NHỮNG CẢNH THUỘC TƯỞNG ẤM


 

"A-nan, thiện-nam-tử kia, tu pháp Tam-ma-đề, khi Thụ-ấm hết rồi, tuy chưa hết mê-lầm, nhưng tâm đã rời khỏi hình-hài như chim ra khỏi lồng, điều ấy đã thành-tựu được rồi. Từ phàm-thân đó, tiến lên trải qua sáu mươi thánh-vị Bồ-tát, được ý-sinh-thân, tùy-ý đi, ở, không còn ngăn-ngại. Ví-như có người ngũ say nói mơ, người ấy tuy không hay-biết gì, nhưng lời nói đã có âm-vận thứ-tự, khiến người không ngũ đều hiểu-biết được; ấy thì gọi là phạm-vi của Tưởng-ấm.

Nếu biết động-niệm, tư-tưởng hư-vọng tiêu-trừ, thì nơi tâm giác-minh, như bỏ hết bụi-nhơ, một dòng sinh-tử, đầu đuôi soi khắp, gọi là hết Tưởng-ấm; người ấy mới có thể vượt khỏi phiền-não-trược, xét lại nguyên-do, cỗi-gốc là vọng-tưởng dung-thông.

A-nan, thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không còn mắc các tà-lự, tính viên-định phát-minh, trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa được viên-minh, thúc-giục tư-tưởng, tham-cầu những thiện-xảo. Khi bấy-giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy, cho tinh-thần gá vào người khác, miệng nói kinh-pháp; người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được vô-thượng Niết-bàn; đến chỗ thiện-nam-tử cầu thiện-xảo kia, trải pháp-tọa thuyết-pháp. Thân-hình người đó giây-lát, hoặc làm tỷ-khưu cho người kia thấy, hoặc làm Đế-thích, hoặc làm phụ-nữ, hoặc làm tỷ-khưu-ni, hoặc nằm trong nhà tối, thân có hào-quang chói-sáng. Người tu-hành ngu-mê, lầm là Bồ-tát, tin lời dạy-bảo, lay-chuyển cái tâm, phá luật-nghi của Phật, lén làm việc tham-dục. Miệng ma ưa nói những sự may rủi biến-đổi, hoặc nói Như-lai ra đời ở chỗ Mỗ, hoặc nói có kiếp-hỏa, hoặc nói có đao-binh, khủng-bố người ta, khiến cho gia-tư không cớ gì phải hao mất. Ấy gọi là giống quái-quỷ, tuổi già thành ma, khuấy-rối người tu-hành. Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ-tử cùng thầy đều sa vào lưới pháp-luật. Ông nên giác-ngộ trước, thì không vào luân-hồi; nếu mê-lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô-gián.

A-nan, lại thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không mắc các tà-lự, tính viên-định phát-minh; trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa đi chơi, cho tư-tưởng bay đi, tham-cầu trải qua nhiều nơi. Khi bấy giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy, cho tinh-thần gá vào người khác, miệng nói kinh-pháp; người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được vô-thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện-nam-tử muốn đi chơi kia, trải pháp-tọa thuyết-pháp. Hình người đó không thay-đổi, song những người nghe pháp, bỗng tự thấy mình ngồi trên hoa sen báu, thân-thể hóa-thành thân vàng chói-sáng; cả một thính-chúng, mỗi người đều như thế, được cái chưa từng có. Người tu-hành ngu-mê, lầm là Bồ-tát, tâm hóa dâm-dật, phá luật-nghi của Phật, lén làm việc tham-dục. Miệng ma ưa nói các đức Phật ứng-hóa ra đời, người Mỗ, chỗ Mỗ tức là hóa-thân của đức Phật Mỗ; người Mỗ sẽ đến, tức là vị Bồ-tát Mỗ, đến giáo-hóa thế-gian. Người tu-hành thấy thế, tâm sinh hâm-mộ, tà-trí thầm-thầm nổi lên, chủng-trí tiêu-diệt. Ấy gọi là giống bạt-quỷ, tuổi già thành ma, khuấy-rối người tu-hành. Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ-tử cùng thầy đều sa vào lưới pháp-luật. Ông nên giác-ngộ trước, thì không vào luân-hồi; nếu mê-lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô-gián.

