KHAI THỊ
VÀ THAM VẤN
Hòa thượng TUYÊN HÓA giảng kinh Thủ-lăng-nghiêm này vào năm 1968. Vài năm sau, ngài khai thêm pháp hội tham cứu về Năm mươi hiện tượng ấm ma trong Kinh Thủ-lăng-nghiêm tại Vạn Phật Thánh Thành và Kim Luân Thánh Tự. Trong suốt thời gian pháp hội, tứ chúng đều được tham dự. Hòa thượng giảng giải từng phần của Năm mươi hiện tượng ấm ma đồng thời chỉ dẫn từng chi tiết phương pháp để tu tập. Phần chú thích dưới đây được trích từ phần tham hỏi của các đệ tử và lời khai thị của Hòa thượng.
1. HÒA THƯỢNG GIẢNG VÀO THÁNG
GIÊNG NĂM 1983
Tất cả mọi người đều thích tiền, họ nghĩ rằng:
“Thiên mệnh chi vị tiền, suất tánh chi vị tiền,
tiền giả dã bất khả tu du li dã, khả ly phi tiền
dã.”
(Thiên mệnh gọi là tiền, thuận theo tánh gọi là
tiền. Tiền không thể rời xa chỉ trong khoảnh
khắc. Có thể rời được chẳng phải là tiền).
Phàm phu trong thế gian thường mắc phải vấn đề
này, họ chẳng phóng xả được. Chẳng có gì tệ hại nếu chỉ một
mình quí vị là người bị tiền đầu độc. Nhưng quí vị muốn đầu độc con và
cháu mình, thế nên quí vị đã dành dụm tiền bạc lại cho con trai, con gái mình.
Con của quí vị lại để dành tài sản lại cho con của nó, rồi lớp đó truyền
gia sản lại cho con cái của họ nữa. Trao truyền tiền bạc lại cho con cháu
trước sau như vậy cũng như bị đầu độc bởi một thứ không khí mà người ta
không thể thở nổi. Điều này thật đáng sợ. Do vậy nên ở đây tôi nói
với quí vị rằng tiền bạc có chứa chất độc ở trong ấy. Vậy mà quí vị vẫn chưa
tin, vẫn muốn
luôn có được nhiều tiền. Quí vị chưa bị nó làm hại nhưng sự độc hại đó sẽ ảnh
hưởng đến
con cháu nhiều đời sau.
Trước đây tôi đã nói rất nhiều lần. Người ta cho
rằng dành dụm tiền bạc là việc tốt nhưng những người đang tu đạo không cần thiết
phải giữ tiền, không cần phải để dành tiền bạc. Chúng ta không nên suy
nghĩ: “Tiền bất khả tu du ly dã” mà phải nói lại câu đó là:
“Thiên mệnh chi vị pháp, suất tánh chi vị pháp.
Pháp giả dã bất khả tu du ly dã, khả ly phi
pháp dã.”
Pháp nghĩa là gì? Quí vị trả lời “Tôi
biết rồi đó là pháp của Phật của pháp và của Tăng.” Thực
ra quí vị chưa hiểu gì nhiều, nếu quí vị thực sự hiểu được, quí vị đã không
đánh mất
pháp của chính mình.
Rốt cục pháp là gì? Pháp là khí chất sinh
động của chúng ta. Trên nó thông cả thiên đường, dưới nó thấu cả địa
ngục. Đến mức chư Phật Bồ-tát cũng đồng một thể ấy với chúng ta, vì
khí chất sinh động ấy của chúng ta quán thôn tất cả. Khí này như hơi thở. Quán
sát kỹ ta có
thể nhận biết được nó. Bao trùm và điều động được khí ấy gọi là pháp.
Do vậy, chúng ta dứt khoát cần phải nuôi dưỡng
khí chất này. Chúng ta không nên để thất tán mà phải tu tập nuôi dưỡng khí này. Nên
nói:
“Tài bồi tâm thượng địa,
Hàm dưỡng tánh trung thiên.”
Nghĩa là:
Vun trồng mảnh đất tâm,
Nuôi dưỡng chân tánh trong sáng như bầu trời.
Đây là nghĩa nuôi dưỡng khí chất của mình. Nếu
quí vị muốn nuôi dưỡng khí chất của mình, thì đừng có rời pháp của mình. Tôi sẽ
giảng cho quí vị nghe nhiều điều cần thiết và quan trọng của pháp môn để tu
tập. Nếu quí vị lắng nghe thì rất tốt. Nếu quí vị không muốn nghe
cũng tốt. Dù sao tôi vẫn cứ nói. Đó là gì? Nếu quí vị muốn nuôi dưỡng khí chất
của mình
thì đừng nói nhiều.
Đừng nên nói chuyện nhiều trong nhà bếp. Hôm nay
quý vị nói ít hơn, chứ hai hôm trước, khi tôi đến nhà bếp và trai đường, nghe
quý vị nói chuyện như trong chợ. Mọi người đều nói năng rất lớn tiếng,
người thì bán cà rốt, người bán bắp cải, người bán khoai tây, người
bán củ đậu. Họ nghĩ gì khi đang la hét lớn tiếng như vậy? Họ đã hoàn toàn quên
Phật, Pháp,
Tăng. Không cần thiết phải gây lên cảnh huyên náo trong nhà bếp. Đó là bổn phận
của người
tu hành nên tuân theo.
Sau đó tôi thấy phòng ngủ cũng như cái chợ vậy.
Mọi người đang cãi nhau, đùa giỡn ầm ỹ khắp nơi. Chẳng ai biết họ đang nói gì
nữa. Người mà không biết tự hạn chế lời nói của mình thì khó có khả năng tu
tập. Nếu quí vị không hàm dưỡng tánh khí của mình thì quí vị sẽ không có pháp.
