điều ấy là đúng đắn tuyệt đối. Vì anh
ta tin nơi quay về ấy là chơn thường. Xem kiến giải này như một lý thuyết tuyệt
đỉnh, một sự hiểu biết tối thượng, không có gì hơn thế nữa. Nếu như hành giả không
rơi vào kiến chấp này thì không có gì sai trái, nhưng ngay khi khởi kiến chấp
này thì hành giả sẽ mắc phải sai lầm, do chấp lầm cái nhân chân thường ấy. Hành
giả cho tính chân thường là nhân, nhưng điều này hoàn toàn sai lầm. Anh ta nghĩ
rằng chỗ ấy phải được mô tả như là tính chơn thường. Thực ra hành giả vẫn còn
trong phạm vi thức ấm , chưa phải là chân thường. Anh ta trở nên chấp vào
một nguyên nhân và chấp vào những gì nguyên nhân ấy có tác động tương quan.
Thực ra, đây không phải là nhân, nhưng hành giả xem đó như là nhân. Do chấp vào
điều ấy, nên hành giả rơi lạc vào ngoại đạo. Anh ta hùn hạp làm ăn với chúng,
đầu tư vốn liếng vào và cùng chúng lập thành công ty. Tà thuyết ngoại đạo nào
mà hành giả mắc vào? Là trở thành bè bạn với ngoại đạo Ta-tì-ca-la, chấp minh
đế là nơi trở về.
Ta-tì-ca-la lập nên “phái ngoại đạo tóc vàng” mà trước
đây tôi có giảng về sư phụ của Ma-đăng-già đã dùng chú thuật của ngoại đạo
Ta-tì-ca-la. Đó là một loại thần chú của Phạm thiên.
Minh đế là thuyết chủ trương rằng không có gì hết thảy,
đều là từ trong cảnh giới biến hóa hiện tại của A-lại-da
thức (ālayavijñāna ) mà xuất sinh ra. Ngoại đạo này xiển dương
lý thuyết cho rằng vạn vật đều xuất sinh từ minh đế. Một khi hành giả trở
nên chấp trước cái nhân này, anh ta trở thành quyến thuộc của “ngoại đạo tóc
vàng.” Anh ta hợp tác với chúng, không biết khi nào công ty này mới kết liễu.
Chẳng biết công ty ấy hữu hạn hay vô hạn nữa?
Mê lầm tánh bồ-đề của Phật, con đường giác ngộ, bỏ mất chánh
tri kiến. Anh ta nhận cái chẳng phải là nhân làm nhân. Lẽ ra anh ta không nên
điên đảo khi nhận cái nhân này, nhưng anh ta đã chấp lầm. Vì anh ta đã lập nên
một cách phi lý các năng nhân và sở nhân ấy. Nên anh ta đã không còn trí tuệ
chân chính nữa. Anh ta đã đánh mất trí tuệ đó rồi. Anh ta sẽ về đâu? Nếu quý vị
muốn giúp anh ta tìm thấy nơi ấy, quý vị cũng sẽ đánh mất trí tuệ của mình
luôn.
10 CẢNH GIỚI CỦA THỨC ẤM
— o0o —
1 – CHẤP CÓ NGUYÊN NHÂN
CHÂN THƯỜNG
Kinh Văn: Thị danh đệ nhất, lập sở đắc tâm, thành sở quy quả,
vi viễn viên thông, bối niết-bàn thành, sanh ngoại đạo
chủng.
Việt dịch: Đây là dạng thứ nhất, lập nên tâm sở đắc, thành cái
quả sở quy, nên trái xa tính viên thông, ngược hướng niết-bàn, sinh ra
hạt giống ngoại đạo.
Giảng: Đây là dạng
thứ nhất, lập nên tâm sở đắc
Đây là dạng thứ nhất, cho rằng có một nơi để trở về, do căn cứ
trên ý tưởng có điều để chứng đắc.
Tông chỉ đó hoàn toàn sai lầm. Sai điểm nào? Là
hành giả nên trái xa tính viên thông, vĩnh viễn xa rời tính
viên thông. Những gì hành giả quan niệm đều hoàn toàn trái ngược với việc tu
tập “nhĩ căn viên thông” qua công phu “phản văn văn tự tánh ” và “nhập lưu
vong sở.” Tại sao? Vì anh ta đã phát khởi sự vọng chấp. Ngược hướng
niết-bàn. Nên anh ta đi ngược hướng với thành niết-bàn. Bốn thành phố
lớn nhất của niết-bàn là gì? Đó là nơi có đầy đủ bốn đức của
niết-bàn: thường-lạc-ngã-tịnh .
Sinh ra hạt giống ngoại đạo.
Do lập nên cái nhân chẳng phải là nhân, hành giả đã dính mắc
với tà thuyết ngoại đạo. Do vì thuyết lập ra giống như thuyết Minh Đế của
ngoại đạo Ta-tì-ca-la, nên anh ta thành quyến thuộc của chúng.
2 – TỰ CHẤP CÓ NĂNG LỰC
NHƯNG THẬT SỰ KHÔNG PHẢI NĂNG LỰC
Kinh Văn: A-nan, hựu thiện nam tử, cùng chư hành không, dĩ
diệt sanh diệt, nhi ư tịch diệt, tinh diệu vị viên.
Việt dịch: Lại nữa A-nan, thiện nam tử ấy đã
quán sát tường tận tính không của các hành, nên trở
lại bản tính của thức, đã chấm dứt sinh diệt rồi, nhưng chưa viên mãn
tính tịnh diệu của tịch diệt.
Giảng: Lại nữa A-nan,
thiện nam tử ấy đã quán sát tường tận tính không của các hành.
Lại nữa A-nan, hành giả
người đang tu tập chánh định quán xét cùng tột tánh không
của hành ấm . Hành giả đã quán sát đến mức cùng tột và đạt đến tánh
không của hành ấm. Hành ấm hoàn toàn là không đối với hành giả.
Nên trở lại bản tính của thức, đã chấm dứt sinh
diệt rồi, nhưng chưa viên mãn tính tịnh diệu của tịch diệt.
Đã diệt hẳn ý niệm cảnh giới sinh diệt, nhưng chưa được tính
tinh diệu viên mãn của sự tịch diệt. Anh ta chưa đạt được niềm vui tịch diệt,
do vì thức ấm chưa được tiêu dung.
“Thức” và “chân như” có khác nhau tí chút. “Thức” là chủ thể
còn có sinh và diệt. Còn “chân như” thì không còn sinh diệt nữa. Ngay bây giờ
thức thứ tám vẫn còn tướng sinh diệt nhỏ nhiệm, hòa hợp với chân như vốn không
sinh diệt, trở thành “hòa hợp thức.” Là vì cái thức sinh diệt ấy cùng với chân
như bất sinh diệt rất gần gũi nhau, cả hai cùng hòa hợp nương nhau mà sinh
khởi. Gọi là “hòa hợp thức.” Vì nó chưa đạt được hoàn toàn tinh diệu.
Kinh Văn: Nhược ư sở quy, lãm vi tự thể, tận hư không
giới, thập nhị loại nội, sở hữu chúng sanh, giai ngã thân trung, nhất loại lưu
xuất, sanh thắng giải giả, thị nhân tắc đọa, năng phi năng chấp. Ma-hê thủ-la
hiện vô biên thân, thành kì bạn lữ. Mê Phật bồ-đề, vong thất tri kiến.
Việt dịch: Nếu xem nơi trở về chân thật là tự thể của riêng
mình, xem mười hai loại chúng sinh cùng khắp cả pháp giới hư không đều từ trong
thân mình sinh ra, quyết định cho kiến giải này là đúng, thì người ấy rơi vào
cái chấp năng phi năng, thành bè đảng với Ma-hê-thủ-la, thường hiện
ra vô biên thân. Do mê muội tánh bồ-đề của chư Phật, nên bỏ mất chánh tri
kiến.
Giảng: Hành giả xem nơi trở về chân thật là tự thể
riêng của mình.
Nơi thân mà hành giả quay hướng về cũng còn nằm trong vòng
sanh diệt của thức thứ tám. Đó chưa phải là tự thể chân thật của mình. Nhưng
hành giả cho là như vậy, nên rơi vào một vọng chấp khác đó là xem mười hai loại
chúng sinh cùng khắp cả pháp giới hư không, từ loài noãn
sinh cho đến loài phi vô tưởng cùng khắp cả
pháp giới hư không đều từ trong thân mình sinh ra.
Xem mười hai loại chúng sinh cùng khắp cả pháp giới hư không
đều từ trong thân mình sinh ra.
Các ông có biết chúng sinh từ đâu mà có không? Hành giả hỏi:
Rồi tự trả lời: “Hoàn toàn từ thân tôi mà ra. Tôi sinh ra tất cả các loài chúng
sinh ấy.”
Giống như trước đây có một hành giả đã nói: “Các loài chúng
sinh đều là con đẻ của ta cả. Ngay cả chư Phật, chư Bồ-tát, các vị
A-la-hán . Ta đều sinh ra những vị ấy, ta có thể sinh ra các vị Bồ-tát và
A-la-hán.” Hãy xem kỹ cái thói ngã chấp điên đảo của người này.
Quyết định cho kiến giải này là đúng.
Nếu hành giả quyết định cho kiến giải này là đúng. Anh ta cho
kiến giải ấy là thù thắng, nhưng thực ra chẳng phải như vậy. Kiến giải này hoàn
toàn căn cứ vào tà kiến nên không thể gọi là thù thắng được. Nếu nó thực sự thù
thắng, nó sẽ phù hợp với Phật pháp. Thế nên khi quí vị công phu và đọc kinh
Phật, cốt yếu là phải hiểu thật rõ ràng ý kinh.
Thì người ấy rơi vào cái chấp năng phi năng, thành
bè đảng với Ma-hê-thủ-la.
Rơi vào chấp trước sai lầm cho rằng mình đạt được một năng lực
mà không thực có. Anh ta nói rằng có thể sinh ra tất cả mười hai loài chúng
sinh, nhưng thực ra anh ta hoàn toàn không có khả năng như thế. Đó
chỉ là sự ước đoán do anh ta tạo ra từ vọng thức của chính mình. Anh
ta thực sự không có khả năng ấy, nhưng anh ta trở nên chấp trước vào ý tưởng
rằng mình có năng lực ấy. Quý vị ở đây ai có loại vọng chấp này không? Thành
bè đảng với Ma-hê-thủ-la.
Ma-hê-thủ-la là vua cõi trời Đại tự tại , là cõi
trời cao nhất thuộc Sắc giới, Ma-hê-thủ-la còn gọi là Đại tự tại, vị ấy
sinh ra đã có ba con mắt.
Vị này có tám cánh tay, bốn bên phải và bốn bên trái. Những
cánh tay phía trước rất thuận lợi để cầm nắm đồ vật. Những cánh tay đằng sau để
cầm những vật lấy cắp được. Vì một tay chưa đủ, hai tay vẫn không đủ để lấy và
cất giữ vật dụng lấy được, nên ông ta có đến tám tay. Ông ta có thể cầm nắm rất
nhiều thứ. Nếu ông đi ra vào công ty bách hóa, tôi chắc là nhân viên bảo vệ
canh chừng người ăn cắp hàng hóa sẽ rất khó khăn khi canh chừng vị này, vì ông
ta có quá nhiều tay.
Vị này thường cỡi trên trâu trắng, tay cầm phất trần màu
trắng. Ông ta dạo chơi khắp nơi rất tự tại. Ông ta nói: “Hãy nhìn xem ta hoàn
toàn tự do. Các ông chẳng được như ta, ta đã có được tự tại tuyệt đối.” Đó là
lý do tại sao gọi vị này là Đại tự tại .
Thường hiện ra vô biên thân.
Đại tự tại Thiên vương thường hiện ra vô số thân.
Vị vua trời này chấp rằng ông ta có thể hiện ra vô số thân, nên ông ta tuyên bố
rằng tất cả các loài chúng sinh đều sinh khởi từ ông ta. Nay hành giả cũng đang
tu tập pháp môn này. Anh ta cũng có chấp trước như thế. Anh ta cho rằng tất cả
mọi loài chúng sinh đều sinh ra từ anh ta. Quý vị hãy nghĩ xem! Làm sao người
khi chưa thành Phật mà có khả năng xuất sinh các loại hữu tình? Đây là một loại
vọng chấp, anh ta nghĩ là mình có khả năng ấy, trong khi không thực có. Anh ta
đã kết quyến thuộc với Đại tự tại Thiên vương và rơi vào cõi trời Đại tự tại.
Do mê muội tánh bồ-đề của chư Phật, nên bỏ mất chánh tri
kiến. Mê muội tánh bồ-đề của chư Phật, hành giả đánh mất chánh tri
kiến.
Hành giả không nhận ra được sự giác ngộ chân chính, cũng không
có trí tuệ chân chính. Thế nên anh ta đọa lạc vào thiên ma ngoại đạo.
Kinh Văn: Thị danh đệ nhị, lập năng vi tâm, thành năng sự quả,
vi viễn viên thông, bối niết-bàn thành, sanh đại mạn thiên, ngã biến viên
chủng.
Việt dịch: Đây là dạng thứ hai, lập
nên cái tâm năng vi, thành cái quả năng sự, trái xa với tính
viên thông, ngược với đạo niết-bàn, sinh ra giống Đại mạn thiên, chấp cái
ta trùm khắp.
Giảng: Đây là dạng
thứ hai, lập nên cái tâm năng vi, thành cái quả năng sự.
Đây là dạng thứ hai lập nên luận về quả vị có thể chứng đắc
căn cứ vào ý tưởng mình có một năng lực. Dựa vào ý tưởng mình có năng lực
khiến làm xuất sinh các loại chúng sinh, nên nghĩ rằng mình đạt được quả vị
dường như trùm khắp viên mãn.
Nên trái xa với tính viên thông.
Những suy nghĩ và việc làm của hành giả đều trái nghịch với
pháp môn nhĩ căn viên thông, hướng tánh nghe vào bên trong để nhận ra tự
tánh của chính mình (phản văn văn tự tánh ). Trái ngược với đạo niết-bàn.
Hành giả cũng đi ngược với đạo lý bất sinh bất diệt.
Ngược với đạo niết-bàn, sinh ra giống Đại mạn thiên, chấp cái
ta trùm khắp.
Sinh ra hạt giống Đại mạn thiên, chấp cái ta trùm khắp viên
mãn. Rốt cùng, hành giả sẽ bị thọ sinh trong cõi trời Đại mạn. Đó là cõi của
đại Tự tại thiên. Đại mạn có nghĩa là xem thường tất cả mọi người và mọi loài,
vị này luôn luôn cỡi trâu trắng, có ba mắt, tám cánh tay. Nghĩ rằng mình rất là
ưu việt. Cưỡi trâu trắng đi lại một cách tự do, rất tự mãn. Vì vị ấy nghĩ rằng
cuộc sống của mình rất là phi thường, nên sinh ra ngã mạn cống cao. Vị ấy tuyên
bố: “Ta hoàn toàn trùm khắp cả pháp giới, ta có khả năng thành tựu tất cả mọi
việc.”
3 – TÀ KIẾN VỀ CÁI KHÔNG
PHẢI THƯỜNG MÀ CHO LÀ THƯỜNG
Kinh Văn: Hựu thiện nam tử, cùng chư hành không, dĩ diệt
sanh diệt, nhi ư tịch diệt, tinh diệu vị viên.
Việt dịch: Lại nữa thiện nam tử ấy đã
quán sát tường tận tính không của các hành, đã chấm dứt sinh
diệt rồi, nhưng chưa viên mãn tính tịnh diệu của tịch diệt.
Giảng: Lại nữa thiện
nam tử ấy đã quán sát tường tận tính không của các hành, đã
chấm dứt sinh diệt rồi, nhưng chưa viên mãn tính tịnh diệu của tịch diệt.
Lại nữa, hành giả người đang tu tập định lực, đã phá trừ được
hành ấm .
Quán sát cùng tột tánh không của hành ấm . Đã chấm dứt
hẳn ý niệm niệm tưởng sinh diệt. Nhưng chưa được tính tinh diệu, viên mãn của
sự tịch diệt. Anh ta chưa hoàn toàn đạt được niềm vui tịch diệt.
Kinh Văn: Nhược ư sở quy, hữu sở quy y, tự nghi thân tâm, tòng
bỉ lưu xuất, thập phương hư không, hàm kì sanh khởi. Tức ư đô khởi, sở tuyên
lưu địa, tác chân thường thân vô sanh diệt giải, tại sanh diệt trung, tảo kế
thường trụ. Kí hoặc bất sanh, diệc mê sanh diệt. An trụ trầm mê, sanh thắng
giải giả, thị nhân tắc đọa thường phi thường chấp, kế Tự tại thiên, thành kỳ
bạn lữ. Mê Phật bồ-đề, vong thất tri kiến.
Việt dịch: Nếu lúc quay về, thấy có chỗ sở quy, tự nghi
thân tâm mình từ nơi ấy sinh ra, mười phương hư không cũng từ đó sinh
khởi. Ngay nơi chỗ sinh ra tất cả đó, cho là cái thể chân thường không sinh
diệt, ở trong sinh diệt, vội chấp là thường trụ. Chẳng những mê lầm tánh bất
sinh, mà còn mê lầm tánh sinh diệt. Chìm đắm trong mê lầm, mà sanh kiến
giải thù thắng, người ấy rơi vào kiến chấp thường phi thường, thành ra bè
đảng với Tự tại thiên. Mê lầm tánh bồ-đề của chư Phật, lạc mất chánh tri kiến.
Giảng: Nếu lúc quay
về, thấy có chỗ sở quy, tự nghi thân tâm mình từ nơi ấy sinh ra.
Nếu hành giả xem việc quay về của mình như là có một nơi chốn
để nương tựa, có một mối nghi ngờ phát sinh trong tâm hành giả, thì hành giả sẽ
nghi thân tâm mình từ nơi ấy mà sinh ra, vọng chấp ở trước là chính mình đã
sinh ra tất cả các loài chúng sinh. Bây giờ, hành giả nghĩ rằng mình lưu xuất
từ nơi mà mình quay về nương tựa.
Mười phương hư không cũng từ đó sinh khởi.
Mười phương hư không cũng từ đó mà sinh khởi. Hành giả có kiến
giải rằng nơi sinh ra tất cả là cái thân chân thường, không sinh không diệt.
Nơi đó là nơi nương tựa mà hành giả quay về. Anh ta tuyên
bố rằng chẳng còn có gì can dự trong sanh tử. Tại sao anh ta nói như thế? Vì
anh ta đã bị nhầm lẫn trong kiến giải cố chấp sai lầm của anh ta.
Ngay nơi chỗ sinh ra tất cả đó, cho là cái thể chân thường
không sinh diệt, ở trong sinh diệt, vội chấp là thường trụ.
Trong khi vẫn còn thức là đối tượng trong sinh diệt, mà vội
chấp là thường trụ. Hành giả suy đoán rằng thức ấy là vĩnh cửu bất biến.
Chẳng những mê lầm tánh bất sinh, mà còn mê lầm tánh
sinh diệt.
Chẳng những hành giả mê lầm tánh bất sinh, mà còn mê lầm cả
tánh sinh diệt nữa. Vì hành giả không hiểu được đạo lý bất sinh, nên cũng không
được thông suốt đạo lý sinh diệt.
Chìm đắm trong mê lầm. Trở nên chấp trước vào cảnh giới này
không rời ra khỏi được. Dụng công tu tập ngay nơi điểm này nên thực sự chìm sâu
vào trong mê lầm.
Chìm đắm trong mê lầm, mà sanh kiến giải thù thắng, người ấy
rơi vào kiến chấp thường phi thường.
Nếu cho rằng đây là một loại kiến giải thù thắng là rơi vào
kiến chấp “cái không thường hằng trở nên thường hằng.” Nếu hành giả cho kiến
chấp ấy là đúng đắn, có nghĩa là trên sự chấp trước còn gắn thêm một niệm chấp
trước nữa. Trở nên chấp rằng tất cả đều là thường hằng, trong khi nó chẳng phải
là chân thường.
Thành ra bè đảng với Tự tại thiên. Mê lầm tánh bồ-đề của chư
Phật, lạc mất chánh tri kiến. Không còn trí tuệ
chân chánh nữa.
Kinh Văn: Thị danh đệ tam lập nhân y tâm, thành vọng kế quả,
vi viễn viên thông, bối niết-bàn thành, sanh đảo viên chủng.
Việt dịch: Đây là dạng thứ ba, lập nên cái tâm nhân y,
thành cái quả vọng kế, trái xa với viên thông, ngược với đạo niết-bàn,
sinh ra giống đảo viên .
Giảng: Đây là dạng
thứ ba, lập nên cái tâm nhân y.
Dạng thứ ba của ngoại đạo lập nên suy luận sai lầm căn
cứ vào ý tưởng cho rằng có nơi để nương tựa.
Thành cái quả vọng kế.
Hành giả lập nên quan
niệm có một nơi để nương vào, nên lập thành một thứ vọng chấp về quả.
Trái xa với viên thông, ngược với đạo niết-bàn,
sinh ra giống đảo viên .
Nên trái ngược hẳn với đạo niết-bàn, làm sinh khởi quan niệm
điên đảo về sự viên mãn (đảo viên ). Anh ta đi ngược với đạo lý viên thông
rất xa, trở nên cố chấp vào một quan niệm sai lầm điên đảo về sự viên mãn.
4 – TÀ KIẾN VỀ VẬT CÓ
TRI GIÁC VÀ KHÔNG CÓ TRI GIÁC
Kinh Văn: Hựu thiện nam tử, cùng chư hành không, dĩ diệt sanh
diệt, nhi ư tịch diệt, tinh diệu vị viên.
Việt dịch: Lại nữa thiện nam tử ấy đã quán sát
tường tận tính không của các hành, đã chấm dứt sinh diệt rồi, nhưng chưa
viên mãn tính tịnh diệu của tịch diệt.
Giảng: Lại nữa thiện
nam tử ấy đã quán sát tường tận tính không của các hành, đã
chấm dứt sinh diệt rồi, nhưng chưa viên mãn tính tịnh diệu của tịch diệt.
Lại nữa, hành giả quán sát cùng tột tánh không của
hành ấm . Đã chấm dứt hẳn ý niệm sinh diệt. Đã chuyển hóa được bản chất,
nơi sinh khởi những niệm sinh diệt. Nhưng chưa đạt được tính vi diệu viên mãn
của sự tịch diệt.
Kinh Văn: Nhược ư sở tri, tri biến viên cố, nhân tri lập giải,
thập phương thảo mộc, giai xưng hữu tình, dữ nhân vô dị, thảo mộc vi nhân, nhân
tử hoàn thành, thập phương thảo thụ. Vô trạch biến tri, sanh thắng giải giả,
thị nhân tắc đọa, tri vô tri chấp. Bà-trá, Tiển-ni, chấp nhất thiết
giác, thành kì bạn lữ. Mê Phật bồ-đề, vong thất tri kiến.
Việt dịch: Nếu nơi chỗ hay biết, nhân cái hay biết cùng
khắp mà cho rằng tất cả thảo mộc trong khắp mười phương đều gọi là hữu
tình, không khác gì người, cây cỏ làm người, người chết trở thành
cây cỏ mười phương. Không quyết trạch rõ ràng cái biết cùng khắp này, cho là
thắng giải, người ấy rơi vào kiến chấp tri vô tri. Trở thành bè đảng với
Bà-tra , Tiển-ni, chấp tất cả đều có tánh biết. Do đó nên mê lầm tánh
bồ-đề của chư Phật, lạc mất chánh tri kiến.
