大佛頂首楞嚴經

 

ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM KINH

 

 

卷第八

 

QUYỂN ĐỆ BÁT

 

 



 

I. BA TIỆM THỨ TU HÀNH

II. 55 ĐỊA VỊ CỦA BỒ TÁT

III. DANH HIỆU CỦA KINH

IV. 7 LOẠI CHÚNG SANH

 

 

 

I. BA TIỆM THỨ TU HÀNH


 

1.  Là tu tập, trừ các thói quen ĂN UỐNG: hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu, rượu, thịt…      làm trợ nhân.

2. Là NGHIÊM TRÌ GIỚI LUẬT trong-sạch , đoạn trừ bản tánh của nghiệp là dâm, sát, đạo, vọng.

3.  Là tinh tấn tu NHĨ CĂN VIÊN THÔNG, để hiện nghiệp không sanh khởi. 

 

( Có một độ nọ, Phật-tử giúp một  vị Thượng-tọa BỨNG một gốc cây lớn. Nhân đó vị Thượng-tọa liền khai thị cho Phật-tử rằng:

 

“ Tu-hành thì phải tu ở GỐC, đừng tu theo CÀNH LÁ.”

 

Phật-tử hỏi : Sao thấy THẦY đốn các CÀNH LÁ trước, rồi mới móc GỐC sau. Vị Thượng-tọa ấy nhìn Phật-tử một hồi, rồi IM LẶNG KHÔNG NÓI. Câu Truyện đến đó rồi cũng qua đi. )

 

 

Kinh văn:

 

阿難。如是 中。亦各各具十二顚倒。猶如捏目亂華發生。

 

A-Nan! Như thị chúng-sanh nhứt nhứt  loại  trung, diệc các các cụ, thập nhị điên-đảo, du như niết-mục, loạn hoa phát sanh.

 

( A Nan, như vậy chúng sinh trong mỗi mỗi loài, cũng đều đủ cả mười hai thứ điên đảo, cũng như dụi con mắt thì các thứ hoa đốm phát sinh ra. )

 

 

Giảng giải:

 

A Nan, như vậy chúng sinh trong mỗi mỗi mười hai loài đã nói qua, cũng đều đủ cả mười hai thứ điên đảo.

 

Tôi đã nói qua về các loại điên đảo, ở mỗi loại đều có sự liên quan đến mười hai loại điên đảo khác. Sự vọng niệm và tình trạng điên đảo đều khởi từ nhận thức sai lầm, cũng như dụi con mắt thì các thứ hoa đốm phát sinh ra.

 

Nếu quý vị ấn, dụi đầu ngón tay lên mắt, quý vị sẽ thấy rất nhiều hoa đốm giả tạo chập chờn trước mắt, nếu buông ra, các hình ảnh ấy biến mất. Chỉ vì quý vị  chấp trước theo vọng niệm điên đảo nên không vượt thoát khỏi vòng luân hồi của mười hai loại chúng sinh.

 

Nếu chúng ta đừng đuổi theo vọng niệm điên đảo, mà trở lại nghe TỰ TÁNH, thì dù có TIẾNG hay KHÔNG có TIẾNG, thì TÁNH NGHE cũng không SINH DIỆT, TỊCH DIỆT HIỆN TIỀN, đây là pháp “NHĨ CĂN VIÊN THÔNG”, của Bồ-tát QUÁN THẾ ÂM, tu chứng CHƠN TÂM THƯỜNG TRỤ, là bậc nhất.

 

Vậy nên,  quý vị  sẽ phá vỡ  được vô minh, mọi hư giả đều biến mất.

 

 

TRĂNG in NƯỚC bích LÒNG THIỀN rạng,

 GIÓ LỘNG non hồng Ý ĐẠO thanh.

 

HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN TÂM

 

 

Kinh văn:

 

心。具足如斯妄亂想。

 

Điên-đảo diệu-viên, chơn-tịnh minh-tâm, cụ túc  như tư hư vọng loạn-tưởng.

 

( Chân tâm diệu viên trong sạch sáng suốt mà điên đảo thì đầy đủ những loạn tưởng giả dối như vậy. )

 


Giảng giải:

 

        Từ nhận thức sai lầm sinh ra điên đảo, làm thành vọng niệm. Trong tự tính Như Lai tạng, vô minh sinh khởi. Từ căn bản CHÂN TÁNH sinh ra sai lầm, giả tạo. Tâm thanh tịnh và trong sáng trở nên đầy dẫy những vọng tưởng không chân thật.

 

 

Kinh văn:

 

汝今修 三摩地。於是本因  所亂 想。立三漸次。方 除滅。

 

Nhữ kim tu  chứng, Phật  Tam-ma-địa, ư thị  bổn-nhân, nguyên  sở loạn-tưởng,  lập  tam  tiệm  thứ, phương đắc  trừ  diệt.   


( Nay ông tu chứng Tam ma địa của Phật, vậy đối với tư tưởng càn loạn là nguyên nhân cội gốc của  các điên đảo, nên lập ra ba tiệm thứ mới diệt trừ được. )

 

 

Giảng giải:

 

Nay ông tu chứng Tam ma địa của Phật, vậy đối với tư tưởng càn loạn là nguyên nhân cộc gốc của điên đảo, nên lập ra ba tiệm thứ.

 

Ông phải lập ra ba loại tiệm thứ và lần lượt tu tập, vậy mới diệt trừ được mọi loạn tưởng.

 

 

Kinh văn:



如淨器中  除去毒蜜。以諸湯水  灰香。洗滌其器。後貯甘露。

 

Như tịnh khí trung,  trừ khử độc-mật, dĩ  chư thang thủy, tịnh tạp khôi hương, tẩy  địch  kỳ  khí, hậu  trử  cam-lộ.       

      

 

( Cũng như bình đựng trong sạch, trừ bỏ mật độc, dùng nước nóng và các chất tro, chất thơm rửa sạch bình, sau đó mới đựng nước cam lồ. )

 

 

Giảng giải:

 

Cũng như bình đựng trong sạch, trừ bỏ mật độc, dùng nước nóng và các chất tro, chất thơm rửa sạch bình.

 

“Bình đựng trong sạch” có nghĩa là vật thể đã trở lại trong sạch, tượng trưng cho tính Như Lai Tạng, vốn có trong tất cả chúng ta, không SANH DIỆT.

 

“Mật độc” tượng trưng cho vô minh và phiền não của con người.

 

“Nước nóng” biểu hiện Phật pháp sẽ làm cho chúng ta được trong sạch.

 

“Rửa sạch” là quay trở lại tự tánh Như Lai Tạng . Sau đó mới đựng nước cam lồ.

 

NƯỚC CAM LỘ có thể TRÌ tất cả TRÍ HUỆ chân thật, giúp CHÚNG TA hướng đến đạo giác ngộ - Đây là những gì  “nước cam lồ” tượng trưng.

 

  

Kinh văn:


云何名為三 次。一者修習。除其助因。二者眞修。刳 其正性。三者增進。違其現業。

 

Vân hà danh vi, tam chủng tiệm-thứ? Nhứt giả: tu tập , trừ  kỳ   trợ-nhân. Nhị giả: chơn-tu, khóa kỳ chánh-tánh. Tam giả: tăng tiến, vi kỳ  hiện-nghiệp.



( Thế nào gọi là ba loại tiệm thứ?

 

Một là tu tập, trừ các thói quen ĂN UỐNG: hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu, rượu, thịt… làm trợ nhân.

 

Hai là chân tu GIỚI LUẬT trong-sạch , đoạn trừ bản tánh của nghiệp là dâm, sát, đạo, vọng.

 

Ba là tinh tấn tu NHĨ CĂN VIÊN THÔNG, để hiện nghiệp không sanh khởi. )

 

 

Giảng giải:

 

Thế nào gọi là ba loại tiệm thứ?

 

Một là tu tập, trừ các thói quen ĂN UỐNG: hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu, rượu, thịt… làm trợ nhân, đây là các nguyên nhân tạo nên các  ác nghiệp.

 

Hai là chân tu GIỚI LUẬT trong-sạch , đoạn trừ bản tánh của nghiệp là dâm, sát, đạo, vọng, đây là những nghiệp chướng làm cho  tham, sân, si… tăng trưởng.

 

Ba là tinh tấn tu NHĨ CĂN VIÊN THÔNG, để hiện nghiệp không sanh khởi,  qua sự tu tập của HÀNH GIẢ thì  không còn tạo thêm nghiệp mới trong cuộc sống hiện tại.

 


Kinh văn:

 

云何助因。阿難。如是世界十二類生。不能自全。依四食住。所謂段食、觸食、思食、識食。是故佛 一切眾 皆依食住。

 

Vân-hà trợ-nhân? A-Nan! Như  thị  thế-giới,  thập nhị loại sanh, bất năng tự toàn, y-tứ  thực  trụ,  sở  vị:  đoạn-thực, xúc-thực, tư-thực, thức-thực;  thị cố Phật thuyết nhứt thiết chúng-sanh, giai  y  thực  trụ. 

 

( Thế nào là trợ nhân?

 

A-Nan, đây là mười hai loại chúng sinh trong thế giới không thể tự toàn, phải nương theo bốn cách ăn mà SỐNG; nghĩa là nương theo đoạn thực, xúc thực, tư thực và thức thực.

 

Vậy nên Phật bảo tất cả chúng sinh đều nương vào cái ăn mà an trụ. )

 

 

Giảng giải:

 

Thế nào là trợ nhân? Có những trợ nhân tạo nghiệp lành, có trợ nhân tạo nghiệp ác. Ở đây, Đức Phật nói đến các trợ nhân dẫn đến nghiệp xấu.

 

A Nan, đấy là mười hai loại chúng sinh trong thế giới, như đã nói qua, không thể tự toàn, phải nương theo bốn cách ăn mà SỐNG. Mọi người đều phải ăn để sinh tồn, nghĩa là nương theo đoạn thựcchia cắt thành từng miếng, từng phần để ăn. Đấy là cách ăn của chư Thiên lục dục, A tu la, con người và súc sinh. ( Lấy tiêu hóa làm thức ăn)

 

Xúc thực - Quỷ và thần ăn theo cách XÚC chạm CĂN và CẢNH làm thức ăn, vài loại ở cõi Trời cũng dùng theo lối này. ( lấy gửi hơi, nếm vị, vui mừng...  làm thức ăn)

 

Tư thực – cách dùng tư duy thiền định làm thức ăn ( THIỀN LẠC THỰC) , đây là cách ăn của chư Thiên sắc giới.

 

Và thức thực – lấy THỨC phân biệt làm thức ăn, đây là cách ăn của chúng vô sắc và chư Thiên phi tưởng phi phi tưởng xứ.

 

Vậy nên Phật bảo tất cả chúng sinh đều nương vào cái ăn mà an trụ.

 

Sau khi Phật thành đạo,  muốn độ người tu khổ hạnh theo lối nhịn ăn , nên Ngài nói pháp:

 

“Tất cả chúng sinh phải nương theo cái ăn mà an trụ.”

 

Các ngoại đạo cười Ngài và bảo:

 

“Ngay cả Đứa bé cũng biết đều đó.”

 

Phật hỏi lại: “Vậy các ông nói coi có bao nhiêu cách ăn?”. Các ngoại đạo lặng im không đáp, nhân đó Phật nói về bốn cách ăn mà an trụ.

 


Kinh văn:

 

阿難。一切眾生。食甘故生。食毒故死。是諸眾生求三摩地。當斷世間五 菜。

 

 A - Nan! Nhứt thiết chúng-sanh, thực cam cố sanh, thực  độc  cố  tử, thị chư chúng-sanh, cầu  Tam-ma-địa, đương-đoạn thế-gian, ngũ chủng tân  thái.    

 

( A-Nan, tất cả chúng sinh, dùng thức ăn lành thì sống, dùng thức ăn độc thì chết. Vậy các chúng sinh cầu Tam-ma-địa, nên dứt bỏ năm loại rau cay trong thế gian. )

 

 

Giảng giải:

 

Bài văn này luận về giai đoạn thứ nhất, loại trừ đi trợ nhân – tức cái nhân giúp đỡ. Năm món cay nồng làm tăng thêm nghiệp xấu, vậy nên bước đầu phải loại bỏ điều này.

 

A Nan, tất cả chúng sinh, dùng thức ăn lành thì sống, ăn thức ăn độc thì chết.

 

“Tất cả chúng sinh”, bao hàm mười hai chủng loại. “Thức ăn lành” – nguyên văn “TRONG LÀNH”, chỉ thực phẩm, thức ăn không độc hại, có nhiều dinh dưỡng.

 

“Thức độc” ở đây không phải là độc dược làm chết người, mà là chỉ năm loại rau cay, loại thực phẩm không có lợi cho sức khỏe, làm giảm đi tuổi thọ, chứ không phải ăn vào là chết ngay.

 

Vậy các chúng sinh cầu Tam-ma-địa, nên dứt bỏ năm loại rau cay trong thế gian.

 

Giai đoạn đầu tiên là dứt trừ trợ nhân. Không dùng năm loại cay nồng: tỏi, hành, hẹ, kiệu, nén.

 


Kinh văn:

 

是五種辛。熟食發婬。生噉 恚。

Thị ngũ chủng tân, thục thực phát dâm, sanh đạm tăng khuể.  

 

( Năm loại rau cay này, ăn chín thì phát lòng dâm, ăn sống thì tăng thêm lòng giận. )

 

 

Giảng giải:

 

Năm loại rau cay này, ăn chín thì phát lòng dâm.

 

Ăn thịt cũng bị tác động như vậy. Đấy là lý do tại sao người tu hành không nên ăn thịt. Năm món cay kích thích làm sinh khởi lòng ham muốn, đặc biệt ở đây là chỉ sự ham muốn về dâm dục, khoái lạc.

 

Ăn sống thì tăng thêm lòng giận.

 

Cách ăn như thế làm cho con người ngốc nghếch hơn. Lý trí và tính cách bị mất đi. Một khi không còn sáng suốt thì không sao phân biệt được phải trái. Các sự việc bất ngờ xảy ra, họ không nhận rõ sự thực. Các vấn đề trở thành chướng ngại, không giải quyết được, và cách duy nhất là tức giận. Ăn thịt cũng bị tác động như vậy, dễ sinh lòng giận dữ. Ăn càng nhiều năm loại rau cay nầy, tính khí nóng giận càng tăng trưởng mạnh.

 


Kinh văn:

 

如是世界食辛之人。縱能宣 十二部經。十方天仙。嫌其臭穢。咸皆遠離。諸餓鬼 等。因彼食次。舐其唇吻。常與鬼住。福德日消。長無利益。

 

Như  thị thế-giới, thực tân chi nhân, túng năng tuyên thuyết, thập nhị bộ kinh,    thập phương Thiên Tiên, hiềm kỳ  xú-uế, hàm giai  viễn-ly. Chư ngạ-quỷ đẳng, nhân bỉ thực thứ,  để  kỳ  thần vẫn,   thường giữ quỷ-trụ, phước đức nhựt tiêu, trường vô lợi-ích.       

