LỜI BÀN:
TỔNG : Trước khi HÀNH TRÌ phải học thuộc lòng NGHI THỨC MẬT
TÔNG từ đầu đến cuối, tấc cả âm PHẠN phải chọn 1 bản quen
thuộc ưa thích nhất, như âm ÁN! hoặc UM! …
BIỆT: Chọn thần chú mà Quý vị ưa thích nhất để HÀNH TRÌ SUỐT ĐỜI,
Như trì Chú LĂNG NGHIÊM hoặc Tụng KINH A DI ĐÀ ,
Niệm NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT hay TỌA THIỀN …
Dù TU MÔN NÀO cũng lấy tam tạng KINH, LUẬT, LUẬN làm Y CỨ TU HỌC.
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ
THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ
THIÊN THỦ THIÊN NHÃN
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT QUẢNG ÐẠI VIÊN MÃN VÔ NGẠI
TỰ CẢM
Sáu tám nhọc-nhằn kể xiết chi,
Thăng trầm nhiều nổi chí không di.
Mài giũa cho thành ra ngọc quý,
Mới hay châu nọ thiệt “Ma-ni”.
Một niệm công-thuần hai bốn chẵn,
Cõi tạm khứ-hồi mấy kẻ tri!
Khỉ đến, mèo kêu, ba chuột chạy,
Trần-duyên vĩnh dứt, đoạn sầu bi.
Sáu tám năm qua việc đáng kinh,
Thăng-trầm vùi-dập, lắm tai-tinh.
Chẳng qua một giấc mơ dài ấy,
Mà kiếp phù-sinh tạm múa hình.
Hai bốn năm ròng chuyên NHỨT NIỆM,
DI ĐÀ sáu chữ phóng quang-minh.
Hôm qua tin-tức trời TÂY báo,
GIỜ MẸO MAI ĐÂY TẠ THẾ TÌNH.
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-DI.
Nam mô Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng
TRÚC LIÊN BỔN THẤT
CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ
Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng
HƯƠNG QUÊ CỰC LẠC
"ĐÃ TỪNG trôi nổi riêng thương khách
Muốn nhủ đồng nhơn lại CỐ HƯƠNG!"
Xin mượn hai câu thơ trên để bày tỏ tâm sự tôi vậy.
Mùa an cư năm Canh Tý (1960)
Dịch giả: Liên-Du kính ghi
NGHI THỨC MẬT TÔNG
Từ đây trở về sau, những đoạn nào có kép vòng đơn ( ), là các điều căn-dặn hoặc dẫn-giải, in bằng chữ nghiêng. Chữ lớn thẳng là phần xướng-tụng hành-trì. Trải nhiều năm kinh-nghiệm, Bút giả xét thấy các hành-giả thời nay có những ma-chướng, mà đạo-lực kém-yếu của phần đông người thời mạt-pháp khó nổi vượt qua. Ðó là những ma-chướng nội-tâm, ma-chướng ngoại-cảnh và ma-chướng thuộc giới vô-hình. Vì thế, sau khi nghiên-cứu trong Ðại-tạng, Bút giả đã dựa vào kinh-nghiệm của chính mình và nhiều hành giả khác thuật lại, dung-hợp môn tu Tịnh-độ thuộc Mật-giáo cùng Hiển-giáo soạn ra nghi-thức nầy.
Trong đây chú-trọng về sự khái-quát đơn-giản, lời gọn mà ý-tứ đầy-đủ. Pháp-nghi nói sau chia ra làm ba phần:
1. LỄ BÁI SÁM HỐI
2. TRÌ CHÚ NIỆM PHẬT
3. PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
Xin lưu-ý, Pháp-nghi chỉ là hình-thức, là khuôn-mẫu, để cho “hành-giả” nương vào nơi sự-tướng mà tiến-tu, mà hướng về chơn-cảnh. Còn tiến-trình sâu hay cạn, thấp hay cao, công-đức ít hoặc nhiều , còn tùy tâm chí-thành, sức trì-niệm của các hành-giả.
1. - PHẦN LỄ BÁI SÁM HỐI
( Trước tiên rửa tay, rửa mặt, lễ phục nghiêm-chỉnh. Khi đến nơi lễ tụng, Hành-giả dùng ẤN KIẾT TƯỜNG
tay trái ngón cái nắm co đầu ngón vô danh, vẽ và tưởng chữ LAM
sắc trắng trong lòng tay mặt 3 lần. Rồi tay mặt cũng kiết ấn vẽ vào lòng tay trái y như vậy. Kế tiếp đốt hương rồi bước lui đứng chấp tay trước bàn Phật, đọc bài kệ tán)
Pháp vương vô-thượng tôn
Tam-giới vô luân thất
Thiên nhơn chi Ðạo-sư
Tứ-sanh chi từ-phụ
Ư nhứt niệm quy-y
Năng diệt tam-kỳ nghiệp
Xưng dương nhược tán-thán
Ức kiếp mạc năng tận.
Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì,
Ngã thử đạo-tràng như Ðế-châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
(Hành giả có thể đọc bài kệ tán khác mà mình thích)
PHỔ LỄ CHƠN NGÔN
ÁN-- PHẠ NHỰT RA VẬT (7 lần)
( Trong khi tụng chú, kiết ẤN KIM CANG HIỆP CHƯỞNG
để trên đầu, chấp hai tay lại ngón so le, hữu áp tả. Theo Mật-giáo, nên tưởng mình hiện thân khắp pháp-hội 10 phương, lễ kính chư PHẬT. Xong xả ấn ngay nơi đảnh.)
Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tận hư-không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập-phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, Thường-trụ Tam-Bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật, Ðại-trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, Ðại hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ-pháp Chư-tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới Ðại-từ Ðại-bi A-Di Ðà Phật, Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-tát, Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát, Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát. (1 lạy)
(Kế tiếp, quỳ trước bàn Phật, chấp tay, chí-thành, đọc bài kệ Sám-hối
Ẩn tu thôi mặc dở hay đời
Chỉ ước lâm chung dự biết thời
Nương nguyện Phổ-Hiền sanh Cực-Lạc
Rồi dong thuyền độ khắp nơi nơi.
