KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

 QUYỂN V


CHỈ-RÕ CHÂN VÀ VỌNG KHÔNG CÓ TÍNH, 

HỄ THEO TÍNH VIÊN-THÔNG CỞI NÚT

THÌ XOAY VỀ BẢN-GIÁC



Ông A-nan bạch Phật rằng : "Thưa Thế-tôn, tuy Như-lai đã dạy nghĩa quyết-định thứ hai, song tôi xem trong thế-gian, những người cởi nút, nếu không biết đầu nút ở đâu, thì chắc không thể cởi được. Bạch Thế-tôn, tôi và các hàng hữu-học Thanh-văn trong Hội nầy cũng giống như vậy. Từ vô-thủy đến nay, chúng tôi cùng sinh, cùng diệt với các thứ vô-minh, tuy được thiện-căn nghe nhiều Phật-pháp thế nầy, nhưng tiếng là xuất-gia mà cũng như người sốt-rét cách nhật; xin nguyện đức Đại-từ thương-xót kẻ chìm-đắm, chính nơi thân tâm hiện nay, chỉ cho chúng tôi thế nào là nút, do đâu mà cởi, cũng khiến cho chúng-sinh khổ-não vị-lai được khỏi luân-hồi, không sa vào ba cõi."

Nói lời ấy rồi, ông A-nan và cả đại-chúng, năm vóc gieo xuống đất, khóc-lóc thành-khẩn, trông-mong lời khai-thị vô-thượng của đức Như-lai.


Khi bấy giờ, đức Thế-tôn thương-xót ông A-nan và hàng hữu-học trong Hội, lại cũng vì tất-cả chúng-sinh đời vị-lai tạo cái nhân xuất-thế, làm cái đạo-nhãn tương-lai; Ngài dùng tay sáng-ngời xoa đỉnh-đầu ông A-nan. Liền khi ấy, trong tất-cả thế-giới, chư Phật mười phương, sáu thứ rung-động; các đức Như-lai, số như vi-trần; trong các cõi ấy, mỗi Ngài đều có hào-quang báu từ nơi đỉnh-đầu phát ra; hào-quang ấy, đồng một thời từ các cõi kia đến rừng Kỳ-đà, soi nơi đỉnh-đầu của đức Như-lai; tất-cả đại-chúng đều được cái chưa từng có.

Khi bấy giờ, ông A-nan và cả đại-chúng đều nghe các đức Như-lai mười phương, số như vi-trần, tuy khác miệng, nhưng đồng một lời, bảo ông A-nan rằng: "Hay thay cho A-nan! Ông muốn biết cái câu-sinh vô-minh là cái đầu nút, khiến ông phải luân-hồi sinh tử, thì nó chính là sáu căn của ông, chứ không phải vật gì khác; ông lại muốn biết tính vô-thượng Bồ-đề, khiến ông chóng chứng đạo-quả an-vui, giải-thoát, vẳng-lặng, diệu-thường, thì cũng chính là sáu căn của ông, chứ không phải vật gì khác".


Ông A-nan, tuy được nghe pháp-âm như vậy, tâm còn chưa rõ, cúi đầu bạch Phật: "Làm sao cái khiến cho tôi bị luân-hồi, sống chết hay được an-vui, diệu-thường, cũng đều là sáu căn, chứ không phải vật gì khác?"

Phật bảo ông A-nan: "Căn và trần, đồng một nguồn, cột và cởi không phải hai, cái thức phân-biệt là luống-dối như hoa-đốm giữa hư-không. A-nan, nhân cái trần, mà phát ra cái biết của căn, nhân cái căn, mà có ra cái tướng của trần, tướng-phần sở-kiến và kiến-phần năng-kiến đều không có tự-tính, như những hình cây lau gác vào nhau.


Vậy nên nay ông chính nơi tri-kiến, lập ra tướng tri-kiến, thì tức là cỗi-gốc vô-minh; chính nơi tri-kiến, không có tướng tri-kiến, thì đó là vô-lậu chân-tịnh Niết-bàn, làm sao trong ấy lại còn có vật gì khác."


Khi bấy giờ, đức Thế-tôn muốn lặp lại nghĩa nầy mà nói bài kệ rằng:


"Nơi chân-tính hữu-vi là không,
Vì duyên-sinh, nên giống như-huyễn;
Vô-vi, thì không sinh, không diệt,
Chẳng thật như hoa-đốm hư-không.
Nói cái vọng để tỏ cái chân,
Vọng, chân ấy, cả hai đều vọng;
Còn không phải chân và phi-chân,
Làm sao có năng-kiến, sở-kiến,
Thức ở giữa, không có thật-tính,
Vậy nên, như hình lau gác nhau.
Cột và cởi đồng một sở-nhân,
Thánh và phàm không có hai đường.
Hãy xét tính hình lau gác nhau,
Đâu phải là không hay là có.
Mê-mờ nghĩa đó, là vô-minh,
Phát-minh nghĩa đó, thì giải-thoát.
Cởi nút, tuy phải theo thứ lớp,
Sáu đã cởi, một cũng không còn.
Nơi các căn, chọn tính viên-thông,
Nhập-lưu được, thì thành chánh-giác.
Thức A-đà-na rất nhỏ-nhiệm,
Tập-khí lưu-hành như nước dốc;
E lầm là chân hay phi-chân,
Nên tôi thường không diễn-giảng đến,
Tự-tâm trở-chấp lấy tự-tâm,
Không phải huyễn, thành ra pháp-huyễn.
Không chấp-trước, không gì phi-huyễn
Cả cái phi-huyễn còn không sinh,
Pháp-huyễn, làm sao thành-lập được.
Ấy gọi như-huyễn Tam-ma-đề,
Bảo-giác chắc như Kim-cương-vương,
Không nhiễm, tịnh như diệu-liên-hoa;
Gẩy ngón tay, vượt hàng vô-học;
Pháp ấy, không gì so-sánh được,
Là một đường thẳng vào Niết-bàn,
Của các đức Thế-tôn mười phương".


(Chơn tánh hữu vi không,
Duyên sanh cố như huyễn,
Vô vi vô khởi diệt,
Bất thật như không hoa.

