KINH
THỦ LĂNG NGHIÊM
PHẦN
CHÍNH TÔNG
3. TÁNH THẤY
A-nan, trước ông trả-lời
rằng thấy nắm tay chói-sáng, cái chói-sáng nắm tay ấy do đâu mà có, làm sao
thành ra nắm tay, ông đem cái gì mà thấy?”
Ông A-nan bạch: “Toàn
thân Phật như vàng Diêm-phù-đàn, sáng-ngời như núi báu, do đức-tính thanh-tịnh
sinh ra nên có hào-quang chói-sáng. Thật tôi lấy con mắt mà thấy năm ngón tay
Phật co nắm lại, giơ cho người xem, nên có tướng nắm tay”.
Phật bảo ông A-nan:
“Như-lai ngày nay xác-thật bảo ông. Những người có trí cần do ví-dụ mà được
khai-ngộ. A-nan, ví như nắm tay tôi, nếu không có bàn tay tôi thì không thành
nắm tay tôi, lại nếu không có con mắt ông, thì không thành cái thấy của ông.
Lấy cái thấy của ông mà so-sánh với nắm tay của tôi, ý-nghĩa có cân nhau
không?”
Ông A-nan bạch Phật:
“Ðúng vậy, thưa Thế-tôn, đã không có con mắt của tôi thì không thành cái thấy
của tôi, đem cái thấy của tôi so với nắm tay Như-lai, sự nghĩa giống nhau không
khác”.
Phật bảo ông A-nan: “Ông
nói giống nhau, nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Như người không có bàn tay
thì tuyệt-nhiên không có nắm tay; chứ người không có con mắt kia, không phải
hoàn-toàn không thấy. Là vì làm sao? Ông thử ra đường hỏi những người đui: Anh
thấy cái gì? Thì những người đui kia chắc sẽ trả-lời: Hiện nay trước mắt tôi
chỉ thấy tối đen, không thấy gì khác. Lấy cái nghĩa ấy mà xét thì tiền-trần tự
tối, chứ cái thấy nào có hao-kém gì”.
Ông A-nan bạch Phật:
“Những người đui trước mắt chỉ thấy tối đen, sao gọi là thấy được”.
Phật bảo ông A-nan: “Các
người đui không có con mắt chỉ thấy tối đen, so với người có con mắt ở trong
nhà tối thì hai cái tối đen ấy khác nhau hay không khác nhau?
- Thật vậy, thưa Thế-tôn,
người ở trong nhà tối với những người đui kia, so-sánh hai cái tối đen thật
không thể khác nhau.
- A-nan, nếu người không
có con mắt, thấy trước hoàn-toàn tối đen, bỗng-nhiên được con mắt sáng, trở lại
thấy các thứ sắc nơi tiền-trần mà gọi là con mắt thấy; thì người ở trong nhà
tối kia, thấy trước hoàn-toàn tối đen, bỗng-nhiên được cái đèn sáng, cũng thấy
các thứ sắc nơi tiền-trần, lẽ ra phải gọi là cái đèn thấy. Nếu như cái đèn thấy
thì đèn đã thấy được, tự-nhiên không thể gọi là đèn; lại cái đèn nó thấy thì
dính-líu gì đến ông. Vậy nên biết rằng đèn làm tỏ các sắc, nhưng thấy như vậy
là mắt chứ không phải đèn; mắt làm tỏ các sắc, nhưng thấy như vậy là tâm chứ
không phải mắt”.
Ông A-nan tuy được lời
Phật dạy như vậy, cùng với đại-chúng, miệng tuy im-lặng, tâm chưa khai-ngộ, còn
mong đức Như-lai từ-tâm chỉ-bày, chấp tay sạch lòng, đợi Phật dạy-bảo.
Khi bấy giờ đức Thế-tôn
ruỗi tay Ðâu-la-miên sáng-ngời, mở năm ngón tay, bảo ông A-nan và đại-chúng
rằng: “Lúc tôi mới thành-đạo, ở trong Lộc-viên, có dạy bọn ông A-nhã-đa, năm vị
tỷ-khưu và tứ-chúng rằng” Tất-cả chúng-sinh không thành đạo Bồ-đề và A-la-hán,
là do những phiền-não khách-trần mê-hoặc. Thuở đó, bọn ông do đâu mà khai-ngộ,
hiện nay thành được thánh-quả?”
Khi ấy ông Kiều-trần-na
đứng dậy bạch Phật: “Tôi nay già-cả, ở trong đại-chúng, riêng được cái danh là
“Hiểu”, do tôi ngộ được hai chữ khách-trần mà thành chính-quả. Bạch Thế-tôn,
ví-như người khách đi đường, vào trọ quán-xá, hoặc ngủ hoặc ăn, ăn ngủ xong rồi,
xếp đồ lên đường, không ở yên được; nếu thật là người chủ, tự-nhiên không phải
đi đâu. Tôi nghĩ như vầy: Không ở yên thì gọi là khách, còn ở yên thì gọi là
chủ. Tôi lấy cái “không ở yên” làm ý-nghĩa chữ khách. Lại như mới tạnh, mặt
trời chiếu-sáng trên cao, ánh sáng vào trong lỗ hỡ, bày-tỏ hình-dáng bụi trần
giữa hư-không. Trần thì lay-động, hư-không thì yên-lặng. Tôi nghĩ như vậy:
Ðứng-lặng gọi là không, lay-động gọi là trần, tôi lấy cái “lay-động” làm
ý-nghĩa chữ trần”.
Phật dạy: “Ðúng thế”.
Khi bấy giờ đức Như-lai ở
trong đại-chúng co năm ngón tay, co rồi lại mở, mở rồi lại co, bảo ông A-nan
rằng: “Nay ông thấy gì?”.
