QUÁN CHỮ A
ĐẠI TỲ LÔ GIÁ NA THÀNH PHẬT
THẦN BIẾN GIA TRÌ KINH
PHẨM 1
NHẬP CHÂN NGÔN TRỤ TÂM
Tôi nghe như vầy: Một thời, đức
Bạt già phạm trụ tại cung Pháp giới kim cang rộng lớn của Như lai gia
trì. Tất cả chư vị Trì kim cang đều hội họp đông đủ. Như Lai tín giải du hý thần biến, sanh
lầu các lớn làm bằng bửu vương, cao không mé giữa, được trang hoàng bằng những
đại diệu bửu vương, có thân Bồ tát làm tòa sư tử.
Tên kim
cang của chư vị là: Hư không vô cấu chấp kim cang, Hư không du bộ chấp kim
cang, Hư không sanh chấp kim cang, Bị tạp sắc y chấp kim cang, Thiện hành bộ
chấp kim cang, Trụ nhất thiết pháp bình đẳng chấp kim cang, Ai mẫn vô lượng
chúng sanh giới chấp kim cung, Na la diên lực chấp kim cang, Đại na la diên lực
chấp kim cang, Thắng tấn chấp kim cang, Vô cấu chấp kim cang, Nhẫn tấn chấp kim
cang, Như lai giáp chấp kim cang, Như lai cú sanh chấp kim cang, Trụ vô hý luận
chấp kim cang, Như lai thập lực sanh chấp kim cang, Vô cấu nhẫn chấp kim cang,
Kim cang thủ bí mật chủ, ... Chư vị thượng thủ như thế, với chúng trì kim cang
nhiều bằng số bụi nhỏ của mười cõi Phật, cùng hợp với Phổ Hiền Bồ tát, Từ Thị
Bồ tát, Diệu Kiết tường Bồ tát, Trừ nhất thiết cái chướng Bồ tát. Chư Đại Bồ
tát ấy vây quanh sau trước đức Phật để nghe diễn nói Pháp. Pháp ấy là Ngài gia
trì vượt quá 3 thời của Như Lai, gọi là: Pháp môn “thân, ngữ, ý bình đẳng cú”.
Lúc bấy giờ, nhờ sức gia-trì của
Đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai mà Bồ-Tát Phổ-Hiền làm thượng-thủ, chư Chấp-Kim-Cang
Bí-Mật-Chủ làm thượng thủ, phấn-tấn thị-hiện Thân trang-nghiêm tạng vô-tận,
phấn-tấn thị-hiện Ngữ-ý bình đẳng trang nghiêm tạng vô-tận. Như vậy, chẳng phải
từ thân Phật Tỳ-Lô-Giá Na, hoặc ngữ hoặc ý sanh, tất cả các chỗ sanh-khởi đều
mất, các bờ mé đều không thể được. Thế mà tất cả thân nghiệp, tất cả ngữ-
nghiệp, tất cả ý-nghiệp, tất cả xứ, tất cả thời, đối với giới hữu-tình, Đức
Tỳ-Lô-Giá-Na đều diễn nói cú-pháp đạo Chân-ngôn. Lại thị-hiện hình-tượng
dung-mạo của các Bồ-Tát Chấp Kim-Cang, Phổ-Hiền, Liên-Hoa-Thủ, ... phổ
biến khắp mười phương, diễn nói cú-pháp thanh-tịnh đạo Chân-ngôn, từ lúc
phát-tâm cho đến thập-địa, thứ lớp đời này đầy đủ, nghiệp duyên sanh thêm lớn,
chủng-tử nghiệp thọ của các loại hữu-tình được diệt trừ, lại có mầm giống sanh
khởi.
Bây giờ, Ngài Chấp-Kim-Cang
Bí-Mật-Chủ đang ngồi giữa chúng-hội, bạch Phật rằng : "Bạch Thế-Tôn! Sao
gọi là Như-Lai Ứng-c úng Chánh-biến-tri, được Trí
Nhất-thiết ? Được cái Trí Nhất-thiết-trí ấy, vì vô lượng chúng sanh chỉ bày
rộng nói tùy theo các loại chúng, các loại tính dục, các loại đạo phương tiện.
Diễn nói các Trí Nhất-thiết-trí, hoặc nói thừa Thanh-văn, hoặc nói thừa Duyên
giác, hoặc nói Đại-thừa, hoặc nói 5 thông trí, hoặc nguyện sanh lên các cõi
Trời, hoặc sanh vào Nhân-gian và các loài Rồng, Dạ xoa, Càn-thát-bà, cho đến
nói pháp sanh Ma-hầu-la-già. Nếu có chúng sanh muốn được Phật độ liền hiện thân
Phật hoặc hiện thân Thanh-văn, hoặc hiện thân Duyên giác, hoặc thân Bồ Tát,
hoặc thân Phạm thiên, hoặc thân Tỳ sa môn, Na-la-diên, cho đến thân
Ma-hầu-la-già, thân Người hay Chẳng-phải Người, v.v... Đối với mỗi một trụ ở
các uy-nghi khác nhau mà nghe đồng một ngôn-âm, như vậy là Trí Nhất-thiết-trí
chỉ nói có một vị : đó là vị giải thoát của Như-Lai.
Bạch Thế Tôn ! Giống như
hư-không lìa tất cả các phân-biệt, không phân biệt và chẳng không phân biệt,
như vậy Trí Nhất-thiết-trí cũng lìa tất cả các phân biệt, không phân biệt và
chẳng không phân biệt. Bạch Thế-Tôn! Thí như đại-địa là chỗ dựa nhờ của chúng
sanh, thì Trí Nhất-thiết-trí cũng như vậy: đó là chỗ dựa nhờ của Trời, Người,
A-tu-la. Bạch Thế-Tôn! Ví như lửa thiêu đốt hết tất cả các cây củi mà không
chán đủ, thì Trí Nhất-thiết-trí cũng như thế: nó thiêu đốt tất cả củi vô-trí mà
không chán đủ. Bạch Thế-Tôn! Thí như gió trừ tất cả các bụi-bặm, thì cũng như
thế, Trí Nhất-thiết-trí trừ khử tất cả bụi phiền não. Bạch Thế-Tôn! Dụ như nước
là chỗ vui chơi của tất cả chúng-sanh, thì Trí Nhất-thiết-trí cũng như thế: nó
làm lợi-lạc cho chư Thiên và Người đời. Bạch Thế-Tôn! Trí-Huệ như vậy lấy gì
làm Nhân? Cái gì làm Căn? Cái gì là Cứu cánh?”
Đức
Phật Tỳ-Lô-Giá-Na phán với Ngài Trì Kim-Cang Bí-Mật-Chủ rằng : "Lành thay !
Lành thay Chấp Kim-Cang! Lành thay Kim- Cang-Thủ! Người hỏi Ta các nghĩa như thế,
thì hãy lắng nghe. Người khỏi ý rất lành, nay Ta nói điều ấy”. Ngài Kim-Cang-Thủ
thưa rằng : "Bạch Thế Tôn ! Như vậy đó, con nguyện muốn vui nghe". Đức
Phật liền nói: "Tâm Bồ-đề làm Nhân, lòng Bi là Gốc- rể, Phương-tiện là Cứu-cánh.
Bí Mật Chủ ! Bồ-đề là thế nào ? - Là biết tự tâm như thật. Bí Mật-Chủ ! A-nậu-đa-la
Tam- miện Tam Bồ-đề (Vô-thượng
Chánh-đẳng Chánh-giác)
pháp ấy, cho đến một chút ít, cũng không có gì để được, tại sao ? Tại vì tướng
Hư- không là Bồ-đề, không có người tỉnh biết cũng không có sự mở biết. Tại sao
? - Tại vì Bồ-đề không có tướng. Bí-Mật-Chủ ! Các pháp không tướng, là tướng Hư-Không.
Bấy giờ, Ngài
Kim-Cang-Thủ lại bạch Phật rằng: "Bạch Thế-Tôn! Ai tìm cầu Nhất-thiết-trí?
Ai vì Bồ-đề thành bậc Chánh-Giác? Ai phát khởi cái Nhất-thiết-trí ấy ?”. Phật
dạy: "Bí-Mật-Chủ ! Tự tâm cầu Bồ-đề và Nhất-thiết-trí, tại sao ? Tại vì
bổn tánh thanh-tịnh. Tâm chẳng tại trong, chẳng tại ngoài, chẳng ở khoảng giữa.
Tâm chẳng có thể được (bất khả đắc). Bí-Mật-Chủ! Như-Lai ứng chánh đẳng giác, chẳng phải xanh,
chẳng phải vàng, chẳng phải đỏ, chẳng phải trắng, chẳng phải hồng tía, chẳng
phải sắc nước trong, chẳng dài chẳng ngắn, chẳng tròn chẳng vuông, chẳng sáng
chẳng tối, chẳng phải nam chẳng phải nữ, chẳng phải nam nữ. Bí-Mật-Chủ ! Tâm
chẳng phải đồng tánh với cõi Dục, chẳng phải đồng tánh với cõi Sắc, chẳng phải
đồng tánh với cõi Vô-sắc, chẳng phải Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la,
Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, chẳng phải đồng tánh với Người, Phi-nhơn,
các thú.
Bí-Mật-Chủ ! Tâm chẳng trụ Nhãn-giới, chẳng trụ Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý-giới,
chẳng phải Kiến, chẳng phải hiển hiện. Tại sao ? Tại vì tướng Tâm hư-không, lìa
các sự phân-biệt, không phân biệt. Sở dĩ như vậy là tại làm sao ? - Đồng tánh
hư không tức đồng tánh với Tâm, đồng tánh với Tâm tức đồng tánh với Bồ-đề. Tâm,
Hư-không-giới với Bồ-đề là 3 môn không hai. Ba môn đó lấy Bi làm gốc rễ, phương
tiện Ba-la-mật đầy đủ. Bởi vậy, này Bí Mật Chủ ! Ta nói các pháp như thế khiến
cho chúng Bồ-Tát các ông, nhờ Tâm Bồ-đề thanh tịnh mà hiểu biết tự Tâm.
Bí-Mật-Chủ ! Tính loại nam, tính loại
nữ, muốn hiểu biết Bồ-đề hãy nên hiểu biết tự tâm như thế. Bí-Mật-Chủ ! Biết tự
tâm là thế nào ? - Là biết rằng: nếu chia cắt hoặc hiển sắc, hoặc hình sắc,
hoặc cảnh giới, nếu là sắc, nếu là thọ tưởng hành thức, nếu là Ngã, Ngã sở, nếu
là Năng chấp Sở chấp, nếu là Thanh tịnh, nếu là Giới, nếu là Xứ, cho đến tất
cả trong phần đoạn : cầu chẳng có thể được.
Bí-Mật-Chủ ! Môn Bồ
Tát tịnh Bồ-để-Tâm này gọi là “Sơ pháp minh đạo”. Bồ-Tát trụ ở đó mà tu học thì
chẳng phải siêng năng cực khổ lâu dài mà liền được “tam-muội trừ tất cả chướng
ngại ngăn che”. Nếu được tam muội ấy, ắt cũng với chư Phật và Bồ Tát được “đồng
đẳng trụ”, sẽ phát hiện 5 phép thần-thông, được vô-lượng ngôn ngữ âm Đà-ra-ni,
biết hành trạng của tâm chúng sanh, được chư Phật hộ trì. Tuy ở nơi sinh tử mà
không bị đắm nhiễm, vì pháp giới chúng sanh mà chẳng từ bỏ công lao cực nhọc để
thành tựu trụ giới vô-vi, thông đạt chánh-kiến, xa lìa tà kiến. Lại nữa, Bí-Mật-Chủ ! Bồ-Tát
trụ tam-muội trừ tất cả cái chướng này, nhờ sức tin hiểu, chẳng phải siêng tu
lâu dài mà đầy đủ tất cả Phật pháp. Bí-Mật-Chủ ! Lấy chỗ cốt yếu mà
nói thì người thiện nam kẻ thiện nữ như thế thành tựu được vô-lượng công đức.
Bấy giờ Ngài Kim Cang Bí Mật Chủ lại dùng
kệ hỏi Phật như vầy : Xin Đức Thế Tôn nói : Sao
là Tâm Bồ Đề sanh ?
Dựa vào hình tướng nào.
Biết phát Tâm Bồ Đề ?
Nguyện thức tâm, tâm thắng,
Nói Trí tự nhiên sanh.
Đại Cần dũng, bao nhiêu,
Thứ lớp Tâm nổi sanh ?
Các tướng Tâm và Thời,
Nguyện Phật giảng nói rộng.
Công đức tu cũng vậy,
Và các hạnh tu hành ;
Các loại Tâm sai khác,
Chỉ Đại Mâu Ni nói.
Nghe hỏi như vậy rồi, Đức Đại Tỳ Lô Giá Na bèn
phán với Ngài Kim Cang Thủ rằng :
Lành thay ! Chân tử Phật !
Tâm lợi ích rộng lớn.
Câu Đại thắng thượng thừa,
Tướng Tâm tiếp tục sanh.
Đại Bí Mật của Phật,
Ngoại đạo chẳng thể biết.
Nay ta mở bày hết,
Nên một lòng lắng nghe.
Vượt 160 Tâm,
Sanh công đức rộng lớn.
Tánh Nó thường kiên cố,
Biết đó Bồ Đề sanh.
Vô lượng như Hư không,
Chẳng nhiễm ô, thường trụ,
Các pháp chẳng lay động,
Xưa nay lặng, Vô tướng,
Vô lượng Trí thành tựu.
Chánh đẳng giác hiển bày.
Tu hành hạnh cúng dường,
Sơ
phát tâm từ đó.
Bí Mật Chủ ! Phàm phu ngu đồng sống chết từ vô
thỉ, đắm chấp Ngã danh, Ngã hữu, phân biệt vô lượng Ngã phần. Bí Mật Chủ ! Nếu
họ chẳng quán sát tự tánh của Bản Ngã, ắt sanh ra cái Ngã và Ngã sở ( Ta và cái của Ta ) ; lại chấp có thời,
địa... biến hoá, chấp Ngã Du già, kiến lập Tịnh, chẳng kiến lập không tịnh, hoặc
chấp cái Ngã tự tại thiên, cái Ngã lưu xuất và thời, cái Ngã tôn quý, cái Ngã tự nhiên, cái Ngã nội tại, cái Ngã
nhơn lượng, cái Ngã biển nghiêm, cái Ngã
thọ mạng, cái Ngã bỗ đặc giã la ( thường trụ): Ngã là cái thức, là
A Lại Da, là cái Biết, cái Thấy, là Năng chấp, Sở chấp, Nội tri, ngoại tri, Xả
đát phạm, Ý sanh ( người sanh) Nhu đồng (Thắng ngà ), thường định sanh, tiếng, chẳng phải tiếng… Bí
Mật Chủ ! Các ngã phần như vậy đó, từ xưa đến nay, tương ưng với sự phân biệt, hy
cầu được giải thoát theo thuận lý. Bí Mật Chủ ! Loại phàm phu ngu đồng giống
như con dê đực, lúc đang mê hoặc bỗng có một niệm tưởng sanh ra cái gọi là “ăn
chay”, họ tư duy một phần ít tưởng ấy, khởi tâm hoan hỷ rồi nhiều phen tu tập (theo niệm tường ấy
). Bí Mật Chủ! Đó là chủng tử của thiện nghiệp phát sanh ra lúc ban đầu.
Lại lấy đó làm Nhân, trong 6 ngày ăn chay, đem
thức ăn bố thí cho cha mẹ, thân thích nam nữ, đó là mầm giống thứ hai.
Nhân sự bố thí ấy, lại đem cho những kẻ mà mình
biết rõ là chẳng thân thích gì, đó là bào chủng thứ ba.
Lại nhân sự bố thí ấy mà đem dâng cho Người có Đức
cao, khí lượng lớn đó là giống là thứ tư.
Lại nhân sự bố thí ấy mà đem cho chư vị biết kỹ
nhạc... và dâng hiến các bậc tôn túc : đó là hoa nở thứ năm.
Lại nhân sự bố thí kia mà khởi lòng thân yêu,
nuôi dưỡng họ: đó là thành quả thứ sáu.
Lại nữa, Bí Mật Chủ ! Nhờ gia hộ sự trì giới mà
được sanh lên cõi Trời : đó là chủng tử được thọ dụng thứ bảy.
Lại nữa, Bí Mật Chủ ! dùng cái tâm sanh tử, lưu
chuyển nơi xứ sở của bạn lành, được nghe
nói những điều lành: đó là cõi Trời Đại Thiên, ban cho tất cả các điều vui sướng. Nếu tâm cúng dường trở
thành vững chắc thì tất cả sở nguyện đều
được thỏa mãn: đó là các cõi trời Tự Tại, trời Phạm thiên, trời Na La Diên, trời Thương Yết La, các cõi Hắc
Thiên, Tự tại tử thiên, Nhật thiên, Nguyệt
thiên, Long tôn... à Câu phệ lạm (la), Tỳ sa môn, Thích Ca, Tỳ lâu lặc xoa, Tỳ Thủ Yết ma thiên, Diêm ma, Diệm ma hậu,
Phạm Thiên hậu mà đời tôn thờ, Hỏa thiên, Ca lâu
là tử thiên, Tự tại thiên hậu, a đầu ma,
Đắc (Đức) xoa ca lang, Hòa Tu kiết, Thương khư, Yết cú trạo (trích) kiếm, Đại liên, âu
Lý kiếm, Ma ha phán ni, A địa đề bà, Tát đà, an đà các rồng, hoặc Thiên tiên, Đại vi đà luận sư, mỗi mỗi đều nên
khéo cúng dường. Họ nghe nói như thế, Tâm sanh mừng
rỡ ân cần, cung kính, tùy thuận tu hành.
Bí Mật Chủ! Đó là chỗ dựa vô úy của Dị sanh Ngu đồng, còn phải sanh tử lưu chuyển, đó tức là tâm Anh đồng thứ tám.
Bí Mật Chủ ! Lại nữa hạnh thù thắng là tùy theo trong chỗ người ta nói mà biết chỗ trụ thù thắng để cầu sanh Huệ giải thoát, nghĩa là họ nói : “thường, vô thường, không” chỉ là tùy thuận theo đó mà nói.
Bí Mật Chủ ! Chẳng phải họ hiểu biết rõ ràng cái Không, cái Chẳng không, Cái thường, cái Đoạn, Chẳng Có, Chẳng Không, đều do họ phân biệt, không phân biệt mà nói. Phân biệt cái Không là thế nào ? - Họ chẳng biết các nghĩa Không, chẳng phải là họ có thể biết Niết Bàn. Bởi vậy nên biết rõ nghĩa “Không” lìa cả Đoạn, Thường.
ĐẠI TỲ LÔ GIÁ NA THÀNH PHẬT
THẦN BIẾN GIA TRÌ KINH NGHĨA THÍCH
Hán bản: Sa môn Nhất Hạnh thuật ký
Việt dịch: Cư sĩ Trần Ngọc Anh, pháp danh Như Pháp Quân
NGHĨA
Chữ Phạn: “TỲ LÔ GIÁ NA" là Nhật, là mặt trời, tức nghĩa: chiếu sáng khắp mọi nơi, diệt trừ mọi chốn u ám. Tuy nhiên, Mặt trời ở thế gian ắt có phương phận, chiếu sáng bên ngoài mà chẳng chiếu được bên trong, chiếu sáng bên này chẳng đến bên kia, lại chỉ sáng ban ngày, còn ban đêm không thấy chiếu. Huệ nhật của Như Lai ắt không như thế: Trí sáng của Phật chiếu khắp mọi nơi, chẳng kể trong ngoài, không phân phương hướng, góc cạnh, đêm ngày. Lại nữa, hành dụng của Trí Huệ Phật, tại Diêm phù đề, làm cho tất cả cỏ cây rừng rú đều được tăng trưởng, theo tánh của mỗi một loại, mọi công việc của thế gian cũng nhờ đó mà được thành tựu.
Trí sáng như mặt trời của Như Lai chiếu khắp pháp giới, lại hay bình đẳng mở phát đủ mọi căn lành của vô lượng chúng sanh, lại hay làm cho mọi sự nghiệp thù thắng thuộc thế gian, hay xuất thế gian, không có ai chẳng nhờ đó mà được thành biện.
Lại, như lúc trời đất tối tâm, mây che nhiều lớp, mặt trời ẩn mất, nhưng chẳng hoại diệt, gió mạnh, mây tan, mặt trời hiện ra, cũng không phải mới hiện. Mặt trời của Tâm Phật lại cũng như vậy: tuy bị hý luận, phiền não, vô minh, như mây che nhiều lớp, nhưng không vì đó mà sức sáng của nó sút giảm, khi chứng được thực tướng cứu cánh của các pháp thì Huệ nhật của Tâm vẫn tròn sáng không ngằn mé, nhưng cũng chẳng tăng thêm.
Vì các nhân duyên như trên, nên dùng Mặt trời của Thế gian để dụ với Mặt trời của Tâm Phật thì chẳng đủ ý nghĩa, mà chỉ lấy được một phần nào tương tợ thôi, bởi thế đề kinh có thêm chữ “ĐẠI ” là lớn, tức thành “ĐẠI TỲ LÔ GIÁ NA” (hay Đại nhật) vậy.
THÀNH PHẬT, đầy đủ như chữ Phạn, thì phải nói là "thành Tam Bồ đề", tức là bậc "Chánh giác Chính tri", nghĩa là: bậc có Trí như thực, biết quá khứ, vị lai, hiện tại, số chúng sinh, chẳng phải số chúng sinh, hữu thường, vô thường, ... tất cả các pháp đều hiểu rõ ràng nên gọi là Giác. Như Phật là bậc Giác. Vì thế nói gọn lại là "Thành Phật.
“THẦN BIẾN GIA TRÌ", xưa dịch là “thần lực gia trì" hoặc là "Phật sở hộ niệm” (chỗ Phật nhớ giữ). Như vậy, sự tự chứng "Tam Bồ đề" này vượt qua tất cả các tâm địa, hiện biết rõ các pháp ban đầu vốn chẳng sanh, chỗ cứu cánh của lời nói, tâm hành cũng vắng lặng, nếu lìa sức uy thần của Như Lai, thì dù đến thập địa Bồ tát, vẫn còn chẳng phải là cảnh giới của chư vị, huống là đối với những người còn ở trong vòng luân hồi sanh tử. Chỉ bởi thời xa xưa, vì sức đại bi nguyện, Đức Thế Tôn có nghĩ rằng: Nếu ta chỉ trụ trong cảnh giới như vậy, các hữu tình chẳng có thể trông mong được lợi ích. Bởi vậy, trụ trong "tam muội thần lực gia trì" tự tại, vì khắp tất cả các chúng sanh mà cho họ thấy biết các loại thú môn, thấy thân được vui, nói các loại tánh dục, nghe được pháp nên nghe, tùy theo các thứ tâm hành mà mở cửa soi xét. Như thế sự ứng hóa này chẳng phải từ lời nói hay ý nghĩ mà sanh, trong tất cả các thời, các xứ, hễ khởi diệt bờ mé thì tất cả đều "chẳng có thể được" (bất khả đắc). Ví như nhà ảo sư dùng sức của chú thuật mà gia trì cho cây thuốc thì có thể hiện ra những sự việc chưa từng có, những đối tượng có thể là vui lòng năm loại hữu tình, nếu xả bỏ sức gia trì thì hết thảy đều ẩn mất. Ảo sự của Như Lai kim cang lại cũng như vậy: cơ duyên tàn tạ thì các pháp diệt, cơ duyên hưng thạnh thì các pháp sanh, tức sự là chơn thực, không có chuyện dứt mất, cho nên nói: “thần lực gia trì Kinh" vậy.
Nếu căn cứ vào bản văn chữ Phạn thì đề Kinh, nói đầy đủ, phải là “Đại quảng bác kinh, nhân đà la vương". Nhân đà la là Đế Thích, ý nói: KINH này là tạng bí yếu của tất cả Như Lai, đối với các giáo lý Đại thừa, nó có uy đức đặc biệt tôn quý, giống như nghìn con mắt làm chủ trời Đế Thích.
Nay, sợ đề Kinh quá rộng, cho nên chẳng còn giữ lại đầy đủ.
Đức Phật Tỳ Lô Giá Na
Đức Phật Tỳ Lô Giá Na
(Phạn: वैरोचन, Vairochana, hoặc Maha-Vairochana), Tỳ Lô Giá Na có nghĩa
là "tỏa sáng", là ánh sáng chiếu rực rỡ khắp mọi nơi (quang minh biến
chiếu). Ngài là Đức Phật ở trung tâm, một trong những vị Phật của Ngũ Phương
(Năm Phương). Màu của thân Ngài là màu trắng. Ngài ngồi chính giữa trên một đài
sen do tám con sư tử lớn hợp thành. Ngài có thể diệt trừ si độc của ngũ độc, si
độc của chúng sanh và có thể chuyển thức A Đà Na ( thức "duy trì")
thành Pháp Giới Thể Tánh Trí. Trong năm bộ của Chú Lăng Nghiêm thì Ngài thuộc
Phật Bộ Trung Ương.
Pháp Sư Thật Xoa Nan Đà (Siksananda) vào triều đại nhà Đường đã dùng cách dịch
danh hiệu này trong bản dịch Kinh Hoa Nghiêm tám mươi quyển (Bát Thập Hoa
Nghiêm) của ngài. Trong quyển 12, "Phẩm Như Lai Danh Hiệu" có
nói rằng, "Chư Phật-tử ! Ðức Như-Lai ở trong tứ châu thiên hạ này,
hoặc có danh hiệu Nhứt Thiết Nghĩa Thành, hoặc danh hiệu Viên Mãn Nguyệt, hoặc
danh hiệu Sư Tử Hống, hoặc danh hiệu Thích Ca Mâu Ni, hoặc danh hiệu Ðệ Thất
Tiên, hoặc danh hiệu Tỳ Lô Giá Na, hoặc danh hiệu Cù Ðàm Thị, hoặc danh hiệu
Ðại Sa Môn, hoặc danh hiệu Tối Thắng, hoặc danh hiệu Ðạo Sư, có mười ngàn hiệu
như vậy, khiến chúng sanh thấy biết riêng khác.”
Còn Pháp Sư Phật Đà Bạt Đà La (Buddhabhadra) vào triều đại Đông Tấn trong bản
dịch Kinh Hoa Nghiêm sáu mươi quyển (Lục Thập Hoa Nghiêm) của ngài đã dịch chữ
Phạn Vairochana sang tiếng Trung Hoa là Lô Xá Na (Rocana).