Do vậy “Pháp bất khả tu du ly dã” (pháp không thể rời xa,
dù chỉ trong chốc lát).
Quí vị rất dễ dãi và bất cẩn khi phí phạm pháp
này và nói chuyện suốt ngày. Tôi không thích dính líu vào chuyện của người khác, nhưng
chuyện này lại quá phổ biến. Nếu chuyện này tiếp diễn thì những người
tranh cãi suốt ngày sẽ là người phạm tội nơi Vạn Phật Thành này.
Chẳng ngạc nhiên khi chư Phật chẳng còn muốn lưu
lại nơi cõi này nữa, và chư vị Bồ-tát cũng tránh xa. Họ không muốn nghe những
người này nói chuyện tầm phào và bàn tán chuyện thị phi. Tôi nói thế
không có nghĩa là mọi người không được nói chuyện với nhau trong
Vạn Phật Thành. Mọi người nên thảo luận về một đề tài quan trọng nào đó, nhưng không
nên nói chuyện vẩn vơ suốt ngày.
Quí vị nói: “Ồ! Chẳng có chuyện gì ở đây cả
tịch mịch lặng lẽ quá ta phải kiếm người tán
chuyện chơi.”
Điều đó có thể hợp lý, nhưng sau khi quí vị tán
phét với nhau, dù sao đi nữa, quí vị cũng đã đánh mất pháp đi rồi! Nếu quí vị mất
pháp thì làm sao mà tu đạo?
2. HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA GIẢNG VÀO
THÁNG GIÊNG NĂM 1983
Ấm ma
không chỉ giới hạn trong năm mươi thứ, nó có thể là 500, 5000, hay cả 500.000 loại. Mỗi loại có thể chia thành mười thứ. Nếu
phân tích chi tiết, thì có thể đến hàng ngàn, hàng
vạn loại. Nói tóm lại, ấm ma là gì? Căn bản chẳng gì khác hơn là một lượng âm
khí xuất phát từ niệm tưởng âm của con người. Niệm
tưởng âm là niệm tham sân si, niệm ấy làm sinh
khởi các ấm: sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm. Từ trong mỗi niệm
này các loại hiện tượng âm được sinh khởi. Các hiện
tượng âm này tự nhiên xuất hiện khi công phu tu
tập của quí vị đạt đến tầm mức nào đó. Nếu công phu của quí vị chưa đạt đến tầm mức ấy, thì quí vị sẽ không gặp những thứ ấm ma
này, cho dù quí vị có muốn gặp đi nữa.
Ấm ma
chỉ xuất hiện khi nỗ lực công phu của mình đạt đến mức độ ấy. Đừng bận tâm khi nó xuất hiện. Chẳng cần phải lo sợ bị ma gá
vào.
Khi
những hiện tượng âm xuất hiện, quí vị nên giữ tâm yên tĩnh, như thể những hiện tượng ấy không tồn tại vậy. Xem nó như là không
thấy, nghe như không nghe, ngửi mà không
biết mùi vị của nó. Nếu quí vị không tự ràng buộc mình vào sắc, thanh, hương,
vị xúc, pháp thì ấm ma chẳng làm gì được quí vị. Nếu quí
vị không tham, sân, si thì quí vị sẽ hang phục
được ấm ma. Nếu quí vị không mắc phải những sai lầm như tự tư, tự lợi, mong
cầu, tham luyến, tranh dành... thì chẳng có ma nào
hại được quí vị cả.
Nay
chúng ta đang nghiên cứu về ấm ma. Chúng ta không sợ nó, chẳng có gì phải sợ
cả. Lượng khí âm này như thế nào? Đây là một thí dụ
thô thiển: khi nước sôi thì bốc lên hơi nước.
Sự bốc hơi này biểu thị rằng nước đang sôi. Các loại ma mà quí vị sẽ gặp trong
công phu chính là sự biến hóa hư huyễn sinh khởi từ
âm khí và âm tưởng trong tự tánh của quí vị.
Nếu
quí vị giữ được sự an nhiên bất động trong quá trình biến hóa hư giả này, thì
chẳng có vấn đề gì cả. Ví dụ: Chẳng có gì lạ lùng khi
nước sôi khiến bốc lên hơi nước cả. Sau khi bốc
hơi xong là nước có thể dùng được.
Khi một
người có biểu hiện ra ma khí, cũng giống như khi đem vàng ròng nung chảy, tất
cả các kim loại sẽ bị chảy tan hết, chỉ nguyên vàng ròng còn lại. Tu đạo cũng
như nung vàng vậy. Nên có câu nói: “Vàng ròng chẳng sợ gì
lò sưởi.” Quí vị phải nung chất vàng ròng trong
người và rèn cái thân Kim Cang bất hoại của quí vị.
Để đạt
được thân kim cang bất hoại, trong từng niệm, từng niệm phải nỗ lực dụng công tu hành. Bất luận đạt được trình độ nào trong
công phu tu tập cũng không được trở nên vui mừng
hay sợ hãi. Đây là cách thức cơ bản, thiết yếu nhất cho người tu tập để giải
trừ ma chướng.
3. HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA GIẢNG NGÀY
2 THÁNG 12 NĂM 1993
Đệ tử
(hỏi): Khi ngũ ấm đến lúc tiêu trừ, hành giả đã vượt qua được kiếp trược rồi. Quán sát cội gốc của sắc ấm, hành giả thấy vọng
tưởng kiên cố là cội gốc của sắc ấm?
Hòa
thượng: Hành giả vẫn còn nhiều vọng tưởng. Nó “kiên cố” là vì hành giả đã chấp trước quá sâu vào cảnh giới này.
Đệ tử:
Có phải tất cả những vọng tưởng kiên cố đều là cội gốc của sắc ấm?