Ông A-nan đáp: “Tôi thấy
bàn tay Bách-bảo-luân của Như-lai, ở trong chúng, lúc mở lúc nắm”.
Phật bảo ông A-nan: “Ông
thấy tay tôi ở trong chúng khi mở khi nắm, đó là tay tôi có mở có nắm hay là
cái thấy của ông có mở có nắm?”.
Ông A-nan bạch: “Bàn tay
báu của Thế-tôn ở trong chúng khi mở khi nắm; tôi thấy bàn tay Như-lai tự mở tự
nắm, chứ không phải tính-thấy của tôi có mở có nắm”.
Phật bảo: “Cái gì động,
cái gì tĩnh?”.
Ông A-nan bạch: “Bàn tay
Phật không ở yên, chứ tính-thấy của tôi còn không có tĩnh, lấy gì gọi là không
ở yên nữa”.
Phật dạy: “Ðúng thế”,
Lúc ấy đức Như-lai từ
trong bàn tay, phát một đạo hào-quang báu qua bên phải ông A-nan, ông A-nan
liền quay đầu trông qua bên phải, Phật lại phát một đạo hào-quang qua bên trái
ông A-nan, ông A-nan lại cũng quay đầu trông qua bên trái. Phật bảo ông A-nan:
“Hôm nay đầu ông vì sao lại lay-động?”
Ông A-nan bạch: “Tôi thấy
đức Như-lai phát hào-quang báu qua bên trái và qua bên phải của tôi nên tôi
trông qua bên trái bên phải, đầu tự lay-động.
- A-nan, ông trông
hào-quang của Phật mà lay-động cái đầu, quay qua bên phải bên trái, đó là cái
đầu của ông động hay là cái thấy động?
- Thưa Thế-tôn, đầu tôi
tự-động chứ tính-thấy của tôi còn không ở đâu, lấy gì mà lay-động”.
Phật dạy: “Ðúng thế”.
Lúc bấy giờ đức Như-lai
bảo với vả đại-chúng rằng: “Như các chúng-sinh lấy cái lay-động mà gọi là trần,
lấy cái không ở yên mà gọi là khách, thì các ông hãy xem ông A-nan, đầu tự
lay-động mà cái thấy không lay-động, lại hãy xem bàn tay tôi tự mở tự nắm mà
cái thấy không ruỗi không co. Làm sao các ông hiện nay lại lấy cái động làm
thân, lấy cái động làm cảnh, tự đầu đến cuối, niệm-niệm sinh-diệt, bỏ mất chân-tính,
làm việc trái-ngược; tâm-tính mất chỗ chân-thật, nhận vật làm mình, xoay-vần
trong ấy, tự-nhận lấy cái trôi-lăn trong lục-đạo”.
2. CHỈ
TÍNH THẤY LÀ TÂM KHÔNG SINH KHÔNG DIỆT
Khi bấy giờ ông A-nan
cùng cả đại-chúng nghe lời Phật dạy, thân tâm thư-thái, nghĩ mình từ vô-thủy
đến nay, bỏ mất bản-tâm, lầm-nhận sự phân-biệt bóng-dáng tiền-trần làm tâm,
ngày nay được khai-ngộ như em bé mất sữa, bỗng gặp mẹ hiền, chấp tay lễ Phật,
xin đức Như-lai, ở nơi thân tâm, chỉ ra chỗ chân chỗ vọng, chỗ hư chỗ thật, ở
nơi hiện-tiền phát-minh ra hai tính sinh-diệt, và không sinh-diệt.
Khi ấy vua Ba-tư-nặc đứng
dậy bạch Phật: “Trước tôi chưa được vâng nghe lời Phật dạy-bảo, tôi thấy bọn
Ca-chiên-diên, Tỳ-la-chi-tử đều nói thân này chết rồi là mất hẳn và gọi đó là Niết-bàn;
nay tuy được gặp Phật nhưng tôi vẩn còn hồ-nghi, xin Phật chỉ rõ thế nào
chứng-biết tính không sinh-diệt nơi tâm này. Hiện nay các hàng hữu-lậu trong
đại-chúng cũng đều trông mong được nghe điều ấy.”
Phật bảo: “Ðại-vương,
thân ông hiện đó, nay tôi hỏi ông: Cái nhục-thân đó của ông có như kim-cương
thường còn, không hư-hỏng hay lại cũng biến-đổi và tan-rã?
- Bạch Thế-tôn, thân tôi
hiện nay rốt-cuộc về sau cũng thay-đổi và tiêu-diệt”.
Phật bảo: “Ðaị-vương, ông
chưa hề bị diệt, làm sao lại biết được là phải diệt?
- Bạch Thế-tôn, cái thân
vô-thường thay-đổi của tôi đây, tuy chưa hề bị diệt; song tôi xét nó hiện nay
niệm-niệm dời-đổi, mãi mãi không thôi như lửa thành tro, lần lần tiêu mất; vì
tiêu mất, mãi mãi không dừng nên tôi biết chắc thân này rồi phải diệt mất”.
Phật dạy: “Ðúng thế,
Ðại-vương, tuổi-tác của ông nay đã già-yếu, vậy mặt mày của ông so với lúc còn
bé thì như thế nào?
- Bạch Thế-tôn, lúc tôi
bé nhỏ, da thịt mớn-mơ, đến khi trưởng-thành, huyết-khí sung-túc; nay thì tuổi
già, ngày thêm suy-yếu, hình-sắc khô-gầy, tinh-thần lẫn-lộn, tóc bạc mặt nhăn,
chừng sống không được bao lâu nữa, so-sánh sao được với lúc đương còn trẻ-mạnh!”
Phật bảo: “Ðại-vương,
hình-dung của ông, nào phải đương trẻ mà già liền đâu?”