LĂNG NGHIÊM CHÚ SỚ LƯỢC GIẢNG
浙水慈雲寺顯密教觀沙門續法集
Triết thủy Từ Vân Tự Hiển Mật Giáo
Quán Sa Môn Tục Pháp Tập
Giảng
thuật: Hòa Thượng
Tuyên Hóa, Vạn Phật Thánh Thành Hoa Kỳ
50. ĐA THA DÀ ĐA CÂU RA DA
Kệ:
Trung ương Phật bộ Tỳ Lô tôn
Như Lai chủng tộc hoá quần luân
Phổ tu vạn hạnh Ba La Mật
Chư pháp vô ngã chứng viên thông.
Tạm dịch:
Phật bộ Tỳ Lô tại trung tâm
Dòng tộc Như Lai dạy chúng sanh
Tu khắp vạn hạnh Ba La Mật
Các pháp vô ngã chứng viên thông.
Giảng giải:
Đa tha dà đa dịch là "Như Lai", cũng
chính là Phật Bộ. Chú Lăng Nghiêm có năm bộ, chia ra năm hướng. Chính giữa là
Phât Bộ, có Đức Phật Tỳ Lô Giá Na là giáo chủ. Phương tây là Liên Hoa Bộ, có
Phật A Di Ðà là giáo chủ. Phương đông là Kim Cang Bộ, có Phật A Súc là giáo
chủ, tức là Phật Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư. Phương nam là Bảo Sanh Bộ, Phật Bảo
Sanh là giáo chủ. Phương bắc là Yết Ma Bộ, Phật Thành Tựu là giáo chủ. Cọng lại
là năm bộ. Thế gian này là do giáo chủ của năm bộ quản lý và trấn áp năm đại ma
quân thì năm đại ma quân mới tuân theo quy củ, tuy dù tuân theo quy củ nhưng chúng
cứ nghĩ đến việc làm cho thế giới này từ từ rối loạn hư hỏng. Thế giới này sanh
ra đủ thứ tai nạn là do thiên ma ngoại đạo làm ra. Thiên ma ngoại đạo chỉ sợ là
thiên hạ không có loạn, chỉ sợ thế gian này không hư hoại nhanh chóng, nhưng do
có năm phương Phật này trấn áp tại đây nên chúng lén lút phá hoại, không dám
ngang ngược làm ác. Trên thế gian thì ma và Phật đối lập với nhau. Phật thì
giáo hóa chúng sanh sớm thành Phật đạo, ma thì giáo hóa chúng sanh sớm thành ma
đạo. Nhưng Phật là nhờ ma giúp Ngài tu thành tựu, do đó ma chính là thiện trí
thức của người tu đạo Phật. Người tu đạo khi cảnh nghịch đến thì thuận theo thọ
nhận, nên nhin phía mặt trái để biết được chỗ tốt. Chúng ta cần nên cung kính
Phật, nhưng cũng không phản đối ma vương, xem kẻ oán người thân đều bình đẳng,
Phật ma đều như một, cần phải như thế thì không ghét cũng không thương, không
thiện cũng không ác. Cảnh giới như thế không khác biệt nhiều. Năm Bộ chú Lăng
Nghiêm này sau sẽ giảng lại đầy đủ.
Câu Ra Gia là chủng tộc của Phật, là
chủng tánh của Như Lai, tức là đệ tử Phật giáo tin Phật.
‘’Phật bộ Tỳ Lô tại trung tâm’’ Chính giữa là Phật bộ, thuộc về thổ
(đất). Ðất sanh ra vạn vật, đất thịnh vượng cả bốn mùa, một năm bốn mùa đất đều
thịnh vượng, Xuân hạ thu đông. Mùa xuân thì mộc thịnh vượng, mùa hạ thì hỏa
thịnh vượng, mùa thu thì kim thịnh vượng, mùa đông thì thủy thịnh vượng. Một
năm chỉ có bốn mùa, nhưng lại có ngũ hành, thì sắp xếp như thế nào ? Vì thổ là
ở chính giữa, kim mộc thủy hỏa là bốn bên, cho nên xuân hạ thu đông là bốn mùa.
Mùa xuân thì mộc thịnh vượng, mùa hạ thì hỏa thịnh vượng, mùa thu thì kim thịnh
vượng, mùa đông thì thủy thịnh vượng. Quý vị xem, mùa đông nơi đây thì ẩm ướt,
không chỉ là một chút xíu, người Quảng Đông gọi là “Hồi Nam” có nghĩa là mùa ẩm
ướt.
Nếu Thổ không có trong bốn mùa thì như thế nào ? Thổ thịnh vượng trong cả bốn
mùa, mùa xuân ba tháng, trong ba tháng có chín mươi ngày, có thổ thì có thể
sanh sôi nảy nở. Mùa hạ, mùa thu, mùa đông, đều có thổ. Cho nên ở chính giữa là
Mậu Kỷ thuộc thổ, phương đông là Giáp Ất thuộc mộc, phương nam là Bính Ðinh
thuộc hỏa, phương tây là Canh Tân thuộc kim, phương bắc là Nhâm Quý thuộc thủy.
Ðây là ngũ hành tương sanh tương khắc.
“Phật bộ Tỳ Lô tại trung tâm” Tỳ Lô là Tỳ Lô Giá Na là tiếng Phạn, dịch là
"biến nhất thiết xứ".
“Dòng tộc Như Lai dạy chúng sanh’’. Chính giữa là Phật Bộ. Chủng
tộc của Phật đến giáo hóa tất cả chúng sanh.
‘Tu khắp vạn hạnh Ba La Mật’’. Tu khắp vạn hạnh, lục độ vạn hạnh, thập
độ vạn hạnh, tu pháp Ba La Mật đến bờ bên kia.
‘’Các pháp vô ngã chứng viên thông’’. Đắc được các pháp vô ngã, các
pháp vô thường, chứng được diệu lý viên thông, tất cả đều viên thông, thông
dung vô ngại.
PHẨM 1
NHẬP CHÂN NGÔN TRỤ TÂM
NGHĨA THÍCH:
Trong bản chữ Phạn có đủ 2 đề mục:
1. Phẩm Hạnh tu Chân ngôn
2. Phẩm Nhập Chân ngôn Trụ tâm.
Thiết nghĩ rằng: Nghĩa "nhập trụ" đã bao gồm nghĩa "tu hạnh”, cho nên bỏ đề thứ nhất cho bớt phiền phức.
Chữ Phạn, “Mạn đát la" là "Chân ngữ”. “Như ngữ” tức nghĩa: âm chẳng đổi chẳng khác. Thích luận của ngài Long Thọ gọi đó là "Mật hiệu, xưa dịch là "chú”, tức chẳng dịch đúng nghĩa.
Phẩm này tổng luận đại ý của kinh, ý nói: tự tâm của chúng sanh, tức là Trí của tất cả trí, biết rõ như thực gọi là tất cả trí, bởi vậy Giáo lý này dạy chư Bồ tát dùng thẳng (ngay) chân ngữ làm cửa, tự phát tâm Bồ đề, tức tâm đủ vạn hạnh, thấy tâm chánh đẳng giác, chứng tâm Đại Niết Bàn, phát khởi tâm phương tiện, nghiêm tịnh tâm Phật quốc. Từ nhân đến quả, đều dùng cái gọi là “không có chỗ trụ mà trụ tâm”. Cho nên nói rằng: đây là “Phẩm nhập chân ngôn trụ tâm”
Nhập chân ngôn, lược có 3 sự:
1. là THÂN mật,
2. là NGỮ mật,
3. là TÂM mật.
Ba sự này, sau sẽ nói rộng.
Hành giả dùng 3 phương tiện đó để tự tịnh 3 nghiệp, tức làm chỗ gia trì TAM MẬT của Như Lai, cho đến có thể trong đời này đầy đủ địa Ba la mật, chẳng phải trải qua nhiều kiếp tu đủ các hạnh đối trị, cho nên đại phẩm trong kinh có nó rằng: hoặc có Bồ tát, lúc mới phát tâm, bèn lên địa vị Bồ tát, được chẳng thối chuyển, hoặc có vị lúc mới phát tâm, liền được Bồ đề vô thượng, bèn chuyển pháp luân. Ngài Long Thọ nhân đó nói: Như có người đi xa, cỡi dê mà đi, thì lâu mới đến, cỡi ngựa mà đi hẳn được mau hơn, nếu dùng thần thông, thì lúc vừa khởi ý, liền được đến nơi, chẳng nên nói là có thời gian phát ý, làm sao mà đến ngay được? – Sự tướng thần thông như vậy, chẳng nên sanh nghi! Như thế, Kinh này ý chỉ sâu lắm!
CHÁNH VĂN:
Tôi nghe như vầy: Một thời, đức Bạt già phạm trụ tại cung Pháp giới kim cang rộng lớn của Như lai gia trì.
NGHĨA THÍCH:
“Bạt già phạm” tức là bổn địa pháp thân của đức Tỳ lô giá na. Lại nói: Như Lai là thân Phật gia trì, chỗ trụ xứ của thân ấy gọi là “thân Phật thọ dụng", tức lấy thân ấy làm trụ xứ của Phật gia trì. Như Lai là vua, trụ nơi chư Phật trụ, trong đó sức gia trì được sanh ra từ khắp tất cả các xứ, tức đối với pháp thân vô tướng thì không hai, không riêng, nhưng có thần lực tự tại khiến cho tất cả chúng sanh thấy sắc của thân bí mật, nghe tiếng của lời nói bí mật, ngộ pháp của ý bí mật, tùy theo phần tánh của các loại chẳng đồng, tức chỗ trụ này gọi là "xứ gia trì” vậy.
Kế lại, nói rõ lời khen chỗ trụ xứ gia trì nên nói là "Cung Pháp giới kim cang rộng lớn". "Lớn” là không có bờ mé, “rộng” là chẳng kể được số lượng, “kim cang” dụ cho trạng thái vượt quá tất cả mọi ý nghĩ lời nói, đến chỗ không có nơi nương dựa, không có pháp để bảo cho biết được, không có ban đầu, sau cùng chặng giữa, chẳng dứt mất, chẳng hư hoại, lìa các lỗi lầm, chẳng biến đổi, chẳng có thể phá hỏng, cho nên gọi là "kim cang”, như ngọc báu kim cương của thế gian có 3 sự tướng tối thắng là:
1- Chẳng có thể phá hoại;
2- Quý hơn hết trong số các món báu;
3. Nó là chiến cụ thắng được tất cả.
Đây là một thí dụ, ngụ ý so sánh với 3 loại kim cang tam muội. Pháp giới đại đồng là thể trí kim cang rộng lớn vậy.
Thể Trí này là tướng báu thân trí của Như Lai, vì có sức gia trì nên đó là công đức chơn báu dùng để trang nghiêm cảnh giới diệu trụ của Tâm vương, cho nên gọi là “cung”. Cung này là nơi Phật xưa thành Bồ đề, đó là cung Trời MA HÊ THỦ LA.
Thích luận nói rằng: chỗ trú xứ của 5 loại Na hàm ở đệ tứ Thiền gọi là "Trời tịnh cư". Chẳng qua là: chỗ trụ xứ của Bồ tát thập trụ, xưa cũng gọi là "Trời tịnh cư", vị Trời ở đó, là Đại Tự tại Thiên vương.
Nay đã rõ nghĩa của tông này, lấy cái tinh thần gia trì tự tại của Tâm trụ mà nói thì gọi là "Cung Trời tự tại". Tùy theo chỗ có ứng hợp với Như Lai thì không ở đâu chẳng phải là "cung này”, chẳng phải chỉ riêng lấy 3 cõi mà biểu thị.
CHÁNH VĂN:
Tất cả chư vị Trì Kim Cang đều hội họp đông đủ.
NGHĨA THÍCH:
Đây là nói “diệu quyến thuộc" của Như Lai. Tại Cung này là nơi độc nhất có quyến thuộc của Như Lai sao? - Nói rõ là: Có vô biên quyến thuộc, thường hội họp ở đó, ấy là chư vị Chấp Kim Cang. Trong chữ Phạn: “Phạt chiết la đà la", thì Phạt chiết la “ là chày kim cang, “ đà la" có nghĩa “nắm giữ”.
Xưa dịch là: thần cầm chày kim cang.
Nay gọi là “Trì kim cang" thì được hai nghĩa sâu và cạn. Đây là theo thế thường mà giữ ngôn từ, còn điền đủ ý thì phải nói là: "sanh thân của Phật thường có 500 và thần Chấp kim cang thường theo hộ về hai bên.
Nhưng, theo ý của Mật tông thì "Chày kim cang" là biểu thị cho trí ấn kim cang của Như Lai; như vậy, trí ấn đó; số thì vô lượng, mà công năng nắm giữ lại cũng vô biên. Sở dĩ như thế là tại nơi trú xứ của Tâm vương ắt phải có tâm số nhiều như cát bụi là quyến thuộc.
Nay tâm vương Tỳ lô giá na thành bậc Chánh giác tự nhiên, thì hết thảy các tâm số, không có tâm số nào mà không nhập vào; tức trong giới kim cang, hết thảy các tâm số đều có thành trí ấn sai khác trong công đức nội chứng của Như Lai; các trí ấn ấy thì chỉ có Phật với Phật mới có công năng duy trì.
Nói gọn theo nghĩa Bồ đề, tức có vô lượng vô biên ấn kim cang, nói gọn theo nghĩa Phật đà, tức có vô lượng vô biên Trì kim cang. Do các đức này, ắt hết thảy đều cùng một tướng, một vị, đến nơi thực tế, cho nên gọi là "hội họp đông đủ”. Nếu có một phần ít chưa bình đẳng, một pháp nào chưa hoàn mãn, ắt chẳng gọi là “Tất cả đều hội họp đông đủ". Như vậy là có thần lực gia trì tự tại, cho nên từ Tâm vương Tỳ lô giá na hiện ra thần gia trì tôn quý đặc biệt.
Lúc bấy giờ, vô lượng pháp môn quyến thuộc, mỗi mỗi đều hiện thân “Chấp kim cang”, hiển phát cái đại thế uy mãnh của Như Lai, giống như Đế Thích cầm chày Kim cang phá quân Tu la. Nay, chư Chấp kim cang này lại cũng như vậy: hết thảy đều dùng một môn là: nắm chiến cụ Đại không, để pháp trừ "tất cả phiền não do chúng sinh vô minh kiến chấp", cho nên dùng tướng mà so sánh vậy.
CHÁNH VĂN:
Như Lai tín giải du hý thần biến, sanh lầu các lớn làm bằng bửu vương, cao không mé giữa, được trang hoàng bằng những đại diệu bửu vương, có thân Bồ tát làm tòa sư tử.
NGHĨA THÍCH:
Đã có đại chúng nhóm hợp, ắt phải có chỗ để nói pháp, cho nên tiếp đến nói rõ chỗ trụ của lầu các và tòa sư tử.
“Tín giải” là tin vào sự giải thoát, cho nên “tín giải địa" là thời gian chân chính phát tâm cho đến khi thành Phật.
Chữ Phạn “Vi cật rị ná da" có nghĩa là: "dõng dược” là “du hý”, là “thần biến”, ý nói: từ khi mới phát tâm đã trồng sâu căn lành, khởi làm các hạnh nguyện, trang nghiêm Phật quốc thành thục, hằng tinh tấn thù thắng chẳng ngưng nghỉ: đó là nghĩa “nhảy vọt lên cao" (thăng đằng dược), như người lay động, cổ vũ, có thể dùng 3 nghiệp thiện xảo làm cho chúng tâm vui mừng, cho nên cách “nhảy vọt” này gọi là “du hý” (vui chơi). Như vậy “du hý” tức là nói: thần thông tự tại của Bồ tát. Bổn hạnh của đức Tỳ lô giá na, lúc hành đạo Bồ tát đã dùng một thể "tam muội tốc tận lực" (có sức tiến mau) cúng dường vô lượng thiện tri thức, tiến hành vô lượng các độ môn, các pháp lợi mình lợi người đều đầy đủ, tập thành được Trí báu của Như Lai, bí mật trang nghiêm lầu Pháp giới, nơi tất cả Thực-báo được sanh thì đó là thứ nhất, giống như đối với châu báu thì Chân đà ma ni là vua, cho nên nói: “du hý thần biến sanh lầu các lớn làm bằng bửu vương". Những lầu các đó cao vô cùng, nên biết chiều rộng cũng không có ngằn mé, tức biên giới "bất khả đắc”, cho nên "mé giữa" cũng không có. Như thế, chỗ trụ xứ của thân là cùng khắp tất cả các xứ vậy. (Điều này ứng họp với điều nói trong kinh Bi hoa đó là: “thân Phật vô biên”, “Quốc độ Phật cũng vô biên”.)
Kế đó, nói rõ tưởng trang nghiêm của lầu các: giống như có người dùng các loại kim cương tạp sắc (5 màu hợp lại) để trang hoàng đồ kim cương. Như vậy thể tánh của kim cương không có sai khác. Nay cũng như thế: lấy các loại công đức bửu vương của Như Lai mà trang nghiêm lầu các bửu vương. Vì sao vậy ? - Vì không có pháp nào vượt ngoài tánh báu như thế. Cố nhiên là cái tướng "tịch diệt" (vắng lặng) bậc nhất này, dùng thần lực gia trì của Như Lai khiến nên độ ấy. Tùy theo các pháp môn mà biểu tượng: nếu có thể thấy, nghe, hay, biết thì dùng các lối đó làm cửa để vào pháp giới, như Thiện tài đồng tử (trong kinh Hoa Nghiêm) vào cung điện Di Lặc
Trong nhân duyên này, phải nói rộng “thân Bồ tát làm tòa sư tử là thế nào?
Trên kinh đã nói "cung pháp giới kim cang tức là thân Như Lai”. Kế đến nói: “lầu các lớn làm bằng bửu vương" cũng tức là thân Như Lai. Này nói “tòa sư tử”: nên biết cũng vậy.
Sở dĩ nói "thân Bồ tát" là ý nói: trong thời gian hành đạo Bồ tát, theo thứ lớp phải tu hành các địa ba la mật, cho đến địa thứ 11. Nên biết rằng: địa sau, phải lấy địa trước làm cơ sở, cho nên nói: "Lấy thân Bồ tát làm tòa sư tử”.
Thích luận nói: Ví như giữa bầy thú thì chỉ một mình sư tử là không sợ con vật nào, Phật cũng như vậy: giữa 96 ngoại đạo, Ngài đều hàng phục tất cả, chẳng sợ đạo nào, cho nên nói: giữa loài thú người. Ngài là Sư tử. Do đó, chỗ ngồi của ngài, đù ở trên giường, hay trên mặt đất đều gọi là “tòa sư tử”. Nay đã rõ tông chỉ ấy rồi thì nói “sư tử” là nói tâm Bồ đề dũng kiện, từ lúc mới phát ý cho đến lúc thành Phật, tâm ấy đã được đại thể tinh tấn, không có khiếp nhược, giống như Sư tử tùy chỗ nắm bắt thảy đều đạt được, không có bỏ sót; tức là độ người tự tại, không lầm nghĩa Không.
Nếu giải thích sơ lược thì nói: chư Bồ tát có thâm tâm kính pháp dẫn độ tự cúi mình mang tòa Sư tử của Phật, cho nên nói: “Thân Bồ tát làm tòa Sư tử" là vậy.
CHÁNH VĂN:
Tên kim cang của chư vị là: Hư không vô cấu chấp kim cang, Hư không du bộ chấp kim cang, Hư không sanh chấp kim cang, Bị tạp sắc y chấp kim cang, Thiện hành bộ chấp kim cang, Trụ nhất thiết pháp bình đẳng chấp kim cang, Ai mẫn vô lượng chúng sanh giới chấp kim cang, Na la diên lực chấp kim cang, Đại na la diên lực chấp kim cang, Thắng tấn chấp kim cang, Vô cấu chấp kim cang, Nhẫn tấn chấp kim cang, Như lai giáp chấp kim cang, Như lai cú sanh chấp kim cang, Trụ vô hý luận chấp kim cang, Như lai thập lực sanh chấp kim cang, Vô cấu nhẫn chấp kim cang, Kim cang thủ bí mật chủ, ... Chư vị thượng thủ như thế, với chúng trì kim cang nhiều bằng số bụi nhỏ của mười cõi Phật, cùng hợp với Phổ Hiền Bồ tát, Từ Thị Bồ tát, Diệu Kiết tường Bồ tát, Trừ nhất thiết cái chướng Bồ tát. Chư Đại Bồ tát ấy vây quanh sau trước đức Phật để nghe diễn nói Pháp. Pháp ấy là Ngài gia trì vượt quá 3 thời của Như Lai, gọi là: Pháp môn “thân, ngữ, ý bình đẳng cú”.
NGHĨA THÍCH:
Đây là sắp xếp có thứ lớp các chúng đồng nghe pháp (và pháp được diễn nói).
Hỏi: Chỗ Phật giảng kinh, tại sao trước lại giải rõ nơi trụ xứ và quyến thuộc ?
Đáp: Như một ông vua, trước khi ra chánh lịnh, tất nhiên phải lâm triều, quyết đoán việc thưởng, phạt và sử phải ghi chép như vầy: vào thời vua nọ, tại xứ kia đại thần là những người sau đây.... đã hội họp, bàn bạc, và ra lệnh dạy như thế đó: ghi những điều ấy là muốn cho trong nước tin phục và thi hành, chẳng nghi ngờ. Bởi thể, đấng pháp vương cũng vậy: sắp nói pháp lớn tất phải nói giữa chúng Bồ tát đại quyến thuộc, lấy đó làm điều "chứng minh"; do nhân duyên ấy, người nghe sẽ sinh lòng tin, nhân đó lòng tin mới có thể ngộ nhập và sẽ tu hành, chứng được. Vậy, nói rõ nơi chốn và sắp xếp người nghe là cốt để gây lòng tin đó.
1. HƯ KHÔNG VÔ CẤU CHẤP KIM CANG
Tức là tâm thể Bồ đề, lìa tất cả các tranh chấp, hý luận, như hư không yên lặng, không cho gì ngăn che, không có vẫn đục ô uế, cũng không có phân biệt. Tâm tư như thế ấy tức là kim cang trí ấn. Người giữ được ấn đó gọi là Hư không vô cấu chấp kim cang.
2. HƯ KHÔNG DU BỘ CHẤP KIM CANG
Du bộ (là đi chơi) tức có nghĩa: chẳng trụ, tiến hơn lên, và nghĩa thần biến, vì tâm bồ đề thanh tịnh, đối với tất cả các pháp đều không có chỗ trụ, mà thường tiến tu vạn hạnh, khởi đại thành công, cho nên gọi là Hư không du bộ. Lại nữa, Hư không vô cấu chấp kim cang, tức là chữ A, tức chủng tử bình đẳng, tu hạnh vô trụ. Ví như dùng phương tiện trồng cây để cho mầm rễ dần dần sanh ra, cho đến kế đó nói rõ việc pháp hành kim cang ấn vậy.
3. HƯ KHÔNG SANH CHẤP KIM CANG
Là khi mầm mống đã sanh, tứ đại thời tiết làm duyên, hư không chẳng ngại, niệm niệm thêm lớn. Tâm Bồ đề lại cũng như vậy: Lấy "không có chỗ được” làm phương tiện, vạn hạnh làm duyên, nên các chân thực được sanh ra. Cái "chân thực” sanh ra là cái “đại không” sanh ra, cho nên gọi là “hư không sanh”.
4. BỊ TẠP SẮC Y CHẤP KIM CANG
Là lúc mầm mống đã lớn lên, thì thân cây, lá hoa thêm mạnh, nhiều. Cây Bồ đề của tâm vương có muôn đức mở bày lại cũng như vậy, cho nên nói: đủ các loại sắc. Lại nữa, dùng các loại sắc của pháp giới làm cho thâm nhiễm tâm Bồ đề vô cấu thành đại bi Mạn trà la, cho nên gọi là “Bị tạp sắc y” (đủ các loại sắc y làm chỗ dựa).
5. THIỆN HÀNH BỘ CHẤP KIM CANG
Chữ "Thiện” này, trong Phạn ngữ gọi là “Tỳ chất đa la", có nghĩa là "đoan nghiêm", là "chủng tử”, thí như đã được quả thực thì trở lại làm chủng tử. Thiện hành bộ là uy nghi của Phật, là khéo biết thời nghi, biết những kẻ độ được hay không độ được, biết các lỗi thông suốt hay bế tắc. Dùng các phương tiện của thân, khẩu, ý ứng hợp với quần cơ, uyển chuyển theo khuôn phép, cho mọi việc Phật sự đều được thành đạt. Theo đó mà đặt tên như vậy.
6. TRỤ NHẤT THIẾT PHÁP BÌNH ĐẲNG CHẤP KIM CANG
Tức trụ tánh bình đẳng của tất cả chư Phật. Có nghĩa là: nhân quả, tự tha, hữu vi, vô vi... đối với tất cả các pháp, đều nhập vào trong "như thực trí" này, là trí cứu cánh bình đẳng, đồng nhất, thực tế có công năng duy trì trí ấy, cho nên theo đó mà đặt tên.
Tuy nhiên, tên của 5 vị trên đây, đều là công đức chơn thực của Như Lai, không có sâu, cạn riêng khác. Nhưng vì muốn phân biệt để cho dễ hiểu nên mới nói rõ thứ lớp như vậy.
7. AI MẪN VÔ LƯỢNG CHÚNG SANH GIỚI CHẤP KIM CANG
Ai Mẫn là thương xót. Lòng bi mẫn này, bao gồm cả ý nghĩa "cứu độ". Nghĩa là: đã trụ pháp tánh bình đẳng tự nhiên, đối với tất cả chúng sanh, tức phát tâm đồng thể bi mẫn. Bởi chúng sanh giới thì vô lượng, cho nên tâm đại bi cũng vô hạn lượng.
8. NA LA DIÊN LỰC CHẤP KIM CANG
Đây là một đức của Như Lai, cho nên vị đó có công năng giữ được công đức ấy gọi là Đệ bát Na la diên lực chấp kim cang. Đã phát lòng bi mẫn, nếu đủ đại thế lực, ắt có khả năng cứu giúp, cho nên cần hiểu rõ thế lực đó.
Trong kinh, có so sánh sức của 60 con voi thường chẳng bằng sức của một con HƯƠNG TƯỢNG... cho nên đến cuối cùng, sức của Na la diên là hơn hết. Sanh làm thân Phật thì mỗi lỗ chân lông có sức bằng một Na la diên, cho nên dùng sức ấy để dụ cho sức Na la diên của pháp giới thân.
9. ĐẠI NA LA DIÊN LỰC CHẤP KIM CANG
Đại Na La Diên Lực Chấp Kim Cang là giữ sức thần thông bí mật. Như một xiển-đề thì chắc chắn đó là bệnh hoạn của cái chết. Nhị thừa, thực tế, làm chứng cho một người đã chết. Chư Phật là Y-Vương (thầy thuốc giỏi nhứt) đã thấy rõ tánh Như-Lai, ắt nhất định là nhân duyên cứu chữa bậc nhất, giống như tiếng sư tử rống, tâm chẳng khiếp nhược, cho nên lại nói đến sức của Đại Na-la-diên để biểu minh tính cách "chẳng chung" (bất cộng) của Chư Phật.