 

( Như vậy trong thế giới, những người ăn rau cay đó, DÙ GIẢNG NÓI ĐƯỢC 12 BỘ KINH. Thiên tiên trong mười phương cũng chê là hôi, nên đều tránh xa.

 

Các loài quỷ ĐÓI, nhân lúc người kia ăn rau cay xong, bèn liếm môi mép người đó. Người ấy thường ở với quỷ một chỗ, phước đức ngày càng giảm, hằng không được lợi ích. )

 

 

Giảng giải:

 

Như vậy trong thế giới, những người ăn rau cay đó, DÙ GIẢNG NÓI ĐƯỢC 12 BỘ KINH. Thiên tiên mười phương cũng chê là hôi, nên đều tránh xa.

 

Toàn bộ Kinh tạng của Phật giáo cộng chung có mười hai bộ:


1. Bộ Trường hàng: Giữa một bản Kinh không có ngắt đoạn cho nên gọi là Trường hàng.

2. Bộ Trùng Tụng: Lập lại ý nghĩa đã nói trong Kinh; nói lập lại văn Kinh Trường hàng để dễ ghi nhớ.

3. Bộ thọ ký: Trong Kinh điển đề cập đến việc Ðức Phật trước thọ ký cho Ðức Phật sau, ví như nói: "Ông ở kiếp nào đó sẽ được thành Phật tên là gì? Thọ mạng bao lâu? Chúng sanh giáo hóa được nhiều ít? Ở trước quốc độ nào?..." đều là dự báo trước, đó gọi là Thọ ký.

4. Bộ nhơn duyên: Do các thứ nhơn duyên mà nói các thứ pháp.

5. Bộ Thí dụ: Dùng một sự vật nào đó, tỷ dụ cho một sự vật nào đó để thuyết minh chỗ nhiệm mầu của Phật Pháp.

6. Bộ Bổn sự: Hoặc Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni tự thuật việc tiền thân, hoặc thuật lại những sự tích tiền thân của một vị Phật hay một vị Bồ tát nào đó.

7. Bộ Bổn sanh: Nói về sự tích đời này của Phật Thích Ca Mâu Ni, hoặc việc đời này của một vị Bồ tát nào đó.

8. Bộ Phương quảng: Phương là bốn phương, Quảng là rộng khắp, biểu thị pháp được nói ra rất tinh vi rộng lớn.

9. Bộ Vị tằng hữu: Những điều này là từ trước đến nay chưa từng nói ra hay bây giờ mới nói.

10. Bộ Bất vấn tự thuyết: Như Kinh A-Di-Ðà, do vì bộ Kinh này rất trọng yếu, tất cả hàng Thanh văn không thể hiểu được, cho đến các vị Bồ tát cũng chưa có thể đạt đến cảnh giới này, nhơn đó Ðức Phật tự phóng ra ánh sáng chấn động cõi nước để nói ra bộ Kinh này.

11. Bộ Cô khởi: Cũng gọi là Phúng tụng. Trong một bộ Kinh, đó là những bài kệ đứng riêng một mình, không liên quan gì đến kinh văn trước hay sau cả, hoặc nói ra riêng rẽ về đạo lý, như Kinh Kim Cang.

12. Bộ Luận nghị: Nghiên cứu luận nghị về nghĩa lý của một loại Phật pháp.

 

 

Có bài kệ về 12 bộ Kinh:

 

 

Trường-Hàng, Trùng-tụng và Thọ-ký,
Cô-khởiVô-vấn mà tự thuyết,
Nhân-duyênThí-dụ với Bổn-sự

Bổn-sanhPhương-quảngVị-tằng-hữu

Luận-nghị cộng thành mười hai bộ.

 

 

 

Kinh Phật Thuyết A Di Ðà

 

Hán Văn: Dao Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập.

Giảng giải: Vạn Phật Thánh Thành, Tuyên Hóa Thượng Nhân.

 

 

 

Đây là nói về những người ăn rau cay, hoặc uống rượu, ăn thịt. Nói khác đi, chư Thiên Tiên sẽ không hộ vệ người ăn uống như vậy. Thân thể họ sẽ bốc mùi các thức ăn thịt bò, hành, tỏi; nách tiết ra mùi hôi khiến không ai dám đến gần họ.

 

Có một số người giảng nói được mười hai bộ kinh như là một bậc Đại trí huệ, nhưng nếu họ dùng thức ăn không trong sạch, thì lắng nghe họ chỉ có bọn quỷ, còn chư Thiên Tiên thì tránh xa.

 

Các loài Quỷ đói và rất nhiều loại sinh vật không có gì để ăn, nhân lúc người kia ăn rau cay xong – tức năm loại rau cay, bèn liếm môi mép người đó.

 

Sau khi người đó ăn xong các thức ăn nặng mùi, mùi vị tăng nồng ấy kích thích các quỷ tiến tới, bọn chúng sẽ ngửi và thưởng thức năm vị nồng của rau cay.  Quỷ ăn bằng cách xúc chạm giữa CĂN và CẢNH làm thức ăn , như chúng ta đã học qua, chúng sẽ chụm lại quanh người dùng thức ăn bất tịnh và dùng tay sờ soạng vào người ấy.

 

Quý vị không nhìn thấy, nhưng thực sự là chúng hành động như vậy.

 

Người ấy thường ở với quỷ một chỗ, phúc đức ngày càng giảm, hằng không được lợi ích.

 

 Rất rõ ràng và đơn giản, đoạn này xác định người ăn năm loại rau cay, cuối cùng cũng họp chung với quỷ. Quỷ thường xuyên bám theo, mặc dù mọi người không để ý tới sự thực ấy. Phước đức cũng vì vậy mà giảm đi nhiều.

 


Kinh văn:

 

是食辛人修三摩地。菩薩天仙。十   神。不來守護。大力魔

得其方便。現作佛身。來為法。非毀禁戒。讚婬怒癡。

 

Thị  thực  tân  nhân, tu Tam-ma-địa, Bồ-Tát Thiên-Tiên, thập phương Thiện-Thần, bất lai thủ hộ, đại-lực ma-vương, đắc kỳ phương-tiện, hiện tác Phật thân, lai vi thuyết-pháp, phi hủy cấm giới, tán dâm nộ si.      

 

( Người ăn rau cay đó tu pháp Tam-ma-địa, các vị Bồ-tát, Thiên,  Tiên, mười phương Thiện thần chẳng đến bảo hộ. Đại lực Ma Vương được phương tiện đó, hiện làm thân Phật, đến thuyết pháp cho người ấy, chê phá giới cấm, ngợi khen dâm dục, nóng giận, si mê. )

 

 

Giảng giải:

 

Người ăn rau cay đó tu pháp Tam-ma-địa, Bồ-tát, Thiên, Tiên, mười phương Thiện thần, chẳng đến bảo hộ.

 

Đoạn này ám chỉ người nào? Đấy là những người dùng năm loại rau cay – Người đó có thể là quý vị là tôi. Tại sao Hộ pháp và Thiện thần lại không bảo vệ những người như thế?

 

Đây là vì họ có mùi hôi khó chịu. Các Hộ pháp ưa thích trong sạch, họ tránh mùi hôi nên không đến hộ vệ những người TU HÀNH như thế. Tuy nhiên, các  vị thần Hộ pháp là rất cần thiết cho người tu TAM MA ĐỊA, nơi các vị ấy trú ngụ thì không có ma quỷ, nơi không có Hộ pháp thì ma quỷ được nhiều thuận lợi. Hộ pháp và Thiện thần CÔNG VIỆC là bảo vệ và gia hộ người tu hành, nhưng trong trường hợp này họ không đến giúp.

 

Đại lực Ma Vương được phương tiện đó, hiện làm thân Phật, đến thuyết pháp cho người ấy.

 

Khi thấy không có Hộ pháp, Đại lực Ma Vương sẽ hiện đến nhóm họp cùng người ấy. Đại lực của Ma Vương như thế nào? Đó là họ có thể hiện ra thân Phật! Tôi có lời khuyên, nếu sau này quý vị đạt được Phật nhãn, quý vị sẽ thấy Phật, hoặc Bồ tát, hoặc Thiện thần hiện đến.

 

Nếu các vị đó là thật, thì ánh sáng của họ rất thanh tịnh và mát lạnh, khi ánh sáng ấy chạm vào người, quý vị sẽ cảm thấy rất thư thái, dễ chịu mà không sao diễn tả được – Đấy là bậc Thánh chân thật.

 

Còn như với Quỷ, chúng chỉ tỏa ra sức nóng. Tuy nhiên, phải cần có trí huệ mới phân biệt được sự khác biệt ấy. Dĩ nhiên, sức nóng ấy không phải nóng như lửa, mà đấy là hơi nóng của ánh sáng Quỷ, trong khi ánh sáng Phật không như vậy.

 

Một cách phân biệt nữa là lời pháp của Phật và Quỷ. Đại lực Ma Vương sẽ hiện đến chê phá giới cấm, ngợi khen dâm dục, nóng giận, si mê. Chúng sẽ nói:

 

Đừng giữ giới, đó chỉ là hạnh của Tiểu thừa. Những giới cấm của Đại thừa như tà dâm, sát sinh, trộm cắp, chẳng là gì cả. Nếu các người sát sinh cũng chẳng phá giới gì, cả trộm cắp, tà dâm cũng vậy. Đừng vướng mắc vào điều nhỏ nhặt ấy. Đừng phân biệt tốt xấu. Phá giới không hại gì”.

 

Khi chưa thọ giới, quý vị có làm điều gì cũng không kể là phạm giới. Nhưng một khi đã thọ giới, chẳng hạn, giới cấm sát sinh, nếu chúng ta có hành động sát sinh, tất nhiên là phạm giới rồi. Tại sao? Vì quý vị biết rõ hành động đó là sai lầm nhưng vẫn phạm phải. Nếu biết giới cấm trộm cắp, nhưng lại đi trộm cắp – vậy là phá giới.

 

Quý vị có tà dâm trước khi thọ giới, cũng không xem là phá giới – đây là hành vi PHẠM TỘI NHƯ CHƯA PHÁ GIỚI, VÌ CHƯA THỌ GIỚI. Nhưng khi quý vị đã THỌ GIỚI thì hành vi đó là phạm giới. Hành vi nói dối cũng như vậy.

 

Nhìn chung, tất cả những gì nếu quý vị biết, thì nói là biết, và nếu không biết, thì nói là không biết. Quý vị không thể nói không biết khi mình biết, hoặc nói biết điều mình không biết. Quý vị không thể nói quanh co này nọ. Cái tâm thẳng thắn chính là đạo tràng vậy.( TRỰC TÂM LÀ ĐẠO TRÀNG )

 

 

Có vài người sẽ nghĩ: Vâng, vậy nếu tôi không THỌ GIỚI thì tôi không phạm giới, đúng không? Đúng vậy, vì Qúy-vị chưa thọ giới, nhưng PHẠM TỘI cho những HÀNH VI đã làm.

 

Cho nên, quý vị đã biết THỌ GIỚI nên làm, nếu như không thọ giới thì việc tu học của quý vị sẽ không thể tăng tiến được, cho dù có học Phật đạo cả đời cũng vậy. Do đó, biết thọ giới là điều tốt, chúng ta nên thọ giới và giữ GIỚI LUẬT  cho thật cẩn thận.

 

Đối với Ma vương, bọn chúng chỉ ra sức HỦY BÁNG  giới cấm, ngăn trở quý vị thọ giới. Chúng tán dương sự dâm dục. “Đó là đại sự”, chúng nói: “Càng dâm,  thì QỦA VỊ BỒ-TÁT của qúy vị càng cao. Chẳng hạn như Ucchushma,  mỗi ngày phải có từ hai trăm đến ba trăm phụ nữ, nhưng sau đó tu tập cũng trở thành Hỏa đầu Kim Cang.

 

Vậy là thế nào?”. Thực ra, ngay khi Ma vương lên tiếng khen ngợi sự dâm dục thì quý vị biết đó không phải là Phật chân chính rồi. Sự giả dối, lừa đảo, là hành vi si mê điên đảo. Phần trước chúng ta đã bàn qua.

 

Nhân trong thế giới có ngu độn luân hồi, điên đảo về si nên hòa hợp với ngoan, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng khô cảo.

 

Và các LOẠI vô tưởng ấy hóa làm đất, cây, vàng, đá. Dĩ nhiên, không phải chúng vô tưởng nào cũng hóa ra như vậy – điều đó chỉ thỉnh thoảng xảy ra trong thời kỳ, giai đoạn nào đó. Ở đây, Ma vương khen ngợi sự hư giả, dối trá, chúng cho rằng ngu si là điều tốt, có như vậy chúng mới dễ dàng sai khiến. Khi quý vị tin tưởng chúng tất sẽ trở thành quyến thuộc của bọn ma quỷ ấy.

 

Gần đây, ở Ấn Độ xuất hiện cuốn sách đề cao pháp tu mật trong quan hệ nam nữ. Đây là sách của quỷ viết ra. Bọn chúng tán dương sự hành dâm và không muốn con người từ bỏ điều ấy. CHÚNG BẢO HÀNH DÂM SẼ ĐƯỢC THÀNH PHẬT. Thế nhưng Phật là thanh tịnh, là trong sạch, không tạp nhiễm những hỗn loạn, nhơ bợn.

 

Trong ngôn ngữ Trung Quốc, chữ “Hôn” trong kết hôn, gồm chữ nữ () ghép với chữ hôn (), có nghĩa là hỗn loạn, hôn ám. Như vậy, từ kết hôn cũng đã hàm ý sự đánh mất trí huệ. Đời sống con người như tiêu phí trong đêm, trong bóng tối và bất tịnh. Điều đó cũng như ngủ ngày, khi ngủ thì hầu như quên hết mọi sự. Đấy là si, là mê, và từ kết hôn trong tiếng Trung có ý nghĩa biểu tượng như vậy.

 

Tuy nhiên, khi tôi nói về kết hôn, không phải mọi trường hợp đều như vậy. Quý vị phải nhìn vấn đề linh động hơn, không thể cứ chết cứng theo quan điểm của mình. Mặc dù tôi nói kết hôn là sự phức tạp, rối rắm, thì quý vị phải cố gắng hiểu rõ sự phiền tạp ấy. Quý vị có thể dấn vào mọi sự phiền tạp, nhưng đừng để bị quay cuồng trong việc hỗn độn ấy. Đức Thích Ca Mâu Ni kết hôn, nhưng Ngài vẫn sáng suốt hơn người. (ĐÂY LÀ THỊ HIỆN CÓ VỢ CON, CŨNG NHƯNG NHÀ ẢO SƯ, VÌ AI THÀNH PHẬT, ĐỀU LÀ VỊ BỒ TÁT NHẤT SANH BỔ XỨ, NHƯ DI LẶC BỒ TÁT VẬY, KHÔNG CÒN CÓ TÁNH DÂM DỤC.)