Lại thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không mắc các tà-lự, tính viên-định phát-minh; trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa thầm-hợp, lặng-đứng cái tư-tưởng, tham-cầu được khế-hợp. Khi bấy-giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy, cho tinh-thần gá vào người khác, miệng nói kinh-pháp; người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được vô-thượng Niết-bàn, đến chỗ người thiện-nam-tử cầu khế-hợp kia, trải pháp-tọa thuyết-pháp. Hình người đó và những người nghe pháp, bề ngoài không có thay-đổi, nhưng lại khiến cho các thính-giả, trước khi nghe pháp, tâm đã tự khai-ngộ, niệm-niệm dời-đổi, hoặc được túc-mạng-thông, hoặc có tha-tâm-thông, hoặc thấy địa-ngục, hoặc biết các việc hay, dở trong thế-gian, hoặc miệng nói bài kệ, hoặc tự tụng-kinh được, mỗi mỗi đều vui-vẻ, được cái chưa từng có. Người tu-hành ngu-mê, lầm là Bồ-tát, tâm sinh ra dính-dáng yêu-đương, phá luật-nghi của Phật, lén làm việc tham-dục. Miệng ma thích nói Phật có lớn, nhỏ, đức Phật Mỗ là đức Phật trước, đức Phật Mỗ là đức Phật sau, trong đó cũng có Phật thật, Phật giả, Phật trai, Phật gái; Bồ-tát cũng thế. Người tu-hành thấy như vậy, bỏ sạch bản-tâm, dễ vào các tà-ngộ. Ấy gọi là giống mỵ-quỷ, tuổi già thành ma, khuấy-rối người tu-hành. Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ-tử cùng thầy đều sa vào lưới pháp-luật. Ông nên giác-ngộ trước, thì không vào luân-hồi, nếu mê-lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô-gián.

Lại thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không mắc các tà-lự, tính viên-định phát-minh; trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa biết cỗi-gốc; nơi sự vật chuyển-hóa, muốn xét biết cùng-tột chung-thủy, thúc cái tâm sáng-suốt thêm, tham-cầu nhận-biết chia-chẻ. Khi bấy-giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy, cho tinh-thần gá vào người khác, miệng nói kinh-pháp. Người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được vô-thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện-nam-tử cầu biết cỗi-gốc kia, trải pháp-tọa thuyết-pháp. Người đó có uy-thần, làm cho những người cầu-pháp đều kính-phục; khiến cho thính-chúng dưới pháp-tọa, khi chưa nghe pháp, tự-nhiên tâm đã phục rồi; tất-cả bọn ấy đều cho rằng Niết-bàn, Bồ-đề, pháp-thân của Phật, tức là cái xác-thịt hiện-tiền; cha con sinh nhau, đời này đến đời khác, tức là pháp-thân thường-trụ không mất; đều chỉ hiện-tại, tức là cõi Phật, không có cõi tịnh-cư và thân kim-sắc nào khác. Người tu-hành tin-lĩnh những điều đó, bỏ mất bản-tâm, đem thân-mạng mà quy-y, được cái chưa từng có; người đó ngu-mê, lầm là Bồ-tát, suy-xét cái tâm như thế, phá luật-nghi của Phật, lén làm việc tham-dục. Miệng ma ưa nói, mắt, tai, mũi, lưởi đều là tịnh-độ, hai căn nam nữ tức là chỗ thật Bồ-đề Niết-bàn; bọn không biết kia, đều tin lời nhơ-nhớp đó. Ấy gọi là giống cổ-độc-quỷ và giống áp-thắng-quỷ, tuổi già thành ma, khuấy-rối người tu-hành. Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ-tử cùng thầy đều sa vào lưới pháp-luật. Ông nên giác-ngộ trước, thì không vào luân-hồi, nếu mê-lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô-gián.

Lại thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không mắc các tà-lự, tính viên-định phát-minh; trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa biết các việc trước sau, chín-xét cùng khắp, tham-cầu được thầm-cảm. Khi bấy giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy; cho tinh-thần gá vào người khác, miệng nói kinh-pháp. Người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được vô-thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện-nam-tử cầu cảm-ứng kia, trải pháp-tọa thuyết-pháp, có thể khiến cho thính-chúng tạm-thấy cái thân như đã trăm ngàn tuổi, tâm sinh ra ái-nhiễm, không thể rời-bỏ, đem thân làm nô-bộc, cúng-dường tứ-sự, không biết mệt-mõi; lại khiến cho mỗi người dưới pháp-tọa, tâm biết đó là vị Tiên-sư, là vị Thiện-tri-thức, riêng sinh lòng pháp-ái, dính như keo-sơn, được cái chưa từng có. Người tu-hành ngu-mê, lầm là Bồ-tát, gần-gũi tâm ma, phá luật-nghi của Phật, lén làm việc tham-dục. Miệng ma ưa nói, ta ở kiếp trước, trong đời Mỗ, trước độ người Mỗ, lúc đó là thê thiếp, anh em của ta, nên nay lại đến độ cho nhau; ta sẽ cùng các người theo nhau về cảnh-giới Mỗ, cúng-dường đức Phật Mỗ; hoặc nói có cõi trời đại-quang-minh riêng-biệt, Phật ở trong ấy, và là chỗ nghỉ-ngơi của tất-cả các đức Như-lai. Bọn không biết kia, đều tin những lời phỉnh-gạt đó, bỏ mất bản-tâm. Ấy gọi là giống lệ-quỷ, tuổi già thành ma, khuấy-rối người tu-hành. Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ-tử cùng thầy đều sa vào lưới pháp-luật. Ông nên giác-ngộ trước, thì không vào luân-hồi, nếu mê-lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô-gián.