Hòa
thượng: Là do khi hành giả đạt đến cảnh giới ấy có những hiện tượng ra sao? Nó có phải là cội gốc của sắc ấm hay không chẳng
phải là vấn đề. Chẳng có cách nào để xác định
được cội gốc của nó. Điều đó là hư vọng. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều y như
vậy.
“Ngũ ấm
phù vân vô khứ lai.
Tam
độc thủy bào hư xuất một.”
Năm ấm
như mây nổi, chẳng có chỗ đến đi. Ba món độc (tham sân si) như bọt nước, mất còn như hư không. Nó đều không thực. Mọi
cảnh giới đều là hư huyễn.
Đệ tử:
Nó giống như giấc mộng, trong ấy chẳng có ý nghĩa gì cả?
Hòa
thượng: Đúng vậy:
“Mộng
lý minh minh hữu lục thú
Giác
hậu không không vô đại thiên.”
Nghĩa
là:
(Trong
mơ rõ ràng qua sáu nẻo
Ngộ
rồi mọi vật thảy đều không).
4. HÒA THƯỢNG GIẢNG VÀO NGÀY 2 -12 –1993
Đệ tử:
Bạch Hòa thượng “Cảnh
giới này gọi là tinh minh hòa lẫn vào tiền cảnh.” Câu này nên hiểu như thế nào?
Hòa
thượng: Nghĩa là hành giả ấy quá lanh lợi. Anh ta có trí thông minh hư giả và
trí thế gian. Đơn giản là anh ta quá thông minh lanh
lẹ.
Đệ tử:
Bạch Hòa thượng. “Tiền
cảnh ” nghĩa như thế nào?
Hòa
thượng: Nó liên quan đến cảnh giới đã được đề cập ở trước.
Đệ tử: Thưa, có phải cảnh giới này xuất hiện khi hành giả dụng công tu tập không?
Hòa
thượng: Đó chính là cảnh giới mà hành giả đã đạt đến trước đây.
5. HÒA THƯỢNG GIẢNG VÀO NGÀY 2
THÁNG 12 NĂM 1993
Hòa
thượng: Ba hồn bảy phách (vía) của chúng ta giống như đứa trẻ con vậy. Nhưng mỗi thứ chỉ có một căn chớ không có nhiều. Do nó
điều khiển thân thể ta, nên ta có thể nói năng
hành động được. Nó được kết hợp lại với nhau, nên khi công phu tu tập của quí
vị thành tựu rồi, thì nó trở thành cái được gọi là “Phật” (nghĩa là giác ngộ) trong đạo
Phật, hoặc được gọi là Tiên trong đạo Lão. Có người chỉ có
mắt và có người chỉ có tai, thế nên họ giúp đỡ lẫn
nhau. Đứa bé có tai để nghe sẽ giúp cho người chẳng có tai. Các giác quan của
họ dung thông với nhau. Thế nên khi thành tựu được
lục căn hỗ dụng, thì tai của quí vị có thể ăn và nói
chuyện được. Có rất nhiều cảnh giới như thế này mà quí vị không thể tưởng tượng đến được.
Đệ tử:
Bạch Hòa thượng. Hòa thượng đã kể rằng, có một người đệ tử đã từng lên trời chơi và bị ma vương bắt giữ. Anh ta la lên “Ta phải làm gì bây giờ? Ta không trở về
được nữa” có
phải hồn và phách của người ấy lên đó chăng?
Hòa
thượng: Trong số ba hồn bảy vía có thể một, hai, ba hoặc bốn phách đã đi. Điều
đó không chắc. Một khi nó đi đến đó, nó tập hợp lại
với nhau, nó chẳng phải là bảy hay ba thực thể
riêng biệt. Một khi nó đi, nó kết hợp lại thành một. Đó là điều rất kỳ diệu, nó
là một khối linh khí.
Đệ tử:
Có phải do trình độ công phu tu tập khác nhau mà người ta có thể xuất hồn nhiều hay ít.
Hòa
thượng: Tốt nhất là không nên xuất hồn. Nếu cứ xuất hồn đi du ngoạn hoài, quí
vị sẽ có nguy cơ bị ma gá vào. Khi hồn vía bị ma bắt
giữ, người ta sẽ bị câm. Người chậm phát triển
trí huệ và như thực vật là những dạng như đang đề cập ở trên, vì hồn vía của họ
đã bị ma bắt giữ. Lúc đó đối với người ấy hồn là ma.
Đối với người có tu tập, trở thành thần, đó là nhờ
tánh dương. Còn nếu tu luyện nhiều hơn tí nữa, thì trở thành tiên. Nếu tu tập
đến nơi rốt ráo thì sẽ thành Phật. Tất cả các cảnh giới của
tu chứng này đều thành tựu được là nhờ sự đồng
nhất của hồn và vía.
Đệ tử:
Nếu một người “thực vật” hay người bị hôn mê, người ấy đã bị mất một trong ba hồn bảy vía. Mặc dù thân thể còn nguyên vẹn,
liệu hồn và vía ấy có rời anh ta để trở thành người
khác không?
Hòa
thượng: Nó không thể trở thành người khác được. Nó chỉ bị ma bắt (đi với ma). Nên người ấy có khi rất tỉnh táo, thông minh
nhưng có khi rất mê độn.
Đệ tử:
Điều gì sẽ xảy ra khi có người xuất hồn phách của mình để gặp chư Phật và chư Bồ-tát?
Hòa
thượng: Nếu một người tu hành chân chính sẽ có các vị Hộ pháp vô hình âm thầm giúp đỡ quanh mình. Tôi vừa gặp khá nhiều hạng
người kỳ quái này, họ rất thích xuất hồn khỏi
xác. Do quí vị không gặp cảnh giới này, nên không thể nhận thức được, hoặc hiểu
rõ được chúng. Chẳng hạn như những kinh nghiệm của
những người đã từng làm xác đồng (medium)
ở Đài Loan đã trải qua, đều là tác dụng của Năm mươi hiện tượng ấm ma.