Ngôn vọng hiển chư chơn,
Vọng chơn đồng nhị vọng,
Do phi chơn phi chơn,
Vân hà kiến sở kiến?

Trung gian vô thật tánh,
Thị cố nhược giao lô.
Kết giải đồng sở nhơn,
Thánh phàm vô nhị lộ.

Nhữ quán giao trung tánh,
Không hữu nhị cu phi,
Mê hối tức vô minh,
Phát minh tiện giải thoát.

Giải kiết nhân thứ đệ,
Lục giải nhứt diệc vong,
Căn tuyển trạch viên thông,
Nhập lưu thành chánh giác.

Đà-na vi tế thức,
Tập khí thành bộc lưu.
Chơn phi chơn khủng mê,
Ngã thường bất khai diễn.

Tự tâm thủ tự tâm,
Phi huyễn thành huyễn pháp,
Bất thủ vô phi huyễn,
Phi huyễn thượng bất sanh,

Huyễn pháp vân hà lập?
Thị danh diệu liên hoa,
Kim cang vương bảo giác.
Như huyễn tam-ma-đề,

Đờn chỉ siêu vô học.
Thử A-tì-đạt-ma,
Thập phương Bạc-già-phạm,
Nhất lộ niết-bàn môn.)

 

Lúc ấy, ông A-nan và cả đại-chúng nghe lời từ-bi dạy-bảo của Phật, kệ-tụng tinh-túy, diệu-lý trong-suốt, tâm được khai-ngộ, đồng tán-thán là pháp chưa từng có.


Ông A-nan chấp tay đỉnh-lễ bạch Phật: "Nay tôi nghe Phật mở lòng vô-giá đại-từ dạy cho những câu pháp chân-thật thanh-tịnh diệu-thường, nhưng tâm còn chưa rõ thứ lớp cởi nút, đi đến cởi cả sáu, thì một cũng không còn, xin Phật rủ lòng đại-bi thương-xót trong Hội nầy và những kẻ tương-lai, bố-thí cho pháp-âm, rửa-sạch những cấu-nhiễm trầm-trọng của chúng tôi.


Liền khi ấy đức Như-lai, nơi sư-tử-tọa, sửa áo niết-bàn-tăng, vén áo tăng-già-lê, dựa ghế thất-bảo, đưa tay nơi ghế, lấy cái khăn-hoa của cõi trời Kiếp-ba-la đã cúng cho ngài, rồi ở trước đại-chúng, cột thành một nút, đưa cho ông A-nan xem và bảo rằng: "Cái nầy gọi là gì?" Ông A-nan và đại-chúng đều bạch Phật rằng: "Cái nầy gọi là nút". Lúc ấy đức Như-lai lại cột khăn-hoa thành một nút nữa và hỏi ông A-nan: "Cái nầy gọi là gì?". Ông A-nan và đại-chúng lại bạch Phật rằng: "Cái ấy cũng gọi là nút". Phật tuần-tự cột khăn-hoa như vậy, tổng-cộng thành sáu nút, mỗi khi cột xong một nút, đều lấy cái nút vừa cột xong trong tay, đưa hỏi ông A-nan: "Cái nầy gọi là gì?" Ông A-nan và đại-chúng cũng tuần-tự đáp lại Phật: "Cái ấy gọi là nút". Phật bảo ông A-nan: "Khi tôi mới cột khăn thì ông gọi là nút, cái khăn-hoa này, trước kia chỉ có một cái, cớ sao lần thứ hai, lần thứ ba, các ông cũng gọi là nút?"

Ông A-nan bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, cái khăn-hoa thêu-dệt quý-báu nầy vốn chỉ một thể, song theo ý tôi suy-nghĩ, Như-lai cột một lần, thì được gọi là một nút, nếu cột một trăm lần, thì rốt-cuộc phải gọi là trăm nút, huống chi, khăn nầy chỉ có sáu nút, không lên đến bảy, cũng không đứng ở số năm, sao đức Như-lai chỉ cho cái đầu là nút, còn cái thứ hai, thứ ba, thì không gọi là nút?"

Phật bảo ông A-nan: "Cái khăn-hoa báu nầy, ông biết nó vốn chỉ có một cái, đến khi tôi cột sáu lần, thì ông gọi là sáu nút; ông hãy xem-xét bản-thể cái khăn nầy là đồng, nhân vì các nút mà hóa ra khác. Ý ông nghĩ sao, khi mới cột nút ban-đầu, thì gọi là nút thứ nhất, như thế, cho đến cột lần thứ sáu, thì gọi là nút thứ sáu. Nay, tôi muốn gọi nút thứ sáu là nút thứ nhất, có được không?"

Bạch Thế-tôn, không; nếu còn sáu nút, thì cái gọi là thứ sáu, rốt-cuộc không phải là cái thứ nhất; dầu cho tôi cố-gắng biện-bạch suốt đời, cũng không thể làm cho sáu nút đổi tên được".

Phật dạy: "Đúng thế, sáu nút không đồng nhau; tuy xét về bản-thân, vẫn do một cái khăn tạo ra, nhưng rốt-cuộc không thể làm cho sáu nút xáo-lộn lẫn nhau. Sáu căn của ông thì cũng như vậy; trong thể ráo-rốt đồng nhau, sinh ra rốt-ráo khác nhau".  


Phật bảo ông A-nan: "Chắc hẳn ông không muốn thành ra sáu nút và trông mong chỉ thành một thể, thì ông phải làm thế nào?".

Ông A-nan bạch: "Nếu còn những nút đó, thì thị phi sôi-nổi, trong đó, tự sinh ra nút nầy không phải nút kia, nút kia không phải nút nầy. Nếu ngày nay, đức Như-lai cởi-bỏ tất-cả, không sinh nút nữa thì, không có bỉ thử, còn không gọi là một, làm sao mà thành sáu được".