Giảng: Nếu nơi
chỗ hay biết, nhân cái hay biết cùng khắp mà cho rằng tất cả thảo mộc
trong khắp mười phương đều gọi là hữu tình, không khác gì người, cây cỏ
làm người, người chết trở thành cây cỏ mười phương.
Căn cứ trên ý tưởng có các biết cùng khắp, hành giả lập nên
luận thuyết. Hành giả suy luận từ những điều đã biết được, là có tánh biết cùng
khắp, và lập nên kiến giải về điều này. Kiến giải gì? Quý vị cũng như tôi không
thể nào tưởng tượng ra nỗi. Anh ta cho rằng tất cả thảo mộc trong khắp mười
phương đều là loài hữu tình.
Người Trung Hoa có câu:
“Nhân phi thảo mộc, thục năng vô tình.”
Nghĩa là: “Người chẳng phải là cây cỏ, ai lại vô tình.” Câu
này ý nói thảo mộc là loài vô tình. Nhưng ở đây hành giả quyết đoán rằng tất cả
các loài thảo mộc đều là hữu tình.
Không khác gì người. Thảo mộc cũng giống như người, nên nó có
sự sống.
Thảo mộc có thể trở thành người, khi người chết lại trở thành
thảo mộc trong khắp mười phương. Sau khi chết, người trở lại thành thảo mộc.
Không quyết trạch rõ ràng cái biết cùng khắp này, cho là thắng
giải, người ấy rơi vào kiến chấp tri vô tri.
Nếu hành giả không quyết trạch rõ ràng tri giải này, vẫn cho
là đúng. Anh ta không có trí tuệ chân chính để tuyển trạch lý thuyết về tánh
biết cùng khắp này. Anh ta đang tự nỗ lực làm cho kiến giải sai lầm của mình
thành một pháp môn kỳ đặc, quái dị.
Thì sẽ rơi vào kiến chấp “tri vô tri.” Anh ta tuyên bố là hiểu
được đạo lý này, nhưng thực ra anh ta hoàn toàn vô minh. Anh ta chẳng hiểu biết
gì hết, nhưng cứ khăng khăng cho mình hiểu. Anh ta giống như hai đệ tử của
ngoại đạo.
Trở thành bè đảng với Bà-tra , Tiển-ni.
Bà-tra tên tiếng Phạn nghĩa là tránh đến gần. Tại
sao ông ta có cái tên như thế. Vì ông ta nguyên làm mục đồng. Một hôm vị Hoàng tử
con vị vua trị vì thành Tỳ-xá-ly đi dạo chơi ngoài thành, gặp cậu bé chăn cừu.
Hoàng tử nằm trên mình cậu bé mục đồng, xem đó như một chiếc giường và ngủ một
giấc ngon lành. Việc này làm cho cậu bé chăn cứu rất phấn khích. Trở về nhà báo
với mẹ rằng: “Hoàng tử thành Tỳ-xá-ly đã nằm ngủ trên mình con như nằm trên một
chiếc giường.” Bà mẹ biết rằng vị Hoàng tử sẽ lên ngôi vua, sẽ có rất nhiều
quyền lực. Nên bà mẹ bảo chú mục đồng: “Ngay từ bây giờ, con phải tránh xa
Hoàng tử ấy, đừng đến gần ông ta nữa.” Tên Bà Tra có nghĩa là như vậy.
Tiển Ni cũng là tên tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là
“Hữu Quân ” có nghĩa là người thích làm lính tráng và có khí phách của
người lính.
Chấp tất cả đều có tánh biết. Hai
người này họ tin tưởng rằng mình biết được rất nhiều điều, bây giờ trở thành
bạn đồng hành với hành giả này.
Do đó nên mê lầm tánh bồ-đề của chư Phật, lạc mất chánh tri
kiến.
Kinh Văn: Thị danh đệ tứ, kế viên tri tâm, thành hư mậu quả,
vi viễn viên thông, bối niết-bàn thành, sanh đảo tri chủng.
Việt dịch: Đây là dạng thứ tư, chấp cái tâm viên tri,
thành hư mậu quả, trái xa với tánh viên thông, ngược với đạo
niết-bàn, làm sinh khởi hạt giống đảo tri.
Giảng: Đây là dạng thứ tư, chấp cái tâm viên tri,
thành hư mậu quả,
Đây là dạng thứ tư có kế chấp sai lầm căn cứ vào ý tưởng có
tánh biết cùng khắp. Trong loại kiến chấp thứ tư này hành giả tuyên bố rằng anh
ta biết tất cả mọi thứ và nghĩ rằng không có thứ gì mà mình không biết. Tuy vậy
đó chỉ là kiến chấp của hành giả. Thực sự anh ta chẳng biết cái gì
cả. Anh ta nhận một kết quả sai lầm. Sai lầm có nghĩa là không có những sự việc
như thế.
Trái xa với tánh viên thông, Nên
hành giả hoàn toàn trái xa với tánh viên thông. Hành giả hoàn toàn đi ngược với
pháp môn tu tập “nhĩ căn viên thông.”
Ngược với đạo niết-bàn.Nghịch hướng với đạo
Niết Bàn, với đạo lý bất sinh bất diệt.
Làm sinh khởi hạt giống đảo tri.
Làm sinh khởi hạt giống “cái biết điên đảo” là một loại tri
kiến điên đảo, như thảo mộc. Chẳng có ai xem đó là loài hữu tình, nhưng hành
giả lại cho như thế. Cho rằng con người cũng chỉ như cây cỏ; thế nên
cây cỏ cũng có thể trở thành người.
Có người nói: “Nhưng có những cây cổ thụ có linh hồn, phải
chăng nó cũng có tánh biết?” Không, trong trường hợp đó, có một loại tinh linh
gá vào thân cây cổ thụ. Chớ chẳng phải tự nó có tánh biết như loài hữu tình.
5 – TÀ CHẤP VỀ CÁI KHÔNG
SANH MÀ CHO LÀ SANH
Kinh Văn: Hựu thiện nam tử, cùng chư hành không, dĩ diệt sanh
diệt, nhi ư tịch diệt, tinh diệu vị viên.
Việt dịch: Lại nữa thiện nam tử ấy đã quán sát
tường tận tính không của các hành, đã chấm dứt sinh diệt rồi, nhưng chưa
viên mãn tính tịnh diệu của tịch diệt.
Giảng: Lại nữa thiện nam tử ấy đã
quán sát tường tận tính không của các hành, đã chấm dứt sinh
diệt rồi, nhưng chưa viên mãn tính tịnh diệu của tịch diệt.
Lại nữa, hành giả. Người đang tu tập chánh định, tập trung
nghiên cứu đến mức quán sát cùng tột tánh không của hành ấm .
Đã chấm dứt hẳn ý niệm sanh diệt. Nhưng chưa được tính tinh diệu, viên mãn của
sự tịch diệt. Hành giả vẫn còn mang trong tâm thức những hạt giống sinh diệt
rất nhỏ nhiệm, vi tế.
Kinh Văn: Nhược ư viên dung, căn hỗ dụng trung, dĩ đắc tùy
thuận. Tiện ư viên hóa, nhất thiết phát sanh, cầu hỏa quang minh, lạc thủy
thanh tịnh, ái phong châu lưu, quán trần thành tựu, các các sùng sự.
Dĩ thử quần trần, phát tác bản nhân, lập thường trụ giải. Thị nhân tắc đọa,
sanh vô sanh chấp. Chư Ca-diếp-ba, tính bà-la-môn, cần tâm dịch thân, sự hỏa
sùng thủy, cầu xuất sanh tử, thành kì bạn lữ. Mê Phật bồ-đề, vong thất tri
kiến.
Việt dịch: Nếu trong lúc đã đạt được sự tuỳ thuận viên
dung hỗ tương của các căn, lại nơi tính viên dung biến hoá hết thảy đều
phát sinh, mong cầu ánh sáng của lửa, thích tính trong lặng của nước, ưa sự
châu lưu của gió, nhìn ngắm xem xét sự thành tựu của đất, trân trọng mọi loài.
Nhận tứ đại ấy làm bản nhân, nhận đó là tánh thường trụ. Người ấy
rơi vào kiến chấp sanh vô sinh, trở thành bè đảng với ngoại đạo Ca-diếp-ba
và bà-la-môn thờ lửa và nước để cầu vượt thoát sinh tử. Mê mờ tánh bồ-đề
của chư Phật, đánh mất chánh tri kiến.
Giảng: Nếu trong lúc đã đạt được sự tuỳ thuận viên
dung hỗ tương của các căn, lại nơi tính viên dung biến hoá hết thảy đều
phát sinh.
Nếu hành giả đã đạt được sự linh hoạt trong trạng thái sự dung
nhiếp trọn vẹn. Và sự dung thông chức năng của sáu căn với nhau. Nếu hành giả
có thể tùy thuận theo ý nguyện của mình, làm được bất kỳ điều gì mình mong
muốn.
Mong cầu ánh sáng của lửa, thích tính trong lặng của nước, ưa
sự châu lưu của gió, nhìn ngắm xem xét sự thành tựu của đất.
Hành giả cho rằng tất cả mọi vật đều sinh khởi từ sự biến hóa
viên mãn này. Hành giả trở nên chấp vào tính biến hóa viên mãn nơi mà từ đó các
vật lưu xuất ra. Nên hành giả mong cầu ánh sáng của lửa, và thờ lửa với lòng
nhiệt thành cao độ. Cũng ưa thích tính trong lặng của nước sùng bái một cách
phi thường tính chất trong lặng của nước, ưa sự châu lưu của gió, yêu mến tính
chất chuyển động khắp nơi không dừng nghỉ của gió và xem xét sự thành tựu của
đất. Hành giả đều trân trọng mỗi loại, từng yếu tố đất, nước, gió, lửa. Anh ta
lạy lửa, cúi mình đảnh lễ nước, thờ phượng gió và khấu đầu trước đất.
Trân trọng mọi loài. Anh ta nói: “Thật là bất
khả tư nghì” làm sao mà lửa lại phát ra ánh sáng. Nước lại rất thanh tịnh. Ta
phải thờ phụng các thứ ấy.” Từ sáng đến tối anh ta cứ lạy đất, nước, gió, lửa và
thờ phụng bốn yếu tố này. Anh ta sùng bái và cúng dường tứ đại. Mỗi yếu tố có
một vị thần. Anh ta đều cung kính thờ phụng các vị thần lửa, thần gió,thần
nước, thần đất như tổ tiên ông bà của mình.
Nhận tứ đại ấy làm bản nhân, nhận đó là tánh thường
trụ.
Ma-ha Ca-diếp là đệ tử của Đức Phật. Nguyên trước kia là
thành viên của nhóm ngoại đạo thờ lửa, thường hướng về lửa mà lễ bái. Nhận
những tứ đại đất, nước, lửa, gió làm nhân căn bản của chính hành giả và xem nó
là tánh hiểu biết thường trụ. Anh ta cho rằng tứ đại này thường trụ mãi mãi.
Đúng vậy. Đất, nước, gió, lửa chỉ là tánh Như Lai tạng . Tuy
nhiên, anh phải nên cung kính tánh Như Lai tạng chớ không nên sùng bái đất,
nước, gió, lửa. Nếu làm như thế có nghĩa là gắn thêm một cái đầu trên cái đầu
của mình. Thay vì ngay nơi bản tâm mà dụng công phu tu tập, thay vì cung kính
tánh Như Lai tạng và chư Phật, mà lại đi lại thờ phụng những thứ siêu hình.
Nên hành giả rơi vào kiến chấp sai lầm, nhận cái không sinh
làm sinh. Anh ta muốn chấm dứt sinh tử, nhưng không có khả năng làm được việc
ấy, nên lập ra kiến chấp như vậy.
Người ấy rơi vào kiến chấp sanh vô sinh, trở thành
bè đảng với bọn ngoại đạo Ca-diếp-ba và Bà-la-môn thờ lửa và nước để cầu
vượt thoát sinh tử. Mê mờ tánh bồ-đề của chư Phật, đánh mất chánh tri kiến
Ca-diếp-ba thuộc dòng họ Đại Quy, cùng với các
Phạm chí, Bà-la-môn tu tập hạnh thanh tịnh. Họ bắt ép thân tâm mình tuân
theo những việc khổ nhọc vô ích. Họ thờ phụng lửa và lễ bái nước. Cầu mong qua
việc thờ phụng tứ đại mà có thể vượt thoát sinh tử. Hành giả thành bè bạn với
loại ngoại đạo này.
Mê lầm tánh bồ-đề của chư Phật đánh mất chánh tri kiến. Đánh
mất trí tuệ chân chính.
Kinh Văn: Thị danh đệ ngũ, kế trước sùng sự, mê tâm tùng vật,
lập vọng cầu nhân, cầu vọng kí quả, vi viễn viên thông, bối niết-bàn thành,
sanh điên hóa chủng.
Việt dịch: Đây là dạng thứ năm, chấp trước việc sùng bái sự
vật, tâm mê theo vật, lập nhân hư vọng, để cầu quả hư vọng, nên xa
rời tính viên thông, trái ngược đạo niết-bàn, làm sinh khởi hạt
giống điên hóa.
Giảng: Đây là dạng thứ năm, mê lầm chấp trước vào việc
sùng bái sự vật. Lập nên cái nhân hư vọng, khiến tâm chấp trước vào việc
thờ phụng tứ đại.
Tâm mê theo vật, lập nhân hư vọng, để cầu quả hư vọng.
Đây là luận thuyết điên đảo thứ năm. Quan niệm điên đảo đã đưa
hành giả đến việc thờ phụng, cúng dường tứ đại. Anh ta trở nên mê mờ chân tâm
thường trụ, Như Lai Tạng tánh của chính mình. Lại đuổi theo sự vật bên ngoài.
Anh ta dựng lên cho riêng mình một kiến giải sai lầm cho vấn đề giải thoát sanh
tử. Đây chính là “cái nhân sai lầm.” Với nhân mê lầm này anh ta hoàn toàn đánh
mất hi vọng vượt thoát sanh tử.
Xa rời tính viên thông, trái ngược đạo niết-bàn, làm
sinh khởi hạt giống điên hóa.
Hành giả trở nên xa hẳn với tính viên thông, trái ngược với
đạo niết-bàn, làm sanh khởi hạt giống “biến hóa điên đảo.”
6 – TÀ CHẤP CHỖ TRỞ VỀ,
MÀ KỲ THẬT KHÔNG PHẢI LÀ CHỖ TRỞ VỀ
Kinh Văn: Hựu thiện nam tử, cùng chư hành không, dĩ diệt sanh
diệt, nhi ư tịch diệtn tinh diệu vị viên .
Việt dịch: Lại nữa thiện nam tử ấy đã quán sát
tường tận tính không của các hành, đã chấm dứt sinh diệt rồi, nhưng chưa
viên mãn tính tịnh diệu của tịch diệt.
Giảng: Lại nữa thiện
nam tử ấy đã quán sát tường tận tính không của các hành..
Hành giả người đang tu tập pháp môn “nhĩ căn viên thông” hướng
tánh nghe vào bên trong để nhận ra tự tánh của mình.
Quán sát cùng tột tánh không của hành ấm . Anh ta đã
nghiên cứu cùng tận hành ấm, thấy nó hoàn toàn không và đã vượt qua được hành
ấm.
Đã chấm dứt sinh diệt rồi, nhưng chưa viên mãn tính tịnh diệu
của tịch diệt.
Đã chấm dứt được hẳn ý niệm con đường sinh diệt. Nhưng chưa
được tính tinh diệu, viên mãn của sử tịch diệt.
Kinh Văn: Nhược ư viên minh, kế minh trung hư, phi diệt
quần hóa, dĩ vĩnh diệt y, vi sở quy y, sinh thắng giải giả, thị nhân tắc đọa
quy vô quy chấp, vô tưởng thiên trung, chư thuấn-nhã-đa thành kì bạn
lữ. Mê Phật bồ-đề, vong thất tri kiến.
Việt dịch: Nếu nơi cảnh viên minh, chấp cái rỗng không
trong tánh viên minh, chối bỏ tiêu diệt mọi sự biến hóa, nhận sự tịch
diệt hẳn làm nơi nương về, rồi xem đây là kiến giải đúng đắn, thì người
ấy sẽ rơi vào cái chấp quy vô quy, thành bè bạn của nhóm
thuấn-nhã-đa ở cõi trời Vô tưởng. Mê lầm tánh bồ-đề của chư Phật,
đánh mất chánh tri kiến.
Giảng: Nếu nơi cảnh
viên minh, chấp cái rỗng không trong tánh viên minh, chối bỏ tiêu diệt
mọi sự biến hóa, nhận sự tịch diệt hẳn làm nơi nương về.
Hành giả chấp có cái rỗng không trong tánh viên minh. Do đó
chối bỏ mọi sự biến hóa. Nhận sự tịch diệt làm nơi nương về.
Anh ta suy đoán có cái rỗng không ở trong tánh sáng suốt tròn
đây. Nhưng đó không phải là thực tại. Đó phải chăng là chối bỏ sự hiện hữu của
hết thảy chúng hữu tình hay sao? Do vậy đó không phải là chỗ tịch diệt để nương
về. Thế mà hành giả vẫn quy hướng về nơi tịch diệt ấy.
Rồi xem đây là kiến giải đúng đắn. Nếu
hành giả xem đây là kiến giải đúng đắn.
Nếu anh ta khởi lên sự hiểu biết điên đảo này thì sẽ rơi vào
sai lầm, thì người ấy sẽ rơi vào cái chấp quy vô quy, Anh
ta muốn có một nơi để quay về nương náu, nhưng chưa tìm thấy. Nơi ấy chẳng phải
vĩnh viễn sinh hoặc vĩnh viễn diệt. Nên đó không thể là nơi nương nhờ được. Đó
là nơi mà hành giả muốn quay về nương tựa. Nên đó chẳng phải là nơi chân thực
để quay về.
Thành bè bạn của nhóm thuấn-nhã-đa ở cõi trời Vô
tưởng. Kiến chấp của hành giả chẳng phải là ở cõi trời Vô tưởng
trong cõi trời Tứ thiền , mà là ở cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng .
Thần Hư không (thuấn-nhã-đa) ở đây trở thành bạn bè với hành giả.
Mê lầm tánh bồ-đề của chư Phật, đánh mất chánh tri kiến.
Kinh Văn: Thị danh đệ lục, viên hư vô tâm, thành không vong
quả, vi viễn viên thông, bối niết-bàn thành, sinh đoạn diệt chủng.
Việt dịch: Đây là loại thứ sáu, viên thành cái tâm hư vô, lập
nên cái quả không mất, trái xa tính viên thông, nghịch với đạo niết-bàn, làm
sanh khởi giống đoạn diệt.
Giảng: Đây là loại
thứ sáu, viên thành cái tâm hư vô, lập nên cái quả không mất.
Đây là loại thứ sáu của
kiến giải điên đảo, nhận cái ngoan không, và căn cứ vào ý tưởng về cái không ở
trong tánh viên minh. Cảnh giới hành giả đạt được là không có thực.
Hành giả trái xa đạo viên thông. Công phu tu tập
hoàn toàn trái xa với pháp môn “Nhĩ căn viên thông .” Nghịch hẳn với đạo
niết-bàn. Những công hạnh anh ta tu tập đều ngược với hướng đến quả vị vi diệu
của niết-bàn.
Làm sanh khởi giống đoạn diệt.
7 – TÀ CHẤP VỀ SỰ THAM
ĐẮM CÁI KHÔNG THỂ THAM ĐẮM
Kinh Văn: Hựu thiện nam tử, cùng chư hành không, dĩ diệt sanh
diệt, nhi ư tịch diệt, tinh diệu vị viên.
Việt dịch: Lại nữa thiện nam tử ấy đã quán sát
tường tận tính không của các hành, đã chấm dứt sinh diệt rồi, nhưng chưa
viên mãn tính tịnh diệu của tịch diệt.
Giảng: Lại nữa thiện
nam tử ấy đã quán sát tường tận tính không của các hành, đã
chấm dứt sinh diệt rồi, nhưng chưa viên mãn tính tịnh diệu của tịch diệt.
Hành giả người đang tu tập định lực quán sát cùng
tột tánh không của hành ấm . Đối với hành giả đã đạt đến cái không
của hành ấm rồi. Đã chấm dứt hẳn ý niệm sinh diệt, nhưng chưa được
tính tinh diệu, viên mãn của sự tịch diệt. Chưa đạt được niềm vui vi diệu viên
mãn của sự tịch diệt.
Kinh Văn: Nhược ư viên thường, cố thân thường trụ, đồng vu
tinh viên, trường bất khuynh thệ, sinh thắng giải giả. Thị nhân tắc đọa tham
phi tham chấp. Chư A-tư-đà, cầu trường mệnh giả, thành kì bạn lữ. Mê Phật
bồ-đề, vong thất tri kiến.
Việt dịch: Nếu nơi tính viên thường, củng cố cái thân cho
thường trụ như tính ấy, mãi mãi không suy mất, rồi cho đó là thù thắng, thì sẽ
mắc vào cái chấp tham phi tham. Nên người ấy thành bè đảng với
A-tư-đà, mong cầu trường sanh. Mê lầm tánh bồ-đề của chư Phật, đánh mất chánh
tri kiến.
Giảng: Nếu nơi tính
viên thường, củng cố cái thân cho thường trụ như tính ấy, mãi mãi không suy
mất.
Trong trạng thái dường
như thường trụ viên mãn, hành giả có thể bảo trì cái thân, cầu mong được sống
lâu trong cảnh giới vi diệu viên mãn ấy, mà không chết.
Anh ta nỗ lực hết sức làm cho thân mình kiên cố bền chắc, ước
mong được sống mãi mãi trên thế gian. Anh ta tìm cầu sự bất tử, một đời sống
tinh thuần, trong sáng và viên mãn.
Rồi cho đó là thù thắng, nếu hành giả chấp đây là
cảnh giới thù thắng. Nếu như anh ta có tri giải điên loạn này thì sẽ rơi vào
sai lầm, vì anh ta tham cầu bất tử nhưng không thể nào đạt được điều ấy. Với
chấp tham đắm điều không thể đạt được (tham phi tham).
Nên người ấy thành bè đảng với A-tư-đà, mong cầu trường sanh.
A-tư-đà là phiên âm từ tiếng
Phạn, nghĩa là “không so sánh được.” Có nghĩa là không có ai có thể sánh với
ông ta. Ông và các đệ tử là một nhóm ngoại đạo sống ở cõi trời, tham cầu sự bất
tử, hành giả đã kết thành quyến thuộc với nhóm ngoại đạo này.
Mê lầm tánh bồ-đề của chư Phật, đánh mất chánh tri kiến.
Kinh Văn: Thị danh đệ thất, chấp trước mệnh nguyên, lập cố
vọng nhân, thú trường lao quả, vi viễn viên thông, bối niết-bàn thành, sinh
vọng diên chủng.