Ẩn tu tế độ chẳng quên lòng !
Bi, Trí đôi đường phải suốt thông
Y sĩ nhân tâm dù đã sẳn
Còn rành nhân thuật mới thành công !
Ẩn tu quyết chí gạt trần tình
Mặc nỗi khen chê lẫn bất bình
Sức yếu phải cam phần kém yếu
Tình đời ví nhẹ đạo tâm sinh.
Ẩn tu tổng-yếu Tịnh môn mầu
Bí quyết đừng xa nghĩ ngợi cầu
Thanh tịnh chí thành trong mấy điểm
LỰC, HÀNH, NGUYỆN THIẾT với TIN sâu.
Ẩn tu mạt-kiếp thấy lời ghi
Trước mất Lăng Nghiêm pháp diệu kỳ
Lần lượt các kinh đều diệt hết
Duy còn Phật hiệu độ cơ-nguy.)
SÁM THẬP PHƯƠNG
Thập phương Tam-thế Phật
A-Di-Đà đệ nhứt,
Cửu phẩm độ chúng-sanh
Oai-đức vô cùng cực,
Ngã kim đại quy-y.
Sám-hối tam nghiệp tội,
Phàm hữu chư phước thiện,
Chí tâm dụng hồi-hướng.
Nguyện đồng niệm Phật nhơn,
Cảm ứng tùy thời hiện,
Lâm chung Tây-phương cảnh,
Phân-minh tại mục tiền,
Kiến văn giai tinh tấn,
Đồng sanh Cực-lạc quốc,
Kiến Phật liễu sanh-tử,
Như Phật-độ nhứt-thiết,
Vô-biên phiền-não đoạn,
Vô-lượng pháp môn tu;
Thệ nguyện độ chúng-sanh,
Tổng giai thành Phật đạo;
Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,
Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,
Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí.
Nhứt giả lễ kính chư Phật,
Nhị giả xưng tán Như-Lai,
Tam giả quảng tu cúng-dường,
Tứ giả sám-hối nghiệp-chướng,
Ngũ giả tùy-hỉ công-đức,
Lục giả thỉnh chuyển pháp-luân,
Thất giả thỉnh Phật trụ thế,
Bát giả thường tùy Phật học,
Cửu giả hằng thuận chúng-sanh,
Thập giả phổ giai hồi-hướng.
Nguyện tương dĩ thử thắng công-đức,
Hồi-hướng vô-thượng chơn pháp-giới,
Tánh tướng Phật, Pháp cập Tăng-già,
Nhị đế dung thông tam-muội ấn,
Như thị vô-lượng công-đức hãi,
Ngã kim giai tất tận hồi-hướng,
Sở hữu chúng-sanh thân, khẩu, ý,
Kiến hoặc đàn báng ngã pháp đẳng,
Như thị nhứt thiết chư nghiệp-chướng
Tất giai tiêu-diệt tận vô dư,
Niệm niệm trí châu ư pháp-giới,
Quảng độ chúng-sanh giai bất thối,
Nãi chí hư-không thế-giới tận,
Chúng-sanh cập nghiệp phiền-não tận,
Như thị tứ pháp quảng vô-biên,
Nguyện kim hồi-hướng diệc như-thị.
NAM MÔ ÐẠI HẠNH PHỔ HIỀN BỒ TÁT MA HA TÁT. (3 lần)
(Đứng lên chấp tay xướng)
Ðệ-tử Sám-hối, phát-nguyện rồi, chí-tâm đảnh-lễ Tam-bảo. (1 lạy)
2.- PHẦN TRÌ CHÚ NIỆM PHẬT
( Ngồi kiết già hoặc bán già trước bàn Phật. Tịnh tâm trong giây phút, rồi Tưởng chữ LAM sắc Trắng trên đầu, phóng ánh sáng Đỏ.)
Kế dùng ẤN KIẾT TƯỜNG
Viết và Tưởng chữ LAM cùng chữ HÙM! cũng đều sắc Trắng, gia trì Hai lòng bàn tay và Chuỗi, mỗi nơi ba lần.
Lại tiếp dùng ẤN KIẾT TƯỜNG
gia trì SỔ CHÂU CHÂN NGÔN sau đây nơi tràng Chuỗi, xong búng Ba cái, xả ấn trên Đảnh.)
GIA TRÌ SỔ CHÂU CHÂN NGÔN
UM! VAI RÔ CA NA MA RA SÓA HA. (7 lần)
(SỔ CHÂU CHÂN NGÔN: ÚM-- PHỆ LÔ GIÁ NA, MA LA TA PHẠ HẠ.
Xả ấn xong, vẫn ngồi chắp tay tụng bài Hương tán)
Nguyện mây hương mầu này,
Hiện khắp mười phương cõi.
Tất cả các Phật độ,
Vô lượng hương trang nghiêm.
Đầy đủ Bồ Tát đạo,
Thành tựu Như Lai hương.
Nam mô Hương Vân cái Bồ Tát ma ha tát (3 lần)
(Vẫn chắp tay tụng tiếp bài tán Vô Lượng Thọ)
Quang, thọ khó suy lường,
Sáng lặng khắp mười phương.
Thế Tôn Vô Lượng Quang,
Cha lành cõi Liên ban.
Thần lực chẳng tư nghì,
Sống lâu A tăng kỳ.
A Di Đà Như Lai,
Tiếp dẫn lên liên đài.
Cực Lạc cõi thuần tịnh,
Công đức lạ trang nghiêm.
Nơi tất cả quần sanh,
Vượt lên ngôi Bất thối.
Mười phương hằng sa Phật.
Đều ngợi khen Vô Lượng.
Cho nên hôm nay con,
Nguyện sanh về An Dưỡng.
Nam mô Liên trì hải hội Phật Bồ Tát. (3 lần)
(Tiếp tụng)
PHỔ THANH TỊNH CHÂN NGÔN
UM! SOA PHẠ VA SUÝT ĐA, SẠT VA ĐẠT MA,
SOA PHẠ VA SUÝT ĐA HÀM.