10. DIỆU CHẤP KIM CANG
Diệu là quá sức cao siêu rồi không còn có gì so sánh được nữa, cũng như chất đề-hồ là chất tốt nhất từ sửa mà ra, không còn có thể tốt thêm được nữa, đến mức độ ấy thì thường không biến đổi, không gián đoạn, không tạp nhạp. Như-Lai cũng vậy: tất cả các công đức đều vô thượng, không so sánh được. Có làm việc gì cũng chỉ vì một sự nhân duyên này (là cứu hộ chúng sanh) cho nên gọi tên là Diệu Chấp Kim Cang.
11. THẮNG TẤN CHẤP KIM CANG
Thắng Tấn Chấp Kim Cang, Thắng là "Đại Không", đại không tức cùng khắp các xứ, cho nên có thể khởi thần thông mau chóng. Trụ ở thừa ấy thì lúc mới phát tâm tức thành Chánh Giác, chẳng động sinh tử mà đã đến Niết-Bàn, cho nên gọi là Thắng Tấn.
12. VÔ CẤU CHẤP KIM CANG
Vô Cấu Chấp Kim Cang tức là Tâm Bồ-đề, lìa tất cả các chướng. Ví như thể tánh thuần tịnh của chân kim cang (kim-cương thật), dù có trải qua bao nhiêu cách luyện trị dùi mài nó vẫn sáng chói, ắt biết cái chất ban đầu của nó đối với một chút bụi nhỏ nó còn chẳng giữ lại. Đây là ấn kim cang rốt-ráo thanh tịnh, nên nhân đó mà gọi tên.
13. NHẪN TẤT CHẤP KIM CANG
Chữ Nhẫn là mũi nhọn của đao kiếm. Theo chữ Phạn thì đó là sự phẫn nộ, sự sắc bén, cho nên dịch là "bén nhọn như gươm đao". Đây là Trí sắc bén kim cang, dứt được những gì khó dứt, hàng phục được mọi chỗ khó hàng phục, cho nên nhân đó mà gọi tên.
14. NHƯ LAI GIÁP CHẤP KIM CANG
Như Lai giáp là lòng Đại Từ. Lấy Đại Từ để nghiêm thân, nên thu nhiếp hộ trì chúng sanh, làm được mọi phật sự, chẳng sợ tất cả các phiền não làm tổn thương mà không hàng phục các trở ngại làm hư hoại, nên nhân đó mà đặt tên.
15. NHƯ LAI CÚ SANH CHẤP KIM CANG
Cú là chỗ ngừng lại ở lời văn, là tên của trụ xứ, tức đại không vậy. Công Đức của chư Phật tự chứng, từ tánh của Như-Lai mà sanh, công đức này gia trì tự thân. Từ công đức tự chứng Như Lai mà sanh, vì chẳng lìa cửa chữ A, nên gọi là Như Lai Cú Sanh.
16. TRỤ VÔ HÝ LUẬN CHẤP KIM CANG
Đây là trụ "Huệ đại-không" vậy. Bởi quán thực tướng duyên khởi, không sanh không diệt, không đoạn không thường, cũng chẳng có đi lại, một khác, cho nên trụ ở chỗ đó thì các hý-luận đều dứt, giống như Niết Bàn. Giữ trí ấn như thế nên gọi tên như vậy.
17. NHƯ LAI THẬP LỰC SANH CHẤP KIM CANG
Trí phương tiện của Phật diệu quyền như thế từ chỗ nào sanh ra ? -Đó là từ 10 trí lực của Như-Lai mà sanh... giữ ấn như thế nên gọi tên ấy.
18. VÔ CẤU NHÃN CHẤP KIM CANG
Vô Cấu nhãn (mắt không cặn dơ) chỉ ngũ nhãn của Như-Lai. Tâm Bồ-đề rốt ráo thanh tịnh, dùng Nhất thiết Chủng-trí quán sát tất cả các pháp, cho nên thảy thảy đều thấy-nghe-hay-biết rõ ràng, chẳng có nơi nào làm trở ngại. Giữ được kim cang ấn như thế, nên lấy đó đặt tên.
19. KIM CANG THỦ BÍ MẬT CHỦ
Chữ Phạn “bá-ni" là bàn tay (thủ chưởng). Bàn tay cầm nắm (chấp) kim-cang hay bàn tay giữ kim-cang (trì) thì nghĩa cũng như nhau, cho nên 2 danh từ trên xuất hiện thay nhau. Phương Tây gọi "dạ xoa" là bí-mật, vì thân-khẩu-ý của họ che giấu rất mau, khó có thể biết rõ, cho nên xưa cũng dịch là “mật-tích".
Nếu nói sơ lược nghĩa của Bí-Mật Chủ thì đó là Vua Dạ Xoa, vị này cầm chày kim-cang (chấp kim cang xử) thường theo hộ vệ Phật, gọi là Kim-Cang-Thủ. Tuy nhiên, nghĩa sâu kín của Dạ-Xoa là thân ngữ ý bí mật của Như-Lai, chỉ có Phật với Phật mới biết được, cho đến Bồ Tát Di-Lặc cũng chẳng đến kịp chỗ tối-bí-mật của sức thần thông bí-mật như vậy. Đây là Vị làm chủ của tâm-mật cho nên gọi là Bí-Mật-Chủ. Ngài giữ ấn này nên nói là Chấp Kim-Cang.
Chư Vị thượng thủ như thế, với chúng Trì Kim-Cang nhiều bằng số vi-trần của mười cõi Phật cùng họp. Nếu nói đủ theo bảng tiếng Phạn thì mỗi vị Chấp Kim-Cang đều có vô lượng quyến thuộc đồng bộ loại. Nay nói tổng quát là số vi-trần (bụi nhỏ) của mười cõi Phật, thì mười cõi Phật mỗi cõi tiêu biểu cho một loại trí lực của Như Lai. Còn số vi trần của mỗi cõi là số vi trần sai khác của Như-Lai, số đó vô lượng vô biên không thể tính đếm hoặc ví dụ mà biết được. Tuy nhiên, trí đức nội chứng của Đức Tỳ-Lô-Giá-Na dùng để gia trì, thì từ mỗi trí ấn hiện ra thân một vị Chấp Kim Cang, hình-sắc, tánh loại đều có biểu tượng, tùy theo tánh bổn duyên để nhiếp dẫn chúng sanh. Nếu chư vị hành giả ân cần tu tập có thể khiến cho 3 nghiệp đồng với bổn-tôn, thì từ một môn này được nhập vào pháp-giới, tức là nhập vào khắp tất cả các môn của pháp-giới vậy.
Kế đến kể các chúng Bồ Tát, với các vị Thánh làm thượng thủ. Trước đã nói rõ chư vị Chấp Kim-Cang đều là trí ấn của Như-Lai. Nay nói nghĩa của chư Bồ-Tát, gồm có Định-Huệ lại kiêm Từ Bi, cho nên phải định danh riêng, tuy cũng là công đức nội chứng của Đức Tỳ-Lô-Giá-Na, như chư vị Chấp Kim Cang vậy. Có chúng Bồ-Tát nhiều như số bụi nhỏ (vi-trần) của mười cõi Phật, nên biết đó là các pháp môn của chư Bồ-Tát, tương đối (với chúng Bồ-Tát) cũng có số chúng sanh nhiều như số bụi nhỏ của mười cõi Phật để gia trì. Như vậy, hết thảy đều từ một môn nơi pháp giới, hiện làm thân một thiện-tri-thức.
Lại, trong Bát Nhã thích luận có nói rằng: Sanh thân Phật, lúc thành-đạo thì A-Nan, Mật-Tích, các Lực-sĩ... gọi là nội quyến-thuộc, còn Xá-Lợi-Phất, Mục-Kiền Liên, và các Thánh nhân... với Di-Lạc, Văn-Thù, chư A-Tỳ-Bạt… cho đến Nhứt Sanh Bổ-Xứ Bồ-Tát... thì gọi là đại quyến thuộc. Nay nói đến thân của Phật gia trì lại cũng như vậy, chư vị Chấp Kim Cang, mỗi mỗi đều giữ mật ấn của Như-Lai thì gọi là nội quyến thuộc; còn chư Bồ-Tát là pháp môn phổ biến, làm phương tiện đại bi nhiếp thọ vô lượng chúng-sanh, phụ giúp đấng Pháp-vương (Phật) làm mọi việc của Như-Lai thì gọi là đại quyến thuộc. Bởi thế đại phẩm nói rằng: muốn làm nội quyến thuộc của chư Phật, muốn được là đại quyến thuộc thì nên học Bát-Nhã Ba-la-mật.
1. PHỔ HIỆN BỒ TÁT: Phổ là cùng khắp các xứ, Hiền là diệu thiện cùng cực. Đây là chỗ Tâm Bồ đề khởi Nguyện lập Hạnh, cùng với thân khẩu ý hết thảy đều bình-đẳng, cùng khắp mọi nơi, thuần một điệu thiện (trọn lành vi diệu), đầy đủ mọi thánh đức. Nhân đó mà đặt tên.
2. TỪ THỊ BỒ TÁT: Là Tứ vô lượng Tâm của Phật (tức Từ Bi Hỷ Xả). Nay lấy chữ Từ làm đầu, lòng Từ này từ trong chủng-tánh của Như-Lai mà sanh ra, nó có công năng khiến cho tất cả các thế gian chẳng dứt, cho nên gọi là Từ-Thị.
Trên nói Phổ-Hiền là tánh đức tự chứng, bốn nguyện đã mãn, nay muốn hóa độ chúng-sanh khiến được đạo này, nên kế đó phải nói rõ đạo từ-bi của chư Phật.
3. DIỆU KIẾT TƯỜNG BỒ TÁT: Diệu là Huệ vô thượng của Phật, giống như đề-hồ là chất thuần tịnh bậc nhất. "Thất-lợi” dịch là kiết-tường, tức có nghĩa đủ các thánh đức. Hoặc nói "diệu đức" hay "diệu-âm" tức nói dùng sức Đại Từ-Bi mà diễn nói “diệu pháp-âm" khiến cho tất cả đều được nghe.
4. TRỪ NHẤT THIẾT CÁI CHƯỚNG BỒ TÁT: Chướng là các loại tâm dơ-đục của chúng-sanh, nó hay che khuất con mắt thanh tịnh của Như-Lai khiến chẳng được mở sáng. Nếu dùng pháp không phân-biệt diệt trừ các hý-luận, như mây-mù tiêu tan thì mặt trời hiển chiếu, cho nên nói Trừ Cái-Chướng (diệt các chướng-ngại ngăn che).
Các chỗ có nói năng của Như-Lai đều là vì một sự nhân duyên này (tức mở sáng tịnh nhãn Như-Lai) cho nên phải có diệu âm làm sáng tỏ vấn đề đó. Lại nữa, hành giả tuy học Bát-Nhã Ba-la-mật, nhưng nếu không có thiền định (ĐỊNH LỰC) thì giống như người đui, dẫu gặp ánh-sáng mặt trời cũng chẳng có thể làm gì được, cho nên kế đó phải lấy diệu huệ của Văn-Thù để làm sáng tỏ Trừ Cái Chướng Tam-muội vậy. Bốn Bồ-Tát trên đây là 4 đức của thân Phật, nếu có chỗ lệch thiếu tức chẳng có thể thành Bồ-đề vô thượng, vì thế phải kể chư-vị ấy làm thượng-thủ để gom hết muôn đức nhiều như cát bụi mà chư Đại Bồ-Tát đã phát hiện đầy đủ.
Theo Phạn-văn thì nên nói là Đại Bồ đề tát-đỏa, Luận giải thích rằng Bồ-đề là "đạo của chư Phật”, tát-đỏa là "tên của chúng-sanh" hay "tên của dũng tâm"; ý nói chúng sanh ấy hết lòng hết sức muốn được công đức của chư Phật, tâm ấy chẳng có thể dứt, chẳng có thể phá như núi kim cương cho nên gọi là "tát-đỏa". Lại nữa, tâm của người đó có thể làm việc lớn mà chẳng thối chuyển, ấy là đại dũng tâm, cho nên ở giữa đa số chúng-sanh khỏi lòng Đại Từ-Bi thành lập pháp Đại thừa, có khả năng hành đại Đạo, được tốt đại xứ, tất nhiên có thể nói pháp phá được tất cả các đại tà kiến của chúng-sanh, các phiền não của tâm đại ngã đại ái, cho nên gọi là "đại tát đỏa".
Bậc A-Xà-Lê nói rằng : căn cứ theo chánh nghĩa thì nên gọi là "Bồ đề Tát-Đa". Chữ Tát-Đa này có nghĩa là "vui chịu tu-hành, kiên trì chẳng bỏ", theo thanh âm mà giảng rõ thì có những pháp như thế. Nếu luận theo văn-tự thì nghĩa đó tuy đúng với âm vận nhưng chẳng được lưu hành nên chẳng tiện giữ. Bởi vậy, các luận sư theo thế thường vẫn giữ chữ tát-đỏa, vì muốn theo tập tục mà truyền pháp nên tùy thuận dùng danh từ (đã có từ trước).
Theo thành sự trong tôn-chỉ Du-Già thì tát đỏa lược có 3 loại :
Một là Ngu-đồng tát-đỏa tức 6 đường phàm phu chẳng biết nhân quả của thật-đế, tâm theo đường tà, tu nhân khổ tập, yêu đắm 3 cõi, vững chấp chẳng bỏ, cho nên nhân đó đặt tên.
Hai là Hữu thức tát-đỏa tức nhị-thừa, vừa tỉnh biết sanh tử là điều đáng lo sợ, tự cầu xa lìn để được đến Niết-Bàn, đắm nhiễm hóa thành (thành giả), hưng tưởng diệt độ, đối với công-đức của Như-Lai chưa sanh tâm vui nguyện, nhân đó mà đặt tên.
Ba là Bồ đề tát-đỏa, tức Bồ-đề vô thượng, vượt qua tất cả các ước-đoán hý-luận, các thứ sai quấy; chỉ có một nghĩa thuần-thiện trong trắng vi-điệu, chẳng có gì so sánh kịp. Đó tức là bản tánh của chúng-sanh, là tâm chẳng nghĩ bàn, nhận chịu sự thành đạo như thế, vui nguyện tu-hành, bền vững chẳng động, cho nên gọi là Bồ đề tát đỏa Nơi những người như thế, cộng nghiệp thật quá lớn, có năng lực chuyển hóa được tất cả chúng-sanh, cho nên gọi là đại tát-đỏa hay là ma-ha tát đỏa.
Các đại chúng như thế vây quanh sau trước Đức Thế Tôn Đại-Nhật, dùng vô lượng nghiệp của thân khẩu ý cung-kính cúng dường cầu được nghe pháp. Kế đó, nói rõ thời gian của đại hội các chúng đồng được nghe pháp, đó là điều mà trong kinh gọi là ngày gia trì vượt 3 thời của Như-Lai, nói pháp-môn 3 câu (cú) thân ngữ ý bình đẳng vậy. Nhưng, kinh đó lưu bố tại Diêm-phù-đề lược có 10 vạn bài kệ. Nếu đại-chúng, bằng số bụi nhỏ của mười cõi Phật, mỗi mỗi đều rộng nói pháp môn thân-ngữ-ý sai khác nhau, ắt là không có hạn lượng, và phần thời gian nói pháp này sẽ ra sao, cho nên những vị kết-tập nói rằng: lúc bấy giờ, trụ nơi ngày của Phật mà diễn nói pháp.
Thời gian ở cõi đời ắt có quá khứ, tương-lai, hiện-tại, dài ngắn, số kiếp, các thứ chẳng đồng. Vả lại, dựa theo sự vận hành của mặt trời đối với bốn thiên-hạ, thì một vòng ngày đêm đều có phần đầu, phần giữa và phần sau, cho đến trong 30 thời, mỗi sát na đều chẳng trụ, giây phút thay đổi nhau. Dùng con mắt thanh tịnh để quan sát thì ranh giới giữa 3 thời (hay 3 phần), rõ ràng không thể được, chẳng có chỗ bắt đầu, chỗ cuối cùng, cũng chẳng có đến đi: đây là thực tướng của ngày, của thời gian, tròn sáng, thường trụ, trong suốt như hư-không, không có phần thời gian dài ngắn khác nhau. Như vậy, nhờ thần lực của Phật, các hành giả Du-già nơi vô- lượng kiếp, họ nói như khoảng một bữa ăn hoặc diễn tả “khoảng một bữa ăn” như vô-lượng kiếp: thấy rút ngắn hay kéo dài đều tự tại, đều thích hợp với mọi căn cơ, không có định-tướng nào có thể được, cho nên nói "ngày của Như-Lai".
Trong thời gian như thế, Phật nói pháp nào ? – Đó là pháp-môn 3 câu thân-ngữ-ý bình đẳng, tức nói 3 nghiệp của Như-Lai đều đến cảnh thực tế vị-diệu cùng-cực : nghiệp của Thân bình đẳng với Ngữ (lời nói), nghiệp của Ngữ bình-đẳng với Tâm, giống như biển cả đều khắp mọi nơi cùng chung một vị mặn, cho nên nói là bình-đẳng. Chữ Nho “câu” hay “cú” là do chữ Phạn “bát-đàm” mà ra, dịch đúng nghĩa là "túc", theo thanh-luận thì nó có nghĩa "tiến hành", nghĩa "trụ xứ", như người ta tiến bước, lúc giở chân lên hạ chân xuống, thì cái vết chân có chỗ tạm ngừng của nó gọi là "bát đàm", danh-từ "câu" chỉ chỗ lời văn tạm dừng lại thì cũng có nghĩa như vậy, cho nên cũng đồng một tên.
Nay tôn-chỉ đã lập, ý nói: tu theo "vết đạo" như thế, tiến tu có thứ lớp, trụ được 3 nơi bình đẳng thì gọi là "câu"(hay chỗ tạm nghỉ) tức dùng thân-ngữ-ý bình đẳng, bí-mật gia-trì làm chỗ nhập môn, có nghĩa là: dùng mật ấn của thân bình đẳng, chân ngôn của lời bình đẳng, sự diệu quán của tâm bình đẳng làm phương tiện, tức kịp thấy thân thọ dụng gia trì. Thần thọ dụng gia trì như vậy tức là tất cả các thân ở khắp nơi của Đức Tỳ-Lô-Giá-Na. Tất cả các thân ở khắp nơi tức là Trí-thân bình đẳng của hành giả, cho nên trụ ở thừa này, lấy sự chẳng làm mà làm, lấy sự chẳng đến mà đến thì gọi là Câu bình đẳng (hay nói cho đúng nghĩa là chỗ tạm dừng bình đẳng). Tất cả chúng sanh đều nhập vào trong đó, nhưng sự thật thì không có người năng nhập, không có chỗ sơ nhập, cho nên gọi là pháp-môn bình đẳng: đây là đại ý của Kinh vậy.
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, nhờ sức gia-trì của Đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai mà Bồ-Tát Phổ-Hiền làm thượng-thủ, chư Chấp-Kim-Cang Bí-Mật-Chủ làm thượng thủ, phấn-tấn thị-hiện Thân trang-nghiêm tạng vô-tận, phấn-tấn thị-hiện Ngữ-ý bình đẳng trang nghiêm tạng vô-tận. Như vậy, chẳng phải từ thân Phật Tỳ-Lô-Giá Na, hoặc ngữ hoặc ý sanh, tất cả các chỗ sanh-khởi đều mất, các bờ mé đều không thể được. Thế mà tất cả thân nghiệp, tất cả ngữ- nghiệp, tất cả ý-nghiệp, tất cả xứ, tất cả thời, đối với giới hữu-tình, Đức Tỳ-Lô-Giá-Na đều diễn nói cú-pháp đạo Chân-ngôn. Lại thị-hiện hình-tượng dung-mạo của các Bồ-Tát Chấp Kim-Cang, Phổ-Hiền, Liên-Hoa-Thủ, ... phổ biến khắp mười phương, diễn nói cú-pháp thanh-tịnh đạo Chân-ngôn, từ lúc phát-tâm cho đến thập-địa, thứ lớp đời này đầy đủ, nghiệp duyên sanh thêm lớn, chủng-tử nghiệp thọ của các loại hữu-tình được diệt trừ, lại có mầm giống sanh khởi.
NGHĨA THÍCH:
Phật sắp nói pháp môn bình đẳng, cho nên trước tiên Ngài dùng sức tự tại gia trì làm cảm động đại chúng, bằng cách thị hiện cảnh giới phổ môn bí mật trang nghiêm, sự việc chưa từng có, chẳng có thể nghĩ bàn. Rồi nhân có nghi vấn mà diễn nói pháp kia, ắt người nghe tin vui, được thêm rõ nghĩa để thâm nhập.
Cũng như nhân duyên của Phẩm Tùng Địa Dũng Xuất (từ đất nhảy vọt lên) trong tự-phần của Kinh Pháp-Hoa, sau nhân duyên đó Phật cũng sẽ nói rộng pháp.
Lại nữa, các nhân giả làm thượng thủ như Phổ Hiền, Bí-Mật-Chủ, tức là lấy Trí thân sai biệt của Đức Tỳ-Lô-Giá-Na trong cảnh giới ấy. Lại vì đã thông-đạt các môn giải thoát từ lâu rồi nên các sự thị hiện của chư Thiện-tri-thức đều dẫn vô lượng chúng đương cơ đồng nhập Mạn-trà-la để làm lợi-ích cho pháp-môn mới bắt đầu nhập này của các Bồ Tát thực hành, vì vậy mà Như-Lai gia-trì, phấn tấn thị-hiện thân có sức đại thần thông. Cũng như Vua sư tử lúc sáng sớm, khi sắp muốn rống lên, ắt trước phải phấn khích tự thân, hiện sức uy-thần tài giỏi, rồi sau đó mới phát thanh âm. Như-Lai cũng vậy: lúc sắp muốn diễn nói môn Nhất-Thiết-Trí quyết định như sư tử rống, trước tiên Ngài phấn tấn thị hiện vô lượng trang nghiêm tạng. Nói trang nghiêm là từ một Thân bình đẳng phổ hiện tất cả uy-nghi, không có uy-nghi nào chẳng phải là mật ấn; từ một Lời nói bình đẳng phổ hiện tất cả các âm thanh, không có một âm thanh nào chẳng phải là chân ngôn; từ một Tâm bình đẳng phổ hiện tất cả các bổn tôn, không có bổn tôn nào không phải là tam-muội, nhưng mỗi mỗi tướng tam-muội sai biệt đều không có bờ mé, chẳng có thể đo lường, cho nên gọi là trang nghiêm vô tận: đó là Huệ bí mật của Như-Lai vậy.
Kinh nói : Bồ-Tát Trừ Cái Chướng ở trong pháp hội muốn biết thân lượng của Phật nên khiến Đại Mục-Kiền-Liên tìm, nhìn lên đến cung Trời vẫn còn thấy Như Lai như đối trước mắt: thân Phật uy-nghi, nói pháp, tiếng vang cùng khắp chẳng khác với tiếng nghe tại chỗ; dùng hết thần-lực nhìn đến các quốc-độ Phật ở phương xa cũng chẳng khác gì ở cung Trời Phạm-thiên. Lúc ấy Bồ Tát Trừ-Cái-Chướng cùng với Mục-Kiền-Liên vì chẳng có thể đo lường được thân lượng của Phật, bèn đưa mắt quá mười phương đến các thế giới nhiều như số các sông Hồng, khắp nơi đều thấy Như-Lai chẳng rời chỗ ngồi mà diễn nói pháp, cho đến dùng hết lực của thần thông nhìn vòng khắp mười phương lại cũng như vậy. Nhưng, sau khi trở về đến phương thấy Thiên nữ Trừ Nghi chẳng xa pháp Phật, bèn nhập vào tam muội mà nghĩ rằng: "Ta nghe Thiên-nữ này thông-đạt vộ-lượng môn tam muội, ta nên quán sát xem hiện nay Nàng đang trụ ở định nào?” Nhưng dùng hết tâm lực để quan sát, cũng chẳng do tường được chỗ tâm hành của nàng, cho dù tập hợp lại vô lượng trống mỗi mỗi to bằng núi Tu di và dùng thần lực khiến chúng phát thanh đồng thời, cũng không có thể làm cho nàng xuất định, cho đến theo như lời của Phật nói : “Ta, lúc chưa phát tâm Bồ đề, Thiên nữ này đã có thể trụ ở tam muội này”. Đó là nghĩa không có bờ mé vậy.
Như thế Đức Tỳ-Lô-Giá-Na phổ biến khắp các thế giới mười phương, mỗi mỗi đều hiện thân Phật gia trì, mỗi mỗi thân đều có đại chúng Bồ-Tát Kim-Cang nhiều như số vi trần của mười cõi Phật. Điều này có nghĩa là : các căn tướng tốt của đại chúng lại cũng vô biên, như trong dầu mè đầy khắp pháp giới, nơi đó không có chỗ trống không.
Lại như Quốc vương có kho chứa lớn, nếu muốn mở bày cho người coi, thì tự nó khai phát để bày ra, cho nên gọi là trang nghiêm tạng. Lại nữa, các đại chúng này chỉ nhờ sức uy-thần của Phật mới được thấy cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn như thế. Nếu Như-Lai xả sự gia trì tức cảnh ấy chẳng hiện tiền, chẳng phải tự Tâm Như-Lai lại có Năng, Sở, hạn lượng, chẳng như hành giả bên trong thì tu Thiền chu tam muội, bên ngoài thì mong cầu thần lực hộ trì, mới có thể dùng thân của cha mẹ sanh mà thấy được mười phương chư Phật, giống như đêm thanh bầu trời không mây, ngẩn nhìn các ngôi sao, nghe tiếng pháp âm, thảy thảy đều rõ ràng không hề bị ngăn ngại.
Nhưng, cảnh giới như thế là do Tâm của hành giả thanh tịnh mà sanh ra hay do sức Phật gia bị mà sanh ra ? Nếu do nội tâm, tức là từ tự tánh mà sanh, nếu do sức Phật, tức là từ tha-tánh mà sanh. Nếu đúng vào 2 trường-họp ấy thì chẳng khác gì Ý nghĩa các Luận của ngoại đạo, vì tự hay tha đều không thì hòa hiệp cũng không. Lại nữa, chẳng phải không có nhân duyên mà thành tựu được, vì sao vậy ? – Nhân trong duyên ngoài, tùy theo chỗ nói có, tức chẳng hiện tiền. Bởi vậy nên biết rằng: tướng trang nghiêm như thế kia, lúc hiển thì không có chỗ phát xuất, lúc ẩn thì không có chỗ lui về, rốt-ráo bình đẳng chẳng ngoài tánh Như. Vì thế Kinh nói: Chẳng phải từ thân Phật Tỳ-Lô-Gia-Na, hoặc Ngữ hoặc Ý sanh, tất cả các chỗ sanh-khởi đều mất, các bờ mé đều không thể được. Thế mà tất cả Thân-nghiệp, tất cả Ngữ-nghiệp, tất cả Ý-nghiệp, tất cả Xứ, tất cả Thời, đối với giới Hữu-tình, Đức Tỳ-Lô-Gia-Na đều diễn nói cú pháp đạo Chân-ngôn.