Phật dạy: "Cái nghĩa cởi cả sáu, một cũng không còn, thì cũng như thế. Do từ vô-thủy, tâm ông điên-loạn, tri-kiến vọng-phát ra, vọng-phát mãi không thôi, làm cho tri-kiến sinh bệnh, phát ra trần-tướng; như trông con mắt mỏi-mệt, thì có hoa-đốm lăng-xăng; tất-cả những tướng thế-gian, núi sông, đất liền, sống chết, Niết-bàn, không nhân gì rối-rít khởi lên, trong tính sáng-suốt yên-lặng, đều là những tướng hoa-đốm điên-đảo do bệnh mê-lầm phát-ra".


Ông A-nan bạch: "Cái bệnh mê-lầm giống như cái nút kia, làm sao cởi-bỏ cho được?"

Đức Như-lai, lấy tay cầm cái khăn có nút, kéo riêng mối bên trái, rồi hỏi ông A-nan rằng: "Thế nầy có cởi được chăng?"

Thưa Thế-tôn, không.

Phật liền lấy tay kéo riêng mối bên phải, rồi lại hỏi ông A-nan: "Thế nầy có cởi được chăng?"

Thưa Thế-tôn, không.

Phật bảo ông A-nan: "Nay tôi lấy tay kéo mối bên phải, bên trái mà rốt-cuộc không cởi được, vậy ông dùng phương-tiện thế nào mà cởi cho được".


Ông A-nan bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, nên mở nơi trung-tâm cái nút thì tan-rã ngay".

Phật bảo ông A-nan: "Đúng thế, đúng thế, muốn trừ cái nút thì phải cởi nơi trung-tâm.

A-nan, tôi nói Phật-pháp do nhân-duyên sinh, không phải lấy những tướng hòa-hợp thô-phù của thế-gian. Như-lai phát-minh các pháp thế-gian và xuất-thế-gian, đều biết rõ bản-nhân của nó theo những duyên gì mà phát ra, cho đến một giọt mưa ở ngoài hằng-sa thế-giới cũng biết số-mục, hiện-tiền các thứ cây tùng thẳng, cây gai cong, chim hộc trắng, chim quạ đen, đều rõ nguyên-do. Vậy nên A-nan, tùy tâm ông lựa-chọn nơi sáu căn; nếu trừ được cái nút nơi căn ấy rồi, thì trần-tướng tự tiêu-diệt; các vọng đã tiêu-mất, thì chả phải chân là gì.


"A-nan, nay tôi lại hỏi ông: "Cái khăn-hoa nầy hiện có sáu nút, nếu đồng một thời cởi ra, thì có thể đồng một thời trừ hết được chăng?"

-Thưa Thế-tôn, không. Những cái nút nầy, khi cột lại, vốn có thứ lớp, thì ngày nay cũng theo thứ lớp mà cởi; sáu cái nút tuy đồng một thể, nhưng cột lại không đồng một thời, thì khi cởi nút, làm sao đồng một thời, mà trừ hết được?

Phật dạy: "Việc cởi-trừ cái nút nơi sáu căn cũng giống như vậy. Căn ấy khi bắt đầu cởi ra, thì trước hết được nhân-không, đến khi tính-không viên-mãn sáng-suốt, thì giải-thoát pháp-chấp. Pháp-chấp được giải-thoát rồi, cả cái nhân-không và pháp-không cũng không còn; thế thì gọi là Bồ-tát do Tam-ma-đề mà chứng được vô-sinh-nhẫn".



TRÌNH-BÀY CHỖ NGỘ, 

XIN CHỈ-DẠY CĂN-TÍNH VIÊN-THÔNG


Ông A-nan và cả đại-chúng, nhờ Phật khai-thị, tuệ-nhãn được viên-dung, thông-suốt, không còn điều gì nghi-hoặc, đồng-thời chấp tay, đỉnh-lễ nơi hai chân mà bạch Phật rằng: "Ngày nay, chúng tôi thân tâm sáng-suốt, chóng được vô-ngại; song tuy ngộ được cái nghĩa một và sáu đều không còn, nhưng còn chưa rõ căn-tính bản-lai viên-thông. Thưa Thế-tôn, chúng tôi xiêu-giạt bơ-vơ nhiều kiếp, ngờ đâu lại được dự vào dòng giống của Phật, như đứa con mất sữa, bổng-nhiên gặp được từ-mẫu. Nếu nhân cơ-hội nầy mà được thành-đạo, chỗ bản-ngộ phù-hợp với đạo-lý vi-diệu đã được nghe, thì cùng với những người chưa nghe, không có sai-khác. Xin Phật rủ lòng đại-bi ban cho chúng tôi những pháp bí-mật trang-nghiêm; thành-tựu lời chỉ-dạy cuối-cùng của Như-lai." Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, lui về an-trụ nơi cơ-cảm sâu-nhiệm, trông mong Phật tâm-truyền cho.

Khi bấy giờ, đức Thế-tôn bảo khắp các vị Đại-bồ-tát và các vị lậu-tận Đại-a-la-hán trong chúng rằng: "Các ông là những vị Bồ-tát và A-la-hán sinh-trưởng trong Phật-Pháp, đã chứng-quả vô-học, nay tôi hỏi các ông: Trong lúc ban-đầu mới phát-tâm, trong thập-bát-giới, ngộ được viên-thông ở giới nào và do phương-tiện gì được Tam-ma-đề?"


[1]

VIÊN-THÔNG VỀ THANH-TRẦN


Bọn ông Kiều-trần-na, năm vị tỷ-khưu, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Ở Lộc-uyển và ở Kê-viên, chúng tôi được xem thấy đức Như-lai khi mới thành-đạo. Chúng tôi do tiếng nói của Phật, tỏ-ngộ được Tứ-đế. Phật hỏi trong hàng tỷ-khưu, thì trước tiên tôi thưa đã hiểu. Như-lai ấn-chứng cho tôi cái tên là A-nhã-đa. Đi sâu vào bản-tính nhiệm-mầu, thì âm-thanh thật là viên-dung; tôi do âm-thanh mà được quả A-la-hán. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì do âm-thanh là hơn cả".