Việt dịch: Đây là dạng thứ bảy, chấp trước cái mạng căn, lập
cái nhân củng cố hư vọng, dẫn đến quả báo khổ nhọc lâu dài, trái xa tính
viên thông, ngược với đạo niết-bàn, gieo giống sai lầm ưa kéo dài mạng sống.
Giảng: Đây là dạng thứ bảy, chấp trước cái mạng căn.
Đây là dạng thứ bảy, lập
nên cái nhân sai lầm bảo trì và ưa thích thường trụ trên thế gian. Căn cứ vào
kiến chấp về mạng nguyên.
Lập cái nhân củng cố hư vọng, dẫn đến quả báo khổ nhọc lâu dài
Chấp bám vào cội nguồn của mạng căn của mình, làm kiên cố cái
nguyên nhân hư vọng ấy, mong cầu được trường sinh bất tử.
Hành giả trái xa với tính viên thông, ngược hẳn
với công phu tu tập pháp môn “Nhĩ căn viên thông ” hướng tánh nghe vào bên
trong để nhận ra tự tánh của mình.
ngược với đạo niết-bàn, gieo giống sai lầm ưa kéo dài mạng
sống
Ngược hướng với đạo niết-bàn, gieo trồng hạt giống sai lầm kéo
dài mạng sống.
8 – TÀ CHẤP VỀ CÁI CHÂN
THẬT MÀ THẬT SỰ KHÔNG PHẢI CHÂN THẬT
Kinh Văn: Hựu thiện nam tử, cùng chư hành không, dĩ diệt sanh
diệt, nhi ư tịch diệt, tinh diệu vị viên.
Việt dịch:Lại nữa thiện nam tử ấy đã quán sát tường
tận tính không của các hành, đã chấm dứt sinh diệt rồi, nhưng chưa viên
mãn tính tịnh diệu của tịch diệt.
Giảng: Lại nữa thiện
nam tử ấy đã quán sát tường tận tính không của các hành, đã
chấm dứt sinh diệt rồi, nhưng chưa viên mãn tính tịnh diệu của tịch diệt.
Lại nữa, hành giả người đang tu tập chánh định
quán sát cùng tột tánh không của hành ấm . Anh ta đã vượt qua
được hành ấm.
Đã chấm dứt hẳn ý niệm sinh diệt. Nhưng chưa được tính tinh
diệu, niềm vui vi diệu của sự tịch diệt.
Kinh Văn: Quán mệnh hỗ thông, khước lưu trần lao, khủng
kì tiêu tận. Tiện ư thử tế, tọa liên hoa cung. quảng hóa thất trân, đa tăng bảo
viện, túng tứ kì tâm, sinh thắng giải giả, thị nhân tắc đọa chân vô chân chấp,
Tra-chỉ -ca-la thành kì bạn lữ. Mê Phật bồ-đề, vong thất tri kiến.
Việt dịch: Quán sát căn mệnh và trần cảnh dung thông
nhau, nên muốn lưu giữ các trần lao, sợ nó bị tiêu mất. Liền ngay lúc ấy ngồi
cung hoa sen, hóa ra rất nhiều bảy thứ trân báu, cùng nhiều gái đẹp,
buông lung tâm ý mình, rồi cho đây là thù thắng, người ấy rơi vào cái
chấp chân vô chân, thành bè bạn của ngoại đạo Tra-chỉ -ca-la. Mê mờ
tánh bồ-đề của chư Phật, đánh mất chánh tri kiến.
Giảng: Quán sát căn
mệnh và trần cảnh dung thông nhau, nên muốn lưu giữ các trần lao, sợ nó
bị tiêu mất.
Khi hành giả quán sát sự quan hệ dung thông với
nhau giữa các sinh mạng. Hành giả thấy mạng sống của mình có quan hệ tương giao
với các loài chúng sanh khác. Nên muốn bám vào các trần lao, sợ nó bị tiêu mất.
Anh ta sợ rằng các trần lao này tiêu tán mất, trong khi anh ta chẳng muốn như
vậy.
Liền ngay lúc ấy ngồi cung hoa sen, hóa ra rất nhiều bảy
thứ trân báu, cùng nhiều gái đẹp, buông lung tâm ý mình.
Chấp giữ ý tưởng này, do năng lực biến hóa, hành giả ngồi trên
cung điện hoa sen, biến ra bảy thứ báu, cùng nhiều gái đẹp buông lung tâm ý
mình. Ở trong cung điện hoa sen, anh ta biến hiện ra vô số trân bảo và rất
nhiều gái đẹp và nàng hầu. Buông mình vào việc hưởng thụ dục lạc.
Rồi cho đây là thù thắng, người ấy rơi vào cái chấp chân
vô chân.
Nếu hành giả chấp đây là cảnh giới thù thắng sẽ rơi vào sai
lầm. Chấp cái chẳng phải chân thật, cho là chân thật.
Đến mức độ này, anh ta lại cho cảnh giới này là tuyệt diệu.
Nghĩ rằng mình đã chứng đắc được chân lý rồi. Nhưng đó không phải là chân, đó
chỉ là vọng chấp của anh ta mà thôi.
Thành bè bạn của ngoại đạo Tra-chỉ -ca-la.
Tra-chỉ -ca-la là phiên âm từ tiếng Phạn.
“Tra-chỉ” dịch là “trói buộc.” Có nghĩa là trói buộc chúng sanh bằng sợi dây
thừng. “Ca-la” nghĩa là “những việc tôi làm.” Có nghĩa là: “Kiếp sống của tất
cả các loài chúng sanh đều bị trói buộc không được tự do.” Đều là những
việc do tôi làm mà ra cả. Vì tôi mà các loài chúng sanh ấy không được tự do. Đó
là cách suy nghĩ của hai ngoại đạo này, hành giả kết thành quyến thuộc với
chúng.
Mê mờ tánh bồ-đề của chư Phật, đánh mất chánh tri kiến.
Anh ta chỉ còn mang trong người một thứ tà tri, tà
kiến.
Kinh Văn: Thị danh đệ bát, phát tà tư nhân, lập xí trần quả,
vi viễn viên thông, bối niết-bàn thành, sinh thiên ma chủng.
Việt dịch: Đây là dạng thứ tám, lập cái nhân tà tư, thành cái
quả trần lao xí thạnh, nghịch xa với tánh viên thông, quay lưng với đạo
niết-bàn, làm nảy sinh giống thiên ma.
Giảng: Đây là dạng
thứ tám, lập cái nhân tà tư.
Đây là dạng thứ tám, chủ định đắm mình trong dục lạc trần lao,
do căn cứ vào cái nhân tà kiến.
Thành quả trần lao xí thạnh. Bởi
cái nhân sai lầm, anh ta phát sinh một loại tham dục mạnh như lửa. Nghịch
xa với tánh viên thông, quay lưng với đạo niết-bàn, làm nảy sinh
giống thiên ma. Hành giả trái xa với tính viên thông. Tu tập
ngược hướng với pháp môn nhĩ căn viên thông. Quay lưng với đạo niết-bàn,
và những đạo lý mà biểu hiện đạo niết bàn, nên làm nảy sinh giống thiên
ma. Anh ta sẽ tái sinh trong những cõi trời của loài thiên ma.
9 – ĐỊNH TÁNH THANH VĂN
Kinh Văn: Hựu thiện nam tử, cùng chư hành không, dĩ diệt sanh
diệt, nhi ư tịch diệt, tinh diệu vị viên.
Việt dịch: Lại nữa thiện nam tử ấy đã quán sát
tường tận tính không của các hành, đã chấm dứt sinh diệt rồi, nhưng chưa
viên mãn tính tịnh diệu của tịch diệt.
Giảng: Lại nữa thiện
nam tử ấy đã quán sát tường tận tính không của các hành, đã
chấm dứt sinh diệt rồi, nhưng chưa viên mãn tính tịnh diệu của tịch diệt.
Lại nữa, hành giả người đang tu tập quán chiếu đã
quán sát cùng tột tánh không của hành ấm . Đã chấm dứt bản chất phát khởi
ý niệm sinh diệt. Nhưng chưa hoàn toàn được tính tinh diệu, viên mãn của sự
tịch diệt.
Kinh Văn: Ư mệnh minh trung, phân biệt tinh thô, sơ quyết chân
vi, nhân quả tương thù, duy cầu cảm ứng, bội thanh tịnh đạo; sở vị kiến khổ,
đoạn tập, chứng diệt, tu đạo, cư diệt dĩ hưu, cánh bất tiền tiến, sinh thắng
giải giả, thị nhân tắc đọa định tính thanh văn, chư Vô Văn tăng,
tăng thượng mạn giả, thành kì bạn lữ. Mê Phật bồ-đề, vong thất tri kiến.
Việt dịch: Nơi căn mạng sáng tỏ, phân biệt cái tinh thô, quyết
đoán cái chân ngụy, sự báo đáp lẫn nhau của nhân quả, chỉ cầu cảm
ứng, ngược với đạo thanh tịnh; nghĩa là chỉ thấy khổ đế, dứt trừ
tập đế, chứng được diệt đế, tu đạo đế, nơi diệt đế đã yên, không tiến thêm nữa,
rồi cho đây là thù thắng, thì người ấy sẽ rơi vào hàng định tánh Thanh
văn , thành bè bạn của hàng Vô Văn tăng thượng mạn. Mê mờ tánh
bồ-đề của chư Phật, đánh mất chánh tri kiến.
Giảng: Nơi căn mạng
sáng tỏ, phân biệt cái tinh thô, quyết đoán cái chân ngụy, sự báo đáp lẫn nhau
của nhân quả, chỉ cầu cảm ứng, ngược với đạo thanh tịnh.
Trong sự hiểu biết hảo huyền về sinh mạng, hành giả phân biệt
cái tinh thô, anh ta phân biệt rất kỹ giữa cái tinh anh và thô ráp, xác định
cái chân ngụy. Anh ta quyết đoán cái gì chân xác, cái gì giả ngụy. Nhưng
chỉ để tìm cầu sự cảm ứng báo đáp lẫn nhau giữa nhân và quả. Anh ta
chỉ tìm cầu sự thù đáp lẫn nhau của nhân quả. Cầu mong sự cảm ứng sẽ có được từ
nhân quả. Nên hành giả đi ngược với đạo thanh tịnh.
Nghĩa là chỉ thấy khổ đế, dứt trừ tập đế,
chứng được diệt đế, tu đạo đế, nơi diệt đế đã yên, không tiến thêm nữa.
Thấy khổ đế, có nghĩa là hiểu rõ về cái khổ. Khổ đế gồm có ba
thứ khổ, tám thứ khổ và vô lượng thứ khổ. Tập đế là nói đến tất cả mọi thứ
phiền não. Diệt đế liên quan đến việc tu đạo. Chứng được diệt đế có nghĩa là
đạt được quả vị diệu lạc của Niết bàn. Đạo đế là con đường, phương pháp tu tập.
Đó là ý nghĩa của biết khổ, diệt tập, chứng diệt và tu đạo, thì hành giả dừng
nghỉ hẳn nơi diệt đế, không tiến thêm nữa. Khi đã đạt đến diệt đế, anh ta
dừng lại không chịu tiến tới nữa.
Rồi cho đây là thù thắng, thì người ấy sẽ rơi vào hàng
định tánh Thanh văn , thành bè bạn của hàng Vô Văn tăng thượng mạn.
Nếu hành giả cho đây là nơi thù thắng. Nếu anh ta sinh khởi
một loại kiến giải điên cuồng và duy lý và cho đó là thù thắng, thì sẽ rơi vào
hàng định tánh Thanh văn.
Định tánh Thanh văn là gì? Chúng ta đã nghe giảng
từ trước rồi. Đó là người không chịu hồi hướng quả vị nhỏ về quả vị lớn. Anh ta
trở nên sớm hài lòng một cách vội vàng và không muốn tiến thêm nữa.
Thành bè bạn của hàng Vô Văn tăng thượng mạn. Anh
ta cũng mê muội như tỷ-khưu Vô Văn, lầm tưởng Tứ thiền là quả
vị thứ tư của hàng a-la-hán. Anh ta thành bè bạn với những người như thế.
Mê mờ tánh Bồ-đề của chư Phật, đánh mất chánh tri kiến.
Kinh Văn: Thị danh đệ cửu, viên tinh ứng tâm, thành thú tịch
quả, vi viễn viên thông, bối niết-bàn thành, sinh triền không
chủng.
Việt dịch: Đây là dạng thứ chín, viên mãn tâm tinh ứng, thành
cái quả thú tịch, trái xa tánh viên thông, ngược với đạo niết-bàn,
làm sinh khởi giống triền không.
Giảng: Đây là dạng
thứ chín, viên mãn tâm tinh ứng, thành cái quả thú tịch.
Dạng thứ chín là tâm thích hướng về quả tịch diệt, do căn cứ
vào cái tâm viên mãn, mong cầu cảm ứng.
Trái xa tánh viên thông. Nên
hành giả trái xa với pháp môn “nhĩ căn viên thông” quay lưng với đạo Niết bàn,
nên làm sinh khởi hạt giống triền không.
Ngược với đạo niết-bàn, làm sinh khởi giống triền
không.
Anh ta mắc kẹt trong cái không, chìm đắm trong sự tịch lặng,
không có mong muốn tiến vượt lên và cũng không mong muốn rút lui Cái không là
nhu cầu tối quan trọng trong sinh hoạt của anh ta, anh ta trở nên bị vây bọc
trong cái không. Thực ra cái “không” nghĩa là xưa nay vốn không có gì. Nhưng
anh ta phát minh một cái không trên một cái không khác rồi trở nên chấp dính
vào chúng.
10 – ĐỊNH TÁNH DUYÊN
GIÁC
Kinh Văn: Hựu thiện nam tử cùng chư hành không dĩ diệt sinh
diệt. Nhi ư tịch diệt tinh diệu vị viên.
Việt dịch: Lại nữa thiện nam tử ấy đã quán sát
tường tận tính không của các hành, đã chấm dứt sinh diệt rồi, nhưng chưa
viên mãn tính tịnh diệu của tịch diệt.
Giảng: Lại nữa thiện
nam tử ấy đã quán sát tường tận tính không của các hành, đã
chấm dứt sinh diệt rồi, nhưng chưa viên mãn tính tịnh diệu của tịch diệt.
Lại nữa, hành giả đã quán sát cùng tột tánh không
của hành ấm . Anh ta đã nghiên cứu đến tận cùng các cảnh giới của hành ấm.
Nó hoàn toàn là không đối với hành giả. Đã chấm dứt hẳn ý niệm cảnh giới sinh
diệt. Nhưng chưa được tính tinh diệu, viên mãn của sự tịch diệt.
Kinh Văn: Nhược ư viên dung thanh tịnh giác minh, phát nghiên
thâm diệu, tức lập niết-bàn, nhi bất tiền tiến, sinh thắng giải giả, thị nhân
tắc đọa định tính tích chi. Chư duyên độc luân, bất hồi tâm giả, thành kì bạn lữ.
Mê Phật bồ-đề, vong thất tri kiến.
Việt dịch: Nếu ở trong tánh giác minh thanh tịnh viên
dung, phát minh tánh thâm diệu, liền nhận đó là niết-bàn mà không
tiến lên, rồi cho đây là cảnh giới thù thắng, thì người ấy rơi vào hàng
định tánh Bích chi. Thành bè bạn với các vị Duyên giác, Độc giác, không hồi tâm
hướng về Đại thừa. Mê mờ tánh bồ-đề của chư Phật, đánh mất chánh tri kiến.
Giảng: Nếu ở trong
tánh giác minh thanh tịnh viên dung, phát minh tánh thâm diệu, liền
nhận đó là niết-bàn mà không tiến lên. Ở trong cảnh giới của
tánh giác minh thanh tịnh viên dung, khi phát minh được tánh viên diệu, hành
giả có thể nhận lầm đó là niết-bàn và không tiến lên nữa.
Rồi cho đây là cảnh giới thù thắng.
Trong công phu tu tập,
ngay cả khi chưa vượt qua được thức ấm . Nếu hành giả cho kiến giải cuồng
dại và sai lầm này là cảnh giới thù thắng, thì người ấy rơi vào
hàng định tánh Bích chi, là những vị không muốn rời bỏ quả vị
nhỏ để hướng đến công hạnh tu tập lớn hơn. Thành bè bạn với những vị
Duyên giác và Độc giác, không hồi tâm hướng về Đại thừa. Hành giả trở thành
quyến thuộc với những vị này. Mê mờ tánh bồ-đề của chư Phật, con đường
dẫn đến giác ngộ, đánh mất chánh tri kiến.
Kinh Văn: Thị danh đệ thập, viên giác vẫn tâm, thành trạm minh
quả, vi viễn viên thông, bối niết-bàn thành, sinh giác viên minh, bất hóa viên
chủng.
Việt dịch: Đây là dạng thứ mười, viên thành giác
tâm vắng lặng, lập thành cái quả trạm minh, trái xa tánh viên thông,
ngược với đạo niết-bàn, làm sinh khởi giống giác ngộ viên minh, nhưng
không không hóa giải được kiến chấp về tánh giác viên minh.
Giảng: Đây là dạng
thứ mười, là cánh cửa sau cùng trong quá trình chuyển hóa thức ấm .
Nếu quý vị qua được cửa này, thì chẳng còn gì phải bận tâm nữa cả. Chẳng có
điều gì ngu hiểm nữa cả. Đáng tiếc là chặng cuối cùng lại không phải là việc dễ
dàng. Tại điểm này, chỗ sai biệt nhau rất là vi tế. Nên có câu:
“Sai chi ty hào, mậu chi thiên lý.”
Nghĩa là: lúc ban đầu, chỉ cần sai lạc bằng một mảy
tơ, sẽ dẫn đến sự nhầm lẫn bằng vạn dặm về sau. Nếu quý vị chỉ cần sai lạc tí
xíu lúc khởi đầu tu tập, quý vị sẽ đánh mất quả vị giác ngộ về sau. Trạng thái
này là một cảnh giới mà hành giả đã:
Viên thành giác tâm vắng lặng, lập thành cái
quả trạm minh.
Nhận lầm tánh trạm diệu, do mê chấp vào cái tâm giác minh viên
mãn. Vào điểm này, giáo lý giác ngộ viên mãn gần như hòa trộn lẫn với chân tâm
thường trụ, và anh ta đã đạt được sự thanh tịnh sáng suốt.
Trái xa tánh viên thông, ngược với đạo niết-bàn.
Tuy nhiên, anh ta chưa tương hợp với pháp môn “nhĩ căn viên
thông” vì anh ta còn nhiều chấp trước.
Ngược với đạo niết-bàn, làm sinh khởi giống giác
ngộ viên minh, nhưng không không hóa giải được kiến chấp về tánh giác
viên minh.
Ngược với bảo thành niết-bàn, đi ngược với diệu quả niết-bàn.
Nên làm sinh khởi hạt giống mê chấp, không hóa giải được kiến chấp về tánh giác
viên minh. Anh ta không vượt qua được chấp trước về cảnh giới giác viên ấy. Vẫn
còn chút ít mê mờ khi thức ấm chưa được phá trừ. Nếu vào lúc này, hành giả
vượt qua được thức ấm mà không phải bị đầu hàng trước kiến giải điên
đảo này, thì anh ta sẽ vượt qua được cả năm ấm. Khi năm ấm đã
được chuyển hóa toàn triệt rồi, anh ta sẽ đạt đến quả vị Thập tín, Thập trụ,
Thập hạnh, Thập hồi hướng và Thập địa . Đến đây có thể bảo đảm chắc chắn
hành giả sẽ thành tựu quả vị Phật.
Kinh Văn: A-nan, như thị thập chủng thiền-na, trung đồ
thành cuồng, nhân y mê hoặc, ư vị túc trung, sinh mãn túc chứng. Giai thị
thức ấm, dụng tâm giao hỗ, cố sinh tư vị.
Việt dịch: A-nan, mười loại thiền-na như thế, giữa chừng hoá
điên, nhân nơi mê lầm, khi chưa đầy đủ, khởi tâm chứng đắc hoàn toàn. Tất
cả đều do thức ấm và tâm dụng công giao xen.
Giảng: A-nan, mười
loại thiền-na như thế, giữa chừng hoá điên, nhân nơi mê lầm,
A-nan, ông nên đặc biệt chú ý và hiểu thật rõ giai đoạn này.
Ông nên nhận thức cho được ma cảnh hiện ra trong mười loại thiền định như thế.
Mười loại cảnh giới trong lúc công phu tu tập thiền định. Mười cảnh giới này sẽ
xuất hiện trong khi tu thiền, bởi do kiến giải mê cuồng trong khi tu tập, nương
vào đó hành giả tuyên bố đã chứng đắc hoàn toàn khi chưa được như vậy.
Khi chưa đầy đủ, khởi tâm chứng đắc hoàn toàn.
Đến lúc này, mặc dù chưa chứng đạo và đạt được quả vị, mà hành
giả đã tự tuyên bố. “Ta đã chứng quả.” Chưa chứng được dù chỉ sơ
quả, mà nói đã được. Chưa chứng được nhị quả, tam quả, tứ quả (a-la-hán) mà
tuyên bố đã chứng được. Chưa thành Phật, mà nói đã thành. Nếu có ai hỏi tại sao
anh ta được thành Phật, anh ta hoàn toàn không biết. Một vị Phật mà không biết
bằng cách nào mình thành Phật thì thật là hồ đồ. Nhưng chư Phật đều có trí hiểu
biết viên mãn, không có vị Phật nào hồ đồ cả. Còn nếu đó là người hồ đồ, thì đó
chỉ là yêu, ma, quỷ, quái, những loại không hiểu được đạo lý chân chính là gì.
Tất cả đều do thức ấm và tâm dụng công
giao xen.
Tất cả các trạng thái này đều do kết quả giao xen của thức
ấm và nỗ lực khi dụng tâm tu tập.
Đây là trò tác quái của thức ấm . Khi quý vị nỗ lực công
phu, thì thức ấm đấu tranh chống lại công phu của quý vị. Nếu quý vị có một tâm
niệm tham dục, vọng tưởng dù rất vi tế, thì quý vị sẽ rơi vào ma cảnh, bị ma gá
vào (35, 36, 37). Quý vị sẽ sinh khởi nhiều lý thuyết điên đảo. Một khi lý luận
điên đảo ấy đã hình thành, thì rất khó mà phá trừ nó nổi. Cho dù có thiện tri
thức đến chỉ bày sự điên đảo ấy, giúp cho họ phá trừ. Họ vẫn không
tin, mà còn cãi lại: “Các ông biết gì nào? Dù sao, tôi cũng đã thành Phật rồi!
Nhưng gì các ông nói đều sai lầm cả.” Dù quý thiện tri thức đã chỉ bày, họ vẫn
không chịu tin. Đó là lý do tại sao trạng thái này xuất hiện.
Kinh Văn: Chúng sinh ngoan mê, bất tự thốn lượng. Phùng thử
hiện tiền, các dĩ sở ái, tiên tập mê tâm nhi tự hưu tức. Tương vi tất cánh, sở
quy ninh địa. Tự ngôn mãn túc vô thượng bồ-đề. Đại vọng ngữ thành, ngoại đạo tà
ma, sở cảm nghiệp chung, đọa vô gián ngục. Thanh văn duyên giác, bất
thành tăng tiến.