Vua bạch: “Thưa Thế-tôn,
sự biến-hóa thầm-thầm dời-đổi, tôi thật không hay; nắng mưa thấm-thoát, lần đến
thế nầy. Vì sao? Khi 20 tuổi, tuy gọi là trẻ, nhưng mặt mày của tôi đã già hơn
khi 10 tuổi; khi 30 tuổi lại sút hơn lúc 20 tuổi và đến nay đã 60 lại thêm hai
tuổi, trông lại lúc 50 tuổi, còn khỏe-mạnh hơn nhiều. Bạch Thế-tôn, tôi thấy
thầm-thầm dời-đổi như thế; thân nầy đến nay tuy đã suy-yếu, nhưng trong sự
thay-đổi, còn chia từng 10 năm. Nếu tôi suy-xét chín-chắn hơn nữa thì cái
biến-đổi ấy đâu phải từng một kỷ, thật là mỗi năm mỗi thay-đổi; lại đâu mỗi năm
mỗi thay-đổi mà cũng là mỗi tháng mỗi biến-hóa; lại không những mỗi tháng mỗi
biến-hóa mà còn mỗi ngày mỗi đổi-thay; xét cho cùng, nghĩ cho kỹ, trong mỗi
sát-na, trong mỗi niệm, nó không thể đứng yên, vậy nên tôi biết thân tôi
rốt-cuộc phải biến-đổi và tiêu-diệt”.
Phật bảo: “Ðại-vương, ông
thấy biến-hóa dời-đổi không ngừng, ngộ biết là phải diệt; vậy trong lúc diệt đó,
ông có biết trong thân có cái gì không diệt chăng?”
Vua Ba-tư-nặc chấp tay
bạch Phật: “Thật tôi không biết”.
Phật bảo: “Nay tôi chỉ
cho ông cái tính không sinh-diệt, Ðại-vương, khi ông mấy tuổi, mới thấy nước
sông Hằng”.
Vua bạch: “Khi tôi ba
tuổi, mẹ tôi dắt đi yết-lễ thần Kỳ-bà-thiên thì đã đi qua sông ấy; lúc đó tôi
liền biết là nước sông Hằng”.
Phật bảo: “Ðại-vương, như
lời ông nói: Lúc 20 tuổi thì sút hơn lúc lên 10, cho đến nay đã 60 tuổi, từng
năm, từng tháng, từng ngày, từng giờ, dời-đổi mãi mãi; vậy khi ông 3 tuổi thấy
nước sông ấy, rồi đến khi 13 tuổi thì nước ấy thế nào?”
Vua bạch: “Tôi thấy nước
ấy cũng giống khi 3 tuổi, như nhau không khác và đến nay tuổi đã 62, cũng vẫn
không khác”.
Phật bảo: “Nay ông xét
mình đầu bạc mặt nhăn, mặt ông chắc là nhăn hơn lúc trẻ; vậy cái thấy hiện nay
của ông thấy sông Hằng so với cái thấy lúc nhỏ thấy sông Hằng, có già trẻ gì
không?”
Vua bạch: “Thưa Thế-tôn,
không”.
Phật bảo: “Ðại-vương, mặt
ông tuy nhăn, nhưng cái thấy đó chưa hề bị nhăn; cái bị nhăn thì thay-đổi, còn
cái không bị nhăn thì không có thay-đổi. Cái thay-đổi thì phải diệt, còn cái
không thay-đổi kia, vốn không sinh-diệt, làm sao trong ấy, lại nhận sống cái
chết của ông, mà ông còn dẫn những thuyết của bọn Mạt-già-lê kia bảo rằng thân
này chết rồi diệt hẳn”.
Vua nghe lời Phật dạy như
vậy, tin-biết về sau bỏ thân nầy qua thân khác, cùng với đại-chúng nhẩy-nhót
vui-mừng, được cái chưa từng có.
3. CHỈ
TÍNH THẤY KHÔNG BỊ MẤT
Ông A-nan liền từ chỗ
ngồi đứng dậy, lễ Phật chấp tay, quỳ dài bạch Phật: “Thưa Thế-tôn, nếu cái thấy
nghe đó thật không sinh-diệt thì làm sao đức Thế-tôn lại gọi bọn chúng tôi bỏ
mất chân-tính, làm việc trái-ngược? Xin Phật mở lòng từ-bi, rửa sạch trần-cấu
cho chúng tôi”.
Khi ấy Ðức Như-lai ruỗi
cánh tay kim-sắc, ngón tay chỉ xuống, bảo ông A-nan rằng: “Ông nay thấy tay
Mẫu-đà-la tôi là chính hay là ngược?”
Ông A-nan bạch:
“Chúng-sinh thế-gian cho đó là ngược, còn tôi thì không biết thế nào là chính,
thế nào là ngược”.
Phật bảo ông A-nan: “Nếu
người thế-gian cho đó là ngược, thì người thế-gian gọi thế nào là chính?”
Ông A-nan bạch Phật: “Ðức
Như-lai đưa cánh tay lên, tay Ðâu-la-miên chỉ lên trên không thì gọi là chính”.
Phật liền giơ cánh tay
lên và bảo ông A-nan rằng: “Cái trái-ngược như thế, chỉ là đầu đuôi thay-đổi
lẫn nhau; các người thế-gian lắp đi lắp lại mà xem thấy. Nay lấy cái thân ông
và pháp-thân thanh-tịnh của chư Như-lai, so theo đó mà phát-minh, thì thân của
Như-lai gọi là chính-biến-tri, thân của các ông gọi là tính trái-ngược; tùy ông
xét kỹ nơi thân ông và thân Phật, cái gọi là trái-ngược đó, do ở chỗ nào mà gọi
là trái-ngược?”