 

 

Khi quý vị nghe nói người ăn năm loại rau cay sẽ có quỷ đến hôn lên môi miệng người đó, quý vị có cảnh giác không? Nếu không sợ hãi, các vị sẽ thấy điều đó chẳng là gì cả. Còn như xem đấy là lời nhắc nhở cảnh tỉnh, hãy dừng ăn năm loại rau ấy. Nếu không dùng, Thiện thần sẽ gia hộ quý vị, còn bọn quỷ thần thì lánh xa. Nếu quý vị kết hôn và luôn cảnh giác, luôn thức tỉnh, quý vị sẽ không sa vào những mê mời hỗn loạn và phức tạp. Quý vị cũng đừng hiểu lầm rằng tôi, phản đối sự kết hôn của mọi người – Không phải vậy. Ở đây, tôi chỉ nói qua vài điểm cơ bản trong vấn đề kết hôn mà thôi.

 


Kinh văn:

 

自為魔王    屬。受魔 盡。墮無間獄。

 

Mạng-chung tự  vi Ma-vương quyến-thuộc, thọ ma-phước tận,        đọa  Vô-gián ngục.    

 

( Đến khi mệnh chung, tự người ấy làm quyến thuộc của Ma vương, khi hưởng thụ phúc Ma đã hết, thì đọa địa ngục vô gián. )

 

 

Giảng giải:

 

Đến khi mệnh chung, tự người ấy làm quyến thuộc của Ma vương.

 

Đây là nói đến người ăn năm loại rau cay. Bởi vì ăn như thế, các Thiện thần, Bồ tát sẽ không ủng hộ họ. Do đó, các Ma vương có thế lực sẽ tiến đến bên họ. Ma vương biến làm thân Phật và nói pháp của quỷ, ngợi khen dâm dục, tức giận và ngu si.

 

Sự hỗn loạn của quỷ làm con người đánh mất đi trí tuệ chân chính, thay vào đó là tà kiến, tà đạo. Ma vương bảo dâm là điều tốt, hãy tin như vậy:

 

“Phật đã nói với tôi như thế! Ngài bảo chẳng hề gì đâu!”. Cái đó gọi là NHẬN kẽ cướp  làm con . Đấy là nhận Ma vương thành ra Đức Phật. Vậy nên: “Khi mệnh chung, họ sẽ trở thành quyến thuộc của Ma vương”. Khi phúc báo thế gian đã hết, họ chết đi và ngoan ngoãn theo bọn ma.

 

Khi hưởng thụ phúc Ma đã hết, thì đọa địa ngục vô gián. Quỷ ma cũng có cái phúc riêng của chúng. 


Có người tu niệm danh hiệu Phật A Di Đà, nhưng người này đặc biệt rất ham thích vàng bạc. Anh ta niệm danh hiệu Phật chỉ vì nghe nói nơi Tịnh độ, đất toàn bằng vàng, y hình dung khi được ở nơi đó, mình sẽ có vô số vàng. Ngày nọ, anh ta thấy Phật A Di Đà đến, bảo: “Hôm nay ngươi vãng sinh Cực lạc, hãy lấy vàng, bạc của ngươi mang theo”. Vì vậy, anh ta đặt bốn trăm đến năm trăm lạng vàng lên tòa sen của  đức Phật A Di Đà đang cầm. Nhưng trước khi anh ta có cơ hội lên tòa sen, thì tất cả đều biến mất – “Ồ!”. Người đó nghĩ: “Thì ra Phật Di Đà cũng ham tiền. Ông ấy lấy hết vàng của mình rồi!”.


Trong khi đó, trong gia đình anh ta có một con lừa mới sinh ra đã chết. Mọi người thấy bụng con lừa căng cứng và nặng, khi mổ ra xem thì lạ thay! Vàng, bạc từ bụng con lừa đổ ra. Đến lúc ấy mới biết rõ  lòng tham của mình nặng thế nào, và anh ta vui mừng vì chưa đi theo  Phật A Di Đà, vì nếu anh ta đi, thì đã biến thành con lừa nhỏ đó rồi. Hẳn nhiên, anh ta biết hình ảnh Phật A Di Đà kia hiện đến không phải là Phật thật.


Nhiều chuyện lạ như thế, vậy Phật Di Đà có thật không? Hẳn nhiên là có thật rồi. Nhưng vì tri kiến con người lệch lạc nên không phân biệt được đâu là thực, đâu là giả. Trong trường hợp đó chúng ta phải làm thế nào? Phải hết sức cẩn thận đừng tham lam. Bất cứ ai có tư tưởng vãng sinh Cực lạc để có được vàng sẽ chẳng được gì hết. Mặc dù đất Tịnh độ toàn vàng ròng, quí vị cũng chẳng sở hữu cho riêng mình được tí gì. Tu hành là buông bỏ mọi ý tưởng sở hữu.


Đoạn Kinh văn này nói về người ăn năm loại rau cay, tri kiến lệch lạc, sa vào tà kiến, đầu tiên họ trở thành quyến thuộc của Ma vương, sau đó thì đi vào địa ngục. Đoạn lại đi dâu nữa? Không ai biết được.

 


Kinh văn:

 

阿難。修菩提者永 斷五辛。是則名為第一增進修行漸次。

 

A - Nan! Tu Bồ - đề  giả, vĩnh đoạn ngũ tân, thị tắc danh vi đệ nhứt tinh-tấn, tu-hành tiệm-thứ.

 

( A Nan, người tu đạo Bồ đề phải đoạn hẳn năm loại rau cay, đấy gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ nhất.)

 

 

Giảng giải:

 

A Nan, ông nghe đấy chứ? Người tu đạo Bồ đề bất cứ người nào theo đạo Bồ đề - phải đoạn hẳn năm loại rau cay. Quý vị phải quyết định dứt khoát không dùng tỏi, hành, hẹ, kiệu, nén. Nếu cứ ăn các thứ ấy, cuối cùng quý vị sẽ cùng Ma vương ở cùng một nơi, còn tránh đi, tất sẽ cùng chư Phật hội tụ một chỗ.

 

Đấy gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ nhất. Bước tăng tiến thứ nhất trong việc tu hành. Trong tu tập, phải dứt bỏ mọi căn nguyên sinh ra nghiệp ác. Năm loại rau cay là trợ lực cho các Ma vương. Quý vị đừng coi thường, ngũ tân sẽ khiến quý vị mê mờ, hỗn loạn, nó làm chúng ta thành bất tịnh, sự bất tịnh đó càng làm Ma vương thêm thích thú.

 

 

Kinh văn:

 

云何正性。阿難。如是眾生入三摩地。要先嚴持清淨戒律。

 

Vân-hà chánh tánh? A-Nan! Như thị chúng sanh, nhập Tam-ma-địa, yếu tiên nghiêm trì thanh-tịnh giới-luật.  


 

( Thế nào là tánh của nghiệp ?

 

A Nan, chúng sinh muốn nhập vào Tam-ma-địa, chủ yếu trước tiên là phải nghiêm trì giới luật cho thật thanh tịnh.)

 

 

Giảng giải:

 

Giai đoạn tiệm thứ đầu tiên là dứt trừ trợ nhân, chẳng hạn như thích ĂN UỐNG: hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu, rượu, thịt…. Giai đoạn thứ hai là tánh của nghiệp. 


Thế nào là tánh của nghiệp ? A Nan, chúng sinh muốn nhập vào Tam-ma-địa, chủ yếu trước tiên là phải nghiêm trì giới luật cho thật thanh tịnh. 


“Tánh của nghiệp” tức là do NGHIỆP THỨC PHÂN BIỆT sanh khởi . Khi nghiêm trì giới luật, thì chuyển THỨC  thành TRÍ . “Chủ yếu” là phải bền lâu, lấy giới luật làm THẦY để tu hành.


Bất cứ điều gì quý vị đã làm trước khi thọ giới đều không kể là phạm giới, vì quý vị chưa thọ giới, nhưng PHẠM TỘI cho việc làm của mình. Chưa thọ giới thì không phải là phạm giới. Nhưng một khi mình đã thọ giới rồi thì dứt khoát không bao giờ cố ý sai phạm. 


Trước khi thọ giới, quý vị có thể thích LÀM những gì theo Ý MÌNH, nhưng khi đã thọ giới thì chúng ta không nên phạm phải những sai lầm như trước đó.




Kinh văn:

 

永斷婬心。不餐酒肉。以火淨食。無噉生氣。阿難。是修行人。若 及與殺生。出三界者。無有是處。

 

Vĩnh-đoạn dâm-tâm, bất xan tửu-nhục, dĩ hỏa tịnh thực, vô đạm sanh khí. A-Nan! Thị tu-hành nhân, nhược bất đoạn dâm cập dữ sát-sanh, xuất tam-giới giả, vô  hữu  thị  xứ.      

 

( Đoạn hẳn TÂM dâm, chẳng dùng rượu thịt, chỉ ăn thức ăn trong sạch nấu chín, không ăn đồ sống. A-Nan, người tu hành đó, nếu không đoạn DÂM dục và SÁT sinh mà ra khỏi được ba cõi thì không thể nào có lẽ như vậy. )

 


Giảng giải:

 

Đoạn hẳn TÂM dâm.

 

Qúy-vị  phải đoạn trừ những Ý-NGHĨ dâm dục trong tâm.  “TÂM dâm” là yêu thích và ham muốn các điều sai quấy, nó xuất phát từ vô minh. Lòng yêu thương KHÔNG bắt nguồn từ vô minh là loại tình cảm như của người chồng, người vợ, hoặc người con... – đây là tình cảm xuất phát từ BỔN PHẬN trong NHÂN LUÂN  muốn người khác được vui vẻ, hoàn toàn không có tính ích kỷ, vui theo THAM DỤC.

 

Họ phải chẳng dùng rượu thịt.

 

Họ chỉ dùng các thức chay trong sạch. Cái hại của RƯỢU, THỊT là gì? Rượu và các chất cồn thường làm tâm tính hỗn loạn. Khi dùng chất cồn, quý vị sẽ không tập trung tinh thần được, nhất là khi chúng ta ưa thích uống thức này.

 

Trước đây, tôi có kể qua câu chuyện một người dùng chất say mà phạm các giới. Một người nếu không uống rượu, tâm trí anh ta sẽ không hỗn loạn, không có những hành động điên đảo. Một lý do khác nữa là mùi rượu, cồn, có tính hấp dẫn người, quỷ, nhưng các Bồ tát, Thiện thần đều lánh xa. Họ không thích mùi hăng nồng như thế. Bồ-tát và các A-la-hán xem mùi rượu cũng như chúng ta đối với mùi nước tiểu vậy.

 

Đối với họ đó là mùi hôi hám rất khó chịu. Con người không thích gần gũi nhà vệ sinh, hầm phân, cống, rãnh, thế nhưng họ lại dành nhiều thời gian thưởng thức các món ăn rất hôi hám, khó chịu. Hơn nữa, rượu và thịt rất kích dục. Người tu hành chắc chắn sẽ lánh xa các thức ăn uống ấy.

 

Họ chỉ ăn thức ăn trong sạch nấu chín, không ăn đồ sống.

 

Các thức ăn phải được nấu chín, ngay cả rau cải cũng phải vậy, vì ăn rau sống dễ sinh lòng nóng giận.

 

A Nan, người tu hành đó, nếu không đoạn dâm dục và sát sinh mà ra khỏi được ba cõi thì không thể nào có lẽ như vậy.

 

Dâm dục” ở đây là nói người XUẤT-GIA, còn người TẠI-GIA thì gọi là  TÀ-DÂM, là tư tưởng bất chính đối với người học Phật. Còn lại nghĩ, DÂM-DỤC cũng có thể trở thành PHẬT, là người PHÁ KIẾN, khó mong được SÁM HỐI.

 



ẨN TU NGẪU VỊNH


HÒA THƯỢNG TÔN SƯ

Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư  Thích Thiền-Tâm, hiệu Vô-Nhất.



54.-Ẩn tu chẳng ngại hung yêu ma

Vì để biệt phân chánh với tà

Chỉ sợ cửa không hàng phá Kiến

Dắt người lầm lạc khó nhìn ra.

 

 NHƯ Ý : Phá-kiến là phá hư Chánh-kiến, làm mất sự thấy hiểu chân chánh của Mình và Người. Hạng yêu Tà cho đến Danh lợi, phá Giới không đáng ngại vì dễ nhận biết, dù cho Khéo dấu cũng lần lượt bị lộ Hình.

 

Vậy sự việc PHÁ KIẾN là như thế nào?

 

Chẳng hạn như kẽ nói lý KHÔNG, bác sự Ăn chay, Sám hối, niệm Phật, tụng Kinh, cho là phương tiện để độ hàng thấp kém, chỉ có giữ tâm KHÔNG KHÔNG mới thật là CAO SIÊU, mau được Giác ngộ, nhưng cái không của họ kết cuộc chỉ là cái không rỗng tuếch, là NGOAN không chứ chẳng phải là CHÂN không.

 

 Ví dụ như họ bảo ĐỊA là Tâm-địa, TẠNG là Tánh-tạng, chứ thực ra không có ĐỨC ĐỊA TẠNG, Tâm tham, sân, si, phiền não là Địa-ngục, chứ không có CÕI ĐỊA NGỤC nào khác, những người này thường là kẻ ở trong cửa Thiền, nói Lý Thiền, nhưng hiểu sai lầm rồi dẫn dắt không biết bao nhiêu người lầm lạc theo mình, lại tự cho là cao siêu.

 

Các bậc tu Thiền chân Chánh thấy thế rất đau lòng, buồn cho Phật Pháp, trong bài Chứng Đạo Ca, Vĩnh gia Huyền-Giác Thiền Sư có đề cập đến điều này qua mấy câu:

 

Nói rỗng không bác nhân quả,

Tràng Tràng đầy dẫy mang ương họa.

 

 Nguyên tác,

 

“Hoát đạt không, bát nhân quả,

Mảng mảng đãng đãng chiêu ương họa.”

 

Có một vị bài bác việc Niệm Danh Hiệu Đức Bồ Tát Quán-Thế-Âm, thuộc phẩm PHỔ MÔN trong Kinh Pháp Hoa bảo:

 

Nói niệm Quán Thế Âm dứt trừ Tham Sân Si là không đúng, vì Tham Sân Si từ nơi TÂM SINH KHỞI, nếu chẳng dứt cái gốc của nó ở nơi tâm thì làm sao diệt trừ được. Cho nên, có nhiều bà niệm QUÁN ÂM mà vẫn đổ PHIỀN NÃO.