UM! LAM LAM LAM.
(7 lần)
đủ vô lượng pháp môn. Là mẹ của tất cả Chơn ngôn. Tất cả đức Như Lai đều nhờ quán tưởng chữ này mà được thành Phật.
Khi tụng chú này, kiết CHUẨN ĐỀ BIỆT ẤN.
Cả hai tay, ngón cái nắm co ba ngón: trỏ, vô danh và út. Kế hiệp hai lại, hai ngón giữa dụm đầu nhau dựng đứng. Tụng xong xả ấn nơi đảnh.
Đây là phối hợp chú
TỊNH BA NGHIỆP CHƠN NGÔN
ÁN TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐÀ TA PHẠ,
ĐẠT MẠ TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐỘ HÁM.
và
TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN
ÁN LAM
PHỔ THANH TỊNH CHÂN NGÔN
ÁN TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐÀ TA PHẠ,
ĐẠT MẠ TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐỘ HÁM.
ÁN LAM LAM LAM.
Chân ngôn này có công năng khiến cho bên trong: thân, khẩu, ý, y phục, bên ngoài từ chỗ ở của mình đến hoàn cảnh rộng xa đều thanh tịnh. Do chú này, tội chướng đều được tiêu trừ, có thể thành tựu các việc thù thắng.)
HỘ THÂN CHƠN NGÔN
UM ! PHẠ NHỰT RA, A NGHĨ NI, BÁ RA NĂM BÌ ĐÁ DA, SÓA HA.
UM! XỈ LÂM, XỈ LÂM, XỈ LÂM.
(7 lần)
(Khi tụng chú này, kiết ẤN BỊ GIÁP HỘ THÂN
Hành giả xoa hai tay vào trong, hữu áp tả, hai ngón giữa dựng đầu dính vào nhau, hai ngón cái áp vào ngón vô danh. Hai ngón trỏ cong lại như lưỡi câu, nhưng không đụng vào lưng hai ngón giữa.
Đây là phối hợp
CHÚ HỘ THÂN
UM ! PHẠ NHỰT RA, A NGHĨ NI, BÁ RA NĂM BÌ ĐÁ DA, SÓA HA.
trong nghi THẬP BÁT ĐẠO và
VĂN THÙ NHỨT TỰ CHƠN NGÔN
ÚM XỈ LÂM
khi kiết tụng ấn chú này, thân của đương nhơn liền được mặc giáp trụ. Tất cả loài ma làm chướng ngại, bỗng thấy hành giả oai đức tự tại, ánh sáng bao phủ chói ngời, liền tan rã bỏ chạy. Sức chân ngôn nầy có thể bảo về được bản thân và tất cả mọi người xung quanh. Các ách nạn như: nước, lửa, cọp, sói, sư tử, dao gậy, gông xiềng thảy điều tiêu diệt. Khi tụng chú này xong 7 biến liền xả ấn nơi đảnh.
Kế hai tay đều kiết ẤN KIM CANG QUYỀN
ngón cái bấm vào gốc ngón vô danh, nắm chặt lại. Rồi đem ấn in vào các nơi:
1. Trán,
2. Yết hầu, (trước cổ)
3. Hai vai,
4. Ngực,
5. Rún,
6. Hai bắp đùi,
7. Sau thận môn, (chổ ở sau thắt lưng)
8. Xương gu cổ (sau cổ)
9. Và ĐẢNH, rồi xả ấn.
Trong khi ấy miệng tụng chữ HÙM!
liên tiếp, cho đến khi xả ấn rồi mới thôi. Đây là pháp thức trấn tà ma không cho xâm nhập vào thân.)
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN
NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA.
NAM MÔ A RỊ DA. A MI TÁ BÀ DA. TÁT THA GA TÁ DA. A RA HA TI. SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA. TÁT DA THA.
UM ! A MI RỊ TI. A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ GA BÊ. A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ. A MI RỊ TÁ SI TÊ. A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.
A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ. A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI. A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI. SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI. SẠT VA MA CA LI. SA KHẤT SÁ DU CA LI. SÓA HA.
UM! BÚT RUM! HÙM!
(54 hoặc 108 lần)
Khi tụng chân ngôn này, kiết ẤN VÔ LƯỢNG LIÊN HOA
Hai xoa bên ngoài hữu áp tả. Dựng hai ngón giữa đầu dụm cong lại như cánh sen. Có thể kiết ấn này tụng chân ngôn ba lần, xả ấn lên đảnh, rồi lần chuỗi ký số. Đà ra ni này, tụng một biến, diệt các tội Tứ trọng, Ngũ nghịch, Thập ác trong tự thân, tất cả tội chướng đều tiêu diệt.
Nếu hàng xuất gia tăng ni, hoặc tại gia thiện tín, phạm giới căn bản, tụng xong bảy biến trở lại được giới phẩm thanh tịnh. Khi kiết ấn tụng chơn ngôn nầy, liền cảnh giác đức Vô Lượng Thọ Như Lai phóng quang trụ nơi đảnh của hành-giả, và được sự nhiếp thọ. Tụng đến một vạn biến, Tâm bồ đề hiển hiện trong thân không quên mất.
Người trì niệm lần lần thể nhập vào tịnh tâm tròn sáng mát mẻ trong sạch như trăng thu, tiêu tan tất cả phiền não. Khi lâm chung, hành giả thấy Phật A Di Đà cùng với vô lượng trăm ức chúng Bồ Tát vây quanh đến an ủi tiếp dẫn. Đương nhơn liền sanh về phẩm Thượng thượng ở Cực Lạc.
Câu: “UM! BÚT RUM! HÙM!” là chân ngôn “NHỨT TỰ CHUYỂN LUÂN”
như bánh xe nâng đỡ, khi phối hợp vào, có công năng làm cho các chơn ngôn khác mau kiến hiệu và thành tựu. Trên đây là pháp thức Tịnh độ của Mật giáo. Các vị tu Mật tông muốn sanh về Cực Lạc, chỉ chuyên tụng chú nầy.