Việt dịch: Chúng sanh mê mờ, không biết tự xét. Gặp tình huống
này, đều đem tâm mê lầm, ưa thích những tập quán cũ, mà tự dừng
nghĩ, cho đó là chỗ quay về rốt ráo. Tự tuyên bố đã đạt được quả vị Vô thượng
bồ-đề viên mãn. Thành tội đại vọng ngữ. Ngoại đạo tà ma sau khi
chiêu cảm nghiệp báo chấm dứt, sẽ rơi vào địa ngục vô gián. Các hàng Thanh
văn , Duyên giác không thể tiến lên hơn nữa.
Giảng: Chúng sanh mê
mờ, không biết tự xét.
Chúng sanh ngoan cố, khó chuyển hóa được mê lầm của chính
mình. Họ không chịu dừng lại những vọng tưởng dù chỉ để
quán xét thử mình là ai. Họ chưa thoát khỏi lớp da heo, lốt chó mà tự
tuyên bố mình là Phật. Họ đã tự đánh giá mình quá cao.
Gặp tình huống này, đều đem tâm mê lầm, ưa thích những tập
quán cũ,
Gặp cảnh giới nầy hiện tiền, tâm bị mê mờ, ưa thích những tập
quán cũ, ưa thích tham luyến những thứ ái dục, khiến tâm mình u mê
đần độn, hết đời này sang đời khác.
Mà tự dừng nghĩ, cho đó là chỗ quay về rốt ráo.
Nên thích dừng nghỉ nơi tự cho là chỗ quay về rốt ráo. Anh ta
cho rằng mình đã tới nơi bảo sở, nhưng thực ra anh ta chỉ mới đến
được nơi hóa thành. Hóa thành ấy chưa phải là bảo sở. Người này rất mong muốn
đến bảo sở, nhưng chỉ mới đi được nửa đường, họ đã thấy mệt mỏi và muốn dừng
lại hẳn. Đến lúc này, người có thần thông sẽ hóa hiện ra một hóa thành và nói
với họ: “Bảo sở ở ngay phía trước chúng ta, chúng ta nên đến đó để nhận lấy kho
báu, chúng ta có thể mang về mọi thứ vàng bạc, trân bảo.” Mục đích là để họ đến
thành ấp đó để nghỉ ngơi, rồi tiếp tục lên đường. Nhưng tất cả mọi người khi
đến hóa thành rồi, cứ cho rằng đây là bảo sở, họ dừng nghỉ ở đó và không muốn
đi xa hơn nữa. Họ cho rằng đây là nơi quay về nương tựa rốt ráo. Nơi mà họ muốn
đến từ lâu.
Tự tuyên bố đã đạt được quả vị viên mãn Vô thượng bồ-đề .
Tự tuyên bố đã chứng được Vô thượng bồ-đề và đã thành Phật rồi. Thành tội đại
vọng ngữ. Họ chưa chứng được Phật quả nhưng nói rằng đã chứng. Những người
thông minh có nói những lời ngu muội như vậy không? Nói mình đã đạt được quả vị
mà mình chưa đạt được, chỉ có những kẻ ngu si mới làm như thế. Trong
quốc gia dân chủ, ta có thể nói rằng mọi người đều có thể trở thành Tổng thống
cả. Đúng vậy, mọi người đều có khả năng để trở nên một vị Tổng thống. Nhưng điều
ấy không có nghĩa mọi người “là” Tổng thống. Phải qua cuộc tuyển cử mới thực sự
trở thành Tổng thống. Không thể nói suông rằng mọi người đều là Tổng thống. Thế
thì ai là Tổng thống, ai là Phó Tổng thống? Giống như điều đang nói ở đây. Nếu
quý vị không bao giờ đi học, không biệt cả chữ ký của mình thì làm sao quý vị
thành Tổng thống được? Cũng giống như việc thành Phật. Nếu quý vị không tu tập
không trải qua sáu năm tu tập khổ hạnh ở núi Tuyết, hoặc bốn mươi chín ngày
thiền định dưới cội cây bồ-đề. Nếu quý vị không có một ngày với nỗ lực công phu
tu tập như thế, làm sao mà thành Phật được? Tưởng điều ấy quá dễ. Đó thật là
một thứ vọng tưởng điên cuồng.
Thành tội đại vọng ngữ. Ngoại đạo tà ma sau khi chiêu cảm
nghiệp báo chấm dứt, sẽ rơi vào địa ngục vô gián. Sau
khi chiêu cảm nghiệp báo ngoại đạo, tà ma chấm dứt. Sau khi ma nghiệp do anh ta
chiêu cảm lấy quả báu đã hết. Sẽ rơi vào địa ngục vô gián. Mạng sống của loài
thiên ma cũng sẽ đến lúc kết thúc. Đến lúc ấy, anh ta sẽ đọa vào địa ngục vô
gián.
Các hàng Thanh văn , Duyên giác không thể tiến lên được
nữa. Khi hàng định tánh Thanh văn hay định tánh Duyên giác lầm
chấp về tánh giác. Tuy họ sẽ không bị đọa vào địa ngục, nhưng họ sẽ không thể
nào tiến xa được nữa trên đường tu đạo. Họ không thể tiến bộ hơn được nữa.
Kinh Văn: Nhữ đẳng tồn tâm, bỉnh Như Lai đạo, tương thử pháp
môn, ư ngã diệt hậu, truyền thị mạt thế. Phổ linh chúng sinh giác liễu tư
nghĩa. Vô linh kiến ma, tự tác trầm nghiệt. Bảo tuy ai cứu, tiêu tức tà duyên.
Linh kì thân tâm nhập Phật tri kiến. Tòng thủy thành tựu, bất tao kì lộ.
Việt dịch: Các ông nên chú tâm giữ gìn đạo Như Lai, sau
khi Như Lai nhập diệt, hãy đem pháp môn nầy truyền dạy trong đời mạt pháp,
khiến cho tất cả chúng sanh hiểu rõ nghĩa ấy. Đừng để ma tà kiến tự gây
ra chướng nạn. Giữ gìn và từ bi cứu giúp, tiêu trừ hết các tà duyên kiến. Khiến
thân tâm được vào tri kiến Phật. Từ khi bắt đầu cho đến thành tựu, không bị lạc
vào đường tẻ.
Giảng: Các ông nên
chú tâm giữ gìn đạo Như Lai.
Các ông, A-nan, các vị Đại bồ-tát, Đại a-la-hán, Đại tỷ-khưu,
các vị Đại trưởng lão và những vị khác trong hội chúng nên chú tâm giữ gìn đạo
của Như Lai. Các ông nên trân trọng, thừa sự những lời Như Lai đã truyền dạy.
Sau khi Như Lai nhập diệt, hãy đem pháp môn nầy truyền dạy
trong đời mạt pháp.
Hãy truyền dạy pháp môn trong kinh Thủ-lăng-nghiêm này, đó là
pháp môn “nhĩ căn viên thông” hướng tánh nghe vào bên trong để nhận ra tự tánh
của mình, cho đến khi tự tánh hòa nhập vô thượng đạo, truyền dạy pháp môn viên
thông cho chúng sanh trong đời mạt pháp. Vào thời mạt pháp, các ông phải truyền
dạy pháp môn này cho chúng sanh hằng ngày khiến cho tất cả chúng
sanh hiểu rõ nghĩa này. Dạy cho chúng sinh hiểu được một cách rõ ràng
pháp tu này. Đừng để ma tà kiến tự gây ra chướng nạn. Đừng
để cho tự chính mình gây ra chướng nạn tà kiến của thiên ma ngoại đạo nơi
mình.
Ma có hai loại: kiến ma và kiến ái ma.
Kiến ma, là khi hành giả gặp cảnh, liền bị xoay chuyển bởi
cảnh giới. Còn khi hành giả gặp cảnh, sinh tâm yêu thích, ham muốn cảnh ấy. Đó
gọi là kiến ái ma.
Quý vị đừng để cho chúng sanh bị rơi vào các chướng nạn bởi
hai loại ma cảnh này.
Giữ gìn và từ bi cứu giúp, tiêu trừ hết các tà duyên kiến.
Giúp chúng sanh giữ gìn và từ bi cứu giúp, tiêu trừ hết các
nhân duyên tà kiến ấy.
Hàng phục cho được tâm điên đảo và tâm cuồng si. Giúp họ đoạn
trừ tà tri, tà kiến ấy. Khiến cho thân tâm chúng sanh nhập vào tri kiến
Phật. Từ khi bắt đầu tu tập ch đến khi thành tựu, không bị lạc vào
đường tẻ. Đừng để cho họ bị lạc vào những con đường tẻ khi đi trên con
đường tu đạo chân chính.
Kinh Văn: Như thị pháp môn, tiên quá khứ thế, hằng sa kiếp
trung, vi trần Như Lai, thừa thử tâm khai, đắc vô thượng đạo.
Việt dịch: Pháp môn như thế, các đức Như Lai nhiều như số vi
trần trong hằng sa kiếp từ quá khứ, đều vận dụng mà khai ngộ bản tâm, chứng
được đạo vô thượng.
Giảng: Pháp môn như
thế, các đức Như Lai nhiều như số vi trần trong hằng sa kiếp từ quá khứ, đều
vận dụng mà khai ngộ bản tâm, chứng được đạo vô thượng.
Nương vào pháp môn như thế trong kinh Thủ-lăng-nghiêm mà các
đức Như Lai nhiều như số vi trần trong hằng sa kiếp từ quá khứ được khai ngộ
bản tâm, chứng được đạo vô thượng.
Khi tu tập theo pháp môn này trong kinh Thủ-lăng-nghiêm, tâm
được khai ngộ và chứng được đạo quả vô thượng. Đây là lộ trình người tu tập
phải trải qua. Nay chúng ta cũng muốn nghiên cứu pháp môn này. Chỉ có cách tu
tập pháp môn này một cách viên mãn mới mong thành Phật được. Chẳng dễ dàng
thành tựu quả vị Phật nếu không thực hành ngay từ bước đầu tiên.
Không riêng gì quả vị Phật, mà ngay trong thế gian cũng thế,
người ta cần phải gắng bao công sức để đạt được mảnh bằng Thạc sĩ, Bác sĩ, Tiến
sĩ? Còn quý vị cần phải trải qua bao nhiêu thời gian công phu tích cực mới
thành tựu Phật đạo? Nếu quý vị tuyên bố thành Phật mà không trải qua bước đầu
tiên, thì chuyện đó khó tưởng tượng còn hơn cả giấc mơ. Ngay cả trong mơ, quý
vị cũng không thể nói được chuyện kỳ quặc như vậy. Thành Phật không phải là một
chuyện đơn giản.
Kinh Văn: Thức ấm nhược tận, tắc nhữ hiện tiền, chư căn hỗ
dụng. Tòng hỗ dụng trung, năng nhập Bồ-tát Kim cương càn huệ. Viên minh tinh
tâm, ư trung phát hóa.
Việt dịch: Khi thức ấm tiêu dung rồi, thì các căn
hiện tiền của ông đều được dùng thay nhau. Từ chỗ hỗ dụng đó, ông có thể nhập
vào bậc Kim cang càn huệ Bồ-tát. Tâm tinh diệu viên minh phát hóa trong ấy.
Giảng: Khi thức
ấm tiêu dung rồi.
Khi hành ấm đã tiêu trừ, quý vị ở trong phạm vi
thức ấm . Nếu quý vị thể nhập được vào thức thứ tám, quý vị có thể thấy
được mười phương thế giới trong suốt như pha lê. Chẳng có gì ngăn ngại được cái
nhìn của quý vị.
Tuy nhiên trước khi thức ấm hoàn toàn chuyển thành
thức thứ tám, những niệm sinh diệt rất vi tế vẫn còn diễn biến ở trong thức thứ
bảy. Một khi những niệm lăn tăn vi tế trong thức thứ bảy ấy đã tiêu tán và
chỉ còn lại thức thứ tám, quý vị sẽ nhìn thấy vạn vật trong vũ trụ
này trong suốt như thủy tinh.
Lúc này, thức thứ tám chuyển thành Đại viên cảnh
trí như chư Phật. Trước khi quý vị tiêu trừ sạch thức thứ bảy
thì trạng thái này vẫn chưa đạt được. Đó là ý nghĩ của việc chấm dứt được thức
ấm . Khi những niệm lăng tăng vi tế của thức thứ bảy đã tiêu tan, thì
các căn hiện tiền của ông đều được dùng thay nhau, các căn hiện tiền
có khả năng dung thông với nhau.
Việc sử dụng hỗ tương nhau của các căn đã được giảng từ trước
rồi, mỗi căn có được năng lực của cả sáu căn, như mắt vốn chỉ có thể thấy
được vật phía trước nay có thể nghe được, nếm được, ngửi được, xúc chạm và suy
nghĩ được. Hành giả có thể khai, hợp các căn nên có thể sử dụng hỗ tương với
nhau.
Từ chỗ hỗ dụng đó, ông có thể nhập vào bậc Kim cang càn huệ
Bồ-tát.
Kim cang có nghĩa là bất hoại, không có gì phá vỡ nó được,
cũng có nghĩa là bất thối. Quý vị sẽ đạt được ba loại bất thối: Quả vị bất
thối, niệm bất thối và hành bất thối.
Càn huệ nghĩa là Càn huệ địa.
Tâm tinh diệu viên minh phát hóa trong ấy. Từ
trong bản tâm sáng suốt viên mãn phát khởi ra sự biến hóa.
Kinh Văn: Như tịnh lưu ly, nhập hàm bảo nguyệt. Như thị nãi
siêu, thập tín thập trụ, thập hạnh thập hồi hướng, tứ gia hạnh tâm. Bồ-tát sở
hành, kim cương thập địa.
Việt dịch: Như ngọc lưu ly trong suốt, hàm chứa mặt trăng báu
ở trong. Như thế mà vượt lên giai vị Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập
hồi hướng, Tứ gia hạnh tâm và sở hành của Bồ-tát Kim cang Thập địa .
Giảng: Sự biến hóa ấy giống
như cái gì? Như ngọc lưu ly trong suốt, không dính một mảy bụi trần
hàm chứa mặt trăng báu bên trong. Như thế theo
đó mà vượt lên giai vị Thập tín, Thập trụ, Thập tạnh, Thập hồi
hướng, Tứ gia hạnh tâm mà chúng ta đã được nghe giảng từ trước.
Tứ gia hạnh tâm là: Noãn, Đảnh, Nhẫn và Thế đệ nhất. Quý vị
cũng sẽ vượt qua trạng thái và trình độ công phu ở cảnh giới sở
hành của Bồ-tát Kim cang Thập địa .
Kinh Văn: Đẳng giác viên minh, nhập ư Như Lai, diệu trang
nghiêm hải. Viên mãn bồ-đề, quy vô sở đắc.
Việt dịch: Đẳng giác tròn sáng, vào biển Diệu trang nghiêm của
Như Lai. Viên mãn đạo Bồ-đề, về nơi vô sở đắc.
Giảng: Đẳng giác tròn
sáng, vào biển Diệu trang nghiêm của Như Lai.
Đến trạng thái này, các ông sẽ nhập vào biển diệu trang nghiêm
của Như Lai, viên mãn đạo bồ-đề, trở về nơi vô sở đắc.
Rốt ráo là chẳng có gì để chứng đắc cả. Tại sao vậy? Vì tánh
giác vốn tự có sẵn trong mỗi người, không phải do nhờ bên ngoài mới có. Tánh
Như Lai tạng cũng chẳng phải là cái có được từ bên ngoài, mà nó vốn
có sẵn trong quý vị. Nên nói “trở về lại nơi vô sở đắc” là vậy.
Kinh Văn: Thử thị quá khứ, tiên Phật Thế tôn,
xa-ma-tha trung, tì-bà xá-na, giác minh phân tích vi tế ma sự.
Việt dịch: Đây là những ma sự vi tế, mà các Đức Phật Thế tôn
từ đời quá khứ trước đã giác ngộ nghiệm xét và phân tích trong khi tu
chỉ quán .
Giảng: Đây là những
ma sự vi tế. Mười trạng thái nói trên, xảy ra trong quá trình tu tập
để chuyển hóa thức ấm . Mà các Đức Phật Thế tôn từ đời quá khứ
trước đã giác ngộ nghiệm xét và phân tích trong khi tu
chỉ quán .
Chỉ (samatha) là một loại định, trong trường hợp này là Lăng
Nghiêm diệu định. (36)
Quán (vipasyana) là công phu quán chiếu, đây là một
dạng quán chiếu rất vi mật. Nhờ sự giác ngộ sáng suốt, mà hành giả có thể phân
tích được các ma sự, vốn rất vi tế nhỏ nhiệm khó mà khám phá ra được.
Kinh Văn: Ma cảnh hiện tiền nhữ năng am thức, tâm cấu tẩy trừ,
bất lạc tà kiến.
Việt dịch: Nếu ông nhận biết được ma cảnh hiện tiền, thì
tẩy trừ được cấu nhiễm, không bị rơi vào tà kiến.
Giảng: Nếu ông nhận
biết được ma cảnh hiện tiền. Nếu các ông nhận được ngay những ma
cảnh khi nó hiện ra trước quý vị và biết được đó là hay Phật, thì tẩy
trừ được cấu nhiễm, không bị rơi vào tà kiến. Tâm cấu nhiễm được
rửa sạch ngay và khỏi bị rơi vào tà kiến.
Một vài cảnh giới của tà ma ngoại đạo từ bên ngoài đến với quý
vị và một số cảnh xuất hiện do trong tâm niệm của quý vị. Ngoại ma thì rất dễ
hàng phục, còn nội ma ở trong tâm thì rất khó trừ. Vì mỗi khi quý vị phát khởi
tà tri, tà kiến thì rất khó giải trừ khỏi những thứ tà kiến ấy. Ngay sau khi quý
vị nhận ra ngoại ma, quý vị phải tẩy trừ ngay những thứ cấu nhiễm ấy trong tâm
mình. Điều gì là cấu nhiễm? Loại nhiễm ô quan trọng nhất trong tâm là tham.
Chúng ta sẽ nói về vấn đề này rất thường xuyên. Tham sẽ trở nên rất nghiêm
trọng khi kết hợp với dục. Nếu quý vị không có một niệm dâm dục, thì quý vị đã
rửa sạch tâm mình khỏi bị ô nhiễm, tâm quý vị sẽ không sinh khởi tà kiến được
nữa.
Nếu quý vị không thanh tịnh hóa tâm mình thoát ra khỏi niệm
tưởng dục, thì có rất nhiều chướng nạn sẽ đến với quý vị. Tất cả vấn đề ấy sinh
khỏi vì tâm tham. Các thứ phiền não vô minh từ đó đều sinh khởi. Quý vị bị
vướng vào tà kiến ngay liền. Nếu quý vị có năng lực rửa sạch liền những vọng
tưởng này, mới thoát khỏi được tà kiến.
Kinh Văn: Ấm ma tiêu diệt, thiên ma thôi toái, đại lực quỷ
thần, chỉ phách đào thệ, li mị võng lượng, vô phục xuất sinh.
Việt dịch: Các ấm ma đều tiêu diệt, thiên ma bị phá tan, Đại
lực quỷ thần hoảng hốt chạy trốn, các loài li mị võng lượng không hiện
tướng ra nữa.
Giảng: Các ấm ma đều
tiêu diệt. Các ấm ma, những thứ ma sinh khởi từ ngũ ấm mà chúng ta đã
thảo luận đều bị tiêu diệt . Thiên ma bị phá tan, nếu quý vị
có trí huệ chân chính và không bị dính mắc trong tà kiến thì thiên ma sẽ bị phá
sạch. Quý vị sẽ khiến cho tâm chúng khiếp sợ. Đại lực quỷ thần hoảng
hốt chạy trốn. Các loài này rất mạnh, chúng có thể nâng cả núi tu-di bằng
một bàn tay. Nhưng nếu quý vị có trí huệ chân chính và có Đại định
Thủ-lăng-nghiêm thì loài Đại lực quỷ này mỗi khi nhìn thấy quý vị liền chạy
trốn vì hoảng sợ.
Các loài li mị võng lượng không hiện
tướng ra nữa.
Li mị võng lượng là loại ma mà chúng ta đã nghe giảng
trước đây. Nó cũng sẽ không dám xuất hiện nữa.
Kinh Văn: Trực chí bồ-đề, vô chư thiểu phạp. Hạ liệt tăng
tiến, ư đại niết-bàn, tâm bất mê muộn.
Việt dịch Thẳng đến bồ-đề, không chút thiếu sót. Hàng căn cơ
hạ liệt cũng được tăng tiến, đối với Đại niết-bàn, tâm không mê lầm.
Giảng: Thẳng đến
bồ-đề, không chút thiếu sót. Các ông sẽ thẳng đến nơi giác ngộ. Đạt
được cảnh giới của chư Phật, không chút thiếu sót. Quý vị sẽ không gặp những
chướng nạn hoặc phiền não. Hàng căn cơ hạ liệt cũng được tăng tiến, đối
với Đại niết-bàn, tâm không mê lầm. Ngay cả với những người có căn
tánh thấp kém cũng sẽ được tiến bộ. Quý vị sẽ hướng thẳng đến diệu quả
niết-bàn và tâm quý vị không còn kinh qua những dạng mê mờ, phiền não như
trước nữa.
Kinh Văn: Nhược chư mạt thế, ngu độn chúng sinh, vị thức
thiền-na, bất tri thuyết pháp, nhạo tu tam muội, nhữ khủng đồng tà, nhất tâm
khuyến linh, trì ngã Phật đảnh đà-la-ni chú. Nhược vị năng tụng, tả
ư thiền đường, hoặc đới thân thượng. Nhất thiết chư ma, sở bất năng động.
Việt dịch: Nếu có chúng sinh mê độn trong đời mạt pháp, chưa
hiểu thiền-na, chưa nghe pháp yếu, ưa tu tam muội, nhưng căn tánh chậm lụt, sợ
họ bị lạc vào tà kiến, thì các ông nhất tâm khuyên họ trì tụng chú Phật
đảnh đà-la-ni . Nếu chưa tụng thuộc thì viết trên thiền đường hay
mang trong thân. Thế nên các loài ma không thể nào quấy phá họ được.
Giảng: Nếu có chúng
sinh mê độn trong đời mạt pháp, chưa hiểu thiền-na.
Nếu có các chúng sinh trong đời mạt pháp, ưa thích tu tập
chánh định, nhưng căn tánh chậm lụt. Bất kể quý vị dạy cho họ bao nhiêu điều
hay lẽ phải, họ vẫn khăng khăng đi vào con đường xấu ác. Dù các ông không dạy
họ đi vào con đường hư hoại, mà họ vẫn tự đi vào con đường ấy. Học làm điều tốt
lành cũng khó như lên trời. Học để làm điều xấu ác cũng dễ như trượt xuống dốc
vậy. Tại sao? Tập khí của chúng sanh rất mạnh. Họ có quá nhiều tham dục. Những
tập khí, chủng tử lâu đời, những nghiệp chướng và nợ nần từ đời trước quá nhiều
đã kéo ngược lại, trong khi người tu muốn hướng thượng. Học làm điều thiện cũng
khó như lên trời, nhưng học làm điều ác lại dễ như trượt xuống dốc. Tại sao? Vì
chúng sanh không có được trí tuệ và đều là những người mê muội.
Họ là những người chưa nhận biết sự quan trọng của thiền-na.
