“NHẪN” LỰC
 
The Power of Patience


TIÊU TAI CÁT TƯỜNG cho đến thành PHẬT đều do “NHẪN” LỰC mà thành tựu


(Thông thường người đời chỉ TIN NHÂN QUẢ THẾ GIAN mà thôi, còn NHÂN QUẢ XUẤT THẾ GIAN thì không đủ NHẪN LỰC, để TIN ĐƯỢC NGUYỆN LỰC  CỦA CHƯ PHẬT, CHƯ BỒ TÁT…)



TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ



Nẳng mồ tam mãn đa, mẫu đà nẩm. A bát ra để, hạ đa xá ta nẳng nẩm. Ðát điệt tha.

 

Án, khê khê, khê hế, khê hế, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca thất rị duệ, ta phạ ha.


UM! BÚT RUM!  HÙM! 

(108 lần)


Câu: “UM! BÚT RUM!  HÙM!” là chân ngôn : 

 

NHỨT TỰ CHUYỂN LUÂN VƯƠNG CHÚ

ÁN BỘ LÂM 


 BỘ LÂM 

BÚT RUM! (BHRŪṂ)


 

như bánh xe nâng đỡ, khi phối hợp vào, có công năng làm cho các chơn ngôn khác mau kiến hiệu và thành tựu. 


( Trì tụng UM! BÚT RUM!  HÙM! đến KHI tương tục không gián đoạn, THÌ tấc cả vọng niệm không sanh khởi sẽ thấy LINH NGHIỆM hay QUÁN 1 chữ PHẠN BỘ LÂM hiện ra rõ ràng sẽ thấy LINH NGHIỆM)



“NHẪN” LỰC là Tùy cảnh để Cứu đời, hoặc Mặc (im lặng không nói) thời thuyết, hoặc thuyết thời mặc, hoặc thị hoặc phi, hoặc Nghịch hành thuận hành ..., trên tinh thần Đạo Đức CHUNG, lại phải cùng sống hòa hợp, cùng trao đổi KIẾN THỨC để bổ khuyết cho nhau..., hoặc  trì Chú, tụng Kinh, tham Thiền…Đây là PHƯƠNG TIỆN "NHẪN" LỰC làm cứu cánh.


Kinh Hoa Nghiêm nói rằng:


"BỒ ĐỀ TÂM” làm NHÂN, “ĐẠI BI” làm căn bản, “PHƯƠNG TIỆN” làm cứu cánh. Nếu quên mất "BỒ ĐỀ TÂM” mà tu các pháp lành, đó là “NGHIỆP MA”.


 "BỒ ĐỀ TÂM” làm NHÂN, do “NHẪN” LỰC mà thành tựu.

“ĐẠI BI TÂM” làm căn bản, do “NHẪN” LỰC mà thành tựu.

Đây là “LÝ VÔ NGẠI PHÁP GIỚI”.

 

 “PHƯƠNG TIỆN” làm cứu cánh, do “NHẪN” LỰC mà thành tựu.

Đây là “SỰ VÔ NGẠI PHÁP GIỚI”. Như  trì Chú, tụng Kinh, tham Thiền…hoặc làm tất cả việc Thiện thế gian hay  Xuất thế gian cho đến thành PHẬT, đều do “NHẪN” LỰC mà thành tựu.

Đây là “LÝ SỰ VÔ NGẠI PHÁP GIỚI” cho đến “SỰ SỰ VÔ NGẠI PHÁP GIỚI”.


Mặc (im lặng không nói) thời thuyết, thuyết thời mặc,

Ðại thí môn khai vô ủng tắc.

Hữu nhân vấn ngã giải hà tông?

Báo đạo ma-ha bát-nhã lực. (TỨ VÔ NGẠI BIỆN TÀI)


Hoặc thị hoặc phi nhân bất thức,

Nghịch hành thuận hành thiên mạc trắc.


(Vĩnh Gia Chứng Ðạo Ca)



10.- Làm Thế Nào Để Phát Bồ Đề Tâm

How to Develop the Bodhi Mind


NHẬP PHÁP GIỚI

Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng

Diễn đọc: Huệ Tâm


Diễn Giảng

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng




ẨN TU NGẪU VỊNH



56.- Ẩn tu xót kẻ học Như Lai

Thiền, Tịnh, thị phi chấp trước dày

Kiên cố đấu tranh đà hiện rõ

Đạo đời phân hóa cảnh thời nay.

 

 NHƯ Ý : Hiện nay các nước trên Thế-giới chia ra làm nhiều Phe Phái, trong mỗi Phe Phái lại có sự Phân hóa Tranh chấp Lẫn nhau, các Tôn-giáo cũng thế, nhưng đáng thương xót riêng cho Phật-giáo, đã có một nền đạo lý cao thâm đi đến chỗ VÔ NGà Pháp-chấp, mà sự thật vẫn còn Tranh chấp, ngoài việc PHÂN tranh giữa NAM và BẮC Tông Phật Giáo, mỗi bên lại còn có những phe đối lập riêng , như Nam-Tông thì có sự Phân hóa giữa Tân-phái và Cụ-phái, trên vấn đề GIỚI LUẬT.

Bắc-Tông có sự tranh đua của THIỀN cùng TỊNH trên đạo lý KHÔNG HỮU, khi xưa Đức Thế-Tôn đã DỰ biết, Phật pháp phải trải qua 5 thời kỳ, mỗi thời kỳ là 500 năm, có chỗ nói thời sau rốt kéo dài quá 500 năm cho đến khi PHÁP DIỆT TẬN , 5 thời kỳ đó là :

 

1)      Chánh Pháp Kiên Cố

2)    Thiền Định Kiên Cố

3)    Đa Văn Kiên Cố

4)    Pháp Tự Kiên Cố

5)    Đấu Tranh Kiên Cố

 

Nói ĐẤU TRANH  KIÊN CỐ là vì trong thời kỳ này, nhân sanh NGÃ CHẤP và NGÃ SỞ CHẤP rất nặng. Bởi thế khi Tu-hành không ý thức đến vấn đề Giải-thoát, mà quan tâm đến nhiều LỢI DANH BÈ PHÁI, nhớ lại trong năm 1963 có phái đoàn Phật Giáo Trung-Hoa, do Bạch Thánh Pháp Sư hướng dẫn sang Ấn-Độ để chiêm Bái thánh tích, cuộc hành trình trải qua Thái-Lan và có mở nhiều buổi Thuyết phápmột nhóm Tăng cùng Tín đồ xứ này không chấp nhận, nhất định đòi mở cuộc tranh Luận,  bên Nam-tông đề cử Nan-Đà Luật-sư tinh thông về A-Tỳ-Đạt-Ma Câu-XÁ Luận, bên phái Trung Hoa cử Tinh-Vân Pháp-sư ra đối chất.

Nhưng đến kỳ TRANH BIỆN, trước tiên ngài Tinh-Vân đưa ra ý kiến, nói hiện nay trên  thế giới phân hóa, quần chúng sống TRONG hồi hộp giữa các tai nạn ĐẤU TRANH, mục đích của các TÔN GIÁO là cứu KHỔ phò NGUY,  tùy duyên  đưa người lên nấc thang tiến hóa cho đến chỗ Giải Thoát, theo như Ngu Ý thời buổi này không phải là lúc Tôn Giáo nên Tranh Chấp, trên tổ chức tuyên truyền Giáo RIÊNG,  mà mỗi TÔNG phái nên Tùy cơ, Tùy cảnh để Cứu đời, trên tinh thần Đạo Đức CHUNGlại phải cùng sống hòa hợp, cùng trao đổi KIẾN THỨC để bổ khuyết cho nhau.

 

 Vậy chẳng biết TÔN Ý thế nào?

 

Nan-Đà Luật-sư chấp nhận cho là CAO KIẾN và xin BỎ cuộc TRANH BIỆN. Trên đây là một sự VIỆC rất ĐÁNG NÊU GƯƠNG cho hàng HẬU HỌC.



“NHẪN” LỰC
 
The Power of Patience



BỘ NHẬN   Gồm có  BỘ ĐAO  cộng với một NÉT CHẤM BÊN TRÁI  Là “NHẪN” LỰC khi bị con DAO đâm vào trái TIM, hình ảnh NHẪN tượng trưng cho TÂM  Ý Ðược NHU HÒA và NHẪN NẠI Các Chướng Duyên.



Phương Pháp Tu Tập Ðể Tâm Ý Ðược
Nhu Hòa và Nhẫn Nại


 

Người tu càng chuyên chú vào đạo thì đạo hạnh mỗi ngày một sáng chói. Tâm càng hướng nội phản chiếu thì tánh càng ngày càng hóa. Do đó tu đạo mà thiếu công phu hàm dưỡng thì khó giữ đạo, tánh định, phát huệ. Cốt tủy của sự dưỡng đạo ấy nằm ở nơi chữ thăng bằng, nhu nhẫn. Theo Kinh Hoa Nghiêm, có mười thái độ mà chư Bồ tát thường hun đúc, hàm dưỡng để tâm ý thăng bằng, lòng trở nên nhu hoà, nhẫn nại. Ðó là:


1.    Không xả tâm bồ đề: Tâm chí lúc nào cũng hướng về đạo, chẳng vướng vào đời. Dù ở trong đời, cũng không chạy theo danh, lợi, quyền, thế, hưởng thụ. Do đó đạo phong tự nhiên cao thượng, tự tại.


2.    Xa rời thái độ và quan niệm nhỏ hẹp, hạn chế của hàng nhị thừa: tức là thái độ tu giải thoát cho chính mình, không lập đại nguyện, không thấy đường tu là vô tận và không thấy nhiệm vụ của mình đối với chúng sinh. Khi có quan niệm nhỏ hẹp hạn chế, người tu sẽ dễ tự gò bó, tự áp lực, tự đóng khung, rồi sinh ra phiền não, rối nhiễu thân tâm.


3.    Thường quan sát để làm ích cho chúng sinh: Chuyện gì cũng nghĩ tới chúng sinh trước. Phải sẳn sàng tha thứ cho lỗi lầm của kẻ khác, phải nghĩ đến lợi ích kẻ khác trước khi nghĩ đến mình. Ý nghĩ tha thứ là căn bản làm tâm nhu nhuyến, hòa dịu.


4.    Thường làm chúng sinh an trụ nơi Phật pháp: Tức là làm cho họ hiểu được chân lý đạo Phật hiển hiện trong đời sống hằng ngày. Khi thiếu chân lý sâu sắc để chỉ đạo và hiển bày thực chất của cuộc sống, mình sẽ khó đạt tới điểm thăng bằng trong tâm linh.


5.    Thường tu những hạnh mà chư Bồ Tát làmTức là thường suy nghĩ xem giả sử chư Bồ Tát đối diện với những khó khăn tương tự như mình gặp, thì các ngài sẽ nghĩ gì và làm gì để khắc phục nó? Các ngài làm sao tu lục độ trong đời sống hằng ngày? Do suy nghĩ theo chư thánh hiền mình sẽ vượt ra ngoài những cảnh giới điên đảo bế tắc do suy nghĩ, tà kiến và phiền não của mình tạo ra. Nhờ vậy, lòng sẽ trở nên nhu hòa, sáng suốt.


6.    Không có thái độ sở đắc đối với việc tu hành cũng như đối với mọi chuyện trên đời: tức là không nghĩ rằng mình tu hành thì phải đạt tới cái gì, đắc cái gì. Do đó không tự tạo áp lực với chính mình. Tâm sẽ thư thái tự tại tu hành, và nhờ đó trở nên nhu hoà, cân bằng.


7.    Khi có công đức hay căn lành gì thì mình đều hồi hướng cho chúng sinh hết.


8.    Không chấp trước vào bất kỳ thân tướng nào của chư Phật cảLàm tất cả những công hạnh như lễ kính chư Phật, xưng tán Như Lai, thừa sự cúng dường, song mình không cầu cạnh, chấp trước vào thân tướng của Phật. Càng bớt chấp trước thì tâm càng bớt mong cầu; ít cầu thì thêm tự tại.


9.    Thường tư duy về mọi pháp, mọi sự để xa rời mọi sự thủ trước chấp chặtTư duy là nhìn theo chân lý, nghĩ theo lời Phật dạy. Có chân lý chiếu soi thì mình mới thấy suốt chân tướng vạn sự; có thấy suốt thì mới hết chấp trước đặng.


10. Thường giữ gìn các giới luật: như ngũ giới, thập giới, bồ tát giới. Hễ phá giới thì tu gì cũng vô hiệu quả. Giữ giới và tu đức từ bi là hai việc làm không thể tách rời đặng. Do vậy, người tại gia, mới phát tâm học Phật, cần thiết nhất phải ăn chay để thể hiện lòng từ bi. Không trường chay nhưng mong đắc định, đắc đạo, hay vãng sinh Cực Lạc là chuyện tuyệt đối không thể có.


Từ Chiếu đại sư nói:

 

"Người tu Tịnh Độ khi lâm chung thường có ba điều nghi, bốn cửa ải, hay làm chướng ngại cho sự vãng sanh, phải dự bị suy nghĩ trước để phá trừ ba điều nghi là:


1- Nghi mình túc nghiệp sâu nặng, thời gian công phu tu hành ít, e không được vãng sanh.

2- Nghi mình bản nguyện chưa trả xong, tham sân si chưa dứt, e không được vãng sanh.

3- Nghi mình niệm Phật, Phật không đến rước, e không được vãng sanh.

 

Bốn cửa ải là:


1- Hoặc nhân bị bịnh khổ mà trở lại hủy báng Phật không linh.

2- Hoặc nhân tham sống mà giết vật mạng cúng tế.

3- Hoặc nhân uống thuốc mà dùng rượu cùng chất máu tanh hôi.

4- Hoặc nhân ái luyến mà tự ràng buộc với gia đình."


Đại sư nêu ra thuyết Tam Nghi Tứ Quan ở trên, bậc trí huệ có thể suy nghĩ tìm phương pháp giải quyết.



 KINH NIỆM PHẬT BA LA MẬT


Các đức Như-Lai hiện ra nơi đời, mục tiêu chân chánh là không chỉ tuyên dương diệu pháp bí áo sâu xa cho những bậc Thánh giả, hiền nhân - mà mục tiêu khẩn thiết nhất vẫn là nhằm cứu vớt các loại chúng sanh tội khổ, nặng về tình, nhẹ về tưởng.



PHẬT THUYẾT 

 KINH A DI ĐÀ

 

NHƠN HẠNH VÃNG SANH

  

Xá-Lợi-Phất! Bất khả dĩ thiểu thiện-căn phước-đức nhơn-duyên, đắc sanh bỉ quốc.

Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu thiện-nam tử, thiện-nư nhơn, văn thuyết A-Di-Ðà Phật, chấp trì danh-hiệu, nhược nhứt nhựt, nhược nhị nhựt, nhược tam nhựt, nhược tứ nhựt, nhược ngũ nhựt, nhược lục nhựt, nhược thất nhựt, nhứt tâm bất loạn.

Kỳ nhơn lâm mạng chung thời, A-Di-Ðà Phật dữ chư Thánh chúng, hiện tại kỳ tiền.

Thị nhơn chung thời, tâm bất điên-đảo, tức đắc vãng sanh A-Di-Ðà Phật Cực-lạc quốc-độ.

Xá-Lợi-Phất! Ngã kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn.

Nhược hữu chúng-sanh văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ.


( Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó.


Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của Đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tạp loạn.


Thời người đó đến lúc lâm chung Đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó.


Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.


Xá-Lợi-Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.


Nếu có chúng sanh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc. )




ẨN TU NGẪU VỊNH


38.-Ẩn tu suy gẫm sức hồng danh

Phước huệ tăng-kỳ kết tụ thành

Sáu chữ chí tâm tiêu vạn tội

Một câu chín phẩm thoát siêu sanh.

 

NHƯ Ý : ĐỨC A DI ĐÀ trong vô lượng vô biên a tăng Kỳ-kiếp đã tu sáu độ muôn hạnh, đến khi thành PHẬT mới có TÔN hiệu ấy. Bởi thế nên Hồng-danh của ngài là sự KẾT TỤ, là tinh túy của TRÍ HUỆ Phước-đức đã tu bồ-tát hạnh trong VÔ BIÊN KIẾP; trong KINH có chỗ nói về 10 CÔNG ĐỨC CỦA SỰ NIỆM PHẬT.


TRÍ ĐỘ LUẬN cũng đề cập đến công năng Thù Thắng của niệm PHẬT tam-muội. Nên NIỆM Phật sẽ tiêu TỘI chướng, sanh PHƯỚC Huệ trừ TÀ ma, trị LÀNH bệnh; hiện ra các tướng Kiết-tường.


Có vị phật tử đến chùa than nghèo khổ, một Sư-cụ bảo:  Chỉ sợ MI không thuộc câu A-di-đà, nếu THUỘC CÂU A DI ĐÀ HƯỞNG TỚI GIÀ CŨNG KHÔNG HẾT, chỉ cần phải lưu ý đến chữ THUỘC này.



THUỘC  Là hết lòng THÀNH KÍNH

 

 

Nhớ lời Cổ Ðức dạy:

 

“Ta có một bí quyết

Khẩn thiết khuyên bảo nhau

Là hết lòng THÀNH KÍNH

Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”

 

Hãy ghi nhớ lời nầy

Lắng lòng suy gẫm sâu !!!

 


Tiết 26 Hạnh Tinh Chuyên Cũng Là Điểm Không Thể Thiếu

 

Như trên đã nói, điểm thiết yếu của môn Niệm Phật là phải phát nguyện vãng sanh. Nếu nghĩ rằng: "Ta chỉ cầu niệm hồng danh muôn đức của Phật A Di Đà cho thật nhiều, tự nhiên sẽ có vô lượng công đức; dù không vãng sanh, công đức ấy cũng chẳng mất." Nghĩ như thế là sai lầm nguy hiểm và thiếu trí huệ. Bởi có hạnh mà không nguyện thì công đức ấy sẽ biến thành phước báo ở đời sau. Đời thứ hai đã hưởng si phước tất dễ tạo nghiệp, sang đời thứ ba nhất định phải bị đọa lạc tam đồ, đó là điều sai lầm, nguy hiểm! Vì thế, ở trên mới gọi tín nguyện là "huệ hạnh".

 

Đã có đủ Tín Nguyện mà thiếu phần Hạnh, ví như chiếc thuyền có lái không chèo, cũng không thể vãng sanh. Có kẻ nghe nói: "Chỉ cần tín nguyện chân thiết, khi lâm chung mười niệm hay một niệm cũng quyết được sanh Tây Phương", thì liền nghĩ rằng: "Nếu như thế cần chi phải vội gấp, để lúc sắp chết niệm Phật cũng được!" Ý niệm này cũng sai lầm, bởi vì quá xem thường hành môn Niệm Phật. Phải biết, điểm quan yếu để vãng sanh, theo trong kinh văn là: "Người ấy khi lâm chung lòng không điên đảo" (Thị nhơn chung thời tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ - Kinh Phật Thuyết A Di Đà). Như quả lúc lâm chung lòng không điên đảo, thì niệm mười niệm hay một niệm cũng được vãng sanh. Nhưng ai dám bảo rằng: mình khi lâm chung lòng không điên đảo? Nếu lúc bình thời không tinh chuyên dụng công, đến khi mạng chung, bốn đại phân ly, sức nghiệp dồn dập, thân tâm bị sự khổ làm cho kinh hoàng mê loạn, sợ e một niệm cũng không thể thật hành, huống chi mười niệm? Như muốn cho khi lâm chung có phần bảo đảm, lúc bình thời hành giả phải tinh chuyên niệm Phật cho nhiều, và gắng tu tập trình độ "nhứt tâm bất loạn". Bằng chỉ đợi khi sắp chết mới niệm, trên đạo lý nói ra thì cố nhiên suốt thông, nhưng lại e trên sự thật chẳng phải là đơn giản. Cho nên các hành giả niệm Phật phải gắng dụng công, đừng lơ là khinh thường sự hành trì, mà rước lấy nỗi thất bại.


 

Hỏi: Tu Tịnh Độ cần phải chứng Niệm Phật Tam Muội, hoặc ít nữa đi đến cảnh giới nhứt tâm bất loạn, mới được vãng sanh. Như thế người hạ căn chưa chắc đã thực hành nổi. Vậy thì kẻ thấp kém ngu tối làm sao được sanh về Cực Lạc? Nếu kẻ hạ căn ngu tối không vãng sanh được, sao lại gọi pháp môn Niệm Phật thâu nhiếp cả ba căn?

 

- Đáp: Thật ra với căn cơ thời nay, cảnh giới nhứt tâm bất loạn trong lúc hiện tiền, còn không có mấy người đi đến, huống chi là Niệm Phật Tam Muội! Nhưng, theo Kinh Quán Vô Lượng Thọ, kẻ tạo tội ngũ nghịch thập ác khi lâm chung tướng địa ngục hiện, chí tâm xưng danh hiệu Phật A Di Đà từ một cho đến mười niệm, liền được Phật hiện đến tiếp dẫn vãng sanh. Thế thì sự nhứt tâm được vãng sanh, là chỉ cho khi lâm chung chớ không phải lúc hiện tiền. Nếu lúc bình thời niệm Phật được nhứt tâm, nhưng sau đó lại chuyển hướng tu theo pháp môn khác không cầu vãng sanh, thì làm sao được về Cực Lạc? Mà muốn được nhứt tâm khi lâm chung, thì lúc bình thời phải tập câu niệm Phật cho thuần thục. Do bình thời thường niệm Phật, dù chưa được nhứt tâm, nhưng chủng tử niệm Phật dồn chứa đã nhiều, lúc sắp chết, hành giả khởi niệm Phật nó liền phát hiện mạnh mẽ nên được nhứt tâm. Kẻ hạ căn niệm Phật được vãng sanh, thường ở trong tình trạng ấy.


Niệm Phật Thập Yếu

Hòa Thượng Thích Thiền Tâm



Kinh Bảo Vân và Kinh Vô Lượng Thọ cũng dạy về những cách nhu nhẫn như sau:


1.    Nội nhẫn: Khi gặp những thứ làm đau đớn thân xác hay bức bách tâm trí thì mình không sinh phiền não, bực bội.


2.    Ngoại nhẫn: Khi đối diện với những hoàn cảnh khổ não bên ngoài, mình không sinh lòng sân nhuế giận dữ.


3.    Pháp nhẫn: Khi nghe nói tới kinh điển sâu xa vi diệu, lòng không sợ hãi, mà lại tinh tấn siêng năng đọc tụng chúng.


4.    Tùy Phật giáo nhẫn: Khi tâm vừa móng khởi mảy lòng giận dữ hay phiền não thì lập tức tư duy suy nghĩ rằng: Thân ta do đâu mà an trụ? Mọi sự (pháp tướng) do đâu mà khởi dậy? Quan sát như vậy sẽ chẳng thấy gốc của lòng sân hận, chẳng thấy nó từ đâu sinh ra, duyên khởi nên có, do đó chấm dứt lòng giận dữ thịnh nộ.


5.    Vô phương sở nhẫn: Ở mọi thời điểm, mọi nơi chốn, lúc nào cũng giữ tâm thái thăng bằng, hàm dưỡng một sự mềm mại nhu hòa.


6.    Tu xứ xứ nhẫn: Hay còn gọi là bình đẳng nhẫn; tức là chẳng cần biết thân hay sơ, cao hay thấp, bạn hay thù, ai ai mình cũng đem lòng bình đẳng mà nhẫn thọ mọi chuyện.


7.    Phi sở vi nhẫn: Nghĩa là lòng nhẫn nại chẳng phải do một nhân duyên nào đó sinh ra, cũng chẳng vì lý do sợ sệt, hay vì lý do muốn thi ân, hay muốn thuận theo tình hình, hay vì hổ thẹn. Tức là cách tu tập sự nhẫn nại chẳng phải vì do một áp lực nào bên ngoài thúc đẩy.


8.    Bất bức não nhẫn: Hay còn gọi là vô nhuế nhẫn, tức là khi gặp nghịch cảnh phải chịu khuất, chịu nhục, mình vẫn nhẫn thọ đặng.


9.    Bi tâm nhẫn: Khi bị chúng sinh hủy nhục, chửi bới, làm xúc phạm triền nhiễu, nhưng lòng mình vẫn không tức giận. Ngược lại mình cần khởi lòng từ bi, thương xót, phát nguyện độ họ.


10.    Thệ nguyện nhẫn: Hay thành tựu thệ nguyện nhẫn; chư Bồ tát nhớ lại rằng: khi xưa mới tu mình từng phát nguyện cứu độ chúng sinh; ngày nay nếu mình sinh lòng tức giận não hại chúng sinh thì chẳng những không thể độ chính mình, mà lại chẳng đem lợi ích gì cho chúng sinh. Bồ tát tư duy như vậy nên không khởi lòng sân nhuế mà cam thọ nhẫn nhịn.


Bồ Ðề Hải

 

 

 
Bàng-Bài Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ 15

 

Phạt Xà Da Ðế [28] 

Án-- dược các sam nẳng, na dã chiến nại-ra,

               đạt nậu bá rị-dã, bạt xá bạt xá, tát-phạ hạ.

UM! BÚT RUM!  HÙM! 



Kinh nói rằng: “Nếu muốn xua đuổi loài hổ báo, sài lang và tất cả ác  thú, nên cầu nơi Tay cầm cái Bàng-Bài.”   


       
15.   The Shield Hand and Eye
          
Bàng-Bài Thủ Nhãn Ấn Pháp



LỤC HÒA 

 

Mở Đề 


I. Tai hại của sự bất hòa

II. Sự quan trọng của nhu hòa

 

 

Tai hại của sự bất hòa

 

Trong sự sống chung đụng hằng ngày, không có gì tai hại bằng sự bất hòa. Sự bất hòa làm ung độc cuộc sống chung và bắt buộc người ta phải xa nhau, nếu không muốn ở gần nhau để làm khổ cho nhau. 

Trong gia đình, anh em không hòa, thì tình cốt nhục chia ly. Vợ chồng không hòa, thì gia nghiệp chẳng thành, con cái phải bị đau khổ, vì gần cha thì phải xa mẹ; gần mẹ thì phải xa cha. Xóm làng không hòa thì hay sinh ra rầy rà, kiện cáo, chém giết lẫn nhau. Quốc gia không hòa thì sanh ra giặc giã loạn lạc, dân chúng khổ sở. Nhân loại bất hòa, thì chiến tranh tiếp diễn, nhân sinh điêu đứng, suy tàn. 


 

Sự quan trọng của nhu hòa


Đã thấy sự bất hòa như thế nào, tất nhiên cũng phải thấy đức tánh nhu hòa là cần thiết như thế nào cho đời sống tập thể. 

Chúng ta thường nghe nói: "Dĩ hòa vi qúi" (lấy hòa làm quý). Bốn chữ giản dị ấy có một công dụng ích lợi vô cùng. Những ai lấy nó làm phương châm, thì bất luận việc lớn việc nhỏ đều thành tựu dễ dàng. Trái lại, những ai khinh thường nó, thì công việc chung không bao giờ có kết quả. 

Sách Nho cũng có nói: "Thời thế thuận, không bằng địa thế lợi; địa thế lợi, không bằng nhân tâm hòa" (thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hòa). Xem thế thì đủ biết yếu tố hòa là quan trọng hơn hết trong mọi việc, mọi tổ chức. Gia đình hòa thì gia đình có hạnh phúc; nước nhà hòa thì nước nhà được thịnh trị; nhân loại hòa thì thế giới an lạc. 

Hiểu biết hơn ai hết sự quan trọng của đức tánh nhu hòa trong đời sống tập thể, đức Phật đã chế ra pháp "Lục hòa" cho hàng Phật tử. 


 

Chánh Đề 


I. Định Nghĩa 

II. Lục Hòa Là Những Gì ?


1. Thân hòa đống trụ (Thân hòa cùng ở)

2. Khẩu hòa vô tranh (Lời nói hòa hiệp, không tranh cãi nhau)

3. Ý hòa đồng duyệt (Ý hòa cùng vui)

4. Giới hòa đồng tu (Giới hòa cùng tu)

5. Kiến hòa đồng giải (Thấy biết giải bày cho nhau hiểu)

6. Lợi hòa đồng quân (Lợi hòa cùng chia cân nhau)


 

Định Nghĩa

 

Lục hòa là sáu phương pháp cư xử với nhau cho hòa hợp từ vật chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm. Hòa ở đây là hòa với mục đích tiến tới sự cao đẹp, đến con đường giải thoát, toàn thiện toàn mỹ, chứ không phải hòa một cách nhu nhược, thụ động, ai nói quấy cũng ừ, ai nói phải cũng gật. Hòa ở ở đây cũng không phải là phương tiện trong giai đoạn để rút thắng lợi về mình, rồi lại chiến. Hòa ở đây nhằm mục đích làm lợi cho tất cả, gây hạnh phúc cho tất cả, trong ấy không có bóng dáng "tự và tha" không có so đo "ta và người". 

 


Lục Hòa Là Những Gì ?

 

Lục hòa gồm có sáu điểm sau đây: 

 

Thân hòa đống trụ (Thân hòa cùng ở)

Nghĩa là cùng nhau ở dưới một mái nhà, trong một phạm vi, một tổ chức, hôm sớm có nhau, cùng ăn cùng ngủ, cùng học cùng hành. 

Khi đã sống chung đụng hằng ngày như thế, thì phải hòa thuận với nhau, không dùng sức mạnh, võ lực để lấn hiếp, đánh đập nhau. Nếu là anh em, vợ chồng, con cái trong một gia đình, thì phải trên thuận dưới hòa, anh ra anh, em ra em, chồng ra chồng, vợ ra vợ, chứ không được lộn xộn vô trật tự, hiếp đáp, sát phạt nhau. 

Nếu là những Phật tử, cùng ở với nhau học tập dưới một mái chùa, thì tuy là không phải ruột thịt, nhưng cũng là những người con chung của đức Phật, cùng một lý tưởng mục đích, thì cũng phải lấy cái hòa khí làm đầu, không được chia phe phái, ỷ mạnh hiếp yếu, ỷ thế hiếp cô, mạnh ai nấy được. 

Nếu là đồng bào, cùng chung sống trong một quốc gia xã hội, thì phải lấy sự đoàn kết làm đầu, không được gây cảnh nồi da xáo thịt, chia năm xẻ bảy, làm thành giặc chòm, giặc xóm; sát phạt nhau, chém giết nhau. Người nước ta có câu ca dao rất có ý nghĩa: 


"Bầu ơi thương lấy bí cùng, 

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn"


Khác giống, mà sống chung trên một giàn, còn phải hòa thuận, thương yêu nhau; huống chi là cùng một dân tộc, một giống nòi! 

