KINH
THỦ LĂNG NGHIÊM
QUYỂN
VIII
MỤC LỤC
I. BA TIỆM THỨ TU TẬP
II. AN LẬP CÁC THÁNH VỊ
III. CHỈ DẠY TÊN KINH
IV. THÀNH BẢY LOÀI CHÚNG SANH
I. BA TIỆM THỨ TU TẬP
"A-nan, như thế, chúng-sinh trong mỗi mỗi loài, cũng đều đủ hết 12 thứ điên-đảo. Cũng như dụi con mắt, thì hoa-đốm đủ thứ phát-sinh ra, chân-tâm diệu-viên trong-sạch sáng-suốt mà điên-đảo, thì đầy-đủ những tư-tưởng càn-loạn giả-dối như vậy. Nay, ông tu-chứng Tam-ma-đề của Phật, thì đối với những tư-tưởng càn-loạn, làm nguyên-nhân cỗi-gốc của các điên-đảo, nên lập ra ba tiệm-thứ mới trừ-diệt được, cũng như, trong khí-mãnh trong-sạch, trừ-bỏ mật-độc, dùng nước nóng và các thứ chất tro, chất thơm rửa-sạch khí-mãnh rồi, về sau, mới đựng nước cam-lộ.
"Thế nào gọi là ba tiệm-thứ? Một là tu-tập, trừ các trợ-nhân; hai là chân-tu, nạo-sạch chính-tính; ba là tăng-tiến, trái lại hiện-nghiệp.
Thế nào là trợ-nhân? A-nan, 12 loài chúng-sinh đó trong thế-giới, không thể tự-toàn, phải nương theo bốn cách ăn mà an-trụ, nghĩa là, nương theo đoạn-thực, xúc-thực, tư-thực và thức-thực; vậy nên Phật bảo tất-cả chúng-sinh, đều nương với cái ăn mà an-trụ. A-nan, tất-cả chúng-sinh, ăn thức lành thì sống, ăn thức độc thì chết; vậy, các chúng-sinh, cầu Tam-ma-đề, nên dứt-bỏ năm thứ rau-cay trong thế-gian. Năm thứ rau-cay nầy, ăn chín, thì phát lòng-dâm, ăn sống, thì thêm lòng-giận. Những người ăn rau-cay đó, trên thế-giới, dù biết giảng nói 12 bộ kinh, thiên-tiên 10 phương, hiềm vì nó hôi-nhớp, đều tránh xa cả; các loài ngạ-quỷ, vân vân... nhân trong lúc người kia ăn rau-cay, liếm môi-mép của người đó; người ấy thường ở với quỷ một chổ, phúc-đức ngày càng tiêu, hằng-lâu không được lợi-ích. Người ăn rau-cay đó, tu phép Tam-ma-đề, Bồ-tát, Thiên-tiên, Thiện-thần thập phương không đến giữ-gìn ủng-hộ; Đại-lực Ma-vương được phương-tiện đó, hiện ra thân Phật, đến thuyết-pháp cho người kia, chê-phá cấm-giới, tán-thán dâm-dục, nóng-giận, si-mê; đến khi mệnh-chung, tự mình người ấy làm quyến-thuộc của Ma-vương; khi hưởng-thụ phúc ma hết rồi, thì đọa vào ngục Vô-gián. A-nan, người tu đạo Bồ-đề, phải đoạn-hẳn năm thứ rau-cay; ấy gọi là tiệm-thứ tu-hành tăng-tiến thứ nhất.
Thế nào là chính-tính? A-nan, chúng-sinh như vậy vào Tam-ma-đề, cốt-yếu trước hết, phải nghiêm-chỉnh giữ giới thanh-tịnh, đoạn-hẳn lòng dâm, không dùng rượu thịt, chỉ ăn đồ-ăn trong-sạch nấu chín, không ăn đồ sống. A-nan, người tu-hành đó, nếu không đoạn dâm-dục và sát-sinh, mà ra khỏi được ba cõi, thì thật không có lẽ như vậy. Nên xem sự dâm-dục như là rắn-độc, như thấy giặc-thù. Trước hết, phải giữ tứ-khí, bát-khí của giới-luật Thanh-văn, nắm-giữ cái thân không lay-động; về sau, hành-trì luật-nghi thanh-tịnh Bồ-tát, nắm-giữ cái tâm không móng lên. Cấm-giới đã thành-tựu, thì ở trong thế-gian, hẳn không còn những nghiệp sinh nhau, giết nhau; đã không làm việc trộm-cướp, thì không còn mắc nợ nhau và cũng khỏi phải trả các nợ kiếp trước trong thế-gian. Con người thanh-tịnh ấy, tu phép Tam-ma-đề, chính nơi nhục-thân cha mẹ sinh ra, không cần thiên-nhãn, tự-nhiên thấy được thập phương thế-giới, thấy Phật nghe Pháp, chính mình vâng-lĩnh thánh-chỉ của Phật, được phép đại-thần-thông, đi khắp thập phương thế-giới; túc-mạng được thanh-tịnh, không còn những điều khó-khăn nguy-hiểm; ấy gọi là tiệm-thứ tu-hành tăng-tiến thứ hai.
Thế nào là hiện-nghiệp? A-nan, người giữ-gìn cấm-giới thanh-tịnh như vậy, tâm không tham-dâm, không hay giong-ruổi theo lục-trần ở ngoài; nhân không giong-ruổi, tự xoay lại về tính bản-nguyên; trần đã không duyên, thì căn không ngẫu-hợp với đâu nữa; trở-ngược dòng về chỗ toàn-nhất, sáu cái dụng không hiện-hành, cõi-nước mười phương sáng-suốt thanh-tịnh, ví-như ngọc lưu-ly, có mặt trăng sáng treo ở trong ấy. Thân tâm khoan-khoái, tính diệu-viên bình-đẳng, được đại-an-ẩn, tất-cả mật-viên tịnh-diệu các đức Như-lai đều hiện trong đó; người ấy liền được Vô-sinh-pháp-nhẫn. Từ đó, lần-lượt tu-tập, tùy cái hạnh phát ra mà an-tập các thánh-vị, đó gọi là tiệm-thứ tu-hành tăng-tiến thứ ba.
II. AN LẬP CÁC THÁNH
VỊ
Càn-huệ-địa
"A-nan, thiện-nam tử ấy, lòng dục-ái khô-cạn, căn và cảnh không ngẫu-hợp, thân-tàn hiện-tiền, không còn tiếp-tục sinh nữa, nắm cái tâm rỗng-sáng, thuần là trí-tuệ; tính trí-tuệ sáng-suốt cùng khắp, soi-thấu thập-phương thế-giới; chỉ có cái tuệ khô-khan ấy, nên gọi là Càn-tuệ-địa, tập-khí ngũ-dục mới khô-cạn, chưa tiếp-giáp với dòng nước Pháp của các đức Như-lai.
Thập-tín
Tức lấy cái tâm ấy, chính giữa chính giữa lần vào, tính viên-diệu mở-mang, từ chỗ chân-diệu-viên lại phát ra chân-diệu. Tính diệu-tín thường-trụ, tất-cả vọng-tưởng diệt hết không còn, trung-đạo được thuần-chân, gọi là Tín-tâm-trụ.
Chân-tín tỏ-rõ, tất-cả đều viên-thông, ba thứ ấm, giới, nhập không thể làm ngăn-ngại; như thế, cho đến trong vô-số kiếp quá-khứ, vị-lai, tất-cả tập-khí xả-thân, thụ-thân đều hiện ra trước mặt, thiện-nam-tử ấy đều có thể nhớ-nghĩ được, không quên mất gì; gọi là Niệm-tâm-trụ.
Tính diệu-viên thuần-chân, chân-tinh phát-hóa ra, các tập-khí vô-thủy đều thông vào một tính tinh-minh, chỉ dùng tinh-minh ấy, tiến đến chỗ chân-tịnh; gọi là Tinh-tiến-tâm.
Tâm-tinh hiện-tiền, thuần-dùng trí-tuệ; gọi là Tuệ-tâm-trụ.
Nắm-giữ trí-tuệ sáng-suốt, lặng-đứng cùng khắp, tính tịch-diệu thường đứng-lại; gọi là Định-tâm-trụ.
Định-quang phát-minh, đi sâu vào tính sáng-suốt, chỉ có tới, chứ không lui; gọi là Bất-thối-tâm.
Tâm an-nhiên đi tới, giữ-gìn không mất, giao-tiếp với khí-phần thập-phương Như-lai; gọi là Hộ-pháp-tâm.
Giữ-gìn tính giác-minh, có thể dùng diệu-lực xoay từ-quang của Phật về nơi mình và hướng về Phật mà an-trụ, cũng như hai gương sáng đối nhau, trong đó các bóng nhiệm-mầu lớp-lớp lồng nhau; gọi là Hồi-hướng-tâm.