Đệ tử:
Họ có đạt đến trình độ tu tập đó chăng?
Hòa
thượng: Họ đã tiến bộ trong tu tập và có được chút phước đức, cũng như mọi người khác. Một số học tập để trở thành người
tốt và một số học tập rồi thành người ác, những
người này đã học để trở thành kẻ ác, để làm quyến thuộc của Ma Vương.
6. HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA GIẢNG VÀO
THÁNG GIÊNG NĂM 1983
Hòa
thượng: Trong khi chúng ta nghiên cứu Năm mươi hiện tượng ấm ma, mọi người đều được hoan nghênh khi phát biểu ý kiến. Chúng
tôi muốn dùng trí tuệ của mọi người để nghiên
cứu đạo lý này. Vào thời mạt pháp, mọi người tu tập đều rất muốn nhanh chóng có được kết quả.
Họ
nghĩ rằng mình có thể đạt được một dịp may, giống như người đánh bạc mong thắng được ngay trong lần đặt cược đầu tiên. Thế nên
có người đã chạy quanh đến rất nhiều nơi, họ học
những phương pháp thực hành bí truyền, và nhiều pháp môn kỳ lạ khác. Họ nghe
nơi này có điều gì hay, thì liền tìm đến. Họ nghe
nơi kia có điều gì lạ, họ cũng chạy tới. Chạy đây đó
khắp nơi, phí phạm thời giờ trên đường. Nhưng rốt cuộc, họ chẳng hiểu được gì
cả. Chúng ta nên nhận thức rõ tình trạng này. Nếu
không chúng ta dễ dàng rơi vào đường tẻ.
Cũng
như trường hợp dùng chất độc tố kích thích. Đây là một vấn đề nghiêm trọng ở xã hội phương Tây hiện nay. Có thể nói rằng chất Hallucinogenic là một loại hóa thân khác của ma vương. Ma xuất hiện với những hình thức mới
lạ, qua độc tố kích thích khiến cho nhiều người
nghiện ngập nó. Dù cho người ta không muốn dùng chất thuốc kích thích đó, nhưng ma lực kết hợp cùng với thói xấu của họ đã khiến
họ bị câu thúc vào vòng nghiện ngập sa đọa.
Hiện nay có rất nhiều tà sư (ác tri thức) đã dùng sự trợ lực của các độc
dược này khiến họ
thấy được hào quang và những hiện tượng kỳ quái khác. Các cảnh giới này xuất
hiện là do chất độc được kích thích trong thân thể người
ấy phát huy tác dụng.
7. HÒA THƯỢNG GIẢNG VÀO THÁNG
GIÊNG 1983
Chúng
ta cần phải rất cẩn trọng trong mọi phương diện. Như câu nói:
“Sai chi ti hào, mậu chí thiên lý ”
Chỉ
sai trong đường tơ kẽ tóc, sẽ lầm đến ngàn dặm.
Chúng
ta đang tiếp tục học Phật pháp. Được học nhưng kết cục là vẫn bị đọa vào địa ngục. Sao vậy? Vì chúng ta không thực sự thực
hành theo giáo lý đã được học. Chúng ta không
tự kiềm chế mình khỏi việc nói dối, trộm cắp, tà dâm, dùng chất độc tố gây
nghiện và sát hại. Nếu quí vị không thể giữ được năm giới
này thì làm sao mà nghĩ đến việc thành Phật.
Trước
hết quí vị phải nhất định từ bỏ việc sát hại. Điều ấy không chỉ có nghĩa là ăn
chay thôi.
Quí vị
có thể nói:
“Tôi
ăn nhưng không tự tay mình giết hại các sinh vật mà!”
Điều
ấy không có nghĩa là quý vị không phạm giới sát. Giữ giới sát còn có nghĩa là không ấp ủ những oán hận người khác trong lòng
mình. Điều này không phải dễ. Như tôi đã nói từ
trước:
“Tôi
cũng có một sự thúc giục mạnh mẽ phải sát hại, nhưng tôi muốn dừng lại. Tôi muốn phóng sinh hơn là giết hại sinh vật. Nếu
tôi muốn sát hại sinh vật, tất cả những sợi lông
trên thân thể tôi sẽ biến thành phi tiễn, dao nhọn, thương giáo, xiên nhọn đâm
vào mọi người cho đến chết, những sợi lông của tôi độc
ác biết bao! Động lực giết hại sinh vật đến như
thế nên tôi nhận thức rằng sát hại chúng sanh cũng giống như giết các vị
Bồ-tát, A-la-hán, phá hòa hợp Tăng và làm thân Phật chảy máu. Đó là lý do mà
tôi không bao giờ sát hại chúng
sanh.”
Giới
không trộm cắp là khi lấy một vật gì bằng cách không chính đáng, hoặc lấy vật
của người khác, không thuộc của mình, không biết chủ
nhân là ai, đều được xem như trộm cắp. Nếu
quí vị lấy một vật từ một nơi nào đó mà không ai biết là quí vị đã ăn cắp.
Nhân, duyên, phương pháp và nghiệp của trộm cắp được giảng
giải rất kỹ trong kinh Phạm Võng. Nhân duyên,
phương pháp và nghiệp của việc sát hại cũng được giảng giải rất kỹ trong kinh
này.
Không
tà dâm cũng giống như vậy. Bao gồm luôn cả việc không có một niệm tưởng dâm dục nào ở trong tâm và trọng tự tánh của
mình.
Để giữ
giới vọng ngữ, quí vị không được nói dối trong bất kỳ tình huống nào.
Không
được dùng những chất độc tố gây nghiện. Chất kích thích từ rượu khiến cho quí vị không thể hoạt động một cách bình thường, nó
cũng gây cho quí vị đánh mất trí tuệ. Một khi có
sự việc gì xảy ra, quí vị xử sự như kẻ ngu si.