Cũng thế, đã là nhân loại, cùng chung sống trên quả địa cầu nầy, thì dù là da trắng, da đen, da vàng hay da đỏ cũng là "Tứ hải giai huynh đệ" cả. Đã là giống người như nhau mà lại đem nhau ra chiến trường bắn giết nhau, tàn sát nhau, làm mồi cho súng đạn vô tri, thì thật là vô cùng phi lý. 

Tóm lại, đã cùng chung sống với nhau trong một địa vị, một giới hạn, một hoàn cảnh, thì bao giờ cũng phải hòa hảo với nhau. 

 

Khẩu hòa vô tranh (Lời nói hòa hiệp, không tranh cãi nhau)

Muốn thân không đánh đập nhau, không đối chọi nhau, khi ở bên cạnh nhau, thì lời nói phải giữ gìn cho được ôn hòa nhã nhặn; trong mọi trường hợp, nhất thiết không được rầy rà, cãi cọ nhau. 

Có người thân hòa mà khẩu không hòa, ăn thua nhau từng câu nói, tìm cách mỉa mai, châm chọc nhau, hạch hỏi nhau từng tiếng một, cuối cùng sanh ra ẩu đả nhau. 

Trong một gia đình, cũng vì một lời nói không hòa, mà nhiều khi anh em xa lìa nhau, vợ chồng ly tán nhau, cha con không thấy mặt nhau, trở thành những kẻ xa lạ, thù hằn nhau. 

Trong xã hội, cũng vì một lời nói không hòa, mà nhiều khi quốc gia phải lâm nạn chiến tranh, nhân loại phải bị đẩy vào lò sát sanh thảm khốc. 

Bởi thế, nên thân thể hòa chưa phải là đủ, mà Phật dạy phải hòa cả miệng nữa. Nghĩa là người Phật tử phải nói lời dịu dàng, hòa nhã với nhau, nhất thiết không được cãi lẫy, gây gổ nhau. Nếu có gì thắc mắc, cần phải bàn cãi cho ra lẽ, thì tuyệt đối phải dùng lời nói ôn tồn, hòa nhã mà bàn luận. 

 

Ý hòa đồng duyệt (Ý hòa cùng vui)

Duy thức học có nói: Ý là hệ trọng hơn hết, nó là động cơ thúc đẩy miệng và thân. Kể công thì nó đứng đầu, mà kết tội, nó cũng đứng trước (công vi thủ, tội vi khôi). Bởi thế cho nên, trong một gia đình, một đoàn thể, mỗi người cần giữ gìn ý tứ, tâm địa của mình. Nếu ý tưởng hiền hòa, vui vẻ thì thân và lời nói dễ giữ được hòa khí. Trái lại nếu ý tứ bất hòa, thường trái ngược nhau, ganh ghét nhau, thì thân và khẩu khó mà giữ cho được hòa hảo. Dù có cố gắng bao nhiêu, để thân và khẩu được hòa khí, hay vì sợ một uy quyền gì trên, mà phải ăn ở hòa thuận với nhau, thì sự hòa thận này cũng chẳng khác gì một lớp sơn đẹp đẽ, tô lên một tấm gỗ đã mục. Một khi sự xung đột bên trong đã đến một mức độ không thể chứa đựng được nữa, tất nó sẽ nổ tung ra trong lời nói hay trong những cái đấm đá; cũng như tấm gỗ khi đã mục quá rồi thì thế nào lớp sơn bên ngoài cũng rạn nứt, đổ bể. 

Đức Phật đã thấu rõ như thế, nên Ngài dạy phải có tâm ý vui vẻ hòa hiệp trong khi chung sống với nhau. 

Muốn được tâm ý hòa hiệp, phải tu hạnh Hỷ xả. Hỷ xả nghĩa là bỏ ra ngoài những sự buồn phiền, hờn giận, không chấp chặt trong lòng những lỗi lầm của kẻ khác. Có như thế, tâm hồng mới thư thái, vui vẻ được, và ý nghĩ mới trong sáng, thanh tịnh được. Vậy Phật tử chúng ta hãy cố gắng tu hạnh hỷ xả mới được. 

 

Giới hòa đồng tu (Giới hòa cùng tu)

Trong một tổ chức, một đoàn thể nào có trật tự, tất đều có kủ luật, qui củ hẳn hoi. 

Trong đạo Phật, mỗi Phật tử, tùy theo địa vị cấp bậc tu hành của mình, mà thọ lãnh ít hay nhiều giới luật. Người tại gia thì thọ Ngũ Giới; người xuất gia thì thọ 10 giới nếu là Sa Di, thọ 250 giới nếu là Tỳ kheo, thọ 348 giới nếu là Tỳ kheo Ni v.v... 

Khi Phật tử hội họp lại, hay khi cùng chung sống để tu học, mỗi ngày tùy theo cấp bậc của mình mà giữ giới. Đã cùng một cấp bậc với nhau, thì tất phải thọ giới và giữ giới như nhau, chứ không được lộn xộn, giữ giới này, bỏ giới kia, giữ giới kia, bỏ giới nọ, mỗi người mỗi thứ. Nếu có sự vô kỷ luật nầy thì lẽ tất nhiên tổ chức ấy sẽ tan rã. Vì thế, đức Phật dạy: khi Phật tử đã chung sống với nhau, thì triệt để phải cùng nhau tu những giới luật như nhau, giữ đúng những giới luật của cấp bậc mình. 

Nói rộng ra, trong một trường học, một gia đình Phật tử, một hội chẳng hạn, bao giờ cũng lấy kỷ luật làm đầu. Trong trường, nếu học sinh không giữ kỷ luật của trường, ai muốn ra cứ ra, ai muốn vào cứ vào, ai muốn học cứ học, ai muốn chơi cứ chơi, thì trường ấy ắt phải sập. Trong gia đình Phật tử, đoàn sinh mỗi người làm theo mỗi ý riêng của mình, không tuân năm điều luật của gia đình, không làm theo huấn lệnh của Huynh trưởng, thì gia đình Phật tử ấy sẽ tan rã. Trong một hội viên không tôn trọng điều lệ của hội, phân chia giai cấp, tự cho mình sang không cần giữ giới như người hèn, tự cho mình giàu, không gữ giới như người nghèo, tự cho mình có học thức không giữ giới như người vô học; nếu có tình trạng như thế tất hội ấy sẽ tan rã. 

Nói tóm lại, trong một đoàn thể, đạo hay đời, nếu không cùng nhau gìn giữ giới điều, kỷ luật, quy tắc, thì chúng ta không bao giờ sống chung với nhau được. Vậy Phật tử, muốn hòa hợp cùng nhau để tu tập, thì mỗi người cần phải gìn giữ giới luật như nhau. 

 

Kiến hòa đồng giải (Thấy biết giải bày cho nhau hiểu)

Trong sự sống chung, mỗi người hiểu biết được điều gì, khám phá được điểm gì, phải giải bày, chỉ bảo cho người khác hiểu. Như thế trình độ hiểu biết mới không chênh lệch, sự tu học mới tiến đều về tinh thần bình đẳng, mới dễ giữ vững giữa những người cùng ở một đoàn thể. 

Khi ta khám phá ra được một điều gì mới lạ, hay có một ý kiến gì hay ho, nếu ta không giải bày cho người chung quanh, thì không những ta là một kẻ ích kỷ, mà còn tạo ra một sự tắc nghẽn giữa sự thông cảm với những người khác. Lòng ích kỷ và sự tắc nghẽn ấy là mối dây của sự chia rẽ, bất hòa, xung đột. Trước một vấn đề, mỗi người sẽ nghĩ, sẽ thấy mỗi cách và do đó, sẽ gây nghi ngờ, hoang mang trong đoàn thể, vì phần đông không biết tin vào ai. 

Nhất là trong kinh sách Phật, vừa nhiều, vừa cao siêu, vừa đủ loại, mỗi Phật tử có thể khám phá ra một khía cạnh khác nhau, tìm ra một ý nghĩa có thể đúng, mà cũng có thể sai. Trong người trường hợp ấy, mà không gấp rút giải bày quan điểm, ý kiến của mình cho mọi người trong đoàn thể hiểu biết, thì khó mà có thể sống hòa hiệp với nhau. 

 

Lợi hòa đồng quân (Lợi hòa cùng chia cân nhau)

Về tài lợi, vật thực, đồ dùng phải phân chia cho cân nhau hay cùng nhau thọ dụng, không được chiếm làm của riêng, hay giành phần nhiều về mình. 

Trong khi sống chung, nếu có người đem cho vật thực, y phục, mền chiếu, thuốc thang v.v... thì phải đem quân phân tất cả, nghĩa là chia cho đều nhau, không vì tình riêng, kẻ ít người nhiều, kẻ tốt người xấu, nhưng phải lấy công bằng làm trọng. Giữ được như thế, thì dù ở chung nghìn người cũng vẫn hòa vui. Trái lại, nếu vì tính tư, ý riêng tham tài ham lợi thì dù chỉ có vài ba người chung sống với nhau, cũng không thể hòa được. 

Trong xã hội sở dĩ có sự xung đột dữ dội, phân chia giai cấp, cũng do vì thiếu sự "Lợi hòa đồng quân" cả. Người giàu thì giàu quá, kẻ nghèo thì nghèo xơ, kẻ dinh thự nguy nga ruộng đất cò bay thẳng cánh, có kẻ không có một chòi tranh vách đất. Do đó, không thể có hòa bình được: người vô sản xung đột với kẻ hữu sản, nước nghèo đói sanh sự với nước phú cường. 

Nếu nhân loại thâm hiểu rằng: cuộc sống giàu sang phú quý trong nhân gian, như hạt sương đọng trên cành hoa, công danh vinh hiển trên đời như bọt nước nổi trên mặt biển, thì chắc sự chênh lệch giữa giàu và nghèo sẽ bớt đi nhiều lắm và nhân loại sẽ bớt xung đột nhau hơn. 

Với một tinh thần bình đẳng lợi tha, từ bi cứu khổ, với một tri huệ soi thấu rõ sự vô thường, giả tạm của cuộc đời, Đức Phật đã dạy: "Có tài lợi, nên tùy phận chia bớt cho nhau", hay triệt để hơn nữa: "Lợi hòa đồng quân". 

Vậy chúng ta đã là Phật tử, phải nên cố gắng thực hành cho được lời dạy ấy. 

 


Kết Luận 


LỤC HÒA

 

1. Thân hòa đống trụ

2. Khẩu hòa vô tranh 

3. Ý hòa đồng duyệt

4. Giới hòa đồng tu

5. Kiến hòa đồng giải

6. Lợi hòa đồng quân

 

Để có một ý niệm tổng quát về Lục hòa chúng ta hãy ôn lại một lần nữa, những ý chính trong 6 điều chỉ bảo của đức Phật: 

1) Hãy chung sống với nhau một cách hòa hợp, hãy chung lưng đấu cật, đùm bọc nhau, chứ không nên dùng võ lực để đàn áp nhau. 

2) Hãy nói năng với nhau một cách dịu dàng, hòa nhã; nếu có điều gì thắc mắc cần bàn cãi, thì cũng phải bàn cãi trong ôn hòa, lễ độ. 

3) Hãy nuôi dưỡng ý tốt đẹp đối với nhau, hãy trau dồi đức hỷ xả; đừng bao giờ thù hiềm, ganh tỵ nhau. 

4) Hãy giữ đúng giới luật như nhau, hãy lấy kỷ luật làm đầu. Vô kỷ luật thì không một đoàn thể nào có thể tồn tại được. 

5) Hãy giải bày những sự hiểu biết, những ý kiến của mình cho người chung quanh. Người thông hiểu nhiều, phải có bổn phận chỉ bày cho người hậu tiến và dắt họ đi kịp mình. 

6) Hãy chia đồng đều tài lợi thu thập được cho những người cùng sống chung với mình, để mọi người đều được thỏa mãn, vui vầy. 

Sáu điều dạy trên đây, nếu chúng ta thực hiện một cách triệt để thì trong gia đình, cha mẹ vợ chồng, anh em, đều được hòa thuận yên vui, gia nghiệp mỗi ngày một thịnh đạt; quốc gia được hùng cường thịnh trị, thế giới hòa bình an lạc. 

Riêng về trong giới Phật tử chúng ta, nếu áp dụng đúng đắn pháp "Lục hòa", thì sự tu học của chúng ta mau được tiến bộ, con đường giải thoát được gần hơn, và cảnh giới Cực lạc không phải chỉ là một ước vọng. 

Vậy xin khuyên các Phật tử mỗi người sau khi học hiểu rõ Lục hòa, phải thực hành cho được và khuyên mọi người thực hành theo, để cùng hưởng hạnh phúc chung.

 

PHẬT HỌC PHỔ THÔNG

Hòa Thượng Thích Thiện Hoa





ĐỨC PHẬT NHIÊN ĐĂNG THỌ KÝ

 

Nầy Tu-Bồ-Đề, nơi ý của Ông nghĩ thế nào? – Ở nơi chỗ đức Phật Nhiên-Đăng thì Như Lai có pháp chi mà được thành Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác chăng?"

"Bạch đức Thế-Tôn! Không, như chỗ con hiểu nghĩa-lý của lời Phật dạy, thời ở nơi đức Phật Nhiên-Đăng, Đức Thế Tôn đã không có pháp chi mà được thành Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác cả."

Đức Phật dạy rằng: "Đúng thế! Đúng thế! Nầy Tu-Bồ-Đề! Thiệt không có pháp chi đức Như-Lai đặng Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác.

Nầy Tu-Bồ-Đề! Nếu còn có pháp nào mà đức Như-Lai được Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, thời đức Phật Nhiên-Đăng bèn chẳng thọ-ký cho Ta rằng: "Ông ở đời sau sẽ được thành Phật hiệu là Thích-Ca Mâu-Ni."

 

KINH KIM CANG 
BÁT NHÃ BA LA MẬT

Hòa Thượng Thích Trí Tịnh

 

 

Tòng tha báng, nhiệm tha phi,

Bả hỏa thiêu thiên đồ tự bị.

Ngã văn cáp tự ẩm cam lồ,

Tiêu dung đốn nhập bất tư nghị.

 

Quán ác ngôn, thị công đức,

Thử tắc thành ngô thiện tri thức.

Bất nhân san báng khởi oán thân,

Hà biểu vô sanh từ NHẪN LỰC.

Hành diệc thiền, tọa diệc thiền,

Ngữ mặc động tĩnh thể an nhiên.

Túng ngộ phong đao thường thản thản,

Giả nhiêu độc dược dã nhàn nhàn.

 

Ngã sư đắc kiến Nhiên-Ðăng Phật,

Ða kiếp tằng vi NHẪN NHỤC TIÊN.


(Vĩnh Gia Chứng Ðạo Ca)



Tu-Bồ-Đề! Môn Nhẫn-nhục Ba-la-mật, đức Như-Lai nói đó chẳng phải Nhẫn-nhục Ba-la-mật, mà tạm gọi là Nhẫn-nhục Ba-la-mật.

Bởi vì sao? Nầy Tu-Bồ-Đề! Như Ta thuở xưa, bị vua Ca-Lợi chặt đứt thân thể. Trong lúc đó, Ta không có tướng ngã, không có tướng nhân, không có tướng chúng-sanh, không có tướng thọ-giả.

Vì sao vậy? Vì thuở xưa, trong lúc thân phận bị chặt rời rã đó, nếu Ta còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng-sanh, tướng thọ-giả, thời lẽ ra Ta khởi lòng hờn-giận.