Tự-tâm thầm xoay Phật-quang trở về, được vô-thượng diệu-tịnh thường-trụ của Phật, an-trụ nơi vô-vi, được không bỏ mất; gọi là Giới-tâm-trụ.
Tự-tại an-trụ nơi giới, có thể đi khắp mười phương, tùy nguyện mà đi; gọi là Nguyện-tâm-trụ.
Thập-trụ
A-nan, thiện-nam-tử đó, dùng phương-tiện chân-chính phát được mười cái tâm ấy, tâm-tinh đã phát-huy, mười cái dụng ấy xen-lẫn với nhau, viên-thành một tâm; gọi là Phát-tâm-trụ.
Trong tâm phát ra sáng-suốt, như ngọc lưu-ly trong-sạch, ở trong hiện ra vàng-ròng; dùng cái diệu-tâm trước kia, sửa-sang thành chỗ nương-đứng; gọi là Trị-địa-trụ.
Tâm-địa biết khắp, đều được rõ-ràng, đi cùng mười phương, được không ngăn-ngại; gọi là Tu-hành-trụ.
Hạnh đồng với Phật, nhận khí-phần của Phật như thân trung-ấm tự cầu cha mẹ, âm-tín thầm-thông vào giống Như-lai; gọi là Sinh-quý-trụ.
Đã vào đạo-thai, chính mình nhờ được sự nuối-nấng của tính-giác, như cái thai đã thành, tướng người không thiếu; gọi là Phương-tiện-cụ-túc-trụ.
Hình-dáng như Phật, tâm-tướng cũng vậy; gọi là Chính-tâm-trụ.
Thân tâm hợp-thành, ngày càng tăng-trưởng; gọi là Bất-thối-trụ.
Linh-tướng mười thân, một thời đầy-đủ; gọi là Đồng-chân-trụ.
Hình đã thành, ra khỏi thai, chính mình làm Phật-tử; gọi là Pháp-vương-tử-trụ.
Nghi-biểu đã thành người lớn, như khi một quốc-vương, phân-công ủy-nhiệm cho thái-tử các việc nước, thì quốc-vương kia, lúc thái-tử trưởng-thành, bày ra lễ quán-đỉnh; gọi là Quán-đỉnh-trụ.
Thập-hạnh
A-nan, thiện-nam-tử đã thành Phật-tử rồi, đầy-đủ diệu-đức vô-lượng của Như-lai và tùy-thuận mười phương; gọi là Hoan-hỉ-hạnh.
Khéo biết làm lợi-ích cho tất-cả chúng-sinh; gọi là Nhiêu-ích-hạnh.
Tự-giác và giác-tha, được không chống trái; gọi là Vô-sân-hận-hạnh.
Theo các chủng-loại mà hiện ra sắc-thân cùng-tột vị-lai, ba đời đều bình-đẳng, mười phương được thông-suốt; gọi là Vô-hận-hạnh.
Tất-cả đều hợp về đồng, nơi các thứ pháp-môn, được không sai-lầm; gọi là Ly-si-loạn-hạnh.
Rồi ở trong đồng, hiện ra các cái khác, nơi mỗi mỗi tướng khác, mỗi mỗi đều thấy là đồng; gọi là Thiện-hiện-hạnh.
Như vậy, cho đến mười phương hư-không, đầy khắp vi-trần và trong mỗi mỗi vi-trẩn hiện ra thập phương thế-giới; hiện vi-trần, hiện thế-giới, không ngăn-ngại nhau; gọi là Vô-trước-hạnh.
Các thứ hiện-tiền, đều là Đệ-nhất-ba-la-mật-đa; gọi là Tôn-trọng-hạnh.
Viên-dung như vậy, có thể thành-tựu quy-tắc của chư Phật mười phương; gọi là Thiện-pháp-hạnh.
Mỗi mỗi đều là Nhất-chân-vô-vi Thanh-tịnh-vô-lậu, vì tính bản-nhiên là như vậy; gọi là Chân-thật-hạnh.
Thập-hồi-hướng
A-nan, thiện-nam-tử đó đầy-đủ thần-thông, thành-tựu Phật-sự rồi, toàn là một tinh-chân thuần-khiết, xa các lỗi-lầm, chính khi hóa-độ chúng-sinh mà diệt tướng năng-độ, sở-độ, xoay tâm vô-vi hướng về đường Niết-bàn; gọi là Cứu-hộ nhất-thiết chúng-sinh, Ly-chúng-sinh-tướng hồi-hướng.
Diệt-hoại tất-cả cái gì có thể diệt-hoại, viễn-ly các sự ly; gọi là Bất-hoại hồi-hướng.
Tính bản-giác đứng-lặng, giác-ngộ bằng Phật; gọi là Đẳng-nhất-thiết-Phật hồi-hướng.
Tinh-chân phát ra sáng-suốt, tâm-địa như Phật-địa, gọi là Chí-nhất-thiết-xứ hồi-hướng.
Thế-giới và Như-lai, dung-hợp vào nhau, được không ngăn-ngại; gọi là Vô-tận-công-đức-tạng hồi-hướng.
Nơi đồng với Phật-địa, trong ấy phát-sinh ra các nhân thanh-tịnh, nương nhân ấy mà phát-huy, đi đến đạo Niết-bàn; gọi là Tùy-thuận-bình-đẳng-thiện-căn hồi-hướng.
Chân-căn đã thành-tựu, thập phương chúng-sinh đều là bản-tính của mình, bản-tính viên-mãn thành-tựu, không bỏ mất chúng-sinh; gọi là Tùy-thuận-đẳng-quán-nhất-thiết chúng-sinh hồi-hướng.
Tức tất-cả pháp, ly tất-cả tướng, cả tức và ly, hai cái đều không dính; gọi là Chân-như-tướng hồi-hướng.
Thật được như-như, mười phương không ngăn-ngại; gọi là Vô-phược-giải-thoát hồi-hướng.
Tính-đức viên-mãn thành-tựu, lượng của pháp-giới diệt; gọi là Pháp-giới-vô-lượng hồi-hướng.
Tứ-gia-hạnh
A-nan, thiện-nam-tử đó, tu hết 41 tâm thanh-tịnh ấy rồi, thì lại thành-tựu bốn thứ gia-hạnh diệu-viên:
Tức lấy Phật-giác, dùng làm tâm mình, như ra nhưng chưa ra, ví-như dùi cây để cho ra lửa mà đốt cái cây; gọi là Noãn-địa.
Lại lấy tâm mình, thành chỗ đứng của Phật, hình-như nương, nhưng không phải nương, ví-như người lên chóp núi cao, thân đã vào hư-không, nhưng ở dưới còn chút ngăn-ngại; gọi là Đỉnh-địa.
Tâm và Phật là đồng, khéo được trung-đạo, ví-như người biết nhịn, không phải ôm vào, nhưng cũng không phải phát ra; gọi là Nhẫn-địa.
Số-lượng đều tiêu-diệt, mê, giác và trung-đạo, cả hai đều không có gì; gọi là Thế-đệ-nhất-địa.
Thập-địa
A-nan, thiện-nam-tử đó thông-suốt đúng-đắn đạo Đại-bồ-đề, chỗ giác-ngộ thông với Như-lai, cùng-tột cảnh-giới của Phật; gọi là Hoan-hỉ-địa.
Tính khác nhập với đồng, tính đồng cũng diệt; gọi là Ly-cấu-địa.
Thanh-tịnh cùng-tột, sáng-suốt sinh ra; gọi là Phát-quang-địa.
Sáng-suốt tột, giác viên-mãn; gọi là Diệm-tuệ-địa.
Tất-cả cái đồng, cái khác, không thể đến được; gọi là Nan-thắng-địa.
Bản-tính thanh-tịnh vô-vi, chân-như tỏ-lộ; gọi là Hiện-tiền-địa.
Tột bờ-bến chân-như; gọi là Viễn-hành-địa.
Một tâm chân-như; gọi là Bất-động-địa.
Phát cái dụng chân-như; gọi là Thiện-tuệ-địa.
A-nan, các Bồ-tát đó, từ đây về trước, công-hạnh tu-tập đã xong, công-đức được viên-mãn, cũng gọi địa nầy là Tu-tập-vị; bóng từ, mây diệu, trùm bể Niết-bàn; gọi là Pháp-vân-địa.
Kết-thúc bằng hai quả-vị Đẳng-giác và Diệu-giác
Như-lai ngược dòng trở lại, vị Bồ-tát đó thuận dòng đi tới, giác-ngộ vào chỗ giao-tiếp với nhau; gọi là Đẳng-giác.
A-nan, từ tâm Càn-tuệ đến Đẳng-giác rồi, giác đó mới bắt-đầu được Sơ-càn-tuệ-địa trong tâm Kim-Cương; như vậy lớp-lớp tu đơn, tu kép 12 vị mới cùng tột Diệu-giác, thành đạo Vô-thượng.