Khi ấy ông A-Nan cùng cả
đại chúng chăm-chăm ngó Phật, tròng con mắt không lay-động, chẳng biết thân tâm
chỗ nào trái-ngược. Phật phát-lòng từ-bi, thương-xót ông A-nan và đại-chúng,
phát tiếng hải-triều, khắp bảo trong Hội: “Các thiện-nam-tử, tôi thường nói
rằng : “Sắc, tâm, các duyên và các tâm-sở, các pháp sở-duyên, đều duy tâm-tính
biến-hiện. Thân ông, tâm ông đều là những vật hiện ra trong tâm-tính. Làm sao
các ông lại bỏ mất tâm-tính quý-báu ấy, nhận cái mê trong ngộ. Mê-muội thành có
hư-không, trong hư-không mê-muội ấy, kết cái mê-muội thành ra có sắc; sắc xen
với vọng-tưởng; tưởng tướng làm thân, nhóm các duyên lay-động bên trong, giong-ruổi
theo cảnh-vật bên ngoài; rồi lấy cái tướng mờ-mịt lăng-xăng đó làm tâm-tính.
Một phen lầm cái tướng ấy làm tâm thì quyết-định lầm cho rằng tâm ở trong
sắc-thân, mà không biết sắc-thân, cho đến núi sông, hư-không, đất liền bên
ngoài đều là những vật hiện trong tâm-tính; ví-như bỏ cả trăm nghìn biển lớn
trong-lặng, chỉ nhận một cái bọt nước; rồi cho nó là toàn hết cả nước, cùng-tột
các biển lớn. Bọn ông tức là những người mê-lầm nhiều lớp, như cánh tay tôi rủ
xuống, không có sai khác. Như-lai gọi là đáng thương-xót đó”.
4. CHỈ
TÍNH THẤY KHÔNG CÓ CHỖ TRẢ VỀ
Ông A-nan vâng nghe lời
Phật từ-bi cứu-độ dạy bảo, khóc lóc tréo tay mà bạch Phật rằng: "Tuy tôi
vâng nghe diệu-âm của Phật như vậy, ngộ được chỗ thường-trụ viên-mãn sẵn có của
tâm-tính, nhưng tôi ngộ được pháp-âm của Phật vừa dạy là tôi hiện lấy tâm phan-duyên
mà thỏa-mãn chỗ ước-mong. Tôi luống được tâm ấy, chưa dám nhận là tâm-tính
bản-lai; mong Phật thương xót, tuyên lời viên-âm, nhổ gốc nghi-ngờ của tôi, đem
về đạo vô thượng."
Phật bảo ông A-nan:
"Bọn ông còn lấy tâm phan-duyên mà nghe pháp thì cái pháp nhận được đó
cũng chỉ là sở-duyên, chứ không phải nhận được pháp-tính. Ví như có người lấy
ngón tay chỉ mặt trăng cho người khác thì người kia lẽ ra phải nhân ngón tay mà
thấy mặt trăng. Nếu như người kia xem ngón tay và cho đó là mặt trăng thì người
ấy chẳng những bỏ mất mặt trăng mà cũng bỏ mất cả ngón tay chỉ nữa. Vì sao? Vì
nhận ngón tay chỉ làm mặt trăng vậy. Đâu những bỏ mất ngón tay lại cũng không
phân biệt được sáng và tối. Vì sao? Vì lấy ngón tay tối làm mặt trăng sáng thì
không rõ biết được hai tính sáng tối. Ông cũng như vậy. Nếu lấy cái phân-biệt
pháp-âm tôi làm tâm của ông thì cái tâm ấy phải rời cái phân-biệt tiếng nói, có
tính phân-biệt.
Ví như người khách ngủ
trọ quán trạm, ở tạm rồi đi, rốt cuộc ở mãi không được, còn người giữ trạm thì
không đi đâu, gọi là chủ trạm. Tâm cũng như vậy, nếu thật tâm ông thì không đi
đâu, làm sao rời cái tiếng, lại không có tính phân-biệt? Nói như thế chẳng
những đối với tâm phân-biệt các tiếng; cái phân-biệt hình-dung của tôi, rời các
sắc-tướng, cũng không có tính phân-biệt; như vậy cho đến cái phân-biệt đều
không, không phải sắc, không phải không, mà bọn Câu-xá-ly lầm là minh-đế, thì
rời các pháp-trần, cũng không tính phân-biệt. Như vậy tâm-tính của ông đều có
chỗ trả về, lấy gì mà làm chủ?"
Ông A-nan bạch: "Như
tâm-tính của tôi đều có chỗ trả về, thì tâm-tính của Như-lai dạy, làm sao lại
không có chỗ trả về? Xin Phật thương-xót chỉ bảo cho tôi điều ấy."
Phật bảo ông A-nan:
"Hãy lấy cái tính thấy của ông thấy tôi đây. Tính thấy ấy tuy không phải
là tâm-tính như mặt trăng thứ hai không phải thật là mặt trăng. Ông hãy nghe
cho chín, nay tôi chỉ cho ông cái nghĩa không thể trả về.
A-nan, đại-giảng-đường
nầy mở rộng phương Đông, khi mặt trời lên thì sáng, nửa đêm vắng trăng, mây mù
mờ-mịt thì lại tối-tăm; chỗ có các cửa thì thấy thông-suốt; chỗ có tường nhà
thì thấy ngăn bịt; chỗ phân-biệt được, thấy cảnh sắc-duyên; trong chỗ rỗng
trống, toàn là hư-không; cảnh tượng mù-mịt khi bụi nổi lên; mưa tạnh trời thanh
lại thấy trong sạch.
A-nan, ông đều xem rõ các
tướng biến-hóa ấy, nay tôi trả các tướng ấy về chỗ bản-nhân của nó. Thế nào là
bản-nhân? A-nan, trong các tướng biến-hóa, cái sáng trả về cho mặt trời. Vì
sao? Vì không mặt trời thì không sáng, nguyên-nhân cái sáng thuộc về mặt trời,
cho nên trả cho mặt trời. Cái tối trả về cho trăng tối, thông-suốt trả về cho
các cửa, ngăn-bịt trả về cho tường nhà, sắc-duyên trả về cho phân-biệt, rỗng
trống trả về cho hư-không, mù-mịt trả về cho bụi, trong sáng trả về cho tạnh,
và trong thế-gian có những cái gì, cũng không ra ngoài mấy loại ấy.