[2]

VIÊN-THÔNG VỀ SẮC-TRẦN


Ông Ưu-ba-ni-sa-đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi cũng được thấy Phật trong lúc mới thành-đạo; tôi quán-tưởng bất-tịnh, sinh lòng nhàm-chán rời-bỏ tột bậc, ngộ cái tính của các sắc, từ tướng bất-tịnh đến tướng xương-trắng, tướng vi-trần, rồi tan về hư-không; cả hai cái không và cái sắc đều không, thành-đạo vô-học. Đức Như-lai ấn-chứng cho tôi cái tên là Ni-sa-đà; sắc của trần-cảnh đã hết, sắc của tính-diệu được mật-viên. Tôi do sắc-tướng mà chứng-quả A-la-hán. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì do sắc-trần là hơn cả".


[3]

VIÊN-THÔNG VỀ HƯƠNG-TRẦN


Ông Hương-nghiêm-đồng-tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng : "Tôi nghe đức Như-lai dạy tôi quan-sát chín-chắn các tướng hữu-vi. Khi ấy tôi từ-giả Phật, đầu-hôm về tĩnh-tọa trong nhà thanh-trai, thấy các tỷ-khưu đốt hương trầm-thủy, hơi hương vẳng-lặng bay vào trong mũi tôi. Tôi quán cái hơi ấy, không phải là cây, không phải là không, không phải là khói, không phải là lửa, đi ra không dính vào đâu, đến nơi cũng không do đâu; do đó, ý-niệm phân-biệt tiêu-diệt, phát-minh tính vô-lậu. Đức Như-lai ấn-chứng cho tôi cái hiệu là Hương-nghiêm. Tướng hương tiền-trần bổng diệt, thì diệu-tính của hương là mật-viên. Tôi do hương-nghiêm mà chứng-quả A-la-hán. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì do hương-trần là hơn cả".


[4]

VIÊN THÔNG VỀ VỊ TRẦN


Hai vị Pháp-vương-tử Dược-vương, Dược-thượng, cùng với năm trăm Phạm-thiên trong Hội, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Từ kiếp vô-thủy, chúng tôi làm lương-y thế-gian, trong miệng thường nếm những cỏ cây, kim thạch trong thế-giới Sa-bà nầy, số-mục lên đến mười vạn tám nghìn, biết hết các vị đắng, chua, mặn, nhạt, ngọt, cay vân vân..., cùng với các vị biến-đổi, do các vị kia hòa-hợp cùng sinh ra; thứ nào là lạnh, thứ nào là nóng, thứ nào có độc, thứ nào không độc, tôi đều biết cả. Được thừa-sự các đức Như-lai, rõ-biết bản-tính của vị-trần, không phải không, không phải có, không phải tức là thân tâm, không phải thoát-ly thân tâm; do phân-biệt đúng bản-tính vị-trần mà được khai-ngộ. Nhờ Phật ấn-chứng cho anh em chúng tôi cái danh-hiệu là Dược-vương và Dược-thượng Bồ-tát; nay ở trong Hội nầy làm vị Pháp-vương-tử. Chúng tôi nhân vi-trần mà giác-ngộ, lên bậc Bồ-tát. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của chúng tôi, thì do vị-trần là hơn cả".


[5]

VIÊN-THÔNG VỀ XÚC-TRẦN


Ông Bạt-đà-bà-la, với mười sáu vị Khai-sĩ đồng-bạn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Bọn tôi, trước kia nơi đức Phật Uy-âm-vương, nghe Pháp xuất-gia. Trong lúc chư tăng tắm, tôi theo thứ lớp vào phòng tắm; bỗng nhiên ngộ được chân-tính của nước, đã không rửa bụi, cũng không rửa mình, chặng giửa yên-lặng, được chỗ không có gì. Túc-tập không quên, nên đến ngày nay theo Phật xuất-gia, được thành quả vô-học. Đức Phật kia, gọi tôi tên là Bạt-đà-bà-la. Do phát-minh diệu-tính của xúc-trần, thành được bậc Phật-tử-trụ. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì do xúc-trần là hơn cả."


[6]

VIÊN-THÔNG VỀ PHÁP-TRẦN


Ông Ma-ha-ca-diếp và bà Tử-Kim-quang tỷ-khưu-ny, vân vân... liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Kiếp xưa, trong cõi nầy, có đức Phật ra đời, tên là Nhựt-nguyệt-đăng diệt-độ rồi, chúng tôi thắp đèn sáng mãi cúng-dàng xá-lợi, lại lấy vàng-thắm thếp hình-tượng Phật. Từ đó đến nay, đời nào đời nào, thân-thể thường viên-mãn, sáng-ngời như vàng-thắm. Bọn Tử-kim-quang tỷ-khưu-ny nầy, tức là quyến-thuộc của tôi lúc đó, cũng đồng một thời phát-tâm như tôi. Tôi quán trong thế-gian, sáu trần đều dời-đổi tan-nát, chí dùng pháp không-tịch, tu định diệt-tận, thì thân tâm mới có thể trải qua trăm nghìn kiếp như một thời-gian gẩy ngón tay. Tôi do quán được các pháp là rỗng-không, mà thành quả A-la-hán. Đức Thế-tôn bảo tôi tu hạnh đầu-đà bậc nhất. Diệu-tính của các pháp được khai-ngộ, thì tiêu-diệt các lậu. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì do pháp-trần là hơn cả."


[7]

VIÊN-THÔNG VỀ NHÃN-CĂN


Ông A-na-luật-đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Lúc tôi mới xuất-gia, thường thích  nằm ngủ, nên đức Như-lai quở tôi là loài súc-sinh. Nghe lời Phật quở, tôi khóc-lóc tự-trách, suốt bảy ngày không ngủ, hư cả hai con mắt. Đức Thế-tôn dạy tôi tu pháp "Lạc-kiến chiếu-minh kim-cương tam-muội". Tôi không do con mắt, xem thấy mười phương rỗng-suốt tinh-tường như xem cái quả trong bàn tay; đức Như-lai ấn-chứng cho tôi thành quả A-la-hán. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì xoay cái thấy trở về bản-tính, đó là thứ nhất".