Các thứ địa ấy, đều lấy trí Kim-cương quán-sát mười thứ ví-dụ như-huyễn sâu-xa, trong Xa-ma-tha, dùng phép Tỳ-bà-xá-na của các đức Như-lai mà thanh-tịnh tu-chứng, lần-lượt đi sâu vào.
A-nan, như thế, đều dùng ba tiệm-thứ tăng-tiến, nên khéo thành-tựu 55 vị trong đường Bồ-đề chân-thật. Làm cái quán như vậy, gọi là chính-quán; nếu quán cách khác, gọi là tà-quán".
III. CHỈ DẠY TÊN
KINH
Khi bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lỵ Pháp-vương-tử, ở trong đại-chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Nên gọi kinh nầy là gì? Tôi và chúng-sinh phải phụng-trì thế nào?"
ĐẠI PHẬT ĐẢNH NHƯ LAI MẬT NHƠN TU CHỨNG LIỄU NGHĨA
CHƯ BỒ TÁT VẠN HẠNH THỦ LĂNG NGHIÊM KINH
PHẦN LƯU THÔNG
Tu theo NHĨ CĂN VIÊN THÔNG hay
“NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG”… và trì CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM để LƯU THÔNG KINH nầy.
Vì KINH nầy PHẬT dạy chúng ta
phân biệt được VỌNG TÂM, CHƠN TÂM và con đường chơn chánh vào CHƠN TÂM
THƯỜNG TRỤ không sanh không diệt, đó là NHĨ CĂN VIÊN THÔNG của bồ-tát
QUÁN-THẾ-ÂM là đệ nhất.
Tuy biết con đường CHƠN THẬT chứng nhập CHƠN TÂM, nhưng trải qua các địa vị tu
chứng gặp phải 50 loại ma chướng cùng với TẬP KHÍ NHIỀU ĐỜI TRONG 7 LOÀI KHÓ ĐOẠN TRỪ, nếu MÊ MỜ CHƠN TÁNH, tự
nghĩ rằng mình đã CHỨNG THÁNH, THÀNH PHẬT thì sẽ đi vào TÀ MA NGOẠI
ĐẠO, khó CÓ NGÀY quây đầu trở lại theo CON ĐƯỜNG CHƠN THẬT.
Cho nên, PHẬT dạy phải trì CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM, thì không bị
những TẬP KHÍ NHIỀU ĐỜI cùng MA-CHƯỚNG đến phá HOẠI CON ĐƯỜNG CHƠN THẬT THẲNG
đến qủa DIỆU-GIÁC của Phật.
TÂM-CHÚ PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM
NHÂN TỤNG TÂM-CHÚ NÀY MÀ ĐƯỢC THÀNH PHẬT
2) TỤNG TÂM-CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM,
KHÔNG BAO LÂU CHỨNG ĐƯỢC VÔ-SANH
PHÁP-NHẪN, MẶC Ý LÀM VÔ BIÊN PHẬT SỰ
3) CHƯ VỊ THIỆN -THẦN KHÔNG NHẬP NIẾT-BÀN,
PHÁT-NGUYỆN BẢO-HỘ NGƯỜI TRÌ
CHÚ MAU THÀNH ĐẠO BỒ-ĐỀ
( Phật dạy lời ấy xong,
vô lượng trăm ngàn Kim Cang trong Hội, đồng thời đứng trước Phật, chắp tay đảnh
lễ mà thưa với Phật rằng: “Như lời Phật dạy, chúng con phải thành tâm bảo hộ
những người tu đạo Bồ đề như vậy”...)
LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ có 5 hội:
HỘI THỨ NHẤT
TỲ-LÔ-GIÁ-NA CHÂN PHÁP HỘI
Đây là “TỲ-LÔ-GIÁ-NA
CHÂN PHÁP HỘI”, có nghĩa: Những lời bí mật của 12 pháp môn đoạn dưới đều từ nơi
PHÁP-THÂN hay TỲ LÔ CHÂN TÁNH LƯU LỘ RA.
HỘI THỨ HAI
THÍCH-CA ỨNG-HÓA HỘI
Đây là “THÍCH-CA ỨNG-HÓA
HỘI” hay LĂNG NGHIÊM GIÁO CHỦ HỘI, có nghĩa: Năm bộ Tam-Bảo trong thần chú gồm
chư DƯỢC-XOA, THẦN-VƯƠNG, KIM-CANG MẬT-TÍCH, cho đến tất cả Pháp môn, đều do
đức Phật Thích Ca và chư Phật THỊ HIỆN RA.
HỘI THỨ BA
QUÁN-THẾ-ÂM HIỆP-ĐỒNG-HỘI
Đây là “QUÁN-THẾ-ÂM
HIỆP-ĐỒNG-HỘI”. Bốn môn trong đây đều là do đức Quán-Thế-Âm trên đồng dưới
hiệp, VIÊN-THÔNG TU CHỨNG chẳng thể nghĩ bàn, đức mầu VÔ-TÁC thành tựu một cách
tự-tại.
HỘI THỨ TƯ
KIM-CANG-CHIẾT-NHIẾP-HỘI
Đây là “KIM-CANG-CHIẾT-NHIẾP-HỘI”,
do HỎA-THỦ-KIM-CANG BỒ-TÁT KHAI HIỂN, nên chư Kim-Cang-Tạng-Vương sau khi nghe
niệm chú, đều dùng sắc lịnh để hộ vệ, đối với kẻ ác thì chiết phục, với kẻ
thiện thì nhiếp thâu.
Chư Kim-Cang Mật-Tích
cũng đều hiện phần bản tích ứng hóa của mình.
HỘI THỨ NĂM
VĂN-THÙ-PHÚ-HỘ-HOẰNG-TRUYỀN-HỘI
Đây là
“VĂN-THÙ-PHÚ-HỘ-HOẰNG-TRUYỀN-HỘI”. Đức Văn-Thù hay Mạn-Thù-Thất-Lỵ sau khi lãnh
chú đến che chở hộ trì rồi thay đại chúng thưa hỏi pháp môn tu. Nếu chẳng phải
là bậc đại trí đức thì không thể thông hiểu và hoằng truyền pháp môn nầy.
Năm hội trên tượng trưng
cho NGŨ-TRÍ ĐẢNH của Tỳ Lô Giá Na. Hiệp cả năm hội lại gọi
chung là PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ CỨU CÁNH
KIÊN CỐ ĐẠI BẠCH TÁN CÁI THẦN CHÚ.
(Hòa Thượng Thích THIỀN-TÂM)
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ
MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA
THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ là trên ĐẢNH PHẬT phóng ra 10 đạo hòa QUANG bách bảo và TỤ lại
trên ĐẢNH CHÚNG-SANH trong Pháp Giới, khi tụng Thần Chú Thủ-Lăng Nghiêm.
Đây là Hóa Thân Phật
dùng THẦN CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM để “ẤN-TÂM” cho Qúy-vị sẽ thành Phật trong
vị lai.
CỨU CÁNH KIÊN CỐ là Thủ-Lăng Nghiêm ĐẠI ĐỊNH, định này là VUA trong các
định.
ĐẠI (Lớn) là “THỂ” của Chú Lăng Nghiêm,
không đối đãi phân biệt, biến khắp tận cùng hư không pháp giới, nên gọi
là MA-HA.
BẠCH (Trắng) là “TƯỚNG” của
Chú Lăng-Nghiêm, thanh tịnh không ô nhiễm, nên gọi là TÁT ĐÁT ĐA.
TÁN CÁI (Tàng
Lọng) là “DỤNG” của Chú Lăng Nghiêm, có
khả năng che chở, bảo hộ, TRUỞNG DƯỠNG THIỆN CĂN, TIÊU TRỪ NGHIỆP CHƯỚNG
TRONG VÔ LƯỢNG KIẾP, KHÔNG TRẢI QUA 3 A-TĂNG KỲ, MÀ QÚY VỊ CŨNG CHỨNG
ĐƯỢC PHÁP THÂN, nên gọi là BÁT ĐÁT RA.
THẦN là thần diệu linh thông, khó mà suy lường được.
CHÚ là khi qúy vị TỤNG , thì có công năng PHÁ TÀ LẬP CHÁNH,
tiêu trừ nghiệp ác, phát sanh phước đức căn lành.
TRÊN ĐẢNH
CỦA PHẬT TỲ LÔ GIÁ NA (PHẬT PHÁP-THÂN) LƯU LỘ RA NGŨ-TRÍ. CHO
NÊN, GỌI LÀ “NGŨ-TRÍ” ĐẢNH CỦA TỲ -LÔ-GIÁ-NA.
1) PHÁP GIỚI TRÍ
TRÍ cùng khắp
hư không, vì dùng LƯỚI ĐẠI QUANG MINH chiếu khắp PHÁP GIỚI CHÚNG SANH. CHO
NÊN, GỌI LÀ PHÁP GIỚI TRÍ.
2) ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ
3) BÌNH ĐẲNG TÁNH TRÍ
4) DIỆU QUÁN SÁT TRÍ
5) THÀNH SỞ TÁC TRÍ
KINH VĂN :
TẤT-CẢ CHÚNG-SINH, THẬT VỐN CHƠN-TÁNH THANH-TỊNH
DO TÌNH, TƯỞNG CÙNG VỚI TẬP
KHÍ NHIỀU ĐỜI PHẢI SANH TRONG 7 LOÀI
“TÌNH” là PHIỀN NÃO CHƯỚNG
“TƯỞNG” là SỞ TRI CHƯỚNG
Phật nói lời ấy rồi, liền khi đó, ông A-nan và cả đại-chúng được nhờ đức
Như-lai khai-thị ý-nghĩa mật-ấn Bát-đát-ra, lại nghe được
những tên gọi liễu-nghĩa của kinh nầy, liền ngộ được Diệu-lý
tăng-thượng để tu-tiến vào các Thánh-vị trong Thiền-na; tâm-niệm rỗng-trống
đứng-lặng, ông đoạn-trừ 6 phẩm phiền-não vi-tế trong tư-hoặc tam-giới.
IV. THÀNH BẢY LOÀI CHÚNG SANH
Ông liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật, chấp tay cung-kính mà
bạch Phật rằng: " Thưa đức Thế-tôn, có uy-đức lớn, phát ra từ-âm không
ngăn-ngại, khéo khai-ngộ những lỗi-lầm sâu-kín nhỏ-nhiệm của chúng-sinh, khiến
cho chúng tôi ngày nay, thân-tâm khoan-khoái, được lợi-ích lớn. Bạch Thế-tôn,
nếu cái chân-tâm diệu-minh trong-sạch nhiệm-mầu, bản-lai cùng khắp viên-mãn,
như thế, cho đến bản-tính chân-như của đất liền, cỏ cây, các loài máy-động, tức
là chân-thể thành Phật của Như-lai. Thể-tính của Phật đã là chân-thật, làm sao,
lại có các đạo địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sinh, tu-la, loài người và
trời. Bạch Thế-tôn, những đạo đó lại là bản-lai tự có, hay là do
tập-khí giả-dối của chúng-sinh sinh-khởi ra?"
"Bạch Thế-tôn, như Tỳ-khưu-ni Bảo-liên-hương giữ Bồ-tát-giới, lén-lút
làm việc dâm-dục, lại nói-càn rằng làm việc dâm-dục không phải giết người,
không phải trộm-cắp, không có nghiệp-báo; phát-ra lời nói ấy rồi, trước hết nơi
nữ-căn sinh ra ngọn lửa-hồng lớn, về sau từng đốt, từng đốt, bị lửa đốt cháy,
sa vào địa ngục Vô-gián.
Như đại-vương Lưu-ly; tỷ-khưu Thiện-tinh; Lưu-ly vì giết họ-hàng Cù-đàm,
Thiện-tinh vì nói-càn tất-cả các pháp đều rỗng-không mà thân sống sa vào địa-ngục
A-tỳ.
Các địa-ngục ấy, lại là có chỗ nhất-định, hay là tự-nhiên khi các người kia
gây nghiệp, thì mỗi người, mỗi người chịu riêng? Xin Phật rủ lòng đại-từ,
khai-ngộ cho kẻ ngây-thơ, khiến cho tất-cả chúng-sinh trì-giới, nghe nghĩa
quyết-định, vui-mừng tôn-trọng kính-cẩn giữ-gìn không phạm".
Phật bảo ông A-nan: "Hay thay lời hỏi đó, khiến cho các chúng-sinh
không mắc tà-kiến. Nay ông hãy nghe cho chín, tôi sẽ vì ông mà nói.
A-nan, tất-cả chúng-sinh, thật vốn chân-tính
thanh-tịnh, nhân những vọng-kiến, mà có tập-khí hư-vọng sinh ra; vì
thế, chia ra có phận-trong và phận ngoài.
"A-nan, phận-trong, tức là ở trong phận của chúng-sinh. Nhân các lòng
ái-nhiễm phát-khởi ra vọng-tình, tình chứa mãi không thôi, có thể sinh ra
ái-thủy; vậy nên chúng-sinh, tâm nhớ thức-ăn ngon, thì trong miệng nước chảy
ra; tâm nhớ người trước, hoặc thương, hoặc giận, thì trong con mắt lệ tràn;
tham-cầu của báu, thì trong tâm phát-ra ái-diên, cả mình đều trơn-sáng; tâm
dính vào việc dâm-dục, thì hai căn nam nữ tự-nhiên dịch-khí chảy ra. A-nan, các
cái ái đó, tuy khác nhau, nhưng kết-quả chảy nước là đồng; thấm-ướt không lên
được, tự-nhiên theo đó mà sa-đọa, ấy gọi là phận-trong.
A-nan, phận-ngoài, tức là ngoài phận của chúng-sinh. Nhân các lòng
phát-ngưỡng, phát-minh ra những lý-tưởng; tưởng chứa mãi không thôi, có thể
sinh ra những thắng-khí; vậy nên chúng-sinh, tâm giữ cấm-giới, cả mình
nhẹ-nhàng trong-sạch; tâm trì chú-ấn, con mắt ngó hùng-dũng nghiêm-nghị; tâm
muốn sinh lên cõi trời, chiêm-bao thấy bay lên; để tâm nơi cỏi Phật, thánh-cảnh
thầm-hiện ra; thờ vị thiện-tri-thức, tự khinh-rẻ thân-mệnh mình. A-nan, các
tưởng đó tuy khác, nhưng nhẹ-nhàng cất lên thì đồng nhau; cất bay không chìm
xuống, tự-nhiên vượt lên, đó là phận-ngoài.
A-nan, tất-cả thế-gian, sống chết nối nhau, sống thuận theo tập-quán, chết
thì đổi sang dòng khác, khi gần mệnh-chung, chưa hết hơi nóng, thiện ác một đời
đồng-thời liền hiện ra; cái nghịch của chết, cái thuận của sống, hai tập-khí
giao-xen lẫn nhau.
Thuần là tưởng, thì liền bay lên, chắc
sinh trên các cõi-trời; nếu trong tâm bay lên, gồm có phúc-đức trí-tuệ cùng với
tịnh-nguyện, thì tự-nhiên tâm được khai-ngộ, thấy tất-cả tịnh-độ thập phương
chư Phật, theo nguyện mà vãng-sinh.
Tình ít, tưởng nhiều, cất lên không xa, thì làm phi-tiên, đại-lực
quỷ-vương, phi-hành dạ-xoa, địa-hành la-sát, đi khắp bốn cõi-trời, không bị
ngăn-ngại. Nếu có nguyện tốt, tâm tốt, hộ-trì Phật-pháp, hoặc hộ-trì cấm-giới,
theo người trì-giới, hoặc hộ-trì thần-chú, theo người trì-chú, hoặc hộ-trì
thiền-định, giữ yên pháp-nhẫn, thì những hạng đó, chính mình được ở dưới
pháp-tọa Như-lai.
Tình và tưởng cân nhau, không bay lên, không đọa xuống, thì sinh nơi
nhân-gian; tưởng sáng-suốt nên thông-minh, tình u-ám nên ngu-độn.
Tình nhiều, tưởng ít, đi vào các loại hoành-sinh, nặng làm giống có lông,
nhẹ làm giống có cánh.
Bảy phần tình, ba phần tưởng, chìm xuống dưới thủy-luân, sinh nơi mé
hỏa-luân chịu khí-phần của lửa-hồng, thân làm ngạ-quỷ, thường bị đốt-cháy, vì
nước có thể hại mình, nên trải trăm nghìn kiếp, không ăn không uống.
Chín phần tình, một phần tưởng, xuống thấu qua hỏa-luân, và giữa giao-giới
phong-luân và hỏa-luân, nhẹ thì sinh vào Hữu-gián, nặng thì mình vào Vô-gián,
hai thứ địa-ngục.
Thuần là tình, thì chìm-sâu vào
ngục A-tỳ; nếu trong tâm chìm-sâu đó, lại có hủy-báng Đại-thừa, phá cấm-giới
của Phật, lừa-dối nói pháp để tham-cầu tín-thí, lạm-nhận cung-kính hoặc phạm
ngũ-nghịch, thập-trọng thì lại còn sinh vào địa-ngục A-tỳ thập phương.
Theo ác-nghiệp gây ra, tuy tự chuốc lấy quả-báo, nhưng trong đồng-phận
chung, vẫn có chỗ sẵn.
1
THÀNH "ĐỊA NGỤC"
DO MƯỜI TẬP-NHÂN VÀ SÁU GIAO-BÁO
"A-nan, những điều như thế, đều do nghiệp-báo các chúng-sinh kia, tự
chiêu-cảm lấy, như gây mười Tập-nhân, thì chịu sáu Giao-báo.
"Thế nào là mười Tập-nhân?