Họ không nhận ra được sự quan trọng cần thiết của việc tu đạo, chưa nhận ra
được sự cần yếu của pháp tu tập thiền định.
Chưa nghe pháp yếu, ưa tu tam muội. Hoặc
chưa từng được nghe pháp yếu. Họ không hiểu biết gì về chánh pháp. Dù họ chưa
từng nghe giảng những điều cốt tuỷ của Phật pháp, hoặc chưa biết cách công phu
tọa thiền, tập định. Nhưng họ rất ưa thích tu tập chánh định. Những người ưa
thích tu tập chánh định thì phải hiểu biết về đạo và rõ ràng
về pháp.
Sợ họ bị lạc vào tà kiến. Các
ông nên quan tâm giúp họ khỏi bị lạc vào tà kiến. Nếu quý vị lo cho những người
này rơi vào tà tri, tà kiến thì quý vị phải báo trước cho họ.
Thì các ông nhất tâm khuyên họ trì tụng chú Phật đảnh
đà-la-ni . Các ông nên hết lòng khuyến khích họ trì tụng chú Phật
đảnh đà-la-ni. Khuyến khích họ trì tụng thần chú Thủ-lăng-nghiêm.
Nếu chưa tụng thuộc thì viết trên thiền đường hay mang
trong thân. Thế nên các loài ma không thể nào quấy phá họ được.
Nếu họ không thể tụng thuộc được thì họ có thể viết ra trên
thiền đường. Nếu khi họ tụng chú mà không thuộc lòng, phải nhìn trong kinh, quý
vị có thể bảo họ viết ra rồi lên vách tường nơi thiền đường. Đó là vì: “Nơi nào
có kinh chú, nơi ấy có Phật.” Huống gì thần chú Đại Phật đảnh này. Bất kỳ nơi
đâu có thần chú này, thì nơi ấy có Kim cang tạng Bồ-tát và quyến thuộc cùng các
vị Hộ pháp thiện thần.
Thế nên các loài ma không thể nào quấy phá họ được.
Hay quý vị bảo những người này mang trong thân, nhờ thế các
loài ma không còn quấy phá họ được. Nếu quý vị mang thần chú trên người, ma
không thể nào gá vào quý vị được.
Kinh Văn: Nhữ đương cung khâm, thập phương Như Lai, cứu cánh
tu tiến, tối hậu thùy phạm.
Việt dịch Ông nên kính vâng lời dạy bảo cuối cùng về phép tu
tiến rốt ráo của mười phương Như Lai.
Giảng: Đức Phật Thích-ca
Mâu-ni với tâm từ bi chí thiết, Ngài có lời phó chúc sau cùng cho ngài
A-nan:
Ông nên kính vâng lời dạy bảo cuối cùng về phép tu tiến rốt
ráo của mười phương Như Lai.
Các ông nên kính trọng và trân quý Thủ-lăng-nghiêm diệu định,
pháp môn “nhĩ căn viên thông– hướng tánh nghe trở vào bên trong để nhận ra tự
tánh của mình,” và cũng là pháp môn thần chú Thủ-lăng-nghiêm, thần chú Phật
đảnh đà-la-ni . Là gom vào (tổng) hết thảy các pháp, và nắm giữ (trì)
vô lượng nghĩa. Đây là tâm, là tánh của các Đức Phật Như Lai trong khắp mười
phương. Đó là mẹ của các Đức Như Lai. Chú này là tột đỉnh cứu cánh, vô cùng rốt
ráo, và là pháp môn tối thắng vi diệu để tu tập tiến bộ. Đó là khuôn mẫu tu
chứng tối hậu của mười phương Như Lai, là pháp môn quan trọng nhất, được Đức
Phật giảng dạy vào thời kỳ sau cùng. Đó là mô phạm tối yếu; là phương thức, là
lời khai thị cho lộ trình mà quý vị phải theo sát để tu chứng tri kiến
Phật.
Kinh Văn: A-nan tức tùng tòa khởi, văn Phật thị hối, đảnh lễ
khâm phụng, ức trì vô thất. Ư đại chúng trung, trùng phục bạch Phật. Như Phật
sở ngôn, ngũ ấm tướng trung, ngũ chủng hư vọng, vi bản tưởng tâm, ngã đẳng bình
thường, vị mông Như Lai, vi tế khai thị.
Việt dịch: A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, nghe lời dạy của
Đức Phật, đảnh lễ kính vâng, ghi nhớ không sót. Ở trong đại chúng lại bạch Phật
rằng: “Như Đức Phật dạy, trong tướng ngũ ấm có năm thứ hư vọng, vốn có cội gốc
là tâm vọng tưởng. Chúng con bình thường chưa từng được được nghe lời
khai thị vi diệu của Như Lai.
Giảng: A-nan liền từ
chỗ ngồi đứng dậy, nghe lời dạy của Đức Phật, đảnh lễ kính vâng, ghi nhớ
không sót.
A-nan khi nghe lời chỉ dạy của Đức Phật, liền từ
chỗ ngồi đứng dậy, cung kính đảnh lễ ghi nhớ từng lời dạy không sót chữ nào.
Nghe được lời khai thị của Đức Thế Tôn, Ngài A-nan liền đảnh
lễ Đức Phật, nhưng lần này không khóc. Ngài đã từng khóc nhiều lần rồi, nhưng
lần này không khóc là vì Ngài đã ăn no rồi. A-nan cũng giống như đứa bé khát
sữa, khi uống no rồi, nên không còn khóc nữa. Lại nữa, ngài như đứa bé đòi kẹo,
một khi nó đã xin được nhiều kẹo, nó không còn khóc nữa. Ngài A-nan cũng đã có
được một ít kẹo để ăn, nên không còn khóc nữa.
Ngài đảnh lễ và phụng trì pháp môn Thủ-lăng-nghiêm đại định
rất cung kính. Ngài đã tụng thuộc thần chú Thủ-lăng-nghiêm không sai sót một
chữ nào, mỗi câu, mỗi chữ rất rõ ràng. Khi ngài tụng thần chú này bằng lời thì
tâm ngài tập trung chuyên nhất không và không khởi ác nghiệp nơi thân. Nên ba
nghiệp nơi thân, khẩu, ý hoàn toàn thanh tịnh khi tụng thần chú Lăng Nghiêm
này.
Ở trong đại chúng lại bạch Phật rằng:
Một lần nữa ở trong đại chúng, A-nan lại bạch Đức Phật.
Quý vị không nên hiểu sai ý nghĩa này. Khi ngài A-nan từ
trong đại chúng, lại thưa hỏi một lần nữa, đó chắc chắn không phải là một dạng
khoe khoang, không phải là ngài A-nan muốn đại chúng chú ý đến mình. Thế
A-nan làm vì mục đích gì? Ngài thay mặt cho toàn chúng sinh mà cầu thỉnh Đức
Phật chỉ dạy giáo pháp. Ngài làm việc đó không chỉ riêng cho ngài,
mà cho toàn thể quý vị và tôi, cho tất cả những người thiết tha tu đạo trong
đời này. Ngài nghĩ rằng: “Ồ! Trong tương lai, sẽ có một pháp hội giảng kinh ở
nước Mỹ. Có người sẽ giảng Kinh Thủ-lăng-nghiêm và có người sẽ không hiểu được
toàn thể ý chỉ của Kinh này, nên ta phải vì họ mà cầu thỉnh Thế tôn chỉ dạy rõ
ràng điểm này.” Chúng ta nên hết sức tri ân ngài A-nan.
Ngài A-nan nói: “Như Đức Phật đã dạy, trong tướng của ngũ
ấm: sắc ấm, thọ ấm , tưởng ấm , hành ấm và thức
ấm có năm thứ hư vọng, vốn có cội gốc là tâm vọng tưởng của
chính mình. Mỗi một thứ trong năm ấm lại chia thành mười loại ma cảnh. Chúng
con trước đây chưa từng được may mắn nghe lời khai thị vi diệu của Như Lai như
vậy.
Tất cả những người trong đại chúng từ trước đến nay, trong
cuộc sống bình thường hằng ngày, chưa từng nghe được Đức Phật giảng dạy những
điều vi diệu như thế.
Chúng con bình thường chưa từng được được nghe lời khai
thị vi diệu của Như Lai.
Chúng con thực sự đạt được những điều chưa từng có. Thân tâm
chúng con vô cùng thư thái và an nhiên.
Kinh Văn: Hựu thử ngũ ấm, vi tính tiêu trừ, vi thứ đệ tận. Như
thị ngũ trùng, nghệ hà vi giới?
Việt dịch: Lại nữa, năm thứ ấm này được tiêu trừ một lần hay
lần lượt theo từng thứ lớp. Giới hạn của năm lớp ấy là gì?
Giảng: Lại nữa, năm thứ
ấm này. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức ấm được tiêu trừ một lần.
Liệu chúng ta có thể phá trừ năm thứ ấy cùng một lúc hay lần lượt theo
từng thứ lớp. Nó chuyển hóa dần dần, theo một thứ tự nhất định từng lớp
từng lớp một hay sao? Giới hạn của năm lớp ấy là gì? Cái gì là
giới hạn của năm lớp ấy.
Kinh Văn: Duy nguyện Như-lai, phát tuyên đại từ, vi thử đại
chúng, thanh minh tâm mục, dĩ vi mạt thế nhất thiết chúng sinh, tác tương
lai nhãn.
Việt dịch: Xin nguyện Như Lai, mở lòng đại từ, làm cho tâm và
mắt của đại chúng đây được trong sáng, để làm đạo nhãn tương lai
cho hết thảy chúng sinh trong đời mạt pháp.
Giảng: Xin nguyện Như
Lai, mở lòng đại từ. Cúi mong Như Lai, mở lòng đại từ giảng nói nghĩa
này, ước nguyện duy nhất của chúng con là mong Như Lai mở rộng tâm đại từ,
giảng nói nghĩa này cho chúng con. Làm cho tâm và mắt của đại chúng đây
được thanh tịnh và sáng suốt. Nếu tâm quý vị chưa có được sự hiểu biết
chân chánh, thì rất khó tu tập. Nếu mắt quý vị bị ô nhiễm bởi trần cấu, thì khó
thấy được sự vi diệu của vạn pháp.
Thế nên, A-nan thưa hỏi để được chỉ bày cho tâm và
mắt của đại chúng được thanh tịnh, không những Ngài chỉ muốn cho tâm và mắt của
đại chúng được thanh tịnh, mà còn muốn cho tâm và mắt của hết thảy chúng sanh
cũng được thanh tịnh. Ngài cũng cầu thỉnh Đức Phật chỉ dạy. Để làm con mắt sáng
của hết thảy chúng sinh trong đời vị lai. Nghĩa là làm con mắt đạo cho quý vị,
cho tôi và cho tất cả chúng sanh trong hiện tại. Chúng ta đều được xác định
trong số chúng sanh ấy. Dù quý vị có muốn loại trừ mình ra khỏi cũng không
được. Nếu quý vị nói: “Đừng kể tôi vào đó, tôi không phải là thành viên trong
số chúng sanh mà các ông đề cập đến.” Thế tôi hỏi quý vị. Quý vị là ai? Nói
nhanh! Cho dù quý vị không muốn như thế, quý vị cũng không thể nào tránh khỏi.
Dù quý vị có mọc thêm cánh, cũng không thể bay thoát được. Dù có lên cung
trăng, quý vị cũng vẫn là chúng sinh, mà chẳng là loại gì khác. Thế nên, tốt
hơn là hãy chấp nhận mình là thành viên trong số chúng sanh này, đừng trốn
chạy. Tốt nhất là quý vị không nên phát khởi tập khí sân hận, hành xử thô tháo.
Quý vị đừng nên có cảm giác mình như là chiếc bánh rán nóng hổi trong chảo dầu.
Điều đó trông rất chướng.
Để làm đạo nhãn tương lai cho hết thảy chúng sinh trong
đời mạt pháp.
A-nan nói: “Làm con mắt cho chúng con và cho chúng sanh trong
đời vị lai.” Sứ mệnh chưa chấm dứt ở nơi đây: “Con mắt cho tương lai” có nghĩa
là tiếp tục cho đến đời vị lai. Xác định đó là một thời gian chưa đến.
Khi quý vị nghe điều này, có nghĩ rằng nó kỳ diệu không? Nó có
ý nghĩa gì không? Khi quý vị cười, mọi người không hiểu tiếng Trung Hoa đều cảm
thấy lúng túng, không hiểu quý vị cười chuyện gì? Vậy nên, phải phiên dịch điều
đó ngay!
Kinh Văn: Phật cáo A-nan, tinh chân diệu minh, bản giác viên
tịnh. phi lưu tử sinh, cập chư trần cấu, nãi chí hư không, giai nhân vọng tưởng
chi sở sinh khởi.
Việt dịch: Đức Phật bảo A-nan, tính tinh chân là diệu minh,
tính bản giác là viên tịnh, không lưu lại sinh tử và các trần cấu, cho đến cả
hư không, đều nhân vọng tưởng mà sinh khởi ra.
Giảng: Đức Phật bảo
A-nan, tính tinh chân là diệu minh, tính bản giác là viên tịnh, không lưu lại
sinh tử và các trần cấu.
Trạng thái này ra sao? Nó chính là cảnh giới của bản giác diệu
minh, tinh thuần chân thật và thanh tịnh viên mãn. Sinh tử không tồn tại trong
cảnh giới này và các cấu nhiễm cho đến cả hư không.
Đó chính là Như Lai tạng tánh. Là bản thể của chân
như, là Phật tánh mà mỗi chúng ta đều có sẵn. Cái đó chẳng phải là quý vị có mà
tôi không, chẳng phải mà quý vị không có mà tôi lại có. Tất cả chúng ta đều
thừa hưởng được bản giác diệu minh tinh thuần, chân thật, thanh tịnh, viên mãn
này. Trong đó không nhiễm một mảy bụi trần. Trong đó không một pháp có thể lập
được. Chẳng có gì trong đó. Nếu quý vị trở về được nơi bản nguyên của mình, thì
quý vị sẽ thoát khỏi vô minh, phiền não, tham dục, mê muội, vọng tưởng. Quý vị
hoàn toàn tự tại đối với những thứ ấy. Đó là cảnh giới hoàn toàn tuyệt đối
thanh tịnh. Đó là mục tiêu của người tu đạo, tất cả là để trở về tự tánh vốn có
của chính mình. Nếu quả thực nơi này không tồn tại, thì người ta đâu cần tu
hành làm gì?
Cho đến cả hư không, đều nhân vọng tưởng mà sinh
khởi ra.
Chúng ta ai cũng đều thấy hư không. Nhưng quý vị có biết hư
không từ đâu tới chăng? Các thứ ấy đều sinh khởi từ vọng tưởng. Hư không sinh
khởi từ vọng tưởng của chúng ta. Do những vọng tưởng này mà có ngũ ấm, ngũ
trược, lục kết. Vọng tưởng gây nên biết bao thứ phiền não. Điều này giống như
người lăng xăng muốn làm một việc gì đó trong khi chẳng có gì cần phải làm cả.
Tại sao như vậy? Vì quý vị chẳng có việc gì cần phải làm cả, nhưng lại muốn
kiếm việc để làm. Nếu như quý vị nhận được phần thưởng khi làm việc thì còn có
thể được. Nhưng đáng tiếc là quý vị càng làm bao nhiêu, càng mất bấy nhiêu. Nếu
quý vị làm công cho người khác, quý vị càng làm, càng thấy thiếu tiền. Cũng như
khi điều hành việc thương mại. Càng buôn bán lâu, lỗ vốn càng nhiều. Quý vị sẽ
bị thua thiệt như thế mãi cho đến khi tánh Như Lai tạng bị đè
bẹp dưới chân ngọn núi của ngũ uẩn. Khi điều này xảy ra, giặc cướp từ sáu căn,
sáu trần chiếm giữ ngọn núi, năm uẩn làm nơi sào huyệt kẻ ấn náu. Mà đi khắp
nơi để cướp bóc. Hãy xem thử tại sao suốt từ hồi nào đến giờ, quý vị lại chiêu
tập và cho kẻ cướp trú ngụ nơi mình?
Ban đầu quý vị buôn bán kinh doanh nhưng rồi vốn liếng mất dần
và bây giờ nó làm tán thân mất mạng luôn. Kẻ cướp đi khắp nơi phá nhà cướp của,
giết hại chúng sinh. Vậy mà tự tánh của quý vị lại bị nén ép dưới chân năm ngọn
núi ngũ ấm. Sáu căn và sáu trần là những tên giặc cướp đi khắp nơi để phá nhà
cướp của. Quý vị có biết chuyện ấy chăng? Nếu biết được nghĩa lý này, thì tôi
khỏi phải phí công giảng kinh nữa. Nếu quý vị chưa hiểu, thì phải học thêm.
Kinh Văn: Tư nguyên bản giác, diệu minh chân tinh, vọng dĩ
phát sinh chư khí thế gian, như Diễn-nhã-đạt-đa, mê đầu nhận ảnh.
Việt dịch: Tất cả cái ấy, gốc nơi bản giác diệu
minh chân tính, do vọng tưởng mà phát sinh khí thế gian, như Diễn-nhã-đạt-đamê
đầu mà nhận bóng.
Giảng: Tất cả cái ấy,
gốc nơi bản giác diệu minh chân tính.
Cội gốc của bản giác trong ấy không một pháp nào được lập.
Tính chất của bản giác vốn sáng suốt vi diệu, tinh thuần chơn thật.Do vọng
tưởng mà phát sinh khí thế gian. Do vọng tưởng mà phát sinh các vật
tượng thế gian.
Vọng nương nơi chân mà sinh khởi. Vọng sinh khởi ngay trong
Như Lai Tạng tánh.
“Hữu tình thế gian” là hết thảy các loại sinh vật có tình thức
và “khí thế gian” là các vật tượng trong đời đất như sông núi nhà cửa đất đai…
Như Diễn-nhã-đạt-đa mê đầu mà nhận
bóng.
Như chàng Diễn-nhã-đạt-đa lầm tưởng mình mất đầu khi nhìn
thấy bóng của mình trong gương. Diễn-nhã-đạt-đa một sáng thức dậy, soi mình
trong gương, thấy người trong gương có đủ mắt, tai, miệng, mũi, và anh ta la
lên: “Tại sao ta không có cái đầu như vậy? Người trong gương có đầu, tại sao ta
lại không?” Thế là anh ta chạy đi khắp nơi để kiếm cái đầu. Quý vị có nghĩ rằng
đầu anh ta có thật sự biến mất như thế không? Nếu không hãy tự mình suy nghĩ
lại.
Loại người nào giống như Diễn-nhã-đạt-đa? Anh ta là người
thông minh hay ngu si? Anh ta là người có đầu hay không có đầu? Nếu quý vị cho
rằng anh ta không có đầu, liệu quý vị cho rằng anh ta là yêu quái khi thấy anh
ta không? Hãy nghĩ kỹ về điều ấy.
Hôm nay là ngày bắt đầu một cuộc đời mới của mọi người đang có
mặt tại đây. Vậy nên chúng ta cần nên rửa sạch thân tâm buôngbỏ hết tất cả
những gì không thanh tịnh mà mình đã vướng vào trong quá khứ. Hãy dứt khoát
rằng kể từ nay tất cả những việc mình làm đều là thanh tịnh. Nói “thanh tịnh”
nghĩa là thoát khỏi ngũ độn sử: tham, sân, si, mạn, nghi.
Lễ truyền giới hôm nay là buổi lễ đầu tiên được tổ chức ở Mỹ.
Quý vị là những người Phật tử đầu tiên ở Mỹ. Quý vị không nên nghĩ rằng sẽ có
nhiều khó khăn, bất tiện trong việc tu tập đối với đối với hàng sơ tâm. Quý vị
sẽ phải dấn thân vào khổ nhọc. Vì không có một dạng thức nào để mô phỏng theo
cả. Không có những tiền lệ, nên quý vị sẽ không biết tu như thế nào, và làm
việc gì?
Có khi quý vị thấy mất phương hướng, quý vị sẽ gây ra lỗi lầm
mà không biết đó là sai phạm. Tại sao vậy? Chỉ vì cơ bản là quý vị không biết
mình đang làm gì và không biết học ở đâu.
Mặc dù Phật giáo Nhật Bản đã truyền đến Mỹ quốc trong thời
gian khá lâu. Đó là một loại Phật Pháp như chất hóa học tổng hợp. Nói thế có
nghĩa là nó có khuynh hướng trừu tượng, thiếu thực chất căn bản. Quý vị có thể
gọi những gì họ làm là Phật pháp. Nhưng thật sự đó chẳng giống Phật pháp chân
chính tí nào cả. Nhưng nếu quý vị cho đó là thế gian pháp. Thì họ sẽ bảo rằng:
Đó là Phật pháp. Không dễ dàng để nói thật sự nó là gì. Vì không có một khuôn
mẫu nhất định.
Do đâu mà không có? Vì nó không có một nền tảng chân thật.
Chẳng hạn như có vị Hòa thượng người Cao Ly tuyên bố mình là người thuộc phái
Thiền Tào Khê . Thật khó hiểu nỗi dòng Thiền Tào Khê đã truyền bá đến Cao
Ly như thế nào. Đây thật là trường hợp “treo đầu dê bán thịt chó.” Nhưng những
thứ ông ta bán là đất bùn của xứ Cao Ly. Trong khi ông ta treo lên bảng “giọt
nước của Tào Khê,” nhưng thật ra chẳng có giọt nước nào ở đó cả thì làm sao có
thể gọi là Tào Khê được?
Thực ra tôi chẳng thích nói như thế này, nhưng tôi thấy những
dạng người này thật đáng thương. Đó là trường hợp của người đui dẫn đường cho
kẻ mù. Ông ta tuyên bố là người thuộc dòng thiền Tào Khê , và một số trí
thức người Mỹ theo ông ta rồi cũng trở thành môn đồ của Tào Khê luôn. Nhưng khi
hỏi nguồn gốc chính xác của Thiền Tào Khê thì họ không thể trả lời được Tào Khê
ở nơi nào? Nơi đó trông ra sao? Họ chẳng biết. Đây thật là sự giả mạo lố bịch.
Nay quý vị đã thọ nhận giới luật từ một tông phái Phật giáo
chân chính. Đây là Phật pháp chân chính, hoàn toàn khác hẳn với các giáo phái
là đạo, lấy danh nghĩ Đạo để lừa lọc tài sản của mọi người. Chẳng hạn có nơi đã
rao: “Trả cho tôi sáu mươi lăm đô la tôi sẽ truyền pháp cho bạn.” Ở đây không
phải như vậy. Nay quí vị đã nhận giới y. Tiền mà quí vị cúng dường không phải
cho tôi, mà để may sắm giới y này. Từ nay bất kỳ lúc nào tham dự pháp hội, quí
vị cũng đều nên mang giới y. Đó là biểu lộ lòng tôn kính Phật Pháp Tăng.
Pháp hội này sẽ kết thúc vào ngày mai. Từ đây trở đi khi ở
trong pháp hội người mang pháp y sẽ đứng trước, người mang thường phục đứng
sau. Cũng vậy người thọ giới trước thì đứng trước, những người thọ giới sau thì
đứng sau. Đây là thứ tự trong đạo Phật.