Đây là
năm giới: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không sử dụng chất độc tố gây nghiện. Người Phật tử
nên chú tâm giữ gìn năm giới này, và tránh sự vi
phạm dù chỉ những lỗi nhỏ nhất. Chỉ như vậy, quý vị mới đủ tư cách được gọi là
Phật tử. Một số trong quý vị đôi khi cũng có tư tưởng sát
hại, trộm cắp, tà dâm, lừa gạt người và thỉnh
thoảng cũng dùng chất kích thích. Quý vị tham đắm vào rất nhiều thứ. Tham ăn
cũng tương tợ dùng thuốc kích thích. Nếu quý vị tham
ăn uống, ăn đến mập phì ra, thì cũng giống như
quý vị đã dùng chất kích thích. Chúng ta là những người học Phật nên thường
xuyên tự mình quán xét điểm này. Chúng ta phải rất chú
tâm, không nên phạm một sai lầm dù rất nhỏ.
Mặt
khác, chúng ta không nên quá cứng ngắc. Chúng ta nên áp dụng giới luật một cách rất linh động.
Quý vị
thường nói: “Thế là ta có được chỗ để
phương tiện rồi. Ta có thể sát hại, trộm cắp,
tà dâm, nói dối và dùng chất kích thích.”
Đó
chẳng phải là nghĩa linh động. Nghĩa là chúng ta không nên tự trói mình trong
năm giới quá chặt đến nỗi ta không còn cựa quậy đâu
được nữa cả. Khi ta thọ năm giới, ta phải quán
xét kỹ lưỡng điều này. Có người ở Canada đã dùng tên tôi để lừa bịp đệ tử của
họ. Nói dối rằng tôi đã ấn chứng cho họ. Người tạo tội
đại vọng ngữ như vậy chắc chắn sẽ rơi vào địa
ngục bạt thiệt.
8. HÒA THƯỢNG GIẢNG NGÀY 2 THÁNG
12 NĂM 1993
Trước
đây chuyện Lưu Kim Đồng bị ma gá là biểu hiện sự tác quái của một trong Năm mươi hiện tượng ấm ma. Nay có thêm hai người bị
ma gá nữa. Một trong số đó rất nguy hại, vì cô
ta biết pháp nhiếp hồn. Một phụ nữ từ San José đã quy y với tôi, về sau đến học
với cô ta và trở về lại thì bị mắc bệnh ung thư
(cancer). Đó là việc lấy người khác làm trò đùa của cô ta. Về sau người phụ nữ ở San José tìm gặp
tôi, tôi chẳng còn để ý đến việc đó nữa. Mặc dù tôi
sẽ giúp cho cô ta chữa lành bệnh, nhưng sẽ không để cho mọi người biết cô ta
mắc bệnh ung thư.
9. HÒA THƯỢNG GIẢNG VÀO THÁNG
GIÊNG NĂM 1983
“Khi
thọ ấm trở nên rỗng suốt hư diệu, hành giả không còn vướng mắc với trạng thái tà lự.”
Đến
lúc này, thọ ấm đã hết, hành giả đang ở trong tưởng ấm, nó vốn rất vi tế và nhỏ nhiệm. Vi tế là khi ông không còn vọng tưởng,
thì ông sẽ không còn bị quấy nhiễu bởi tạp niệm,
bởi trạng thái tà lự. Đó là do cảm giác bất an và sợ hãi. Bất an và sợ hãi điều
gì? Giống như có người nước Kỷ cứ lo sợ không biết lúc nào
thì trời xanh kia sẽ sập xuống. Đó là ông ta đã
ở trong trạng thái tà lự. Nay hành giả không còn bị vướng trong trạng thái là
lự ấy nữa, không còn tình trạng đó trong ông ta nữa.
Tuy
nhiên anh ta không đủ sức để chống lại với phiền não đến từ bên ngoài, do vì tham ái và mong cầu vẫn còn hiện hữu trong tâm trí
anh ta. Vì tư tưởng tự tư và tự lợi vẫn còn ẩn dấu
bên trong, nên hành giả sẽ bị tấn công bởi môi trường bên ngoài.
“Tà lự” không
những liên quan đến vọng tưởng mà còn liên hệ đến sự bất an và sợ hãi nữa. Khi bạn thấy sợ hãi một điều gì, nghĩa là
bạn có tà lự, khi người khác áp chế bạn, bạn sợ phải
nói đến điều ấy, thì đó cũng là một trạng thái tà lự.
10. HÒA THƯỢNG GIẢNG VÀO THÁNG
GIÊNG 1983
Trong
khi ta đang khảo sát các hiện tượng trong Năm mươi ấm ma, có thể có 500 loại ấm ma hiện đến, thế nên các ông nên mở rộng
cửa để mời nó đến quấy phá mình. Dù là ma nó
cũng hỗ trợ cho công phu của mình trong chiều hướng nghịch. Nó sẽ khảo nghiệm xem thử chí nguyện ông có kiên định hay không? Nếu
đạo tâm ông thật sự kiên cố thì dù có cả
ngàn loại thiên ma cũng không thể nào làm cho ông xao động, vạn loại thiên ma
cũng không làm cho ông thối thất, ông sẽ không còn sợ
hãi điều gì hết, vì ông không mong cầu điều
gì cả.
Nên có
câu: “Đáo vô cầu xứ tiện vô ưu.”
Nghĩa
là: Tâm đạt đến chỗ không mong cầu thì chẳng còn phải lo ngại điều gì nữa cả.
Do ông
không mong cầu điều gì nữa, nên ông không sợ hãi điều gì cả. Thông thường người ta sợ hãi điều gì? Một số người sợ ma vì
những hình thù quái dị của nó. Họ biết rằng một số
người hóa thành ma sau khi chết đi, chẳng có ai sợ hãi các vị Thần, mặc dù có
những vị như Thần Kim Cang có hình thù rất dữ dằn.