A-nan, một là, tập-quán dâm-dục, giao-tiếp cùng nhau, phát-sinh
cọ-xát lẫn nhau; cọ-xát mãi không thôi, như thế, nên trong ấy có ngọn lửa-hồng
lớn nổi lên; ví-như, có người lấy hai bàn tay cọ-xát lẫn nhau, thì cảm-giác
nóng hiện ra. Hai cái tập-khí đốt nhau, nên có những việc giường sắt, trụ đồng.
Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập phương nhận-xét việc dâm-dục, đồng gọi là
lửa-dục; Bồ-tát đối với dâm-dục, tránh như hầm-lửa.
Hai, là tập-quán tham-lam, so-đo hơn thiệt, phát-sinh hấp-thụ
lẫn nhau; hấp-thụ ôm-ấp mãi không thôi, như thế, nên chứa hơi-lạnh bên trong
thành giá-cứng, làm cho nẻ-nứt; ví-như, có người hút hơi gió vào, thì có
cảm-xúc lạnh. Hai tập-khí lấn nhau, nên có những sự tra tra, ba ba, la la,
thanh-liên, xích-liên, bạch-liên, hàn-băng, vân vân... Vậy nên, tất-cả các đức
Như-lai thập phương nhận-xét việc tham-cầu quá nhiều, đồng gọi là nước tham;
Bồ-tát đối với lòng tham, tránh như biển-độc.
Ba, là tập-quán ngã-mạn, lấn-lướt lẫn nhau, phát-sinh ỷ-thế với
nhau. Giong-ruổi không thôi, như thế, nên có sự bôn-ba, sôi-nổi, chứa lại thành
nước; ví-như, có người miệng lưỡi tự chép, làm cho nước-bọt chảy ra. Hai
tập-khí chọi nhau, nên có các việc sông huyết, sông tro, cát-nóng, biển-độc,
bắt uống nước đồng-chảy vân vân... Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai mười phương
nhận-xét lòng ngã-mạn, đồng gọi là uống nước si-mê; Bồ-tát đối-với ngã-mạn,
tránh như vực-thẳm lớn.
Bốn, là tập-quán nóng-giận, xung-đột cùng nhau, phát-sinh
chống-đối lẫn nhau; chống-đối mãi không thôi, tâm nổi nóng, phát ra lửa, nấu
cái khí thành kim-thuộc, vì thế, nên có núi dao, đòn sắt, cây gươm, bánh xe
gươm, những búa, những vớt, những thương, những cưa; ví-như, có người bị
hàm-oan, thì sát-khí nổi lên. Hai tập-khí đập nhau, nên có các sự thiến, cắt,
chém, chặt, dùi, đâm, đập, đánh. Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập phương
nhận-xét sự nóng-giận, đồng gọi là dao-gươm bén; Bồ-tát đối với lòng nóng-giận,
tránh như tránh chém-giết.
Năm, là tập-quán giả-dối, dụ-dỗ theo nhau, phát-sinh lôi-kéo
lẫn nhau; dẫn-dắt mãi không thôi, như thế, nên có giây, cây, thòng-lọng,
căng-nọc; ví-như, nước thấm ruộng thì cỏ-cây lớn lên. Hai tập-khí kéo-nhau, nên
có các sự gông, cùm, xiềng, xích, roi, gậy, qua, bổng. Vậy nên, tất-cả các đức
Như-lai thập phương nhận-xét sự giả-dối, đồng gọi là sàm-tặc; Bồ-tát đối với sự
gian-dối, sợ như beo-sói.
Sáu, là tập-quán lừa-gạt, lừa-dối với nhau, phát-sinh phỉnh-gạt
lẫn nhau; phỉnh-gạt mãi không thôi, phát-tâm gây điều gian-dối; như thế, nên có
bụi, đất, đại-tiện, tiểu-tiện, các đồ nhơ-nhớp không sạch; như bụi theo gió,
không thấy lẫn nhau. Hai tập-khí dìm nhau, nên có những sự chìm-đắm, nhảy, ném,
bay, rơi, trôi-lăn. Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập phương nhận-xét sự
lừa-gạt, đồng gọi là cướp-giết; Bồ-tát đối với sự lừa-gạt, như giẫm rắn-độc.
Bảy, là tập-quán thù-oán, hiềm-khích lẫn nhau, phát-sinh ôm-ấp
lòng giận, như thế, nên có quăng đá, ném gạch, hộp nhốt, xe cũi, bình-đựng,
đãy-bọc, như người hiểm-độc ôm-ấp điều dữ. Hai tập-khí nuốt nhau, nên có những
sự ném, quăng, nắm, bắt, đánh, bắn, gieo, ôm. Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai
thập phương nhận-xét sự thù-oán, gọi là quỷ Vi-hại; Bồ-tát đối với sự thù-oán,
như uống ruợu-độc.
Tám, là tập-quán ác-kiến, tranh-cãi với nhau, như ngã-kiến,
kiến-thủ, giới-cấm-thủ và các nghiệp tà-ngộ, phát-sinh chống-trái lẫn nhau; như
thế, nên có quan-lại chứng-thực, nắm-giữ giấy-tờ, đông như người đi đường, qua
lại gặp nhau. Hai tập-khí giao nhau, nên có các sự khám-hỏi, mưu-mẹo, khảo-tấn,
đòi-hỏi, gạn-xét, cứu-tra cho rõ và những đồng-tử thiện-ác, tay cầm sổ-sách,
biện-bạch cãi-vã. Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập phương nhận-xét ác-kiến,
đồng gọi là kiến-khanh; Bồ-tát đối với những thiên-chấp hư-vọng, như đứng bên
hố-độc.
Chín, là tập-quán vu-vạ, làm hại cho nhau, phát-sinh sự
vu-báng, như thế, nên có hợp-sơn, hợp-thạch, cối-nghiền, cối-xay; ví-như, kẻ
sàm-tặc, áp-bức vu-oan người lương-thiện. Hai tập-khí bài xích lẫn nhau, nên có
các sự áp-giải, đè-đập, ép-huyết, tuốt-mình. Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai
thập phương, nhận-xét sự vu-vạ, đồng gọi là sàm-hổ; Bồ-tát đối với sự vu-vạ,
như bị sấm-sét.
Mười, là tập-quán kiện-thưa, cãi-vã lẫn nhau, phát-sinh sự
che-đậy; như thế, nên có gương soi, đuốc chiếu, như giữa ban ngày, không giấu
bóng được. Hai tập-khí phô-bày lẫn nhau, nên có ác-hữu, nghiệp kính, hỏa-châu
phơi-bày nghiệp xưa đối-nghiệm các việc. Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập
phương nhận-xét sự che-đậy, gọi là giặc-ngầm; Bồ-tát đối với sự che-đậy, như
đội núi cao, lội trong biển lớn.
"Thế nào là sáu Giao-báo?
A-nan, tất-cả chúng-sinh, sáu thức gây nghiệp, nên ác-báo chuốc-lấy, đều từ
sáu căn mà ra."
"Các ác-báo từ sáu căn ra như thế nào?
Một, là giao-báo về thấy, chiêu-cảm ác-quả. Khi nghiệp-thấy ấy
giao-báo, thì lúc lâm-chung, trước hết thấy lửa-hồng đầy khắp 10 phương;
thần-thức người chết bay rơi theo khói vào ngục Vô-gián, phát ra hai tướng: Một
là thấy sáng, thì khắp thấy nhiều thứ vật-dữ, sinh ra khiếp-sợ vô-cùng; hai là
thấy tối, lặng vậy không thấy gì sinh ra hoảng-hốt vô-hạn. Lửa thấy như thế,
đốt cái nghe, thì có thể làm vạc-dầu sôi, làm nước đồng-chảy; đốt hơi-thở, thì
có thể làm khói-đen, lửa đỏ; đốt cái nếm, thì có thể làm viên tròn nung-đỏ, làm
cơm-sắt; đốt cảm-xúc, thì có thể làm tro-nóng, lò-than; đốt tâm-ý, thì có thể
sinh ra sao-lửa rưới khắp, làm rung-động cả cõi hư-không.
Hai, là giao-báo về nghe, chiêu-cảm ác-quả. Khi nghiệp-nghe ấy
giao-báo, thì lúc lâm-chung, trước hết, thấy sóng cuộn chìm-ngập trời đất;
thần-thức người chết, sa xuống theo dòng vào ngục Vô-gián, phát ra hai tướng:
Một là nghe tỏ, nghe các thứ ồn-ào, tinh-thần rối-loạn; hai là điếc hẳn,
lặng-lẽ, không nghe gì, thức-thần chìm-lịm. Sóng nghe như thế, rót vào cái
nghe, thì có thể làm trách, làm hỏi; rót vào cái thấy, thì có thể làm sấm, làm
thét, làm hơi-độc-dữ; rót vào hơi thở, thì có thể làm mưa, làm mù, rưới các
sâu-độc đầy khắp thân-thể; rót vào các vị, thì có thể làm mủ, làm huyết, các
thứ nhơ-nhớp; rót vào cảm-xúc, thì có thể làm con súc, làm con quỷ, làm phân,
làm nước-tiểu; rót vào ý-nghĩ, thì có thể làm chớp, làm mưa-đá, đập nát
tâm-thức.