[8]

VIÊN-THÔNG VỀ TỶ-CĂN


Ông Chu-lỵ-bàn-đặc-ca liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi thiếu tụng-trì, không có tuệ đa-văn. Khi mới gặp Phật, nghe Pháp và xuất-gia, tôi cố nhớ một câu kệ của Như-lai, song trong một trăm ngày, hễ nhớ trước thì quên sau, mà nhớ sau thì quên trước. Phật thương tôi ngu-muội, dạy tôi phép an-cư, điều-hòa hơi-thở ra vào. Tôi quán hơi-thở, cùng-tột các tướng sinh, trụ, dị, diệt nhỏ-nhiệm, đến từng sát-na; tâm tôi rỗng-suốt, được đại-vô-ngại, cho đến hết các lậu, thành quả A-la-hán, trước pháp-tọa của Phật, được ấn-chứng thành quả vô-học. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì xoay hơi-thở về tính rỗng không, đó là thứ nhất."


[9]

VIÊN-THÔNG VỀ THIỆT-CĂN


Ông Kiều-phạm-bát-đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi mắc khẩu-nghiệp, khinh-rẻ, chế-giễu vị sa-môn trong kiếp quá-khứ, nên đời đời mắc bệnh nhai lại như trâu. Đức Như-lai chỉ-dạy cho tôi pháp-môn "Nhất-vị thanh-tịnh tâm-địa". Tôi nhờ vậy, mà diệt được phân-biệt vào Tam-ma-đề; tôi quán tính-biết-vị, không phải thân-thể, không phải ngoại-vật, liền đó vượt khỏi các lậu thế-gian, bên trong giải-thoát thân tâm, bên ngoài rời-bỏ thế-giới, xa-rời ba cỏi như chim sổ lồng, rời hết cấu-nhiễm, tiêu-diệt trần-tướng, nên pháp-nhãn được thanh-tịnh, thành quả A-la-hán. Đức Như-lai ấn-chứng cho tôi lên bậc vô-học. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, trả các vị về phân-biệt, xoay cái biết về tự-tính, đó là thứ nhất."


[10]

VIÊN-THÔNG VỀ THÂN-CĂN


Ông Tất-lăng-già-bà-ta liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi lúc mới phát-tâm theo Phật nhập-đạo, thường nghe đức Như-lai dạy về những việc không vui được trong thế-gian. Lúc đi khất-thực trong thành, tâm tôi đang suy-nghĩ pháp-môn Phật dạy, giữa đường, không ngờ bị gai-độc đâm vào chân, cả mình đau-đớn. Tâm-niệm tôi có biết cái đau-đớn ấy; tuy biết đau-đớn nhưng đồng-thời giác-biết nơi tâm thanh-tịnh, không có cái đau và cái biết đau. Tôi lại suy-nghĩ: Một thân-thể này, lẽ đâu có hai tính-biết; nhiếp-niệm chưa bao lâu, thì thân tâm bỗng-nhiên rỗng-không; trong ba lần bảy ngày, các lậu đều tiêu hết, thành quả A-la-hán; được Phật ấn-chứng lên bậc vô-học. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì thuần một giác-tính, rời-bỏ thân-thể, đó là thứ nhất."


[11]

VIÊN-THÔNG VỀ Ý-CĂN


Ông Tu-bồ-đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lể nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Từ nhiều kiếp đến nay, tâm tôi được vô-ngại, tự nhớ thụ-sinh nhiều đời như số cát sông Hằng; lúc còn trong thai mẹ, cũng liền biết tính không-tịch, như thế cho đến mười phương đều thành rỗng-không và cũng khiến cho chúng-sinh chứng được tính-không; nhờ đức Như-lai phát-minh tính-giác là chân-không, nên tính-không được viên-mãn sáng-suốt, chứng quả A-la-hán, liền vào bảo-minh-không-hải của Như-lai, tri-kiến đồng như Phật, được ấn-chứng thành quả vô-học; tính giải-thoát rỗng-không, tôi là hơn cả. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi: Các tướng đều xoay vào phi-tướng, năng-phi và sở-phi đều hết, xoay các pháp trở về chỗ không có gì, đó là thứ nhất."


[12]

VIÊN-THÔNG VỀ NHÃN-THỨC


Ông Xá-lỵ-phất liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Từ nhiều kiếp đến nay, chỗ nhận-thấy của tôi được thanh-tịnh; tuy tôi thụ-sinh nhiều đời như số cát sông Hằng như vậy, mà đối với các pháp biến-hóa thế-gian và xuất-thế-gian, hễ thấy được đều thông-suốt, không có ngăn-ngại. Tôi ở giữa đường, gặp anh em ông Ca-diếp-ba theo rõi, nói pháp nhân-duyên, thì ngộ được tâm không có bờ-bến. Tôi theo Phật xuất-gia, chỗ nhận-thấy sáng-suốt viên-mãn, được pháp đại-vô-úy, thành quả A-la-hán, làm trưởng-tử của Phật, từ miệng Phật mà sinh ra, do Pháp-Phật mà hóa-sinh. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì tính-thấy của tâm-thể phát ra sáng-suốt, cùng-tột các tri-kiến, đó là thứ nhất."


[13]

VIÊN-THÔNG VỀ NHĨ-THỨC


Ngài Phổ-hiền Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi đã từng làm Pháp-vương-tử cho các đức Như-lai như số cát sông Hằng; thập phương Như-lai dạy các đệ-tử có căn-cơ Bồ-tát, tu hạnh Phổ-hiền, hạnh đó, do tôi mà đặt tên như vậy. Thưa đức Thế-tôn, tôi dùng tính-nghe của tâm-thể phân-biệt tất-cả tri-kiến của chúng-sinh. Nếu ở phương khác, cách ngoài hằng-sa thế-giới, có một chúng-sinh, trong tâm phát được hạnh-nguyện Phổ-hiền, thì liền trong lúc ấy, tôi cưỡi voi sáu ngà, phân-thân thành trăm nghìn, đến chỗ người ấy. Dầu cho người ấy nghiệp-chướng còn sâu, chưa thấy được tôi, tôi cũng thầm-kín xoa đỉnh-đầu người ấy, ủng-hộ an-ủi, khiến cho được thành-tựu. Phật hỏi về viên-thông, tôi nói chỗ bản-nhân của tôi là phát-minh tính-nghe của tâm-thể, phân-biệt được tự-tại, đó là thứ nhất."