Đây là chuyển thích Tạng trang nghiêm của Phật. Sở dĩ nói vô tận, không có bờ mé thì chẳng khác với ý nói rằng: thân của Như-Lai cùng khắp các xứ, thường trụ, chẳng mất. Tuy thường không có khởi, diệt, nhưng có thể dùng 3 nghiệp (thân khẩu ý) mà phổ cập đến mười phương 3 đời quá khứ hiệu tại vị-lai, nơi tất cả các thời, các xứ, nói cái Đạo hết sức thực để giáo hóa chúng sanh, khiến cho Tâm họ noi theo khuôn phép mẩu mực để đến Đạo Phật.
Kinh nói: Lại thị hiện hình tượng dung mạo của các Bồ-Tát Chấp Kim Cang, Phổ-Hiền, Liên-Hoa-Thủ v.v... phổ biến khắp mười phương diễn nói cú pháp thanh tịnh Đạo Chân ngôn từ lúc mới phát tâm cho đến thập địa, thứ lớp đời này đầy đủ, nghiệp duyên sinh thêm lớn, chủng tử nghiệp thọ của các loại hữu tình được diệt trừ, lại có mầm giống sanh khởi. Đoạn này chẳng nói cái tướng rộng-rãi trước đây, mà chỉ nói: thân Phật thị hiện đầy khắp tất cả các thế giới ở mười phương, và thân của các Bồ-Tát Kim-Cang thị hiện lại cũng cùng khắp các xứ như vậy.
Như số vi trần của mười cõi Phật, chư Bồ-Tát Chấp Kim Cang có thân khẩu tâm sau khác chẳng đồng. Như vậy, tượng loại của mỗi mỗi bổn tôn và quyến thuộc của họ, đều đầy khắp tất cả các thế giới ở mười phương, như Đức Tỳ-Lô-Gia-Na, như lưới Nhân-đà-la giăng cùng khắp mà chẳng gây trở ngại cho nhau. Nay lược cử 3 vị Thánh làm thượng thủ, đó là:
1. - Bồ Tát Chấp Kim-Cang, đối ứng với Trí huệ kim cang, là phương tiện hàng phục.
2. - Bồ Tát Phổ-Hiền, đối ứng với Pháp-thân Như-Như, là phương tiện tịch-tai (làm yên ổn các tai họa)
3. - Bồ Tát Quán Thế-Âm, đối ứng với tam muội Liên Hoa (nên gọi là Liên Hoa Thủ : tay cầm hoa sen) là phương tiện tăng-ích (làm thêm lợi ích).
Cứ 3 đặc điểm ấy thì vô lượng diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn đều được thu nhiếp cả trong đó, cho nên phải nói riêng ra.
Còn vân vân... là nói 8 bộ chư Thiên, các vị Thần Tiên có 5 phép thần thông, như bên ngoài Mạn-trà-la hiển bày, thì ta có thể so sánh theo đó mà biết được.
Như vậy, các thứ nhân duyên, vô số phương tiện, phổ-môn, ứng hiện giáo hóa chúng-sanh, tuy sâu cạn chẳng đồng, thô diệu khác nhau, nhưng tìm biết sự thật thì không có gì chẳng phải là bí-mật gia-trì, hết thảy đều có công năng mở bày tri kiến thanh-tịnh của Như-Lai. Nếu xa lìa tướng-ấn thực đó thì những gì còn lại đều là do ái-kiến sở sanh, cùng với Thiên ma Ngoại đạo làm những điều mê hoặc, há có thể gọi là cú pháp thanh tịnh sao !?
Lại có lời giải thích nói rằng “cầu thanh tịnh” là thuận theo tánh Giác, theo thừa thần thông mà tu thành Phật. Còn như các thừa Bồ Tát khác, chí cầu Bồ đề vô-thượng, trải qua vô số kiếp, phải siêng năng chịu khổ chẳng tiếc thân mình, sẽ được thành Phật, hay chẳng thành Phật. Nay theo môn chân ngôn này, nếu Bồ Tát chẳng thiếu sót phép tắc trong các phương tiện tu hành, thì trong một đời này sẽ kịp thấy cảnh giới gia trì trang nghiêm vô tận, chẳng phải chỉ hiện tiền mà thôi, nếu muốn siêu thăng Phật-địa tức đồng với Đại-Nhật Như-Lai, thì cũng có thể đến được.
Lại nữa, hành giả lúc mới phát tâm, được vào cửa chữ A, tức từ tánh kim-cang Như-Lai được sinh mầm, nên biết mầm này chuyển vận tăng tiến trọn đời không có nghĩa thối lui cho đến lúc thành Bồ-đề, không phải làm gì thêm mà sau được ngừng nghỉ, cho nên nói rằng thức lớp đời này đầy đủ. Chữ thứ lớp ở đây theo Phạn-âm có nghĩa là “chẳng trụ, tinh tấn, đi khắp”, tức lúc mới phát tâm, vì muốn vào địa vị Bồ-Tát, phải tu-hành theo phương tiện pháp yếu của chân-ngôn thì được đến sơ địa. Lúc bấy giờ dùng phương châm vô sở trụ để tiến tâm chẳng nghỉ, chẳng cho là đủ. Sang nhị địa lại cũng dựa theo phương tiện pháp yếu của chân ngôn mà tu-hành để được nhập tam-ma-địa, thứ lớp như thế cho đến đầy đủ thập địa, vẫn chỉ một hạnh một đường mà thành Chánh Giác. Nếu có sự mở bày mật ý đối với môn phương tiện khác, cũng đều chẳng lìa bỏ bảo-thừa như thế vậy.
Nghiệp duyên sanh là các hữu tình do nhân duyên si-ái tạo ra thân khẩu ý, các loại nghiệp chẳng thanh tịnh. Nhân các nghiệp như thế sanh ra làm thân 6 loài, làm cho vòng luân hồi thêm lớn, phải chịu đủ các loại khổ. Nay tu theo huệ môn thanh tịnh, 3 nghiệp bình đẳng, tất cả các chủng tử thuộc nghiệp thọ-uẩn trong thức A-lại-da đều bị đốt cháy hết, được đến Tâm đại Bồ đề vô cấu (không có cặn dơ) như hư-không. Tất cả các chửng tử bình đẳng của Như Lai từ trong Bi-tạng sanh ra mầm pháp tánh, cho đến thân-lá-hoa-quả đầy khắp pháp giới, thành cây Bồ đề của muôn đức mở bày. Nhưng lấy 4 nghĩa chẳng sanh mà quán xét các sự việc ấy thì hết thảy đều không có chỗ về mà cũng không có nơi phát khởi. Nên biết sự sanh này tức đại-không sanh, cho nên nói chủng-tử nghiệp thọ của các loại hữu tình được diệt trừ, lại có mầm giống sanh khởi.
Lại nữa, giả sử phải quán sát và lắng nghe, các Thiện-tri-thức và pháp-giới môn bằng số vi-trần của mười phương cõi Phật do Như-Lai sở hiện, ắt vô lượng vô biên a-tăng kỳ kiếp cũng chẳng cùng khắp được, nhưng nhờ ngày-gia-trì của Phật cho nên chỉ trong khoảng thời gian của chúng-hội ngồi họp nên tất cả đều hiện tiền, đó là do Phật sắp nói Kinh này nên hiện điềm lành của tướng thần thông chẳng thể nghĩ bàn. Cũng như Đức Văn-Thù Sư-Lợi thấy tướng bạch-hào của Phật phóng ra ánh sáng chiếu suốt một vạn tám ngàn quốc-độ, cho thấy các nhân duyên hành đạo Bồ-Tát, tức biết chư Phật sắp muốn KHAI QUYỀN HIỂN THẬT, nói Kinh Pháp-Hoa. Nên biết chư vị Kim-Cang-Thủ lại cũng như vậy, khắp thấy các thế giới được gia-trì, chỉ nói “pháp môn bình đẳng" tức biết Như Lai sắp diễn dạy giáo lý, khắp tất cả các thừa tức "tâm thành Phật", bởi thế văn sau có những câu hỏi do đó mà sanh khởi vậy.
CHÁNH VĂN:
Bây giờ, Ngài Chấp-Kim-Cang Bí-Mật-Chủ đang ngồi giữa chúng-hội, bạch Phật rằng : "Bạch Thế-Tôn! Sao gọi là Như-Lai Ứng-cúng Chánh-biến-tri, được Trí Nhất-thiết ? Được cái Trí Nhất-thiết-trí ấy, vì vô lượng chúng sanh chỉ bày rộng nói tùy theo các loại chúng, các loại tính dục, các loại đạo phương tiện. Diễn nói các Trí Nhất-thiết-trí, hoặc nói thừa Thanh-văn, hoặc nói thừa Duyên giác, hoặc nói Đại-thừa, hoặc nói 5 thông trí, hoặc nguyện sanh lên các cõi Trời, hoặc sanh vào Nhân-gian và các loài Rồng, Dạ xoa, Càn-thát-bà, cho đến nói pháp sanh Ma-hầu-la-già. Nếu có chúng sanh muốn được Phật độ liền hiện thân Phật hoặc hiện thân Thanh-văn, hoặc hiện thân Duyên giác, hoặc thân Bồ Tát, hoặc thân Phạm thiên, hoặc thân Tỳ sa môn, Na-la-diên, cho đến thân Ma-hầu-la-già, thân Người hay Chẳng-phải Người, v.v... Đối với mỗi một trụ ở các uy-nghi khác nhau mà nghe đồng một ngôn-âm, như vậy là Trí Nhất-thiết-trí chỉ nói có một vị : đó là vị giải thoát của Như-Lai.
Bạch Thế Tôn ! Giống như hư-không lìa tất cả các phân-biệt, không phân biệt và chẳng không phân biệt, như vậy Trí Nhất-thiết-trí cũng lìa tất cả các phân biệt, không phân biệt và chẳng không phân biệt. Bạch Thế-Tôn! Thí như đại-địa là chỗ dựa nhờ của chúng sanh, thì Trí Nhất-thiết-trí cũng như vậy: đó là chỗ dựa nhờ của Trời, Người, A-tu-la. Bạch Thế-Tôn! Ví như lửa thiêu đốt hết tất cả các cây củi mà không chán đủ, thì Trí Nhất-thiết-trí cũng như thế: nó thiêu đốt tất cả củi vô-trí mà không chán đủ. Bạch Thế-Tôn! Thí như gió trừ tất cả các bụi-bặm, thì cũng như thế, Trí Nhất-thiết-trí trừ khử tất cả bụi phiền não. Bạch Thế-Tôn! Dụ như nước là chỗ vui chơi của tất cả chúng-sanh, thì Trí Nhất-thiết-trí cũng như thế: nó làm lợi-lạc cho chư Thiên và Người đời. Bạch Thế-Tôn! Trí-Huệ như vậy lấy gì làm Nhân? Cái gì làm Căn? Cái gì là Cứu cánh?”
NGHĨA THÍCH:
Cái Trí của Như-Lai tự chứng dùng làm thần lực gia trì, chẳng có thể bày ra cho người ta thấy được. Trước đã nói “phấn tấn thị-hiện tạng trang nghiêm vô tận" đó cũng chỉ là dấu vết của sự ngoại dụng mà thôi. Bậc có Trí là người thấy ngọn ngành ắt hiểu rõ gốc rễ của tông môn. Như xem vết chân voi, thấy có vết chân sâu rộng trong số nhiều vết chân của bầy voi, tuy chẳng thấy hình nhưng biết sức thân của con voi ấy lớn, chắc chắn là lớn. Lại như sét lớn mưa to khiến cho chim muông run sợ đến chết, trăm suối ồ-ạt chen lấn nhau nhào lộn trong lòng núi, tuy chẳng lường được nguồn gốc của nước, nhưng biết con rồng làm mưa kia ắt có uy-thế rất lớn. Nay các đại chúng lại cũng như vậy, quán thân khẩu ý vô tận của Như-Lai có thể trong một lúc ứng khắp thế giới chúng sanh, khéo hợp với căn nghi, uyển chuyển thành Phật-sự, ắt biết trí-lực của Như-Lai hẳn trong một niệm soi khắp quần-cơ, gốc ngọn nhân duyên cứu cánh không ngại. Tạm chiếu theo trí thế tục mà nói như vậy, đến như khế-hợp với cảnh huống của thực trí thì phải nói làm sao ? Nếu pháp chẳng như vậy, ắt dấu vết của pháp hữu-vi có thể tìm được thì ta đã thấy hết, thế mà chẳng biết pháp kia từ đâu lại được như vậy, cho nên Chấp Kim-Cang-Thủ nhân có lòng nghi của chúng hội mà hỏi Phật rằng: Sao gọi là Như-Lai Ứng-cúng Chánh biến-tri được cái Trí Nhất-thiết-trí ?
Chữ Phạn “đát-tỳ yết-đà", đát-tỳ là Như, yết-đà là Lai là Tinh biết, là Nói là Khứ; vậy “đát-tỳ yết-đà" có đủ 4 nghĩa là: Như-lai. Như-tri, Như-thuyết. Như-khứ. Như-lai là như chư Phật, thừa đạo như thật, tương lai sẽ thành chánh-giác, nay "Phật” đã đến quả vị Phật, cũng đến như thế nên gọi là Như-Lai. Như-tri Như-thuyết là tất cả chư Phật biết rõ tướng pháp là Như, khi biết rồi thì cũng vì chúng sanh mà nói cái tướng báu Như của các pháp. Nay Phật cũng vậy, cho nên Ngài được gọi là “bậc biết báu Như” hay là “bậc nói báu Như”. Như-khứ là tất cả chư Phật đều được tánh an lạc như nhau cho đến khi nhập Niết-Bàn, nay Phật cũng như vậy. Ngài cũng đi như thế nên gọi là Như khứ. Luận giải thích đủ 4 nghĩa, nhưng người xưa thì dịch nhiều nghĩa. Giới-bổn của Như-Lai hữu bộ dịch là Như pháp, bậc A-xa-lê giữ lại 2 nghĩa Như-khứ và Như-thuyết. Nay thuận theo xưa mà nêu ra như thế.
Bản chữ Phạn nói "A-La-Hán", thì “A-La” có nghĩa là phiền não, “Hán” có nghĩa là hại là trừ. Luận giải thích là “giết giặc”. Phật dùng áo giáp nhẫn tiễn, cưỡi trì-giới lấy CUNG định TÊN huệ, bên ngoài phá quân Ma vương bên trong diệt giặc phiền não, nên gọi là A-La-Hán. Lại, “A” có nghĩa là Chẳng. “La-Hán” có nghĩa là Sanh; "A-La-Hán" là chẳng sanh, có nghĩa là: hạt giống của tâm Phật, trong ruộng đời sau chẳng sanh, bởi chỉ bỏ rơi màn vô minh là được giải thoát. Lại nữa, "A-La-Hán"còn có nghĩa là đáng được nhận sự cúng dường, vì có công đức xứng đáng cho Người và chư Thiên làm việc cùng-dường tối thượng.
Chữ Phạn Tam-miệu Tam Phật-đà là Chánh-biến-tri, vì “tam miệu” là chánh, “tam” là biến tức cùng khắp, “Phật-đà” là tri tức biết. Luận giải thích rằng: nếu có người nói, có phải chỉ có Phật nói Như-lai Như-khứ đúng như thật nên xứng đáng được nhận sự cúng dường tối thượng chăng ? Thì đáp: Phật đạt đến Trí-Huệ Chánh-biến-tri tức biết Phật tướng của các pháp chẳng động chẳng hoại, nên gọi là Chánh, biết chẳng phải một pháp hai pháp mà tất cả các pháp nên gọi là Biến. Gọi Tam-miệu Tam Phật-đà là biết tất cả các pháp đến đi (lai, khứ) đúng như thật vậy. Trong tôn chỉ nay, người ta còn giải thích rằng "Phật-đà" là Giác tức mở bày, có nghĩa là do trí-huệ tự nhiên biết khắp tất cả các pháp, như hoa sen nở nhiều đều khắp, không có chỗ trôi nổi, cũng có thể mở bày cho tất cả chúng sanh được thấy, cho nên gọi là Phật.
Còn chữ Phạn tát-bà nhã-na thì “nhã-na” tức là cái trí của Nhất-Thiết Trí. Luận phải thích rằng "tát-bà nhã" là Nhất-thiết-trí, nhất thiết tức là danh sắc… vô-lượng pháp muôn đối đãi, bao gồm tất cả các pháp. Trong tất cả các pháp thì tướng Một, tướng Khác, tướng Cùng-khắp, tướng Chẳng cùng khắp, tướng Làm, tướng Chẳng-làm… hết thảy các pháp, mỗi mỗi tướng, mỗi mỗi sức, mỗi mỗi nhân duyên, mỗi mỗi quả báo, mỗi mỗi tánh, mỗi mỗi cái được, mỗi mỗi cái mất, tất cả các sức trí huệ, tất cả mọi đời, tất cả chủng tướng... đều biết khắp hết thảy, cho nên gọi là
Nay nói cái Trí của Nhất-Thiết Trí tức là cái Trí trong tất cả Trí, chẳng phải chỉ dùng tất cả các giống để biết khắp tất cả các pháp, mà cũng biết pháp cứu cánh, thực tế, tướng thường chẳng hư hoại, chẳng thêm lên, chẳng dứt mất, giống như kim-cương. Cảnh tự chứng như vậy, muốn nói thì không có lời, muốn quan-sát thì không thấy được, chẳng đồng như quả am-ma-lặc trong bàn tay, có thể chuyển giao cho người khác được. Nếu có thể dùng lời nói để trao truyền cho người khác, thì Bồ-Tát Thích-Ca lúc quyết định trao ánh-sáng cho ai, ắt người ấy phải thành Phật ngay. Sự thật thì không có như thế, tại sao vậy ? - Phải tu đủ các phương tiện, cần đợi đến lúc không có Thầy mà tự Giác mới gọi là Phật. Lại như, mắt thấy người đời bị dao gậy làm cho bị thương, tuy ta cũng tin rằng người ấy phải khổ, không có thể nghi ngờ gì, nhưng dù có nhiều người nói đến cái khổ ấy, cuối cùng ta cũng chẳng chứng biết nó ra làm sao ! Phải đợi đến lúc tự thân ta bị thương ta mới biết được rõ ràng.
Ý của câu hỏi trên kia nói rằng: Làm sao chúng ta kịp đến được cái Trí-huệ tự giác như thế? Tại sao được trí-huệ như thế rồi thì có thể vì vô lượng chúng-sanh chỉ bày rộng nói tùy theo các đường luân hồi, tùy theo các tính dục, tùy theo đạo phương tiện, diễn nói Nhất-thiết-trí, tức là an-lập vô-lượng thừa, thị-hiện vô lượng thân, nói như tiếng nói của mỗi loài, trụ đúng uy-nghi của mỗi nơi, nhưng cái đạo diễn nói Nhất-thiết-trí ấy lại đồng một vị, đó là vị giải thoát của Như Lai. Lại, làm sao mà được các phương tiện như thế?
Trong vấn đề này có nhiều điểm cần phải hiểu rõ: - trước hết là các đường (đạo) luân hồi . Chữ Phạn “na-diễn” cũng gọi là đạo. Ty-bà-sa nói có 5 đạo, nhiều thuyết nói có 6 đạo. Nói rộng ra thì trong thế giới này có 36 câu chỉ chúng sanh hướng đến, huống là tất cả các thế giới trong mười phương!? -Thứ đến là tính dục, dục là vui ưa muốn, với lòng tin và sự hiểu biết, như Tôn-Đà-La Nan-Đà ưa ngũ dục, Đề Bà Đạt-Đa ưa danh văn... cho đến chư vị đắc đạo, mỗi người đều có sở thích riêng, như Đại Ca-Diếp thì thích Hạnh Đầu-đà, Xá-Lợi-Phất thích Trí huệ, Ly-Ba-La-Đa thích ngồi Thiền, Ưu-Ba-Ly tín biết Tỳ-ni, A-Nan thích Đa văn… Rộng nói về Tánh thì Tánh là tướng tích tập tức dồn chứa nhiều lần thành quen. Từ Tánh sinh ra Dục, tùy theo Tánh thành Hạnh, hoặc là từ Dục làm nên Tánh, quen dần chứa Dục thành ra Tánh. Tánh là việc làm của Tâm bị ô nhiễm, Dục là sự khỏi-động theo Duyên.
Kể đến là đạo phương tiện. Về điểm này thì trong Luận có nói đủ. Ngài Long Thọ nói: Bát-Nhã với các phương tiện, Thể vốn là Một mà dùng thì có khác, ví như người thợ bạc dùng vàng khéo làm ra các đồ nữ trang, tuy tất cả đều là vàng mà tên gọi lại khác nhau. Nay Đức Tỳ-Lô-Giá-Na lại cũng như vậy. Ngài có công năng dùng Thể Trí như vàng thiệt để tạo lập nên các Thừa như đồ nữ trang. Lại trong ý của câu hỏi là muốn phát khởi đại bi thai-tạng Mạn-trà-la, nơi tâm địa bình-đẳng của Nhất-thiết-trí vẽ nên hình chư Phật, Bồ-Tát, cho đến 8 bộ chúng của Nhị-thừa, 4 lớp pháp giới của đàn tròn, mỗi mỗi thân-ngữ-tâm ấn của bổn-tôn đều là một loại thừa riêng khác.
Ví như có người chí tâm cầu đạo Ngũ-thông Trí, tức là từ Đại-Bi thai-tạng, hiện hình Phạm-Chí Vi-Đà, vì người ấy nói các hành pháp Chân ngôn của Tiên Cù-Đàm, hành của siêng-năng tinh tấn chẳng bao lâu thì thành thân của vị Tiên kia, lại thay đổi phương tiện, tức thành thân của Đức Tỳ-Lô-Giá-Na vậy.
Như thế, hoặc hiện thân Phật nói đủ các thừa… cho đến hiện thân phi-nhân nói đủ các Thừa, tùy theo loại hình loại tiếng, tất cả đều là Chân-ngôn Mật-ấn, hoặc gần hoặc lâu, không có gì chẳng phải là nhân duyên cổ-động có mục đích duy nhất, bởi vậy Kinh nói "đều đồng một vị, đó là vị giải thoát của Như-Lai”. Sở dĩ như vậy là bởi thực tướng tâm-sắc của tất cả chúng sanh từ cội gốc ban đầu cho đến nay, thường là trí thân bình đẳng của Đức Tỳ-Lô-Giá-Na, chẳng phải là đến lúc được Bồ đề, gắng gượng nói ép các pháp thành Không, mới khiến thành Phật pháp. Phật từ tâm địa bình đẳng phát mở đại Mạn-trà-la của tạng trang nghiêm vô tận rồi, trở lại dùng tâm địa bình đẳng của chúng-sanh phát mở đại Mạn-trà-la của tạng trang nghiêm vô tận, điệu cảm diệu ứng đều chẳng ra ngoài cửa chữ A, ví như trong biển cả, sóng nước ngăn cản nhau thay nhau làm Năng-Sở, như thế cũng đều cùng một vị, đó là vị mặn vậy.
Kế đó Ngài Chấp Kim Cang, thừa thần lực của Phật, vì muốn phát khỏi thai tạng Đại-Bi làm phương tiện bí mật cho nên lại nói 5 loại thí dụ, đó là hư-không, đất, nước, gió, lửa.
Thí dụ thứ nhất: Nói như cõi Hư-không, lìa tất cả phân biệt, không phân biệt, chẳng không-phân-biệt. Trí Nhất-thiết-trí cũng vậy, nó lìa tất cả phân biệt, không phân biệt và chẳng không phân biệt. Như diệu nghĩa Tỳ-ba-sa thì Hư-Không không có lỗi cũng không có đức, còn Trí-thân của Như-Lai thì lìa tất cả các lỗi mà muôn đức được thành tựu. Như thế làm sao so sánh được ? Chẳng qua là chỉ lấy sự giống nhau một phần ít mà làm thí dụ thôi. Như trong sự so sánh này thì Hư-Không có 3 nghĩa: một là vì nó rốt-ráo thanh tịnh, hai là vì nó không có bờ-mé, ba là vì nó không phân-biệt. Tâm tánh của Nhất-thiết-trí cũng như vậy cho nên dùng cái Hư-Không dễ giảng-giải của thế gian để so sánh với cái Hư Không khó giảng giải của Phật-trí.
Ý thứ nhất nói "Lìa tất cả phân-biệt", chữ Phạn gọi là "kiếp-ba". Ý kế đó nói về sự không phân biệt, chữ Phạn gọi là "kiếp-ba dạ-đế”. Sở dĩ có chuyện nói trùng-lập là bởi trên sự phân-biệt còn sanh nghĩa phân biệt, ví như Tầm với Tứ: xem-xét sơ qua thì gọi là Tầm, xem xét kỹ lưỡng thì gọi là Tứ. Lại như lúc sanh nhãn thức thì có sự phân biệt thô trọng, tiếp sanh ý thức thì có sự phân biệt vi tế. Xưa dịch chữ "kiếp-ba" là vọng-chấp (tức chấp không làm có) thì trong ý đã dụ như hư-không, mà đã như hư-không thì không có sự phân biệt vọng-thấp, cho nên không phân biệt cũng là không vậy.
Lại như Hư-Không xa lìa các loại sắc-tướng hiển hình, không có sự tạo-tác nhưng nó có thể hàm-chứa muôn tượng, tất cả cây cỏ nhân đó sanh trưởng, sự nghiệp của hữu-tình dựa vào đó mà thành. Cái hư-không của Phật-trí lại cũng như vậy: Tuy lìa tất cả các tướng, thường không khởi tác, nhưng vô-lượng độ-môn, các loại diệu nghiệp đều được thành biện, cho nên nhân đó mà lấy hư-không làm ví dụ vậy.
Thí dụ thứ nhì nói như Đại-địa là chỗ nương dựa của tất cả chúng sanh, thì Trí Nhất-thiết-trí cũng vậy, đó là chỗ nương dựa của tất cả Trời, Người, A-tu-la... như ở thế gian, trăm thứ rừng-rú cây-cỏ, các loại thuốc, tuy tánh chúng sai khác nhau đến vô-cùng, nhưng tất cả đều từ đất sinh ra mầm-rể, cho đến thân-lá-hoa-quả, thành tựu các giống có thứ lớp. Đất vì tất cả chúng sanh mà làm chỗ dựa ở, lại nuôi dưỡng chúng, mà chẳng nghĩ rằng: Nay ta gánh chịu tất cả thế-gian, chẳng nhớ nghĩ đến đức mình, cũng không kể công khó nhọc, cái gì có tăng thêm cũng không vui, có giảm bớt cũng chẳng lo, sâu rộng khó lường, chẳng hề nghiêng động.