Ba, là giao-báo về ngửi, chiêu-cảm ác-quả. Khi nghiệp-ngửi ấy
giao-báo, thì lúc lâm-chung, trước hết, thấy hơi-độc đầy-nhẩy xa gần; thần-thức
người chết, từ dưới đất trổi lên, vào ngục Vô-gián, phát-hiện ra hai tướng: Một
là ngửi thông, bị các hơi dữ xông tột-bực, làm cho tâm rối-loạn; hai là ngạt
mũi, hơi-thở ngạt không thông, nằm chết-giấc dưới đất. Hơi ngửi như thế, xông
vào hơi-thở, thì có thể làm thông, làm ngạt; xông vào cái thấy, thì có thể làm
lửa, làm đuốc; xông vào cái nghe, thì có thể làm chìm-ngập, làm chết-đuối, làm
nước-lớn, làm nước-sôi; xông vào cái vị, thì có thể làm đói, làm ngấy; xông vào
cái cảm-xúc, thì có thể làm xấu, làm nát, làm núi-thịt lớn có trăm ngàn con
mắt, hút-ăn không cùng; xông vào ý-nghĩ, thì có thể làm tro, làm chướng-khí,
làm gạch-đá bay lên đánh-nát thân-thể.
Bốn, là giao-báo về vị, chiêu-cảm ác-quả. Khi nghiệp-vị ấy
giao-báo, thì lúc lâm-chung, trước hết, thấy lưới-sắt nung-đỏ che khắp
thế-giới; thần-thức người chết từ dưới tung lên, mắc lưới treo ngược đầu xuống,
vào ngục Vô-gián, phát ra hai tướng : Một là nuốt vào, thì kết-thành giá-lạnh,
làm nứt-nẻ thân-thể; hai là mửa ra, thì bay lên thành lửa-hồng, đốt-rụi
xương-tủy. Vị-báo như thế, qua cái nếm, thì có thể làm nhận, làm chịu; qua cái
thấy, thì có thể làm các thứ kim-thạch đốt-cháy; qua cái nghe, thì có thể làm
binh-khí sắc-bén; qua hơi-thở, thì có thể làm lồng-sắt lớn che khắp cõi-nước;
qua cảm-xúc, thì có thể làm cung, làm tên, làm mỏ, làm bắn; qua ý-nghĩ, thì có
thể làm sắt-nóng bay, từ trên không rưới xuống.
Năm, là giao-báo về xúc, chiêu-cảm ác-quả. Khi nghiệp-xúc ấy
giao-báo, thì lúc lâm-chung, trước hết, thấy núi lớn bốn mặt hợp lại, không còn
đường ra; thần-thức người chết thấy thành-sắt lớn, rắn-lửa, chó lửa, hùm-sói,
sư-tử, ngục-tốt đầu trâu, la-sát đầu ngựa, tay cầm thương, xóc, lùa vào cửa
thành, hướng về ngục Vô-gián, phát ra hai tướng; Một là hợp-xúc, thì núi kẹp ép
mình, xương-thịt nát ra máu; hai là ly-xúc, thì dao gươm chạm vào mình, tim gan
cắt-xẻ. Xúc-báo như vậy, qua cái xúc, thì có thể làm đạo, làm quán, làm sảnh,
làm án; qua cái thấy, thì có thể làm đốt, làm nung; qua cái nghe, thì có thể
làm đập, làm đánh, làm đâm, làm bắn; qua hơi-thở, thì có thể làm trùm, làm đẫy,
làm tra, làm trói; qua cái nếm, thì có thể làm cày, làm kiềm, làm chém, làm
chặt; qua ý-nghĩ, thì có thể làm rơi, làm bay làm nấu, làm nướng.
Sáu, là giao-báo về ý-nghĩ, chiêu-cảm ác-quả. Khi nghiệp-ý ấy
giao-báo, thì lúc lâm-chung, trước hết thấy gió-dữ thổi-nát cõi nước, thần-thức
người chết bị thổi lên trên không xoay-rơi theo gió, sa vào ngục Vô-gián, phát
ra hai tướng: Một là không biết, tột mê, thì hoang-mang, ruổi-chạy không thôi;
hai là không mê, hay-biết, thì khổ, bị đốt-cháy không cùng, đau-buốt không chịu
nổi. Ý-báo như thế, kết vào ý-nghĩ, thì có thể làm phương, làm sở; kết vào cái
thấy, có thể làm gương-soi, làm chứng-cứ; kết vào cái nghe, thì có thể làm
đại-hợp-thạch, làm giá, làm sương, làm đất, làm mù; kết vào hơi-thở, thì có thể
làm xe-lửa lớn, làm thuyền lửa, cũi-lửa; kết vào cái nếm, thì có thể làm kêu-la
to, làm ăn-năn, làm khóc-lóc; kết vào cái cảm-xúc, thì có thể làm lớn, làm nhỏ,
làm cho một ngày muôn lần sống, muôn lần chết, làm nghiêng, làm ngửa.
"A-nan, thế gọi là 10 nhân và 6 quả của điạ-ngục, nhân-quả ấy đều do
mê-vọng của chúng-sinh tạo ra.
Nếu các chúng-sinh, sáu căn đồng-tạo nghiệp-dữ, thì vào ngục A-tỳ, chịu khổ
vô-cùng trong vô-lượng kiếp; nếu từng mỗi căn tạo ra và nghiệp-dữ đã làm gồm cả
cảnh và căn thì người ấy vào 8 ngục Vô-gián. Nếu cả thân, khẩu, ý làm việc sát,
đạo, dâm, thì người ấy vào Thập-bát-địa-ngục; không đủ cả ba nghiệp thân, khẩu,
ý, làm việc sát, đạo, dâm, thì người ấy vào Thập-bát-địa-ngục; không đủ cả ba
nghiệp thân, khẩu, ý, hoặc trong ấy chỉ làm một việc sát, hoặc một việc đạo,
thì người ấy vào trong Tam-thập-lục-điạ-ngục; chỉ có một căn, riêng làm một
việc, thì người ấy vào Nhất-bách-bát-địa-ngục.
Do những chúng-sinh ấy riêng gây ra nghiệp, nên vào chỗ đồng-phận trong
giới ấy; đó đều do vọng-tưởng phát-sinh ra, không phải bản-lai tự có.
(BẢN LAI TẤT CẢ
CHÚNG SINH, THẬT VỐN CHƠN TÁNH THANH TỊNH, KHI "VỌNG" KHI "CHƠN" CÓ
CÙNG 1 CHƠN TÂM.)
Đời Diêu Tần, ngài Tam-tạng Pháp-sư Cưu-Ma-La-Thập dịch từ Phạn-văn ra
Hán-văn
Hòa-Thuợng Thích-Thiền-Tâm dịch từ Hán-văn ra Việt-văn.
Tin rằng tất cả các pháp
đều do Tâm-thể “CHÂN-TÂM BỔN-GIÁC”của
mình tạo ra. Từ ba đời mười phương
chư Phật nhẫn đến tứ thánh, lục phàm, đều do cái Tâm-thể lưu
xuất và biến hiện.
Tin rằng cõi Cực-Lạc
cũng chỉ do Tâm-thể thanh tịnh của chúng sanh tạo ra, cùng tương
ứng với Bổn Nguyện Vĩ Đại của Phật, Bồ-Tát, Thánh-chúng. Và tinh rằng đức
A-Di-Đà chỉ là do sự niệm tưởng danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật
phát khởi lên.
Tin rằng mỗi
mỗi chúng sanh đều có đủ năng lực lãnh thọ giáo
pháp Như-Lai, bất cứ hữu tình nào cũng có năng
lực hoàn thành địa vị Nhứt-thiết Chủng-trí như chư Phật.
Tin rằng bản
nguyện của Phật A-Di-Đà là chân thật, rốt ráo, là tối
thắng. Và Ngài không hề bỏ
sót một chúng sanh nào cả, dù kẻ ấy phạm vào ngũ
nghịch, thập ác ...
Tin rằng pháp niệm
Phật vãng sanh là môn tu duy nhất cho hết thảy mọi người,
vì rời môn tu này thì mọi người, mọi loài không thể giải thoát,
nếu phế bỏ môn tu này thì chư Phật cũng không thể dùng một pháp nào
khác để tế độ hết thảy hữu tình đúng như bản thệ, đúng
như bản nguyện.
Diệu-Nguyệt
phải phát khởi tín tâm như vậy mà niệm Phật.
LUẬN CHỦ TÔNG-MẬT SA MÔN, CHÙA QUÊ PHONG,
XUẤT THÂN ĐỜI ĐƯỜNG, BÊN TÀU.