Bút giả vì xét thấy nhiều liên hữu khi tu bị phiền não và ma nạn khuấy rối, nên phối hợp dụng chân ngôn nầy đi tiên phong dẹp chướng ngại, khiến cho thân tâm dễ được thanh tịnh trước khi niệm Phật. Tuy nhiên chúng sanh túc tập và sở báo đều khác.
Vị nào thích tụng chú Đại Bi hoặc Chuẩn Đề, thì chỉ cần đổi bài kệ tán Đại Bi, Chuẩn Đề. Và sau khi tụng chú hộ thân, Lục tự đại minh, tiếp tụng môn đà ra ni của mình. Và hành giả nào thích tụng kinh Kinh Cang hoặc Pháp Hoa, chỉ đổi đoạn trì chú thành tụng kinh, rồi tiếp tục niệm Phật.
Chân ngôn Vô Lượng Thọ thuộc về Bất tư nghì thần lực, câu niệm Phật thuộc về Bất tư nghì công đức. Cả hai, bên Mật bên Hiển, cùng một nguồn gốc, đều có năng lực đưa hành giả về Tịnh độ. Nếu phối hợp lại, tất công năng vãng sanh càng thêm kiến hiệu.
Tụng chân ngôn xong, tiếp chắp tay đọc TÂM KINH và bài kệ khen tướng hảo đức A Di Đà và tiếp qua niệm Phật.)
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Quán-tự-tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.
Xá-Lợi-Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh, diệc vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu tam bồ-đề.
Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát ba ha.
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA. (3 lần)
Khể thủ tây phương An-Lạc quốc
Tiếp dẫn chúng-sanh đại đạo sư
Ngã kim phát nguyện nguyện vãng sanh
Duy nguyện từ-bi ai nhiếp thọ
Ngã kim phổ vị tứ ân tam hữu, cập pháp-giới chúng-sanh cầu ư chư Phật, nhứt thừa vô-thượng bồ-đề đạo-cố, chuyên tâm trì niệm A-Di-Ðà-Phật vạn đức hồng danh kỳ sanh tịnh-độ. Duy nguyện Từ-Phụ A-Di-Ðà Phật ai lân nhiếp thọ từ-bi gia hộ.
A-Di-Ðà Phật thân kim sắc
Tướng hảo quang-minh vô đẳng luân,
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu-Di.
Hám mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa bồ-tát chúng diệc vô-biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A-DI-ÐÀ PHẬT
(Kế tiếp niệm)
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
( Chuyên tụng Vô Lượng Thọ Như Lai Đà Ra Ni cũng được vãng sanh, nhưng vì câu chân ngôn dài khó nhiếp tâm hơn sáu chữ hồng danh, nên sau khi trì chú lại tiếp niệm Phật.
Về cách trì niệm, Bút giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – Ký số niệm: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là ký số.
2 – Chứng số niệm: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là chứng số. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 –Chỉ quán niệm: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là Chỉ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là Quán. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép Chỉ, hôn trầm dùng phép Quán.
4 – Tịch tĩnh niệm: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là Tịch tĩnh niệm.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.)
3.- PHẦN PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A Di Đà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát (3 câu)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát (3 câu)
Nam mô Thanh tịnh đại hải chúng Bồ tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ: Nam mô Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A-Di-Ðà Như-Lai biến pháp giới Tam bảo (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
CHUNG
UM! BÚT RUM! HÙM!
TỲ KHƯU THÍCH VIÊN ĐỨC DỊCH
BỘ LÂM
(BÚT RUM!)
( Trì tụng UM! BÚT RUM! HÙM! đến KHI tương tục không gián đoạn, THÌ tấc cả vọng niệm không sanh khởi sẽ thấy LINH NGHIỆM hay QUÁN 1 chữ PHẠN BỘ LÂM hiện ra rõ ràng sẽ thấy LINH NGHIỆM )
Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật:
"Bạch đức Thế Tôn! Nếu chúng sanh nào trì tụng thần chú Đại Bi mà còn bị đọa vào ba đường ác, tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được sanh về các cõi Phật, tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được vô lượng tam muội biện tài tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi tất cả sự mong cầu trong đời hiện tại, nếu không được vừa ý, thì chú này không được gọi là Đại Bi tâm đà ra ni, duy trừ cầu những việc bất thiện, trừ kẻ tâm không chí thành.
KINH THIÊN THỦ THIÊN NHÃN
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT QUẢNG ÐẠI VIÊN MÃN
VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ÐÀ LA NI
NGHI THỨC
TRÌ NGŨ BỘ CHÚ
(Đứng đọc 2 bài kệ : Khen Phật và Lễ Phật)
Thiên thượng thiên hạ vô như Phật
Thập phương thế giới diệc vô tỷ
Thế gian sở hữu ngã tận kiến
Nhứt thế vô hữu như Phật giả
Năng lễ sở lễ tánh không tịch
Cảm ứng đạo giao nan tư nghị
Ngã thử đạo tràng như đế châu
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền
Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
(Xướng lễ Tam Bảo)
1. Chí tâm đảnh lễ, Nam mô thập phương pháp giới thanh tịnh diệu pháp thân, Tỳ lô giá na Phật.
2. Chí tâm đảnh lễ, Nam mô thập phương pháp giới viên mãn báo thân, Lô Xá Na Phật.
3. Chí tâm đảnh lễ, Nam mô thập phương pháp giới, giải thoát tướng nghiêm thân, nhứt thế Ứng Hóa Phật.
4. Chí tâm đản lễ, Nam mô thập phương pháp giới, thâm diệu mật tạng, nhứt thế Đà La Ni môn.
5. Chí tâm đảnh lễ, Nam mô thập phương pháp giới, phước trí nhị nghiêm thân nhứt thế hải chúng Bồ tát.
(Đứng dậy chắp tay đọc bài Tán Dương Chi)
Dương chi tịnh thủy, biến sái tam thiên.