(Thông thường người đời chỉ TIN NHÂN QUẢ THẾ GIAN mà thôi, còn NHÂN QUẢ XUẤT THẾ GIAN thì không đủ NHẪN LỰC, để TIN ĐƯỢC NGUYỆN LỰC  CỦA CHƯ PHẬT, CHƯ BỒ TÁT…)



VUA CA LỢI và TIÊN NHẪN NHỤC

 

(Kinh Pháp Hoa Lược Giảng

Hòa Thượng Tuyên Hóa)

 

 

Vua Ca Lợi này là ai? Chính là Tôn giả A Nhã Kiều Trần Như.

Vào thời quá khứ, có một hôm vua Ca Lợi dẫn theo một nhóm cung nữ lên núi đi săn—vây bắt một số động vật như hoẵng, nai, hươu. Vào trong núi, số cung nữ này vốn từ xưa đến nay toàn ở trong thâm cung giống như ở tù vậy, không hề được ra ngoài; lần này được sổ lồng, có thể nhìn ngắm được trời mây. Ố! Nhìn quan cảnh núi rừng sao mà thoáng đãng, có núi, có nước, cây cỏ đâm chồi nẩy lộc, nước suối nhẹ nhàng êm trôi; trong hoàn cảnh như thế làm cho lòng người vô cùng hoan hỷ. Phong cảnh núi rừng xinh đẹp hùng vĩ, chuyến đi này thật không thể dùng lời tả xiết, các cung nữ mải mê chạy đi thăm thú khắp nơi. Bọn họ nhìn thấy trong một hang núi có một cụ già, lớp bụi đất bám trên thân người này dày không biết bao nhiêu mà kể, tóc dài đến nổi bện thành một cục rối sù sì. Những cung nữ này khi nhìn thấy một người như thế ở phía trước đều không dám tiến lên, bọn họ cho rằng trong hang núi này có một con yêu quái; sau đó nhìn kỹ lại, ồ! Thì ra là một cụ già, một cụ già rất kỳ quái!

Đó là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tu hạnh bồ tát đã làm một vị tiên tu hạnh nhẫn nhục, Ngài cũng rất ít khi gặp người khác, nên lúc bấy giờ nhìn thấy nhiều cung nữ đến thế, Ngài cũng muốn hóa độ nhóm cung nữ này, nên lên tiếng: “Ây! Các cô không nên sợ tôi! Tôi không ăn thịt các cô đâu! Tôi không biết ăn thịt người, tôi cũng là người mà.”

Các cung nữ này vừa nghe, vui mừng: Ồ! Cụ già đã nói chuyện rồi! Bèn vây quanh lại hỏi: “Cụ ngồi ở đây làm gì? Cụ ở nơi đây có cơm ăn không? Quần áo của cụ đã rách nát hết rồi! Cụ đi được không? Tại sao cụ lại ngồi mãi ở đây? … ”

Tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chính là vị tiên Nhẫn Nhục này, bảo các cung nữ rằng: “Tôi ở đây tu đạo, chuyên tu về hạnh nhẫn nhục!” Các cung nữ liền hỏi: “Nhẫn nhục? Nhẫn nhục là cái gì?” Nghe đến chữ “nhẫn nhục” bọn họ không hiểu. Tiên nhân Nhẫn Nhục liền giải thích: “Nhẫn nhục có nghĩa là người ta có đối xử tệ với mình, mình đều không được nổi sân, xem như không hề xảy ra việc ấy.” Sau đó, Tiên nhân giảng cho các cung nữ này nghe về pháp môn “nhẫn nhục”.

Giảng thuyết một hồi, người nói cũng sẵn lòng nói, người nghe cũng sẵn lòng nghe; vì các cung nữ này từ xưa đến giờ chưa từng nghe được diệu pháp như vậy. Lần này người nghe cũng nhập tâm, người nói cũng định tâm; xung quanh có xảy ra động tĩnh gì, tất cả đều không hay biết. Giống như chúng ta hiện nay, nếu như quý vị là người thật tâm ở đây nghe kinh thì dù bên ngoài có xảy ra chuyện gì, quý vị cũng không nghe thấy; còn nếu như quý vị là người không thật tâm nghe kinh thì ở ngoài phố có những khách du lịch nào, hoặc giả hiện giờ ở tại “Kim Sơn Thời Báo” giảng về nguồn gốc của Kim Sơn Thời Báo ra sao thì quý vị đều nghe biết hết. Nếu như quý vị nghe kinh bằng tất cả tấm lòng thì bên ngoài có âm thanh gì cũng đều không nghe thấy.

Vị tiên nhân Nhẫn Nhục này giảng cho các cung nữ nghe pháp môn “nhẫn nhục” khiến cho tất cả đều nhập vào định; vào lúc này vua Ca Lợi từ xa đi tới, đến thăm các cung nữ. Bình thường vua hay đùa nghịch với các cung nữ đã quen, lần này cũng vậy, Ngài đi nhè nhẹ, chầm chậm không để cho các cung nữ nhìn thấy; các cung nữ cũng đang nghe kinh một cách xuất thần, Tiên nhân Nhẫn Nhục cũng đang giảng một cách xuất thần, tất cả đều không hay biết đến những gì xảy ra xung quanh.

Vua Ca Lợi đi nhẹ nhẹ đến gần phía trước xem, Ồ! Thì ra có một cụ già! Các cung nữ của vua đều đang quây quanh cụ già nghe nói chuyện. Thế là vua liền khởi sanh tâm đố kỵ nghĩ “Các cung nữ này đều là những người nữ nhân của mình, bây giờ lại bị một cụ già như ông ấy mê hoặc, tất cả đều tỏ ra thích thú ông ấy!” Nghĩ như thế vua liền cất tiếng hỏi: “Nhà ngươi đang giảng gì vậy?” Tiên nhân Nhẫn Nhục nghe có người hỏi như thế, ngước lên nhìn, thì ra là một vị hoàng đế. Tiên nhân đáp: “Bần đạo đang giảng cho các cung nữ nghe về pháp môn 'nhẫn nhục'!”

Vua hỏi: “Nhẫn nhục? Sao gọi là “nhẫn nhục””? Nhà ngươi có thể nhẫn được không? Chỉ dựa vào tấm thân già nua này, ngươi có thể nhẫn được không? Tiên nhân Nhẫn Nhục trả lời: “Bần đạo có thể nhẫn được!” Vua Ca Lợi hỏi lại: “Ngươi có thể nhẫn được à? Bây giờ ta muốn chứng thực lời nói của ngươi! Thử nghiệm xem nhà ngươi có thể nhẫn được không? Theo cách nhẫn nhục của ngươi thì dù có đau đớn gì nhà ngươi cũng có thể nhẫn được phải không?” Vị tiên trả lời: “Dạ phải!”

“Thế thì đầu tiên ta sẽ dùng kiếm báu của mình cắt cánh tay của ngươi, xem ngươi phản ứng như thế nào?” Tiên nhân trả lời: “Vâng, xin Ngài cứ thử!” Thế là, vút, vua Ca Lợi rút kiếm báu đeo bên mình ra; thanh bảo kiếm của vua có thể chẻ vàng cắt ngọc, vô cùng sắc bén, thanh kiếm báu vừa chạm vào tay Tiên nhân, cánh tay liền bị cắt lìa. Vua Ca Lợi hỏi: “Ngươi có đau không?” Tiên nhân Nhẫn Nhục đáp: “Không đau!” Vua tiếp: “Tâm ngươi có khởi lên sân hận không? Ngươi có oán hận ta không?” Tiên nhân đáp: “Không oán hận!” “Ngươi thật không oán hận? Tốt! Còn lại một cánh tay, ta cũng sẽ cắt nốt! Một cánh tay, ngươi đương nhiên không oán hận, thử hai cánh tay xem!” Thế là vua chém đứt luôn cánh tay còn lại. “Ngươi có đau không?”

Tiên nhân Nhẫn Nhục đáp: “Không đau!” “Tâm ngươi có oán hận ta không?” Tiên nhân đáp: “Không oán hận!” “Thế có gì chứng minh không? Ngươi nói ngươi không oán hận ta, nhất định là ngươi nói dối, khoác lát! Hừ! Há lại có đạo lý này! Ta chặt tay của ngươi, ngươi lại không oán hận ta? Trên đời này không có loại người như vậy! Ta không tin! Ta cắt thêm một cái chân của ngươi, xem ngươi có oán hận hay không? Ta vốn muốn ngươi nói lời chân thật! Ngươi lại nói dối với ta, ta không thể tha thứ cho ngươi được!” Nói xong, liền vung kiếm chém lìa một chân của Tiên nhân.

Quý vị xem! Hai tay và một chân của người ta đã bị cắt, chỉ còn lại một chân. A! Nếu là người bình thường sẽ rất đau khổ, nước mắt tuôn tràn như suối chảy; nhưng lúc này vị Tiên Nhẫn Nhục không có tâm trạng như vậy. Vua Ca Lợi lại hỏi Tiên nhân: “Bây giờ ngươi có đau không?”

Tiên nhân đáp: “Không đau! Việc này không đáng là gì!” “Ồ? Không đáng à? Tâm ngươi có hận ta không?” Tiên nhân đáp: “Bần đạo không hận Ngài!” “Sao? Thế thì tốt! Hai tay của ngươi đã không còn, chân chỉ còn lại một cái. Một chân cũng không làm được gì, không thể đi đứng, ta sẽ hoàn thành tâm hạnh nhẫn nhục không đau khổ cho ngươi bằng cách chặt đứt luôn cả chân còn lại của ngươi!” Thế là vua chém lìa luôn cả chân kia và hỏi Tiên nhân: “ Ngươi có đau không? Bây giờ hai tay và hai chân của ngươi đã không còn, ta xem ngươi còn làm thế nào được? Bây giờ ngươi có đau không? Phải nói lời chân thật! Nếu ngươi nói thật, sẽ không có việc gì; nếu nói dối, ta vẫn phải thử nghiệm tiếp!”

Tiên nhân Nhẫn Nhục trả lời: “Ồ! Bây giờ bần đạo vẫn cảm thấy không đau!” “Thế tâm ngươi có oán hận ta không?”, vua Ca Lợi hỏi. Tiên nhân vẫn từ tốn: “Bần đạo không oán hận Ngài!” Vua không tin “Ngươi ngoài miệng nói không oán ta, vì ta là một vị hoàng đế nên ngươi không dám oán, ngươi dám giận mà không dám nói, cho nên mới gắng chịu đựng đau đớn, cho nên phải nói dối mà không chịu nói thật, có phải như vậy không?” Tiên nhân Nhẫn Nhục vẫn trước sau như một: “Dạ, không phải! Nếu như bần đạo không có tâm oán hận bệ hạ thì xin cho tay chân của bần đạo được mọc dài ra; còn như bần đạo có tâm oán hận Ngài thì xin cho tay chân của bần đạo không thể trở lại như xưa.”

Tiên nhân vừa dứt lời, tay và chân quả nhiên mọc trở lại, như chưa hề bị chặt đứt. Lúc bấy giờ tất cả hộ pháp thiện thần đều phẫn nộ, từ trên không trung giáng mưa bão xuống, đánh vua Ca Lợi. Bấy giờ Tiên nhân Nhẫn Nhục xin với các vị hộ pháp thiện thần rằng: “Chư vị không nên trách phạt vua, vua chỉ thử bần đạo, giúp thành tựu đạo nghiệp cho bần đạo. Trong cùng tận những kiếp mai sau, nếu được thành Phật, trước tiên bần đạo sẽ độ cho vua cũng được thành Phật; bần đạo sẽ độ vua trước, vua sẽ được khai ngộ đầu tiên.”

Vua Ca Lợi kiếp trước nay chính là Tôn giả A Nhã Kiều Trần Như, kiếp trước Tôn giả đã không khách sáo đối với Phật như thế, nên sau khi thành đạo, Phật độ cho Tôn giả khai ngộ trước. Ngay cái tên “A Nhã” của Tôn giả dịch là “giải bổn tế”, hay còn gọi là “tối sơ giải”, nghĩa là được “khai ngộ đầu tiên” vậy.


KINH KIM CANG 
BÁT NHÃ BA LA MẬT 



17. Ngọc-Hoàn Thủ Nhãn Ấn Pháp


Hô Lô Hô Lô Ma Ra [41]

Án-- bát na hàm vị ra dã, tát-phạ hạ.

UM! BÚT RUM!  HÙM! 

17.   The Jade Ring Hand and Eye
        
Ngọc-Hoàn Thủ Nhãn Ấn Pháp



Sóng nghiệp xa đưa đến Đại-Ninh,
Thị-phi, thương ghét biết bao tình.
Lắm khi nhục-nhã, lòng câm nín,
U-uất khổ sầu cũng lặng thinh.
Thất nhỏ đêm ngày chuyên lễ-niệm,
Sớm mõ, chiều chuông tiếng kệ kinh.
Nguyện mong Tam-thánh trời Tây đến,
Đài kim rực chiếu ánh quang-minh.


Vô-Nhất Thích Thiền-Tâm



NHẮN GỞI “HẢI QUANG” MỘT CHỮ “NHU”

 

 

HẢI QUANG con gắng vững đường tu,

Ba cõi không an vốn ngục tù. 

Mạt kiếp tâm người gian hiểm lắm,

Nhắn gởi về con một chữ NHU.

 

Thân khổ, cảnh đời bao nỗi khổ,

Câu PHẬT gìn tâm phá ám u.

Cõi tạm chớ ham điều huyễn ảo,

Trời TÂY, AN LẠC mới thiên thu.






“NHẪN” LỰC
 
The Power of Patience


Kshama (Sanskrit: क्षमा, romanized: kṣamā) is a Sanskrit word that relates to the acts of patience, releasing time and functioning in the now. Macdonell defines it as: "patience, forbearance, indulgence (towards...)". Kshama also indicates extreme patience and a capacity to forgive and forget. 



Niệm Phật 

Phải An Nhẫn Các Chướng Duyên


 

Cửa rồng tăm cá vượt

Đỉnh nhạn bóng chim qua

Khách đi nghìn dặm biệt sơn hà

Đường tu gian khổ

Chướng ngại trải hằng-sa

Nghịch thuận duyên ma-khảo

Thương ghét nợ oan-gia

Khá thương kham nhẫn cõi Ta-Bà

Khổ vui bao quản

Vinh nhục tợ sương hoa

Nhẫn nại bền lòng tinh tiến mãi

Ác vàng thỏ bạc

Năm tháng sẽ dần dà...

 


Tổ thứ 28 : Đại Sư  Bồ-Đề-Đạt-Ma

(Bodhidharma)

 

 

Đủ duyên sơ Tổ qua Đông độ

Trước trẫm là ai vua chẳng ngộ

Thần Quang Hùng Nhĩ quỳ chín năm

Huệ Khả chặt tay đầu đội tuyết

 

Pháp lớn truyền trao tâm ấn tâm

Huệ mạng từ Sơ đến Nhị Tổ

Ám hại sáu lần chẳng mảy may

Chiếc giầy để lại ngàn năm nhớ.


 

Lời Khuyên Dạy Của đức Đạt Ma Tổ Sư

 

Vì biết trên đường tu có nhiều chướng ngại, khi xưa đức Đạt Ma Tổ Sư đã nói bốn hạnh để làm phương châm tiến đạo cho hàng đệ tử. Bốn hạnh ấy là: Báo Oan Hạnh, Tùy Duyên Hạnh, Xứng Pháp Hạnh  Vô Sở Cầu Hạnh.