[14]

VIÊN-THÔNG VỀ TỶ-THỨC


Ông Tôn-đà-la-nan-đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Lúc tôi mới xuất-gia theo Phật nhập-đạo, tuy giữ đủ giới-luật, nhưng trong lúc tu Tam-ma-đề, tâm thường tán-loạn, chưa được quả vô-lậu. Đức Thế-tôn dạy tôi và ông Câu-si-la quán đầu lỗ-mũi-trắng. Lúc tôi bắt đầu tu quán ấy, trải qua ba lần bảy ngày, thấy hơi-thở trong mũi ra vào như khói, thân tâm bên trong sáng-soi thông-suốt thế-giới, khắp nơi thành trống-không thanh-tịnh, như ngọc lưu-ly; tướng khói lần lần tiêu mất, hơi-thở hóa thành trắng, đến khi tâm được khai-ngộ, các lậu hết sạch, thì  những hơi-thở ra vào hóa-thành hào-quang, soi khắp thập phương thế-giới, được quả A-la-hán. Đức Thế-tôn thụ-ký cho tôi sẽ được quả Bồ-đề. Phật hỏi về viên-thông, tôi dùng phép nhiếp-thu ý-niệm nơi hơi-thở, yên-lặng lâu ngày, phát ra sáng-suốt, sáng-suốt viên-mãn, diệt hết các lậu, đó là thứ nhất."


[15]

VIÊN-THÔNG VỀ THIỆT-THỨC


Ông Phú-lâu-na-di-đa-la-ni-tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi từ nhiều kiếp đến nay, tài biện-thuyết được vô-ngại, tuyên-dương các pháp Khổ, Không, thấu-suốt tướng chân-thật, như thế cho đến các pháp-môn bí-mật hằng-sa Như-lai, tôi phương-tiện chỉ-bày trong chúng, được sức vô-úy. Đức Thế-tôn biết tôi có tài biện-thuyết lớn-lao, nên dùng pháp-luân âm-thanh, dạy tôi tuyên-dương Chính-pháp. Tôi ở trước Phật, giúp Phật chuyển pháp-luân, nhân nói Chính-pháp, thành quả A-la-hán. Đức Thế-tôn ấn-chứng cho tôi thuyết-pháp hơn cả. Phật hỏi về viên-thông, tôi dùng pháp-âm hàng-phục tà-ma ngoại-đạo, tiêu-diệt các lậu, đó là thứ nhất."


[16]

VIÊN-THÔNG VỀ THÂN-THỨC


Ông Ưu-ba-ly liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Chính tôi được theo Phật vượt thành xuất-gia, xem thấy đức Như-lai sáu năm siêng-tu khổ-hạnh, thấy đức Như-lai hàng-phục bọn tà ma, đối-trị các ngoại-đạo, giải-thoát các lậu tham-dục thế-gian; tôi được nhờ Phật dạy giữ giới, cho đến ba nghìn uy-nghi, tám vạn hạnh vi-tế, các tính-nghiệp và giá-nghiệp thảy đều thanh-tịnh; do đó, thân tâm được tịch-diệt, thành quả A-la-hán, nay làm vị cương-kỷ trong chúng của Như-lai; Phật ấn-chứng cho tôi giữ giới tu-thân hơn cả trong chúng. Phật hỏi viên-thông, tôi do chấp-trì cái thân mà thân được tự-tại, lần đến chấp-trì cái tâm mà tâm được thông-suốt, về sau cả thân và tâm tất-cả đều viên-thông, tự-tại, đó là thứ nhất."


[17]

VIÊN-THÔNG VỀ Ý-THỨC


Ông Đại-mục-kiền-liên liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Lúc trước tôi khất-thực giữa đường, gặp ba anh em họ Ca-diếp-ba là ông Ưu-lâu-tần-loa, ông Già-gia và ông Na-đề, giảng-nói nghĩa-lý nhân-duyên sâu-xa của Như-lai; tôi liền phát-tâm, được rất thông-suốt; Như-lai ban cho áo ca-sa đắp trên mình, râu tóc tự rụng. Tôi đi khắp mười phương được không ngăn-ngại, phát-minh thần-thông, được trong chúng suy-tôn là vô-thượng, thành quả A-la-hán. Không những riêng đức Thế-tôn, mà thập phương Như-lai đều khen sức thần-thông của tôi thanh-tịnh tròn-sáng, tự-tại không e-sợ, Phật hỏi về viên-thông, tôi do xoay ý-niệm trở về tính  viên-trạm nên tâm-trí mở-bày, như lắng nước đục, lâu thành trong-sáng, đó là thứ nhất."


[18]

VIÊN-THÔNG VỀ HỎA-ĐẠI


Ông Ô-xô-sắt-ma, ở trước đức Như-lai, chấp tay đỉnh-lễ nơi hai chân Phật mà bạch Phật rằng: " Tôi thường nhớ trước kia, trong kiếp xa-xôi, tính có nhiều  tham-dục; lúc ấy, có đức Phật ra đời hiệu là Không-vương, bảo người đa-dâm như đống lửa hồng và dạy tôi quán khắp những hơi nóng lạnh nơi trăm vóc tứ-chi; tôi nhờ quán như vậy, mà được giác-tính sáng-suốt lặng-đứng bên trong, hoá tâm đa-dâm thành lửa trí-tuệ. Từ ấy, các đức Phật đều gọi tên tôi là Hỏa-đầu. Tôi dùng sức hỏa-quang-tam-muội mà thành quả A-la-hán; trong tâm phát đại-nguyện, khi các đức Phật thành-đạo, thì làm lực-sĩ, thân ở bên Phật, uốn-dẹp bọn tà-ma quấy-phá. Phật hỏi về viên-thông, tôi dùng pháp quán các hơi-ấm nơi thân tâm đều lưu-thông không ngăn-ngại; các lậu đã tiêu, sinh ra ngọn lửa đại-trí quý-báu, lên bậc vô-thượng-giác, đó là thứ nhất."