Khổng Tử từng nói: “Kính quỷ thần nhi viễn chi.”
Các ông nên hết sức kính trọng quỷ thần, nhưng đừng tiếp cận với họ, các ông
chẳng nên sợ hãi cả quỷ lẫn thần.
Cũng
chẳng nên sợ ma. Nó chỉ là một loại đến để khảo nghiệm ông trong công phu tu tập thôi. Nếu ông sợ nó, thì nó sẽ đến dù ông
không mong mỏi. Bí quyết là ở chỗ không sợ. Nếu
ông không sợ, thì ông là người chân chánh, và ông có thể hàng phục tất cả. Ma
quỷ đều sợ những người chân chánh. Nếu ông được như vậy,
thì ma sẽ dần dần bị chinh phục, và rồi sẽ
khấu đầu đảnh lễ ông.
11. HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA GIẢNG
NGÀY 21 THÁNG 5 NĂM 1989
Hòa
thượng: Thiện xảo ở đây hoàn toàn
không phải là phương tiện thông thường, thiết thực.
Phương tiện thiết thực là một phương pháp thông dụng. Phương tiện thiện xảo mà
hành giả có ở đây rất tài tình, vi diệu và không thể
dò tìm ra dấu vết được, vì hành giả đã vận dụng nó một
cách rất tuyệt diệu. Ông không thể cho rằng những điều ông đã nghe chỉ đơn
thuần là phương tiện.
Đệ tử: Phải chăng hành giả mong cầu phương tiện thiện
xảo là để giáo hóa chúng sanh?
Hòa
thượng: Không chỉ trong việc giáo
hóa, mà trong tất cả mọi phương diện khác, hành
giả đều có trí huệ thiện xảo này. Những phương pháp thông thường thiết thực
nhất đều có thể được mọi người nhận ra. Nhưng loại phương
tiện thiện xảo đề cập ở đây không dễ gì được
nhận ra ngay bởi người khác, vì hành giả đề cập tới nó một cách rất hợp lý và
tài tình. Ông không thể nào tìm ra thấy chút lỗi lầm nơi
lời nói của họ.
12. HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA GIẢNG
THÁNG GIÊNG NĂM 1983
“Ma
được dịp thuận tiện.” Đó là nó nắm được cơ hội do hành giả mở cửa khi
mong khởi tâm mong cầu. Chẳng phải dễ gì hiểu được ý
thú của kinh, các ông có thể lầm lạc chút xíu
ngay trong kiến giải của riêng mình.
13. HÒA THƯỢNG GIẢNG NGÀY 21 THÁNG
5 NĂM 1989
“Cho
tinh thần gá vào người khác, dùng miệng người ấy giảng nói kinh pháp.”
Có hai
cách để giải thích ý này: Có thể hiểu là ma chiếm đoạt thân xác người khác, rồi giảng pháp cho người mà nó đã chiếm đoạt nghe.
Cũng có thể hiểu là ma chiếm đoạt định lực
của hành giả, ngay cả những kiến giải của hành giả. Có hai cách hiểu như vậy.
Khi hành
giả ở trong trạng thái tưởng ấm. Thiên ma không thể chiếm đoạt và nhiễu loạn tâm hành giả một cách trực tiếp được. Ví dụ như
hành giả vô ý múa thái cực quyền và la hét lớn
lên, anh ta biết rõ những gì đang xảy ra và biết đó là sai lầm, thì ma không
thể nào quấy phá anh ta được. Mặt khác nếu một người không tu
tập gì cả, anh ta sẽ không biết ma nhập ra sao và
sự việc diễn biến như thế nào cả? Hầu hết mọi người không có công phu đều rơi
vào trường hợp này. Ma nhập vào người và nói thông
qua miệng, lưỡi của người đó. Sau khi ma đi
khỏi rồi, ông thử hỏi người ấy điều gì sẽ xảy ra thì họ không thể nào biết
được. Là vì tâm của
người ấy hoàn toàn mê muội. Những người không mê muội bởi ma thì sẽ giữ được
bản tâm trong sáng.
Có rất
nhiều cách hiểu, không đơn thuần chỉ có một. Nếu ông hiểu trong lời kinh nói, chỉ có ma nhập vào một người khác, thì kiến giải
của ông chưa hoàn toàn chính xác, có rất nhiều
khả năng, và mỗi tình huống lại phát triển theo nhiều chiều hướng khác nhau, vì
thế nó không nhất định.
Trong
khi kinh văn có thể được giải thích bằng mọi cách cho có ý nghĩa thì việc phiên dịch kinh không nên hạn cuộc vào một lối giải
thích cá biệt. Kinh ví như biển, lời dịch ví như
sông, sông có thể chảy về biển bằng nhiều dòng, vậy nên các ông không nên lấy
một con sông cá biệt nhỏ nhoi để đại diện cho biển cả
mênh mông.
14. HÒA THƯỢNG GIẢNG NGÀY 2 - 12 –
1993
Đừng trở nên dính mắc vào lời kinh, kinh cho
chúng ta một ý nghĩa tổng quát về những gì có
thể diễn ra, nhưng mỗi tình huống cá biệt đều khác nhau. Không những chỉ có năm mươi, mà có thể sẽ có 500, 5000 hoặc ngay cả
50.000 hiện tượng ma. Có rất nhiều hiện tượng
đến nỗi chúng ta sẽ không bao giờ thôi nói về chúng. Năm mươi hiện tượng ấm ma này chỉ là một tập hợp tổng quát. Quý vị đừng
nên nghĩ rằng Năm mươi hiện tượng ấm ma này
như một thứ gì cao thâm, áo diệu lắm. Hãy xem những điều này như được nói ra
bởi một người bình thường, đừng nên chẻ sợi tóc ra
làm hư.