Hôm nay tôi xin chúc mừng tất cả quí vị đã trải qua suốt ba
tháng tập trung tâm ý để học Kinh. Dù việc học chấm dứt, nhưng việc thực hành
công phu thì mới bắt đầu. Thực hành điều gì? Quí vị phải giúp toàn thể chúng
sanh trên thế gian này chấm dứt được khổ đau. Nỗi khổ của chúng sanh ấy
chỉ được chấm dứt nếu mọi người đều góp sức vào. Nỗi khổ của kiếp
người không hạn cuộc ở một quốc gia nào, con người bị khổ đau trên khắp cả thế
giới, cho nên mới cần sự có mặt của các vị đại trí huệ để thức tỉnh, nhắc nhở
đến sự khổ đau của nhân loại. Nhờ thế con người mới biết cách tìm cầu sự an lạc
chân thực.
Nỗi khổ lớn nhất là gì? Nguồn gốc lớn nhất của khổ đau là tâm
tham, Tham lam là một trong những phiền não lớn nhất. Tâm sân hận cũng là một
trong những phiền não lớn, và si mê cũng là một trong những phiền não lớn, nên
ba thứ tham, sân, si được gọi là ba món độc. Thế nhưng loài người lại thấy ba
thứ này là ba người bạn thân thiết nhất. Thế nên từ nay bạn phải miễn cưỡng khi
chia tay với các người bạn ấy.
Do thiếu hiểu biết, con người không từ bỏ được ba thứ độc này,
nếu họ hiểu biết được điều này, sự khổ đau của con người sẽ được chấm dứt ngay.
Pháp hội Thủ-lăng-nghiêm lần này, chúng ta bắt đầu từ ngày 16
tháng 7. Chúng ta đã liên tục nghiên cứu cùng với công phu tu tập suốt từ sáu
giờ sáng đến chín giờ tối mỗi ngày. Thời gian ba tháng này thật là giá trị vô
cùng, bây giờ thời gian quí báu này đã trôi qua, quí vị phải chiêm nghiệm về
những kiến thức quí báu này và ứng dụng vào việc tu tập ngay nơi thân tâm mình.
Quí vị phải truyền đạt lại cho toàn thể nhân loại trên thế gian này về Phật
Pháp mà quí vị đã học được. Để cho mọi người biết cách chuyển hóa khổ đau, biết
cách đạt được niềm vui, biết cách đạt được trí tuệ, đừng nên làm những việc
xuẩn ngốc hoặc làm những việc chẳng đem lại lợi lạc cho chúng sinh.
Pháp hội này được xem là một hình thức truyền bá Phật học đầu
tiên trên toàn thế giới. Trước đây hoàn toàn chưa có, mặc dù có rất nhiều nơi
giảng kinh pháp, nhưng ở đó không học từ sáng đến tối mà chẳng nghỉ như chúng
ta vừa học. Nay quý vị nên mang những điều mình đã được học ra cứu giúp cho
toàn thể chúng sinh trên toàn thế giới đang phiêu dạt trong biển khổ, giúp họ
thoát khổ, thấy được niềm an lạc và nhanh chóng đạt được đạo giác ngộ. Đó là
hoài bão của tôi.
Kinh Văn: Vọng nguyên vô nhân, ư vọng tưởng trung lập
nhân duyên tính, mê nhân duyên giả, xưng vi tự nhiên. Bỉ hư không tánh,
do thực huyễn sinh, nhân duyên tự nhiên, giai thị chúng sinh vọng tâm kế độ.
Việt dịch: Vọng vốn không có nhân, ở trong vọng tưởng mà
lập ra tánh nhân duyên, mê tánh nhân duyên thì gọi đó là tự nhiên. Cả tánh hư
không kia cũng sinh ra từ huyễn hóa, nên nhân duyên, tự nhiên đều là suy lường
từ vọng tâm chúng sanh.
Giảng: Đoạn kinh này, nói về
nhân duyên của vọng niệm, “nhân duyên” nghĩa là sao? Khi người ta không hiểu về
lý nhân duyên, từ trong sự mê lầm này họ sẽ cho đó là tự nhiên, nên bị lạc vào
tà kiến của ngoại đạo. Nên kinh văn nói:
Vọng vốn không có nhân, ở trong vọng tưởng mà lập ra
tánh nhân duyên.
Vọng tưởng vốn không có nhân, từ trong vọng tưởng mà lập ra
tánh nhân duyên.
Trong vọng tưởng của quý vị, vốn không có thực thể, nhưng quí
vị cho rằng trong ấy có nhân và duyên, nhưng những người mê tánh nhân duyên gọi
đó là tự nhiên.
Mê tánh nhân duyên thì gọi đó là tự nhiên.
Nếu quí vị hiểu rỏ lý nhân duyên thì chẳng có vấn đề gì. Nhưng
nếu có người mê mờ về lý nhân duyên thì chẳng hiểu rõ được chút nào lý này.
Quí vị có thể hỏi:
Bạch Hòa thượng: Rốt ráo nghĩa nhân duyên mà Ngài nói là gì?
Lí nhân duyên đã được giảng giải rất rõ trong phần trước. Đó
là pháp để bài xích tà thuyết ngoại đạo, tà kiến của Tiểu thừa, nên pháp ấy
chẳng phải là giáo lý thân diệu. Cơ bản giáo lý ấy cho rằng: Bất luân
nhân như thế nào thì duyên sẽ như thế ấy. Những người không hiểu được lý
nhân duyên sẽ gọi đó là tự nhiên.
Đó là trường hợp nuốt luôn cả trái chà là. Nghĩa câu đó
là sao? Có thể quý vị chưa biết trái chà-là. Nhưng quý vị có thể hiểu như khi
ăn trái táo mà không cần cắn từng miếng, mà nuốt luôn nguyên cả trái vậy. Mùi
vị trái táo ra sao, cũng chẳng cần biết nữa. Đây là ví như những
người mê lầm lý nhân duyên mà chẳng hiểu gì về nó cả, nên gọi đó là tự nhiên, Đó
là một tà thuyết của ngoại đạo.
Cả tánh hư không kia cũng sinh ra từ huyễn hóa, nên nhân
duyên, tự nhiên đều là suy lường từ vọng tâm chúng sanh.
Nay chẳng nói đến nhân duyên, chẳng nói đến tự nhiên, mà
đề cập đến hư không. Hư không là gì? Nó theo vọng tưởng của quý vị mà sanh khởi
ra, như bài kệ của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã nói trong đoạn trước:
Không sanh đại giác trung
Như hải nhất âu phát.
Nghĩa là: Hư không sanh trong biển đại giác, cũng như hòn bọt
nhỏ trong lòng đại dương. Hư không ở trong bản tánh giác ngộ lớn
chỉ như là bọt nước trong biển mênh mông, nên nói nó xuất sanh từ
vọng tưởng.
Kinh Văn: A-nan, tri vọng sở khởi, thuyết vọng nhân duyên.
Nhược vọng nguyên vô, thuyết vọng nhân duyên, nguyên vô sở hữu. Hà huống bất
tri, suy tự nhiên giả?
Việt dịch: A-nan, đã biết do vọng sanh khởi ra, mà
nói nhân duyên vọng. Nếu vọng vốn không thì nhân duyên vọng đó vốn
là chẳng có. Huống gì những người không biết, cho đó là tự nhiên.
Giảng: A-nan, đã biết
do vọng sanh khởi ra, mà nói nhân duyên vọng.
A-nan, nếu ông biết nơi sanh khởi của vọng tưởng thì ông có
thể nói về nhân duyên của vọng tưởng ấy.
Quí vị có biết vọng tưởng hiện hữu như thế nào không? Nếu quí
vị biết nơi vọng tưởng sanh khởi, thì quí vị có thể nói về nhân duyên.
Nếu vọng vốn không thì nhân duyên vọng đó vốn là chẳng có.
Nhưng nếu vọng tưởng không có nhân thì ông có thể nói rằng
nhân duyên của vọng tưởng vốn là không vậy.
Vốn xưa nay chưa từng có vọng tưởng, vậy ông căn cứ vào đâu để
nói về nhân duyên của vọng tưởng. Vì vọng tưởng vốn không thể tánh, nó chẳng có
gốc. Vọng tưởng ấy chẳng phải có thực. Tất cả các pháp đều không có tướng nhất
định.
Huống gì những người không biết, cho đó là tự nhiên
Những người không biết lại biện bác cho đó là tự nhiên.
Nếu quí vị còn không biết lý nhân duyên mà lai biện bác cho lý
tự nhiên thì quí vị sẽ rơi vào hàng ngoại đạo. Điều ấy hoàn toàn không nên.
Kinh Văn: Thị cố Như Lai, dữ nhữ phát minh, ngũ ấm bản nhân,
đồng thị vọng tưởng.
Việt dịch: Thế nên Như Lai giải bày cho các ông rõ bổn nhân
của ngũ ấm đều là vọng tưởng.
Giảng: Thế nên Như
Lai giải bày cho các ông rõ bổn nhân của ngũ ấm đều là vọng tưởng.
Do lý nhân duyên đã được giảng ở phần trước Như Lai giải bày
cho các ông rõ bổn nhân của ngũ ấm đều là vọng tưởng.
Cái gì là bổn nhân của ngũ ấm? Đó là vọng tưởng. Nếu quí vị
quán chiếu thật sâu vào vọng tưởng quí vị sẽ thấy nó không có thực
thể riêng biệt. Thực ra mẹ của vọng tưởng là năm uẩn. Từ năm uẩn mà có vọng
tưởng. Nương nơi chơn mà vọng sanh khởi.
Trước đây tôi chẳng nói rồi đó sao? Ngọn núi ngũ uẩn đang đè
bẹp quí vị. Lại có sáu tên giặc cướp trên núi đang chiêu tập lực lượng, binh
mã, lương thực rồi đi khắp nơi phá nhà cướp của, chúng nó không chừa một việc
gì mà không làm. Năm ngọn núi ngũ uẩn ấy che phủ tánh Như Lai tạng , nên
tánh Như Lai tạng không hiển lộ ra được. Chỉ với năm ngọn núi ngũ uẩn che mờ
chân tánh đã quá khổ rồi mà lại còn thêm sáu tên giặc cướp kết bè đảng rồi mặc
sức đi phá nhà cướp của nữa. Tánh Như Lai tạng hoàn toàn bị che khuất dưới lũ
cướp này. Nếu quí vị có thể hàng phục được sáu tên giặc cướp và ngũ ấm thì tánh
Như Lai tạng của quí vị sẽ tự nhiên hiển bày.
Kinh Văn: Nhữ thể tiên nhân, phụ mẫu tưởng sinh. Nhữ tâm phi
tưởng, tắc bất năng lai, tưởng trung truyền mệnh.
Việt dịch: Thân thể của ông, trước là nhân cái tưởng của cha
mẹ mà sanh ra. Tâm ông nếu không có một niệm tưởng nào, thì ông chẳng đến
gá mạng vào nơi tưởng.
Giảng: Đức Phật Thích-ca
Mâu-ni nói với A-nan.
Thân thể của ông, trước là nhân cái tưởng của cha mẹ mà sanh
ra.
Nguyên nhân ban đầu của thân thể ông là do cái tưởng của cha
mẹ sanh ra. Bằng cánh nào mà ông có được cái thân hiện tiền? Cái thân ấy do đâu
mà có? Có là do mọi thứ tưởng nơi cha mẹ ông. Trong kinh gọi là tưởng nhưng
thực ra chính là tình. Nói rõ ràng hơn là một thứ xúc cảm. Vì loài noãn sanh do
tưởng sanh ra, loài thai sanh do tình sanh ra. Ngài A-nan vốn được sanh từ bào
thai, chẳng phải noãn sanh. Nên trong trường hợp này cái tưởng làm nhân để Ngài
sanh ra chính là tình. Nói tóm lại. Tất cả những cái ấy đều là vọng tưởng. Nói
ở mức độ sâu hơn, cái nhân ấy là tưởng và chi tiết hơn nữa thì gọi cái ấy là
tình. Cái nhân ban đầu là tình của cha mẹ, nên họ cùng nhau thỏa mãn tình dục.
Kết quả là đứa trẻ con được sanh ra, thế nên chẳng phải trẻ em được sanh ra từ
tình hay sao?
Tâm ông nếu không có một niệm tưởng nào, thì ông chẳng
đến gá mạng vào nơi tưởng.
Vì cha mẹ đã khởi cả tình lẫn tưởng nên mới có chuyện nam nữ.
Tuy nhiên khi ông đang ở trong dạng thân trung ấm, nếu ông không khởi nên cái
tình yêu mến mẹ và ghét cha, hoặc ghét mẹ và yêu thương cha, thì thân ông không
thể hiện hữu được. Chính ông cũng vậy, mới ngay trong giai đoạn thân trung ấm
thôi, mà ông đã có niệm tưởng về tình rồi.
Vì niệm tưởng về tình ấy, nên thân trung ấm của ông nhập vào
thai người mẹ. Nếu ông không có niệm tưởng về tình ấy, thì ông không thể nhập
thai và ông không thể có thân này. Đây là sự thực quá hiển nhiên, ông chẳng thể
nào phủ nhận được điều ấy. Kinh văn xác định rằng, nếu ông không có tình tưởng,
thì thân tuyệt đối không thể nào hiện hữu. Làm sao mà có thể ra đời được.
Sinh mạng của ông có được là do nơi tưởng.
Niệm tình tưởng ấy đã truyền sự sống đến cho quí vị. Nguyên
nhân để quý vị có mạng sống là do các tình tưởng tương giao với nhau mà thành.
Sinh mạng của ông có được là do nơi tưởng. Nghĩa là cái tưởng của ông khiến cho
sanh mạng của ông được tương tục. Nếu ông không có niệm tưởng nào thì sự sinh
tử sẽ chấm dứt. Khi tưởng ấm tiêu dung thì quý vị sẽ rời xa tất cả
điên đảo mộng tưởng. Khi mọi vọng tưởng đều tiêu trừ rồi thì việc sanh tử nơi
quí vị cũng chấm dứt luôn. Tại sao quí vị phải chịu trải qua sanh tử? Đơn giản
là chỉ vì quí vị có quá nhiều vọng tưởng. Khi một niệm vọng tưởng
dừng, thì niệm khác lại dấy lên giống như sóng, vọng tưởng sinh khởi kế tiếp
nhau vô cùng tận, và nó khiến cho sinh mạng tương tục.
Kinh Văn: Như ngã tiên ngôn, tâm tưởng thố vị, khẩu trung
diên sinh, tâm tưởng đăng cao, túc tâm toan khởi, huyền nhai bất hữu, thố
vật vị lai, nhữ thể tất phi, hư vọng thông luân. Khẩu thủy như hà, nhân đàm thố
xuất?
Việt dịch: Như trước đây Như Lai đã nói, khi tâm
tưởng đến vị chua, thì trong miệng tiết ra nước bọt, khi tâm tưởng đang
leo cao thì lòng bàn chân cảm thấy rờn rợn, mà dốc cao chẳng có, vị chua
cũng không thấy, thân thể của ông chẳng phải cùng loại với hư vọng,
tại sao khi nghe nói đến vị chua thì nước bọt trong miệng tiết ra?
Giảng: Triết lý được giảng
giải trong kinh Thủ-lăng-nghiêm là vô cùng triệt để. Đó là điểm cao nhất của
tất cả mọi thứ triết học, là chân lý tối thượng. Nhưng dĩ nhiên, chân lý tối
thượng rốt ráo cũng chỉ là vọng tưởng. Kinh Thủ-lăng-nghiêm này
chânthật khi mô tả mọi hiện tượng một cách thưch tế như vậy. Nhưng nguồn cội
của hiện tượng ấy là đâu ? Là vọng tưởng. Nguyên lý về sự xuất phát của mọi
hiện tượng lạ rốt ráo, nhưng nguồn gốc của những nguyên lý ấy cũng từ vọng
tưởng. Nếu vọng tưởng sinh khởi thì nguyên lý ấy hiện hữu. Nếu không vọng tưởng
thì nguyên lý ấy cũng không tốn tại.
A-Nan, như tôi đã nói trước. Ông có còn nhớ trước đây tôi đã
nói với ông chuyện gì xẽ sảy ra khi tâm ông tưởng đến vị chua. Ông nghĩ: Ồ !
dấm ấy thật là chua ! Ồ ! Quả mận này thật là chua chỉ cần cắn một
miếng là tê cả răng ! Ngay khi quý vị nghĩ về chuyện ấy, thì trong miệng tiết
ra nước bọt. Miệng tiết ra nước bọt để tiêu hóa thức ăn. Lúc này không phải là
đói mà quý vị nghĩ đến vị chua. Người Trung Hoa có thành ngữ “Uống dấm” là để
cho những người hay ghen tức đố kỵ người khác làm tiết ra vị chua trong miệng
quý vị.
Khi ông tưởng mình đang leo lên dốc cao, trong lònh bàn chân
cảm thấy rờn rợn và trở lên yếu ớt. Quý vị có thể bị mất cân bằng và rơi từ bờ
đá tới hẻm núi cả ngàn feet (1 foot = 0,3048 m). Quá nguy hiểm phải không.
Mà dốc cao cũng chẳng có, vị chua cũng không, núi cao thật ra
không có ở đo, quý vị chỉ tưởng tượng đến nó mà thôi. Nhưng chỉ mới
tưởng tượng thôi, mà bàn chân đã thấy rờ rợn lên rồi. Trên đã nói miệng tiết ra
nước bọt khi nghĩ đến mận chua. Còn bây giờ chân cẳng đã có cảm giác rờn rợn
khi nghĩ đến bờ dốc đá cao. Thế nào là lòng bàn chân quý vị có cảm giác rờn rợn
? Tôi sẽ kể cho quý vị nghe. Ðến đây có người sẽ nói: Hòa Thượng tôi cần phải
giải thích điều này, con đã hiểu được rồi, con đã ngộ được đạo lý này rồi.
Trước đây Hòa Thượng đã giảng về sự hỗ dụng của các giác quan. Trường hợp này
chắc chắn bàn chân cảm thấy chua vì nó có thể ăn được.”
Phải chăng sự thực là như thế hay sao ? Tôi không tin vào sự
ngộ giải của ông như trên. Chẳng có một đạo lý nào như thế. Tôi không chấp nhận
đạo lý như vậy, vì nó chỉ là vọng tưởng. Bàn chân chẳng thể
nào ăn được. Trong sáu căn hỗ dụng là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Hoàn toàn
không có bàn chân. Ðó là lý do tại sao tôi tuyệt đối không thừa nhận kiến
giải của ông, mà ông gọi là khai ngộ ấy.
Không có bờ đá dốc cao nào, cũng chẳng có trái me chua
nào, nước bọt và bàn chân rờn rợn và yếu đi chính là do vọng tưởng. Nếu
thân thể của quí vị không ra đời từ vọng tưởng hư dối, nếu thân xác ấy không
kết bạn, không đồng loại với vọng tưởng thì tại sao nước trong miệng lại tiết
ra khi nói đến vị chua? Nếu thân thể ấy không phải ra đời do vọng tưởng tình
tưởng, thế tại sao dịch vị lại tiết ra trong miệng khi tôi nói đến vị chua? Vị
chua chỉ là sự kiện được đề cập đến chứ nó không có thực. Nó chỉ là
giả thuyết, tại sao lại tạo nên vị chua trong miệng ông? Có lẽ nào ông vẫn biện
hộ rằng vị chua trong miệng ông và cảm giác rờn rợn ấy chẳng do từ vọng tưởng
mà có chăng? Không! Vì nó hoàn toàn do vọng tưởng mà có.
Kinh Văn: Thị cố đương tri, nhữ hiện sắc thân, danh vi kiên cố
đệ nhất vọng tưởng.
Việt dịch: Vậy ông nên biết, sắc thân hiện nay của ông, được
gọi là vọng tưởng kiên cố thứ nhất.
Giảng: Vậy do những đạo lý
được giảng ở trên ông nên biết, sắc thân hiện nay của ông, được gọi là
vọng tưởng kiên cố thứ nhất.
Gọi là kiên cố cũng chỉ là cái tên. Thực ra cái tên
ấy được tạo ra nhờ vào loại vọng tưởng thứ nhất đó là sắc ấm.
Kinh Văn: Tức thử sở thuyết, lâm cao tưởng tâm, năng linh nhữ
hình, chân thọ toan sáp.
Việt dịch: Như Lai đã nói trước đây, khi tâm ông tưởng đến một
nơi cao là thân có cảm giác rờn rợn.
Giảng: Như Lai đã nói
trước đây, khi tâm ông tưởng đến một nơi cao là thân có cảm giác rờn rợn.
Ở chương vừa rồi đã có nói, chỉ cần nghĩ về một nơi
cao là chân có cảm giác rờn rợn và tê nhức.
Hãy tưởng tượng chính mình đang đứng trên bờ dốc cao dựng
đứng; chỉ cần nói và nghĩ về điều ấy thôi cũng đủ làm cho lòng bàn
chân quí vị thấy rờn rợn và tê nhức rồi. Quí vị cảm thấy rất khó chịu như thể
cẳng chân không nâng đỡ nổi cái thân và có cảm giác muốn té. Nếu quí vị đi trên
bờ đá cao và nhìn xuống dưới vực sâu không đáy, thì lòng bàn chân của mình sẽ có
cảm giác như tê cứng lại. Mặc dù quí vị không có nguy cơ bị té mà quí vị cũng
có cảm giác như thể mình sắp bị rơi vậy. Cảm giác này sở dĩ xuất hiện trong
mình là do vọng tưởng. Chẳng hạn như quí vị có thể đi bộ hàng vạn dặm trên đất
bằng mà bàn chân không hề có cảm giác tê rần, rờn rợn do vọng tưởng. Nhưng nếu
quí vị phải đi qua một cây cầu độc mộc bắt qua dòng sông nước chảy xiết ở phía
dưới, thì quí vị sẽ bắt đầu suy nghĩ: “Ồ, nếu như ta bị rơi xuống đây thì coi
như xong đời, ta sẽ chết đuối là chắc chắn.”
Mọi việc đều tốt đẹp cho đến khi trong tâm quí vị khởi lên cái
tưởng như thế. Bây giờ bất thình lình bàn chân quí vị trở nên tê cứng không
nhấc nổi bù một bước, kết quả là bị rơi. Chuyện đó chắc chắn sẽ xảy ra, vì quí
vị đã phát khởi tưởng như vậy. Nếu trong tâm quí vị không khởi dậy tưởng tượng
mà chỉ đi với đôi mắt nhắm nghiền, không cần biết đến điều gì hết
khi bước qua chiếc cầu độc mộc, thì chẳng có điều gì xảy ra cả. Nên hãy dứt
khoát lần sau sẽ cố gắng đi qua cầu với đôi mắt nhắm. Nhưng rồi quí vị cũng sẽ
bị té như lần trước, vì quí vị không thấy đường đi. Nếu quí vị đi qua cầu với
đôi mắt mở, quí vị sẽ khởi vọng tưởng về dòng nước cuồn cuộn phía dưới khiến
mình sợ hãi. Nếu quí vị nhắm mắt đi qua cầu, chắc chắn là bị trượt và rơi xuống
sông.