THIÊN THỨ TƯ
HỘI THÔNG BỔN MẠT
(GOM LẠI SUỐT THÔNG TỪ GỐC TỚI NGỌN)
CHÂN-TÁNH TUY VI THÂN BỔN, SANH KHỞI CÁI HỮU
NHÂN DO, BẤT KHẢ VÔ ĐOAN, HỐT THÀNH THÂN-TƯỚNG.
CHÂN-TÁNH MẶC
DÙ LÀM GỐC CHO THÂN-TƯỚNG, NHƯNG VỀ SỰ SANH KHỞI RA THÂN-TƯỚNG ẮT
CÓ “NGUYÊN-DO”, CHỨ CHẲNG PHẢI KHÔNG MANH MỐI GÌ HẾT, “TỰ
NHIÊN” THÀNH RA “THÂN-TƯỚNG” ĐÂU ?
ĐÃN DUYÊN TIỀN TÔNG VỊ LIỂU, SỞ DĨ TIẾT TIẾT
XÍCH CHI.
SỞ DĨ CÁC “THIÊN” TRƯỚC BỊ QUỞ
TRÁCH, CHỈ VÌ CHƯA RÕ “NGUYÊN-DO” CÓ ĐƯỢC “THÂN” NGƯỜI.
KIM TƯƠNG BỔN-MẠT HỘI THÔNG, NÃI CHÍ NHO-ĐẠO
DIỆC THỊ.
NAY ĐEM GOM LẠI SUỐT THÔNG TỪ GỐC TỚI
NGỌN, CHO ĐẾN ĐẠO-NHO,
ĐẠO-TIÊN CŨNG NHƯ VẬY.
NHỨT THỪA HIỂN-TÁNH-GIÁO
GIÁO-PHÁP DẠY “NHỨT-THỪA” CỦA KINH
HOA-NGHIÊM, LẤY “CHÂN-TÂM BỔN-GIÁC” LÀM NGUỒN-GỐC CHÂN-THẬT CÓ
ĐƯỢC THÂN-NGƯỜI
Chí tâm sám-hối :
Ðệ tử _____ và
chúng-sanh trong pháp-giới, từ đời vô-thỉ nhẫn đến ngày nay, bị vô-minh
che đậy nên điên đảo mê-lầm, lại do sáu căn ba nghiệp quen theo pháp chẳng lành,
rộng phạm mười điều dữ cùng năm tội vô-gián và tất cả các tội khác, nhiều
vô-lượng vô-biên nói không thể hết. Mười phương các đức Phật thường ở trong
đời, tiếng pháp không dứt, hương mầu đầy lấp, pháp vị ngập tràn, phóng ánh sáng
sạch trong chếu soi tất cả. Lý mầu thường trụ đầy dẫy hư-không.
Con từ vô-thỉ đến nay,
sáu căn che mù, ba nghiệp tối-tăm, chẳng thấy chẳng nghe chẳng hay chẳng
biết “CHÂN-TÂM BỔN-GIÁC” , vì nhơn duyên đó trôi mãi trong vòng sanh tử, trải qua các đường
dữ, trăm nghìn muôn kiếp trọn không lúc nào ra khỏi. -- Kinh rằng :
“Ðức Tỳ-Lô-Giá-Na thân
khắp cả chỗ, chỗ của Phật ở gọi là Thường-tịch-quang, cho nên phải biết cả
thảy các pháp đều là Phật-Pháp, mà con không rõ lại theo giòng vô-minh vì
thế trong trí bồ-đề mà thấy không thanh-tịnh, trong cảnh giải-thoát mà sanh
ràng buộc. Nay mới tỏ ngộ nay mới chừa bỏ ăn-năn, phụng đối trước các đức Phật
và A-Di-Ðà Thế-Tôn mà phát lồ sám-hối, làm cho đệ-tử cùng pháp-giới chúng-sanh,
tất cả tội nặng do ba nghiệp sáu căn, gây tạo từ vô-thỉ, hoặc hiện-tại cùng
vị-lai, chính mình tự gây tạo hoặc biểu người, hay là thấy nghe người gây tạo
mà mà vui theo, hoặc nhớ hoặc chẳng nhớ, hoặc biết hoặc chẳng biết, hoặc nghi
hoặc chẳng nghi, hoặc che giấu hoặc chẳng che giấu, thảy đều được rốt-ráo
thanh-tịnh.
Ðệ-tử sám-hối rồi, sáu
căn cùng ba nghiệp trong sạch, không lỗi lầm, căn lành tu-tập cũng trọn
thanh-tịnh, thảy đều hồi-hướng dùng trang-nghiêm Tịnh-độ, khắp với chúng-sanh,
đồng sanh về nước An-Dưỡng.
Nguyện đức A-Di-Ðà Phật
thường đến hộ-trì, làm cho căn lành của đệ-tử hiện-tiền tăng-tấn, chẳng mất
nhơn-duyên Tịnh-độ, đến giờ lâm-chung, thân an-lành niệm chánh vững-vàng, xem
nghe đều rõ-ràng, tận mặt thấy đức A-Di-Ðà cùng các Thánh-chúng, tay cầm đài hoa
tiếp-dẫn đệ-tử, trong khoảng sát-na sanh ra trước Phật, đủ đạo-hạnh Bồ-Tát,
rộng độ khắp chúng-sanh đồng thành Phật đạo.
Ðệ-tử sám-hối
phát-nguyện rồi quy-mạng đảnh-lễ :
Nam-mô Tây-phương
Cực-lạc thế-giới, đại-từ đại-bi, A-Di-Ðà Như-Lai, biến pháp-giới Tam-bảo.
2
THÀNH "QỦY"
"Lại nữa, A-nan, các chúng-sinh đó, nếu không phải gây tội chê-phá
luật-nghi, phạm Bồ-tát-giới, hủy-báng Niết-bàn của Phật, mà chỉ phạm những
nghiệp phức-tạp khác nhau, thì sau khi bị đốt cháy nhiều kiếp, đền tội hết rồi,
thì chịu những hình quỷ.
Nếu nơi bản-nhân, do tham vật mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi,
gặp vật thành-hình gọi là Quái-quỷ; do tham sắc mà làm ra tội, thì người ấy đền
tội hết rồi, gặp gió thành-hình, gọi là Bạt-quỷ; do tham dối-trá mà làm ra tội,
thì người ấy đền tội hết rồi, gặp giống súc thành-hình, gọi là Mỵ-quỷ; do tham
nóng-giận mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp con sâu thành-hình,
gọi là Cổ-độc-quỷ; do tham thù-oán mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi,
gặp vận-suy kẻ-thù mà thành-hình, gọi là Lệ-quỷ; do tham ngã-mạn mà làm ra tội,
thì người ấy đền tội hết rồi, gặp khí thành-hình, gọi là Ngạ-quỷ; do tham
lừa-gạt mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp u-ẩn thành-hình, gọi
là Áp-quỷ; do tham ác-kiến mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp
tinh-hoa thành-hình, gọi là Vọng-lượng-quỷ; do tham vu-vạ mà làm ra tội, thì
người ấy đền tội hết rồi, gặp linh-hiển thành-hình, gọi là Dịch-sử-quỷ; do tham
bè-phái che-giấu mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp con người
thành-hình, gọi là Truyền-tống-quỷ.
A-nan, những người đó đều vì thuần-tình phải đọa-lạc, khi lửa-nghiệp
đốt-sạch rồi, thì lên làm quỷ; như thế đều do cái nghiệp vọng-tưởng tự mình
chuốc lấy; nếu ngộ được tính Bồ-đề, thì nơi tính Diệu-viên-minh, vốn không có
gì.
3
THÀNH "THÚ"
Lại nữa, A-nan, khi nghiệp-quỷ đã hết, tình và tưởng cả hai đều thành
không, thì mới ở nơi thế-gian, cùng với người mắc nợ cũ, oán-đối gặp nhau; thân
làm súc-sinh để trả nợ cũ.
Quái-quỷ theo vật, vật tiêu báo hết, sinh nơi thế-gian, phần nhiều làm loài
chim kiêu. Bạt-quỷ theo gió, gió tiêu báo hết, sinh nơi thế-gian, phần nhiều
làm tất-cả những loài cữu-trưng kỳ-dị. Mỵ quỷ theo súc, súc chết báo hết, sinh
nơi thế-gian, phần nhiều làm loài hồ. Cổ-quỷ theo sâu, sâu diệt báo hết, sinh
nơi thế-gian, phần nhiều làm loài có độc. Lệ-quỷ theo vận suy, suy tột báo hết,
sinh nơi thế-gian, phần nhiều làm loài giun. Ngạ-quỷ theo khí, khí tiêu báo
hết, sinh nơi thế-gian, phần nhiều làm loài cung-cấp thịt ăn. Áp-quỷ theo u-ẩn,
u-ẩn tiêu báo hết, sinh nơi thế-gian, phần nhiều làm loài cung-cấp đồ-mặc.