Lại thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không mắc các tà-lự, tính viên-định phát-minh; trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa đi sâu vào, khắc-khổ siêng-năng, thích ở chỗ thầm-vắng, tham-cầu sự yên-lặng. Khi bấy-giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy, cho tinh-thần gá vào người khác, miệng nói kinh-pháp. Người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được vô-thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện-nam-tử cầu thầm-lặng kia, trải pháp-tọa thuyết-pháp, khiến cho thính-chúng, mỗi người đều biết nghiệp-cũ của mình; hoặc ở nơi đó, bảo một người rằng: "Ngươi nay chưa chết đã làm súc-sinh", rồi bảo một người đạp cái đuôi đằng sau, liền khiến người đó đứng dậy không được; cả trong một chúng đều hết lòng kính-phục, có người móng tâm lên, thì nó đã biết ý; ngoài luật-nghi của Phật ra, nó lại càng thêm khắc-khổ, chê-bai tỷ-khưu, mắng-nhiếc đồ-chúng, phơi-lộ việc người ta, không tránh sự cơ-hiềm. Miệng ma ưa nói những họa phúc chưa đến và khi đã đến rồi, thì mảy-may không sai. Ấy gọi là giống đại-lực-quỷ, tuổi già thành ma, khuấy-rối người tu-hành. Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ-tử cùng thầy đều sa vào lưới pháp-luật. Ông nên giác-ngộ trước, thì không vào luân-hồi, nếu mê-lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô-gián.

Lại thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không mắc các tà-lự, tính viên-định phát-minh; trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa hiểu-biết, siêng-năng xét-tìm, tham-cầu biết túc-mạng. Khi bấy-giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy, cho tinh-thần gá vào người khác, miệng nói kinh-pháp. Người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được vô-thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện-nam-tử cầu hiểu-biết kia, trải pháp-tọa thuyết-pháp. Người tu-hành bỗng-nhiên, nơi chỗ thuyết-pháp, được hạt-châu báu lớn; hoặc khi ma hóa làm súc-sinh, miệng ngậm hạt-châu với những vật kỳ-lạ như đồ trân-bảo, giản-sách, phù-độc, đến trao trước cho người tu-hành, rồi sau cọ-gá vào thân-thể; hoặc khi ma bảo người nghe pháp, có hạt-châu minh-nguyệt chôn ở dưới đất, đương soi-sáng chỗ đó, làm cho các thính-giả được cái chưa từng có. Ma thường ăn cây thuốc, chứ không ăn cơm, hoặc khi mỗi ngày chỉ ăn một bữa hạt vừng hoặc hạt mạch, do sức ma chấp-trì, thân-hình vẫn béo-tốt. Ma lại chê-bai tỷ-khưu, mắng-nhiếc đồ-chúng, không tránh sự cơ-hiềm; trong miệng ưa nói, kho báu phương khác và chỗ ẩn-cư của các bậc thánh-hiền thập phương; những người đi theo sau, thường thấy có người kỳ-lạ. Ấy gọi là giống quỷ-thần núi rừng, thổ-địa, thành-hoàng, sông núi, tuổi già thành ma; hoặc khi kêu gọi làm điều dâm-dục, phá giới-luật Phật, cùng với những kẻ thừa-sự, lén làm việc ngũ-dục; hoặc khi lại tinh-tiến, ăn toàn cỏ cây; việc làm không nhất-định, cốt khuấy-rối người tu-hành. Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ-tử cùng thầy phần nhiều sa vào lưới pháp-luật. Ông nên giác-ngộ trước, thì không vào luân-hồi; nếu mê-lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô-gián.