[19]

VIÊN-THÔNG VỀ ĐỊA-ĐẠI


Ngài Trì-địa Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi nhớ kiếp xưa, khi đức Phật Phổ-quang ra đời, tôi làm tỷ-khưu, thường ở nơi các nẻo đường bến đò, đất-đai hiểm-trở eo-hẹp, không đúng nguyên-tắc, có thể làm tổn-hại đến xe ngựa, thì tôi đều đắp bằng, hoặc làm cầu-cống, hoặc gánh đất cát; siêng-năng khó-nhọc như vậy trong suốt thời-gian vô-lượng Phật ra đời. Hoặc có chúng-sinh, ở nơi chợ-búa, cần người mang đồ-vật, trước tiên tôi mang hộ đến nơi, đến chốn, để đồ-vật xuống, liền đi ngay, không lấy tiền-thuê.

Khi đức Phật Tỳ-xá-phù ra đời, thế-gian phần nhiều đói-kém; tôi cõng giúp người, không kể gần xa, chỉ lấy một đồng tiền; hoặc có xe trâu sa xuống bùn-lầy, tôi dùng sức-mạnh đẩy bánh xe lên cho khỏi khổ-não. Ông vua trong nước thuở đó thết-trai mời Phật; lúc ấy, tôi liền sửa-sang đường đất bằng-phẳng, đợi Phật đi qua. Đức Tỳ-xá Như-lai xoa đỉnh-đầu tôi mà bảo rằng: "Nên bình cái tâm-địa, thì tất-cả đất-đai trên thế-giới đều bình". Tôi liền khai-ngộ, thấy vi-trần nơi  thân-thể cùng với tất-cả vi-trần tạo-thành thế-giới đều bình-đẳng không sai khác, tự-tính của vi-trần không chạm-xát nhau, cho đến các thứ đao-binh cũng không đụng-chạm gì; tôi do nơi pháp-tính ngộ được vô-sinh-nhẫn, thành quả A-la-hán, xoay tâm về đại-thừa, nên hiện nay, ở trong hàng Bồ-tát; khi nghe các đức Như-lai dạy về chổ tri-kiến của Phật như Diệu-liên-hoa, thì tôi chứng-tỏ đầu-tiên, làm vị thượng-thủ. Phật hỏi về viên-thông, do tôi quán-kỹ hai thứ trần nơi căn-thân và khí-giới đều bình-đẳng không sai khác, vốn là Như-lai-tạng giả-dối phát ra trần-tướng; trần-tướng đã tiêu-diệt, thì trí-tuệ được viên-mãn, thành-đạo vô-thượng, đó là thứ nhất."


[20]

VIÊN-THÔNG VỀ THỦY-ĐẠI


Ngài Nguyệt-quang-đồng-tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi nhớ hằng-sa kiếp về trước, có đức Phật ra đời, hiệu là Thủy-thiên, dạy hàng Bồ-tát tu-tập phép quán-thủy để vào Tam-ma-đề; nghĩa là quán ở trong thân, tính nước không gì ngăn-ngại, quán từ nước-mũi, nước-bọt cho đến tất-cả các thứ tân, dịch tinh, huyết, đại-tiện, tiểu-tiện; xoay-vần trong thân đều đồng một tính nước, quán thấy nước trong thân cùng nước các bể hương-thủy của Phù-tràng-vương-sát ở ngoài thế-giới, đều bình-đẳng không sai khác.

Tôi trong lúc ấy, mới thành-tựu phép quán nầy, chỉ thấy được nước, chưa được không có thân; lúc đang làm tỷ-khưu, tọa-thiền trong phòng, tôi có người đệ-tử dòm cửa sổ trông vào phòng chỉ thấy nước trong, đầy khắp trong phòng, chứ không có gì; nó nhỏ-dại không biết, liền lấy một miếng ngói ném vào trong nước, đập vào nước phát ra tiếng, ngó quanh rồi bỏ đi; về sau, tôi xuất-định, liền thấy đau tim như ông Xá-lỵ-phất bị con quỷ Vi-hại đập. Tôi tự suy-nghĩ: Nay tôi đã được đạo A-la-hán, đã lâu không còn nhân-duyên mắc bệnh được nữa, làm sao ngày nay lại sinh ra đau tim, không lẽ đã bị thoái-thất rồi chăng? Khi bấy giờ, đệ-tử của tôi đi đến, kể lại cho tôi những việc như trước, tôi mới bảo nó, sau nầy, nếu lại thấy nước, thì nên mở cửa, vào lấy viên ngói trong nước ấy đi. Đệ-tử vâng-lời tôi bảo; về sau, khi tôi nhập-định, nó lại thấy nước với viên ngói rõ-ràng, nó liền mở cửa, lấy viên ngói ra. Sau đó, tôi xuất-định, thì thân-thể lại được như cũ.

Tôi đã gặp được vô-lượng Phật, đến đức Sơn-hải-tự-tại-thông-vương Như-lai, thì tôi mới được không còn thân riêng và cùng với nước bể hương-thủy thập phương thế-giới, đồng một tính chân-không, không hai không khác; hiện nay, ở nơi đức Như-lai, được danh-hiệu là Đồng-chân, dự Hội Bồ-tát. Phật hỏi về viên-thông, tôi do quán tính nước một mực lưu-thông, được phép vô-sinh-nhẫn, viên-mãn đạo Bồ-đề, đó là thứ nhất."