 

 Xin đáp:  Nói về LÝ niệm QUÁN ÂM mà chưa dứt được TAM ĐỘC là bởi sức TÍN Niệm và dụng Công không Triệt để, ví như nhà tu Thiền tuy biết Tam độc phát từ tâm, mà sự nhiếp TÂM dứt trừ chưa cùng cực, thì Lữa Tham Sân Si vẫn còn kẽ hở để phát khởi Bừng Cháy, huống chi là những Bà Quê Mùa không biết đạo lý đó.

 Nếu nói về SỰ thì HỒNG DANH của Phật, Bồ tát có Vô-Lượng Công-Đức, kẽ niệm QUÁN ÂM tuy chưa hiểu đạo lý trên, nhưng nếu thường xuyên xưng Niệm thì Phiền não sẽ  giảm nhẹ dần, Tâm trí cũng lần sáng suốt khai ngộ rồi đi đến sự Nhiếp-Tâm dức trừ hẳn, cái lỗi của vị TU SĨ bài bác đó, đáng lẽ khi thấy hàng Phật tử đã thực hành được SỰ niệm, thì nói thêm phần LÝ để cho họ được mau tăng tiến, trái lại phủ nhận hẳn không cho NIỆM, Bảo phải nhiếp tâm tham Thiền mới có hiệu quả, đó là chấp Lý bỏ Sự, là lỗi Phá-kiến do niệm Phân-biệt môn phái.

Lại có tội hủy báng Kinh điển và Phật Bồ tát, lại có một Phật-tử trần thuật mình có đứa con yêu quý, trong lúc nó ĐAU NẶNG, Cha Mẹ tha thiết Chí Thành Niệm Danh Hiệu QUÁN THẾ ÂM, Cầu cho con An-Lành,  song Rốt cuộc đứa con vẫn CHẾT, từ đó cả hai vợ chồng nghe theo lời ông thầy Khuyên Bảo chỉ riêng lo tham Thiền, không còn tin tưởng nơi sự Tụng Kinh, Niệm Phật cùng danh hiệu Bồ-Tát nữa, thấy Phật-tử đó vì thương con, vì lầm nhận lời THẦY là đúng. Sanh niệm Cố chấp khó giải Tỏa, bút Giả không muốn nói nhiều, nhưng xin thuật lại một câu chuyện có thật, để khuyên những vị có trường hợp tương tự như trên.

 

Cách đây hơn 30 năm, nhân dịp xem một Nguyệt San Phật Giáo, dường như là tập VIÊN ÂM, bút Giả còn nhớ có một vị Phật-tử tự trần thuật lại việc mình đại khái như sau :

 

Do cơn SẢN  nặng bị mệt lã,  kể chắc khó sống, Bà Chí thành thầm niệm QUÁN ÂM, trong cơn mơ màng Bà thấy một vị đội mão mặc áo toàn trắng, đẹp như TIÊN NGA, bưng chậu LAN đi đến, NGỬI được mùi hương Thanh nhẹ của Hoa lan, Bà khỏe lần.

Kế đó, vị Nữ bưng ly nước bảo uống bà Thưa:  Vì con mới sanh Bác-sĩ Hoàng Mộng Lương không cho uống nước lã,  vị ấy bảo cứ uống rồi  sẽ LÀNH BỆNH, sau khi uống ly nước, bà cảm thấy như tăng thêm sức lực, tinh thần sáng tỉnh, liền Giật mình thức dậy biết Chắc đó là đức QUÁN THẾ ÂM, nhưng đứa con mới sanh cũng đang đau, Bà lại Niệm Danh Hiệu Bồ-tát, Cầu cho nó mau mạnh khỏe, lần này cũng thấy vị Nữ đến không nói chi cả, bồng đứa bé quay mình bước đi, nghe một tiếng con nít khóc thét lên, Bà tỉnh giấc xem lại thì đứa con ĐÃ CHẾT.

Sau khi ra nhà Bảo-sanh, bà đến Chùa hỏi Nguyên-nhân tại sao niệm Bồ-tát không Linh, vị sư Cụ là Viện Chủ đáp:  Chẳng phải không Linh Ứng vì nếu thế thì tại sao lần trước bà Niệm Bồ-Tát lại cứu cho MAU lành bệnh, nên biết chư Phật Bồ-tát đối với chúng sanh như CHA MẸ,  thương nghĩ lo sự an toàn cho con, điều nào con muốn nếu xét thấy được thì CHO, như thấy có hại tất không hứa KHẢ.

Có lẽ đứa bé đó là OAN GIA TRÁI CHỦ của bà đầu thai vào để BÁO OÁN. Bồ-Tát muốn cứu độ cho Bà khỏi khổ về sau,  nên mới bắt đi. Đây là một truyện nói về PHÁ KIẾN, lời nói của vị SƯ CỤ là đúng, lời ông THẦY Vợ Chồng Phật-tử kia là sai lầm, những khía cạnh về lỗi phá kiến rất nhiều, không thể kể hết ra đây được.



Kinh văn:

 

欲。猶如毒蛇。如見 賊。先持聲聞四棄八棄。執身不動。後行菩薩 清淨律 儀。執心不起。

 

Đương quán dâm-dục, do như  độc-xà, như kiến oán-tặc, tiên trì Thanh văn, tứ  khí  bát  khí, chấp thân bất động, hậu hành Bồ-Tát, thanh-tịnh luật nghi, chấp tâm bất khởi.      

 

( Nếu xem sự dâm dục như là rắn độc, như thấy giặc thù. Trước hết phải giữ Tứ khí, bát khí của giới luật Thanh Văn, nắm giữ THÂN không để lay động; sau đó hành trì luật nghi thanh tịnh Bồ tát, nắm giữ TÂM không vọng khởi. )



Giảng giải:



Nếu xem sự dâm dục như là rắn độc, như thấy giặc thù.


Hết sức chú ý điều này: Sự dâm dục như loài rắn độc. Nếu để nó cắn tất sẽ mất mạng. Hãy xem dâm dục là điều rất nguy hại, không thể coi thường được. Ngay cả ý nghĩ về dâm cũng không được vọng khởi. Tại sao? Bởi vì trí tưởng tượng có sức mạnh như hổ, sói vậy. Đừng thân cận với loài thú ấy, nếu không muốn mất mạng. Hoặc hãy xem những ý nghĩ ấy như giặc loạn, như tên trộm nguy hại đến tính mạng.

 

Trước hết phải giữ Tứ khí, bát khí của giới luật Thanh Văn, nắm giữ thân không để lay động.

 

Quý vị phải giữ 4 trọng giới là tránh  tà dâm, sát sinh, trộm cướp, nói dối.  


Rồi giữ giới Thanh Văn của Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni cũng  như vậy, để nắm giữ thân không lay động. Nhưng ở Tỳ kheo giữ Tứ khí là DÂM, SÁT, ĐẠO, VỌNGcòn Tỳ kheo Ni giữ bát khí, có thêm bốn giới:  XÚC chạm thân đàn ông , NHẬP vào phòng đàn ông nói chuyện hẹn hò, PHÚ là che giấu tội lỗi của bạn đồng tu, TÙY là theo giúp người phạm giới bị đuổi; giữ nghiêm các giới như vậy để tránh tạo thêm nghiệp.

 

Sau đó hành trì luật nghi thanh tịnh Bồ tát, nắm giữ tâm không vọng khởi. Kế đến quý vị tu học giới luật Bồ tát, thọ trì 10 giới trọng và 48 giới khinh, giữ giới cho được thanh tịnh để tâm không khởi vọng tưởng – đấy là đạo pháp quý vị phải tu tập thành tựu.



Kinh văn:

 

禁戒成就。則於世間永無相 相殺之業。劫不行。無相負累。亦於世間不還宿債。

 

Cấm giới thành tựu, tắc ư thế  gian vĩnh vô tương sanh, tương sát chi nghiệp,  thâu kiếp bất hành, vô tương phụ lụy, diệc ư  thế-gian  bất hoàn túc-trái. 

 

( Cấm giới đã thành tựu, thì ở trong thế gian hẳn không còn những nghiệp sinh nhau, giết nhau. Đã không làm việc trộm cướp thì không còn phải nợ nhau, và cũng không phải trả nợ kiếp trước trong thế gian.)

 

 

Giảng giải:

 

Cấm giới đã thành tựu.

 

“Cấm” bao hàm sự giữ gìn, bảo vệ.

 

“Giới” là ngăn chặn những sự sai trái. Giới chia làm bốn phương diện:

 

1. KHAI là cho làm

2. GÍA ngăn cấm

3. TRÌ là gìn giữ

4. PHẠM là vi-phạm

 

Có khi phải “KHAI” để tránh không bị phạm giới, cho dù không muốn cũng không được. Cũng như nói THẬT, thì chúng sanh phải mất mạng. Cho nên, nói dói vì cứu chúng sinh nên không phạm giới.

 

“GÍA” bao hàm sự ngăn cấm. Người được tôn trọng là vì họ giữ gìn giới hạnh, chẳng hạn như không dùng chất say để tránh phạm giới.

 

“TRÌ” là nghiêm giữ giới đã thọ.

 

“PHẠM” là phá giới.

 

Có câu chuyện liên quan về giới như sau:

 

Khi Đức Thích Ca Mâu Ni còn tại thế gian, có hai vị Tỳ kheo tu hành trong núi. Ngày nọ một trong hai Tỳ kheo đi xuống núi vào làng khất thực, còn vị Tỳ kheo kia ở lại tìm nơi để ngủ. Thời bấy giờ tại Ấn Độ, các Tỳ kheo rất đơn giản, họ chỉ khoác áo vào mình tấm choàng, không mặc y phục bên trong. Vị Tỳ kheo này tháo tấm choàng ra và ngủ. Có thể ông ta lười, hoặc nghĩ chốn núi rừng sẽ không ai nhìn thấy, bèn quyết định chợp mắt một lúc. 


Vừa lúc ấy, có một người đàn bà đi ngang qua thấy ông Tăng đang ngủ, bà ta liền khởi Tâm dâm sờ mó thân thể, làm đánh thức vị Tăng này, nên vội vã bỏ chạy. Vì Tỳ kheo vào làng đi trở về, thấy người đàn bà đang chạy nhanh, ông tìm cách hỏi thăm và biết người đàn bà ấy đã sờ mó vị Tăng kia; Ông bèn quyết định đuổi theo để đưa bà ta đến trước Phật trình bày rõ sự việc. Khi ông theo sau, người đàn bà kia vội vã đã vấp phải tảng đá, ngã xuống núi chết.


Như vậy, một người phạm phải giới dâm, còn người kia phạm tội sát sinh. Mặc dù ông Tăng không xô đẩy người kia, nhưng nếu ông ta không đuổi theo thì bà ấy đâu có ngã chết như thế.


Hai vị Tỳ kheo trở về với Phật, thưa chuyện phạm giới của mình. Phật bảo họ đến Đại đức ƯU-BA-LY. Đại đức nghe họ thuật xong, Ngài phán một người phạm giới dâm, người kia phạm giới sát sinh, sự phạm giới ấy không thể SÁM HỐI được. Ngài bảo: “Sau này cả hai sẽ phải  ĐỌA xuống địa ngục”.


Nghe qua, hai ông Tăng khóc nức nở, và họ đi khắp nơi để tìm người cứu giúp. Cả hai tìm gặp cư sĩ Duy Ma Cật, cư sĩ hỏi tại sao khóc. Khi nghe hai người thuật lại mọi chuyện, cư sĩ tuyên bố họ tuy PHẠM TỘI, nhưng TÂM TÁNH chưa phạm giới. “Nếu hai ông SÁM HỐI”, cư sĩ nói: “Tôi xác định là hai ông KHÔNG phải đọa xuống ĐỊA NGỤC”.



Hữu nhị Tỳ-kheo phạm dâm sát,

Ba-ly huỳnh quang tăng tội kết.

Duy-ma đại sĩ đốn trừ nghi,

Do như hách nhật tiêu sương tuyết.

 

Bất tư nghì, giải thoát lực,

Diệu dụng Hằng sa dã vô cực.

Tứ sự cung dưỡng cảm từ lao,

Vạn lượng hoàng kim diệc tiêu đắc.

 

Phấn cốt toái thân vị túc thù,

Nhất cú liễu nhiên siêu bách ức.

 

( Chứng Đạo Ca )

 

Theo “KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI” thì “PHẠM SÁT-SANH” phải có đủ 4 điều kiện:


1.  NHÂN  (Tâm mình muốn giết ai đó)
  
2. DUYÊN  (Phải có người đó, phải gặp người đó thì mới giết được )

3. CÁCH THỨC (Dùng Cung tên để giết…)

4. NGHIỆP  (Người đó đã chết, thì mới thành nghiệp sát sanh)


TÓM LẠI, BẤT LUẬN DÙNG PHƯƠNG TIỆN TRỢ NHÂN NÀO HOẶC Ở TÂM, HOẶC Ở THÂN, HOẶC Ở  MIỆNG, HOẶC Ở Ý…LÀM CHO CHÚNG SANH PHẢI CHẾT, THÌ BỊ CÙNG MỘT CỘNG NGHIỆP LÀ SÁT SANH.

 

- Tại sao lại thế? Hai Tỳ kheo hỏi.

Cư sĩ nói – Hai Ông tuy phạm tội, nhưng không có ý phá giới, vậy không phải là phạm giới. Đây là trường hợp ngoại lệ.

 

Nghe lời giải thích, cả hai tức thì tỏ ngộ và chứng ngay quả vị. Sau đó họ cùng trở thành A-la-hán. Có nhiều cách giải thích về giới luật. Nhưng nếu như người tu chỉ chăm chú vào trường hợp ngoại lệ,  thì họ rất dễ phạm giới mà không tự biết. Chính vì vậy nên Đức Phật không nói nhiều về điều này.


Khi có người giữ giới thì ở trong thế gian hẳn không còn những nghiệp sinh nhau, giết nhau. Một người được sinh ra và bị giết chết, người đó lại tái sinh để giết lại người đã sát hại mình. Nhưng nay thì cái nghiệp sinh, sát luân lưu đã dừng lại, vì họ TRÌ GIỚI. 


Đã không làm việc trộm cướp thì không còn phải nợ nhau, và cũng không phải trả nợ kiếp trước trong thế gian. 


Việc trộm cắp không còn khi chẳng còn ai lấy trộm. “Tôi không lấy gì của ông, ông cũng chẳng lấy gì của tôi. Tôi không ăn thịt ông, ông chẳng ăn thịt tôi. Tôi không nợ ông, ông chẳng nợ tôi. Như vậy, mọi người chúng ta sẽ chẳng phải trả lại nhau điều gì”. Quý vị không còn ăn thịt, tức sẽ không phải trả nợ trong quá khứ, quý vị sẽ cắt đứt mọi quan hệ THÂN THUỘC với loài thú. Nếu không ăn thịt chúng thì cũng chẳng có liên hệ gì.