Lại thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không mắc các tà-lự, tính viên-định phát-minh; trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa các thứ biến-hóa thần-thông,nghiên-cứu nguồn-gốc biến-hóa, tham-cầu có thần-lực. Khi bấy-giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy, cho tinh-thần gá vào người khác, miệng nói kinh-pháp. Người đó thật không hay-biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được vô-thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện-nam-tử cầu thần-thông kia, trải pháp-tọa thuyết-pháp. Người đó, hoặc tay cầm ngọn lửa, nắm chia ngọn lửa trên đầu tứ-chúng nghe pháp; ngọn lửa trên đỉnh những người nghe pháp đều dài vài thước, mà cũng không đốt cháy, cũng không có nóng. Người đó, hoặc đi trên nước như đi trên đất bằng, hoặc ở giữa hư-không, ngồi yên không lay-động; hoặc vào trong bình, hoặc ở trong đãy, hoặc vượt cửa sổ, hoặc thấu qua tường, không chút ngăn-ngại; chỉ đối với đao-binh thì không được tự-tại. Người đó tự bảo là Phật, thân mặc bạch-y, chịu tỷ-khưu lễ-bái, chê-bai Thiền-luật, mắng-nhiếc đồ-chúng, phơi-lộ việc người, không tránh sự cơ-hiềm; trong miệng thường nói thần-thông tự-tại; hoặc lại cho người thấy cõi Phật một bên, đó là do sức quỷ mê-hoặc, không có gì là chân-thật. Người đó khen-ngợi việc hành-dâm, không từ-bỏ những việc làm thô-tục, bảo những sự ôm-ấp lẫn nhau là truyền-pháp. Ấy gọi là những giống sơn-tinh, hải-tinh, phong-tinh, hà-tinh, thổ-tinh, và những loài tinh-mỵ của tất-cả cỏ cây đã sống nhiều kiếp, có sức lớn trong trời đất, hoặc là long-mỵ, hoặc là tiên chết rồi, sống lại làm mỵ; hoặc quả-báo đạo-tiên đã hết, kể năm thì phải chết, nhưng hình-hài không hư-nát, nên loài quái khác gá vào. Bọn ấy tuổi già thành ma, khuấy-rối người tu-hành. Khi khuấy chán rồi, bỏ thân người không gá nữa, thì đệ-tử cùng thầy phần nhiều sa vào lưới pháp-luật. Ông nên giác-ngộ trước, thì không vào luân-hồi, nếu mê-lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô-gián.

Lại thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không mắc các tà-lự, tính viên-định phát-minh; trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa vào chỗ diệt hết, nghiên-cứu tính biến-hóa, tham-cầu cái rỗng-không sâu-nhiệm. Khi bấy-giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy, cho tinh-thần gá vào người khác, miệng nói kinh-pháp. Người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được vô-thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện-nam-tử cầu rỗng-không kia, trải pháp-tọa thuyết-pháp. Ở trong đại-chúng, hình của người đó bỗng hóa-thành không, cả chúng không thấy gì, rồi lại từ hư-không bỗng-chốc hiện ra, khi còn, khi mất, được tự-tại; hoặc hiện cái thân rỗng-suốt như ngọc lưu-ly, hoặc duỗi tay chân xuống, phát ra mùi thơm chiên-đàn, hoặc đại-tiểu-tiện như đường-phèn cứng-chắc. Người đó chê-bai phá-hoại giới-luật, khinh-rẻ những người xuất-gia; trong miệng thường nói, không nhân-quả, chết rồi là diệt-hẳn, không có thân sau; lại các phàm, thánh, tuy được phép không-tịch, vẫn lén làm việc tham-dục và người thụ-lĩnh cái dâm-dục đó, cũng được tâm rỗng-không, bác không nhân-quả. Ấy gọi là những giống-tinh-khí nhật-nguyệt bạc-thực, kim, ngọc, chi-thảo, lân, phụng, quy, hạc, trải qua ngàn vạn năm không chết, làm tinh-linh sinh ra trong các quốc-độ, tuổi già thành-ma, khuấy-rối người tu-hành. Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ-tử cùng thầy phần nhiều sa vào lưới pháp-luật. Ông nên giác-ngộ trước, thì không vào luân-hồi, nếu mê-lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô-gián.