Trí-địa của Nhất-thiết-trí lại cũng như vậy, tất cả chủng-tử xuất sanh từ Mạn-trà-la Đại-Bi, tức vô-lượng sự nghiệp của các Thừa đều nương dựa vào đó. Đối với Niết-Bàn, sanh-tử, tâm ấy thường bình- đẳng, 8 gió (lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc) của thế-gian chẳng có thể làm cho nó xao-động. Nay lấy một phần ít trong các đức này để so- sánh với đất nên dùng đất làm thí dụ.
Thí dụ thứ ba nói như Lửa đốt cháy tất cả củi mà không chán đủ, thì Trí Nhất-thiết-trí cũng vậy, nó đốt cháy tất cả củi vô-trí mà không chán đủ. Giả sử chứa củi đầy khắp thế-giới, đống nào cũng to lớn bằng núi Tu-di, rồi để cho lửa đốt có thứ lớp, nó không hề biết sợ mà cũng chẳng nghĩ rằng: “Ta nên đốt đống này, chẳng đốt đống kia”. Nó đốt mãi chẳng nghỉ ngơi, tiến tới hoài không biết chán, chỗ cần phải đốt, đốt xong, liền đó dứt mất.
Lửa Trí của Như-Lai lại cũng như vậy: Nó đốt tất cả củi phiền-não, hý- luận, cho đến khi các duyên đang đợi đều hết thì ánh huệ-quang này cũng không có chỗ dựa. Lại nữa, đồng một công-dụng như lửa thế- gian, đối với các chỗ sang hèn, Trí Nhất-thiết trí đều chiếu-sáng trong đêm tối để cho những ai nghiêng-ngã hay rơi-rớt được thấy đường chánh. Lửa Nhất-thiết-trí có nơi kẻ phàm-phu, cũng bình-đẳng như nơi bậc Thánh. Trong đêm dài từ vô-thỉ, nó đều khiến cho những kẻ đi đường thấy rõ đạo như-thật, để cho Phật-pháp được thành tựu có thứ lớp, nên lấy lửa làm thí dụ.
Thí dụ thứ tư nói như Gió trừ tất cả bụi bặm, Trí Nhất-thiết-trí cũng trừ khử hết thảy các bụi phiền-não. Giống như gió lớn thổi lên thì mây-khói bụi-mù, tất cả đều bị quét sạch. Cái đại hư-không được lắng trong, cái rỗng-sáng mở rộng, suốt 3 thời hiện thấy rõ ràng, cái nóng- bức của chúng-sanh đang bốc lên cũng đều được mát-mẻ. Gió có thể làm cho sự sang-sủa nơi cỏ-cây rừng-núi tăng lên, lại cũng có thể bẻ gảy và phá-hoại tất cả mọi vật. Lại như tánh gió đi khắp mọi nơi mà chẳng dựa vào đâu, xoay chuyển tự-tại không gì ngăn cản nổi. Gió Huệ của Như-Lai cũng vậy: Nó quét sạch tất cả các bụi phiền-não lửng-lơ hay che ngăn chơn-tánh, khiến chứng được pháp-tánh trong mát, Niết-Bàn vắng lặng. Nó lại có thể khiến cho các pháp lành thế-gian và xuất thế-gian thêm lớn, quật ngã cây đại-thọ vô-minh, nhổ luôn cả gốc rễ của nó, nhưng cái sức không bị chướng-ngại này lại không có chỗ dựa, cho nên lấy đó làm ví dụ vậy.
Thí dụ thứ năm nói như Nước là nơi tất cả chúng-sanh dựa nhờ để được vui sướng, Trí Nhất-thiết-trí cũng làm cho chư Thiên và người đời được vui-sướng. Như đức lớn của nước, từ trên cao rơi xuống làm lợi-ích cho nhiều nơi, thấm-nhuần cây-cỏ khiến sanh hoa-quả. Bản tánh của nó lại trong sạch, không dơ không độc, làm cho chúng-sanh được đầy đủ, rửa sạch các cặn bẩn, tưới mát các chỗ nóng-bức, vào sâu những chỗ khó vào. Đối với hầm lửa hay hồ nước cũng đều có tính bình-đẳng.
Nước Trí của Như-Lai lại cũng như vậy, từ pháp-giới chân-thật chảy về thế-gian, thấm-nhuần các đẳng-trì xuất sanh các pháp trợ-đạo, hiện thành quả thật lớn, làm lợi-ích cho chúng-sanh. Thể không phiền- não nên được trong sạch, hay lìa các lầm mê nên chẳng có cặn-dơ, một tướng chẳng khác nên không có vẫn đục. Các hữu-tình đạt đến Nước Trí đó thì các điều lo nghĩ và nguyện cầu đều dứt hết, vào được định thanh-lương (trong mát), tẩy sạch hết trần-lao vọng lự, trong trẻo vắng lặng khó nghĩ bàn, chứng được tánh bình-đẳng, nên lấy đó mà so-sánh với các đức của nước.
Lại nữa, Ngài Kim Cang-Thủ nói rằng: Nói 5 thí dụ này tức là phát- khởi ý-nghĩa của 5 chữ ở văn sau: Môn chữ A là ĐẤT, môn chữ PHẠ là NƯỚC, môn chữ RA là LỬA, môn chữ HA là GIÓ, môn chữ KHƯ là KHÔNG. Lại như chủng-tử của thế-gian nhờ đất-nước-lửa-gió làm duyên, hư-không chẳng ngại, sau đó được sanh, nếu thiếu một duyên ắt chẳng tăng-trưởng. Tất cả các chủng-tử của trí-tánh Như-Lai lại cũng như vậy, tức dùng cả 5 nghĩa của Nhất-thiết-trí để tự làm các duyên thì có thể đạt đến diệu-quả Bồ-đề thường trụ, đó là điều chẳng thể nghĩ bàn, bởi các nhân duyên của nó cũng chẳng sanh chẳng diệt.
Ngài Kim Cang-Thủ thấy tướng gia trì pháp giới độc nhất của Như-Lai, tâm dựa vào đó mà nghĩ kỷ, ắt biết Phật sắp nói pháp môn như thế, nên trước tiên Ngài nói những thí dụ nêu lên các công đức của Phật-trí để phát khởi cơ duyên giảng giải cho đại hội, sau đó mới hỏi Phật rằng: "Trí Huệ như thế lấy gì làm Nhân ? Cái gì làm Căn ? Cái gì là Cứu cánh?
Từ đây về sau, trí ấn của Như-Lai rộng nói phân biệt bản tâm. Trường hợp này giống như khi Ngài Di Lặc thấy Phật hiện thần thông thì trong lòng ấm ức, có điều nghi hoặc, không biết Phật sắp nói pháp gì hay là muốn thọ ký Bồ-đề ?! Ngài Văn-Thù bèn phát huy danh thế, nói "Phật sắp nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa". Sau đó Như-Lai dùng thực tướng ấn chứng và nhân cơ hội đó diễn nơi pháp lớn, khiến cho lớp học trò hay chấp xa lìa được lưới nghi. Cũng ví như vào mùa xuân, lúc khí dương phát sanh, thì các mầm giống bắt đầu nứt ra, rồi nhân có gió, sấm cổ động, mưa rơi thấm nhuần, vỏ bọc các hạt giống rời ra, mầm cây non mới xuất hiện. Nếu người không có cơ duyên thì tuy gặp cơ hội thực tế ắt cũng chẳng có thể phát khỏi điều lợi ích sâu sắc được.
CHÁNH VĂN:
Đức Phật Tỳ-Lô-Giá-Na phán với Ngài Trì Kim-Cang Bí-Mật-Chủ rằng : "Lành thay ! Lành thay Chấp Kim-Cang! Lành thay Kim- Cang-Thủ! Người hỏi Ta các nghĩa như thế, thì hãy lắng nghe. Người khỏi ý rất lành, nay Ta nói điều ấy”. Ngài Kim-Cang-Thủ thưa rằng : "Bạch Thế Tôn ! Như vậy đó, con nguyện muốn vui nghe". Đức Phật liền nói: "Tâm Bồ-đề làm Nhân, lòng Bi là Gốc- rể, Phương-tiện là Cứu-cánh. Bí Mật Chủ ! Bồ-đề là thế nào ? - Là biết tự tâm như thật. Bí Mật-Chủ ! A-nậu-đa-la Tam- miện Tam Bồ-đề (Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác) pháp ấy, cho đến một chút ít, cũng không có gì để được, tại sao ? Tại vì tướng Hư- không là Bồ-đề, không có người tỉnh biết cũng không có sự mở biết. Tại sao ? - Tại vì Bồ-đề không có tướng. Bí-Mật-Chủ ! Các pháp không tướng, là tướng Hư-Không.
NGHĨA THÍCH:
Ngài Chấp Kim Cang là vị chủ giữ sự bí mật, đã sẵn lường thâm ý của Như-Lai gia-trì, lại hay phát khởi các thời làm nhân duyên sanh giải, ngần lường thánh tâm, chẳng bỏ mất cơ hội, cho nên được Đức Phật 2 lần khen Lành thay. Ngài xét thấy tất cả Trời Người, Sa-môn, Bà-la-môn, cho đến các Bồ-Tát mà mọi hạnh còn cạn cợt, đều không thể khởi hỏi như thể trước mặt Đức Thế Tôn, vì sao vậy ? - Vì 3 câu hỏi ấy thâu-nhiếp hết mọi sự rất sâu kín trong tất cả thần lực bí-mật của Phật pháp cho nên Đức Phật lại khen "Lành thay Kim-Cang-Thủ ! Ngươi có thể hỏi Ta các nghĩa như thể !". Nhờ có lời nói Lành thay của Như Lai gia hộ, nên ngay khi đó vô-lượng công-đức Bồ-đề của Ngài Kim-Cang-Thủ lại tăng thêm, điều này chứng tỏ người nghe pháp sẽ không để cho nó thất thoát. Phật dạy: "Hãy lắng nghe, Ngươi khởi ý rất lành. Nay Ta nói điều ấy". Đây cũng là lời căn-dặn các đệ-tử mai sau nên lấy thâm tâm mà nghe pháp.
Vì những lẽ đó mà Luận giải-thích rằng: nếu có người lòng lành, nói thẳng, thì
người ấy có thể nghe pháp. Nếu không có cái tướng như vậy, ắt chẳng có thể giải,
như lời kệ nói:
Người nghe tánh ngay thẳng
Thấy như khát được uống
Một lòng nhập nghĩa lời
Nghe với tâm Bi Hỷ
Thì nên nói cho nghe.
Và theo Kinh Vô-Tận-Ý thì, dụng tâm nghe pháp có 20 công-đức, nên nói rộng điều
ấy. Kinh nói, Phật dạy Ngài Kim-Cang-Thủ rằng: "Bồ-Đề tâm làm nhân, Đại-bi
làm căn bản(gốc rễ), Phương-tiện làm
cứu cánh". Giống như trong thế-gian, chủng-tử phải được 4 đại (đất-nước-gió-lửa)
làm các duyên, mới sanh gốc rễ... có thứ lớp, cho đến lúc có thực quả mới gọi
là cứu cánh.
Nhưng dùng cái Trí theo Trung-đạo mà xét thì rốt-ráo chẳng sanh chẳng diệt,
chẳng phải chẳng-sanh, chẳng phải chẳng-diệt, mới thành nghĩa nhân-quả. Nếu
pháp chẳng như vậy ắt có tướng sanh-diệt đoạn-thường, như thế là rơi vào hý-luận,
tất cả đều có thể phá được, nghĩa nhân-quả chẳng thành vậy. Nay hành-giả quán
thật-tướng của Tâm lại cũng như vậy: Nó vượt qua tất cả hý-luận, như hư-không
thanh-tịnh, bên trong tự chứng sở-hành, được sức tin sâu, Tâm Bát-nhã kiên-cố
chẳng động, lìa nghiệp thọ-sanh, công-đức của muôn hạnh từ đó tăng-trưởng, nên
nói "Tâm Bồ-đề làm Nhân" của 2 câu sau. Nếu nhìn về thiện-căn sẽ
trồng được trong sanh-tử, ắt thiện-căn này được gọi là quả. Nhưng từ quả này
nhìn về tướng của Phật-pháp có trước Nó, tức tìm Nhân của Nó, ta thấy gì ? Ta
có thể lấy cái thí dụ sau đây để hiểu. Giả sử có vị thiện-tri-thức bảo
rằng: Nay trong nhà của bạn có một kho báu vô-tận, bạn nên siêng-năng tự tìm
phương-tiện để tự khai-thác nó, nó có thể chu-chấp cho cả một nước được sống
đầy đủ, thường chẳng thiếu-thốn gì. Bạn nghe xong, bèn sanh lòng tin-chắc, rồi
làm theo như lời người khuyên mà làm, cho đến thí công chẳng ngừng-nghỉ. Lần
hồi bạn thấy có kho báu thật. Từ quả này, tìm hiểu Nhân thì thấy lòng tin-chắc
là cơ-sở.
Đối với kho báu công-đức thì cũng vậy, phải khởi lòng tin-chắc mới có sức gia
hạnh để xa lìa tâm si-mê. Bởi thế, Tâm Bồ-đề là lòng tin chắc trong-trắng
thanh- tịnh. Luận cũng giải-thích rằng: Lòng Tin là công-năng để nhập vào biển
lớn của Phật-pháp, như lúc Phạm-thiên-vương thỉnh Phật chuyển pháp-luân, Phật
có nói kệ rằng:
“Nay Ta mở pháp-vị cam-lồ,
Nếu có người tin, ắt được hoan-hỷ.”
Trong câu kệ đó, Phật không nói đến những người bố-thí, trì-giới, đa-văn, nhẫn-nhục,
tinh-tấn, thiền-định, trí-huệ có được hoan-hỷ, mà chỉ nói đến người tin được
hoan hỷ. Như thế ý của Phật muốn chỉ cho ta thấy: Pháp rất sâu, vi diệu đệ
nhất, không số lượng, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng động, chẳng nương dựa, chẳng
dính- mắc, là pháp không có chỗ được, nếu chẳng phải là người có Nhất-thiết-trí
ắt chẳng có thể hiểu, cho nên phải lấy sức tin làm đầu, chớ chẳng phải là nhờ
các pháp như huệ mà có thể bắt đầu nhập vào Phật pháp, để làm cho Tâm tịnh
tăng- trưởng, bền vững. Vậy nên trong Kinh nói Đại-Bi là gốc rễ (Căn). Chữ gốc
rể biểu-diễn nghĩa “gìn-giữ”, giống như rễ cây giữ cho thân lá hoa quả của cây
chẳng nghiêng đổ.
Chữ Phạn nói "ca-lô-noa", thì “ca”
là cỏ thơm, “lô-noa” có nghĩa là cắt
đứt. TỪ như trồng mạ tốt trên đất rộng, BI như cỏ thơm dứt trừ cỏ xấu. Trong BI
có kiêm gồm cả TỪ như dứt trừ cỏ xấu là để cho lúa mạ tốt. Các hành giả tu pháp
cúng dường, nên dâng một bó hoa hay một lư trầm thơm là để làm cho pháp giới
trang nghiêm thanh tịnh, thì khi mây hương tỏa khắp mọi nơi để làm phật sự,
điều này có nghĩa là phát khởi bi nguyện hồi hướng quần-sanh, diệt tất cả khổ ban
vô lượng vui, tức làm cho căn lành của mình, với sự gia trì của Như Lai, được
có thêm sức đối với pháp giới, cho nên các diệu-nghiệp của mình làm đều được
thành tựu, đều được phổ cập khắp các trí địa, khắp các giới hữu tình, tất cả
đều sanh căn lành.
Khi hành giả dùng tâm không nghi mà tu vạn hạnh tức do cõi Đất Đại Bi giữ gìn,
cho nên được Lửa Đại Bi sưởi ấm, Nước Đại Bi thấm nhuần, Gió Đại Bi khai phát,
Hư không Đại Bi chẳng ngăn ngại. Bởi vậy lúc bấy giờ vô-lượng độ môn lặng lẽ mở
phát, giống như gốc rễ cây cành lá hoa thứ lớp trang nghiêm, tức là đối với tất
cả Tâm Pháp đều có đầy đủ nghĩa nhân duyên vậy
Phương tiện là Cứu cánh ấy là khi vạn hạnh đã viên mãn đến cùng cực, không còn
có thể tăng thêm được nữa, tình trạng này ứng-hợp với cơ duyên của sự vật đạt
đến công năng cứu cánh đó là diệu quả đề-hồ, nguồn gốc của TAM MẬT vậy. Lại,
Tâm Bồ-đề thanh tịnh, giống như vàng thiệt, tánh vốn trong sạch, lìa các lỗi
lầm. Đại Bi như học tập công xảo, dùng các chất thuốc hóa học luyện trị làm cho
vàng thêm tinh khiết mềm dẻo dễ uốn nắn. Phương tiện như các hình thức làm đồ
nữ trang, tùy ý tạo thành theo quy chế kỷ thuật, cho nên khi nó đi đến chỗ đắc
ý vi điệu thì khó mà trao truyền cho người khác được.
Như Ma-Ha Bát Nhã làm sáng tỏ 6 độ, 18 không tam muội, các môn đạo phẩm tổng trì
đều là do đã nhập Đại Bi, tức do Đại Bi mà sanh Vạn hạnh, lại nhờ Vạn hạnh mà
đạt đến quả trí Nhất-thiết-trí. Nếu Trí là cứu cánh thì Hạnh là phương tiện,
khi Trí cứu cánh làm cho Hạnh phương tiện hoàn-mãn đến cùng cực, thì lúc đó
phương tiện là cứu cánh, cũng như chủng tử sanh quả, quả trở lại hoàn thành chủng
tử vậy. Kinh nói Bí Mật Chủ ! Bồ-đề là thế nào ? - Là biết tự tâm như thật, tức
khai thị kho báu công-đức của Như Lai vậy.
Như có người tuy nghe nói kho báu bền khởi ý siêng năng
tìm cầu, nhưng nếu chẳng biết nó ở đâu thì hướng về nơi nào mà tiến thủ ?! Cho
nên lại phải chỉ dẫn. Như trước đã nói rõ: Pháp vi diệu rất sâu, sâu nhất, sâu
đến độ nếu không phải là bậc có Nhất thiết-trí ắt chẳng có thể giải được. Pháp ấy
từ đâu mà được ? - Từ nơi tự tâm của hành giả vậy. Nếu có thể như thực quán sát
tự tâm, chứng biết rõ ràng, thì gọi là thành Bồ-đề. Thực sự, nó chẳng ở nơi
khác, chẳng nhờ người khác mà được.
Hỏi: Nếu
Tâm tức là Đạo, tại sao chúng sanh luân hồi sinh tử ?
Đáp: Bởi chẳng biết như thật, cho nên gọi là phàm phu ngu đồng. Nếu người nghe
pháp này, có thể tin được một phần ít, thì đó là thức tánh của nhị-thừa, tuy tự
quán sát nhưng chưa biết như thực. Nếu biết như thực, tức lúc mới phát tâm liền
thành Chánh Giác. Ví như người cùng tử của vị trưởng giả, lúc nó tự biết cha của
nó rồi, há lại phải còn là đứa tớ hèn hạ sao ?!
Khi hành giả biết đúng thực tướng của Tâm thì họ
thấy tất cả các Pháp đều vi diệu, rất sâu, không có số lượng, chẳng có thể nghĩ
bàn, chẳng động, chẳng nương, chẳng đắm nhiễm, đều không thể được, rốt ráo như
tướng Bồ-đề. Cho nên Kinh lại nói: Bí Mật Chủ! Đó là A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ-đề,
cho đến một chút ít của pháp ấy cũng không thể có được. Không có gì ở trên nó,
nó biết đúng đắn cùng khắp tất cả (như trước đã nói). Trong các ý trên đây, nói
'một chút ít” chữ Phạn là "A-nậu, tức là 7 cái nhỏ nhiệm (thất vi) hiệp
thành: đối với các sắc pháp do duyên sanh thì đó là phần nhỏ nhất, nên lấy nó
làm thí dụ. Nói là 'pháp ấy' vì lìa nó thì không có tướng Tâm Bồ-đề nào ở
ngoài, không có một pháp nào cả.
Kế đó trong Kinh nói đến nhân duyên, tại sao vậy
? - Tướng Hư Không là Bồ-đề nó không có tri giác cũng không có sự mở biết, tại
sao ? - Tại vì Bồ-đề không có tướng. Vì như hư không cùng khắp các nơi, rốt ráo
thanh tịnh, cho nên lìa hết thảy các tướng, không động, không phân biệt, chẳng
có thể thay đổi, chẳng có thể phá-hoại. Lấy một phần ít tương tự về đức tánh
như thế mà dùng hư không để so sánh với Tâm Bồ-đề vô tướng. Tuy vậy trong vấn đề
này, còn có vô-lượng vô biên sự thật bí mật rất sâu kín, chẳng phải là cái hư
không của thế gian có thể dùng để so sánh cùng khắp được, mong rằng chư vị học
giả được ý quên lời cho.
Lại, như hư không xa lìa các hý luận phân biệt,
cho nên không có tướng tri giác, không có tướng mở biết. Chư Phật tự chứng Tam
Bồ-đề nên biết cũng vậy. Chỉ là Tâm tự chứng Tâm, Tâm tự giác Tâm, trong đó
không có pháp tri giác, không có người tri giác, chẳng phải bắt đầu mở biết,
cũng không có ai mở biết điều đó. Nếu có chút ít sự phân biệt "Năng Sở” giống
như một hạt bụi nhỏ, tức còn giữ “tướng Pháp và tướng Chẳng-phải-Pháp” thì chẳng
lìa 4 tướng Ta, Người, Chúng-sanh. Thọ-mạng, há được gọi là Huệ kim cang sao ?!
Kế đó trong kinh-tự chuyên thích nói: "Tại
sao ? - Tại vì Bồ-đề không có tướng". Luận giải thích rằng, vì Trí Huệ Phật
thanh tịnh, vượt lên các pháp Quán, chẳng quán các pháp tướng thường, tướng vô
thường, tưởng có bờ-mé, tướng không có bờ-mé, tướng có đi, tướng không đi, tướng
Có tướng Không, tướng hữu-lậu tướng vô lậu, tướng hữu vi tướng vô vi, tướng
sanh diệt tướng chẳng sanh diệt, tướng Không tướng Chẳng không, tướng thanh tịnh,
vô-lượng như hư không, cho nên Trí của Phật vô ngại. Nếu quán sanh diệt thì chẳng
được quán chẳng-sanh-diệt, nếu quán chẳng-sanh-diệt thì chẳng được quán sanh diệt.
Nếu sanh diệt là thật thì chẳng-sanh-diệt là chẳng thật. Nếu chẳng-sanh-diệt là
thật thì sanh diệt là không thật. Các pháp Quán đều như vậy cả.
Muốn cho Tâm Bồ-đề thanh tịnh thì phải vượt lên
trên các pháp Quán như thế. Vì lìa hết thảy các tướng, cho nên đối với tất cả
các pháp đều được không quái ngại ví như tướng hư không. Cũng vì hư không vô tướng
cho nên muôn hình tượng đều dựa vào hư không mà hư không thì không có dựa vào đâu
cả. Như vậy muôn pháp đều dựa vào Tâm-tịnh, còn Tâm tịnh thì chính nó không dựa
vào đâu cả. Vì tướng Bồ-đề là tướng hư không
thanh tịnh cho nên Kinh lại nói: Bí-Mật-Chủ! Các pháp không tướng, là tướng hư-không
vậy.
CHÁNH
VĂN:
Bấy giờ, Ngài Kim-Cang-Thủ
lại bạch Phật rằng: "Bạch Thế-Tôn! Ai tìm cầu Nhất-thiết-trí? Ai vì Bồ-đề
thành bậc Chánh-Giác? Ai phát khởi cái Nhất-thiết-trí ấy ?”. Phật dạy: "Bí-Mật-Chủ
! Tự tâm cầu Bồ-đề và Nhất-thiết-trí, tại sao ? Tại vì bổn tánh thanh-tịnh. Tâm
chẳng tại trong, chẳng tại ngoài, chẳng ở khoảng giữa. Tâm chẳng có thể được (bất khả đắc). Bí-Mật-Chủ! Như-Lai ứng
chánh đẳng giác, chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng phải đỏ, chẳng phải
trắng, chẳng phải hồng tía, chẳng phải sắc nước trong, chẳng dài chẳng ngắn,
chẳng tròn chẳng vuông, chẳng sáng chẳng tối, chẳng phải nam chẳng phải nữ,
chẳng phải nam nữ. Bí-Mật-Chủ ! Tâm chẳng phải đồng tánh với cõi Dục, chẳng
phải đồng tánh với cõi Sắc, chẳng phải đồng tánh với cõi Vô-sắc, chẳng phải Trời,
Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, chẳng
phải đồng tánh với Người, Phi-nhơn, các thú.
Bí-Mật-Chủ ! Tâm chẳng trụ Nhãn-giới, chẳng trụ Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý-giới,
chẳng phải Kiến, chẳng phải hiển hiện. Tại sao ? Tại vì tướng Tâm hư-không, lìa
các sự phân-biệt, không phân biệt. Sở dĩ như vậy là tại làm sao ? - Đồng tánh
hư không tức đồng tánh với Tâm, đồng tánh với Tâm tức đồng tánh với Bồ-đề. Tâm,
Hư-không-giới với Bồ-đề là 3 môn không hai. Ba môn đó lấy Bi làm gốc rễ, phương
tiện Ba-la-mật đầy đủ. Bởi vậy, này Bí Mật Chủ ! Ta nói các pháp như thế khiến
cho chúng Bồ-Tát các ông, nhờ Tâm Bồ-đề thanh tịnh mà hiểu biết tự Tâm.
Bí-Mật-Chủ ! Tính loại nam, tính loại
nữ, muốn hiểu biết Bồ-đề hãy nên hiểu biết tự tâm như thế. Bí-Mật-Chủ ! Biết tự
tâm là thế nào ? - Là biết rằng: nếu chia cắt hoặc hiển sắc, hoặc hình sắc,
hoặc cảnh giới, nếu là sắc, nếu là thọ tưởng hành thức, nếu là Ngã, Ngã sở, nếu
là Năng chấp Sở chấp, nếu là Thanh tịnh, nếu là Giới, nếu là Xứ, cho đến tất
cả trong phần đoạn : cầu chẳng có thể được.