Kinh văn:

 

是清淨人 修三摩地。父母肉身。不須天眼。自然觀見 界。覩佛聞法。親 旨。得大神通。遊十   界。宿命 清淨。得無艱險。

 

Thị thanh-tịnh nhân, tu Tam-ma-địa, phụ mẫu nhục thân,        bất tu thiên-nhãn, tự nhiên quán kiến thập phương thế-giới, đổ Phật văn pháp, thân phụng Thánh chỉ, đắc  đại  thần thông, du  thập phương giới, túc mạng thanh-tịnh, đắc vô gian-hiểm.       

 

( Người thanh tịnh ấy, tu pháp Tam-ma-địa, chính nơi nhục thân cha mẹ sinh ra, không cần thiên nhãn, tự nhiên thấy được mười phương thế giới, thấy Phật nghe pháp, tự mình vâng lãnh thánh chỉ, được pháp đại thần thông, đi khắp mười phương thế giới, túc mạng được thanh tịnh, không còn những điều khó khăn nguy hiểm. )

 

 

Giảng giải:


Người thanh tịnh ấy, người không dùng năm loại rau cay, không uống rượu, ăn thịt, và kiên quyết nghiêm trì bốn hoặc tám giới TRỌNG (Ba-la-di). ( Nhưng ở Tỳ kheo giữ Tứ khí là DÂM, SÁT, ĐẠO, VỌNGcòn Tỳ kheo Ni giữ bát khí, có thêm bốn giới:  XÚC chạm thân đàn ông , NHẬP vào phòng đàn ông nói chuyện hẹn hò, PHÚ là che giấu tội lỗi của bạn đồng tu, TÙY là theo giúp người phạm giới bị đuổi; giữ nghiêm các giới như vậy để tránh tạo thêm nghiệp.) Nếu như người đó tu pháp Tam-ma-địa, chính nơi nhục thân cha mẹ sinh ra, không cần thiên nhãn, tự nhiên thấy được mười phương thế giới



Họ không cần phải có năng lực của Thiên nhãn để quán sát, họ vẫn thấy Phật nghe pháp, tự mình vâng lãnh thánh chỉ, được thân cận Phật và nghe pháp, được Phật chỉ giáo. Được pháp đại thần thông, đi khắp mười phương thế giới, túc mạng được thanh tịnh, không còn những điều khó khăn nguy hiểm. 



Thần lực của họ có khả năng đi xuyên suốt mười phương. Họ biết được các đời sống trong quá khứ, từ nhục thân mà thành tựu được nhiều ỨNG HÓA THÂN. Dù không có thiên nhãn nhưng chẳng khác gì đã có, cả thiên nhĩ cũng vậy. Những người tu ấy không còn gặp phải trở ngại hoặc hung hiểm nào.

 


Kinh văn:

 

是則名為第二增進修行漸次。


Thị tắc danh  vi  đệ  nhị  tinh-tấn tu-hành tiệm-thứ.

 

( Đấy gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ hai.)

 

 

Giảng giải:

 

Điều quan trọng và cần thiết là cần phải đoạn trừ TÁNH của nghiệp. Chúng ta phải thay đổi nghiệp. Trước đây chúng ta phạm nhiều sai lầm, nay phải tích cực SÁM HỐI sửa đổi lại. Phải giữ gìn GIỚI LUẬT. Chính sự giữ giới đấy gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ hai.




Kinh văn:

 

 云何現業。阿難。如是清 禁戒人。心無貪婬。於外六塵不多流逸。

 

Vân-hà hiện-nghiệp? A-Nan! Như thị thanh-tịnh trì cấm giới nhân, tâm vô tham dâm, ư ngoại lục trần bất đa lưu-dật.       


 

( Thế nào là hiện nghiệp? 

 

A-Nan, người giữ gìn giới cấm thanh tịnh như vậy, tâm không tham dâm, không chạy theo sáu trần ở ngoài.)

 

 

Giảng giải:

 

Đầu tiên chúng ta nói về trợ nhân tạo nghiệp trong việc ĂN UỐNG, kế đến nói về sự thay đổi nghiệp thức qua sự TRÌ GIỚI LUẬT, còn phần này là ngăn chặn hiện nghiệp sinh khởi nhờ tu NHĨ CĂN VIÊN THÔNG Hay NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG.

 

Thế nào là hiện nghiệp?

 

Đấy là nghiệp tạo ngay trong đời sống này. Chúng ta phải ngăn chặn lại điều ấy, không tạo thêm nghiệp mới.

 

A Nan, người giữ gìn giới cấm thanh tịnh như vậy, tâm không tham dâm.

 

Giai đoạn này, mọi người chúng ta phải trong sạch, giữ gìn giới hạnh, không tham lam và say mê tham dục, không chạy theo sáu trần ở ngoài. Không chạy theo sáu trần ở ngoài là: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Mọi người phải trở lại NGHE TỰ TÁNH của chính mình.



Kinh văn:

 

因不流逸。旋 自歸。塵既不。根無所偶。反流全一。六用不行。

 

Nhân bất lưu-dật, tuyền nguyên tự quy, trần ký bất duyên, căn vô sở ngẫu, phản lưu toàn nhứt, lục dụng bất hành.   

 

( Nhân chẳng lưu chuyển, tự quay về tánh bản nguyên, trần đã không duyên, thì căn không  có chổ  kết hợp, ngược dòng trở về CHÂN-TÁNH, sáu cái dụng chẳng còn hiện hành.)

 

 

Giảng giải:

 

Nhân chẳng lưu chuyển, tự quay về tánh bản nguyên.

 

Không còn chạy theo sáu cảnh LỤC TRẦN mà quay trở về với tự tánh. Quay trở lại  TỰ TÁNH QUANG MINH, trở về với NHĨ CĂN để lắng nghe tự tánh KHÔNG SINH DIỆT . Đây là pháp tu NHĨ CĂN VIÊN THÔNG của Bồ-tát QUÁN THẾ ÂM. 


Trần đã không duyên, thì căn không có chổ kết hợpchấm dứt mọi liên hệ với cảnh trần và căn cũng KHÔNG còn đeo đuổi, kết hợp với điều gì, mà trở ngược về tu tập với nhĩ căn, và đây là chỗ toàn nhất viên thông , nên cả sáu căn cùng có tác dụng thay nhau làm việc, sáu cái dụng chẳng còn hiện hành. 


Cả sáu CĂN không còn hiện hành để chạy theo sáu TRẦN bên ngoài. Cho nên, SINH-DIỆT cũng không có, TỊCH-DIỆT HIỆN TIỀN.

 

 

Kinh văn:

 

    土。皎然 淨。譬如瑠璃。内 月。

 

Thập phương quốc độ, hạo nhiên thanh-tịnh, thí như lưu-ly, nội huyền minh-nguyệt.   

 

( Cõi nước mười phương, sáng trong thanh tịnh, ví như ngọc lưu ly, có mặt trăng sáng treo trong ấy. )


 

Giảng giải:

 

Lúc bấy giờ cõi nước mười phương, sáng trong thanh tịnh, ví như ngọc lưu ly, có mặt trăng sáng treo trong ấy. Nói khác đi tất cả đều trong sáng thanh tịnh và nhìn thấy được.

 

 

Kinh văn:

 

身心 然。妙圓平等。獲 大安隱。


Thân-tâm khoái-nhiên, diệu-viên bình-đẳng, hoạch đại an-ổn.      

 

( Thân tâm khoan khoái, tịnh diệu viên bình đẳng, được đại an ổn. )

 

 

Giảng giải:

 

Khi ánh trăng tròn sáng như ngọc lưu ly thì nó hoàn toàn sáng rỡ và trong suốt, mọi người đều thấy được. Đoạn này diễn tả người tu đã đạt đến giai đoạn cả thân và tâm đều thanh tịnh. Vậy nên thân tâm khoan khoái, tịnh diệu viên bình đẳng, được đại an ổn.

 

Đấy là cảm giác an lạc tự tại của người tu NHĨ CĂN VIÊN THÔNG , không phải là đều hiển nhiên với người khác.



Kinh văn:

 

一切 如來密圓淨妙。皆現其中。

 

Nhứt thiết Như-Lai mật viên tịnh-diệu, giai hiện kỳ trung.  

 

( Tất cả mật viên tịnh diệu các Đức Như Lai đều hiện trong đó. )

 


 

Giảng giải:

 

 

Tất cả mật viên tịnh diệu các Đức Như Lai.

 

Tức pháp tánh thanh tịnh của Phật, tất cả đều hiện trong đó. Mọi người tu hành đúng pháp đều cảm nhận được trạng thái đó.

 

 

Kinh văn:

 

是人即獲  無生 忍。從是漸修。隨所發行。安立聖位。

 

Thị nhân tức hoạch, vô-sanh pháp nhẫn, tùng thị tiệm tu, tùy sở phát hành, an lập Thánh-vị.       

 

( Người ấy liền được vô sinh pháp nhẫn. Từ đó lần lượt tu tập, tùy cái hạnh phát ra mà an lập thánh vị.)

 

 

Giảng giải:

 

Người ấy liền được vô sinh pháp nhẫn.

 

Thế nào là vô sinh pháp nhẫn? Chúng ta không thấy pháp nào sinh khởi, cũng chẳng thấy pháp nào biến mất. Pháp vốn KHÔNG SINH CŨNG KHÔNG DIỆT, nhưng thật không dễ gì CHỨNG được điều ấy.

 

Từ đó lần lượt tu tập, tùy cái hạnh phát ra mà an lập thánh vị.

 

Khi chứng được vô sinh pháp nhẫn, người tu hành tiếp tục hướng đến các thánh vị, không gì có thể ngăn trở được.

 

 

Kinh văn: 

 

是則名為第三增進修行漸次。

 

Thị tắc danh vi đệ tam tinh-tấn tu-hành tiệm-thứ.         


 (Đây gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ ba.)

 


Giảng giải:

 

Đây gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ ba. Đó là cách ngăn chặn sự sanh khởi của hiện nghiệp, do tu NHĨ CĂN VIÊN THÔNG Hay NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG.

 


 II. 55 ĐỊA VỊ CỦA BỒ TÁT


 

 

1. Thập tín 

2. Thập trụ 

3. Thập hạnh 

4. Thập hồi hướng 

5. Tứ gia hạnh 

6. Thập địa 

7. Đẳng giác   

 

 

ĐẲNG-GIÁC


 

Như-lai ngược dòng trở lại, vị Bồ-tát đó thuận dòng đi tới, giác-ngộ vào chỗ giao-tiếp với nhau; gọi là Đẳng-giác.

 

( ĐẲNG-GIÁC là sự giác ngộ đồng với CHƯ PHẬT. 12 CHỦNG LOẠI CHÚNG-SANH thì hướng tới QỦA PHẬT, còn CHƯ PHẬT thì hướng tới chúng sanh để HỘ NIỆM, làm cho chúng sanh PHÁT BỒ ĐỀ TÂM, tu hành được sự giác ngộ như PHẬT; thì gọi là ĐẲNG-GIÁC BỒ-TÁT.)

 

A-nan, từ tâm Càn-huệ đến Đẳng-giác rồi, giác đó mới bắt-đầu được Sơ-càn-huệ-địa trong tâm Kim-Cang.

 

( “Càn-Huệ-Địa” nghĩa là “ tình dục khô cạn (Càn), chỉ thuần còn Trí-huệ (Huệ).” ĐÂY LÀ “ĐỊA-VỊ” TU CHỨNG ĐẦU TIÊN CỦA NGƯỜI TU-THIỀN (Địa).


 Từ Càn-huệ địa đến Đẳng-giác rồi, vì còn chấp mình LÀ ĐẲNG-GIÁC BỒ-TÁT, NÊN CÒN CÓ VI-TẾ SANH-TƯỚNG VÔ-MINH, phải dùng “TÂM KIM-CANG” để phá trừ tất cả sở đắc, như là SƠ-CÀN-HUỆ-ĐỊA trong TÂM KIM-CANG, THẬP TÍN trong TÂM KIM-CANG…ĐẲNG-GIÁC trong TÂM KIM-CANG. CHO NÊN, GỌI LÀ SƠ-CÀN-HUỆ-ĐỊA TRONG TÂM KIM-CANG. )

 

 

DIỆU-GIÁC

  

Như vậy lớp-lớp tu đơn, tu kép 12 vị mới cùng tột Diệu-giác, thành đạo Vô-thượng.

 

Tu Đơn, tu kép 12 vị :

 

   1) CÀN HUỆ ĐỊA        

   2) THẬP TÍN                          

   3) THẬP TRỤ

   4) THẬP HẠNH

   5) THẬP HỒI HƯỚNG

   6) NOÃN

   7ĐẢNH

   8) NHẪN

   9) THẾ ĐỆ NHỨT

   10) THẬP ĐỊA

   11) ĐẲNG-GIÁC

   12) TÂM KIM CANG



( dùng TÂM KIM CANG phá trừ từng phần VÔ-MINH cho đến VI-TẾ VÔ-MINH mới cùng tột Diệu-giác, thành đạo Vô-thượng.)


Các thứ địa ấy, đều lấy trí Kim-cang quán-sát mười thứ ví-dụ như-huyễn sâu-xa, trong Xa-ma-tha, dùng phép Tỳ-bà-xá-na của các đức Như-lai mà thanh-tịnh tu-chứng, lần-lượt đi sâu vào.

 

( Các địa vị ấy, đều dùng “TÂM KIM-CANG” hay “TRÍ KIM-CANG” QUÁN LÝ “NHƯ-HUYỄN SÂU-XA”, tức là CHỈ và QUÁN KHÔNG HAI, ĐỊNH HUỆ BẤT NHỊ mà thanh tịnh tu chứng, lần lượt đi sâu vào.



Dùng “TRÍ KIM-CANG” QUÁN LÝ “NHƯ-HUYỄN SÂU-XA” LÀ:




1. Quán NGƯỜI như huyễn

2. Quán ÁNH NẮNG (DƯƠNG DIỆM) như huyễn

3. Quán TRĂNG DƯỚI NƯỚC như huyễn

4. Quán HOA ĐỐM TRONG HƯ KHÔNG như huyễn

5. Quán TIẾNG VANG TRONG HANG ĐỘNG như huyễn

6. Quán THÀNH CÀN THÁT BÀ

   ( LÀM BẰNG HƠI SƯƠNG TRONG BIỂN) như huyễn

7. Quán MỘNG như huyễn

8. Quán BÓNG như huyễn

9. Quán TƯỢNG TRONG GƯƠNG như huyễn

10. Quán ẢO HÓA như huyễn.

 

 

Thân như bọt

Bể thương tang

Chìm nổi kiếp mênh mang!

Dưới trăng suy cạn khoảng đêm tàn

Chỉ nương Vô Lượng Quang.

 

Trời niệm tâm

Núi kiên quyết

Vọng tình xin cách tuyệt

Dần dà khó thể nhập Liên Bang

Khi nao thật được nhàn?