Tánh không bát đức lợi nhơn thiên
Pháp giới quảng tăng diên, diệt tội tiêu khiên, hỏa diệm hóa hồng liên.
Nam mô Thanh lương địa Bồ tát ma ha tát. (3 lần)
(Ngồi kiết già chắp tay tụng Chú Đại Bi)
Nam mô đại bi hội thượng Phật Bồ tát (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni
1. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da
2. Nam mô a rị da
3. Bà lô yết đế thước bát ra da
4. Bồ Đề tát đỏa bà da
5. Ma ha tát đỏa bà da
6. Ma ha ca lô ni ca da
7. Án
8. Tát bàn ra phạt duệ
9. Số đát na đát tỏa
10.Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da
11.Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà
12.Nam mô na ra cẩn trì
13.Hê rị, ma ha bàn đa sa mế
14.Tát bà a tha đậu du bằng
15.A thệ dựng
16.Tát bà tát đa (Na ma bà tát đa)
17.Na ma bà dà
18.Ma phạt đạt đậu đát điệt tha
19.Án. A bà lô hê
20.Lô ca đế
21.Ca ra đế
22.Di hê rị
23.Ma ha bồ đề tát đỏa
24.Tát bà tát bà
25.Ma ra ma ra
26.Ma hê ma hê rị đà dựng
27.Cu lô cu lô yết mông
28.Độ lô độ lô phạt xà da đế
29.Ma ha phạt xà da đế
30.Đà ra đà ra
31.Địa rị ni
32.Thất Phật ra da
33.Giá ra giá ra
34.Mạ mạ phạt ma ra
35.Mục đế lệ
36.Y hê di hê
37.Thất na thất na
38 A Ra sâm Phật ra xá lợi
39.Phạt sa phạt sâm
40.Phật ra xá da
41.Hô lô hô lô ma ra
42.Hô lô hô lô hê rị
43.Ta ra ta ra
44.Tất rị tất rị
45.Tô rô tô rô
46.Bồ Đề dạ Bồ Đề dạ
47.Bồ đà dạ bồ đà dạ
48.Di đế rị dạ
49.Na ra cẩn trì
50.Địa rị sắc ni na
51.Ba dạ ma na
52.Ta bà ha
53.Tất đà dạ
54.Ta bà ha
55.Ma ha tất đà dạ
56.Ta bà ha
57.Tất đà du nghệ
58.Thất bàn ra dạ
59.Ta bà ha
60.Na ra cẩn trì
61.Ta bà ha
62.Ma ra na ra
63.Ta bà ha
64.Tất ra tăng a mục khê da
65.Ta bà ha
66.Ta bà ma ha a tất đà dạ
67.Ta bà ha
68.Giả kiết ra a tất đà dạ
69.Ta bà ha
70.Ba đà ma kiết tất đà dạ
71.Ta bà ha
72.Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ
73.Ta bà ha
74.Ma bà rị thắng yết ra dạ
75.Ta bà ha
76.Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da
77.Nam mô a rị da
78.Bà lô kiết đế
79.Thước bàn ra dạ
80.Ta bà ha
81.Án. Tất điện đô
82.Mạn đà ra
83.Bạt đà gia
84.Ta bà ha.
(Đọc bài tán dương công đức chú Chuẩn đề)
Chuẩn đề công đức tụ
Tịch tịnh tâm thường tụng
Nhứt thế chư đại nạn
Vô năng xâm thị nhân
Thiên thượng cập nhân gian
Thọ phước như Phật đẳng
Ngộ thử như ý châu
Định hoạch vô đẳng đẳng
(Đọc tiếp bài kệ này)
Khể thủ quy y tô tất đế
Đầu diện đảnh lễ thất cu chi
Ngã kim xưng tán đại Chuẩn đề
Duy nguyện từ bi thùy gia hộ.
Nam mô thất cu chi Phật mẫu sở huyết đại Chuẩn đề Đà la ni
TRÌ NGŨ BỘ CHÚ
1. Tịnh pháp giới chơn ngôn : (1 lần)
Án lam (21 lần)
2. Hộ thân chơn ngôn : (1 lần)
Án xỉ lam (21 lần)
3. Lục tự đại minh chơn ngôn : (1 lần)
Án ma ni bát di hồng (21 lần)
4. Nam mô tát đa nẩm, tam miệu tam bồ đề, cu chi nẩm, đát điệt tha. Án chiết lệ chủ lệ chuẩn đề, ủng hộ đệ tử, pháp danh… nguyện tiêu tai chướng, nguyện chưởng phước duyên, nguyện kiến Di Đà, nguyện sanh Tịnh Độ, ta bà ha bộ lâm. (21 lần)
5. Án chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta ha bộ lâm (108 biến)
(Quỳ thẳng và tụng tiếp sau đây)
Ngã kim trì tụng đại Chuẩn đề
Tốc phát Bồ đề quảng đại nguyện
Nguyện ngã định huệ tốc viên minh
Nguyện ngã công đức giai thành tựu
Nguyện ngã thắng phước biến trang nghiêm
Nguyện cọng chúng sanh thành Phật đạo
Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp
Giai do vô thỉ tham, sân, si
Tùng thân khẩu ý chi sở sanh.
Nhứt thiết ngã kim giai sám hối
Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời
Tận trừ nhứt thế chư chướng ngại
Diện kiến bỉ Phật A Di Đà
Tức đắc vãn sanh an lạc sát.
(đồng đứng dậy, xướng lạy ba lạy)
Nam mô Đại thánh Chuẩn đề vương Bồ tát ma ha tát. (3 lạy)
(đồng quỳ xuống, tụng tiếp như sau)
THIỆN NỮ THIÊN CHÚ
Nam mô Phật Đà
Nam mô Đạt Mạ
Nam mô Tăng Già
Nam mô thất lỵ, ma ha đề tỷ da, đát nể dã tha, ba lỵ phú lầu na, giá lỵ tam mạn đà, đạt xá ni, ma ha tỳ ha ra dà đế, tam mạn đà, tỳ ni dà đế, ma ha ca rị đã, ba nể ba ra ba nể, tát rị phạ lặt tha, tam mạn đà, tu bát lê đế, phú lệ na, a rị na, đạt mạ đế, ma ha tỳ cổ tất đế, ma ha di lặc đế, lâu phả tăng kỳ đế, hê đế, tỷ tăng kỳ hê đế, tam mạn đà, a tha a nâu đà la ni.