 

 

Sao gọi là Báo Oan Hạnh?

 

Chúng ta từ trước đến nay luân hồi trong sáu nẻo, mỗi đời đều gây nghiệp trái hoặc ân hoặc oán, từ việc nhỏ đến việc lớn, có thể nói là vô lượng vô biên. Cho nên khi ta hành đạo, tuy nhờ công đức tu tập tiêu trừ một phần nào, nhưng các nghiệp chưa tan, tất phải lần lượt đền trả.

Như người thường đau yếu hoặc tàn tật, do kiếp trước đã tạo nghiệp sát sanh.

Người bị nhiều tiếng thị phi khen chê, do kiếp trước ỷ thông minh quyền thế xem rẻ người, hoặc đã tạo nghiệp hủy báng.

Người bị nghèo khổ thiếu hụt, do kiếp trước không có lòng xót thương tu hạnh bố thí.

Người bị gông cùm tra khảo tù đày, do kiếp trước hay trói buộc, đánh đập, giam nhốt chúng sanh.

Kẻ bị cô độc lẻ loi thiếu người phụ trợ, do kiếp trước không hoan hỷ kết duyên với mọi người.

Những nghiệp như thế vô lượng vô biên, ngày nay tu hành khi bị oan trái đến, phải an lòng nhẫn nại chịu đền trả, không nên oán trách buồn phiền. Nơi kiếp luân hồi, chúng sanh đều có ăn uống cùng gia đình đôi bạn, nên trong các nghiệp duy có nghiệp sát và nghiệp ái là nặng nhứt.


Cổ đức đã than:

 

"Bể nghiệp mênh mang,

Khó đoạn không chi hơn ÁI DỤC.

Cõi trần man mác,

Dễ phạm duy chỉ có SÁT SANH!"

 

 

Thế nào là Tùy Duyên Hạnh?

 

Đây là nói sự an phận tùy duyên của người tu cảnh nào sống theo cảnh ấy. Như cảnh giàu sang tùy theo giàu sang, cảnh nghèo hèn tùy theo nghèo hèn, cảnh man rợ tùy theo man rợ, cảnh hoạn nạn tùy theo hoạn nạn, Cho đến cảnh thạnh suy, họa phước, đắc thất, thị phi... cũng đều như thế.

An phận tùy duyên đây, là giàu sang mà không tự đắc kiêu căng, nghèo hèn hoạn nạn mà không buồn rầu đổi chí. Tại sao thế? Vì tất cả cảnh thạnh suy họa phước đều như huyễn, chỉ tùy nghiệp hiện lên một thời gian rồi diệt, có chi đáng tham luyến nản buồn?

 

 

Sao gọi là Xứng Pháp Hạnh?

 

"Pháp" đây là Chân Như pháp, đối với người tu Tịnh Độ là Niệm Phật Tam Muội. Người tu Thiền khi đi đứng nằm ngồi, tâm phải xứng hợp với pháp Chân Như, như nước hòa nước, tợ hư không hợp với hư không. Hành giả tu Tịnh Độ cũng thế, tâm lúc nào cũng trụ nơi câu niệm Phật.


Cổ đức bảo:

"Nếu tạm thời không trụ nơi CHÁNH ĐỊNH,

Tức đồng như người đã chết."

 

Bởi không trụ được nơi chánh định, tức là bị trần cảnh đoạt. Bị trần cảnh cướp đoạt lôi cuốn, thì pháp thân huệ mạng không còn. Cho nên người tu Tịnh Độ nếu thường trụ nơi câu niệm Phật, thì tâm địa lần lần lặng yên sáng suốt, cảm thông với Phật, chắc chắn sẽ được vãng sanh.

 

 

Thế nào là Vô Sở Cầu Hạnh?

 

Đạo là chỉ cho tâm hạnh trong sạch không mong cầu điều chi. Bởi tất cả pháp đều như huyễn, sanh rồi diệt, diệt lại sanh, có chi chân thật để mong cầu?

Vả lại pháp thế gian đều tương đối, trong họa có phước, trong phước có họa, nên người trí vẫn bình thản, ở cảnh thạnh suy họa phước đều không động tâm.

 

Có người hỏi:

"Nếu niệm Phật không cầu vãng sanh, không cầu phước huệ viên mãn để thành Phật, thì làm sao tu tiến?"

 

Đáp: "Bởi Phật là chơn không, càng cầu lại càng xa càng mất." Vì thế Kinh Pháp Hoa nói: "Giả sử có vô số bậc Thanh Văn, Duyên Giác cho đến hàng Bất Thối Bồ Tát, trong vô lượng kiếp suy nghĩ tìm cầu, cũng không thấy hiểu được thật trí của Phật."

 

Về sự vãng sanh, thì lối cầu của người tu là cầu mà không cầu, không cầu mà cầu. Sự ứng dụng ấy như mặt gương sáng trong, khi hình đến thì chiếu soi, hình đi, lại lặng yên rỗng suốt. (HÀNH XẢ là CẦU mà không CHẤP, Tâm thường AN TRỤ nơi BÌNH ĐẲNG CHƠN NHƯ)

 

Giữ sự thấy biết tìm cầu thì lạc vào VỌNG TƯỞNG,

Không thấy biết tìm cầu nào khác gì gỗ đá VÔ TRI!

 

Nói rộng ra, hạnh Vô Sở Cầu đây gồm cả ba môn: Không, Vô Tướng, Vô Nguyện vậy. Nếu người tu giữ theo bốn hạnh của đức Đạt Ma Tổ Sư đã dạy, thì có thể bình thản trước mọi chướng duyên.




“NHẪN” LỰC
 
The Power of Patience



Gaman がまん (我慢) is a Japanese term of Zen Buddhist origin which means "enduring the seemingly unbearable with patience and dignity".



ẨN TU NGẪU VỊNH



8.- Ẩn tu tưởng lại quả đời nay

Bao lớp gian truân nỗi đoạ đày !

An NHẪN trả xong tròn nghiệp trước

Dấu hồng chuyện cũ tuyết mờ bay !

 

NHƯ Ý : Lấy ý “TUYẾT  NÊ HỒNG CHẢO”, Chim hồng đậu trên lớp bột Tuyết, khi bay đi để dấu chân móng lại, rồi lớp tuyết khác bay rơi xuống làm cho dấu chân mờ, kế bị lấp mất đi, chuyện dĩ vãng cũng thế, lần lần cũng phai mờ rồi mất theo thời gian, người tu Phật muốn quên việc đã qua vì KINH KIM CANG nói:

 

“Quá-khứ TÂM Bất-khả-đắc, Hiện-tại TÂM Bất-khả-đắc, Vị-lai TÂM Bất-khả-đắc.”

 

Bởi tâm của chúng sanh mỗi niệm SANH DIỆT không thật, nên chẳng thể tìm nắm giữ chắc được. (ƯNG VÔ SỞ TRỤ NHI SANH KỲ TÂM)

 

 

 CHẤP TÂM KHÔNG DÍNH DÁNG VÀO ĐÂU TẤT CẢ

 

Ông A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, trước đây tôi thấy Phật cùng chuyển pháp-luân với 4 vị đại-đệ-tử là Đại-mục-liên, Tu-bồ-đề, Phú-lâu-na, Xá-lỵ-phất, Phật thường dạy : Cái tính của tâm hay-biết cũng chẳng ở trong, cũng chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở chặng giữa, chẳng ở chỗ nào cả, không dính-dáng vào đâu tất-cả thì gọi là tâm. Vậy tôi lấy cái không dính-dáng của tôi mà gọi là tâm, có được chăng?".

Phật bảo ông A-nan: "Ông nói tính của tâm hay-biết, không ở đâu cả. Vậy các vật-tượng thế-gian như hư-không và các loài thủy, lục, không, hành, gọi là tất-cả sự-vật mà ông không dính-dáng vào, là có hay là không có? Không, thì đồng như lông rùa, sừng thỏ, còn gì mà không dính-dáng? Đã có cái không dính-dáng thì không thể gọi là không. Không có tướng thì là không, không phải không thì có tướng; có tướng thì có chỗ ở, làm sao lại không dính-dáng được. Vậy nên biết rằng ông nói cái không dính-dáng vào đâu tất-cả gọi là tâm hay-biết, thật không có lẽ nào như vậy".

 

Nếu ông quyết-chấp cái tính hay-biết suy-xét phân-biệt là tâm của ông thì cái tâm ấy phải rời sự-nghiệp các trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, riêng có toàn-tính; chứ như hiện nay ông vâng nghe pháp-âm của tôi, đó là nhân cái tiếng mà có phân-biệt: dầu cho diệt hết tất-cả cái thấy, nghe, hay, biết, bên trong nắm-giữ cái u-nhàn, không biết, không nghĩ thì đó cũng còn là sự phân-biệt bóng-dáng pháp-trần mà thôi.

Chẳng phải tôi bảo ông chấp cái ấy không phải là tâm, nhưng ông phải, chính nơi tâm ông, suy-xét chín-chắn, nếu rời tiền-trần có tính phân-biệt, thì đó mới thật là tâm của ông. Nếu tính phân-biệt, rời tiền-trần, không còn tự-thể thì nó chỉ là sự phân-biệt bóng-dáng tiền-trần. Tiền-trần không phải thường-trụ, khi thay đổi diệt mất rồi, thì cái tâm nương vào tiền-trần ấy cũng đồng như lông rùa sừng thỏ và pháp-thân của ông cũng thành như đoạn-diệt, còn gì mà tu-chứng vô-sinh-pháp-nhẫn”. 

 

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

Việt Dịch: Cư Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám

 

 

 

 

Nhứt cú Di Ðà

Tánh bản tự không

Tinh giai củng Bắc

Thủy tận triều Ðông.

 

Một câu A Di Ðà

Tánh thể vốn tự không

Các sao chầu Bắc Ðẩu

Muôn nước chảy về Ðông.

 

Một tín nữ đến thuật lại với bút giả: "Có vị sư-cô bảo con bỏ hết đừng nên niệm Phật nữa, hãy để lòng yên lặng cho tâm không, cảnh không, mới mau ngộ đạo!". Bút giả nói: "Các pháp đều như huyễn, câu niệm Phật cũng như huyễn, tự thể của nó đã là không rồi, cần gì phải bỏ? Nếu muốn chứng được tâm không, cảnh không, mà còn ngại câu niệm Phật, còn bác bỏ sự tướng, thì đó chính là Thiên Không hay Ngoan Không (cái không thiên lệch, trống rỗng, cứng chắc) của ngoại đạo, chớ chẳng phải ý nghĩa Chân Không của Phật pháp. Ý nghĩa chân không chân chánh của đạo Phật ở ngay nơi tất cả cái có thuộc mọi sự tướng, mà không chấp thấy là có (Chân không bất không, diệu hữu phi hữu). Chẳng phải riêng sư cô ấy lạc lầm, trong hiện tại có rất nhiều vị tu học Phật pháp đã sa vào hầm hố đó. Thật là điều không may và đáng thương cảm!" Nay nhân tiện xin tạm mượn sự việc trên để giải thích về ý nghĩa "tự không" của câu niệm Phật.


Theo quan niệm địa dư xưa, người Trung Hoa cho rằng vùng đất của loài người ở là một châu lớn, chỗ họ cư trú thuộc Trung Quốc. Phía Ðông của châu ấy là biển cả, muôn dòng nước ở lục địa đều chảy ra đó. Người Việt Nam hấp thụ văn hóa Trung Hoa, cũng đồng với quan điểm ấy. Bởi thế cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm mới có câu: "Hồng nhật Ðông thăng tri đại hải. Bạch vân Tây vọng thị thần châu". Và theo thiên văn học xưa, người Trung Hoa bảo rằng các vì sao đều chầu hướng về ngôi Bắc Ðẩu. Ðể dẫn giải cho Phật pháp, Triệt Ngộ đại sư cũng phương tiện mượn quan niệm thế gian ấy mà làm thí dụ. Bởi tất cả pháp đều từ nơi biển Chân Không lưu xuất và đều tan về Chân Không. Bên tông Tịnh Ðộ gọi thể Chân Không đó là Tự Tánh Di Ðà.

 

Bài kệ trên đại ý: Câu niệm Phật tánh vốn TỰ KHÔNG, KHI HÀNH GIẢ TỪ KHỞI ĐIỂM NÀY tu tiến chứng thể tánh ấy một cách viên mãn, sẽ thức ngộ muôn pháp từ nơi đó mà lưu xuất, lại cũng qui nhập về nơi đó. Như sao Bắc Ðẩu làm chủ muôn sao, muôn sao chầu về Bắc Ðẩu, biển Ðông dâng nước vào các sông ngòi, nước sông ngòi đều đổ về biển Ðông vậy.

 

MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT 

 Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường

 


NHỊ KHÓA HIỆP GIẢI

  

TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ 

 

(Trích ở trong kinh Tiêu tai kiết tường; nơi hàm chữ “Chi” trong Đại Tạng Kinh ra)

 

Kinh nầy chép rằng: Bấy giờ Phật ở tại cõi trời Tịnh Cư. Ngài bảo các Vì sao Tu, Sao Diệu….28 tinh tú, 12 cung thần và các vị thiên chúng lưu hành giữa hư không. Phật dẫn tích dạy rằng:

Ta nay nhắc nói đức Phật Ta La Vương Như Lai đã thuyết rõ ra một thần chú. Chú ấy là Xí Thạnh Quảng Ðại Uy Ðức đà la ni; là phương pháp để giải tai nạn. Phàm là tại nơi thủ đô, đến ngoài ranh cõi mà có 5 ngôi sao xâm lăng; Sao La Hầu, sao Nhuế, sao Bột, Sao Yêu, nó chiếu đến chỗ sở thuộc của người là các ngôi sao nơi sao cung bổn mạng; hoặc nó chiếu đến chỗ đế tọa, và các khu vực ngoài đồng nội, sẽ gây nên mọi điều chướng ngại. Dù tai hại chi, cũng đều trừ diệt liền, nếu nhơn chúng mỗi địa phương ấy, đồng tuân y đúng pháp lập chương trình kỳ hạn để niệm 108 biến thần chú nầy.

 

TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ



Nẳng mồ tam mãn đa, mẫu đà nẩm. A bát ra để, hạ đa xá ta nẳng nẩm. Ðát điệt tha.

 

Án, khê khê, khê hế, khê hế, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca thất rị duệ, ta phạ ha.

 

Ðã từ nơi tâm với tai, lại cũng từ nơi tâm diệt tai, nên nói tiêu tai. Bởi chỗ tạo nghiệp từ đời trước, nên nay cảm chịu lấy. Nghĩa là các điều thống khổ nó tập trung nơi cái thân tâm đây, nên nó là tai. Nghiệp chướng đã thanh tịnh rồi, sự ấy được vui mừng nơi tâm, nên nói là cát tường.


Người mà tu trì pháp thần chú đây, tâm phải đủ ba phép Quán: lấy phép Không quán để tiêu tai: dùng phép Giả Quán để hội sự cát tường mà không hay. Giả gì cũng đều chỉ là một niệm vì tai thi tiêu, cát thì đến; đồng gọi là pháp giới tánh, đây tức là Trung Quán. Hễ tâm mê thì cát tức là tai, còn tâm Ngộ thì tai tức là cát.