Bí-Mật-Chủ ! Môn Bồ
Tát tịnh Bồ-để-Tâm này gọi là “Sơ pháp minh đạo”. Bồ-Tát trụ ở đó mà tu học thì
chẳng phải siêng năng cực khổ lâu dài mà liền được “tam-muội trừ tất cả chướng
ngại ngăn che”. Nếu được tam muội ấy, ắt cũng với chư Phật và Bồ Tát được “đồng
đẳng trụ”, sẽ phát hiện 5 phép thần-thông, được vô-lượng ngôn ngữ âm Đà-ra-ni,
biết hành trạng của tâm chúng sanh, được chư Phật hộ trì. Tuy ở nơi sinh tử mà
không bị đắm nhiễm, vì pháp giới chúng sanh mà chẳng từ bỏ công lao cực nhọc để
thành tựu trụ giới vô-vi, thông đạt chánh-kiến, xa lìa tà kiến. Lại nữa, Bí-Mật-Chủ ! Bồ-Tát
trụ tam-muội trừ tất cả cái chướng này, nhờ sức tin hiểu, chẳng phải siêng tu
lâu dài mà đầy đủ tất cả Phật pháp. Bí-Mật-Chủ ! Lấy chỗ cốt yếu mà
nói thì người thiện nam kẻ thiện nữ như thế thành tựu được vô-lượng công đức.
NGHĨA THÍCH:
Khi Ngài Chấp Kim Cang nghe Phật nói nghĩa tát-bà-nhã
(Nhất thiết tri), biết rằng: Huệ chỉ là tự tâm, cho đến không có một chút ít
pháp nào ra ngoài tâm ấy, bèn muốn dứt hết nghi hoặc cho chúng sanh đời mai sau,
nên hỏi Phật rằng : - Tâm Bồ-đề gọi là "một hướng chỉ cầu trí của Nhất thiết
trí. Nếu Trí của Nhất-thiết trí tức là Tâm Bồ-đề thì, trong đó, Ai là người
Năng cầu ? Gì là chỗ Sở cầu ? Cái gì có thể Giác ngộ ? Ai là người sẽ Giác ngộ
? Lại nữa, nếu lìa Tâm ra thi không có một pháp nào ở ngoài, vậy ai có khả năng
phát khởi cái Tâm ấy khiến đến diệu quả ? Nếu pháp không có nhân duyên mà được
thành, thì tất cả chúng sanh cũng chẳng được cần dùng phương tiện giả mà tự
nhiên thành Phật.
Phật đáp rằng: "Bí-Mật-Chủ ! Tự tâm tìm cầu
Bồ-đề và Nhất-thiết-trí. Tại sao ? - Tại vì bổn tánh thanh tịnh". Tuy thực
tướng của tự tâm chúng sanh tức là Bồ-đề, có Phật hay không có Phật nó vẫn thường
tự nghiêm-tịnh. Nhưng vì chẳng tự biết Nó như thực nên sự kiện đó là vô-minh. Vô-minh
điên đảo giữ tướng, nên sanh ra các phiền não như Ái (yêu)... Nhân phiền não mà
khỏi các loại nghiệp đi vào các
nên ngay khi đó vô-lượng
công-đức Bồ-đề của Ngài Kim-Cang-Thủ lại tăng thêm, điều này chứng tỏ người
nghe pháp sẽ không để cho nó thất thoát. Phật dạy: "Hãy lắng nghe, Ngươi
khởi ý rất lành. Nay Ta nói điều ấy". Đây cũng là lời căn-dặn các đệ-tử
mai sau nên lấy thâm tâm mà nghe pháp.
Vì những lẽ đó mà Luận giải-thích rằng: nếu có người lòng lành, nói thẳng, thì
người ấy có thể nghe pháp. Nếu không có cái tướng như vậy, ắt chẳng có thể giải,
như lời kệ nói:
Người nghe tánh ngay thẳng
Thấy như khát được uống
Một lòng nhập nghĩa lời
Nghe với tâm Bi Hỷ
Thì nên nói cho nghe.
Và theo Kinh Vô-Tận-Ý thì, dụng tâm nghe pháp có 20 công-đức, nên nói rộng điều
ấy. Kinh nói, Phật dạy Ngài Kim-Cang-Thủ rằng: "Bồ-Đề tâm làm nhân, Đại-bi
làm căn bản(gốc rễ), Phương-tiện làm
cứu cánh". Giống như trong thế-gian, chủng-tử phải được 4 đại (đất-nước-gió-lửa)
làm các duyên, mới sanh gốc rễ... có thứ lớp, cho đến lúc có thực quả mới gọi
là cứu cánh.
Nhưng dùng cái Trí theo Trung-đạo mà xét thì rốt-ráo chẳng sanh chẳng diệt,
chẳng phải chẳng-sanh, chẳng phải chẳng-diệt, mới thành nghĩa nhân-quả. Nếu
pháp chẳng như vậy ắt có tướng sanh-diệt đoạn-thường, như thế là rơi vào hý-luận,
tất cả đều có thể phá được, nghĩa nhân-quả chẳng thành vậy. Nay hành-giả quán
thật-tướng của Tâm lại cũng như vậy: Nó vượt qua tất cả hý-luận, như hư-không
thanh-tịnh, bên trong tự chứng sở-hành, được sức tin sâu, Tâm Bát-nhã kiên-cố
chẳng động, lìa nghiệp thọ-sanh, công-đức của muôn hạnh từ đó tăng-trưởng, nên
nói "Tâm Bồ-đề làm Nhân" của 2 câu sau. Nếu nhìn về thiện-căn sẽ
trồng được trong sanh-tử, ắt thiện-căn này được gọi là quả. Nhưng từ quả này
nhìn về tướng của Phật-pháp có trước Nó, tức tìm Nhân của Nó, ta thấy gì ? Ta
có thể lấy cái thí dụ sau đây để hiểu. Giả sử có vị thiện-tri-thức bảo
rằng: Nay trong nhà của bạn có một kho báu vô-tận, bạn nên siêng-năng tự tìm
phương-tiện để tự khai-thác nó, nó có thể chu-chấp cho cả một nước được sống
đầy đủ, thường chẳng thiếu-thốn gì. Bạn nghe xong, bèn sanh lòng tin-chắc, rồi
làm theo như lời người khuyên mà làm, cho đến thí công chẳng ngừng-nghỉ. Lần
hồi bạn thấy có kho báu thật. Từ quả này, tìm hiểu Nhân thì thấy lòng tin-chắc
là cơ-sở.
Đối với kho báu công-đức thì cũng vậy, phải khởi lòng tin-chắc mới có sức gia
hạnh để xa lìa tâm si-mê. Bởi thế, Tâm Bồ-đề là lòng tin chắc trong-trắng
thanh- tịnh. Luận cũng giải-thích rằng: Lòng Tin là công-năng để nhập vào biển
lớn của Phật-pháp, như lúc Phạm-thiên-vương thỉnh Phật chuyển pháp-luân, Phật
có nói kệ rằng:
“Nay Ta mở pháp-vị cam-lồ,
Nếu có người tin, ắt được hoan-hỷ.”
Trong câu kệ đó, Phật không nói đến những người bố-thí, trì-giới, đa-văn, nhẫn-nhục,
tinh-tấn, thiền-định, trí-huệ có được hoan-hỷ, mà chỉ nói đến người tin được
hoan hỷ. Như thế ý của Phật muốn chỉ cho ta thấy: Pháp rất sâu, vi diệu đệ
nhất, không số lượng, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng động, chẳng nương dựa, chẳng
dính- mắc, là pháp không có chỗ được, nếu chẳng phải là người có Nhất-thiết-trí
ắt chẳng có thể hiểu, cho nên phải lấy sức tin làm đầu, chớ chẳng phải là nhờ
các pháp như huệ mà có thể bắt đầu nhập vào Phật pháp, để làm cho Tâm tịnh
tăng- trưởng, bền vững. Vậy nên trong Kinh nói Đại-Bi là gốc rễ (Căn). Chữ gốc
rể biểu-diễn nghĩa “gìn-giữ”, giống như rễ cây giữ cho thân lá hoa quả của cây
chẳng nghiêng đổ.
Chữ Phạn nói "ca-lô-noa", thì “ca”
là cỏ thơm, “lô-noa” có nghĩa là cắt
đứt. TỪ như trồng mạ tốt trên đất rộng, BI như cỏ thơm dứt trừ cỏ xấu. Trong BI
có kiêm gồm cả TỪ như dứt trừ cỏ xấu là để cho lúa mạ tốt. Các hành giả tu pháp
cúng dường, nên dâng một bó hoa hay một lư trầm thơm là để làm cho pháp giới
trang nghiêm thanh tịnh, thì khi mây hương tỏa khắp mọi nơi để làm phật sự,
điều này có nghĩa là phát khởi bi nguyện hồi hướng quần-sanh, diệt tất cả khổ ban
vô lượng vui, tức làm cho căn lành của mình, với sự gia trì của Như Lai, được
có thêm sức đối với pháp giới, cho nên các diệu-nghiệp của mình làm đều được
thành tựu, đều được phổ cập khắp các trí địa, khắp các giới hữu tình, tất cả
đều sanh căn lành.
Khi hành giả dùng tâm không nghi mà tu vạn hạnh tức do cõi Đất Đại Bi giữ gìn,
cho nên được Lửa Đại Bi sưởi ấm, Nước Đại Bi thấm nhuần, Gió Đại Bi khai phát,
Hư không Đại Bi chẳng ngăn ngại. Bởi vậy lúc bấy giờ vô-lượng độ môn lặng lẽ mở
phát, giống như gốc rễ cây cành lá hoa thứ lớp trang nghiêm, tức là đối với tất
cả Tâm Pháp đều có đầy đủ nghĩa nhân duyên vậy
Phương tiện là Cứu cánh ấy là khi vạn hạnh đã viên mãn đến cùng cực, không còn
có thể tăng thêm được nữa, tình trạng này ứng-hợp với cơ duyên của sự vật đạt
đến công năng cứu cánh đó là diệu quả đề-hồ, nguồn gốc của TAM MẬT vậy. Lại,
Tâm Bồ-đề thanh tịnh, giống như vàng thiệt, tánh vốn trong sạch, lìa các lỗi
lầm. Đại Bi như học tập công xảo, dùng các chất thuốc hóa học luyện trị làm cho
vàng thêm tinh khiết mềm dẻo dễ uốn nắn. Phương tiện như các hình thức làm đồ
nữ trang, tùy ý tạo thành theo quy chế kỷ thuật, cho nên khi nó đi đến chỗ đắc
ý vi điệu thì khó mà trao truyền cho người khác được.
Như Ma-Ha Bát Nhã làm sáng tỏ 6 độ, 18 không tam muội, các môn đạo phẩm tổng trì
đều là do đã nhập Đại Bi, tức do Đại Bi mà sanh Vạn hạnh, lại nhờ Vạn hạnh mà
đạt đến quả trí Nhất-thiết-trí. Nếu Trí là cứu cánh thì Hạnh là phương tiện,
khi Trí cứu cánh làm cho Hạnh phương tiện hoàn-mãn đến cùng cực, thì lúc đó
phương tiện là cứu cánh, cũng như chủng tử sanh quả, quả trở lại hoàn thành chủng
tử vậy. Kinh nói Bí Mật Chủ ! Bồ-đề là thế nào ? - Là biết tự tâm như thật, tức
khai thị kho báu công-đức của Như Lai vậy.
Như có người tuy nghe nói kho báu bền khởi ý siêng năng
tìm cầu, nhưng nếu chẳng biết nó ở đâu thì hướng về nơi nào mà tiến thủ ?! Cho
nên lại phải chỉ dẫn. Như trước đã nói rõ: Pháp vi diệu rất sâu, sâu nhất, sâu
đến độ nếu không phải là bậc có Nhất thiết-trí ắt chẳng có thể giải được. Pháp ấy
từ đâu mà được ? - Từ nơi tự tâm của hành giả vậy. Nếu có thể như thực quán sát
tự tâm, chứng biết rõ ràng, thì gọi là thành Bồ-đề. Thực sự, nó chẳng ở nơi
khác, chẳng nhờ người khác mà được.
Hỏi: Nếu
Tâm tức là Đạo, tại sao chúng sanh luân hồi sinh tử ?
Đáp: Bởi chẳng biết như thật, cho nên gọi là phàm phu ngu đồng. Nếu người nghe
pháp này, có thể tin được một phần ít, thì đó là thức tánh của nhị-thừa, tuy tự
quán sát nhưng chưa biết như thực. Nếu biết như thực, tức lúc mới phát tâm liền
thành Chánh Giác. Ví như người cùng tử của vị trưởng giả, lúc nó tự biết cha của
nó rồi, há lại phải còn là đứa tớ hèn hạ sao ?!
Khi hành giả biết đúng thực tướng của Tâm thì họ
thấy tất cả các Pháp đều vi diệu, rất sâu, không có số lượng, chẳng có thể nghĩ
bàn, chẳng động, chẳng nương, chẳng đắm nhiễm, đều không thể được, rốt ráo như
tướng Bồ-đề. Cho nên Kinh lại nói: Bí Mật Chủ! Đó là A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ-đề,
cho đến một chút ít của pháp ấy cũng không thể có được. Không có gì ở trên nó,
nó biết đúng đắn cùng khắp tất cả (như trước đã nói). Trong các ý trên đây, nói
'một chút ít” chữ Phạn là "A-nậu, tức là 7 cái nhỏ nhiệm (thất vi) hiệp
thành: đối với các sắc pháp do duyên sanh thì đó là phần nhỏ nhất, nên lấy nó
làm thí dụ. Nói là 'pháp ấy' vì lìa nó thì không có tướng Tâm Bồ-đề nào ở
ngoài, không có một pháp nào cả.
Kế đó trong Kinh nói đến nhân duyên, tại sao vậy
? - Tướng Hư Không là Bồ-đề nó không có tri giác cũng không có sự mở biết, tại
sao ? - Tại vì Bồ-đề không có tướng. Vì như hư không cùng khắp các nơi, rốt ráo
thanh tịnh, cho nên lìa hết thảy các tướng, không động, không phân biệt, chẳng
có thể thay đổi, chẳng có thể phá-hoại. Lấy một phần ít tương tự về đức tánh
như thế mà dùng hư không để so sánh với Tâm Bồ-đề vô tướng. Tuy vậy trong vấn đề
này, còn có vô-lượng vô biên sự thật bí mật rất sâu kín, chẳng phải là cái hư
không của thế gian có thể dùng để so sánh cùng khắp được, mong rằng chư vị học
giả được ý quên lời cho.
Lại, như hư không xa lìa các hý luận phân biệt,
cho nên không có tướng tri giác, không có tướng mở biết. Chư Phật tự chứng Tam
Bồ-đề nên biết cũng vậy. Chỉ là Tâm tự chứng Tâm, Tâm tự giác Tâm, trong đó
không có pháp tri giác, không có người tri giác, chẳng phải bắt đầu mở biết,
cũng không có ai mở biết điều đó. Nếu có chút ít sự phân biệt "Năng Sở” giống
như một hạt bụi nhỏ, tức còn giữ “tướng Pháp và tướng Chẳng-phải-Pháp” thì chẳng
lìa 4 tướng Ta, Người, Chúng-sanh. Thọ-mạng, há được gọi là Huệ kim cang sao ?!
Kế đó trong kinh-tự chuyên thích nói: "Tại
sao ? - Tại vì Bồ-đề không có tướng". Luận giải thích rằng, vì Trí Huệ Phật
thanh tịnh, vượt lên các pháp Quán, chẳng quán các pháp tướng thường, tướng vô
thường, tưởng có bờ-mé, tướng không có bờ-mé, tướng có đi, tướng không đi, tướng
Có tướng Không, tướng hữu-lậu tướng vô lậu, tướng hữu vi tướng vô vi, tướng
sanh diệt tướng chẳng sanh diệt, tướng Không tướng Chẳng không, tướng thanh tịnh,
vô-lượng như hư không, cho nên Trí của Phật vô ngại. Nếu quán sanh diệt thì chẳng
được quán chẳng-sanh-diệt, nếu quán chẳng-sanh-diệt thì chẳng được quán sanh diệt.
Nếu sanh diệt là thật thì chẳng-sanh-diệt là chẳng thật. Nếu chẳng-sanh-diệt là
thật thì sanh diệt là không thật. Các pháp Quán đều như vậy cả.
Muốn cho Tâm Bồ-đề thanh tịnh thì phải vượt lên
trên các pháp Quán như thế. Vì lìa hết thảy các tướng, cho nên đối với tất cả
các pháp đều được không quái ngại ví như tướng hư không. Cũng vì hư không vô tướng
cho nên muôn hình tượng đều dựa vào hư không mà hư không thì không có dựa vào đâu
cả. Như vậy muôn pháp đều dựa vào Tâm-tịnh, còn Tâm tịnh thì chính nó không dựa
vào đâu cả. Vì tướng Bồ-đề là tướng hư không
thanh tịnh cho nên Kinh lại nói: Bí-Mật-Chủ! Các pháp không tướng, là tướng hư-không
vậy.
CHÁNH
VĂN:
Bấy giờ, Ngài Kim-Cang-Thủ
lại bạch Phật rằng: "Bạch Thế-Tôn! Ai tìm cầu Nhất-thiết-trí? Ai vì Bồ-đề
thành bậc Chánh-Giác? Ai phát khởi cái Nhất-thiết-trí ấy ?”. Phật dạy: "Bí-Mật-Chủ
! Tự tâm cầu Bồ-đề và Nhất-thiết-trí, tại sao ? Tại vì bổn tánh thanh-tịnh. Tâm
chẳng tại trong, chẳng tại ngoài, chẳng ở khoảng giữa. Tâm chẳng có thể được (bất khả đắc). Bí-Mật-Chủ! Như-Lai ứng
chánh đẳng giác, chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng phải đỏ, chẳng phải
trắng, chẳng phải hồng tía, chẳng phải sắc nước trong, chẳng dài chẳng ngắn,
chẳng tròn chẳng vuông, chẳng sáng chẳng tối, chẳng phải nam chẳng phải nữ,
chẳng phải nam nữ. Bí-Mật-Chủ ! Tâm chẳng phải đồng tánh với cõi Dục, chẳng
phải đồng tánh với cõi Sắc, chẳng phải đồng tánh với cõi Vô-sắc, chẳng phải Trời,
Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, chẳng
phải đồng tánh với Người, Phi-nhơn, các thú.
Bí-Mật-Chủ ! Tâm chẳng trụ Nhãn-giới, chẳng trụ Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý-giới,
chẳng phải Kiến, chẳng phải hiển hiện. Tại sao ? Tại vì tướng Tâm hư-không, lìa
các sự phân-biệt, không phân biệt. Sở dĩ như vậy là tại làm sao ? - Đồng tánh
hư không tức đồng tánh với Tâm, đồng tánh với Tâm tức đồng tánh với Bồ-đề. Tâm,
Hư-không-giới với Bồ-đề là 3 môn không hai. Ba môn đó lấy Bi làm gốc rễ, phương
tiện Ba-la-mật đầy đủ. Bởi vậy, này Bí Mật Chủ ! Ta nói các pháp như thế khiến
cho chúng Bồ-Tát các ông, nhờ Tâm Bồ-đề thanh tịnh mà hiểu biết tự Tâm.
Bí-Mật-Chủ ! Tính loại nam, tính loại
nữ, muốn hiểu biết Bồ-đề hãy nên hiểu biết tự tâm như thế. Bí-Mật-Chủ ! Biết tự
tâm là thế nào ? - Là biết rằng: nếu chia cắt hoặc hiển sắc, hoặc hình sắc,
hoặc cảnh giới, nếu là sắc, nếu là thọ tưởng hành thức, nếu là Ngã, Ngã sở, nếu
là Năng chấp Sở chấp, nếu là Thanh tịnh, nếu là Giới, nếu là Xứ, cho đến tất
cả trong phần đoạn : cầu chẳng có thể được.
Bí-Mật-Chủ ! Môn Bồ
Tát tịnh Bồ-để-Tâm này gọi là “Sơ pháp minh đạo”. Bồ-Tát trụ ở đó mà tu học thì
chẳng phải siêng năng cực khổ lâu dài mà liền được “tam-muội trừ tất cả chướng
ngại ngăn che”. Nếu được tam muội ấy, ắt cũng với chư Phật và Bồ Tát được “đồng
đẳng trụ”, sẽ phát hiện 5 phép thần-thông, được vô-lượng ngôn ngữ âm Đà-ra-ni,
biết hành trạng của tâm chúng sanh, được chư Phật hộ trì. Tuy ở nơi sinh tử mà
không bị đắm nhiễm, vì pháp giới chúng sanh mà chẳng từ bỏ công lao cực nhọc để
thành tựu trụ giới vô-vi, thông đạt chánh-kiến, xa lìa tà kiến. Lại nữa, Bí-Mật-Chủ ! Bồ-Tát
trụ tam-muội trừ tất cả cái chướng này, nhờ sức tin hiểu, chẳng phải siêng tu
lâu dài mà đầy đủ tất cả Phật pháp. Bí-Mật-Chủ ! Lấy chỗ cốt yếu mà
nói thì người thiện nam kẻ thiện nữ như thế thành tựu được vô-lượng công đức.
NGHĨA THÍCH:
Khi Ngài Chấp Kim Cang nghe Phật nói nghĩa tát-bà-nhã
(Nhất thiết tri), biết rằng: Huệ chỉ là tự tâm, cho đến không có một chút ít
pháp nào ra ngoài tâm ấy, bèn muốn dứt hết nghi hoặc cho chúng sanh đời mai sau,
nên hỏi Phật rằng : - Tâm Bồ-đề gọi là "một hướng chỉ cầu trí của Nhất thiết
trí. Nếu Trí của Nhất-thiết trí tức là Tâm Bồ-đề thì, trong đó, Ai là người
Năng cầu ? Gì là chỗ Sở cầu ? Cái gì có thể Giác ngộ ? Ai là người sẽ Giác ngộ
? Lại nữa, nếu lìa Tâm ra thi không có một pháp nào ở ngoài, vậy ai có khả năng
phát khởi cái Tâm ấy khiến đến diệu quả ? Nếu pháp không có nhân duyên mà được
thành, thì tất cả chúng sanh cũng chẳng được cần dùng phương tiện giả mà tự
nhiên thành Phật.
Phật đáp rằng: "Bí-Mật-Chủ ! Tự tâm tìm cầu
Bồ-đề và Nhất-thiết-trí. Tại sao ? - Tại vì bổn tánh thanh tịnh". Tuy thực
tướng của tự tâm chúng sanh tức là Bồ-đề, có Phật hay không có Phật nó vẫn thường
tự nghiêm-tịnh. Nhưng vì chẳng tự biết Nó như thực nên sự kiện đó là vô-minh. Vô-minh
điên đảo giữ tướng, nên sanh ra các phiền não như Ái (yêu)... Nhân phiền não mà
khỏi các loại nghiệp đi vào các đường (đạo), mang các loại thân, nhận
mọi điều sướng khổ, như con tằm nhả tơ, chẳng vì lý do gì mà tự nhả tơ tự quấn
mình vào trong kén, để rồi phải chịu cái khổ bị nấu trong nước sôi. Thí dụ như
nước Tịnh ở nhân gian, tùy theo tâm thì là Quỷ hay là chư Thiên, mà thấy đó là
lửa hay là vật báu, rồi tự tâm thấy khổ sướng. Do đó nên biết rằng : lìa Tâm
ra, không có một pháp nào ở ngoài Tâm cả.
Nếu người hành Du-Già thực hiện chánh quán ba pháp thực tướng tức là thấy tướng
thực của Tâm. Tướng thực của Tâm tức là Bồ-đề vô tướng, cũng gọi là Trí của Nhắt
thiết trí. Tuy nó lìa các nhân duyên, nhưng chẳng phải không Nhân mà được thành
tựu.
Lại nữa, Đức Thế Tôn muốn khiến cho chúng sanh biết tự tâm như thật, nên Ngài
mới dùng phương tiện phân biệt diễn nói mà ra như vậy. Nếu chỉ nói rằng Tự tâm
chẳng sanh chẳng diệt, chẳng có nhân duyên gì, ắt là khó giải nghĩa, cho nên
trước hết Ngài chỉ cho thấy: theo chỗ đắm-nhiễm mà nói, thì Tâm chẳng tại 16 xứ
bên trong, chẳng tại ngoài, chẳng ở khoảng giữa. Tâm bắt khả đắc, như Ma-ha
Bát-nhã muốn vào thực tướng của các pháp phải dùng vô lượng môn. Nay muốn đưa
ra những chỗ tông yếu thì chỉ quán 12 xứ trong ngoài, tức thu-nhiếp tất cả các
pháp vậy. Hành giả, từ vô thỉ đến nay, đã đắm giữ nhiều tướng của Tâm ở bên trong,
cho nên trước hết đối với 6 xứ ở trong (mắt-tai-mũi-lười-thân-ý) phải dùng
phương tiện bình đẳng là xa lìa, mỗi mỗi đều quán sát kỹ để biết "Tâm bắt
khả đắc, vô sanh, vô tướng, không có xứ sở", rồi lại nghĩ rằng hay là Tâm
này lại ở ngoài ? Đối với 6 xứ ở ngoài (sắc-thinh-hương-vị-xúc-pháp) cũng quán
sát đó biết: Tâm cũng chẳng sanh, cũng vô tướng, không có xứ sở. Rồi sự nhận
lầm, nên lại hiệp quán để thấy rõ khoảng giữa (của 2 xứ trong ngoài), Tâm cũng
bắt khả đắc, tức tỏ ngộ: Tâm này thực tánh vốn chẳng tự sanh, chẳng diệt, rốt
ráo thường tịnh, vạch mây hý-luận, ví như sức của ngọc trai làm cho nước mát,
nước mát nên ngọc hiện, nhắt định chẳng từ các xứ khác mà đến vậy.
Kinh nói: "Bí Mật Chủ ! Như-Lai ứng chánh đẳng
giác chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng phải đỏ, chẳng phải trắng, chẳng
phải hồng tía, chẳng phải sắc nước trong, chẳng dài chẳng ngắn, chẳng tròn chẳng
vuông, chẳng sáng chẳng tối, chẳng phải nam, chẳng phải nữ, chẳng phải nam nữ.
Trước đã rút gọn tất cả các “phi pháp” (chẳng phải pháp) để nói rõ thực tướng của
Tâm. Nay lại rút gọn cái CHƠN NGÃ để nói rõ thực tướng của Tâm.
Biện nghĩa của tâm-chỉ này thì Tâm là NHƯ LAI ỨNG
CHÁNH ĐẲNG GIÁC, đó là các Đại Ngã của nội tâm vậy. Như có một loại ngoại đạo,
chẳng hiểu rõ tự tâm nên họ nói rằng "tôi xem xét cái chơn-ngã thấy sắc
chính của nó là màu xanh", đó là điều mà người khác chẳng thấy được, hoặc
nói: "nó như đầu chim yến, nay gọi nó là màu hồng tía", hoặc nói
"tôi thấy cái chơn-ngã, tướng của nó rắt ngắn"… cho đến "như tướng
người đàn ông (nam)": hết thảy đều là vọng-ngữ.