Vọng-lượng-quỷ theo tinh-hoa, tinh-hoa tiêu báo hết, sinh nơi thế-gian, phần
nhiều làm các loài chim mùa. Dịch-sử-quỷ theo sự linh-hiển, linh-hiển diệt báo
hết, sinh nơi thế-gian, phần nhiều làm tất-cả các loài hưu-trưng.
Truyền-tống-quỷ theo người, người chết báo hết, sinh nơi thế-gian, phần nhiều
làm các loài quấn-quít bên người.
A-nan, bọn ấy đều do lửa-nghiệp đốt xong, sinh ra loài súc, trả hết nợ cũ;
như thế, đều do những nghiệp hư-vọng của tự mình chuốc lấy; nếu ngộ được tính
Bồ-đề, thì các vọng-duyên đó vốn không có gì.
Như lời ông nói, bọn Bảo-liên-hương, Lưu-ly-vương, Thiện-tinh tỷ-khưu đều
vốn tự mình gây ra nghiệp-dữ; nghiệp ấy không phải từ trên trời sa xuống, từ
dưới đất phát ra và cũng không phải do người khác đưa tới, mà chính do
vọng-tưởng của tự mình gây ra, rồi tự mình phải chịu quả-báo; nơi tâm Bồ-đề, đó
chỉ là sự kết-đông của vọng-tưởng giả-dối.
4
THÀNH "NGƯỜI"
Lại nửa, A-nan, các súc-sinh ấy đền-trả nợ trước, nếu trong lúc trả nợ, trả
quá nợ cũ, thì những chúng-sinh ấy, trở lại làm người, đòi lại chỗ thừa. Nếu
bên kia có sức, lại có cả phúc-đức, thì ở trong loài người, không rời-bỏ thân
người, mà hoàn lại chỗ thừa đó; còn nếu không phúc-đức, thì phải làm súc-sinh
đền lại chỗ thừa.
A-nan, nên biết, nếu dùng tiền-của hoặc sức người ta, thì đền đủ là xong;
còn như trong ấy, có giết thân-mạng, hoặc ăn thịt kẻ khác, như thế, thì đi đến
ăn nhau, giết nhau, trải qua nhiều kiếp, số như vi-trần, cũng như bánh xe
xoay-vần, thay-đổi bên cao, bên thấp, không có dừng-nghĩ; trừ khi được phép
Xa-ma-tha, hoặc gặp Phật ra đời, thì không thể thôi được.
Nay ông nên biết loài chim kiêu kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh
trong nhân-đạo, tham-hợp hạng ngoan-cố. Giống cữu-trưng kia, trả nợ đủ, trở lại
hình người, sinh trong nhân-đạo, tham-hợp hạng quái-dị. Những loài hồ kia, trả
nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân-đạo, tham-hợp hạng ngu-dại. Những
loài có độc kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân-đạo, tham-hợp
hạng nham-hiểm. Những loài giun kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong
nhân-đạo, tham-hợp hạng hèn-nhát. Những loài cung-cấp thịt-ăn kia, trả nợ đủ,
trở lại hình người, sinh trong nhân-đạo, tham-hợp hạng nhu-nhược. Những loài
cung-cấp đồ mặc kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân-đạo,
tham-hợp hạng lao-lụy. Những loài chim mùa kia, trả nợ đủ, trở lại hình người,
sinh trong nhân-đạo, tham-hợp hạng văn-hoa. Những loài hưu-trưng kia, trả nợ
đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân-đạo, tham-hợp hạng thông-minh. Những
loài quấn-quít theo người kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong
nhân-đạo, tham-hợp hạng thông-đạt.
A-nan, bọn ấy trả hết nợ cũ, trở lại hình người, đều do từ vô-thủy đến nay,
điên-đảo gây nghiệp, vay trả thừa thiếu, sinh nhau, giết nhau; nếu không gặp
Như-lai, không nghe Chính-pháp, thì ở trong trần-lao, máy-móc xoay-vần mãi mãi;
bọn ấy gọi là thật đáng thương-xót.
5
THÀNH MƯỜI THỨ "TIÊN"
"A-nan, lại có chúng-sinh từ loài người, không nương theo Chính-giác
tu phép Tam-ma-đề, lại riêng tu theo vọng-niệm, để tâm củng-cố hình-hài, vào
trong rừng núi, những chỗ người ta không đến được, thành mười thứ Tiên.
"A-nan, các chúng-sinh kia, kiên-cố dùng đồ-bổ mà không dừng-nghỉ, khi
đạo-ăn được thành-tựu, thì gọi là Địa-hành-tiên.
Kiên-cố dùng cỏ-cây mà không dừng nghỉ, khi đạo-thuốc được thành-tựu, thì
gọi là Phi-hành-tiên.
Kiên-cố dùng kim-thạch mà không dừng-nghỉ, khi đạo hóa-chất được thành-tựu,
thì gọi là Du-hành-tiên.
Kiên-cố làm những động-tác mà không dừng-nghỉ, khi khí-tinh được thành-tựu,
thì gọi là Không-hành-tiên.
Kiên-cố luyện nước-bọt mà không dừng-nghỉ, khi nhuận-đức được thành-tựu,
thì gọi là Thiên-hành-tiên.
Kiên-cố hấp-thụ tinh-hoa mà không dừng-nghỉ, khi hấp-thụ được thành-tựu,
thì gọi là Thông-hành-tiên.
Kiên-cố làm thuật phù-chú mà không ngừng-nghỉ, khi thuật-pháp được
thành-tựu, thì gọi là Đạo-hành-tiên.
Kiên-cố chuyên-chú tâm-niệm mà không dừng-nghỉ, khi chuyên-niệm được
thành-tựu, thì gọi là Chiếu-hành-tiên.
Kiên-cố về thủy hỏa giao-cấu mà không dừng-nghỉ, khi cảm-ứng được
thành-tựu, thì gọi là Tinh-hành-tiên.
Kiên-cố tập-luyện biến-hóa mà không dừng-nghỉ, khi giác-ngộ được thành-tựu,
thì gọi là Tuyệt-hành-tiên.
"A-nan, bọn ấy đều ở trong loài người mà luyện tâm, tuy không tu
Chính-giác, nhưng riêng được lẽ sống, thọ ngàn vạn tuổi, nghỉ ở trong núi sâu
hoặc trên đảo giữa bể cả, cách-tuyệt chỗ người ở; đó cũng là vọng-tưởng luân-hồi
lưu-chuyển. Nếu không tu phép Tam-muội, thì khi quả-báo hết rồi, trở lại tản
vào trong lục-đạo.
6
THÀNH "CHƯ THIÊN" DỤC-GIỚI
"A-nan, các người thế-gian, không cầu-đạo thường-trụ, chưa có thể
rời-bỏ được sự ân-ái với vợ mình, nhưng tâm không buông-lung trong việc tà-dâm,
do tâm đứng-lặng sinh ra sáng-suốt, sau khi mệnh-chung ở gần với mặt trời, mặt
trăng; một loài như thế, gọi là Tứ-Thiên-Vương-Thiên.
Đối với vợ mình, dâm-ái ít-ỏi, trong lúc tịnh-cư, không được toàn-vị, thì
sau khi mệnh-chung, vượt ánh-sáng mặt trời, mặt trăng, ở trên chóp nhân-gian;
một loài như thế, gọi là Đao-lợi-thiên.
Gặp cảnh-dục tạm theo, bỏ đi không nhớ-nghĩ, ở trong nhân-gian, động ít,
tĩnh nhiều, thì sau khi mệnh-chung, sáng-rỡ ở yên trong cõi hư-không, ánh-sáng
mặt trời, mặt trăng không soi đến được; và những người ấy tự mình có ánh-sáng;
một loài như thế, gọi là Tu-diệm-ma-thiên.
Lúc nào cũng tĩnh, nhưng khi có cảm-xúc đến bên mình, chưa chống-đối được,
thì sau khi mệnh-chung, lên trên chỗ tinh-vi, không tiếp với những cảnh
nhân-thiên cõi dưới, cho đến gặp hoại-kiếp, tam-tai cũng không đến nơi; một
loài như thế, gọi là Đâu-suất-đà-thiên.
Chính mình không có tâm dâm-dục, chỉ đáp-ứng với người khác mà làm, trong
lúc phô-bày, vô-vị như ăn sáp, thì sau khi mệnh-chung, vượt lên sinh vào cảnh
biến-hóa; một loài như thế, gọi là Lạc-biến-hóa-thiên.
Không có tâm thế-gian, chỉ đồng với thế-gian mà làm việc ngũ-dục; trong lúc
làm việc ấy, rõ-ràng là siêu-thoát, thì sau khi mệnh-chung, vượt trên tất-cả
những cảnh biến-hóa và không biến-hóa; một loài như thế, gọi là
Tha-hóa-tự-tại-thiên.
A-nan, sáu cõi-trời như thế, hình-thức tuy khỏi động, nhưng tâm-tính còn
dính-dấp; từ các cõi ấy trở xuống, gọi là Dục-giới.
Comments
Post a Comment