Thân như bọt

Bể thương tang

Chìm nổi kiếp mênh mang!

Dưới trăng suy cạn khoảng đêm tàn

Chỉ nương Vô Lượng Quang.

 

(Niệm Phật Phải Khắc Kỳ Cầu Chứng Nghiệm- HT. Thiền-Tâm)




A-nan, như thế, đều dùng ba tiệm-thứ tăng-tiến, nên khéo thành-tựu 55 vị trong đường Bồ-đề chân-thật. Làm cái quán như vậy, gọi là chính-quán; nếu quán cách khác, gọi là tà-quán".



Muốn thành tựu 55 vị trong đường Bồ-đề chân thật, trước phải tu 3 TIỆM THỨ TĂNG TIẾN là:



   1) Không ăn NGŨ VỊ TÂN

   2) PHẢI NGHIÊM TRÌ GIỚI LUẬT

   3) PHẢI NGĂN CHẶN VỌNG KHỞI CỦA HIỆN NGHIỆP PHÁT SANH, DO TU NHĨ CĂN VIÊN THÔNG.

 

KẾ TIẾP dùng TÂM KIM CANG quán LÝ NHƯ HUYỄN, để thành tựu 55 địa vị tu chứng.



Năm mươi lăm vị trong đường Bồ đề ( vì Càn-huệ-địa là con đường mà chẳng CHÂN-THẬT, còn DIỆU-GIÁC thì CHƠN THẬT mà chẳng phải là con đường, ĐÂY LÀ QỦA PHẬT. Cho nên, chỉ có 55 vị trong đường Bồ-đề chân-thật mà thôi.)



1. Thập tín [10]

2. Thập trụ [10]

3. Thập hạnh [10]

4. Thập hồi hướng [10]

5. Tứ gia hạnh [4]

6. Thập địa [10]

7. Đẳng giác [1]



Tuy biết con đường CHƠN THẬT chứng nhập CHƠN TÂM THƯỜNG TRỤ, nhưng trải qua các địa vị tu chứng  gặp phải 50 loại ma chướng cùng với tập khí nhiều đời khó đoạn trừ, nếu MÊ MỜ CHƠN TÁNH,  tự nghĩ rằng mình đã CHỨNG THÁNH, THÀNH PHẬT thì sẽ đi vào  TÀ MA NGOẠI ĐẠO, khó CÓ NGÀY quây đầu trở lại theo CON ĐƯỜNG CHƠN THẬT.

 

Cho nên, PHẬT dạy phải nghiêm trì “CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM”, thì không bị những TẬP KHÍ NHIỀU ĐỜI cùng MA-CHƯỚNG đến phá HOẠI CON ĐƯỜNG CHƠN THẬT THẲNG đến qủa DIỆU-GIÁC của CHƯ PHẬT.



Kinh văn:

 

阿難。是善男子。欲愛乾枯。根境不偶。現前殘質。不復續生。

 

A - Nan! Thị thiện nam-tử, dục-ái càn khô, căn-cảnh bất ngẫu, hiện-tiền tàn-chất, bất phục tục sanh.


( A-Nan, thiện nam tử ấy, lòng dục ái khô cạn, căn và cảnh không còn kết hợp, thân hiện tiền khi chết rồi, không còn sinh trở lại nữa. )

 

 

Giảng giải:

 

 

Đức Thích Ca Mâu Ni gọi bảo: A Nan, thiện nam tử ấy, lòng dục ái khô cạn. Đấy là những người đã trải qua ba giai đoạn tiệm thứ tu tập như đã luận. “Khô cạn”, chỉ những người không còn ý nghĩ về yêu đương, tình dục, căn và cảnh không còn kết hợp.

 

Sáu căn không còn chạy theo sáu trần, thân hiện tiền khi chết rồi, không còn sinh trở lại nữa. “Thân tàn” là khi bỏ thân này, người tu ấy sẽ không tiếp tục sinh lại nữa.

 

 

CÀN HUỆ ĐỊA


 

Kinh văn:

 

執心明。純是智慧。慧性明圓。鎣     界。乾有其慧。名乾慧地。

 

Chấp tâm hư-minh, thuần thị trí huệ, huệ-tánh minh-viên, oánh thập-phương giới, càn  hữu kỳ-huệ, danh càn  huệ-địa.      

 

 

( Nắm cái tâm rỗng sáng, thuần là trí huệ, tánh trí huệ sáng suốt cùng khắp, soi thấu mười phương thế giới, chỉ có cái huệ khô khan ấy nên gọi là Càn huệ địa. )

 

 

Giảng giải:

 

Một chút vô minh còn dư lại nên không có khả năng sinh trưởng, nghiệp chướng còn rất ít do đó nắm cái tâm rỗng sáng, thuần là trí huệ. Tự tâm hoàn toàn trống rỗng và trong sáng. Tự tánh của họ thuần là trí huệ, có nghĩa đã dứt mọi vọng tưởng. Mọi nghĩ tưởng trong tâm của họ chỉ là trí huệ.

 

Tánh trí huệ sáng suốt cùng khắp, soi thấu mười phương thế giới. Tính của trí huệ sáng suốt và đầy đủ, chỉ có cái huệ khô khan ấy nên gọi là Càn huệ địa.

 

“Càn-Huệ-Địa” nghĩa là “ tình dục khô cạn (Càn), chỉ thuần còn Trí-huệ (Huệ).” ĐÂY LÀ “ĐỊA-VỊ” TU CHỨNG ĐẦU TIÊN CỦA NGƯỜI TU-THIỀN (Địa).

 

Đây là giai đoạn của trí huệ khô cạn, còn gọi “SƠ-CÀN-HUỆ-ĐỊA trong TÂM KIM-CANG”. TÂM KIM-CANG có nghĩa là kiên cố, không sanh diệt, là bước đầu để tiến đến THỦ LĂNG NGHIÊM TAM-MUỘI.

 

Năm mươi lăm ngôi vị của hàng Bồ tát như sau:


 

1. Thập tín

2. Thập trụ

3. Thập hạnh

4. Thập hồi hướng

5. Tứ gia hạnh

 

a. Noãn

b. Đảnh

c. Nhẫn

d. Thế đệ nhất

 

6. Thập địa

7. Đẳng giác

 


Kinh văn:

 

Dục tập sơ càn  vị dữ Như Lai Pháp lưu thủy tiếp 



 

( Tập khí như ngũ dục mới khô cạn, chưa tiếp giáp với dòng nước pháp của Đức Như Lai.)

 

 

Giảng giải:

 

Tập khí như ngũ dục và dục ái mới khô cạn, chưa tiếp giáp với dòng nước pháp của Đức Như Lai.

 

Dòng nước pháp ở đây KHÔNG PHẢI là các pháp đã nói qua mà là dòng pháp xuất phát từ TỰ-TÁNH. Người tu tập đến giai đoạn này vẫn chưa thực sự chứng nhập vào TRÍ HUỆ CHÂN-THẬT của Đức Như Lai.

 

Sutra:

Although the habits of desire are initially dried up, they still have not merged with the Thus Come One's flow of dharma-water.

Commentary:

Although the habits of desire and emotional love are initially dried up, they still have not merged with the Thus Come One's flow of dharma-water. Here the "flow of dharma-water" does not refer to dharma which is spoken. It is the water of dharma that flows forth from the self-nature. But at this point in their development, they have not merged with the water of genuine wisdom.

 

 

The Ten Faiths

 

THẬP-TÍN

 

(The Ten Faiths)

 

 

1. Tín-tâm TRỤ

2. Niệm-tâm TRỤ

3. Tinh-tấn-tâm

4. Huệ-tâm TRỤ

5. Định-tâm TRỤ

6. Bất-thoái-tâm

7. Hộ-pháp-tâm

8. Hồi-hướng-tâm

9. Giới-tâm TRỤ

10. Nguyện-tâm TRỤ

 

 

1. Tín-tâm TRỤ

( the mind that resides in faith)

 

Kinh văn:

 

Tức dĩ thử tâm trung Trung lưu nhập  viên diệu khai phu  tùng chân diệu viên  trùng phát chân diệu 

 

Diệu tín thường trụ  nhất thiết vọng tưởng  diệt tận vô dư  Trung Đạo thuần chân  danh TÍN TÂM Trụ 

 

( Tức lấy tâm ấy, nương theo TRUNG-ĐẠO lần vào, tính VIÊN-DIỆU phát ra. Từ chỗ chân diệu viên, lại phát ra chân diệu.

 

Diệu tín THƯỜNG-TRỤ, tất cả vọng tưởng diệt hết không còn, trung đạo được thuần chân, gọi là TÍN-TÂM trụ.)




Giảng giải:

 

Đầu tiên bàn về Tín-tâm TRỤ.

 

Tức lấy tâm ấy, nương theo TRUNG-ĐẠO lần vào, tính VIÊN-DIỆU phát ra.

 

“Tâm ấy” là tâm của CÀN HUỆ ĐỊA. Khi Ái dục  khô cạn, chỉ còn TRÍ HUỆ thuần chơn, nên gọi “SƠ-CÀN-HUỆ-ĐỊA trong TÂM KIM-CANG”. Họ dùng tâm ấy để đi vào Phật pháp và tiến đến “tính VIÊN-DIỆU phát ra”, cùng khắp. Họ đạt đến THẬT TƯỚNG NHƯ THỊ của vạn pháp.

 

Từ chỗ chân diệu viên, lại phát ra chân diệu.

 

Từ chân diệu của tự tính CHÂN NHƯ lại phát ra trí huệ chân diệu.

 

Diệu tín THƯỜNG-TRỤ, tất cả vọng tưởng diệt hết không còn, trung đạo được thuần chân.

 

Họ luôn luôn trụ trong “DIỆU TÍN THƯỜNG-TRỤ” có nghĩa TÂM không lay động, không thay đổi. Niềm tin tưởng của họ là thường hằng, cho đến khi mọi vọng tưởng không còn, tất cả đều đã dứt trừ. Cho dù họ có vọng tưởng thì những vọng tưởng ấy cũng chẳng hiện khởi. Bởi vì vọng tưởng phải dựa vào VÔ-MINH, chẳng hạn như vọng tưởng về ÁI DỤC; nhưng hiện tại, ái dục đã khô cạn, chỉ còn sót lại một ít vô minh. Do đó, tất nhiên họ không có vọng tưởng về ÁI DỤC.

 

( PHẦN (SỰ) CHỨNG  THÌ KHÔNG CÒN PHẠM ÁI DỤC, CÒN PHẠM THÌ CHỈ ĐƯỢC PHẦN (LÝ) GIẢI  MÀ THÔI)

 

 

Tại sao quý vị vẫn có vọng tưởng? Đấy là vì quý vị vẫn còn ái dục. Điều đó xuất phát từ lòng tham ái dục. Tham muốn nghĩ tưởng thế này thế nọ, làm cho TÂM của chúng ta không ngừng dao động, loạn tưởng. Nếu một người không tham ái dục, thì họ sẽ không có vọng tưởng.

 

Người tu đến giai đoạn này, dứt tuyệt mọi  vọng tưởng, họ đạt được Trung đạo thuần chân. “THUẦN CHÂN” là không có ái dục, không có ý tham muốn  Tiền-tài, Sắc-đẹp, Danh-vọng, Ăn-uống, Ngủ-nghỉ (NGŨ DỤC)…, gọi là TÍN-TÂM trụ thứ nhất. 

 

 

Sutra:

Then, with this mind centered on the middle, they enter the flow where wonderful perfection reveals itself. From the truth of that wonderful perfection there repeatedly arise wonders of truth. They always dwell in the wonder of faith, until all false thinking is completely eliminated and the Middle Way is totally true. This is called the Mind that Resides in Faith.

Commentary:


This begins the discussion on the ten faiths:

1. the mind that resides in faith,
2. the mind that resides in mindfulness,
3. the mind that resides in vigor,
4. the mind that resides in wisdom,
5. the mind that resides in samadhi,
6. the mind that resides in irreversibility,
7. the mind that resides in protecting the dharma,
8. the mind that resides in making transferences,
9. the mind that resides in the precepts,
10. the mind that resides in vows.

Then, with this mind centered on the middle, they enter the flow where wonderful perfection reveals itself. "This mind" refers to the mind at the level of dry wisdom, the initial vajra-mind. They use this mind to enter the flow of the Buddhadharma, and they reach the state where "wonderful perfection reveals itself," where it opens out in abundance. One reaches the principle and substance of true suchness. From the truth of that wonderful perfection there repeatedly arise wonders of truth. In the wonderful perfection of the true suchness of the self-nature, truths within truths come forth. They always dwell in the wonder of faith, until all false thinking is completely eliminated and the Middle Way is totally true. Their belief becomes more and more subtle and wonderful.

"Always dwell" means that they will not waver, they will not change their minds. Their faith is constant. At that point, all false thinking goes away, without exception. Even if they wanted to have false thoughts, the false thoughts just wouldn't arise. That is because false thoughts are helped out by ignorance. With false thoughts come love and desire. But now love and desire have been dried up and only a little ignorance remains, so that, quite naturally, they don't have false thoughts.

Why do you have false thinking? It is because you still have love and desire. There are things that you are greedy for. The desires compel you to think about this and that, so that your mind is always climbing on conditions. If people didn't have any greed, they wouldn't have any false thinking.

At this point in their cultivation, these people don't have false thinking. When that happens, one attains the nature of the principle of the Middle Way. It is "totally true," which means that there is no love and desire, no greedy false thoughts. This is called the Mind that Resides in Faith. This is the first of these ten positions. One brings forth genuine faith and dwells in it.

 




2. Niệm-tâm TRỤ 

( The mind that resides in mindfulness )



 Kinh văn:

 

Chân tín minh liễu  nhất thiết viên thông  ấm xứ giới tam  bất năng vi ngại  như thị nãi chí quá khứ vị lai  vô số kiếp trung  xả thân thọ thân nhất thiết tập khí  giai hiện tại tiền  thị thiện nam tử  giai năng ức niệm  đắc vô di vong  danh Niệm Tâm Trụ 

 

( Chân tín sáng tỏ, tất cả đều viên thông, ba thứ ẤM, XỨ, GIỚI không thể làm ngăn ngại. Như thế, cho đến trong vô số kiếp quá khứ, vị lai, tất cả tập khí xả thân, thọ thân ĐỀU HIỆN RA TRƯỚC MẶT, thiện nam tử ấy đều có thể nhớ nghĩ được, không quên mất điều gì – gọi là NIỆM TÂM trụ.)

 

 

Giảng giải:

 

Phần đầu nói về Tín-tâm TRỤ, tu hành theo Trung đạo, lìa hai bên NHẬP và XUẤT, CÓ và KHÔNG, ĐOẠN và THƯỜNG…  – đây là sự DIỆU-VIÊN.