Nghĩa là tâm còn hôn mê thì, dầu là điều cát tường cũng thành ra tai hại! Tâm đã giác ngộ rồi, vì dầu tai hại cũng hóa thành cát tường! Với lẽ Tam quán, đem tâm so xét đã như thế, thì với Tứ giáo, Lục tức cũng có thể đem tâm so xét được cả. Nếu để ý nghĩ rộng thì đặng rõ thấy.

 


PHẬT NÓI ĐẠI OAI ĐỨC KIM LUÂN PHẬT ĐẢNH XÍ THẠNH QUANG NHƯ LAI TIÊU TRỪ NHẤT THIẾT TAI NẠN ĐÀ-RA-NI KINH

 


Thích Giác Viên dịch từ Hán văn ra Việt văn



Lúc bấy giờ đức Thích-ca Mâu-ni ở cung trời Tịnh Cư dạy ngài Văn-thù-sư-lợi đại Bồ-tát và tứ chúng, bát bộ Du không đại thiên, Cửu chấp thất diệu, mười hai cung thần, hai mươi tám vì tinh tú, nhật nguyệt:

“Thời quá khứ ta ở chỗ Ta-la Thọ Vương Phật, thọ Pháp Đại oai đức Kim luân

Phật Đảnh Xí Thạnh Quang Như Lai Tiêu trừ Nhất thiết tai nạn đà-ra-ni. Đối với đời vị lai, nếu có cõi nước nào, nhật, nguyệt, ngũ tinh, La Hầu, Kế Đô, sao chổi, sao phướng, các yêu quái, ác tinh chiếu đến bổn mạng cùng quyến thuộc cung thần, hw các vì tinh tú chiếu đến ngôi quốc chủ ở trong nước, trong nhà, nơi thôn làng, lúc bị bức ép, tiến vào làm các tai nạn, nên ở chỗ thanh tịnh an trí đạo tràng chí tâm thọ đà-ra-ni 108 biến hoặc 1.080 biến hoặc một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày. Y pháp tu trì , đối đàng tràng đọc tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu diệt không thể làm hại được, nếu Thái Bạch, Hỏa Tinh hoặc Nam Đẩu, ở trong nước, trong nhà và nơi thôn làng khởi lên các tai nạn, nên ở trước tôn tượng Phẫn nộ, họa bức tượng kia chiêm thấy hình sắc rõ ràng, niệm chân ngôn này gia trì, thì tai nạn liền tiêu dứt, tinh sao chẳng bội nghịch, quốc chủ lâu bền, nhân dân an lạc.

Liền nói đà-ra-ni rằng:

 

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm, a bát ra để hạ đa xá tát nẵng nẫm. Đát điệt tha.

Án khư khư khư hế khư hế, Hồng Hồng nhập phạ la phập phạ la, bát ra nhập phạ la bát ra nhập phạ la, để sắc xá để sắc xá, sắc trí rị sắc trí lị, tát phát tra tát phát tra, phiến để ca thất lị duệ sa ha.”

 

Phật dạy: “Nếu cõi nước hay thôn xóm nào hoặc có kẻ nam người nữ bị các thiên tinh chiếu đến thân mình, chỉ nên viết chép kinh này chí tâm thọ trì đọc tụng, thì thường được hộ trì thanh tịnh. Vì đà-ra-ni này tất cả Như Lai đồng cộng tuyên nói, không chỉ thành tựu tám vạn món đại kiết tường, mà còn tiêu trừ tám vạn món đại bất kiết tường. Nếu có quốc chủ, đại thần, các quyến thuộc và tất cả thứ dân bị Ngũ tinh, La Hầu, Kế Đô, sao chổi sao phướng, yêu quái các ác tinh chiếu đến bức ép ngôi quốc chủ trong nước, trong nhà, nơi thôn xóm quyến thuộc cung tú, tai nạn đột khởi, hoặc Thổ tinh xâm lăng hoặc tiến hoặc thoái và oan gia trong nhà mưu tâm ác hại, các việc ngang trái, khẩu thiệt, trù rủa chú ếm thư phù, cho đến làm các tai nạn, thì các chúng sanh nên y Pháp thọ trì, tất cả tai họa không thể xảy đến, biến tai thành phước, đều được kiết tường an lạc. Ta nói công đức của chân ngôn này không thể nghĩ bàn, không thể so sánh, bí mật thọ trì, chớ vọng tuyên truyền.”

Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng, an trí tượng Phật, kiết giới hộ trì, hương hoa, đèn sáng, tùy phần cúng dường, khiến cho các chúng sanh được phước vô lượng, tai nạn đều dứt”.

Lúc bấy giờ đức Như Lai bảo đại chúng: “Nếu hàng năm có kẻ bị ngũ tinh, Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ và La Hầu, Kế Đô, nhật, nguyệt, các tinh tú chiếu thân, tai nạn đột khởi, ta có Đại kiết tường thần chú gọi là Phá tú diệu. Nếu có thể chí tâm thọ trì nhớ niệm, thì nạn tự tiêu, chuyển họa thành phước”.

Liền nói chân ngôn rằng:

 

Úm tát phạ nặc sát tô ra tam ma duệ thất lị duệ phiến để ca câu lô tát bà ha.”

 

Lúc bấy giờ đức Như Lai nói Kinh này rồi, ngài Văn-thù-sư-lợi đại Bồ-tát và bốn chúng,

Du không đại thiên, các Tinh thần, tất cả Thánh chúng, toàn thể nương lời Phật dạy, đảnh lễ phụng trì lui về bổn cung. Hết thảy Thiên long bát bộ nghe Phật thuyết pháp đều đại hoan hỉ tín thọ phụng hành.

 

PHẬT NÓI ĐẠI OAI ĐỨC KIM LUÂN PHẬT ĐẢNH XÍ THẠNH QUANG NHƯ LAI TIÊU TRỪ NHẤT THIẾT TAI NẠN ĐÀ LA NI KINH

(hết)

 

Phật nói Xí thạnh quang tiêu tai kinh Cửu diệu chân ngôn

 

Kim tinh:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm ma hạ hàm vĩ dã ta phạ hạ”

 

Mộc tinh:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm ấn nại ra dã ta phạ hạ”

 

Thủy tinh:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm phạ rô noa dã ta phạ hạ”

 

Hỏa tinh:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm a ngật nẵng duệ ta phạ hạ”

 

Thổ tinh:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm bát ra thế duệ ta phạ hạ”

 

La Hầu tinh:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm la hộ nẵng a tố ra, ra nhạ dã hồng ta phạ hạ”

 

Kế Đô tinh:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm phạ nhựt ra kế đô nặc khất sát đát ra ra nhạ dã hồng ta phạ hạ”

 

Nhật thiên tinh:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm la nễ để dã ta phạ hạ”

 

Nguyệt thiên tinh:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm tô ma dã ta phạ hạ”

 

(Thích Giác Viên dịch xong năm 1979, tại Thiền Tịnh tự)

 

Nguyễn Minh Hoàng và Nguyễn thị Diệu Minh nhập liệu từ bản quay ronéo, lưu hành nội bộ.



ẨN TU NGẪU VỊNH


 

88. Ẩn tu thế chiến BIẾT kỳ ba

Nước lửa sơn lâm khắp hải hà

Mấy cuộc lọc thanh đầy huyết-lệ

Bay hồn thảm khổ, lướt khôn qua.

 

NHƯ Ý : Có nhiều kẻ bảo: “CHIẾN TRANH NGUYÊN TỬ không thể xảy ra, vì sẽ gây cuộc tàn phá LỚN LAO, mà không ai THẮNG ai BẠI.”

Nhưng theo CHÂN LÝ thì có NHÂN SÁT tức có QUẢ SÁT, dù rằng NHÂN LOẠI cố gắng HẠN CHẾ không cho xảy ra.


 

“NHẪN” LỰC
 
The Power of Patience


Patience is the translation of "བཟོད་པ།" into English.

TIBETAN-ENGLISH DICTIONARY



Linh Văn 

Cứu Giúp Thế Giới Tránh Khỏi Ngày Tận Thế


Trên đời, nếu có một người biết niệm Chú Lăng Nghiêm,

thì thế giới này sẽ không bị hủy diệt, giáo pháp cũng sẽ không bị diệt vong.

 

Hiện tại tôi giảng Chú Lăng Nghiêm cho quý vị nghe, Chú Lăng Nghiêm này trong trăm ngàn vạn kiếp cũng chưa có ai giảng được một lần, mà cũng không dễ gì giảng được một lần. Lúc tôi giảng cho quý vị, tôi biết là không có ai nghe mà liền hiểu được ngay cả. Cho dù có người tự cho rằng mình hiểu được, thì đó cũng không phải là thực sự hiểu. Có người tự cho là mình đã hiểu rồi, cho nên không chú ý nghe, thì đó cũng giống như không hiểu vậy. Chú Lăng Nghiêm là linh văn cứu giúp cho trời đất không bị hủy diệt. Chú Lăng Nghiêm cũng là linh văn cứu giúp thế giới tránh khỏi ngày tận thế. Cho nên, tôi thường nói rằng, trên đời này nếu có một người biết niệm Chú Lăng Nghiêm, thì thế giới này sẽ không bị hủy diệt, giáo pháp cũng không bị diệt vong. Đợi đến lúc thế giới không còn có ai biết niệm Chú Lăng Nghiêm nữa, bấy giờ Phật Pháp đành phải bị diệt vong!

Hiện tại đã có một số thiên ma ngoại đạo, ngông cuồng tung ra lời đồn đại rằng Kinh Lăng Nghiêm và Chú Lăng Nghiêm đều là giả, là ngụy tạo. Đó chính là con cái cháu chắt của loài ma do các thiên ma ngoại đạo phái đến để tung ra những lời đồn đại ngông cuồng này, khiến cho người ta không còn tin tưởng vào Kinh Lăng Nghiêm và Chú Lăng Nghiêm nữa. Đến lúc người người đều không còn tin tưởng Chú Lăng Nghiêm, thì sẽ không có ai niệm Chú này nữa, bấy giờ thế giới này sẽ mau chóng bị hủy diệt! Nếu muốn thế giới không bị diệt vong, thì quý vị hãy nhanh chóng niệm Chú Lăng Nghiêm, đọc tụng Kinh Lăng Nghiêm. Nếu quý vị có thể ngày ngày niệm Chú Lăng Nghiêm, thì sự nguy hiểm của bom nguyên tử, bom khinh khí cũng sẽ không thể xảy đến cho quý vị. Vì thế, quý vị nên nhất tâm niệm Chú Lăng Nghiêm.

Hiện tại tôi giảng Chú Lăng Nghiêm cho quý vị, thì ngay lúc này đây, có thể không có một người nào hiểu được, nhưng mười năm, một trăm năm, hoặc một ngàn năm sau, có người đọc được những chú giải đơn sơ cạn cợt này của tôi, biết đâu lúc đó họ sẽ hiểu được một cách rõ ràng sâu sắc hơn về Chú Lăng Nghiêm. Quý vị được nghe Chú Lăng Nghiêm rồi, thì không nên vội cho rằng điều này là quá dễ dàng. Bốn câu kệ tụng này xem ra thì rất đơn giản, nhưng đó là những gì từ trong tâm tánh tôi lưu xuất ra, hoàn toàn không phải là do tôi sưu tầm, trích dẫn, hoặc sao chép từ các sách vở khác. Quý vị theo học với tôi, bất luận là kệ tụng hay hay dở, đó đều là theo cách nhìn của tôi—tôi y theo những hiểu biết về Chú Lăng Nghiêm của tôi mà viết ra. Nếu quý vị muốn thật sự hiểu được Chú Lăng Nghiêm, thì phải chú ý học hỏi, chớ để thời gian trôi qua lãng phí!

 

LINH VĂN CỦA TRỜI ĐẤT CỨU THẾ GIỚI

© 2018

Vạn Phật Thánh Thành


 


  PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ

MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA

THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ



ÐỆ NHỨT

 

Nam-mô tát đát tha tô già đa da a ra ha đế tam-miệu tam-bồ-đà-tỏa.Tát đát tha Phật đà cu-tri sắc ni sam.

Nam-mô tát bà bột đà bột địa, tát đa bệ tệ.

Nam-mô tát đa nẩm tam-miệu tam-bồ-đà cu-tri nẩm. Ta xá ra bà ca tăng-già nẩm.

Nam-mô lô kê a-la-hán đa nẩm.

Nam-mô tô lô đa ba na nẩm.

Nam-mô ta yết rị đà già di nẩm.

Nam-mô lô kê tam-miệu già đa nẩm. Tam miệu già ba ra để ba đa na nẩm.

Nam-mô đề bà ly sắt nỏa.

Nam-mô tất đà da tỳ địa da đà ra ly sắt nỏa. Xá ba noa yết ra ha ta ha ta ra ma tha nẩm.

Nam-mô bạt ra ha ma ni.

Nam-mô nhơn đà ra da.

Nam-mô bà già bà đế, lô đà ra da. Ô ma bát đế, ta hê dạ da.

Nam-mô bà già bà đế.

Na ra dả noa da. Bàn-giá ma-ha tam mộ đà ra.

Nam-mô tất yết rị đa da.

Nam-mô bà già bà đế, ma ha ca ra da. Ðịa rị bác lặc na già ra. Tỳ đà ra ba noa ca ra da. A địa mục đế. Thi ma xá na nê bà tất nê. Ma đát rị già noa.

Nam-mô tất yết rị đa da.

Nam-mô bà già bà đế. Ða tha già đa cu ra da.

Nam-mô bát đầu ma cu na da.

Nam-mô bạt xà ra cu ra da.

Nam-mô ma ni cu ra da.

Nam-mô già xà cu ra gia.

Nam-mô bà già bà đế, đế rị trà du ra tây na, ba ra ha ra noa ra xà dà, đa tha già đa da.

Nam-mô bà già bà đế.

Nam-mô a di đa bà da, đa tha dà đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.

Nam-mô bà già bà đế, a sô bệ da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.

Nam-mô bà già bà đế, bệ sa xà da cu lô phệ trụ rị da, bát ra bà ra xà da, đa tha già đa da.

Nam-mô bà già bà đế, tam bổ sư bí đa, tát lân nại ra lặc xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.

Nam-mô bà già bà đế, xá kê dã mẫu na duệ, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.

Nam-mô bà già bà đế, lặc đác na kê đô ra xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da, đế biều nam-mô tát yết rị đa, ế đàm bà giá bà đa, tát đác tha già đô sắc ni sam, tát đác đa bác đác lam.

Nam-mô a bà ra thị đam, bác ra đế dương kỳ ra, tát ra bà bộ đa yết ra ha, ni yết ra ha yết ca ra ha ni, bạc ra bí địa da sất đà nể, a ca ra mật rị trụ, bát rị đát ra da nảnh yết rị, tát ra bà bàn đà na mục xoa ni, tát ra bà đột sắc tra đột tất phạp bát na nể phạt ra ni, giả đô ra thất đế nẫm, yết ra ha ta ha tát ra nhã xà, tỳ đa băng ta na yết rị, a sắc tra băng xá đế nẫm, na xoa sát đác ra nhã xà, ba ra tát đà na yết rị, a sắc tra nẫm, ma ha yết ra ha nhã xà, tỳ đa băng tát na yết rị, tát bà xá đô lô nể bà ra nhã xà, hô lam đột tất phạp nan giá na xá ni, bí sa xá tất đác ra, a kiết ni ô đà ca ra nhã xà, a bát ra thị đa cu ra ma ha bác ra thiện trì, ma ha điệp đa, ma ha đế xà, ma ha thuế đa xà bà ra, ma ha bạt ra bàn đà ra bà tất nể, a rị da đa ra, tỳ rị cu tri, thệ bà tỳ xà da, bạc xà ra ma lễ để, tỳ xá lô đa, bột đằng dõng ca, bạt xà ra chế hắt na a giá, ma ra chế bà bác ra chất đa, bạc xà ra thiện trì, tỳ xá ra giá, phiến đa xá bệ đề bà bổ thị đa, tô ma lô ba, ma ha thuế đa, a rị da đa ra, ma ha bà ra, a bác ra, bạt xà ra thương yết ra chế bà, bạt xà ra cu ma rị, cu lam đà rị, bạt xà ra hắc tát đa giá tỳ địa gia kiền giá na ma rị ca, khuất tô mẫu bà yết ra đá na, bệ lô giá na cu rị da, dạ ra thố sắc ni sam, tỳ chiết lam bà ma ni giá, bạt xà ra ca na ca ba ra bà, lô xà na bạt xà ra đốn trỉ giá, thuế đa giá ca ma ra sát xa thi ba ra bà, ế đế di đế, mẫu đà ra yết noa, ta bệ ra sám, quật phạm đô, ấn thố na mạ mạ tỏa.