Còn cái tính-thấy của ông
thấy tám thứ kia thì ông định trả về đâu. Vì sao? Nếu trả về cho sáng thì lúc
không sáng lại không thấy tối, nay tuy các thứ sáng tối có sai khác, cái thấy
không có sai khác. Các cái thấy có thể trả về tự nhiên không phải là ông, còn
cái không thể trả về được thì không phải là ông mà là ai nữa? Vậy thì biết tâm
ông vốn là nhiệm-mầu trong sạch sáng-suốt, ông tự mê-lầm, bỏ mất tính bản-nhiên
mà chịu luân-hồi, thường bị chìm đắm trong bể sống chết, nên Như-lai gọi là đáng
thương xót".
5. CHỈ
TÍNH THẤY KHÔNG CÓ XEN TẠP
Ông A-nan bạch :
"Tuy tôi biết tính-thấy ấy không thể trả về đâu, nhưng làm sao biết được
đó là chân-tính của tôi".
Phật bảo ông A-nan :
"Nay tôi lại hỏi ông : hiện ông chưa được đạo-quả vô-lậu thanh-tịnh, nhờ
thần-lực của Phật, mới thấy được cõi sơ-thiền, không bị ngăn-ngại. Ông
A-na-luật thì thấy cõi Diêm-phù-đề như xem quả am-ma-la trong bàn tay. Các vị
Bồ-tát thấy trăm nghìn cõi thập phương Như-lai, cùng tột các quốc-độ
thanh-tịnh, số như vi-trần, không chỗ nào không thấy. Còn chúng-sinh thì thấy
rõ được không quá gang tấc.
A-nan, nay tôi cùng ông
hãy xem cung-điện của Tứ-thiên-vương, chặng giữa xem khắp các loài thủy, lục,
không, hành, tuy có nhiều hình-tượng sáng tối khác nhau, nhưng không cái gì là
không phải tiền-trần chia cắt ngăn ngại. Ông hãy ở nơi đó phân-biệt cái gì là
mình, cái gì là vật khác. Nay tôi hãy đưa ông lựa trong sự thấy đó, cái gì là
tâm-thể của ông, cái gì là cái hình-tượng của vật. A-nan, cùng tột sức thấy của
ông, từ mặt trời, mặt trăng đều là vật, chứ không phải ông; đến Thất-kim sơn,
xem xét cùng khắp, tuy có những thứ hào-quang nhưng cũng là vật chứ không phải
là ông; lần lần xem đến mây kéo, chim bay, gió động, bụi nổi, cây cối núi sông,
cỏ rác người vật, đều là vật chứ không phải là ông.
A-nan, các vật gần xa đó,
tuy sai khác nhau, nhưng đồng do cái thấy của ông thanh-tịnh trông thấy, thì
các thứ vật kia tự có sai khác mà tính-thấy của ông không có sai khác. Cái thấy
nhiệm-mầu sáng-suốt đó thật là tính-thấy của ông.
Nếu cái thấy là vật thì
ông cũng có thể thấy cái thấy của tôi. Nếu cho rằng đồng thấy sự vật là thấy
cái thấy của tôi thì khi tôi không thấy, sao lại không thấy được cái chỗ không
thấy của tôi? Nếu nói rằng thấy cái không thấy thì tự-nhiên cái đó không phải
là cái tướng của cái không thấy; còn nếu không thấy được chỗ không thấy của
tôi, thì cái thấy bản-nhiên không phải là vật, làm sao lại không phải là ông?
Lại như cái thấy là vật
thì đương khi ông thấy vật đó, ông đã thấy được vật, vật cũng thấy được ông,
thế thì thể-tính xen lộn và ông cùng tôi với cả thế-gian không thành-lập được.
A-nan, nếu khi ông thấy
là chính ông thấy, chứ không phải tôi, thì cái thấy cùng khắp đó không phải là
ông thì còn là ai nữa.
Làm sao lại tự-nghi cái
chân-tính của ông. Chân-tính của ông, ông không tự-nhận lấy, lại chấp lời nói
của tôi, mà cầu chứng thật".
6. CHỈ
TÍNH THẤY KHÔNG LÀM NGĂN NGẠI
Ông A-nan bạch Phật rằng:
Thưa Thế-tôn, nếu cái tính thấy đó chắc là tôi, chứ không phải ai khác, thì khi
tôi cùng Như-lai xem cung-điện quý báo của Tứ-thiên-vương, xem mặt trời mặt
trăng, cái thấy ấy cùng khắp cả cõi Sa-bà, khi lui về tịnh-xá thì chỉ thấy cảnh
vườn chùa, đến khi thanh tâm nơi phòng chái thì lại chỉ thấy một chái nhà. Thưa
Thế-tôn, cái thấy như vậy, bản thể của nó cùng khắp một cõi, nay ở trong phòng
thì chỉ thấy một phòng; thế là cái thấy rút lớn thành nhỏ hay là tường nhà chia
cắt làm cho đứt đoạn. Nay tôi không biết nghĩa đó thế nào, xin Phật vì tôi
từ-bi chỉ rõ".
Phật bảo ông A-nan:
"Tất-cả các thứ trong, ngoài, lớn nhỏ của thế-gian đều thuộc về tiền-trần,
không nên nói rằng cái thấy có co có ruỗi. Ví như trong đồ vuông thì thấy
hư-không vuông; nay tôi hỏi ông: Cái hư-không vuông thấy được trong đồ vuông
ấy, là nhất-định vuông hay không nhất-định vuông? Nếu nhất-định vuông thì khi
thay đồ tròn vào, lẽ ra hư-không tròn; nếu không nhất định thì trong đồ vuông,
lẽ ra không có hư-không vuông. Ông nói không biết nghĩa đó do đâu, nghĩa đó như
vậy, sao còn do đâu được.