Nam mô Tam châu cảm ứng Hộ pháp Vi đà TÔN thiên Bồ tát. (3 lần)
Trì chú công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ tát đạo
Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung
Cữu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ tát vi bạn lữ
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhứt thiết
Ngã đẳng dữ chúng sanh
Giai cọng thành Phật đạo
Thiên, A tu la, dược xoa đẳng
Lai thính pháp giả ứng chí tâm
Ủng hộ Phật pháp sử thường tồn
Các các thường hành Thế TÔN giáo
Chư hữu thính đồ lai chí thử
Hoặc tại địa thượng hoặc hư không
Thường ư nhơn thế khởi từ tâm
Trú dạ tự thân y pháp trụ
Nguyện chư thế giới thường an ổn
Vô biên phước trí ích quần sanh
Sở hữu tội chướng tịnh tiêu trừ
Viễn ly chúng khổ quy viên tịch
Hằng dụng giới hương đồ oanh thể
Thường trì định phục dĩ tư thân
Bồ đề diệu pháp biến trang nghiêm
Tùy sở trụ xứ thường an lạc.
Nam mô Hộ pháp tạng Bồ tát ma ha tát (3 lạy)
(đứng đọc tiếp)
PHỤC NGUYỆN
Tam bảo chứng minh
Oai thần hộ niệm
Bồ tát Thinh văn
Phạm thiên Đế thích
Tứ thiên vương chúng
Thiên long bát bộ
Hộ pháp thần vương
Nhứt thế thiện thần
Đồng thùy chứng giám
Đệ tử chúng đẳng
Chí tâm trì chú
Hồi hướng công đức
Sơn lâm thủy lục
Không giã thị thành
Oan hồn yểu tử
Nhứt thế hương linh
Cu sanh Tịnh độ
THỨ NGUYỆN
Đệ tử chúng đẳng
Tiêu trừ nghiệp chướng
Tà ma ngoại đạo
Yêu quái ác tinh
Ly mỵ vọng lượng
Áp trừ chú trớ
Tật bịnh tội khiên
Tai nạn hoạnh ương
Nhứt thế ác duyên
Tất giai tiêu diệt
PHỔ NGHUYỆN
Tứ thời an lạc
Sở trụ phong nhiêu
Phước huệ tăng long
Tùy tâm mãn nguyện
Nam mô công đức lâm Bồ tát ma ha tát. (3 lạy)
NGHI THỨC
TỌA THIỀN NIỆM PHẬT
- Hành giả súc miệng, rữa tay sạch sẽ, y phục tề chỉnh ngồi trước bàn Phật hoặc ở trong phòng riêng hay trong mùng, chỗ nào mát mẽ và không muỗi, là tiện hơn hết.
- Hành giả ngồi kiết già hay bán già cũng được, ngồi thẳng lưng, cổ ngay, đầu hơi nghiêng tới, đôi mắt mở một phần b, tay bỏ xuôi theo chân và đọc thầm hai bài chú như sau :
CHÚ NGỒI KIẾT GIÀ
Kiết già phu tọa
Đương nguyện chúng sanh
Thiện căn kiên cố
Đắc bất động địa
Án phạ tất ra a ni, bác ra ni, ấp da da tá ha (3 lần)
CHÚ TỌA THIỀN
Chánh thân đoan tọa
Đương nguyện chúng sanh
Tọa Bồ đề tòa
Tâm vô sở trước
Án phạ tất ra a ni, bác ra ni, ấp da da tá ha (3 lần)
- Hành giả bắt đầu hít vô và thở ra mười hơi thiệt dài và mạnh. Khi thở ra hành giả phải tưởng bao nhiêu các phiền não trược khí trong người bị tống ra theo hơi thở này. Khi hít vào hành giả phải tưởng : những thanh khí, tươi sáng của vũ trụ, chủa chơn lý, được thấm vào thân tâm làm cho hành giả nhẹ nhàng sảng khoái.
- Xong rồi hành trở lại thở thật nhẹ và dài, chắp tay ngang ngực và đọc thầm các bài như sau :
BÀI CÚNG HƯƠNG
Giới hương, định hương dữ Huệ hương
Giải thoát, Giải thoát tri kiến hương
Quang minh vân đài biến pháp giới
Cúng dường thập phương tam bảo tiền
Nam mô Hương cúng dường Bồ tát ma ha tát (3 biến)
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu ni Phật (3 biến)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn ức kiếp nan ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như lai chơn thật nghĩa
Nam mô thập phương thường trụ Tam bảo (3 lần)
Hành giả tay trái ký thẳng, tay mặt cầm chuỗi và đọc các bài chú như sau :
CHÚ CẦM CHUỔI NIỆM PHẬT
Bồ đề nhất bá bát
Diệt tội đẳng hà sa
Viễn ly tam đồ khổ
Xích sắc biến liên hoa
Án phệ lô dá na, mạ lạ, mạ lạ, tá phạ hạ (3 lần)
Ái hà thiên xích lãng
Khổ hải vạn trùng ba
Dục thoát luân hồi khổ
Tảo cấp niệm Di Đà
Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới, Đại từ Đại bi, tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật. (niệm nhiều ít tùy ý).
Hành giả không niệm ra tiếng, chỉ dùng tâm tưởng niệm danh hiệu Phật A Di Đà. Niệm mỗi câu, tai hành giả đều nghe rõ ràng sáu tiếng, không lu mờ một tiếng nào.
Niệm “Nam mô A Di Đà Phật” đếm một, niệm “Nam mô A Di Đà Phật” đếm hai, cho đến mười câu lần một hột chuỗi. Hành giả bắt đầu đếm một lại, cho đến mười câu lần một hột chuỗi nữa. ?