Lại thiện-nam-tử kia, Thụ-ấm đã hư-diệu, không mắc các tà-lự, tính viên-định phát-minh; trong Tam-ma-đề, tâm lại ưa sống lâu, gian-khổ quan-sát tinh-vi, tham-cầu được nhiều tuổi; bỏ cái sống phân-đoạn, lại trông-mong cái tướng vi-tế của biến-dịch sinh-tử được thường-trụ. Khi bấy-giờ, Thiên-ma chờ được dịp ấy, cho tinh-thần gá vào người khác, miệng nói kinh-pháp. Người đó không hề hay-biết bị ma gá vào, cũng tự bảo được vô-thượng Niết-bàn, đến chỗ thiện-nam-tử cầu sống lâu kia, trải pháp-tọa thuyết-pháp. Người đó ưa nói, đi về phương khác, không hề chậm-trễ, hoặc trải qua muôn dặm, giây-lát đã trở lại và đều lấy được những vật nơi đó; hoặc ở một chỗ, hay trong một nhà, chỉ trong vài bước, bảo người ta đi từ vách Đông qua đến vách Tây, nhưng người ta đi mau cả năm không đến; nhân đó, người tu-hành tin-tưởng, nghi là Phật hiện-tiền. Miệng ma thường nói, thập phương chúng-sinh đều là con ta, ta sinh ra chư Phật, ta sinh ra thế-giới, ta là Phật đầu-tiên, tự-nhiên ra đời, không nhân tu-hành mà đắc-đạo. Ấy gọi là ma trụ-thế-tự-tại-thiên, nó khiến bọn quyến-thuộc chưa phát-tâm như bọn Giá-văn-trà hay là Tỳ-xá-đồng-tử cõi Tứ-thiên-vương, thích cái hư-minh, đến ăn tinh-khí người tu-hành. Hoặc không nhân ông thầy, chính người tu-hành tự mình xem-thấy, bọn đó tự xưng là thần Chấp-kim-cương đến cho trường-thọ. Bọn đó hiện thân gái đẹp, thịnh-hành việc dâm-dục, làm cho chưa đầy một năm, gan não người tu-hành đã khô-kiệt, miệng nói lẩm-bẩm một mình, nghe như yêu-mỵ. Người ngoài chưa rõ nguyên-do, nên phần nhiều người bị như thế, phải sa vào lưới pháp-luật và chưa kịp hành-hình đã chêt khô trước. Thế là bọn ma khuấy-phá người tu-hành kia, đến phải ốm chết. Ông nên giác-ngộ trước, thì không vào luân-hồi, nếu mê-lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô-gián.

A-nan, nên biết mười thứ ma ấy, trong đời mạt-pháp, hoặc xuất-gia tu-hành ở trong đạo Phật, hoặc gá thân người, hoặc tự hiện-hình, đều tự bảo đã thành Chính-biến-tri-giác, khen-ngợi dâm-dục, phá luật-nghi của Phật; ma thầy trước cùng đệ-tử-ma, dâm-dục truyền nhau; tà-ma như thế, mê-hoặc tim gan, ít thì chín đời, nhiều đến trăm đời, khiến cho người tu-hành chân-chính, đều làm quyến-thuộc của ma, sau khi mạng-chung, chắc phải làm dân ma, bỏ mất Chính-biến-tri, đọa vào ngục Vô-gián. Nay ông chưa nên vào Niết-bàn trước, dầu được quả vô-học, cũng phát-nguyện vào trong đời mạt-pháp kia, phát-lòng đại-từ-bi, cứu-độ cho chúng-sinh có lòng thâm-tín chân-chính, khiến cho khỏi mắc tà-ma, được Chính-tri-kiến; nay tôi đã độ ông ra khỏi sống chết, ông vâng-lời Phật dạy, thì gọi là báo-ơn Phật.

A-nan, mười thứ cảnh hiện ra trong thiền-định như thế, đều do Tưởng-ấm và tâm công-dụng giao-xen, nên hiện ra những cảnh ấy; chúng-sinh ngu-mê, không biết suy-xét tự-lượng, gặp nhân-duyên đó, mê không tự biết, tự bảo là lên bậc thánh, thành tội đại-vọng-ngữ, phải đọa vào ngục Vô-gián. Bọn ông cần phải, sau khi tôi diệt-độ rồi, đem những lời-dạy nầy của Như-lai truyền-bày cho đời mạt-pháp, khiến cho khắp các chúng-sinh tỏ-ngộ nghĩa đó, không để Thiên ma được dịp khuấy-rối; giữ-gìn che-chở cho chúng-sinh thành đạo vô-thượng.



The Thinking Skandha

Comments

Popular posts from this blog