A-nan, nếu muốn nhận được
tính không vuông không tròn, chỉ trừ-bỏ cái vuông của đồ-đạc, chứ bản-thể
hư-không vốn không vuông, không nên nói rằng lại phải trừ cả cái vuông của
hư-không nữa.
Lại như lời ông hỏi: Khi
vào trong phòng, rút cái thấy làm cho nhỏ lại thì khi ngửa xem mặt trời, há lại
kéo cái thấy ngang với mặt trời? Nếu xây tường nhà chia-cắt cái thấy làm cho
đứt-đoạn, thì đến khi xoi một lỗ nhỏ, sao lại không thấy dấu-nối. Nghĩa ấy
không đúng.
Tất-cả chúng-sinh từ
vô-thủy đến nay, lầm mình là vật, bỏ mất tâm-tính, bị vật xoay-chuyển, cho nên
trong đó thấy lớn thấy nhỏ. Nếu biết chuyển được vật thì đồng với Như-lai, thân
tâm đều viên-mãn sáng-suốt, nơi đạo-trường bất-động đó, trên đầu một mảy lông
cũng có thể trùm-chứa thập phương quốc-độ".
7. CHỈ
TÍNH THẤY KHI "THỊ" VÀ "PHI-THỊ"
KHI
"CHÂN VÀ VỌNG" CÓ CÙNG 1 CHÂN TÂM
Ông A-nan bạch Phật rằng:
"Thưa Thế-tôn, nếu cái thấy đó, chắc là chân-tính của tôi thì cái
chân-tính đó, hiện ở trước mắt tôi; cái thấy đó đã là chân-tính của tôi thì
thân tâm tôi, hiện nay, lại là vật gì? Mà nay thân tâm ấy thật có phân-biệt,
còn cái thấy kia thì không phân-biệt riêng gì thân tôi. Nếu nó thật là tâm tôi,
làm cho tôi hiện nay có thấy, vậy tính-thấy ấy đã thật là tôi, còn thân nầy
không phải là tôi thì nào khác gì đức Như-lai trước kia đã hỏi-vặn rằng: "
Vật thấy được tôi". Xin Phật rủ lòng đại-từ, chỉ-bày cho chỗ chưa
ngộ".
Phật bảo ông A-nan :
"Nay ông nói rằng: Cái thấy ở trước mắt ông, nghĩa ấy không đúng. Nếu thật
ở trước mắt ông và ông thật thấy được thì cái thấy đó đã có chỗ ở, không phải
không chỉ ra được. Vậy nay tôi cùng ông ngồi trong rừng Kỳ-đà, trông khắp rừng,
suối với các điện, đường, trên đến mặt trời, mặt trăng, trước đối với sông
Hằng. Nay ông hãy ở trước sư-tử-tọa của tôi, giơ tay chỉ-bày trong các
tướng kia, chỗ dâm là rừng, cái sáng là mặt trời, ngăn-ngại là vách, thông-suốt
là hư-không, như thế cho đến cỏ cây, mảy-mún, tuy lớn nhỏ khác nhau, nhưng đã
có hình thì không cái gì là không chỉ đích ra được. Vậy nếu cái thấy, hiện ở
trước mắt ông thì ông hãy lấy tay chỉ rõ đích-xác cái gì là cái thấy. A-nan,
ông nên biết, nếu hư-không là cái thấy, thì hư-không đã thành cái thấy, còn cái
gì mới là hư-không; nếu vật là cái thấy, thì vật đã là cái thấy, còn cái gì mới
là vật. Ông hãy chín-chắn chia-chẻ trong muôn hiện-tượng, tách ra cái thấy,
chỉ-bày cho tôi như các vật kia, rõ-ràng không lầm-lẫn".
Ông A-nan bạch: "Nay
tôi ở giảng-đường nầy, trông xa đến sông Hằng, trên đến mặt trời, mặt trăng,
giơ tay chỉ ra, đưa mắt trông ra, thì những cái chỉ được đều là vật, chứ không
có cái gì là cái thấy. Bạch Thế-tôn, như lời Phật vừa dạy, chẳng những hàng
hữu-lậu sơ-học Thanh-văn như chúng tôi, mà cho đến các vị Bồ-tát cũng không
thể, ở nơi hiện-tượng muôn vật, chỉ ra cái thấy, rời tất-cả vật, riêng có
tự-tính".
Phật dạy: "Đúng thế,
đúng thế".
Phật lại bảo ông A-nan:
"Như lời ông nói: Không có cái thấy, rời tất-cả vật, riêng có tự-tính; thì
trong tất-cả các vật đã chỉ được, không có cái gì là cái thấy cả. Nay tôi lại
bảo ông: Ông cùng Như-lai ngồi trong rừng Kỳ-đà, lại xem rừng vườn cho đến mặt
trời mặt trăng, nhiều thứ hình-tượng khác nhau, trong đó, chắc không có cái
thấy mà ông có thể chỉ ra được. Vậy ông hãy phát-minh trong các vật đó, có cái
gì ra ngoài cái thấy?"
Ông A-nan bạch:
"Thật tôi thấy khắp rừng Kỳ-đà nầy, không biết trong đó có cái gì ra ngoài
cái thấy. Vì sao? Nếu cái cây ra ngoài cái thấy thì sao lại thấy cây, còn nếu
cái cây tức là cái thấy thì sao lại là cây; như thế cho đến nếu hư-không ra
ngoài cái thấy, thì sao thấy được hư-không, còn nếu hư-không tức là cái thấy,
thì sao lại là hư-không. Tôi lại suy-nghĩ, phát-minh chín-chắn trong muôn
hình-tượng, thật không có cái gì ra ngoài cái thấy cả".