 

Nay sẽ bàn về Niệm-tâm TRỤ, khi chân tín sáng tỏ, có được ĐỨC TIN chân thật tất sẽ được trí huệ chân thật. “ Sự hiểu biết rõ ràng”, đấy là trí huệ chân thật.

 

Tất cả đều viên thông, ba thứ ẤM, XỨ, GIỚI không thể làm ngăn ngại.

 

Những người tu ấy không chỉ thành tựu viên thông của các CĂN, mà mỗi CĂN đều  viên thông với:

 

 – 5 ẤM : Sắc, thọ, tưởng, hành, thức

- 12 Xứ : Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý (SÁU CĂN) và  Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (SÁU TRẦN)

- 18 GIỚI :  SÁU CĂN, SÁU TRẦN và  Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý (SÁU THỨC)




( THỨC là sự hiểu biết phân biệt, cho dù thức A-LẠI-DA cũng trong sự phân biệt VI TẾ. CĂN là khả năng nhận biết không phân biệt.)

Một khi đạt được viên thông thì ẤM, XỨ, GIỚI chẳng còn gì ngăn ngại quý vị.







 Nhất tánh VIÊN THÔNG nhất thiết tánh,

Nhất pháp biến hàm nhất thiết pháp,

Nhất nguyệt phổ hiện nhất thiết thủy,

Nhất thiết thủy nguyệt nhất nguyệt nhiếp

Chư Phật pháp thân nhập NGÃ TÁNH,

Ngã tánh đồng cộng Như Lai hợp.

 

Nhất địa CỤ TÚC nhất thiết địa,

Phi sắc phi tâm phi hành nghiệp.

Ðàn chỉ viên thành bát vạn môn,

Sát-na diệt khước tam kỳ kiếp.

Nhất thiết số cú phi số cú,

DỮ NGÔ LINH GIÁC hà giao thiệp.

 

(Chứng Ðạo Ca)

 

Như thế, cho đến trong vô số kiếp quá khứ, vị lai, tất cả tập khí xả thân, thọ thân đều hiện ra trước mặt, trong vô số kiếp xa xưa, con người đã trải qua biết bao nhiêu lần sinh rồi tử, tử rồi tái sinh. Trong các đời sống, họ có nhiều thói quen khác nhau.

 

Có đời thì say mê UỐNG RƯỢU, đời khác thì ưa HÚT THUỐC, hoặc ham ĐÁNH BẠC, hoặc DÂM ĐÃNG, giết người, nói dối…Nhìn chung, sau mỗi đời tái sinh, thói quen của họ càng phát triển và hành động càng thêm tồi tệ.

 

Đấy là nói về những tính xấu, về tính tốt, có người trong đời sống, họ thường lễ KÍNH CHƯ PHẬT, hoặc nghe giảng kinh LĂNG NGHIÊM, kinh PHÁP HOA…

 

Tóm lại, trong nhiều đời nhiều kiếp đã qua, họ luôn hành thiện. Rốt cuộc, họ tích lũy được một NHÂN CÁCH, một thói quen đáng KÍNH TRỌNG. Và ngày nay, như một cuộn phim, tất cả những thói quen ấy HIỆN RA trước mắt họ.  

 

Thiện nam tử ấy đều có thể nhớ nghĩ được, không quên mất điều gì. Thiện nam tử là người tu theo VIÊN THÔNG, họ nhớ được tất cả. Đến giai đoạn này, họ KHÔNG QUÊN mất điều gì. Có nghĩa, họ nhớ hết mọi việc đã xảy ra, nhớ những nhân duyên trong đời họ, đấy gọi là Niệm tâm trụ thứ hai.







Sutra:

When true faith is clearly understood, then perfect penetration is total, and the three aspects of skandhas, places, and realms are no longer obstructions. Then all their habits throughout innumerable kalpas of past and future, during which they abandon bodies and receive bodies, appear to them now in the present moment. These good people can remember everything and forget nothing. This is called the Mind that Resides in Mindfulness.

Commentary:


Prior to this stage, when they were residing in the mind of faith, they cultivated the Middle Way, that wonderful perfection, the principle which one neither enters into nor departs from. Now, since they are replete with faith, true faith is clearly understood. Once one has true faith, one can gain true wisdom. "Clear understanding," then, refers to that true wisdom. Then perfect penetration is total, and the three aspects of skandhas, places, and realms are no longer obstructions.

Not only do they accomplish the perfect penetration of the sense organs, but of everything else as well, the five skandhas of form, feeling, thought, activity, and consciousness; the twelve places of the eyes, ears, nose, tongue, body, and mind, together with forms, sounds, smells, tastes, tangible objects, and dharmas; and the eighteen realms, which include the six sense-organs, the six sense-objects and the consciousnesses which connect them, that is, the eyeconsciousness, the ear-consciousness, the nose-consciousness, the tongue-consciousness, the body-consciousness, and the mindconsciousness.

Once you obtain perfect penetration, these things can no longer hinder you. Then all their habits throughout innumerable kalpas of past and future, during which they abandon bodies and receive bodies, appear to them now in the present moment. For time beyond calculation they have been undergoing rebirth and will continue to undergo rebirth, birth after birth, death upon death. And in each one of those lives, they have different habits. In one life they got into the habit of drinking wine. In another life they were in the habit of smoking. In another life, they were habitual gamblers. Another life found them with habits of lust. In another life they killed. Another life made them into thieves. In one life, they got into the habit of lying.

In general, life after life, they developed habits that led them to do all kinds of bad things. That's looking at the bad habits. But there are also good habits. In one life, they got into the habit of bowing to the Buddhas. In another life, they habitually recited the Shurangama Mantra.

In one life, they had the habit of listening to the explanation of the Shurangama Sutra. In another life, they habitually listened to the Lotus Sutra. In general, throughout all those lives in so many kalpas, they walked many paths. As a result, they had accumulated a tremendous number of habits. But now, just like a movie, all those habits appear before them. These good people can remember everything and forget nothing. These good people who are cultivating the Way can bring it all to mind. They can remember it all. When they attain that state, they never forget. That means they always have their mind on what's happening. They are always mindful of those causes and conditions. This is called the Mind that Resides in Mindfulness, the second of the ten faiths.








 3. Tinh-tấn-tâm

(The Mind of  Vigor)

 

 

Kinh văn:

 

Diệu viên thuần chân  chân tánh phát hóa  vô thỉ tập khí  thông nhất tinh minh  duy dĩ tinh minh tiến thú chân tịnh  danh Tinh Tấn Tâm 

 

( Tính diệu viên thuần chân, chân tánh phát ra, các TẬP KHÍ từ vô thủy, đều dung thông với một tính TINH MINH, chỉ dùng tinh minh ấy tiến đến chỗ CHÂN TỊNH, gọi là TINH TẤN tâm.)

 

 

Giảng giải:

 

Tính diệu viên thuần chân, chân tánh phát ra, các TẬP KHÍ từ vô thủy, đều dung thông với một tính TINH MINH, đây là TINH-TẤN liên tục phát ra trí huệ TINH MINH, chỉ dùng tinh minh ấy tiến đến chỗ CHÂN TỊNH. Họ dùng sức mạnh  tinh minh sáng tỏ tiến đến chỗ chân tịnh, không còn một chút Ô NHIỄM nào khởi lên gọi là TINH TẤN tâm thứ ba.

 



Sutra:

When the wonderful perfection is completely true, that essential truth brings about a transformation. They go beyond the beginningless habits to reach the one essential brightness. Relying solely on this essential brightness, they progress toward true purity. This is called the Mind of Vigor.

Commentary:

When the wonderful perfection is completely true, that essential truth brings about a transformation. They go beyond the beginningless habits to reach the one essential brightness, which is wisdom. Relying solely on this essential brightness, they progress toward true purity. Their vigor takes them to a place of true purity which is devoid of any defilement. This is called the Mind of Vigor, the mind that resides in vigor.










4. Huệ-tâm TRỤ 

( The mind that resides in wisdom )

 

Kinh văn:

 

Tâm tinh hiện tiền  thuần dĩ Trí Huệ  danh Huệ Tâm Trụ 

 

( Tâm tinh hiện tiền, thuần là Trí Huệ, gọi là Huệ Tâm trụ. )

 

 

Giảng giải:

 

Khi người tu chỉ còn tâm CHÂN TỊNH, tâm tinh hiện tiền, thuần là Trí Huệ. Trí Huệ  nhận biết rõ ràng, có nghĩa người đó đã có được một phần Trí Huệ chân thật.

 

“Thuần trí huệ” là không còn chút gì loạn tưởng còn sót lại.  Vọng tưởng  vô minh đã dứt sạch – đây gọi là Huệ tâm trụ thứ tư.

 



Sutra:

The essence of the mind reveals itself as total wisdom; this is called the Mind that Resides in Wisdom.

Commentary:

When one has progressed until the mind is truly pure, then the essence of the mind reveals itself as total wisdom. The mind is clear and understood, which means one has some genuine wisdom. "Total wisdom" means that there is not the least bit of random thinking remaining. The stupidity and false thoughts are all gone. Remember that this was described above, in the passage on the first dwelling of the mind, where it said that "all false thinking is completely eliminated." This is called the Mind that Resides in Wisdom. This is the dwelling of the mind of faith in wisdom.




5. Định-tâm TRỤ

 

( The mind that resides in Samadhi )

 

Kinh văn:

 

Chấp trì trí minh  chu biến tịch trạm  tịch diệu thường ngưng  danh Định Tâm Trụ 



( Nắm giữ trí sáng suốt, TRONG LẶNG cùng khắp, tính tịch diệu thường YÊN-LẶNG, gọi là ĐỊNH TÂM trụ. )

 

 

Giảng giải:

 

Nắm giữ trí sáng suốt, TRONG LẶNG cùng khắp. Có nghĩa, quý vị phải giữ lấy ánh sáng TRÍ HUỆ bằng cách tu NHĨ CĂN VIÊN THÔNG..., không để  cho gián đoạn, như vậy ánh sáng ấy sẽ trong lặng chiếu soi khắp pháp giới, tính tịch diệu thường YÊN-LẶNG, gọi là ĐỊNH TÂM trụ.

 

“Tính tịch diệu thường YÊN-LẶNG”  là sự lặng lẽ mà thường chiếu soi tỏ sáng.

 

“Lặng lẽ” thì dừng được vòng Trí huệ phân biệt. Trước đây thì còn phân biệt , nay thì lắng sâu TỊCH DIỆU.

 

YÊN-LẶNG CHIẾU SÁNG còn tượng trưng cho ĐỊNH LỰC. Đến giai đoạn này thì người tu không còn bị giao động.

 

Người có ĐỊNH-LỰC, thì khi đã chọn pháp môn HỢP VỚI CĂN TÁNH của mình rồi, thì phải phấn đấu liên tục để thành tựu pháp đó, họ sẽ không dễ dàng ngã theo bên này hay bên nọ.

 

Ngọn gió phương Đông không làm cho họ ngã về phương Tây. Điều đó có nghĩa họ không bị GIAO ĐỘNG trước  TÁM NGỌN GIÓ.

Nói về tám ngọn gió, tôi sẽ thuật chuyện của TÔ ĐÔNG PHA, một học giả, cũng là một thi sĩ nổi tiếng đời nhà Tống, Trung Quốc. Ông còn được mọi người biết đến là cư sĩ Đông Pha, rất thân với THIỀN SƯ PHẬT ẤN.

 

Trước Ông sống ở phía Nam sông Dương Tử, sau chuyển qua phía Bắc của sông. 




Nhà thơ Tô Đông Pha tu theo THIỀN TÔNG. Một ngày nọ ông ngồi thiền, đột nhiên cảm tác , bèn viết mấy câu thơ:

 

 

Khể thủ thiên trung thiên
Hào quang chiếu đại thiên
Bát phong xuy bất động
Đoan tọa tử kim liên.



Khể thủ :  NHẤT TÂM ĐẢNH LỄ

 

Thiên trung thiên : ĐỨC PHẬT THÍCH-CA MÂU-NI





Hào quang chiếu đại thiên : ÁNH HÀO QUANG CỦA NGÀI CHIẾU KHẮP ĐẠI THIÊN, GỒM 1 TỶ THẾ GIỚI.



 

Bát phong : TÁM NGỌN GIÓ

 

1. Dự : KHEN

2. Hủy : CHÊ

3. Khổ : KHỔ

4. Lạc : VUI

5. Lợi : LỢI

6. Suy: HẠI

7. Đắc : ĐƯỢC

8. Thất : MẤT

 

“DỰ” là được người KHEN ngợi, chẳng hạn: Ông là người học giỏi. Hoặc: Bạn có nhân cách và người đạo đức rất tốt. Nhưng quý vị sẽ không xem những lời khen ấy là hay, là tốt đẹp, bởi vì nếu động TÂM vì lời khen ấy, chứng tỏ quý vị chưa có ĐỊNH LỰC.

 

“HỦY”, có nghĩa là CHÊ bai, những lời nói làm tổn thương người khác. Thường, con người thích khen hơn là chê. Đây là ngọn gió khiến người ta khó giữ được TÂM bình tĩnh và thường tự hỏi – “Tại sao HỌ lại ĐỐI XỬ VỚI tôi như thế ?”

 

 

“KHỔ”, cũng là một ngọn gió bao hàm nhiều phương diện đau khổ về THÂN hoặc TÂM, và “LẠC” cũng vậy. Quý vị cảm thấy tốt đẹp, nhưng đừng cho đó là quan trọng, vì khi tâm quý vị thấy thích thú, tức đã bị gió làm lay động rồi và khổ cũng vậy.

 

“LỢI”, chỉ một điều gì đó giúp ích quý vị được mau thành tựu.

 

“SUY” có nghĩa tổn hại, là những tệ hại đối với quí vị.

 

“ĐẮC” là được điều gì đó, “THẤT” là mất mát. Khi được, chúng ta thấy vui; còn khi mất thì đâm ra buồn bã, bực bội. Chẳng hạn chúng ta mua một máy RADIO, một MÁY ẢNH hoặc một cái KÍNH THIÊN VĂN, mua đó có nghĩa là được. Nhưng chúng ta sơ ý để mất đi, khi ấy chúng ta cảm thấy rất đau khổ vì sự mất mát đó. Đây chính là TÁM NGỌN GIÓ làm con người luôn bị lay động.

 

Nhưng Tô Đông Pha cho rằng cả tám gió cũng CHẲNG LÀM ÔNG GIAO ĐỘNG (xuy bất động) vì ông ta  đang ngồi trên tòa sen vàng, (Đoan tọa tử kim liên)và ông đã gửi bài thơ đến THIỀN SƯ PHẬT ẤN để được sự ẤN CHỨNG cho.

 

THIỀN SƯ PHẬT ẤN ghi vào bài thơ ấy mấy chữ, có đầy đủ các ý nghĩa. Nhưng nhà thơ chỉ xem lướt qua, không lãnh hội được Ý NGHĨA của THIỀN SƯ! Cho nên, liền nổi cơn THỊNH NỘ.