Cách tôi giảng kinh gọi là thiển thích, tôi
không giải thích sâu xa. Khi tôi giảng kinh, mục
đích duy nhất là để cho mọi người đều hiểu được những gì tôi muốn nói, và đối
với tôi là hiểu được những gì mọi người muốn nói. Đừng
nên nghĩ quá sâu, bất kỳ ai suy nghĩ quá sâu xa
sẽ không bao giờ thỏa mãn được sự tìm tòi giải thích, đừng nên đập đầu vào
tường khi cố gắng tìm hiểu chính xác những gì người ta
nói. Tóm lại kinh nầy là lời dịch, không đến nỗi
cứng nhắc cố định để các ông chẳng thể thêm bớt đi một lời nào cả. Kinh nầy
không tương ứng một cách chính xác với bản gốc
Sanskrit, nên tôi chỉ cố gắng chuyển ngữ một cách
tổng quát. Đừng nên phí quá nhiều thời gian truy tìm những chi tiết văn chương
hoa mỹ khi dịch thuật.
Đệ tử: Ở mức
độ trong phạm vi tưởng ấm, thiên ma không còn quấy nhiễu hành giả một cách trực tiếp được nữa. Ma phải chiếm đoạt một
người khác mới có thể quấy phá định lực của
hành giả hay sao?
Hòa
thượng: Ví dụ
như một hành giả có thể thường gặp người đã bị thiên ma nhập rồi, người ấy giảng pháp cho hành giả nghe, hay (ma)
đến thách thức, khảo lượng hành giả xem công
phu ai cao thấp?
Tại Vạn Phật Thành có một sinh viên trường Đại
học California thuộc bang California thường
thấy có rất nhiều rắn đi theo anh ta, mà các ông không thể nào thấy được. Nhưng
Quả Chân lại thấy những con rắn này đến chùa Kim Sơn
để đấu pháp với tôi. Nó rất hung dữ. Sự có mặt
của anh sinh viên nơi đây lại khiến cho những con rắn có dịp chống lại tôi.
Chúng nó đã chống lại tôi suốt hơn mười năm. Sau đó, anh
ta dần dần trở nên tốt hơn. Nhưng ngay khi anh ta
trở lại trường ở Berkeley thì anh ta lại trở bệnh. Anh ta nhận ra có rất nhiều
rắn bên mình. Anh ta đã giết những con rắn này trong quá
khứ, bây giờ nó tìm anh để báo thù. Tôi đã dùng
Phật pháp để hóa giải chúng. Đó là lý do tại sao tôi đối xử với chúng như vậy
mà bất luận chúng có lưu ý đến hay không. Đây là một
tiến trình lâu dài. Hơn mười năm qua, rất nhiều
con rắn đã rời khỏi anh ta, nhưng vẫn còn nhiều con ở lại. Thông thường, có cả
bầy rắn theo anh ta. Đây là một trường hợp tương tự như
trong kinh mô tả.
Đệ tử: Khi
người ấy đến Vạn Phật Thành có phải những sinh vật ấy không dám đến tìm anh ta hay sao?
Hòa
thượng:
Không! Nó vẫn đến, khi những con rắn này đến để thách thức Phật pháp với tôi, chúng nó rất hung dữ. Đầu tiên người
sinh viên bị ma cắn chiếm đoạt thân xác quỳ xuống
trước mặt tôi, khi anh ta đứng dậy, vung tay nhìn vào tôi, thì hơi thở trở nên
nặng nhọc hơn tiếng rít của loài mèo nữa.
Đệ tử: Rồi
Hòa thượng đã làm gì cho nó? Hòa thượng có cho nó những lời quở trách tốt lành không?
Hòa
thượng: Không
tôi chỉ giả vờ xem như không có gì xảy ra cả. Mọi người thấy tôi hành xử như thể không có việc gì xảy ra, nhưng
thực ra tôi đã chuyển hóa được nó. Nó đã chống
đối lại tôi, nhưng tôi không chống lại nó. Tôi thường dùng pháp hàng phục,
nhưng chẳng lâu. Bây giờ tôi dùng pháp tiêu tai.
Đệ tử: Khi
sắc ấm đã hết, tà ma không còn nhập vào thân xác của người tu đạo để quấy phá được nữa. Nó phải nhập vào người khác. Nhưng
có pháp nào đề cập việc thiên ma có thể trực
tiếp nhập vào hành giả đang tu tập không?
Hòa
thượng: Có vô
số khả năng xảy ra. Thiên ma có thể nhập vào ngay cả một con mèo, tất cả là tùy thuộc việc ông có nhận thức
được rõ hay là không. Ma cũng có thể nhập vào
những loài vật khác, không có nguyên tắc nhất định.
Đệ tử:
Có thể
nào nhập vào chính người tu?
Hòa
thượng:
Không, nó không thể đến được người tu hành.
Đệ tử: Nhưng
trước đây, thì Hòa thượng giảng về Năm mươi hiện tượng ấm ma, Hòa thượng có nói rằng nó có thể nhập vào chính
người tu hành.
Hòa
thượng: Như
tôi đã nói không có gì cố định, lời kinh cho ta một ví dụ nhưng đó không phải chỉ là cách xảy ra, có rất nhiều biến
tướng. Mỗi trường hợp phân thành nhiều khả năng.
Đệ tử: Nhưng
không phải chính Hòa thượng vừa nói là thiên ma không thể nhập vào người tu đó sao?
Hòa
thượng: Nếu
thực sự chân chính là người tu, thì thiên ma không thể nào nhập vào được, vì có Hộ pháp hộ trì cho người đó rồi.
Đệ tử: Còn
nếu hành giả khởi lên vọng tưởng thì...
Hòa
thượng: Thiên
ma liền nhập vào người ấy ngay.