Tuy nhiên các tướng ấy đều từ duyên sanh, không
có tự tánh, làm sao gọi là cái Ngã chơn thực được?! Đối với các loại Chấp như
thế, Phật nói: "Như-Lai ứng chánh đẳng giác, chẳng phải màu xanh... "
sở dĩ như vậy là tại sao ? Tại vì tướng "xanh rốt ráo chẳng sanh cho nên ắt
là 'chẳng phải xanh, thực tướng của 'xanh' chẳng hoại cho nên nó cũng chẳng phải
“chẳng xanh”. Nên biết, Như-Lai ứng chánh-đẳng-giác không có một tướng nào nhắt
định có thể nói được, cũng chẳng lìa các tướng như đã kể.
Ví như có một vị thầy ngoại đạo, trong đêm tối
như mực, dẫn các đệ tử đến trước một con voi, và bảo rằng: "Nay ta cho các
ngươi thấy cái Chơn-ngã, hãy rờ xem". Bấy giờ các vị đệ tử, hoặc dùng mắt
nhìn hoặc dùng thân đụng chạm. Người cố nhìn ắt nói "Nay tôi đã biết
Chơn-ngã, sắc nó màu đen, thân hình cao lớn”, người rờ đụng cái ngà voi ắt nói
"Chơn-ngã như cái mác", kẻ đụng nhằm cái tai voi ắt nói "như cái
nia", kẻ va phải chân voi ắt nói "cây trụ", người chạm trúng cái
đuôi voi ắt nói "như cây phắt trần". Mỗi người đều tùy theo chỗ bắt gặp
mà nói ý mình khi biện luận phải trái, nhưng không một ai biết đúng cái chơn thể
của voi. Nếu người hành Du Già mở phát tâm minh-đạo ắt soi thấy Tâm vương
Như-Lai, như trong ánh sáng, tự thấy các sắc, ắt chẳng phải tranh luận gì nữa.
Kế đó, Kinh nói: "Bí-Mật-Chủ ! Tâm chẳng phải
đồng tánh với cõi Dục, chẳng phải đồng tánh với cõi Sắc, chẳng phải đồng tánh với
cõi Vô sắc, chẳng phải Trời, Rồng, Dạ-xoa cho đến Người, Phi-nhơn, các
Thú". Đây cũng là đối với các Vọng Chấp, bày tỏ tự tâm không có biến đổi,
cho nên nói: Tâm này chẳng đồng tánh với 3 cõi. Có những ngoại đạo chấp tánh
Ngã đồng với cõi Dục, hoặc đồng với cõi Sắc cõi Vô sắc, cho đến chấp cõi Trời
Phi Phi tướng xứ là Niết Bàn, hoặc nói: Phạm-vương Tỳ-nửu thiên... sanh ra tất
cả các pháp. Nhưng 3 cõi kia, hết thảy đều từ các duyên mà sanh, tìm cầu tánh của
chúng đều chẳng có thể được, huống là khiến cho tánh của Tâm đồng với tánh của
chúng sao ?!
Kế đến, rộng phân biệt vô lượng chúng-sanh-thú,
lấy mỗi một loại mà so sánh, đều chẳng đồng tánh với tâm, ví như trong hư không
có mưa nước 8 công đức, vị thuần tịnh, mà tùy theo đồ chứa, nước đựng lại có những
sai khác, như chua, cay hoặc ẩm, độc, nhưng tánh của 8 công đức chẳng đồng với
8 tánh kia. Dùng ôn giải độc, tức thì nước trở lại trong mát như xưa như lúc
chưa từng biến đổi. Lại như chân đà-ma-ni, tự nó không có định tướng, gặp vật
nào thì nó đồng màu với vật ấy, nhưng cái tánh quý của nó thì chẳng đồng với vật
nào. Nếu mà đồng tánh, thì khi Sắc theo duyên sanh diệt thì tánh quý cũng phải
sanh diệt theo vậy.
Kế đến, Đức Thế Tôn vì muốn khai thị thai
tạng Đại Bi sanh ra Mạn-trà-la, cho nên trước tiên mở bày đúng đắn môn thực tướng
của Tâm. Tại sao vậy ? - Tại vì trong tam muội, bổn tôn của hành-giả nói có hiển
hình các tướng nam-nữ... và phổ môn thị hiện thân của 6 chúng thú, sợ rằng
hành-nhơn chẳng hiểu “tâm do nhân-duyên sanh” mà khởi sanh hý luận đối với chơn
tánh bửu-vương, cho nên Phật mới nói "Như-Lai chẳng phải xanh chẳng phải
vàng..." cho nên nói tâm ấy chẳng đồng với 6 loài thú trong 3 cõi. Nếu có
thể quán sát được như thế ắt chẳng làm chướng ngại cho Tâm Bồ-đề vậy.
Kinh lại nói: "Bí-Mật-Chủ ! Tâm chẳng trụ Nhãn giới,
chẳng trụ Nhĩ, Tỷ. Thiệt, Thân, Ý giới, chẳng phải Kiến, chẳng phải hiển hiện".
Trước đây, đã nói Tâm chẳng tại 3 cõi là đã thu nhiếp tất cả các pháp, vì người
chưa tỏ ngộ mà nói. Lại trải qua mỗi mỗi pháp phân biệt, nếu tâm chẳng cùng các
thú đồng tánh, thì vì sao mà trụ Nhãn giới cho đến trụ Ý giới ? Nếu tâm trụ Nhãn
giới, thì Nhãn (con mắt) từ các duyên sanh nên tánh tướng tự Không, không có trụ
xứ, huống nửa là thực tướng của Tâm trụ tại trong Mắt như Nhãn giới, cho đến Ấm-Nhập
các pháp, khi phải nói rộng ra.
Lại nữa, trước đả phá các thứ ngoại đạo, nay nói
chẳng trụ các pháp, là vì muốn phá biên kiến của Thanh-Văn, cho nên giống như
con nghé trong A-tỳ-đàm nói, cũng ví như nói 4 đại hàa hiệp thì có con mắt. Như
vậy 5 ấm hòa hiệp thì có người: thế là pháp ngoài (ngoại đạo), trong tạng Bất
khả thuyết nói tất cả đều có, đạo-nhơn nói là thần-nhơn. Trong tất cả các pháp
môn, cầu thì chẳng được như lông rùa sừng thỏ thường không, mà ấm-giới-nhập thì
thực có tự tánh. Dùng phép hý-luận như thế cho nên chẳng biết được tâm mình. Nếu
có thể quán Tâm chẳng trụ ở các pháp, ắt Tâm không có hành xứ, các hý luận đều
dứt hết.
"Chẳng phải Kiến, chẳng phải hiển hiện"
là: như có người nói, tất cả chúng sanh vốn có "tánh thấy biết của Phật",
chỉ khi nào trừ hết sự che đậy của vô-mình thì tự mình có thể thấy Lý, hoặc có người
nói: như vậy Lý thường chẳng có thể tạo tác, chỉ khi nào trừ hết mây mù che khuất
thì mặt trời tự hiện. Các lời ấy đều là Chân-lý của thế tục. Nếu Tâm Bồ-đề
thanh tịnh là pháp có thể thấy (kiến), có thể hiện, thì đó là pháp có tướng. Mà
pháp có tướng đều là hư-vọng, làm sao có thể thấy Bồ-để vô thượng được ?!
Lại trong Kinh tự nói nhân duyên là tại sao ? -
Tướng Tâm hư không, lìa các vọng-chấp, cũng không có sự phân biệt, giống như hư
không rốt ráo thanh tịnh, cho nên hết thảy các sắc tướng đều không thể làm cho
nó nhiễm ô được. Tánh của Tâm cũng vậy, tất cả các sự phân biệt không thể
nhiễm-ô nó được, nếu không phân biệt tức là lìa hết thảy các tướng vậy.
Kinh nói: " Sở dĩ như vậy là tại làm sao ?
- Đồng tánh hư không tức là đồng tánh với Tâm, đồng tánh với Tâm tức đồng với Bồ-đề.
Như vậy, Bí-Mật-Chủ ! Tâm, Hư không giới với Bồ-đề là 3 môn không hai. Ba môn ấy
lấy Đại Bi làm gốc rễ, phương tiện ba-la-mật đầy đủ ". Như các môn nhập
thanh tịnh trên kia đều là vì muốn phát minh tự tâm, cầu nghĩa Bồ-đề. Nay lại kết
luận nói Hư Không vô cấu (không bụi dơ) tức là Tâm, Tâm tức Bồ-đề, vẫn đồng một
tướng mà có 3 tên, tức một pháp giới tâm này, tuy nhân duyên rốt ráo chẳng
sanh, nhưng chẳng hoại thực tướng nhân duyên. Bởi chẳng sanh nên không có Năng
Sở khác nhau, bởi chẳng hoại nên cũng được Đại Bi làm gốc rễ, phương tiện
ba-la-mật đầy đủ là cứu cảnh chẳng thể nghĩ bàn của nghĩa Trung đạo vậy.
Kinh nói:" Bí-Mật-Chủ ! Ta nói các pháp như thế,
khiến cho chúng Bồ-Tát các ông, tâm Bồ-đề thanh tịnh hiểu biết tự tâm". Đến
đây Phật đã khai thị Tâm Bồ-đề thanh tịnh, nói tóm lược rõ ràng "3 câu của
đại tông" hợp luận từ đầu đến cuối thành một bộ: vô lượng phương tiện đều
vì muốn khiến cho chư Bồ-Tát tâm Bồ-đề thanh tịnh, hiểu biết tự tâm. Nên biết:
Ý của tất cả các Kinh đều ở trong Kinh này, cũng như các pháp do Đức Thích Ca
Như-Lai nói ra, thì hết thảy các Đức Như-Lai trong mười phương, không gì chẳng
thuộc 3 câu của pháp môn này: cứu cánh đồng về một gốc, không có dấu vết gì
khác, cho nên Phật mới nói như vậy.
Kinh nói: " Bí Mật Chủ ! Biết tự tâm là thế
nào ? - Là biết rằng: nếu chia cắt hoặc hiển sắc, hoặc hình sắc, hoặc cảnh giới,
nếu là sắc, nếu là thọ tưởng-hành-thức, nếu là Ngã, Ngã sở, nếu là Năng-chấp Sở-chấp,
nếu là Thanh tịnh, nếu Giới, nếu là Xứ, cho đến trong tất cả các phần đoạn, cầu
chẳng có thể được !". Đức Thế Tôn trước rộng nói cái Tướng như thực của
"Tâm Bồ-đề thanh tịnh" cho chúng-sanh chưa có thể đắc ý để tỏ ngộ,
sau Ngài lập phương tiện nói pháp môn nhập vào thực tướng của Tâm để đốn giáo
thành Phật, và cũng là để phán quyết rõ ràng tất cả Pháp Phật của mười phương ba đời, cho nên cũng như
trong hết thảy tất cả các Kinh, hoặc là Ngài nói: trong các ấm hòa hợp thì cái
Ta chẳng có thể được, hoặc là Ngài nói: các pháp do duyên sanh đều không có tự
tánh, các điều ấy đều là dần dần theo thứ lớp mở cửa thực tướng.
Các Kinh nói "thực tướng của các pháp"
tức trong Kinh này nói "thực tướng của Tâm". Thực tướng của Tâm tức Bồ-đề,
tuyệt không có lý nào khác. Chỉ vì chúng- sanh phước mỏng nên chẳng có thể tự
tin làm Phật. Tự tin làm Phật rất khó được, cho nên Đức Thế Tôn khiến lòng sạch
các bụi dơ làm ngăn ngại, rồi sẽ đạt đến tâm mình. Cốt yếu là khiến cho lúc đạt
đến nghĩa khế họp, sau đó mới vì (người mê) mà nói đến tâm-ấn. Nay Kinh này, vì
là Tạng bí yếu nên chẳng nhắm thẳng vào các pháp mà lại khiến cho biết rõ bốn
tâm.
Ý thứ nhất nói đến sự chia cắt là cử chung một
phần pháp do duyên sanh. Bởi đã phải đợi nhân duyên hợp lại mới thành ắt có tướng
sai khác, cho nên hành giả phải quán sát pháp đó như vầy: trong sự chia cắt
này, cái gì là Tâm ? Dù cho phân tích, tìm cầu, đều bất khả đắc, tức biết tâm
này vượt ra ngoài các tướng, lúc các nhân duyên. Khi đã biết tánh của Tâm thường
như thế, lúc bấy giờ mới trực nhận ra rằng: tất cả các pháp tự nhiên chẳng khác
với Tâm.
"Hiển sắc" là xanh, vàng... "Hình
sắc" là vuông tròn... "Cảnh giới" là nơi đối ứng với 6 hình tức
6 trần (sắc-thanh-hương-vị-xúc-pháp). Vì muốn khiến cho người ta dễ hiểu cho
nên lại phải quán sát khắp các pháp. Khi đã trải qua các hiển sắc, các hình sắc...
trong các sắc tướng như thế, cái gì là Tâm ? Sắc vốn chẳng có tình, không có tướng
hay biết, huống là trong đó lại có Tâm thì há có thể tìm được sao !? Nên biết, hết thảy các Sắc-trần, như hiển-sắc hình
sắc đều cũng như vậy cả. Sắc trần như thế,
cho đến thanh-hương-vị-xúc-pháp cũng như thế.
Đối với ngoại trần, hành giả biết Tâm bất khả đắc
rồi, lại quán nội thân: 5 ấm cũng như
chòm xóm, bọt nước, ngọn lửa, cây chuối... đều là ảo hóa, tự cầu thật tánh
còn không có huống là trong đó mà tìm thấy có Tâm. Thế là từ thô đến tế, tử chi
tiết đến tổng quát, cho đến một niệm trong hiện tại, thức cũng không có lúc
trụ. Lại từ các duyên mà sanh, cho nên tức Không tức Giả tức Trung, xa lìa tất
cả các hý luận đến chỗ thực tế vốn chẳng sanh. Thực tế vốn chẳng sanh tức là tự
tánh thanh tịnh tâm, tức là cửa chữ A (A tự môn). Tâm vào cửa chữ A nên biết
tất cả các pháp đều vào trong cửa chữ A vậy. Đã nói xong phép Quán thực tướng
của các pháp, kế đến làm sáng tỏ pháp Quán tưởng Ngã (ta) nên nói: “nếu là Ngã,
Ngã sở, nếu là Năng-chấp Sở chấp, nếu là Thanh tịnh". Như đối với các Ấm
nêu trên, đã nói các phương tiện quán Tâm, mà đều thấy Tâm bất khả đắc huống là
đối với các pháp Ngã, Nhơn, Thọ giả... Từ lâu xa đến nay, chỉ có giả danh
(không có thực tướng). Nếu trong đó có Tâm, có thể được thanh tịnh, tức đồng
với ngoại đạo chấp sự thanh tịnh đến cùng cực gọi là Niết Bàn, giống như
Phạm-chí Trương-Xoa chẳng nhận tất cả các pháp, mà nhận có thấy chúng nó. Nay
cũng như vậy, đắm giữ phép Quán không, khởi trí huệ, mà sanh tướng thanh tịnh
(thì chưa phải thanh tịnh ). Nếu trong cái tướng như thế, chánh quán tự tâm
không có nơi sanh thì mới được nhập Tâm Bồ-đề chơn-tịnh. Trên đây đã rộng nói
đối với 5 ấm.
Kế đến nói 18 giới và 12 xứ, cho đến trong tất cả các phần đoạn, đều cầu bất khả
đắc. Về nghĩa của Ấm-Giới-Nhập, thì trong A-tỳ-đàm có chứng minh rộng rãi là 3
pháp ấy thu nhiếp tất cả các pháp. Lại nói trong tất cả các phần đoạn, cầu bất
khả đắc, tức là trong Ma-ha Bát-nhã... trải qua các pháp, đã rộng chứng minh
như thế rồi.
Như đối với Ấm-Giới-Nhập mà phân tách để cầu Tâm thì Tâm bất khả đắc. Nên biết:
lục-độ vạn hạnh, cho đến trong tất cả các môn tam-muội tổng-trì mà cầu Tâm,
cũng bất khả đắc. Vì Tâm bất khả đắc cho nên tướng của Tâm thường-lạc-ngã-tịnh
hay chẳng thường-lạc-ngã-tịnh, lại cũng bất khả đắc. Lại như người Thanh-văn
lúc bắt đầu quán Ấm-Giới-Nhập, từ Ấm cầu Ngã, lìa Ấm cầu Ngã, đều bất khả đắc,
tướng tại (hiện còn) cũng bắt khả đắc. Lúc bấy giờ, trong 8 trực đạo, xa bụi lìa
dơ thì chánh pháp nhãn sanh. Môn Chân-ngôn của Bồ-Tát cũng như vậy : lúc bắt
đầu quán Ấm-Giới-Nhập, tức Ấm cầu Tâm, lìa Ấm cầu Tâm, đều bất khả đắc, tướng
tại cũng bất khả đắc, cho nên ngay khi đó liền tỏ ngộ tự tâm thực tế vốn chẳng
sanh : đối với tri-kiến của Như-Lai trong đạo Đại Bồ-đề, xa bụi lìa dơ được
pháp nhãn tịnh.
Nếu chẳng làm theo phương tiện đó, mà trước hết là theo chỗ đắm nhiễm để quán
sát nó và chỉ nói rằng: Tâm đắm nhiễm cùng khắp các xứ rốt ráo vô tướng, ắt tất
cả chúng sanh không do đâu mà ngộ nhập. Nên biết rằng: phép quán kia là pháp-môn
tối bí yếu. Như các phương tiện xa lìa khác, chư Bồ-Tát lần hồi tu tập Giới
Định Huệ trong vô lượng kiếp, dùng các phép Quán "Nhơn, Pháp, Hai
Không", đều là do tình trạng chưa có thể xa lìa ảnh tượng của Tâm. Nay
hành giả tu theo môn Chân ngôn, lúc mới phát tâm đã quán ngay thực tướng của tự
tâm, biết rõ Tâm vốn chẳng sanh, cho nên các hý-luận về "Nhơn, Pháp tức
thời được thanh tịnh như Hư Không, thành tự nhiên Giác, chẳng do nơi khác mà tỏ
ngộ. Nên biết phép Quán này cũng gọi là pháp môn đốn ngộ.
Kính nói: "Bí-Mật-Chủ ! Môn Bồ-Tát tịnh Bồ-đề Tâm này gọi là Sơ Pháp Minh
Đạo. Bồ-Tát trụ ở đó mà tu học thì chẳng phải siêng năng cực khổ lâu dài mà
liền được tam muội Trừ tất cả cái-chướng. Nhập Tri-Huệ Phật thì có vô lượng môn
phương tiện, nay Tông này dùng ngay sự việc tịnh Bồ-đề tâm làm môn. Nếu nhập
môn này tức là bắt đầu vào cảnh giới của tất cả Như-Lai, vì như Ngài Di Lặc mở
cửa lầu gác cho đồng tử Thiện-Tài vào trong đó, thấy đủ vô lượng sự chẳng thể
nghĩ bàn, khó dùng lời để giảng giải, mà chỉ người nhập tự biết thôi.
"Pháp-Minh" là biết tâm thực tế vốn chẳng sanh, tâm ấy thanh tịnh
yên-trụ sanh đại-huệ sáng suốt chiếu khắp vô lượng pháp tánh, thấy rõ đạo của
chư Phật-hành (đường của Phật đi) cho nên gọi là Pháp-minh đạo (con đường sáng
của pháp). Lúc Bồ-Tát trụ ở đạo ấy, thì những nhân duyên vọng tưởng gây ra bao
nhiêu nghiệp khổ phiền não đều được diệt trừ, trở nên thanh tịnh. Ví như có
người trong đêm tối bị vật sắc bén làm cho bị thương, nhưng vì không biết
là vật gì lại tưởng là rắn độc, bởi chấp-nhiễm cái tư tưởng độc ấy cho
nên nó biến thành khí độc thâm nhập khắp cơ
thể, sắp muốn làm cho mất mạng, May có lương y chẩn bệnh, hiểu rõ đầu đuôi
sự việc, bèn dẫn bệnh nhân đến chỗ bị thương,
dùng đèn sáng chiếu vào vật ấy, nhân thấy
có chút máu còn dính khô trên vật ấy, người kia biết rõ chẳng phải độc, khí độc được trừ, lại phân biệt thấy là đồ quý báu,
nên sanh lòng vui sướng, bỗng nhiên bết bịnh.
Người tu hành lại cũng như vậy: nhân Tâm Bồ-đề
thanh tịnh soi sáng các pháp, nên ít dùng công sức mà được Tam muội Trừ Cái Chướng,
thấy thực tướng của 8 vạn 4 ngàn phiền não trở thành 8 vạn 4 ngàn môn nhóm báu.
Bởi vậy kế đó Kinh nói "Bồ-Tát trụ ở đó mà tu học thì chẳng phải siêng
năng cực khổ lâu dài mà liền được Tam muội Trừ tất cả Cái Chướng. Nếu được như
thế, tức đồng đẳng trụ với chư Phật và Bồ-Tát".
Nói về Chướng thì có 5 loại: một là Phiền Não
Chướng, tức căn bổn phiền não, cho đến 8 vạn 4 ngàn phẩm thượng-trung-hạ ngăn
che tịnh tâm, và do các đời trước đã biến thành thói quen cho nên có phương ngại
cho đạo cơ, chẳng nhập được Phật pháp. Hai là Nghiệp Chướng tức các tội nặng
trong các đời đã qua và đời hiện tại đã tạo ra, cho đến chê bai Kinh Phương-Đẳng.
Người như thế, tuy có nhân duyên được Đạo, nhưng vì nghiệp chướng trước chưa trừ
cho nên còn lưu lại những hoạn nạn, khiến chẳng nhập được Phật pháp. Ba là Sanh
Chướng tức là nơi sanh ra chưa được thắng-thượng mà còn có khổ nạn làm chướng
ngại cho sự ngộ Đạo. Lại còn nghiệp trước khiến phải thọ thân chẳng phải nhàn hạ,
tức là báo-sanh (y-báo và chánh-báo) làm chướng ngại, chẳng nhập được Phật
pháp. Bốn là Pháp-Chướng tức là những người đã được nơi sanh không có chướng-nạn,
lại có cơ duyên ngộ-đạo, nhưng vào đời trước đã từng có các duyên làm chướng ngại
pháp nên nay chẳng gặp bạn lành, chẳng được nghe chánh pháp. Năm là Sở-Tri-Chướng
tức là những người đã gặp được thiện tri thức, đã được nghe chánh pháp, nhưng còn
có các loại nhân duyên khiến cho dòng tư tưởng chẳng hòa hiệp, làm phương-hại
cho việc tu Bát Nhã Ba-la-mật, như trong đại phẩm về Ma-sự có nói rõ, đó cũng
là do đời trước đã từng sai sử các cơ duyên của Đạo khác, cho nên nay ưa sanh
loại chướng này.
Khi hành giả đã được Tam muội tịnh trừ 5 chướng
rồi thì trong tự tâm thường thấy tất cả chư Phật mười phương, diệu tướng trạm-nhiên
(sâu lặng tự nhiên) như xem trong gương sáng, cho đến trong mọi uy-nghi đi-lại-thức-ngủ
đều chẳng rời những lúc có nhân duyên hội Phật như thế, Chư Thánh thường dùng
những phương tiện thắng-diệu để dạy cho Tâm tỏ ngộ. Chữ Phạn "Ủy dụ"
là xét đoán dứt khoát được lưới nghi hoặc, hành giả tùy theo từng môn mà ngộ từng
sự, ngộ rồi thì lưới chưởng được dứt trừ, chẳng bao lâu thành tựu được tất cả
Phật pháp, nên nói "Nếu được tam muội ấy, ắt cùng với chư Phật và Bồ-Tát đồng
đẳng trụ". Nên biết như thế là hành giả được đồng vị với bậc Đại Giác, vì
Tâm tự Giác nên cũng gọi là Phật, nhưng chưa phải là Diệu Giác cứu cánh địa vị
Đại Mâu-Ni. Giống như mặt trăng thanh tịnh, tuy thể không tăng giảm, nhưng chỗ
sáng thì sáng dần thêm lên, cho đến ngày Rằm mới có sức hút làm động hải triều
nơi biển cả. Lại hành giả được đồng đẳng trụ với Như-Lai tức có thể dùng sức
phương tiện khởi 5 món thần thông, chẳng động bổn tâm mà được dạo chơi nơi các
cõi Phật, hiện các loại thân-ngữ-ý, khiến nổi lên các loại mây cúng dường, lấy
đại nguyện rộng tu các độ. Lại do ý căn thanh tịnh cho nên kể đó được hiểu vô
lượng âm thanh ngôn ngữ, các Đà-ra-ni, như trong một cõi thế gian có 36
câu-đê-thú, tùy theo tánh thượng-trung-hạ các loại nói những ngôn từ sai khác
theo từng địa phương, hành giả đều hiểu chỉ- thú của các loại đó. Đối với một
thế giới đã được như vậy thì đối với tất cả các thế-giới cũng thế.
Chử Phạn "lổ đa" là tiếng lớn, “ra vĩ
đa" là tiếng nhỏ, "niết cù sam" là tiếng dài lại gồm nhiều tiếng.
Sở dĩ nói đầy đủ như thế là muốn hiện cảnh giới tổng-trì, không có nơi nào mà
chẳng hiểu rõ. Đối với văn tự của mỗi phương thật khó mà dịch cho đủ vậy.
Đã được Đà-ra-ni nên có thể biết tâm hạnh của tất
cả chúng sanh như chúng sanh sân nhiều mà tham ít, hoặc tham nhiều mà sân ít...
cho đến thông, bít, các tướng vô cùng sai khác, như trong Đạo Chủng-trí thích
luận có nói rõ rộng rãi. Bồ-Tát (được Đà-ra-ni rồi) chẳng những chỉ có ý căn được
biết như vậy, mà các sự thấy nghe-ngửi đụng chạm cũng đều được dùng thay thế
cho nhau mà không bị ngăn ngại. Bồ-Tát lại có thể xem xét căn duyên của
chúng-sanh, trừ cái chướng cho họ bằng các loại phương tiện để thành tựu chúng
sanh trang nghiêm cõi Phật, làm mọi việc của Như Lai. Nên biết: hành môn Chân
ngôn cho đến một đời có thể được thành biện các sự như vậy.