Trong khi đếm, nếu niệm ít mà nhớ nhiều thì hành giả phải bắt đầu đếm lại một, hay đã niệm nhiều, mà nhớ ít, cũng bắt đầu đếm lại một, hoặc quên không biết đã niệm được bao nhiêu rồi, cũng bắt đầu đếm lại một.
Khi niệm Phật xong, tiếp niệm bốn vị thánh như sau :
LỜI BÀN:
7. Ký Thập Trì Danh: - Đây là cách niệm ký số, cứ lấy mỗi mười câu làm một đơn vị. Người hơi ngắn có thể niệm thành hai lượt, mỗi đoạn năm câu; hoặc chia ra ba lượt, hai đoạn ba câu một đoạn bốn câu. Sau khi niệm đủ mười câu, đều lần qua một hạt chuỗi. Niệm theo lối này, tâm đã niệm Phật, lại còn phải ghi nhớ số. Như thế dù không chuyên cũng bắt buộc phải chuyên, nếu không chuyên thì số mục liền sai lạc. Cho nên pháp này đại để là một phương tiện cưỡng bức cho hành giả chuyên tâm, rất có công hiệu với những kẻ nhiều tạp niệm. Ấn Quang đại sư thường khuyên các liên hữu áp dụng cách thức trên đây.
Niệm Phật Thập Yếu
( Chuyên tụng VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN cũng được vãng sanh, nhưng vì câu chân ngôn dài khó nhiếp tâm hơn sáu chữ hồng danh, nên sau khi trì chú lại tiếp niệm Phật.
Về cách trì niệm, Bút giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – Ký số niệm: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là ký số.
2 – Chứng số niệm: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là chứng số. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 –Chỉ quán niệm: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là Chỉ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là Quán. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép Chỉ, hôn trầm dùng phép Quán.
4 – Tịch tĩnh niệm: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là Tịch tĩnh niệm.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.)
Hòa Thượng Thích Thiền-Tâm
Nam mô Quán thế âm Bồ tát (10 biến)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát (10 biến)
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát (10 biến)
Nam mô Thanh Tịnh đại hải chúng Bồ tát (10 biến)
BÀI SÁM
Đệ tử chúng đẳng tùy thuận tu tập
Phổ Hiền Bồ tát thập chủng đại nguyện :
Nhứt giả lễ kỉnh chư Phật
Nhị giả xưng táng Như Lai
Tam giả quảng tu cúng dường
Tứ giả sám hối nghiệp chướng
Ngũ giả tùy hỷ công đức
Lục giả thỉnh chuyển pháp luân
Thất giả thỉnh Phật trụ thế
Bát giả thường tùy Phật học
Cửu giả hằng thuận chúng sinh
Thập giả phổ giai hồi hướng
HỒI HƯỚNG
Niệm Phật công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện Pháp giới chư chúng sanh
Tốc vãng Vô lượng quang Phật sát
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ tát đạo
Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhất thiết
Ngã đẳng dữ chúng sanh
Giai cọng thành Phật đạo.
Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 xá)
Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 xá)
Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 xá)
Hành giả đọc bài kệ xả già như sau và duỗi dài hai chân ra độ 3 phút cho máu chạy đều rồi sẽ đứng dậy.
Xả già phu tọa
Đương nguyện chúng sanh
Quán chư hạnh pháp
Tất quy tán diệt.
NGHI THỨC
KINH HÀNH NIỆM PHẬT
Hành giả nào thường bị bịnh hôn trầm (ngủ gật) hoặc ngồi lâu hay tê mỏi v.v…thì nên dùng phương pháp Kinh hành niệm Phật này. Nghĩa là hành giả vừa đi xung quanh bàn thờ Phật và vừ niệm Phật, (đi từ trái qua mặt).
Trước nhất hành giả phải đốt hương đèn trên bàn đứng trước Phật, đọc bài tán thán công đức Phật, rồi lễ Tam bảo, theo nghi thức như sau :
Như Lai diệu sắc thân
Thế gian vô dữ đẳng
Vô tỷ bất tư nghị
Thị cố kim đảnh lễ
Như Lai sắc vô tận
Trí huệ diệc phục nhiên
Nhứt thế pháp thường trụ
Thị cố ngã quy y
Đại trí đại nguyện lực
Phổ độ ư quán sanh
Linh xả nhiệt nảo thân
Sanh bỉ thanh lương quốc
Ngã kim tịnh tam nghiệp
Quy y cặp lễ tán
Nguyện cọng chư chúng sanh
Đồng sanh an lạc sát.
1. Chí tâm đảnh lễ
Thường Tịch Quang Tịnh độ, A Di Đà Như Lai, Thanh tịnh diệu pháp thân, biến pháp giới chư Phật. (1 lạy)
2. Chí tâm đảnh lễ
Thật báo trang nghiêm độ, A Di Đà Như Lai, vi trần tướng hải thân, biến pháp giới chư Phật. (1 lạy)
3. Chí tâm đảnh lễ
Phương tiện thánh cư độ, A Di Đà Như Lai, Giải thoát tướng nghiêm thân, biến pháp giới chư Phật. (1 lạy)
4. Chí tâm đảnh lễ
Tây phương An lạc độ, A Di Đà Như Lai, Đại thừa căn giới thân, biến pháp giới chư Phật. (1 lạy)
5. Chí tâm đảnh lễ
Tây phương An lạc độ, A Di Đà Như Lai, thập phương quá vãng thân, biến pháp giới chư Phật. (1 lạy)
6. Chí tâm đảnh lễ
Tây phương An lạc độ, Giáo Hạnh Lý tam kinh, cực y chánh tuyên dương, biến pháp giới TÔN pháp. (1 lạy)
7. Chí tâm đảnh lễ
Tây phương An lạc độ, Quán Thế Âm Bồ tát, vạn ức tử kim thân, biến pháp giới Bồ tát. (1 lạy)
8. Chí tâm đảnh lễ
Tây phương An lạc độ, Đại Thế Chí Bồ tát, vô biên quang chí thân, biến pháp giới Bồ tát. (1 lạy)
9. Chí tâm đảnh lễ
Tây phương An lạc độ, thanh tịnh Đại hải chúng, Phước Trí nhị nghiêm thân, biến pháp giới Thánh chúng. (1 lạy)
Đứng chắp tay nguyện (chủ lễ xướng)
Ngã kim phổ vị tứ ân, tam hữu, pháp giới chúng sanh, tất nguyện đoạn trừ tam chướng, quy mạng sám hối.