 

Mấy chữ đó là gì? – Giống như “HƠI HÔI TỪ HẬU MÔN”.

 

 

 

Tô Đông Pha ném bài thơ vào bếp than, liền tức tốc qua bên kia sông, đến tìm THIỀN SƯ PHẬT ẤN.

Ông là loại người gì hả? Ông TĂNG SẤU XA? Có gì hay khi ông SỈ NHỤC người ta chứ?”THIỀN SƯ PHẬT ẤN điềm tĩnh bảo: “ÔNG lại vì LỜI NÓI của tôi mà bị GIÓ THỔI từ bên kia sông qua đến bên đây, phải không?”.

 

Tô Đông Pha nghĩ lại, ÔNG thấy thiền sư nói đúng, nên chỉ còn cách cúi đầu quay về.

 

Sutra:

As the wisdom and brightness are held steadfast, a profound stillness pervades. The stage at which the majesty of this stillness becomes constant and solid is called the Mind that Resides in Samadhi.

Commentary:


As the wisdom and brightness are held steadfast, a profound stillness pervades. This means that you must hold onto the light of wisdom and not let it go slack. Then there is a profound stillness that extends throughout the dharma-realm. The stage at which the majesty of this stillness becomes constant and solid is called the Mind that Resides in Samadhi. The "profound stillness" represents what is "tranquil and eternally illumining," and the "majesty of this stillness" represents what is "illumining and eternally tranquil." "Solid" here refers to the solidifying of the water of wisdom. It had been shallower before; now it deepens. "Solid" represents samadhi-power.

At this point, one will not be moved. One would not say, "That looks good," and run in that direction, and then say, "But that looks even better," and run to the next thing. One would not be always pursuing something better. If one had samadhi-power, one would not run about hither and thither. A wind out of the east would not bend one westward; nor would a west wind blow one eastward. That just means that one would not be moved by the eight winds.

In order to tell about the eight winds, we must talk about the famous Song dynasty scholar and poet Su Dong Po. He was known as layman Dong Po and he carried on a dialogue with Dhyana Master Fo Yin. The former lived on the south bank of the Long River (Yang Tze) at Chen Chiang, and the latter on the north bank of the river.

The poet Su Dong Po meditated and cultivated, and one day in meditation he saw a state that moved him to write a verse. The verse went:

I bow my head to the God among gods.
And a ray of light illumines the great thousand worlds.
The eight winds cannot move me,
As I sit aloft a purple golden lotus.
The "God among gods" refers to the Buddha.

The poet claimed that when he bowed to the Buddha, he emitted a light that went throughout the universe. The eight winds are:

1. praise,
2. ridicule,
3. suffering,
4. bliss,
5. benefit,
6. destruction,
7. gain,
8. loss.

"Praise" is someone's saying things like, "You are an excellent student. You really apply yourself. You have a fine personality and a good moral character." But you shouldn't look upon praise as something good, because if you are moved by it, you just prove that you don't have any samadhi-power. The eight winds are difficult for cultivators to bear.

"Ridicule" means to chide or tease or use sarcasm. It's to use words in such a way as to break a person down. It may sound like praise but it's thick with sarcasm. This wind can cause one to lose one's temper. "How can you treat me like that!" is a typical reaction.

"Suffering" in all its manifold aspects is also one of the winds, as is "bliss." You may feel good, but you should not think that it's a great thing, because as soon as your mind moves to acknowledge the pleasure, a wind has moved you.

"Benefit" refers to something that will help you out. "Destruction" means something unbeneficial which is bad for you. "Gain" refers to getting something, "loss" to losing it. Getting something makes you happy; losing something upsets you. For instance, a person buys the latest model of a very fancy radio. He's so taken with it that he even dreams about it at night. Or maybe it's a camera or a telescope.

In general, just imagine the thing that you are most fond of: buying it is what is meant by "gain." But once you have it, of course, other people find it attractive, too, and who would have guessed that someone would wait until you are a bit careless and steal it from you? At that point, your ignorance arises and you are afflicted by your loss. That's to be moved by the eight winds. But Su Dong Po said that the eight winds did not move him as he sat aloft a purple golden lotus. He had his servant take the poem to Chan Master Fo Yin for his critique.

Chan Master Fo Yin scribbled two words across the poem. The two words were very meaningful, but Su Dong Po couldn't handle them. He exploded in a rage as soon as he glanced at them. What were the words? "Fart, fart."

Su Dong Po grabbed the poem, threw on his coat, and stormed across the river to confront Chan Master Fo Yin.

"What kind of bad-mouthed monk are you?" he demanded of the Chan master. "What right do you have to scold people like that?"

"But you said the eight winds would not move you," Chan Master Fo Yin replied calmly. "How is it that my two little farts have blown you all the way across the river?"

Thinking it over, Su Dong Po saw how right the Chan Master was, and so he hung his head and went back home.







6. Bất-thoái-tâm

 

(The Mind of Irreversibility)

 

 

Kinh văn:

 

Định quang phát minh  minh tánh thâm nhập  duy tiến vô 退thoái  danh Bất 退Thoái Tâm 

 

( Định quang phát sáng, tánh sáng tiến sâu vào, chỉ có tiến chứ không thoái lui, đây gọi là BẤT THỐI tâm. )

 

 

Giảng giải:

 

Khi TÂM trụ trong định, Định quang phát sáng, tánh sáng tiến sâu vào. Bậc thiện tri thức đang tu tập này, họ chỉ có tiến chứ không thoái lui. Khi đã hiểu rõ, họ chỉ tiến TU chứ không còn THOÁI LUI nữa. Lý do họ không thể thoái lui là vì họ đã thực sự hiểu biết tường tận, nên họ có trí huệ CHÂN THẬT, đây gọi là BẤT THỐI tâm. TÍN TÂM NẦY không bao giờ bị thoái lui trở lại.

 



Sutra:


The light of samadhi emits brightness. When the essence of the brightness enters deeply within, they only advance and never retreat. This is called the Mind of Irreversibility.

Commentary:

Once the mind resides in samadhi, the light of samadhi emits brightness. When the essence of the brightness enters deeply within these good people who are cultivating, they only advance and never retreat. Since they understand, their only intent is to progress, and they never turn around and go back. The reason they are irreversible is that they truly and genuinely understand. They have real wisdom. This is called the Mind of Irreversibility, the mind of faith that never retreats.







7. Hộ-pháp-tâm

 

( The Mind that Protects the Dharma ) 

 

Kinh văn:

 

Tâm tiến an nhiên  bảo trì bất thất  thập phương Như Lai  KHÍ PHẦN giao tiếp  danh Hộ Pháp Tâm 



(Tâm AN-NHIÊN tiến tới, giữ gìn không mất, họ giao tiếp với PHÁP-THÂN của mười phương Như Lai,  đây gọi là HỘ-PHÁP tâm. )

 

 

Giảng giải:

 

Tâm AN-NHIÊN tiến tới, là họ luôn tiến về phía trước, càng kiên định tiến tới, thì càng được an nhiên tự tại, lại giữ gìn không mất, đây là TÂM bất thối của họ. Những người tu ấy giao tiếp với PHÁP-THÂN của mười phương Như Lai.

 

Khi một người tu hành đến độ không còn THỐI LUI thì năng lực của họ sẽ giao tiếp với PHÁP-THÂN của chư Phật, đây gọi là HỘ-PHÁP tâm.

 

Điều ấy có nghĩa chư Phật BẢO HỘ quý vị, và quý vị HỘ TRÌ Phật pháp. Với sự bảo hộ của chư Phật, chúng ta có thể TRẢ HẾT nghiệp của mình TRÊN ĐƯỜNG  tu; sự hộ trì của chúng ta, Phật pháp sẽ phát triển, lan rộng và đây là tín tâm HỘ PHÁP vậy.

 


Sutra:

When the progress of their minds is secure, and they hold their minds and protect them without loss, they connect with the life-breath of the Thus Come Ones of the ten directions. This is called the Mind that Protects the Dharma.

Commentary:

When the progress of their minds is secure, they go ever forward; they never fly off the handle. They are firm and at peace, and they hold their minds and protect them without loss, so that their minds never retreat. Then they connect with the life-breath of the Thus Come Ones of the ten directions. When one reaches the point of irreversibility, the energy-force of the Buddhas unites with one's own. This is called the Mind that Protects the Dharma. This means that the Buddhas protect you, and you protect the Buddhadharma. With the Buddha's protection, you can accomplish your karma in the Way. With your protection, the Buddhadharma can spread and grow. So this is the mind of faith that protects the dharma.







8. Hồi-hướng-tâm

 

( the Mind of Transference)

 

 

Kinh văn:

 

Giác minh bảo trì  năng dĩ diệu lực  hồi Phật từ quang  hướng Phật an trụ  do như song kính  quang minh tương đối  kỳ trung diệu ảnh  trùng trùng tương nhập  danh Hồi Hướng Tâm 



( Giữ gìn tánh giác minh, họ có thể dùng diệu lực xoay chuyển trở về từ quang của Phật và hướng tới Phật mà an trụ, giống như hai tấm kính được đặt đối diện nhau, trong đó các hình ảnh phản chiếu lẫn nhau, lớp lớp vi diệu chồng lên nhau, đây gọi là HỒI HƯỚNG tâm.)

 

 

Giảng giải:

 

Giữ gìn tánh giác minh, có thể dùng diệu lực, giao tiếp với PHÁP-THÂN của đức Phật là một loại giác ngộ. Khi gìn giữ, sự giác ngộ này có đầy đủ trí huệ và khả năng nhận thức, KHÔNG MẤT ĐI được. Như vậy, họ sẽ xoay chuyển trở về từ quang của Phật và hướng tới Phật mà an trụ

 

Với diệu lực ấy, quý vị có thể giao tiếp với từ quang của Phật. PHÁP-THÂN HUỆ-MẠNG của quý vị sẽ  tương tác qua lại với PHÁP-THÂN HUỆ-MẠNG của đức Phật, giống như hai tấm kính được đặt đối diện nhau, trong đó các hình ảnh phản chiếu lẫn nhau, lớp lớp vi diệu chồng lên nhauđây gọi là HỒI HƯỚNG tâm. Tức là TÂM hướng tới PHÁP-THÂN HUỆ-MẠNG của đức Phật.

 

 

Sutra:

Protecting their light of enlightenment, they can use this wonderful force to return to the Buddha's light of compassion and to come back to stand firm with the Buddha. It is like two mirrors that are set facing one another, so that between them the exquisite images interreflect and enter into one another layer upon layer. This is called the Mind of Transference.

Commentary:


Protecting their light of enlightenment, they can use this wonderful force. To join with the life-breath of the Buddha is a kind of enlightenment. When protected, this enlightenment is replete with wisdom and intelligence which is without loss. These people can return to the Buddha's light of compassion and to come back to stand firm with the Buddha. With this subtle wonderful power, you can unite with the Buddha's bright compassion. Your life-breath and light interact with the Buddha's life-breath and light, like two mirrors that are set facing one another, so that between them the exquisite images interreflect and enter into one another layer upon layer. When two mirrors are placed opposite one another, their images interreflect repeatedly. They display infinite layers of intereflection. This is called the Mind of Transference, the mind of faith that dwells in transference of merit.







9. Giới-tâm TRỤ

 

 (The mind that resides in precepts )

 

Kinh văn:

 

   回。獲             淨。安住無為。得無遺失。名戒心住。

 

Tâm quang mật hồi, hoạch Phật thường ngưng vô-thượng  diệu-tịnh, an - trụ  vô - vi, đắc  vô  vi  thất, danh Giới-Tâm Trụ.

 

( Tự tâm thầm xoay Phật quang trở lại, được vô thượng diệu tịnh thường trụ của Phật, an trụ nơi vô vi, được không sót mất, đây gọi là GIỚI TÂM trụ. )

 

Giảng giải:

 

Tự tâm thầm xoay Phật quang trở lại, được vô thượng diệu tịnh thường trụ của Phật.

 

Đến giai đoạn này sẽ có sự tương giao thầm lặng giữa ánh sáng TÂM của quý vị và ánh sáng TÂM của đức Phật, đây là sự “Bí-mật tương giao ánh sáng”.

 

Ánh sáng từ tâm của quý vị chiếu đến tâm của đức Phật, và ánh sáng  từ tâm của đức Phật chiếu đến tâm của quý vị. Đấy là sự xoay vòng ánh sáng, và người tu ấy thường nhận được ánh sáng từ tâm đức Phật.

 

An trụ nơi vô vi, được không sót mất.

 

Khi đạt được pháp vô vi, thì họ sẽ không có sự mất mát nào có thể xảy ra (VÔ-LẬU)đây gọi là GIỚI TÂM trụ.

 

 

HỮU-LẬU là còn phiền não, sinh tử, luân hồi.

 

VÔ-LẬU là KHÔNG còn phiền não, sinh tử, luân hồi.

 

LẬU-TẬN THÔNG là một trong sáu phép thần thông của hàng A-La-Hán. Phép thần thông này thấy rõ mình đã vĩnh viễn thoát khỏi sinh tử, luân hồi, dứt hết mọi phiền não mê lầm. Chỉ cho người NGHIÊM TRÌ GIỚI LUẬT mới được mà thôi, đây gọi là GIỚI-TÂM  TRỤ.






Sutra:

With this secret interplay of light, they obtain the Buddha's eternal solidity and unsurpassed wonderful purity. Dwelling in the unconditioned, they know no loss or dissipation. This is called the Mind that Resides in Precepts.

Commentary:

With this secret interplay of light, they obtain the Buddha's eternal solidity and unsurpassed wonderful purity. At this point, there is a hidden connection between the light of your mind and the light of the Buddha's mind; that is what is meant by the "secret interplay of light." The light of your heart reaches to the Buddha's light, and the Buddha's light reaches to your heart. After the light of the Buddha has entered your heart, it returns to the Buddha. After the light of your mind has entered the Buddha's mind, it returns to your own mind.

This interplay of light goes full circle. One thus obtains a constant illumination from the Buddha. In fact, one simply becomes one with the Buddha. This purity is incomparable. Nothing surpasses it. Dwelling in the unconditioned, they know no loss or dissipation. One has obtained the unconditioned dharmas, and no loss can occur. This is called the Mind that Resides in Precepts.



2. THẬP TRỤ

    (The Ten Dwellings)

 

3. THẬP HẠNH

    (The Ten Conducts)

 

4. THẬP HỒI HƯỚNG

    (The Ten Transferences)

 

5. TỨ GIA HẠNH (Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế đệ nhất)

    (The Four Positions of Additional Practices)

 

6. THẬP ĐỊA

     ( The Ten Positions of the Ten Grounds)

 

7. ĐẲNG GIÁC

    (The Position of Equal)

 

 

 

 


Comments

Popular posts from this blog