Cho nên mở mắt mà không vọng tưởng và đừng nhắm mắt để cố giết
chết vọng tưởng theo cách ấy là hoàn toàn không có hiệu quả. Đây thật là vấn đề
tiến thoái lưỡng nan. Nếu quí vị khởi vọng tưởng thì lòng bàn chân sẽ trở nên
tê rợn. Nếu nhắm mắt quí vị sẽ rơi xuống vực sâu. Nhắm mắt không giải quyết
được vấn đề. Do vậy, điều tối quan trọng là ở nơi đây, tốt nhất là không khởi
vọng tưởng thì chẳng có việc gì xảy ra cả.
Kinh Văn: Do nhân thọ sinh, năng động sắc thể. Nhữ kim hiện
tiền, thuận ích vi tổn, nhị hiện khu trì. Danh vi hư minh đệ nhị vọng tưởng.
Việt dịch: Do các thứ cảm thọ sanh khởi, nó tác động đến sắc
thân. Nên hiện nay, hai thứ cảm thuận ích và vi tổn đang
thúc bách thân ông. Đó là là vọng tưởng hư minh thứ hai.
Giảng: Do các thứ cảm
thọ sanh khởi, nó tác động đến sắc thân.
Do đó mà các thứ cảm thọ sanh khởi và tác động đến thân ông.
Khi sinh ra quí vị bẩm thụ được sắc thân có hình và thể. Nên hiện tại ông theo
đuổi những cảm thọ dễ chịu và khước từ những cảm giác khó chịu.
Nên hiện nay, hai thứ cảm thuận ích và vi
tổn đang thúc bách thân ông.
Các ông thích những thứ thuận lợi cho mình (thuận ích) và
không ưa những gì tổn hại cho mình (vi tổn ).
Đó là là vọng tưởng hư minh thứ hai. Hai
thứ cảm thọ, hai thứ vọng tưởng ấy thúc bách nơi thân ông, là lớp vọng tưởng
thứ nhì. Đặc điểm của nó là hư minh.
Hư nghĩa là không có thực, nên loại ánh sáng này không có
thực. Đây là loại vọng tưởng thứ nhì.
Kinh Văn: Do nhữ niệm lự, sử nhữ sắc thân, thân phi niệm luân,
nhữ thân hà nhân, tùy niệm sở sử, chủng chủng thủ tượng, tâm sinh hình thủ, dữ
niệm tương ưng?
Việt dịch: Do những ý nghĩ sai sử thân ông, nếu thân ông
không cùng dạng với niệm tưởng, sao lại theo vọng tưởng nắm bắt mọi thứ hình
tượng, sanh tâm chấp giữ, cùng niệm tưởng tương ưng?
Giảng: Do những ý nghĩ
sai sử thân ông.
Khi niệm tưởng sinh khởi, nó có thể sai sử thân ông. Những
vọng tưởng này có thể điều khiển thân ông, nhưng thân ông thì không phải là
tưởng. Nếu thân ông không cùng dạng với niệm tưởng. Nếu thân và tâm
là hai vật thể khác biệt, thì làm sao mà nó lại biết lẫn nhau được?
Tại sao thân ông lại theo vọng tưởng và nắm bắt mọi thứ hình
tượng?
Tại sao quí vị vừa khởi niệm thân liền theo niệm tưởng ấy mà
hành động một cách tương ứng ngay liền?
Sanh tâm chấp giữ, cùng niệm tưởng tương ưng?
Một niệm sanh khởi thân liền tương ứng với hình tượng mà tâm
vừa tưởng ra.
Tại sao thân của quí vị lại theo sự sai khiến của niệm tưởng.
Ngay khi vừa khởi niệm thân ông liền muốn tương ứng ngay với vật tượng mà ông
vừa tưởng ra. Tại sao hành động của thân lại hợp nhất với niệm tưởng? Tưởng là
gì? Quí vị có thể có một niệm tưởng, hai niệm tưởng cho đến mười niệm tưởng,
nhưng ở đây ý Kinh đề cập đến một niệm tưởng.
Trong Kinh Nhân vương hộ quốc Bát-nhã nói có chín
mươi sát-na chỉ trong một niệm. Một sát-na là một thời gian cực
kỳ ngắn, thế mà trong sát-na có chín trăm lần sanh tử, hay là chín trăm lần
sinh diệt. Nên nói:
“Nhất niệm bất sanh toàn thể hiện
Lục căn hốt động bị vân già.”
Nghĩa là: Một niệm không sanh khởi, thể tánh toàn chân hiển
bày. Sáu căn vừa động, chân tánh liền bị mây mờ che phủ. Nếu quí vị giữ cho
mình được nhất tâm, thì thể tánh chân thật sẽ hiển bày. Cái dụng lớn vô biên
của chân tánh là Như Lai tạng . Đó là của báu vốn có trong nhà của quí vị.
Đó là quê hương xán lạn rộng khắp, là mặt mũi từ khi cha mẹ chưa sanh ra, khi
sáu căn chỉ vừa dấy khởi một niệm rất vi tế, thì thân tâm liền bị
vây phủ bởi mây mù.
Nếu hành giả tu tập đạt đến mức không còn một niệm tưởng nhỏ
nhít nào nữa, thì quỷ thần không thể nào đến gần người ấy được nữa. Nếu như một
niệm không sinh, thì chẳng có niệm diệt đi. Nếu quí vị không thể ngăn ngừa đừng
cho niệm sanh khởi, thì quí vị không thể nào ngăn cản được niệm ấy diệt đi. Đây
là điểm rất quan trọng. Nếu quí vị hiểu được quy luật này, thì trong tâm quí vị
không còn vọng tưởng, thể tánh toàn chân hiển bày. Nhưng khi sáu căn vừa động,
tâm quí vị liền bị vây phủ bởi mây mù ngay.
Kinh Văn: Ngộ tức tưởng tâm, mị vi chư mộng, tắc nhữ tưởng
niệm, dao động vọng tình. Danh vi dung thông đệ tam vọng tưởng.
Việt dịch: Khi thức là tưởng tâm, khi ngủ là chiêm bao, nên
niệm tưởng lay động vọng tình của ông. Đó gọi là dung thông vọng tưởng
thứ ba.
Giảng: Khi thức là
tưởng tâm.
Khi thức, thì tâm ông suy nghĩ.
Cách đây vài hôm, tôi đã giảng về Trang Công , người được
sanh ra khi mẹ ông đang ngủ. Do đó mẹ ông không bằng lòng về ông và thương quí
người con thứ hai là Cung Thúc Đoạn hơn, bà mẹ muốn người con thứ
này lên ngôi kế vị vua cha. Nên bà ta nhiều lần xin vua Vũ truyền ngôi cho con
thứ thay vì truyền cho con trưởng. Nhưng vua Vũ không chịu, nên Trang Công được
kế vị cha. Khi Trang Công lên ngôi, bà mẹ xúi Cung Thúc Đoạn âm mưu một cuộc
tạo phản, nhưng vẫn thất bại. Đó là chuyện Trang Công. Khi quí vị thức, thì
tưởng ấm điều khiển.
Khi ngủ là chiêm bao. Khi quý vị ngủ thì chiêm
bao. Tưởng ấm tạo nên chiêm bao. Trước đây chúng ta đã nghe nói đến
cáchtưởng ấm tạo nên nhận thức về sự vật sai lệch trong chiêm bao.
Chẳng hạn khi quí vị đang ngủ, có người đang giặt áo quần hay giã gạo bần bên,
quí vị nghe như có tiếng chuông trống đang hòa nhau.
Nên vọng tưởng lay động vọng tình của ông. Khi ông chiêm bao,
tưởng ấm đã khiến ông nhận lầm chuông trống đang hòa nhau.
Đó gọi là dung thông vọng tưởng thứ ba.
Đây là lớp vọng tưởng thứ ba, tính chất của nó là dung thông.
Dung thông có nghĩa là cùng tác động lẫn nhau. Tưởng ấm
vẫn hoạt động dù quí vị ngủ hay thức nên gọi tưởng ấm là “dung
thông.” Có nghĩa hợp tác hỗ tương với nhau. Đây là vọng tưởng thứ ba và nó có
liên quan với tưởng ấm.
Kinh Văn: Hóa lí bất trụ, vận vận mật di. Giáp trường phát
sinh, khí tiêu dung trứu. Nhật dạ tương đại, tằng vô giác ngộ.
Việt dịch: Chuyển hóa không ngừng, xoay vần âm thầm dời
đổi. Móng tay và tóc dài ra, khí lực suy tàn, da mặt nhăn nheo. Thay đổi ngày
đêm, thế mà ông không hề thức tỉnh.
Giảng: Tiến trình chuyển
hóa không ngừng.
Ngày đêm tương tục với nhau. Đó là hành ấm , trôi chảy
không ngừng như sóng gợn lăn tăn trên mặt nước. Khi niệm trước dừng, niệm sau
liền sanh khởi. Khi niệm ấy qua đi, niệm kia liền đến. Nó sanh rồi diệt liên
tục nhau.
Quá trình trao đổi và chuyển hóa này không bao giờ chấm dứt.
Nó vận hành liên tục, không hề ngừng nghỉ.
Xoay vần âm thầm dời đổi. Âm
thầm dời đổi rất vi tế.
Quí vị không thể nhận ra sự chuyển hóa ấy vì nó xảy ra rất là
vi tế và rất âm thầm. Ngôi nhà đã được dọn đi mà quí vị không hề biết. Trông có
vẻ khác lạ. Đó là sự chuyển hóa âm thầm.
Móng tay và tóc dài ra.
Trong hai ngày nếu quí vị không cắt móng tay. Sẽ thấy nó dài
ra, một chút, sau ba ngày, nó dai hơn, sau bốn ngày dài hơn nữa. Mỗi ngày nó
dài hơn ngày trước một chút. Nhưng quí vị có biết mỗi chút, mỗi giây nó dài ra
bao nhiêu không?
Nếu trong một tháng quí vị không cắt tóc, nó sẽ dài ra chừng
nữa inch.
Nhưng một ngày tóc dài ra bao nhiêu phân?
Quí vị chẳng biết. Quí vị nói “Được rồi, tôi sẽ đo.” Nhưng liệu
có chính xác không? Quí vị có thể dùng computer để đo rồi xem thử computer có
biết được chăng?
Khí lực suy tàn.
Khí lực suy giảm hàng ngày, con người ai cũng sung mãn chân
khí tiên thiên. Tuy nhiên về khi già, sinh lực ấy giảm dần, dù nó không mất hẳn
nhưng trên đà xuống dốc.
Da mặt nhăn nheo.
Da quý vị trở nên bị nếp gấp như da gà, tóc trắng như lông
hạc. Nét mặt của quý vị trở nên già cỗi, không thể nào trở lại thời thanh xuân
được nữa. Thẩm mỹ hoàn toàn bất lực để có thể chuyển một ông lão tám mươi thành
người hai mươi tuổi.
Thay đổi liên tục ngày đêm.
Sự chuyển biến liên tục ngày đêm, móng tay dài ra, tóc bạc,
khí lực suy giảm, da nhăn. Nó còn chính xác hơn cả đồng hồ. Nếu quí vị không
lên giây đồng hồ thì đồng hồ nó sẽ đứng máy. Nhưng nếu quý vị không lên giây”
tiến trình chuyển hóa vật chất” ấy nó vẫn hoạt động như thường, trừ phi quí vị
chết đi. Khi quí vị chết, tiến trình ấy mới dừng hẳn.
Thế mà ông không hề thức tỉnh.
Nó theo đuổi quý vị suốt ngày đêm. Từ khi thiếu niên đến tráng
niên, cho đến tuổi già cả đến lúc chết. Chết rồi lại tái sinh, rồi lại phải
chết quí vị trải qua vô số lần sanh tử như vậy mà không hề biết rõ được nguyên
lý này, vẫn cứ bước đi một cách rất hồ đồ đến suốt đời suốt kiếp. Mê mờ lúc
sinh ra cho đến luôn cả lúc ra đi. Đó là những chi tiết về loại vọng tưởng từ
hành ấm phát sanh.
Kinh Văn: A-nan, thử nhược phi nhữ, vân hà thể thiên. Như tất
thị chân, nhữ hà vô giác?
Việt dịch: A-nan, nếu những thứ này chẳng phải là ông, tại sao
thân ông lại biến đổi? Nếu chắc thật là ông, sao ông không biết?
Giảng: A-nan nếu
những thứ này chẳng phải là ông, thì tại sao thân ông lại biến đổi?
Thân thể quí vị đều trải qua các dạng biến chuyển này. Tóc
móng dài ra, khí lực tổn giảm, da mặt nhăn nheo. Quí vị nói rằng móng tay chẳng
phải là của mình. Thế tại sao nó vẫn tiếp tục dài ra? Quí vị nói tóc không phải
là của mình. Thì tại sao nó vẫn tiếp tục dài ra trên đầu mình? Quí vị nói khí
lực không phải là của mình. Tạo sao đôi khi quí vụ thấy yếu khi khí lực không
đầy đủ? Nếu khuôn mặt không phải là quí vị thì làm sao nó lại trở nên nhăn
nheo? Nếu quí vị cho rằng sự nhăn nheo ấy chẳng liên quan gì đến mình cả, thì
tại sao da mặt của quí vị lại trở nên nhăn nheo? Tại sao những sự chuyển biến
lại xảy ra trên người của quí vị? Nếu những sự chuyển biến này chẳng phải là
nơi quí vị, thì làm sao thân thể của quí vị lại chịu sự thay đổi. Từ tuổi thành
niên chuyển sang tuổi trung niên. Từ tuổi trung niên chuyển sang già lão. Từ
già lão chuyển đến cái chết. Quí vị chẳng thể nào nói rằng những cái ấy chẳng
phải là ta. Nếu nó không phải là mình thì quí vị chẳng có thực.
Nếu vọng tưởng chắc
thật là ông, sao ông không biết?
Nếu cứ khăng khăng cho rằng vọng tưởng chắc thật là ông, sao
ông không biết.
Tại sao quý vị không biết được nó? Tóc, móng mọc dài ra, nhưng
quí vị không biết được điều đang xảy ra. Khí lực suy giảm, mà quí vị vẫn không
nhận biết. Da mặt trở nên nhăn nheo, nhưng quí vị cũng không phát hiện được.
Quí vị cũng chẳng biết được sự chuyển biến ấy diễn ra khi nào.
Đây là một phản luận hai đầu. Nếu quí vị nói rằng sự chuyển
biến ấy thuộc về mình thì sai, nhưng nếu quí vị nói nó chẳng thuộc về mình cũng
sai luôn. Thế thì nó là gì? Nó là vọng tưởng! Đó là căn gốc. Vọng tưởng đã tạo
nên mọi sự chuyển biến.
Kinh Văn: Tắc nhữ chư hành, niệm niệm bất đình. Danh vi
u ẩn đệ tứ vọng tưởng.
Việt dịch: Ắt là hành ấm của ông tương tục không
dừng trong mỗi niệm. Đó là vọng tưởng thứ tư, tính chất là vi tế và ẩn
mật.
Giảng: Ắt là hành
ấm của ông tương tục không dừng trong mỗi niệm. Đó là vọng tưởng thứ
tư, tính chất là vi tế và ẩn mật.
Hành ấm hoạt động liên tục, nhưng sự nhiễu động vi tế ấy không
dễ gì nhận ra. Nó bí ẩn mà mờ mịt, quí vị khó nhận ra được. Đây là loại vọng
tưởng thứ tư liên quan với hành ấm .
Kinh Văn: Hựu nhữ tinh minh, trạm bất dao xứ, danh hằng thường
giả, ư thân bất xuất, kiến văn giác tri. Nhược thực tinh chân, bất dung
tập vọng.
Việt dịch: Lại chỗ tinh minh lóng lặng, không dao động
của ông, gọi là là thường còn, thì nơi thân ông, chẳng ra ngoài sự thấy
nghe, hiểu biết. Nếu nó thật sự là tính chân, thì đã không dung chứa tập khí
vọng tưởng.
Giảng: Lại chỗ tinh
minh lóng lặng, không dao động của ông, gọi là là thường còn, thì
nơi thân ông, chẳng ra ngoài sự thấy nghe, hiểu biết.
Cuối cùng nơi chỗ sáng suốt tinh thuần lặng yên không dao động
ấy là thường, thì thân ông chẳng thoát ra khỏi sự thấy nghe, hiểu biết.
Lúc này, quí vị sẽ cảm thấy sáng suốt, tinh thuần, trong lặng,
không diêu động. Nếu quí vị cho đây là trạng thái thường hằng, thì những việc
thấy nghe hiểu biết lẽ ra có trong thân quí vị.
Nếu nó thật sự là tính chân, thì đã không dung chứa tập khí
vọng tưởng.
Nếu nó thật sự tinh thuần, chân thật, thì nó đã không có các
tập khí và vọng tưởng.
Tập khí và vọng tưởng lẽ ra đã không sanh khởi.
Kinh Văn: Hà nhân nhữ đẳng, tằng ư tích niên, đổ nhất kì vật,
kinh lịch niên tuế, ức vọng câu vô; ư hậu hốt nhiên, phúc đổ tiền dị, kí ức
uyển nhiên, tằng bất di thất? Tắc thử tinh liễu, trạm bất dao trung, niệm
niệm thọ huân, hữu hà trù toán?
Việt dịch: Do đâu mà các ông, trong những năm trước đã từng
thấy vật lạ, trải qua nhiều năm, chẳng để ý đến; rồi sau bỗng dưng, thấy lại
vật lạ đó, liền nhớ rõ ràng, không hề thiếu sót? Vậy trong tính tinh minh đứng
lặng, trọn không dao động ấy, đã chịu sự huân tập trong từng niệm, đâu có trù
tính gì?
Giảng: Do đâu mà các
ông, trong những năm trước đã từng thấy vật lạ, trải qua nhiều năm, chẳng để ý
đến;
Nhân đâu mà nó xảy ra, do ông từ trong quá khứ đã từng thấy
vật lạ. Lâu rồi bỗng quên đi. Chẳng quên chẳng nhớ đến vật đó nữa.
Nguyên nhân của việc này là gì? Quí vị có thể thấy một vật kỳ
quái, nhưng sau nhiều năm, quí vị chẳng nhớ chẳng quên gì đến vật ấy nữa cả.
Nếu quí vị nói rằng mình đã quên việc ấy, có nghĩa là quí vị vẫn còn một vài
hồi ức về sự kiện đã xảy ra. Nhưng mà ở đây chẳng có việc nhớ quên gì về sự
việc đó nữa cả.
Rồi sau bỗng dưng, thấy lại vật lạ đó, liền nhớ rõ ràng, không
hề thiếu sót. Nhưng rồi sau đó bỗng nhiên thấy lại vật lạ ấy, ông liền nhớ
lại vật ấy một cách rõ ràng không sót một chi tiết nào cả.
Nếu quý vị bỗng dưng thấy lại vật ấy lần nữa, thì quí vị sẽ
hồi tưởng lại làm sao mình biết được vật ấy, mình đã gặp vật này trong quá khứ
và làm sao nó xuất hiện. Quí vị sẽ chẳng quên một chi tiết nào cả.
Làm sao mà ông có thể theo dõi được sự huân tập của từng niệm
từng niệm ở trong tánh chất tinh thuần, sáng suốt không diêu động ấy.
Vậy trong tính tinh minh đứng lặng, trọn không dao động ấy, đã
chịu sự huân tập trong từng niệm, đâu có trù tính gì?
Ở trong trạng thái trong suốt không diêu động ấy, có sự huân
tập tiếp diễn liên tục trong từng niệm từng niệm, làm sao theo dõi được việc
ấy? Làm sao người ta có thể hồi tưởng lại được mọi sự kiện? Giải thích như thế
nào khi đã gạt bỏ hoàn toàn mọi vật ra khỏi tâm trí lại còn nhớ khi thấy lại
nó? Trước khi thấy lại vật ấy, quí vị không gợi lại nó, nhưng một khi quí vị đã
gặp nó, quí vị tự động nhớ đến nó liền. Làm sao mà chuyện ấy được tính toán kỹ
lưỡng như vậy? Ai có thể lưu trữ điều này một cách chính xác? Ai theo dõi việc
này? Điều này chứng tỏ cho dù quí vị có tạm thời quên nó, nhưng thức thứ tám
vẫn nhớ. Đó là lý do tại sao khi quí vị thấy vật ấy lại, quí vị liền nhớ ngay.
Đó chẳng phải là có người đã theo dõi mọi sự việc hay sao? Nó đã được lưu giữ
trong thức thứ tám một cách tự nhiên.
Kinh Văn: A-nan đương tri, thử trạm phi chân, như cấp lưu
thủy, vọng như điềm tĩnh, lưu cấp bất kiến, phi thị vô lưu. Nhược phi tưởng
nguyên, ninh thọ tưởng tập.
Việt dịch: A-nan nên biết trạng thái trong lặng ấy là không
thực, như dòng nước chảy nhanh, xa trông như đứng lặng, do chảy nhanh mà không
thấy được, chứ không phải là nước không chảy. Nếu đây không phải là cội gốc của
vọng tưởng, cớ sao lại bị huân tập bởi tập khí hư vọng?
Giảng: A-nan nên biết
trạng thái trong lặng ấy không thực.
Trạng thái yên tĩnh trong lặng, không diêu động đã được miêu
tả ở trên không thực sự hoàn toàn tĩnh lặng. Tại sao không?
Như dòng nước chảy nhanh, xa trông như đứng lặng, do chảy
nhanh mà không thấy được, chứ không phải là nước không chảy.
Như dòng nước chảy quá nhanh nên ở trên bề mặt thấy như yên
lặng. Khi nhìn kỹ vào đó như thể không có sóng và nước chảy. Vì nước chảy quá
nhanh nên không thấy được, chứ không phải là nước không chảy.
Vì không có sóng nên quí vị không thể thấy được nước đang
trôi. Nhưng như thế không có nghĩa là không có sự trôi chảy. Nước vẫn chảy,
nhưng quí vị không thấy vì không có sóng. Trước đây chúng ta đã học qua hành
ấm . Nay chúng ta sẽ học về thức ấm .
Nếu đây không phải là cội gốc của vọng tưởng thì làm sao người
ta bị huân tập bởi những tập khí hư vọng?
Nếu không có vọng tưởng trong thức ấm , thì sẽ chẳng có
ai bị ảnh hưởng và huận tập bởi vọng tưởng và tập khí.
Kinh Văn: Phi nhữ lục căn, hỗ dụng hợp khai, thử chi vọng
tưởng, vô thời đắc diệt.
Việt dịch: Nếu sáu căn của ông chưa được khai hợp, dùng thay
lẫn nhau, thì cái vọng tưởng ấy không khi nào diệt trừ được.
Giảng: Nếu sáu căn
của ông chưa được khai hợp, dùng thay lẫn nhau.
Nếu ông chưa chứng đạt
được trình độ công phu đến khả năng lục căn hỗ dụng thì sáu căn của ông chưa
được khai hợp, dùng thay lẫn nhau, thì cái vọng tưởng ấy không khi nào
diệt trừ được.
Trừ phi quí vị đạt đến mức sáu căn có thể hỗ dụng lẫn nhau,
thì các vọng tưởng này sẽ được tiêu diệt.
Kinh Văn: Cố nhữ hiện tại, kiến văn giác tri, trung
quán tập cơ. Tắc trạm liễu nội, võng tượng hư vô, đệ ngũ điên đảo,
vi tế tinh tưởng.