 

  

ÐỆ NHỊ

 

Ô hồng, rị sắt yết noa, bác lặc xá tất đa, tát đát tha già đô sắc ni sam. Hổ hồng, đô lô ung chiêm bà na. Hổ hồng, đô lô ung tất đam bà na. Hổ hồng, đô lô ung ba ra sắc địa da tam bác xá noa yết ra. Hổ hồng, đô lô ung, tát bà dược xoa hắt ra sát ta, yết ra ha nhã xà, tỳ đằng băng tát na yết ra. Hổ hồng, đô lô ung, giả đô ra thi để nẫm, yết ra ha, ta ha tát ra nẫm, tỳ đằng băng tát na ra. Hổ hồng, đô lô ung, ra xoa, bà già phạm tát đát tha già đô sắc ni sam, ba ra điểm xà kiết rị, ma ha ta ha tát ra, bột thọ ta ha tát ra thất rị sa, cu tri ta ha tát nê đế lệ, a tệ đề thị bà rị đa, tra tra anh ca ma ha bạt xà lô đà ra, đế rị bồ bà na, man trà na, ô hồng, ta tất đế bạc bà đô, mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.

 

  

ÐỆ TAM

 

Ra xà bà dạ, chủ ra bạt dạ, a kỳ ni bà dạ, ô đà ca bà dạ, tỳ xa bà dạ, xá tát đa ra bà dạ, bà ra chước yết ra bà dạ, đột sắc xoa bà dạ, a xá nể bà dạ, a ca ra mật rị trụ bà dạ, đà ra ni bộ di kiếm ba già ba đà bà dạ, ô ra ca bà đa bà dạ, lặc xà đàng trà bà dạ, na già bà dạ, tỳ điều đát bà dạ, tô ba ra noa bà dạ, dược xoa yết ra ha, ra xoa tư yết ra ha, tất rị đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, cưu-bàn trà yết ra ha, bổ đơn na yết ra ha, ca tra bổ đơn na yết ra ha, tất kiền độ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, ô đàn ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra ha, hê rị bà đế yết ra ha, xã đa ha rị nẩm, yết bà ha rị nẩm, lô địa ra ha rị nẩm, mang ta ha rị nẩm, mê đà ha rị nẩm, ma xà ha rị nẩm, xà đa ha rị nữ, thị tỷ đa ha rị nẩm, tỳ đa ha rị nẩm, bà đa ha rị nẩm, a du giá ha rị nữ, chất đa ha rị nữ, đế sam tát bệ sam, tát bà yết ra ha nẩm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ba rị bạt ra giả ca hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, trà diễn ni hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma ha bát du bác đát dạ, lô đà ra hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, na ra dạ noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, đát đỏa già lô trà tây hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma-ha ca ra ma đát rị già noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ca ba rị ca hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, xà dạ yết ra, ma độ yết ra tát bà ra tha ta đạt na hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, giả đốt ra bà kỳ nể hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ rị dương hất rị tri, nan đà kê sa ra dà noa bác đế, sách hê dạ hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, na yết na xa ra bà noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, a-la-hán hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ đa ra già hất rị đởm, tỷ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, bạt xà ra ba nể, cu hê dạ, cu hê dạ, ca địa bát đế hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ra thoa vỏng, bà dà phạm, ấn thố na mạ mạ tỏa.

 

 

ÐỆ TỨ

 

Bà già phạm, tát đát đa bác đá ra, Nam-mô tý đô đế, a tất đa na ra lặc ca, ba ra bà tất phổ tra, tỳ ca tát đát đa bát đế rị, thập Phật ra thập Phật ra, đà ra đà ra, tần đà ra tần đà ra, sân đà sân đà. Hổ hồng. Hổ hồng, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, ta ha, hê hê phấn, a mâu ca da phấn, a ba ra đề ha đa phấn, ba ra bà ra đà phấn, a tố ra tỳ đà ra ba ca phấn, tát bà đề bệ tệ phấn, tát bà na già tệ phấn, tát bà dược xoa tệ phấn, tát bà kiền thát bà tệ phấn, tát bà bổ đơn na tệ phấn, ca tra bổ đơn na tệ phấn, tát bà đột lang chỉ đế tệ phấn, tát bà đột sáp tỷ lê hất sắc đế tệ phấn, tát bà thập bà lê tệ phấn, tát bà a bá tất ma lê tệ phấn, tát bà xá ra bà noa tệ phấn, tát bà địa đế kê tệ phấn, tát bà đát ma đà kê tệ phấn, tát bà tỳ đà da ra thệ giá lê tệ phấn, xà dạ yết ra ma độ yết ra, tát bà ra tha ta đà kê tệ phấn; tỳ địa dạ giá lê tệ phấn, giả đô ra phược kỳ nể tệ phấn, bạt xà ra cu ma rị, tỳ đà dạ ra thệ tệ phấn, ma ha ba ra đinh dương xoa tỳ rị tệ phấn, bạt ra xa thương yết ra dạ, ba ra trượng kỳ ra xà da phấn, ma ha ca ra dạ, ma ha mạt đát rị ca noa.

 

Nam-mô ta yết rị đa dạ phấn, tỷ sắc noa tỳ duệ phấn, bột ra ha mâu ni duệ phấn, a kỳ ni duệ phấn, ma ha yết rị duệ phấn, yết ra đàn trì duệ phấn, miệc đát rị duệ phấn, lao đát rị duệ phấn, giá văn trà duệ phấn, yết la ra đát rị duệ phấn, ca bác rị duệ phấn, a địa mục chất đa ca thi ma xá na, bà tư nể duệ phấn, diễn kiết chất, tát đỏa bà tỏa, mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.

 

  

ÐỆ NGŨ

 

Ðột sắc tra chất đa, a mạt đát rị chất đa, ô xà ha ra, già bà ha ra, lô địa ra ha ra, ta bà ha ra, ma xà ha ra, xà đa ha ra, thị tỷ đa ha ra, bạc lược dạ ha ra, kiền đà ha ra, bố sử ba ha ra, phả ra ha ra, bà tỏa ha ra, bác ba chất đa, đột sắc tra chất đa, lao đà ra chất đa, dược xoa yết ra ha, ra sát ta yết ra ha, bế lệ đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, cưu bàn trà yết ra ha, tất kiền đà yết ra ha, ô đát ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, trạch khê cách trà kỳ ni yết ra ha, rị Phật đế yết ra ha, xà di ca yết ra ha, xá cu ni yết ra ha, lao đà ra nan địa ca yết ra ha, a lam bà yết ra ha, kiền độ ba ni yết ra ha, thập Phật ra yên ca hê ca, trụy đế dược ca, đát lệ đế dược ca, giả đột thác ca, ni đề thập phạt ra, tỷ sam ma thập phạt ra, bạc để ca, tỷ để ca, thất lệ sắt mật ca, ta nể bác đế ca, tát bà thập phạt ra, thất lô kiết đế, mạt đà bệ đạt lô chế kiếm, a ỷ lô kiềm, mục khê lô kiềm, yết rị đột lô kiềm, yết ra ha yết lam, yết na du lam, đản đa du lam, hất rị dạ du lam, mạt mạ du lam, bạt rị thất bà du lam, tỷ lật sắc tra du lam, ô đà ra du lam, yết tri du lam, bạt tất đế du lam, ô lô du lam, thường già du lam, hắc tất đa du lam, bạt đà du lam, ta phòng án già bác ra trượng già du lam, bộ đa tỷ đa trà, trà kỳ ni thập bà ra, đà đột lô ca kiến đốt lô kiết tri, bà lộ đa tỳ, tát bác lô, ha lăng già, du sa đát ra, ta na yết ra, tỳ sa dụ ca, a kỳ ni ô đà ca, mạt ra bệ ra, kiến đa ra, a ca ra mật rị đốt đát liểm bộ ca, địa lật lặc tra, tỷ rị sắc chất ca, tát bà na cu ra, tứ dẫn già tệ yết ra, rị dược xoa, đác ra sô, mạt ra thị phệ đế sam, ta bệ sam, tất đát đa bác đát ra, ma ha bạc xà lô sắc ni sam, ma ha bác lặc trượng kỳ lam, dạ ba đột đà xá dụ xà na, biện đát lệ noa, tỳ đà da bàn đàm ca lô di, đế thù bàn đàm ca lô di, bát ra tỳ đà, bàn đàm ca lô di, ĐÁC ĐIỆC THA.


ÁN, A NA LỆ, TỲ XÁ ĐỀ, BỆ RA BẠT XÀ RA ĐÀ RỊ, BÀN ĐÀ BÀN ĐÀ NỂ, BẠT XÀ RA BÁN NI PHẤN. HỔ HỒNG, ĐÔ LÔ UNG PHẤN, TA BÀ HA.



(108 lần)



100.-Ẩn tu tổng-yếu Tịnh môn mầu

Bí quyết đừng xa nghĩ ngợi cầu

Thanh tịnh chí thành trong mấy điểm

LỰC, HÀNH, NGUYỆN THIẾT với TIN sâu.

 

 NHƯ Ý : 3 Điểm TÍN NGUYỆN HẠNH với sự CHÍ THÀNH tu trì là yếu ước của môn Tịnh-Độ, Tuy nói ít song nếu dẫn ra, thì Rộng-rãi Mầu-nhiệm Vô-cùng.

 

Đạo NHO bảo:

 

“Phóng Chi Tắc Di Ư Lục Hiệp,

Quyện Chi Tắc Thoái Tàng Ư Mật.”

(Buông ra thì Đầy-cả Đất-trời,

Thâu lại mất Không-còn Hình-tướng.)

 

 

Ý nầy đâu khác chi với Đạo-Phật.

 

Thưa các Vị,

 

Tám bài cuối xin miễn giảng giải, càng nói lại càng Sai lầm, SAI VỚI ĐẠO, bởi vì đây cũng là Ý sau rốt của người TU, Bút-giả  hiện chưa đi đến Địa-vị nầy như Chư Tăng Ni khác, vẫn mong sẽ đắc Ý trước khi VIÊN TỊCH. 

 


101.-Ẩn tu niệm niệm bút sanh hoa

Thi-tứ nguồn tâm một mạch ra

Danh-tự vị nguyên là Phật-nhãn

Non Tây rực rỡ dệt hồng hà.

 

 

102.-Ẩn tu trắc trắc, lại bình bình

Niệm đạt vô-tình lẫn hữu tình

Lầu tuyết rã tan ngàn thế giới

Chân trời pháp nhãn lộ bình-minh.

 

 

103.-Ẩn tu niệm vỡ chụp pha-lê

Muôn ổn ngàn yên lặng khắp bề !

Riêng một bóng Tăng ngồi tĩnh-tọa

Lâm-viên vừa bặt tiếng sơn khê.

 

 

104.-Ẩn tu sừng-sửng cội cây khô

Một ngón Thiên Long, dứt ý-đồ

Phật tử đến thăm như hỏi đạo

A Di Đà Phật lại NAM MÔ.

 

105.-Ẩn tu nhơn cảnh chợt đều quên

Sáng-rỡ vầng-nga rọi trước thềm

Mùi đạo Lan-thanh riêng tự biết

Kêu mưa đã vắng giọng cưu đêm.

 

 

106.-Ẩn tu suối lặng bóng chim qua

Chim nước đều như tự tại hoà

Di Lặc trao cho xem túi vải

Dưới trên đều rỗng, giọng kha kha !!!

 

 

107.-Ẩn tu bên viện tiếng chuông dồn!

Sấm nổ Oai âm tỉnh mộng hồn

Chồn nhảy vào hang Sư tử chúa

Sư-Vương lại dạo dã hồ thôn.

 

 

108.-Ẩn tu trì niệm tháng năm qua

Đạp lối Sen thanh trở lại NHÀ

Tin-tức ngày nay vừa thấy được

Tiếng chuông Sơn tự bóng trăng tà !

 


TỰ CẢM

 


Sáu tám nhọc-nhằn kể xiết chi,
Thăng trầm nhiều nổi ch
í không di.
Mài giũa cho thành ra ngọc quý,
Mới hay châu nọ thiệt “Ma-ni”.
Một niệm công-thuần hai bốn chẵn,
Cõi tạm khứ-hồi mấy kẻ tri!
Khỉ đến, mèo kêu, ba chuột chạy,
Trần-duyên vĩnh dứt, đoạn sầu bi.


Sáu tám năm qua việc đáng kinh,
Thăng-trầm vùi-dập, lắm tai-tinh.
Chẳng qua một giấc mơ dài ấy,
Mà kiếp phù-sinh tạm múa hình.
Hai bốn năm ròng chuyên NHỨT NIỆM,
DI-ĐÀ sáu chữ phóng quang-minh.
Hôm qua tin-tức trời TÂY báo,
GIỜ MẸO MAI ĐÂY TẠ THẾ TÌNH.


Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,

Trần thế vinh-hư sá kể gì.

Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,

Mừng nay được thấy đức A-DI.




 


Nam mô Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng

CỐ HÒA THƯỢNG TÔN SƯ

THÍCH Thượng THIỀN hạ TÂM thùy từ minh chứng



UM! BÚT RUM!  HÙM! 


    

2. Quyến-Sách Thủ Nhãn Ấn Pháp


Ma Ra Na Ra [62]

Án-- chỉ rị lã ra, mô nại ra, hồng phấn tra.

UM! BÚT RUM!  HÙM! 




2.       The Lariat Hand and Eye
           
Quyến-Sách Thủ Nhãn Ấn Pháp



14. Hồ-Bình Thủ Nhãn Ấn Pháp


Na Ra Cẩn Trì [49]

Án-- yết lệ, thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.

UM! BÚT RUM!  HÙM! 



14.   The hu Bottle Hand and Eye
         
Hồ-Bình Thủ Nhãn Ấn Pháp





Những Gương Về Sự An Nhẫn

 

 

Sự An Nhẫn Của Cư Sĩ Tiền Vạn Dật

 

Tiền Vạn Dật, tự là Dực Sơn, quê ở Thường Thục, trấn Mai Lý, người đời nhà Thanh bên Trung Hoa. Buổi thiếu thời, Vạn Dật theo gia nghiệp, chuyên bán rượu. Sau ông đổi nghề, giới sát tu tịnh nghiệp, hết sức sửa đổi lỗi lầm trước. Vạn Dật chỉ có một trai, chẳng may bị bịnh lao, niệm Phật mà qua đời. Người láng giềng chê cười, bảo tại lo tu hành nên con chết. Ông nghe nói mỉm cười, vẫn an nhiên thờ Phật như cũ.