Đệ tử: Cũng
giống như khi sống trong Vạn Phật Thánh Thành, nếu chúng con tuân theo quy củ do Hòa thượng lập ra, thì chẳng có gì
quấy phá được. Còn nếu chúng con không tuân thủ
đúng theo giới luật, thì chúng nó sẽ đến phá.
Hòa
thượng: Những
người đến đây đều có mang theo nhiều dạng tà ma ngoại đạo, yêu ma quái quỷ và những linh hồn vất vưởng theo họ.
Nhưng chư vị Bồ-tát, Hộ pháp già-lam không nỡ xua đuổi họ đi. Ở đây chúng ta
đều thực hành lòng từ bi, cho nên chúng ta không
củng cố trụ xứ của mình hay đề phòng chống lại.
Đệ tử: Nếu
mọi người thực sự chân chánh tu hành, thì ma không thể nhập vào họ được. Nhưng nếu không chân chánh tu hành và khởi tâm
tham đắm, vọng tưởng, thì ma liền nhập hay
sao?
Hòa
thượng: Đúng
vậy, đó là trường hợp tà dẫn đường cho tà đi.
Đệ tử: Nếu
tà ma không thể nhập vào người tu hành ngay bây giờ, không có nghĩa là nó không bao giờ có thể nhập được. Ví dụ như khi
Quốc sư Ngộ Đạt vừa khởi một niệm cống cao
thì...
Hòa
thượng: Đúng
vậy, đó là một ví dụ rõ ràng.
Đệ tử: Ma
không thể nhập vào người tu suốt trong mười đời, nhưng chỉ vì một niệm riêng tư, nó liền có cơ hội nhập vào ngay.
Hòa
thượng: Nó
đến để đòi mạng sống.
Đệ tử: Nên
Hòa thượng nói rằng ma có nhập vào người tu được hay không là không nhất định. Nếu ai thực sự chân chính tu hành,
thì ma không thể đến gần người ấy được, nhưng
nếu không tu tập được như vậy, thì nó liền đến?
Hòa
thượng: Đúng
thế, không nhất định. Bất cứ điều gì có thể diễn đạt bằng lời đều mất đi ý
nghĩa chân xác của nó. Một khi ông đã hiểu được đạo lý này rồi, ông không nên
truy tìm những chi tiết một cách vô ích nữa. Như tôi vừa
nói, có vô số sự biến tướng và khả năng bất định.
Năm mươi hiện tượng ấm ma này có thể biến thành 500, 5000 hay 50.000 hiện
tượng. Đừng phí mất thời giờ vào những mô phỏng này.
Ông nên hiểu rằng có rất nhiều biến dạng khác
nhau từ nơi đây lưu xuất mà thành.
Tóm lại, bất cứ điều gì nói lên được đều thiếu ý nghĩa chân xác. Ông có thể nói rằng tất cả kinh điển đều là giả, nhưng ông phải tìm đạo lý chân thực ngay nơi cái giả này. Có những bộ kinh có ý nghĩa rất chân xác, có thể tin vào đó để tu tập. Nếu kinh không có ý nghĩa các ông chẳng nên tin.
15. HÒA THƯỢNG GIẢNG VÀO THÁNG
GIÊNG NĂM 1983
Ngày hôm qua mọi người đã biết có một người đang
niệm danh hiệu Phật rồi bỗng dưng
nhảy quanh, như thể đang khiêu vũ. Anh ta đã bị một loại ma gá vào, anh ta
không biết những gì đang xảy ra, và anh ta nghĩ: “Ồ, ta vừa nhập định xong.” Anh ta
giống như đứa trẻ huyên
náo, anh ta nhảy quanh như một con thỏ.
16. HÒA THƯỢNG GIẢNG VÀO THÁNG
GIÊNG 1983
Thiên ma rất thông minh. Nó thấy được những gì
ông đang tham cầu và liền dùng cái đó để
thử thách ông. Do vậy người tu hành không nên chỉ tụng niệm một bài chú đặc
biệt nào hay thực hành một pháp môn riêng biệt nào
cả.
17. HÒA THƯỢNG GIẢNG VÀO THÁNG
GIÊNG 1983
Nếu ta không tham dục, ta sẽ không có phiền não.
Nếu ông có tham dục thì mọi sự tình sẽ
phát sinh. Vạn sự, vạn vật, vạn loài trên đời này đều được sinh ra từ lòng tham
dục. Nên nói:
“Nhất
niệm bất sinh toàn thể hiện.”
Khi không còn một vọng niệm nào sinh khởi nữa,
thì thể tánh toàn chân sẽ hiển bày. Nếu
không còn một niệm tham dục nào nữa, thì Phật tánh hiển lộ.
“Lục
căn hốt động bị vân già.”
Khi sáu căn vừa dấy khởi, chân tâm liền bị mây
che khuất.
Một khi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý trở nên
dính mắc với trần cảnh, sẽ giống như mây phủ
bầu trời khiến mặt trời không thể chiếu soi được. Điều gì làm căn bản khiến cho
sáu căn sinh khởi, dao động? Đó là tham và dục.
Vì các ông không thể dừng hẳn tham và dục, nên
sáu căn biến thành lục tặc (sáu kẻ cướp) và sáu thức xuất hiện. Nếu các ông không
khởi tham dục, thì kẻ cướp, sáu căn không cướp
phá gì được, còn sáu thức không còn là thức phân biệt nữa. Mọi việc đều trở về
cội nguồn của nó và mọi phiền não sẽ tiêu vong. Các
ông nên chú ý vào chi tiết này. Tất cả là tùy
thuộc ở điểm ông có tham dục hay không. Nếu ông còn có tham dục thì ông chưa
tách rời chính mình ra khỏi ma sự. Nếu ông không còn
tham dục, thế là ông đã cùng chư Phật chung
phần.
Comments
Post a Comment