Quỳ gối chắp tay sám hối.
Chí tâm sám hối :
Đệ tử (pháp danh), cập pháp giới chúng sanh, tùng vô thỉ lai, vô minh sở phú, điên đảo mê hoặc, nhi do lục căn tam nghiệp, tập bất thiện pháp, quảng tạo thập ác, cập ngũ vô gián nhứt thiết chúng tội, vô lượng vô biên, thuyết bất khả tận, thập phương chư Phật, thường trụ thế gian, pháp âm bất tuyệt, diễu hương sung tắc, pháp vị đinh không, phóng tịnh quang minh, chiếu xúc nhất thiết, thường trụ diệu lý, biến mãn hư không.
Ngã vô thỉ lai, lục căn nội manh, tam nghiệp hôn ám, bất kiến, bất văn, bất giác, bất tri, dĩ thị nhơn duyên, trường lưu sanh tử, kinh lịch ác đạo, bá thiên vạn kiếp, vĩnh vô xuất kỳ.
Kinh vân : Tỳ lô giá na, biến nhứt thiết xứ, kỳ Phật sở trụ, danh Thường tịch quang.
Thị cố dương tri, nhứt thiết chư pháp, vô phi Phật pháp, nhi ngã bất liễu, tùy vô minh lưu, thị tắc ư Bồ đề trung, kiến bất thanh tịnh, ư giải thoát trung, nhi khởi triền phược; kim thỉ giác ngộ, kim thỉ chi hối, phụng đối chư Phật, Di Đà Thế TÔN, phát lồ sám hối, Đương linh ngã dữ pháp giới chúng sanh, tam nghiệp lục căn, vô thỉ sở tác, hiện tác, dương tác, tự tác giáo tha, kiến văn tùy hỷ, nhược ức bất ức, nhược thức bất thức, nhược nghi bất nghi, nhược phú nhược lộ, nhứt thiết trọng tội, tất giai thanh tịnh.
Ngã sám hối dĩ, lục căn tam nghiệp, tịnh vô hà lụy, sở tu thiện căn, tất diệt thanh tịnh, giai tất hồi hướng, trang nghiêm Tịnh độ, phổ dữ chúng sanh, đồng sanh an dưỡng.
Nguyện : A Di Đà Phật, thường lại hộ trì, linh ngã thiện căn, hiện tiền tăng tấn, bất thất tịnh nhân, lâm mạng chung thời, thân tâm chánh niệm, thị thính phân minh, diện phụng Di Đà, dữ chư Thánh chứng, thủ chấp hoa đài tiếp dẫn ư ngã, nhứt sát na khoảnh, sanh tại Phật tiền, cụ Bồ tát đạo, quảng độ chúng sanh đồng thành chủng trí. (1 xá)
Tội tùng tâm khởi tùng tâm sám
Tâm nhược diệt thời tội diệt vong
Tội vong tâm diệt lưỡng câu không
Thị tắc danh vi chơn sám hối (xá rồi đứng dậy)
Nam mô cầu sám hối Bồ Tát Ma Ha Tát
(đọc 3 lần, mỗi lần 1 lạy rồi đứng dậy đọc tiếp)
A Di Đà Phật thân kim sắc
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu di
Hám mục trừng thanh tứ đại hải
Quang trung hóa Phật vô số ức
Hóa Bồ tát chúng diệt vô biên
Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn
Nam mô Tây phương cực lạc thế giới, đại từ đại bi, tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.
Nam mô A Di Đà Phật.
(hành giả đi xung quanh bàn Phật từ trái qua mặt, hoặc 3 vòng hoặc 8 vòng tùy ý, vừa đi vừa niệm Phật)
Nam mô Đại bi Quán thế Âm Bồ tát. (3 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát (3 lần)
Nam mô Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát (3 lần)
Nam mô Thanh tịnh Đại hải chúng Bồ tát (3 lần)
(đồng quỳ xuống chắp tay và đọc bài sám như sau) :
Đệ tử chúng đẳng
Tùy thuận tu tập
Phổ Hiền Bồ tát
Thập chúng đại nguyện
Nhứt giả lễ kính chư Phật
Nhị giả xưng tán Như Lai
Tam giả quảng tu cúng dường
Tứ giả sám hối nghiệp chướng
Ngũ giả tùy hỷ công đức
Lục giả thỉnh chuyển pháp luân
Thất giả thỉnh Phật trụ thế
Bát giả thường tùy Phật học
Cửu giả hằng thuận chúng sanh
Thập giả phổ giai hồi hướng
(tiếp đọc bài hồi hướng)
Niệm Phật công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ tát đạo
Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ tát vi bạn lữ
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhứt thế
Ngã đẳng dữ chúng sanh
Giai cọng thành Phật đạo
(đồng đứng dậy)
Đệ tử đại vì nhứt thế Sư trưởng ân, chí tâm đản lễ, Nam mô Tận Hư không, biến pháp giới, quá hiện, vị lai, thập phương chư Phật, TÔN pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam bảo. (1 lạy)
Đệ tử đại vì nhứt thế Phụ mẫu ân, chí tâm đảnh lễ, Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Long Hoa Giáo Chủ đương lai hạ sanh Di Lặc TÔN Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Linh Sơn hội thượng Phật Bồ tát. (1 lạy)
Đệ tử đại vì tam đồ thọ khổ, cập pháp giới nhứt thế chúng sanh, chí tâm đảnh lễ, Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới, Đại từ Đại bi tiếp dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát, Liên trì Hải hội Phật Bồ tát. (1 lạy)
HẾT
Comments
Post a Comment