[21]

VIÊN-THÔNG VỀ PHONG-ĐẠI


Ngài Lưu-ly-quang Pháp-vương-tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi nhớ hằng-sa kiếp về trước, có đức Phật ra đời, hiệu là Vô-lượng-thanh; ngài khai-thị tính bản-giác diệu-minh cho các hàng Bồ-tát và dạy quán thế-giới và thân chúng-sinh nầy đều do sức lay-động của vọng-duyên chuyển-biến ra. Tôi lúc bấy giờ, quán cái không-gian an-lập, quán cái thời-gian thiên-lưu, quán cái thân-thể khi động, khi yên, quán cái thức-tâm niệm-niệm sinh-diệt, tất-cả đều lay-động như-nhau, bình-đẳng không sai khác. Khi bấy giờ, tôi giác-ngộ cái tính các thứ động ấy, đến không do đâu, đi không tới đâu; tất-cả chúng-sinh điên-đảo, số như vi-trần trong mười phương đều đồng một hư-vọng; như vậy, cho đến tất-cả chúng-sinh trong một tam-thiên đại-thiên thế-giới, cũng như hàng trăm loài muỗi-mạt đựng trong một đồ-đựng, vo-vo kêu-ầm, ở trong gang-tấc, ồn-ào rối-rít. Tôi gặp Phật chưa bao lâu, thì được pháp vô-sinh-nhẫn; khi bấy giờ, tâm đã khai-ngộ, mới thấy cõi Phật Bất-động phương Đông, làm vị Pháp-vương-tử. Tôi thừa-sự thập phương Phật, thân tâm phát ra sáng-suốt, rỗng-thấu không ngăn-ngại. Phật hỏi về viên-thông, tôi do quan-sát sức lay-động không nương vào đâu, ngộ được tâm Bồ-đề, vào được Tam-ma-địa, hợp với nhất-diệu-tâm mà thập phương Phật truyền-dạy, đó là thứ nhất".


[22]

VIÊN-THÔNG VỀ KHÔNG-ĐẠI


Ngài Hư-không-tạng-Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi cùng đức Như-lai chứng được thân vô-biên nơi đức Phật Định-quang; lúc ấy, tay tôi cầm bốn hạt-châu-báu lớn, soi-tỏ cõi Phật thập phương số như vi-trần, đều hóa-thành hư-không; lại ở nơi tự-tâm hiện ra trí đại-viên-kính, trong ấy phóng ra mười thứ hào-quang, vi-diệu quý-báu, soi khắp các Phù-tràng-vương-sát cùng-tột hư-không mười phương, đều vào trong viên-kính ấy, nhập với thân tôi và thân tôi đồng như hư-không, không có ngăn-ngại lẫn nhau, thân tôi lại khéo vào vi-trần quốc-độ, rộng làm việc Phật, được đại-tuỳ-thuận. Thần-lực lớn đó là do tôi quán-kỹ tứ-đại không nương vào đâu, do vọng-tưởng mà có sinh-diệt, hư-không không có hai và cõi Phật vốn là đồng, do phát-minh được tính-đồng mà chứng vô-sinh-nhẫn. Phật hỏi về viên-thông, tôi quán hư-không không bờ-bến; vào Tam-ma-đề, diệu-lực viên-mãn sáng-suốt, đó là thứ nhất".


[23]

VIÊN-THÔNG VỀ THỨC-ĐẠI


Ngài Di-Lặc Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi nhớ vi-trần-kiếp về trước, có đức Phật ra đời tên là Nhật-nguyệt-đăng-minh; tôi được xuất-gia theo đức Phật kia, nhưng tâm còn trọng hư-danh thế-gian, ưa giao-du với các vọng-tộc. Lúc ấy đức Thế-tôn dạy tôi tu-tập định duy-tâm-thức, tôi được vào Tam-ma-đề; trải qua nhiều kiếp đến nay, dùng pháp Tam-muội ấy phụng-sự hằng-sa Phật, tâm cầu hư-danh thế-gian diệt hết không còn. Đến khi đức Phật Nhiên-đăng ra đời, tôi mới được thành-tựu Vô-thượng-diệu-viên-thức-tâm-tam-muội. Tất-cả cõi nước Như-lai tột bờ-bến hư-không, cho đến những điều tịnh, uế, có, không, đều do tâm tôi biến-hóa hiện ra. Bạch Thế-tôn, do tôi rõ được tính duy-tâm-thức như vậy, nên nơi thức-tính, xuất-hiện vô-lượng Như-lai và hiện nay, tôi được thụ-ký, liền sau đây, bổ-xứ  thành Phật nơi cõi này. Phật hỏi về  viên-thông, tôi dùng phép quán mười phương đều duy-thức, thức-tâm được tròn-sáng, chứng-nhập tính viên-thành-thật, xa-rời tính y-tha-khởi và tính biến-kế-chấp, được pháp vô-sinh-nhẫn, đó là thứ nhất".


[24]

VIÊN-THÔNG VỀ KIẾN-ĐẠI


Ngài Đại-thế-chí Pháp-vương-tử cùng với năm mươi hai vị Bồ-tát đồng-tu một pháp-môn, liền từ chổ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi nhớ hằng-sa kiếp trước, có đức Phật ra đời, tên là Vô-lượng-quang; lúc ấy mười hai đức Như-lai kế nhau thành Phật trong một kiếp đức Phật sau hết, hiệu là Siêu-nhật-nguyệt-quang, dạy cho tôi phép Niệm-Phật-tam-muội. Ví-như có người, một đằng chuyên nhớ, một đằng chuyên quên, thì hai người ấy, dầu gặp cũng không là gặp, dầu thấy cũng là không thấy; nếu cả hai người đều nhớ nhau, hai bên nhớ mãi, khắc sâu vào tâm-niệm, thì đồng như hình với bóng, cho đến từ đời nầy sang đời khác, không bao-giờ cách-xa nhau. Thập-phương Như-lai thương-tưởng chúng-sinh như mẹ nhớ con, nếu con trốn-tránh, thì tuy nhớ, nào có ích gì; nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì đời đời mẹ con không cách-xa nhau. Nếu tâm chúng-sinh nhớ Phật, tưởng Phật, thì hiện nay hay về sau, nhất-định thấy Phật; cách Phật không xa thì không cần phương-tiện, tâm tự được khai-ngộ như người ướp-hương thì thân-thể có  mùi thơm, ấy gọi là hương-quang-trang-nghiêm. Bản-nhân của tôi là dùng tâm niệm Phật mà vào pháp vô-sinh-nhẫn, nay ở cõi nầy tiếp-dẫn những người niệm Phật về cõi Tịnh-độ. Phật hỏi về viên-thông, tôi thu-nhiếp tất-cả sáu căn, không có lựa-chọn, tịnh-niệm kế-tiếp, được vào Tam-ma-đề, đó là thứ nhất."



KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

QUYỂN VI

Comments

Popular posts from this blog