Lại nữa, như trên kia đã nói, tất cả chúng sanh
đều có các công đức bình-đẳng như bổn tánh của họ, chỉ vì vô minh ngăn che chẳng
tự biết rõ, nên chưa có thể phát khỏi các sức thần thông bí mật như vậy. Nay
Chư Bồ-Tát tu hành môn Chân-ngôn này, nhờ thấy Pháp-Minh Đạo tức được sanh Tam
muội Trừ Cái Chướng (trừ mọi sự ngăn-che). Được tam muội ấy, tức cùng chư Phật
Bồ Tát có thể được đồng đẳng trụ, phát khởi 5 món thần thông. Nhờ 5 môn thần
thông nên được môn Đà-ra-ni thông hiểu ngôn ngữ của tất cả chúng sanh, được môn
Đà-ra-ni ấy nên có thể biết tâm hạnh của tất cả chúng sanh để làm được mọi phật
sự. Bởi có thể rộng làm phật sự chẳng để dứt mất hột giống Như-Lai, cho nên
trong mọi lúc ở mọi nơi, thường được chư Phật mười phương hộ trì, giống như đứa
trẻ mới sanh được cha-mẹ có lòng thiên-ái thường chẳng xa rời. Nên biết như vậy
là các câu (các ý) đều theo thứ lớp giải thích lẫn nhau.
Lại nữa, hành giả bên trong thì đủ các công đức
như đã nói, bên ngoài lại được chư Phật hộ trì, cho nên ở trong sinh tử mà
không bị đắm nhiễm, giống như hoa sen ra khỏi mặt nước, chẳng vì xuất thân từ
bùn nhơ mà bị nhiễm ô. Lại thường dùng phương tiện Tứ-Nhiếp Pháp cứu chúng-sanh
thoát khỏi bể khổ, cho đến vô-lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp thường ở trong địa
ngục vô gián mà thân tâm vẫn tinh
tấn hào hứng phấn khởi chẳng ngừng, không có lui mất, chẳng nại gian-lao mỏi mệt.
Tại sao vậy ? - Tại vì Tâm Bồ-đề thanh tịnh tánh nó thư thế : bởi như kim cang
tánh nó rất kiên cố (bền vững) như vậy, có nghĩa là tành nó chẳng phải nhờ Thầy
dạy mà được, nó thường trụ giới vô-vi, không dơ không đục, không thể bị phá
hoại bị tổn thương. Chữ Giới tiếng Phạn gọi là "Thi-La” tức có nghĩa trong
sạch lạnh lùng, ví như tánh nước lặng, thường trong thường lạnh, tuy gặp nhân duyên
củi lửa ắt có thể làm sáng rỡ các vật, nhưng tự tánh của nó cuối cùng chẳng hề lừa
dối. Nếu trừ củi tắt lửa, thì tự nhiên nó lại trong lạnh như củ.
Hành giả tu theo môn Chân ngôn, như vậy là lúc được Tam muội Trừ Cái Chướng thì
bổn tánh của Tâm tức là “Thi-La”, chẳng phải là pháp do sự tạo tác mà nên, chẳng
do người khác mà được, cho nên nói trụ Giới Vô-Vi vậy. Như Tịnh Giới Thanh-Văn,
cốt yếu là phải đầy đủ các duyên, như “bạch tứ yết-ma”, sau đó mới bắt đầu được
giới. Lại, cần phải có phương tiện thủ bộ, như phòng lợi thích…, đến một kỳ hạn
thọ mạng chấm dứt thì Giới cũng theo đó mà mất.
Còn Giới kia thì chẳng như vậy, đời đời, hễ sanh vào xứ nào thì nó cùng sanh
với thân, chẳng giả nhận giữ mà nó thường không bị phạm mất. Lại do trụ Giới ấy
cho nên Chân-Trí càng ngày càng thêm sáng, kịp đến lúc thấy lý duyên khởi rất
sâu mầu, nghĩa trung đạo chẳng thể nghĩ bàn, thì chế chỉ được 8 thử điên đảo,
xa lìa được 2 bên (mà vào chánh-đạo) cho nên kế đó Kinh nói "xa lìa tà
kiến, thông đạt chánh-kiến". Đức Ca Diếp cũng nói: "Từ đây về trước,
chúng ta đều đáng gọi là những người có tà kiến". Nói thế là bởi trí huệ
chẳng Chánh nên gọi là Tà, do phàm-phu Nhị thừa chẳng biết quyết chọn để biết đúng
thực tướng của tự tâm, đối với cái Lý của Thật-Đế, cho nên cái Không thì gọi là
Chẳng Không, cái Chẳng Không thì gọi là Không, chẳng thấy con đường Đại Bồ-đề
của Phật xưa đã đi. Nay Bồ-Tát (tu theo pháp môn) này soi thấy đường sáng của
Tâm, cho nên tức thời sanh Trí vô ngại, đối với tất cả các pháp đều được hiện
tiền thông đạt, không có lầm-lẩn, giống như con mắt sáng ở giữa ánh mặt trời
thấy rõ các sắc tượng. Tuy vô lượng Thiên-ma hết thảy đều hóa làm
thân Phật, mỗi mỗi nói pháp Ba-la-mật tương tự, mà rốt cuộc chúng chẳng có thể
khơi-động một phần ít lưới nghi của Tâm, cho nên Kinh lại nói " Bí-Mật-Chủ
! Bồ-Tát trụ Tam muội Trừ Tất Cả Cái Chướng này, nhờ sức tin hiểu nên chẳng phải
siêng tu lâu dài mà đầy đủ tất cả Phật pháp ". Được Chánh-kiến giống như
kim cang như vậy, tức là có sức tin hiểu bền vững tột bực, dựa vào đó mà tiến
tu các độ khéo như thật, cho nên được tam-muội giải thoát của sức chư Phật,
không có gì phải sợ, và vô lượng Phật pháp còn lại đều được thành tựu cả. Ngài
Long-Thọ gọi đó là pháp Như để trị Người với các phương tiện làm tiêu tan chất
khoáng trong quặng để cho nó thành kim loại, giống như phép thần thông có thể
khiến cho các loại cây đá trở thành kim thể. Bởi vậy Kinh nói "chẳng phải
siêng tu lâu dài mà dễ được đầy đủ".
Do chỗ Bồ-Tát lúc mới phát tâm mà đã được gọi là
Phật, cho nên công đức chơn-thực thật là chẳng có thể độ lượng được. Giả sử
Như-Lai, trong vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, phân biệt giảng nói cũng không
thể hết được, cho nên Phật dạy "Lấy chỗ cốt yếu mà nói thì người thiện-nam
kẻ thiện-nữ như thể thành tựu được vô lượng công đức”.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ Ngài Kim Cang Bí Mật Chủ lại dùng
kệ hỏi Phật như vầy : Xin Đức Thế Tôn nói : Sao
là Tâm Bồ Đề sanh ?
Dựa vào hình tướng nào.
Biết phát Tâm Bồ Đề ?
Nguyện thức tâm, tâm thắng,
Nói Trí tự nhiên sanh.
Đại Cần dũng, bao nhiêu,
Thứ lớp Tâm nổi sanh ?
Các tướng Tâm và Thời,
Nguyện Phật giảng nói rộng.
Công đức tu cũng vậy,
Và các hạnh tu hành ;
Các loại Tâm sai khác,
Chỉ Đại Mâu Ni nói.
Nghe hỏi như vậy rồi, Đức Đại Tỳ Lô Giá Na bèn
phán với Ngài Kim Cang Thủ rằng :
Lành thay ! Chân tử Phật !
Tâm lợi ích rộng lớn.
Câu Đại thắng thượng thừa,
Tướng Tâm tiếp tục sanh.
Đại Bí Mật của Phật,
Ngoại đạo chẳng thể biết.
Nay ta mở bày hết,
Nên một lòng lắng nghe.
Vượt 160 Tâm,
Sanh công đức rộng lớn.
Tánh Nó thường kiên cố,
Biết đó Bồ Đề sanh.
Vô lượng như Hư không,
Chẳng nhiễm ô, thường trụ,
Các pháp chẳng lay động,
Xưa nay lặng, Vô tướng,
Vô lượng Trí thành tựu.
Chánh đẳng giác hiển bày.
Tu hành hạnh cúng dường,
Sơ phát tâm từ đó.
Bí Mật Chủ ! Phàm phu ngu đồng sống chết từ vô
thỉ, đắm chấp Ngã danh, Ngã hữu, phân biệt vô lượng Ngã phần. Bí Mật Chủ ! Nếu
họ chẳng quán sát tự tánh của Bản Ngã, ắt sanh ra cái Ngã và Ngã sở ( Ta và
cái của Ta ) ; lại chấp có thời, địa... biến hoá, chấp
Ngã Du già, kiến lập Tịnh, chẳng kiến lập không tịnh, hoặc chấp cái Ngã tự tại
thiên, cái Ngã lưu xuất và thời, cái Ngã tôn quý,
cái Ngã tự nhiên, cái Ngã nội tại, cái Ngã nhơn lượng, cái Ngã biển nghiêm, cái Ngã thọ mạng, cái Ngã bỗ đặc giã la ( thường
trụ): Ngã là cái thức, là A Lại Da, là cái Biết, cái
Thấy, là Năng chấp, Sở chấp, Nội tri, ngoại tri, Xả đát phạm, Ý sanh ( người
sanh) Nhu đồng (Thắng ngà ), thường
định sanh, tiếng, chẳng phải tiếng… Bí Mật Chủ ! Các ngã phần như vậy đó, từ
xưa đến nay, tương ưng với sự phân biệt, hy cầu được giải thoát theo thuận lý.
Bí Mật Chủ ! Loại phàm phu ngu đồng giống như con dê đực, lúc đang mê hoặc bỗng
có một niệm tưởng sanh ra cái gọi là “ăn chay”, họ tư duy một phần ít tưởng ấy,
khởi tâm hoan hỷ rồi nhiều phen tu tập (theo niệm tường ấy ). Bí Mật
Chủ! Đó là chủng tử của thiện nghiệp phát sanh ra lúc ban đầu.
Lại lấy đó làm Nhân, trong 6 ngày ăn chay, đem
thức ăn bố thí cho cha mẹ, thân thích nam nữ, đó là mầm giống thứ hai.
Nhân sự bố thí ấy, lại đem cho những kẻ mà mình
biết rõ là chẳng thân thích gì, đó là bào chủng thứ ba.
Lại nhân sự bố thí ấy mà đem dâng cho Người có Đức
cao, khí lượng lớn đó là giống là thứ tư.
Lại nhân sự bố thí ấy mà đem cho chư vị biết kỹ
nhạc... và dâng hiến các bậc tôn túc : đó là hoa nở thứ năm.
Lại nhân sự bố thí kia mà khởi lòng thân yêu,
nuôi dưỡng họ: đó là thành quả thứ sáu.
Lại nữa, Bí Mật Chủ ! Nhờ gia hộ sự trì giới mà
được sanh lên cõi Trời : đó là chủng tử được thọ dụng thứ bảy.
Lại nữa, Bí Mật Chủ ! dùng cái tâm sanh tử, lưu
chuyển nơi xứ sở của bạn lành, được nghe
nói những điều lành: đó là cõi Trời Đại Thiên, ban cho tất cả các điều vui sướng. Nếu tâm cúng dường trở
thành vững chắc thì tất cả sở nguyện đều
được thỏa mãn: đó là các cõi trời Tự Tại, trời Phạm thiên, trời Na La Diên, trời Thương Yết La, các cõi Hắc
Thiên, Tự tại tử thiên, Nhật thiên, Nguyệt
thiên, Long tôn... à Câu phệ lạm (la), Tỳ sa môn, Thích Ca, Tỳ lâu lặc xoa, Tỳ Thủ Yết ma thiên, Diêm ma, Diệm ma hậu,
Phạm Thiên hậu mà đời tôn thờ, Hỏa thiên, Ca lâu
là tử thiên, Tự tại thiên hậu, a đầu ma,
Đắc (Đức) xoa ca lang, Hòa Tu kiết, Thương khư, Yết
cú trạo (trích) kiếm, Đại
liên, âu Lý kiếm, Ma ha phán ni, A địa đề bà, Tát đà, an đà các rồng, hoặc Thiên tiên, Đại vi đà luận sư, mỗi mỗi đều nên
khéo cúng dường. Họ nghe nói như thế, Tâm sanh mừng
rỡ ân cần, cung kính, tùy thuận tu hành.
Bí Mật Chủ! Đó là chỗ dựa vô úy của Dị sanh Ngu đồng, còn phải sanh tử lưu chuyển, đó tức là tâm Anh đồng thứ tám.
Bí Mật Chủ ! Lại nữa hạnh thù thắng là
tùy theo trong chỗ người ta nói mà biết chỗ trụ thù thắng để cầu sanh Huệ giải
thoát, nghĩa là họ nói : “thường, vô thường, không” chỉ là tùy thuận theo đó mà
nói.
Bí Mật Chủ ! Chẳng phải họ hiểu biết rõ ràng cái
Không, cái Chẳng không, Cái thường, cái Đoạn, Chẳng Có, Chẳng Không, đều do họ
phân biệt, không phân biệt mà nói. Phân biệt cái Không là thế nào ? - Họ chẳng
biết các nghĩa Không, chẳng phải là họ có thể biết Niết Bàn. Bởi vậy nên biết rõ
nghĩa “Không” lìa cả Đoạn, Thường.
NGHĨA
Trước đây Phật đã nói đại ý của Kinh, tức lược nói đủ khắp môn thật tướng của tâm. Nay ngài Kim Cang Thủ vì muốn cho chúng sanh đời vị lai đầy đủ phương tiện, không còn chút nghi ngờ, nên Ngài dùng kệ hỏi Phật, thỉnh Đức Thế Tôn giảng rộng ý nghĩa của kinh, Tóm lược có 9 câu hỏi như sau:
Câu hỏi thứ nhất: “Sao là tâm Bồ đề sanh ? tức hỏi: Tâm Bồ đề sanh như
thế nào ?
Kinh Hoa Nghiêm thì nói: công đức tâm Bồ đề khó phát khởi. Nay kinh nầy hỏi thẳng Mật ấn của Tâm tức hỏi : làm sao biết rõ ràng chủng tử của Tâm Bồ đề phát sanh ? Nếu nó đã phát sanh thì Tánh của nó thế nào ?
Câu hỏi thứ hai: Lại hỏi
: Dựa vào hình tướng nào để biết là đã phát
tâm Bồ để ? Nói về "tướng" tức là:
tánh đã thành bên trong ắt có ảnh hưởng bên ngoài, như trong Bát Nhã đã rộng
nói “tướng mạo của A Tỳ Bạt trí”. Nay ở đây cũng hỏi : lúc Tâm Bồ Đề sanh thì
có tướng mạo gì ? Kinh nói: "Nguyện thức tâm, tâm thắng, nói Trí tự nhiên
sanh "Đây là tán thán công đức như thật của Phật, đồng thời thỉnh Phật giải
bày rộng rãi ý nghĩa của 2 câu trước. Ban đầu nói “thức tâm” là Trí của Tâm tự
giác, kế đến nói "tâm", tức là thật tướng của tâm ý nói: Cảnh và Trí
đều vi diệu, không hai, không riêng, cho nên nói lập lại như thế. "Trí tự
nhiên" tức là thường trí của Như Lai, chỉ là tâm tự chứng tâm, chẳng từ
nơi khác mà tỏ ngộ. Phật đã là tâm tôn thắng bậc nhất trong thức tâm của con
người, tâm ấy có thể biết Bồ Đề phát sanh với cái tướng vi tế của Nó, chỉ nguyện
Đức Thế Tôn nói tướng Bồ Đề ấy.
Câu hỏi thứ ba: “Đại Cần dũng, bao nhiêu thứ lớp Tâm nối tiếp sanh ?”. “Đại Cần Dũng” là một danh từ khác để gọi Phật. Danh từ ấy vừa khen công đức vừa hỏi có bao nhiêu thứ tâm tiếp nối nhau sanh ra, rồi mới đạt đến cái tâm như vậy
Câu hỏi thứ tư và thứ năm: "Các tướng Tâm và Thời. Nguyện Phật giảng nói rộng”. Đây là hỏi các tướng sai khác của Tâm và các tướng ấy trải qua bao nhiêu thời kỳ từ Phàm đến Thánh mới đạt được địa vị cứu cánh của Tâm Bồ-đề thanh tịnh.
Câu hỏi
thứ sáu: Công đức tu cũng vậy là nói
công đức vi diệu của Tâm ấy, cũng nguyện xin Đức Thế Tôn rộng khai diễn cho nên
nói “cũng vậy”.
Câu hỏi
thứ bẩy: Các hạnh tu hành tức phải
dùng những hạnh nào, tu hành như thế nào mà có thể đạt được “tất địa” vô thượng.
Câu này có thể chia thành 2 câu.
Câu hỏi
thứ tám và thứ chín: Các loại tâm sai
khác, tức là thức tâm dị thục của chúng sanh, và tâm riêng khác của hành giả Du
già cũng nguyện xin Đức Thế Tôn rộng phân biệt giảng nói. "Mâu ni” có
nghĩa là vắng lặng: ý nói Thân, Ngữ, Tâm của Phật đều rốt ráo vắng lặng, vượt
quá địa ngôn ngữ, chẳng phải như cái yên lặng nhỏ bé của Nhị Thừa nên nói là 'Đại
mâu ni”.
Bậc A Xà
Lê nói rằng: 9 câu như thế hoặc có thể
chia thành 10 câu. Từ đây cho đến cuối kinh, hết thấy đều là ý của Như Lai phân
biệt, rộng nói để trả lời 9 câu hỏi ấy.
Tuy nhiên, Phật quán sát chúng hội đương thời,
vì muốn cho họ cầu tôn chỉ, được đắc ý cho nên, hoặc là đáp trước hỏi sau,
không theo mẫu mực nhất định, hoặc là chuyển thành nghi vấn cho hết ngọn ngành,
như trong các đoạn văn sau lúc nói về “nhập Mạn Trà La, Đại bi Tạng...” tức là
trả lời câu hỏi về sự tu hành, lúc nói về kết quả 100 chữ, v.v... tức là trả lời
về các tâm sai khác và các công đức. Ngoài ra tùy theo có chỗ sự tương ưng thì
nên theo loại mà xét ắt có thể biết nghĩa được.
Trong bài
kệ trả lời Ngài Kim Cang Thủ, Phật nói:
"Lành thay ! Chân tử Phật Tâm lợi ích rộng
lớn!”
"Chân Tử" là từ chủng tánh Như Lai mà
sanh, hoặc từ Thân, Ngữ, Tâm của Phật mà
sanh, nên gọi là 'Chân Tử Phật (con chơn chánh của Phật). Trước đây Đức Đại Nhật
Thế Tôn đã hiện cảnh giới gia trì rộng lớn. Nay Ngài Bí Mật Chủ cũng vì muốn khấp
độ vô lượng chúng sanh cho mau thành đại hạnh, nên Ngài xé lưới đại nghi cho tất
cả đồng được trang nghiêm vô tận với 3 câu bình đẳng. Bởi thế Phật khen Ngài:
Lành thay ! Chơn Phật Tử ! Nay, người có thể dùng "Tâm rộng lớn" vì lợi
ích vô lượng chúng sanh mà hỏi Ta như thế !
Kế nói:
"Đại Thừa lược có 7 nghĩa:
Một là: Pháp lớn, tức Tạng bí mật rất sâu
và rộng lớn của chư Phật, ấy
là Đức Tỳ Lô Giá Na cùng khắp các xứ, đó là cổ
xe lớn chở các bậc đại nhơn.
Hai là: Phát Tâm lớn, tức một hướng chỉ cầu
đại huệ bình đẳng, khởi bi nguyện vô tận, thể sẽ trao truyền cùng khắp trong
pháp giới chúng sanh.
Ba là: Tìm hiểu lớn, tức
lúc mới thấy con đường sáng của Tâm đã đầy đủ vô lượng công đức có năng lực,
tràn đầy khắp các cõi Phật như số cát sông Hằng, lấy đại sự nhân duyên ấy để
thành tựu chúng sanh.
Bốn là: Tánh lớn, tức tâm thanh tịnh của tự tánh, là kho báu kim cang không
thiếu bớt, mà tất cả chúng đều đồng có như nhau.
Năm là: Chỗ nương ở lớn, tức như một cổ xe thần điệu, làm chỗ cây nhờ dựa gởi
to lớn của pháp giới chúng sanh, giống như 100 sông phải chảy về biển cả, muôn
ngàn cây, cỏ phải dựa vào đất mà sanh.
Sáu là: Thời gian lớn, tức sức sống còn lâu dài, vượt quá 3 thời (quá khứ, hiện
tại, vị lại ) là cái dụng của thần thông bí mật, giống như con Sư Tử vùng lên,
hăng say lướt tới mà chưa từng đừng nghỉ.
Bẩy là: Trí lớn, tức các pháp vô biên như hư không, thì Tâm diệu huệ tự nhiên
lại cũng vô biên, khi nghiên cứu đến cội nguồn của Thật tướng. Sự kiện nầy
giống hệt như: cái bị chứa (các pháp) với cái bao trùm (trí huệ) xứng hợp với
nhau (đều vô biên cả).
Bởi có đủ 7 nghĩa bay 7 nhân duyên như thế, nên các pháp môn của Đại thừa giống
như chất đề bồ có vị mát bậc nhất, bởi thế nên nói là “đại thừa thắng thượng”
tức cao đẹp hơn cả.
"Thừa” là cỗ xe, xe chạy thì có chỗ hướng về Câu phải có chấm, chỗ chấm
câu là chỗ đừng nghỉ. Bởi thế nên gọi là “Câu Đại thừa”.
“Tướng Tâm tiếp tục sanh” là nói:
Tâm này tuy rốt ráo thường yên tịnh, giống như Hư không, lìa tất cả các tướng,
nhưng Nó cũng theo nhân duyên khởi mà có các tướng của Tâm sanh ra, giống như sóng
mòi nơi biển cả chẳng phải thường có, cũng chẳng thường không. Nếu là thường có
thì tại sao khi gió đã đừng nghỉ, nước tự nhiên trong lặng đứng yên, nếu là thường
không tại sao lúc gió dữ vừa thổi lên, sóng đã nhấp nhô nổi dậy, kế tiếp nhau ?
Nên biết: Tâm này theo duyên mà khởi cho nên "sanh mà chẳng sanh, chẳng
sanh mà sanh, vô tướng mà thường có tướng, có tướng mà thường vô tướng":
rất sâu, vì điệu, khó có thể biết rõ. Đây là ấn bí mật của chư Phật, chẳng phải
giải bày sai quấy. Phàm phu Nhị Thừa, 2 loại ngoại đạo chẳng phải chỉ chẳng
biết “Tâm không sanh diệt” mà cũng chẳng biết "Tâm sanh diệt”, cho nên
nói: Đại bí mật của Phật, ngoại đạo chẳng hề biết”. Nay Ta mở bày hết, nên một
lòng lắng nghe.
Kế đến, kệ nói:
“Vượt trăm sáu mươi (160)Tâm, sanh công đức rộng lớn".
Tánh nó thường kiên cố, biết đó Bồ đề sanh".
Đây là lược đáp câu thứ
nhất hỏi : Sao là Tâm Bồ Đề sanh ? Phật dạy: vượt 160 Tâm nối tiếp nhau sanh
ra, tức thì Tâm Bồ Đề được thanh tịnh. Như có người hỏi : Tại sao biết trong
sữa có chất để hồ sanh ra ?. Ta đáp : Đun sữa và khuấy cho đặc, rồi để nguội
thì chất béo nổi ở trên là "TÔ”, phần còn lại là “LẠC”, Tô là đề hồ không
có cặn dơ, nên biết trong sữa có chất đề bồ, biết chất đề hồ nó không có cặn dơ,
tức nó sanh ra ngay từ khi biết nó như thế. Hành giả cũng vậy, lúc bắt đầu “khai
phát kho báu kim cang”, ắt thấy tánh của Tâm như hư không thanh tịnh, siêu việt
số lượng. Ngay khi ấy, xa lìa Nguyên nhân sanh ra Nghiệp tức là cái mầm cây
Phật đã sanh, lúc cái mầm ấy sanh, nó đã cùng khắp pháp giới, huống là cành,
lá, hoa, quả, cho nên nói "Sanh công đức rộng lớn". Tánh ấy vượt trên
các hý luận của Tâm hành, nên chẳng có thể phá, chẳng có thể chuyến, giống như
vàng Diêm phù đàn, chẳng có thể nói là nó quá xấu, nên nói "Tánh nó thường
kiên cố”. Nếu biết tự Tâm có cái ấn tượng như thế thì nên biết: "Đó là Bồ Đề sanh”.
Kế đến là nửa bài kệ lược đáp câu hỏi về "Tướng mạo của Tâm Bồ Đề”. Bởi
thế gian không có một pháp nào khả dĩ biểu thị được cái tướng của Tâm Bồ đề
thanh tịnh, ngoài cái trạng thái hư không có một phần ít tương tự có thể lấy
làm thí dụ được, cho nên nói "Vô lượng như hư không”.
Hư không chẳng bị mây, khói, bụi, mù, làm cho nó nhiễm ô, tánh nó
thường trụ, là các nhân duyên, giả sử 8 phương gió lớn thổi hết các thế giới,
cũng chẳng có thể làm cho nó lay động, từ lúc nào cho đến bây giờ, nó thường tự
tịch diệt, vô tướng, chẳng bị thương tổn. Nay tướng của Tâm cũng vậy: từ vô thỉ
đến nay, vốn Nó tự chẳng sanh, bởi vốn chẳng sanh nên không có một pháp nào có
thể khiến nó bị ô nhiễm, lay động, nó thường trụ, chẳng thay đổi, vĩnh viễn
vắng lặng vô tướng cho nên kệ nói: "Chẳng nhiễm ô, thường trụ. Các pháp
chẳng lay động. Xưa nay lặng, vô tướng”.
Bấy giờ hành giả vì cái ánh sáng trong lặng này soi chiếu, nên vô lượng trí
khiến tự nhiên khai phát, như hoa sen mở bày cho nên kệ nói: Vô lượng trí thành
tựu. Trí này thành tựu, tức là tâm Phật Tỳ Lô Giá Na hiện tiền nên nói : Chánh
đẳng giác hiển bày, bản tiếng Phạn gọi là: "Tam
Miệu Tam Phật đà hiện”.
Phật đã lược nói: "Thật tướng ấn của Tâm như thế. Nếu hành giả tương ưng với tướng ấn đó, thì nên biết là họ đã đủ sức tin kiên cố. Nhưng sức tin nấy vốn từ môn chân ngôn, theo khuôn pháp mà làm việc cúng dường, tu hành như giáo thuyết, đạt đến tâm Bồ đề thanh tịnh. Bởi vậy kệ nói : “Tu hành hạnh cúng dường. Sơ phát Tâm từ đó”.
Trong việc cúng dường có
2 loại: một là cúng dường bên trong; hai là cúng dường bên ngoài. Văn sau sẽ
rộng nói.
Comments
Post a Comment