Phật dạy: "Đúng thế,
đúng thế".
Khi ấy trong đại-chúng,
những vị chưa chứng-quả vô-học, nghe Phật dạy như thế, mờ-mịt chẳng biết nghĩa
ấy đầu đuôi thế nào, nên đồng-thời sợ-hãi, không giữ được tâm thanh-tịnh.
Đức Như-lai biết
đại-chúng tâm-niệm rối-loạn, sinh lòng thương-xót, an-ủi ông A-nan và cả
đại-chúng rằng: "Các thiện-nam-tử, bậc vô-thượng Pháp-vương, lời nói
chân-thật, như tính chân-như mà nói, không lừa không dối, không phải như bốn
thứ luận-nghị càn-giỡ bất-tử của bọn Mạt-già-lê; ông hãy suy-nghĩ cho
chín-chắn, chớ phụ lòng thương-mến của tôi".
Lúc ấy ngài Pháp-vương-tử
Văn-thù-sư-lỵ thương xót hàng tứ-chúng, ở trong đại-chúng, liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, đỉnh-lễ chân Phật, chấp tay cung-kính mà bạch Phật rằng: "Thưa
Thế-tôn, đại-chúng nầy không ngộ được chỗ đức Như-lai phát-minh ra hai nghĩa
"thị" và "phi-thị" nơi hai thứ "cái thấy" và
"sắc không". Bạch Thế-tôn, nếu những hiện tượng sắc không nơi
tiền-cảnh, tức là cái thấy, thì lẽ ra có chỗ chỉ được, còn nếu ra ngoài cái
thấy, thì lẽ ra không thể thấy được; mà nay đại-chúng không rõ nghĩa ấy do đâu,
nên mới kinh-sợ, chứ không phải vì trước đây thiện-căn ít-ỏi; kính mong đức
Như-lai thương-xót, phát-minh cho rõ các vật-tượng ấy và cái thấy ấy vốn là vật
gì, mà ở trong đó, lại không có các nghĩa "thị" và
"phi-thị".
Phật bảo ngài Văn-thù
cùng cả đại-chúng rằng: "Thập phương Như-lai và các vị đại-Bồ-tát ở trong
tự-trụ Tam-ma-điạ, thì cái "thấy", cái "bị-thấy" và các
tương-tướng hoa-đốm hư-không, vốn không có gì. Cái "thấy" và cái
"bị thấy" đó vốn là tâm-tính Bồ-đề nhiệm-mầu trong-sạch sáng-suốt,
làm sao trong đó, lại còn có các nghĩa "thị" và "phi-thị"?
Văn-thù, nay tôi hỏi ông:
Như ông đây là Văn-thù, nơi ông lại có cái tức là Văn-thù hay không có Văn-thù?
- Bạch Thế-tôn, đúng thế.
Tôi đây thật là Văn-thù, nơi tôi không có cái gì tức là Văn-thù, vì sao? Vì nếu
có cái ấy, thì thành ra hai Văn-thù, nhưng tôi hiện nay không phải là không
Văn-thù; trong đó thật không có hai tướng "thị" và
"phi-thị".
Phật bảo: "Tính-thấy
nhiệm-mầu sáng-suốt với các thứ sắc, không thì cũng như vậy. Vốn một tâm-tính
vô-thượng Bồ-đề, lầm-nhận là sắc, không cùng với nghe, thấy, như dụi con mắt,
thấy có hai mặt trăng, thì mặt trăng nào mới thật là mặt trăng, còn mặt trăng
nào lại không phải là mặt trăng. Văn-thù, chỉ có một mặt trăng thật, trong ấy
tự không có cái gì thật là mặt trăng hay không phải là mặt trăng. Vậy nên hiện
nay, các ông phát-minh ra các thứ xem-thấy và trần-cảnh, đều gọi là vọng-tưởng,
không thể ở trong đó, chỉ ra các nghĩa "thị" và "phi-thị".
Nhưng do tất-cả đều là tâm-tính nhiệm-mầu sáng-suốt nên có thể làm cho các ông
ra ngoài các nghĩa "chỉ được" và "không chỉ được".
8. CHỈ
TÍNH THẤY KHÔNG PHẢI LÀ TỰ NHIÊN,
NHÂN
DUYÊN, RỜI CÁC DANH TƯỚNG
Ông A-nan bạch Phật rằng:
"Thưa Thế-tôn, thật như lời Pháp-vương dạy, tâm-tính cùng khắp thập phương
thế-giới, yên-lặng thường-trụ, không có sinh-diệt; điều ấy so với thuyết ông
Phạm-chi Sa-tỳ ca-la ngày xưa nói về minh-đế, hay các thuyết ngoại-đạo như bọn
Đầu-hói nói có chân-ngã cùng khắp mười phương, khác nhau thế nào? Ở núi
Lăng-già, đức Thế-tôn đã từng, vì các ông Đại-tuệ, chỉ-dạy rằng: Bọn ngoại-đạo
kia thường nói tự-nhiên, còn Phật nói nhân-duyên, không phải cảnh-giới của bọn
kia. Nay tôi xét cái tâm-tính đó tự-nhiên, không phải sinh, không phải diệt,
xa-rời tất-cả các điều trái-ngược, luống-dối, giống như không phải là
nhân-duyên, cũng không phải là cái tự-nhiên của bọn kia. Xin Phật khai-thị thế
nào, cho chúng tôi khỏi mắc tà-kiến và được tâm-tính trong-sạch nhiệm-mầu
sáng-suốt".