Việt dịch: Cho nên hiện nay, cái thấy nghe hiểu biết của ông
đã xâu kết trong tập khí hư vọng. Ắt trong tính rỗng lặng trong
suốt ấy, là cái vọng tưởng điên đảo vi tế, rỗng không huyễn hóa thứ năm
Giảng: Cho nên hiện
nay, cái thấy nghe hiểu biết của ông đã xâu kết trong tập khí hư vọng. Cho
nên những khả năng thấy nghe hiểu biết của ông hiện nay đã xâu kết biết bao
nhiêu tập khí hư vọng
Ắt trong tính rỗng lặng trong suốt ấy, là cái vọng tưởng điên
đảo vi tế, rỗng không huyễn hóa thứ năm.
Sự hoạt động của sáu loại tánh biết: thấy, nghe, ngửi, nếm,
xúc, giác đều kết lại với nhau qua những tập khí rất vi tế, như một xâu chuỗi
hạt. Những tập khí này rất nhỏ nhiệm và khó phát hiện ra.
Kinh Văn: A-nan, thị ngũ thọ ấm, ngũ vọng tưởng thành.
Việt dịch: A-nan, năm loại ấm này là do năm vọng tưởng tạo
thành.
Giảng: A-nan, năm
loại ấm này: sắc ấm, thọ ấm , tưởng ấm , hành ấm , thức
ấm là do năm vọng tưởng tạo thành. Do đó nên năm
thứ vọng tưởng này cũng phát sanh.
Kinh Văn: Nhữ kim dục tri, nhân giới thiển thâm, duy sắc
dữ không, thị sắc biên tế, duy xúc cập li thị thọ biên tế, duy kí dữ vong thị
tưởng biên tế, duy diệt dĩ sinh thị hành biên tế, trạm nhập hiệp trạm quy
thức biên tế.
Việt dịch: Nay ông muốn biết giới hạn sâu cạn,
chỉ có sắc và không là biên giới của sắc ấm, xúc và ly là
biên giới của thọ ấm , nhớ và quên là biên giới của tưởng
ấm , diệt và sinh là biên giới của hành ấm , đứng lặng và
hiệp với đứng lặng thuộc về biên giới của thức ấm .
Giảng: Nay ông muốn
biết giới hạn sâu cạn.
Ông nay muốn biết tầm mức sâu cạn từng lĩnh vực của năm ấm.
Quí vị cần phải biết phạm vi của từng ấm sâu hay cạn, nó giống
như cái gì? Ở đâu là giới hạn của chúng? Tôi sẽ nói cho quí vị nghe bây giờ.
Chỉ có sắc và không là biên giới của sắc ấm
Sắc và không có quan hệ với nhau, và nơi đây là giới hạn của
sắc ấm.
Xúc và ly là biên giới của thọ ấm .
Xúc và ly với đối tượng của sự xúc chạm là giới hạn của thọ
ấm .
Nhớ và quên là biên giới của tưởng ấm .
Diệt và sinh là biên giới của hành ấm , đứng
lặng và hiệp với đứng lặng (với minh giác) thuộc về biên giới
của thức ấm. Từ đó lập nên giới hạn của thức thứ tám.
Kinh Văn: Thử ngũ ấm nguyên, trùng điệp sinh khởi. Sinh, nhân
thức hữu. Diệt, tòng sắc trừ.
Việt dịch: Năm ấm này vốn sinh khởi trùng điệp. Sinh,
do thức ấm mà có. Diệt, từ sắc ấm mà trừ.
Giảng: Năm ấm này vốn
sinh khởi trùng điệp.
Cội nguồn của năm ấm này sinh khởi trùng điệp. Ngũ ấm sanh
khởi từng lớp hỗ tương tuần hoàn với nhau, cùng hỗ trợ cho nhau.
Sinh, do thức ấm mà có. Diệt, từ sắc
ấm mà trừ.
Sự sinh khởi hoại diệt hoại diệt xảy ra như thế nào? Một khi
sắc chất biến mất, thì ấm trở thành không, nó sinh khởi từ thức, và sự hoại
diệt bắt nguồn từ khi hình sắc tiêu trừ.
Kinh Văn: Lí tắc đốn ngộ, thừa ngộ tính tiêu. Sự phi đốn trừ,
nhân thứ đệ tận.
Việt dịch: Lý tức ngộ liền, nhân ngộ mà tiêu trừ sạch. Sự thì
chẳng phải trừ được ngay, mà phải theo thứ lớp mới dứt được.
Giảng: Lý tức ngộ
liền, nhân ngộ mà tiêu trừ sạch.
Ông có thể đốn ngộ ngay phần lý. Khi ấy tất cả đều tiêu trừ
cùng một lúc.
Quí vị đã hiểu được quy luật này rõ ràng rồi. Khi quí vị đã
ngộ đạo rồi thì phương pháp tu tập mà quí vị đã áp dụng xưa nay đều được ngưng
lại. Cả ý niệm về ngộ cũng tiêu mất luôn. Nếu quý vị hiểu được nguyên lý này,
thì ngay cả khái niệm liên quan đến Ngộ cũng tiêu dung.
Sự thì chẳng phải trừ được ngay, mà phải theo thứ lớp
mới dứt được.
Còn phần sự tướng thì chẳng thể trừ được ngay, mà phải theo
từng thứ lớp.
Về mặt lý tánh (phương diện bản thể) thì quí đã được giác ngộ.
Nhưng về mặt sự tướng (phương diện hiện tượng), việc chuyển hóa phải được thực
hành lần lượt theo thứ tự. Nó cũng như việc thay áo quần, quí vị phải thay từng
thứ lớp. Lớp thứ nhất, lớp thứ hai lớp thứ ba lớp thứ tư, rồi lớp thứ năm (41).
Về mặt sự tướng, quý vị phải chuyển hóa chúng dần dần theo
từng thứ lớp. Hiểu được nguyên tắc này, quí vị vẫn phải cần công phu tu tập như
ở giai đoạn thực hành, chỉ có công phu tu tập thực sự quí vị mới có
thể vượt qua năm ấm.
Kinh Văn: Ngã dĩ thị nhữ kiếp ba cân kết. Hà sở bất minh, tái
thử tuân vấn?
Việt dịch: Như Lai đã chỉ cho ông về những gút nơi
khăn kiếp-ba-la. Có điều gì chưa hiểu rõ khiến ông lại hỏi?
Giảng: Như Lai đã
chỉ cho ông về những gút nơi khăn kiếp-ba-la, Như Lai đã buộc
sáu nút nơi tấm khăn, có điều gì chưa hiểu rõ khiến ông lại hỏi?
Tại sao ông vẫn chưa hiểu được điều ấy? Tại sao ông lại hỏi tôi chuyện ấy lần
nữa?
Kinh Văn: Nhữ ưng tương thử, vọng tưởng căn nguyên, tâm đắc
khai thông, truyền thị tương lai, mạt pháp chi trung, chư tu hành giả, linh
thức hư vọng, thâm yếm tự sinh, tri hữu niết-bàn, bất luyến tam
giới.
Việt dịch: Ông nên đem sự thông hiểu cội nguồn của vọng tưởng
này, truyền dạy cho người tu hành đời sau trong thời mạt pháp, khiến cho họ
nhận ra được hư vọng, tự thấy nhàm chán, biết có niết-bàn, để không
luyến tiếc ba cõi.
Giảng: A-nan, Ông nên đem sự thông hiểu cội nguồn của
vọng tưởng này, truyền dạy cho người tu hành đời sau trong thời mạt pháp,
Ông cần phải tìm cầu và đạt được sự thông hiểu về cội gốc của
vọng tưởng này, Khiến cho toàn thể chúng sinh hiểu được tường tận nguyên lý
này, giúp cho họ nhận ra được sự hư vọng mà tự thấy nhàm chán. Khiến cho
họ nhận ra được hư vọng, tự thấy nhàm chán, làm cho
tất cả người tu hành nhận rõ sự hư vọng đều tự sanh ra trong chính mình. Dạy
cho họ căn nguyên cùng mô dạng của nó, khiến cho chúng sanh trở nên chán ghét
sự hư vọng ấy.
Biết có niết-bàn, để không luyến tiếc ba cõi. Dạy
cho họ biết rõ niết-bàn để không còn luyến tiếc ba cõi. Khi chúng sanh
nhận thức được rằng: Mình có khả năng chứng được niết-bàn, thì họ sẽ không còn
chần chừ trong ba cõi này nữa. Họ sẽ không thấy muốn nán lại nơi ngôi nhà lửa
nơi Tam giới: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới nữa.
“Tam giới vô an, du như hỏa trạch.”
Nghĩa là: ba cõi không nơi đâu là yên ổn, giống như ở trong
nhà lửa.
Liên Trì Đại Sư là một Pháp sư lỗi lạc của Trung Hoa đã nói
như vậy. Sau khi ngài xuất gia rồi, Ngài luôn luôn mong mỏi được về nhà để thăm
vợ, và Ngài đã trở về nhà để thăm người vợ của mình.
Vợ của ngài là người rất thông minh, thế nên bà ta đã nghĩ
cách giúp chồng tu tập: “Chồng mình đã xuất gia, nhưng không chịu tu tập vẫn
còn lưu luyến chuyện tình ái mà không thể buông bỏ được.”
Chẳng còn cách nào tốt hơn, bà ta đào một cái hầm thật lớn
ngay trước cửa nhà, rồi phủ lên đó một tấm thảm, trong hầm bà ta đốt lửa lên.
Lần đó Đại Sư Liên Trì về nhà, ngài bước lên tấm thảm và rơi xuống hầm lửa đang
cháy. Ngài la lên: “Bà làm gì mà làm hầm lửa ngay trước nhà như vậy?”
Người vợ đáp: “Nếu ông biết đó là hầm lửa sao ông vẫn muốn
quay về?”
Nghe xong lời đó, ngài trở nên thức tỉnh, không bao giờ về nhà
nữa. Điều ấy minh họa cho câu “Tam giới vô an, du như hỏa trạch.” Dục giới, sắc
giới và Vô sắc giới không phải là nơi an lạc, nó giống như ngôi nhà lửa.
Kinh Văn: A-nan, nhược phục hữu nhân, biến mãn thập phương, sở
hữu hư không, doanh mãn thất bảo, trì dĩ phụng thượng, vi trần chư Phật, thừa
sự cúng dường, tâm vô hư độ. Ư ý vân hà, thị nhân dĩ thử, thí Phật nhân duyên,
đắc phước đa phủ?
Việt dịch: A-nan, ví như có người mang bảy thứ báu đầy trong
hư không khắp cả mười phương, dâng lên chư Phật nhiều như số vi trần, với tâm
cung kính cúng dường không hề xao lãng. Ý ông nghĩ sao, người này do nhân duyên
cúng dường chư Phật như thế, được nhiều phước đức hay không?
Giảng: A-nan, ví như có người mang bảy thứ báu đầy
trong hư không khắp cả mười phương, dâng lên chư Phật nhiều như số vi trần, với
tâm cung kính cúng dường không hề xao lãng.
Bảy thứ báu là vàng bạc, kim
ngân, lưu ly, xa cừ, xích châu mã não ở khắp mọi nơi. Rồi người ấy rất cung
kính dâng lên vô lượng chư Phật khắp mười phương và lễ bái cúng dường không lúc
nào xao lãng.
Ý ông nghĩ sao, người này do nhân duyên cúng dường chư Phật
như thế, được nhiều phước đức hay không?
Ông nghĩ sao? Người này đã đem bảy thứ châu báu với một số
lượng khổng lồ cúng dường chư Phật. Bởi nhân duyên này, người ấy có được phước
báu rộng lớn chăng?
Kinh Văn: A-nan đáp ngôn hư không vô tận, trân bảo vô biên,
tích hữu chúng sinh thí Phật thất tiền, xả thân do hoạch chuyển luân vương vị.
Huống phục hiện tiền, hư không kí cùng, Phật độ sung biến, giai thí trân bảo.
Cùng kiếp tư nghị, thượng bất năng cập. Thị phúc vân hà, cánh hữu biên tế?
Việt dịch: A-nan đáp rằng, hư không chẳng có giới hạn, trân
bảo cũng vô hạn, xưa có người cúng dường Phật bảy đồng tiền, đến khi xả thân,
còn được vị Chuyển luân Thánh vương. Huống gì hiện tiền, hư không cùng
tận, cõi Phật đã đầy khắp bảy thứ trân bảo cúng dường. Dù có suy nghĩ cùng tận
đến vô số kiếp còn không thể biết được. Phước đức ấy làm sao có ngằn mé?
Giảng: A-nan thưa: Hư không chẳng có giới hạn, trân
bảo cũng vô hạn. xưa có người cúng dường Phật bảy đồng tiền, đến
khi xả thân, còn được vị Chuyển luân Thánh vương.
Thuở xưa có người cúng dường Đức Phật bảy đồng tiền, nhờ vậy
nên khi mạng chung, tái sanh được làm Chuyển Luân Thánh Vương .
Một vị Chuyển Luân Thánh Vương có một ngàn người
con trai. Chẳng biết ông ta có bao nhiêu vợ. Chuyển Luân Thánh Vương có oai đức
rất lớn. Ông ta có một cỗ xe có thể đưa ông ta đi khắp Bốn đại bộ
châu chỉ trong vài giờ. Cỗ xe ấy có lẽ còn đi nhanh hơn cả tên
lửa trong thời hiện đại. Đó là một thứ bảo vật của ông ta.
Còn người này hiện đem bảy thứ báu đầy cả hư không cúng dường
khắp vô số cõi Phật. Dù có suy nghĩ cùng tận đến vô số kiếp còn không thể biết
được. Phước đức ấy làm sao còn có ngằn mé.
Huống gì hiện tiền, hư không cùng tận, cõi Phật đã đầy khắp
bảy thứ trân bảo cúng dường. Dù có suy nghĩ cùng tận đến vô số kiếp còn không
thể biết được. Phước đức ấy làm sao có ngằn mé.
Người dâng cúng cho Đức Phật bảy đồng tiền được hưởng quả báo
làm Chuyển Luân Thánh Vương . Nay người đem dâng cúng không
chỉ bảy đồng tiền mà gồm bảy thứ trân báu đầy khắp hư không pháp
giới. Ngay dù trải qua cùng tận bất tư nghì hư không kiếp số, cũng không bao
giờ tính đếm được phước đức của người ấy. Làm sao có thể nói được ngằn mé của
phước đức ấy. Nó không có giới hạn.
Kinh Văn: Phật cáo A-nan, chư Phật Như Lai, ngữ vô hư vọng.
Nhược phục hữu nhân, thân cụ tứ chủng, thập ba-la-di , thuấn tức tức kinh,
thử phương tha phương, a-tì địa ngục, nãi chí cùng tận, thập phương vô gián, mĩ
bất kinh lịch.
Việt dịch: Đức Phật bảo A-nan, chư Phật Như Lai không nói lời
hư vọng. Ví như có người phạm bốn tội lớn, mười tội ba-la-di ,
giây lát phải trải qua địa ngục A-tì ở phương này rồi phương khác, cho đến cùng
tột vô số các địa ngục vô gián trong mười phương mà không nơi nào chẳng phải
trải qua.
Giảng: Đức Phật bảo A-nan, chư Phật Như Lai không nói
lời hư vọng.
Ví như có người phạm bốn tội lớn, mười tội
ba-la-di .
Bốn tội nặng là: giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối. Trong
Kinh Thủ-lăng-nghiêm gọi là: “Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối ” (Bốn điều
chỉ dạy về pháp thanh tịnh sáng suốt) mà quí vị đã được nghe từ
trước.
Mười tội ba-la-di là mười giới trọng của giới
Bồ-tát. Tội ba-la-di nghĩa là “Khí – vứt bỏ” nghĩa là người phạm tội này xem
như bị trôi ra khỏi biển Phật pháp. Mười tội này không thể chỉ sám
hối mà thông được. Quí vị có thể nghiên cứu mười giới đầu tiên trong Bồ-tát
giới.
Giây lát phải trải qua địa ngục A-tì ở phương này rồi phương
khác, cho đến cùng tột vô số các địa ngục vô gián trong mười phương mà không
nơi nào chẳng phải trải qua.
Thế nên chỉ trong nháy mắt lẽ ra phải trải qua địa
ngục A-tì , ở phương này rồi phương khác. Trải qua cho hết cùng tột vô số các
địa ngục vô gián trong suốt khắp thế giới, trong mười phương. Lẽ ra phải trải
qua đau khổ vì tội chướng đã tạo trong mỗi địa ngục mà không sót một nơi nào
cả.
Kinh Văn: Năng dĩ nhất niệm, tương thử pháp môn, ư mạt kiếp
trung, khai thị vị học, thị nhân tội chướng, ưng niệm tiêu diệt. Biến kì sở thọ
địa ngục khổ nhân, thành an lạc quốc.
Việt dịch: Nếu người này, dùng một niệm, đem pháp môn
này khai thị cho người chưa học trong đời mạt pháp, thì những tội chướng
của người ấy liền được tiêu diệt. Biến cái nhân phải chịu khổ địa ngục thành
cõi nước an lạc.
Giảng: Nếu người này, dùng một niệm, đem pháp môn này
khai thị cho người chưa học trong đời mạt pháp. Nhưng nếu người
này có thể chỉ trong một niệm đem pháp môn này Đại định
Thủ-lăng-nghiêm truyền dạy cho những người chưa học trong đời mạt pháp, thì
những tội chướng của người ấy liền được tiêu diệt, nhờ cảm ứng với niệm trên.
Nếu trong đời mạt pháp chỉ đem một niệm, trong một
khoảnh khắc ngắn ngủ, truyền dạy pháp môn Thủ-lăng-nghiêm Đại Định cho những
người chưa được học hỏi Phật Pháp, thì những tội chướng của người ấy
liền được tiêu diệt một cách nhanh chóng.
Biến cái nhân phải chịu khổ địa ngục thành cõi nước an lạc.
Tất cả địa ngục lẽ ra người ấy phải chịu khổ thì đều biến
thành cõi nước an lạc.
Tất cả các khổ nạn đúng ra anh ta phải chịu trong đủ các loại
địa ngục sẽ biến thành nơi bình an vui thích. Anh ta không còn chịu món khổ nào
nữa cả.
Kinh Văn: Đắc phước siêu việt, tiền chi thí nhân, bá bội thiên
bội, thiên vạn ức bội. Như thị nãi chí, toán số thí dụ, sở bất năng cập.
Việt dịch: Được phước đức vượt hơn người ấy thí cúng trước kia
gấp trăm, ngàn, triệu, ức lần. Như thế cho đến toán số thí dụ cũng không
thể diễn tả hết được.
Giảng: Được phước đức vượt hơn người ấy thí cúng trước
kia gấp trăm, ngàn, triệu, ức lần. Phước đức người ấy được hưởng vượt
trội hơn hẳn phước đức của người bố thí cúng dường trước kia.
Phước đức của người giảng nói Kinh Thủ-lăng-nghiêm vượt trội
hơn phước đức có được do bố thí, cúng dường bảy thứ báu đầy cõi hư không, khắp
cả pháp giới lên chư Phật Như Lai nhiều như vi trần. Nếu quí vị có thể giảng
nói Kinh Thủ-lăng-nghiêm cho những người chưa hiểu được Phật Pháp, thì phước
đức ấy vượt trội hơn hẳn phước đức của người bố thí cúng dường gấp trăm, ngàn,
triệu, ức lần. Như thế cho đến dùng tính toán thí dụ cũng không thể nào diễn tả
cho được. Quí vị sẽ hưởng được phước báu nhiều hơn người kia, không có cách nào
để diễn tả được phước ấy lớn đến chừng nào.
Kinh Văn: A-nan nhược hữu chúng sinh, năng tụng thử kinh, năng
trì thử chú, như ngã quảng thuyết, cùng kiếp bất tận. Y ngã giáo ngôn, như giáo
hành đạo, trực thành bồ-đề, vô phục ma nghiệp.
Việt dịch: A-nan, nếu có chúng sanh biết tụng kinh, biết trì
niệm thần chú này, dù Như Lai có nói đến cùng tận số kiếp cũng không hết
được. Nếu theo lời chỉ dạy của Như Lai, y theo lời dạy mà tu hành,
thì thẳng đến đạo bồ-đề, không bị các ma nghiệp.
Giảng: A-nan, nếu có chúng sanh biết tụng kinh, biết
trì niệm thần chú này.
Nếu có chúng sanh trong đời tương lai biết tụng kinh, trì niệm
thần chú này, dù Như Lai có nói đến cùng tận số kiếp cũng không
hết được lợi lạc to lớn của người ấy.
Nếu tôi nói thật chi tiết về phước báu của người trì tụng Kinh
Thủ-lăng-nghiêm và người trì chúThủ-lăng-nghiêm. Dù trải qua bao nhiêu đại kiếp
vẫn không nói xong hết được phước báu ấy.
Nếu theo lời chỉ dạy của Như Lai, y theo lời dạy mà
tu hành, thì thẳng đến đạo bồ-đề, không bị các ma nghiệp.
Y theo lời chỉ dạy của Như Lai, tùy thuận tu tập
giáo lý ấy sẽ thành tựu sự giác ngộ, không còn bị các ma nghiệp.
Theo phương pháp này mà tu hành, quí vị sẽ thành tựu quả vị
bồ-đề ngay, không còn vướng phải ma nghiệp nào nữa.
Kinh Văn: Phật thuyết thử kinh dĩ, tỉ-khưu, tỉ-khưu-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, nhất thiết thế gian, thiên nhân a-tu-la , cập
chư tha phương bồ-tát nhị thừa, thánh tiên chủng tử, tính sơ phát tâm đại lực
quỷ thần, giai đại hoan hỉ, tác lễ nhi khứ.
Việt dịch: Khi Đức Phật nói kinh này rồi, các vị tỷ-khưu,
tỷ-khưu-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, các loài trời, người,
a-tu-la trong thế gian. Cùng các vị Bồ-tát, hàng Nhị thừa,
Thánh, Tiên, Đồng tử ở các cõi khác, cùng với loại Đại lực quỷ thần
mới phát tâm, tất cả đều hoan hỷ đảnh lễ rồi lui ra.
Giảng: Khi Đức Phật nói kinh này rồi, các vị tỷ-khưu,
tỷ-khưu-ni, ưu-bà-tắc. Ưu-bà-tắc là tiếng Phạn, nghĩa
tiếng Hán là “cận sự nam.” Có nghĩa là người cư sĩ thân cận với Đức Phật.
Ưu-bà-di, các loài trời, người, a-tu-la trong
thế gian.
Bây giờ quí vị đều đã hiểu được a-tu-la là gì rồi.
Họ rất nóng tính và rất thích đánh nhau. Một vị đệ tử của tôi nói rằng: Con chó
của ông ta là a-tu-la. Có thể chính ngay ông ta là a-tu-la cũng nên? Nhưng tôi
tin rằng sau khi quí vị đã nghe Kinh Thủ-lăng-nghiêm rồi, quí vị sẽ trở thành
Bồ-tát, không còn tập khí nóng nảy của a-tu-la nữa.
Cùng các vị Bồ-tát, hàng Nhị thừa và Duyên giác, Thánh, Tiên,
Đồng tử (Đồng tử là các vị đồng chơn nhập đạo) ở các cõi khác. Cùng
với loại Đại lực quỷ thần mới phát tâm. Tất cả đều hoan hỷ đảnh lễ
rồi lui ra.
Comments
Post a Comment