Phật bảo ông A-nan:
"Nay tôi phương-tiện chỉ-bày, chân-thật bảo ông như vậy, ông còn chưa ngộ,
lại lầm là tự-nhiên. A-nan, nếu chắc là tự-nhiên, tự phải chỉ rõ thể-tính
tự-nhiên. Ông hãy xét cái tính-thấy kia lấy cái gì làm tự-thể. Cái thấy đó lại
là lấy cái sáng làm tự-thể, lấy cái tối làm tự-thể, lấy hư-không làm tự thể hay
lấy ngăn-bịt làm tự-thể. A-nan, nếu lấy cái sáng làm tự-thể thì lẽ ra không
thấy được tối, nếu lấy hư-không làm tự-thể thì lẽ ra không thấy được ngăn-bịt,
như vậy cho đến lấy các tướng tối mà làm tự-thể thì đến khi sáng, tính-thấy đã
diệt mất rồi, làm sao còn thấy được sáng ?"
Ông A-nan bạch :
"Chắc cái tính-thấy ấy không phải là tự-nhiên, thì nay tôi phát-minh được,
nó do nhân-duyên mà sinh; nhưng tâm còn chưa rõ, xin hỏi đức Như-lai, nghĩa-lý
thế nào cho hợp với tính nhân-duyên".
Phật dạy: "Ông nói
nhân-duyên, tôi lại hỏi ông: Nay ông do nhân-duyên mà có thấy; tính-thấy hiện
trước đó, vậy tính-thấy, ấy lại là nhân cái sáng mà có thấy, nhân cái tối mà có
thấy, nhân hư-không mà có thấy hay nhân ngăn-bịt mà có thấy? A-nan, nếu
tính-thấy nhân cái sáng mà có, thì lẽ ra không thấy được tối, còn như nhân cái
tối mà có, thì lẽ ra không được sáng; như vậy cho đến nhân hư-không, nhân
ngăn-bịt, thì cũng đồng như nhân cái sáng và cái tối. Lại nữa, A-nan, cái thấy
ấy lại là nương cái sáng mà có thấy, nương cái tối mà có thấy, nương hư-không
mà có thấy hay là nương ngăn-bịt mà có thấy? A-nan, nếu nương hư-không mà có
thấy, thì lẽ ra không thấy được ngăn-bịt; nếu nương ngăn-bịt mà có thấy, thì lẽ
ra không thấy được hư-không; như vậy cho đến nương cái sáng, nương cái tối cũng
đồng như nương hư-không, nương ngăn-bịt. Nên biết tính-thấy như vậy, không phải
nhân, không phải duyên, không phải tự-nhiên, cũng không phải không tự-nhiên,
không có nghĩa "không phải" hay "không không phải", không
có nghĩa "tức là" hay "không tức là", rời hết tất-cả các tướng,
tức là tất-cả sự vật; làm sao trong ấy, ông lại định đem các danh-tướng hí-luận
thế-gian mà phân biệt cho được. Thế cũng như lấy bàn tay, nắm-bắt hư-không, chỉ
thêm nhọc sức, chứ làm sao hư-không lại để cho ông nắm-bắt".
Ông A-nan bạch Phật rằng
: "Thưa Thế-tôn, chắc cái tâm-tính ấy, không phải nhân-duyên, thế sao đức
Thế-tôn lại thường chỉ-dạy cho các hàng tỷ-khưu rằng : Tính-thấy có bốn thứ
nhân-duyên, nghĩa là nhân hư-không, nhân ánh-sáng, nhân cái tâm và nhân con
mắt. Nghĩa đó thế nào?
Phật bảo : A-nan, tôi nói
như thế là nói về các tướng nhân-duyên thế-gian, đó không phải là
đệ-nhất-nghĩa. A-nan, tôi lại hỏi ông : Các người thế-gian nói : Tôi thấy được,
thì thế nào, họ gọi là thấy, còn thế nào, họ gọi là không thấy?"
Ông A-nan bạch : Người
đời nhân ánh sáng mặt trời, mặt trăng và đèn, thấy các hình-tướng, thì gọi là
thấy, còn nếu không có ba thứ ánh sáng đó, thì không thể thấy được."
- A-nan, nếu khi không
sáng mà gọi là không thấy, thì lẽ ra không thấy được tối; nếu đã thấy được tối,
thì khi đó, chỉ là không sáng, chứ đâu phải là không thấy. A-nan, nếu trong lúc
tối, vì không thấy sáng mà gọi là không thấy; vậy nay, trong lúc sáng, không
thấy cái tối, thì lại cũng phải gọi là không thấy; thế thì cả hai lúc sáng,
tối, cũng đều gọi là không thấy cả. Còn nếu như hai cái sáng và tối tự lấn-át
nhau, chứ không phải trong đó, tính-thấy của ông tạm-thời không có; thế thì
biết cả hai lúc đều gọi là thấy, chứ sao lại gọi là không thấy. A-nan, vì vậy
ông nên biết rằng : Trong lúc thấy sáng, cái thấy không phải là cái sáng, trong
lúc thấy tối, cái thấy không phải là cái tối, trong lúc thấy hư-không, cái thấy
không phải là hư-không, trong lúc thấy ngăn-bịt, cái thấy không phải là
ngăn-bịt.
"Bốn nghĩa đó đã
thành-lập rồi, ông lại nên biết : Khi nhận-thấy tính-thấy thì tính-thấy không
phải là cái thấy. Tính-thấy còn rời cả cái thấy và cái thấy không thể đến nơi
tính-thấy được; làm sao, ông còn nói đến những nhân-duyên, tự-nhiên và tướng
hòa-hợp? Bọn Thanh-văn ông hẹp-hòi không biết, không thông-suốt được sự thật
thanh-tịnh, nay tôi chỉ-dạy cho ông, ông nên khéo suy-nghĩ, không được trễ-nãi
trên đường Bồ-đề nhiệm-mầu".
Comments
Post a Comment