Một đêm, lửa bén cháy nhà, Vạn Dật chắp tay ngửa mặt trên hư không vái rằng: "Nghiệp con nặng, đáng chịu thiêu hủy gia sản, nguyện xin đừng tổn thương đến những nhà gần bên." Sau khi lửa tắt, chỉ có nhà ông tiêu ra tro, các gia cư gần đó đều không sao cả. Cố gắng lo chỗ ở tạm xong, Vạn Dật lại khuyên mẹ là Ngô Thị trường trai niệm Phật, bà mẹ y theo lời. Tiếp theo ông cũng tự ăn chay trường, nhưng vì tập quán cũ hãy còn, thường hay uống rượu. Nhưng nhờ có người thân thích là cư sĩ Tạ Phụng Ngô khuyên can, ông cố gắng lần dứt trừ được.

Mùa Xuân năm Đạo Quang thứ hai mươi hai, vợ đau chết, Vạn Dật vẫn sống trong cảnh lẻ loi. Nhiều người khuyên nên tục huyền, ông cự tuyệt và bảo: "Đã có con mà bị chết sớm, tái thú nữa để làm gì? Vả lại chí tôi ở nơi xuất tục, có phải khăng khăng trong sự nối dõi đâu!" Mùa Hạ năm ấy, ông đau bịnh lạc huyết, chí thoát trần càng thiết, vẫn cố gắng gia công niệm Phật. Đến đầu tháng bảy, bịnh ông thêm nặng, ăn vào liền mửa ra. Phụng Ngô sang viếng thăm, nhân an ủi bảo cho biết: “Cổ đức đã có một vị nhịn ăn để cầu thấy Phật”. Vạn Dật nghe nói, mừng rỡ bảo: "Nếu có việc rất tiện lợi như thế, tôi sẽ gắng sức làm theo." Liền hôm sau, ông tắm gội sạch sẽ, đến trước bàn Phật niệm hương phát nguyện giữ thanh trai trong bảy ngày, xuất tiền mua vật mạng phóng sanh, để cầu về Tịnh Độ. Kế đó, ngày đêm ông niệm Phật không dứt, lúc khát chỉ ăn trái dưa mà thôi. Có người hỏi: "Suốt đêm không ngủ như thế, có mệt mỏi chăng?" Vạn Dật đáp: "Nhờ không ngủ mới niệm Phật được nhiều. Khi tôi không bịnh thì chẳng được an nhàn. Nay nhân lúc bịnh được rảnh rang, phải gắng sức, có mệt nhọc gì đâu!"

Bảy ngày vừa mãn, bởi tuyệt cốc nên kiệt sức, thần thức ông hôn loạn. Người nhà cho ăn chút cháo loãng, liền buồn dạ no hơi, hôn loạn càng thêm. Vạn Dật cả sợ, chắp tay để trên gối, bảo đốt ngón tay cúng dường Phật. Phụng Ngô nói: "Lúc này mà anh phát được tâm nguyện ấy, thì cũng đồng như đã đốt ngón tay rồi. Thôi chi bằng rũ sạch muôn duyên, nhứt tâm cầu về Cực Lạc là hơn!" Ông nghe nói liền nhắm mắt niệm Phật, ban sơ như còn gắng gượng, kế đó nhờ dùng sức dõng mãnh, nên thần chí lần lần an định. Duyên may, lại nhờ mười mấy người bạn đồng đạo hay tin đến trợ niệm, nên ngày đêm trong nhà ông tiếng niệm Phật nối nhau không dứt.

Đến chiều bữa mùng mười, Vạn Dật tự nói thấy một vị đi lại trước đầu giường, bảo cả dưa và trái cây đều chớ ăn, hỏi thì xưng là sứ giả ở thượng giới. Qua ngày hôm sau, ông bỗng thấy Tây Phương Tam Thánh tướng tốt quang minh hiện đứng giữa hư không trước mặt. Ông muốn vượt lên ngồi vào kim đài, chợt nghe tiếng bảo: "Thân ngươi còn chưa sạch!" Kế đó các tướng đều ẩn mất. Vạn Dật liền bảo nấu nước thơm để mình tắm gội. Tắm xong, Tam Thánh hiện ra như trước. Ông gọi người nhà lại nói: "Tôi đã dạo chơi Tịnh Độ, thấy vô số hoa sen, mình ngồi trên một đài hoa, vui không thể tả!" Lại tự chỉ thân mình nói: "Đây không phải thân tôi."

Sáng sớm ngày mười hai, Vạn Dật từ biệt mẹ và thưa rằng: "Phật cùng chư Thánh chúng đã đến đầy nhà." Nói xong, liền chắp tay niệm Phật mà qua đời. Lúc bấy giờ, ông được ba mươi bảy tuổi.

- Như cư sĩ Tiền Vạn Dật: gặp cảnh nghịch mà sơ tâm không thối, bị bịnh khổ nhưng chánh niệm vẫn bền. Kết cuộc duyên trần rũ sạch, cảnh tịnh hiện bày, nhiệm mầu điểm ứng đài vàng, thanh thoát thân chơi cõi ngọc, phẩm vị cao quyết chẳng còn nghi. Ôi! Nhẫn nại mạnh mẽ đến thế ư!

 

Sự An Nhẫn Của Cư Sĩ Phó Xuân Phố

 

Phó Xuyên, tự Xuân Phố, người thời Trung Hoa Dân Quốc, quê ở xã Đông Quách, huyện Thanh Giang, tỉnh Giang Tây. Thuở bé ông mồ côi cha sớm, mẹ là Nhiếp thái phu nhơn thủ tiết, chịu khổ nuôi dưỡng, khuyến khích học hành cho đến lúc nên người.

Xuân Phố từng nhậm các chức sự như: huấn khoa viên tại huyện thự Thanh Giang, cảnh sát trưởng nơi trấn Chu Đàm, và hiệu trưởng Nghĩa Vụ học hiệu ở Chương Thọ. Ông là người thông minh mẫn tiệp, hằng tham dự các công vụ. Mỗi khi có việc chi khó khăn, hàng quan thân thường mời đến nhờ giúp ý kiến giải quyết.

Nhiếp thái phu nhơn từ lâu đã thờ kính Quán Thế Âm Bồ Tát, và niệm Phật trường trai.

Năm Dân Quốc thứ mười bảy, thái phu nhơn nhiễm bịnh, ông phát nguyện triều Phổ Đà lễ Đại Sĩ, nhờ đó không thuốc mà bịnh tự lành. Tháng Chín năm Dân Quốc thứ hai mươi (1931), Xuân Phố mới đến Phổ Đà để hoàn nguyện. Khi ông chí thành lễ động Phạm Âm, cảm đức Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân tướng mặc áo trắng, tay cầm tịnh bình và cành dương liễu. Ông lại cầu Bồ Tát gia bị cho biết đời trước, thấy tiền thân mình là một vị tăng tu hạnh đầu đà, y phục thô sơ lam lũ.

Do duyên sự đó, Xuân Phố tỉnh ngộ, biết việc luân hồi không phải hư huyễn, chí xuất trần càng tha thiết. Ông nhờ Nguyệt Tịnh pháp sư giới thiệu cho tham yết ngài Ấn Quang và Đức Sum pháp sư nơi chùa Báo Quốc tại tỉnh Tô Châu, mới nghe được pháp yếu của tông Tịnh Độ. Sau khi ấy, ở Hoằng Hóa Xã xuất bản kinh sách chi cũng đều có tặng cho. Nhờ đó sự tin hiểu về Phật pháp của ông càng thâm thúy. Lúc bấy giờ Xuân Phố mới quyết định tiến thẳng lên đường đạo, quy y thọ giới Ưu Bà Tắc với Đức Sum pháp sư, được pháp hiệu là Thiền Xuyên, tự Hàng Tây.

Sau khi vào đạo, cư sĩ tín nguyện sâu thiết, tinh tấn niệm Phật không biếng trễ. Năm Dân Quốc thứ hai mươi hai, ông được mời làm chủ giảng ở Niệm Phật Lâm tại Lộc Giang, dẫn dắt khuyến dụ người tu tiến rất nhiều. Cư sĩ thể chất vốn yếu, thường hay đau bịnh, lại vì tánh tình liêm khiết nên gia đạo vẫn nghèo, lắm lúc bị nợ nần thiếu hụt. Bởi hàn vi nên tình đời thường sơ bạc, gia dĩ nghiệp chướng phát hiện, tiếng thị phi chịu cũng rất nhiều. Ông hằng muốn xuất gia, nhưng vì số vận mãi long đong, nên cơ duyên chưa thuận tiện. Tuy quanh mình gia lụy buộc ràng, nhưng bởi chí nguyện chán cõi trược cầu vãng sanh tha thiết, sớm hôm cư sĩ vẫn tinh tấn lễ niệm, dù đau bịnh cũng gắng gượng, không khi nào sơ sót.

Mùa Xuân năm Dân Quốc thứ hai mươi bảy (1938), cư sĩ mộng thấy đức Quán Thế Âm hiện thân, bảo cho biết quy kỳ vào hạ tuần tháng Bảy. Đến rằm Trung Nguơn, sau hội Vu Lan Bồn, cư sĩ ngã bịnh, song vẫn nhứt tâm niệm Phật, hầu như quên bịnh khổ, uống ăn. Ngày hai mươi sáu bịnh trở nặng, người nhà thương khóc, cư sĩ cười bảo: "Tôi sẽ vãng sanh vào ngày vía đức Địa Tạng, hãy nên vui mừng, đừng bi lụy." Đến ngày ấy, cư sĩ lại ghế ngồi kiết dà, kiết ấn Di Đà định, nhìn chăm chú tượng Phật, rồi an nhiên qua đời. Lúc đó, gương mặt ông bỗng sáng rạng rỡ hơn lúc sanh bình, thân thể lần lần lạnh, chỉ có đỉnh đầu còn nóng.

Sau khi cư sĩ vãng sanh, vị tọa chủ chùa Thông Tuệ và Đại Nhân pháp sư đồng đến lo liệu cho việc nhập khám, nhục thân của cư sĩ vẫn ngồi thẳng như lúc bình thời. Trước ngày ấy gió mưa rất lớn, nhưng vào nửa đêm đến khi đốt lửa làm lễ trà tỳ, trời bỗng sáng tạnh, hương lạ bay ngào ngạt, không phải mùi trầm đàn cũng không phải mùi hoa lan. Từ nóc khám, một đạo bạch quang phóng lên hư không, rồi bay thẳng về Tây. Lúc ấy vào tiết sơ Thu, khí hậu viêm nhiệt, cư sĩ chết đã ba ngày mà thây không hôi, lại phóng mùi thơm và ánh quang minh, nên ai nấy đều khen lạ. Bấy giờ cư sĩ đã bốn mươi tám tuổi.

- Thời mạt pháp người niệm Phật nhiều, mà thành công ít, bởi vì không nguyện thiết tin sâu. Luận về tư cách bậc trượng phu, thầy Mạnh Tử bảo: "Giàu sang không làm cho kiêu dâm, nghèo hèn không làm cho đổi chí, uy vũ không làm cho khuất phục." Pháp thế gian còn như thế, huống là người theo Phật pháp tu Tịnh Độ cầu siêu phàm nhập thánh ư? Như cư sĩ Phó Xuân Phố: nhà nghèo, thân bịnh, gia lụy, mà vẫn nhẫn nại lướt qua, chuyên tâm niệm Phật, ngàn tiếng khen chê chẳng quản, trăm điều mài bẻ không sờn. Nhờ đó đến khi lâm chung biết ngày giờ trước, điềm lạ hiện bày. Như thế đủ thấy môn Tịnh Độ là bi nguyện triệt để của Như Lai, nếu chịu quyết tâm, không ai chẳng lên thuyền giải thoát. Xem gương cư sĩ xong, bỗng cảm khái tự hỏi: tánh linh nguyên cũng vẫn đồng, siêu đọa bởi sao sai khác, khúc điệu Cao Sơn vang lại đó, lắng nghe Lưu Thủy mấy ai đây? Nên viết ra khuyên người mà cũng để nhắc mình vậy.



PHÁP-YẾU-TU-HÀNH

 

HÒA THƯỢNG TÔN SƯ

Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư  Thích Thiền-Tâm, hiệu Vô-Nhất.

 

 

Yếu điểm của đường tu

Gồm hai phần Sự, Lý

Lý tu là sửa tâm

Cho hợp với chân lý

Sự tu chỉnh ba nghiệp

Giúp chứng cảnh chân như


Sửa tâm là dứt trừ

Nghiệp tham, ái, nóng, giận

Si mê cùng tật đố

Ngã mạn với kiêu căng

Chớ chạy theo hình thức

Say đắm nẻo lợi danh

Chuộng địa vị, quyền hành

Khoe thông minh, tài giỏi

Phải sanh lòng giác ngộ

Niệm thanh tịnh từ bi

Dõng tiến mà kiên trì

Sáng suốt mà khiêm hạ

Tự nghĩ mình xưa nay

Ðã tạo nhiều tội chướng

Chịu nhẫn nhục, sám hối

Biết an phận, tùy duyên

Duyên tốt chẳng kiêu khoe

Duyên xấu không thối não

Bình tỉnh mãi tiến tu

Như bơi thuyền ngược nước

Về biển Tát Bà Nhã

Ðến Bảo Sở an vui

Ðó là phần tu tâm

Hợp với lý giải thoát

 

Sự tu là thân nghiệp

Lễ kính Phật sám hối

Khẩu nghiệp trì chú kinh

Hoặc niệm Phật khen ngợi

Ý  nghiệp giữ thanh tịnh

Mật tu môn Lục Niệm

Nguyện đền đáp bốn ân

Nguyện mình cùng chúng sanh

Sanh cõi vui thành Phật

Ðời đời gặp chánh Pháp

 Tu sáu độ muôn hạnh

Tâm Bồ Ðề độ sanh

Trần kiếp không thối chuyển

Tu Sự mà bỏ Lý

Làm sao mở chân tâm?

Tu Lý mà phế Sự

Cũng không thể thành Phật !

Tu Sự chẳng chấp TƯỚNG

Thì tức SẮC là KHÔNG

Tu Lý không bỏ Sự

Ðó tức KHÔNG là SẮC

Lý chính thật Chân-Không

Sự là phần Diệu-Hữu

Chân-Không tức Diệu-Hữu

Diệu-Hữu tức Chân-Không

Nếu chưa đạt lẽ nầy

Thà tu hành chấp CÓ

Ðừng cầu cao bác tướng

Mà lạc vào Ngoan-Không

Ðây chính hầm khổ đọa

Kẻ thông minh đời nay

Ða số mắc lỗi nầy

 

 

Xưa có sư Tông-Thắng

Tài huệ biện cao siêu

Vì ỷ giỏi kiêu căng

Nên bị nhục chiết phục

Hỗ thẹn muốn tự tận

Thọ thần hiện thân khuyên

“ Sư nay đã trăm tuổi 

Tám mươi năm lầm lạc

May nhờ gặp Thánh nhân

Huân tu mà học đạo

Tuy có chút công đức

Mà lòng hay bỉ ngã

Ỷ thông minh biện bác

Lấn người không khiêm hạ

Lời cao hạnh chưa cao

Nên phải bị quả báo

 Từ đây nên tự kiểm

Ít lâu thành trí lạ

 

 

Các THÁNH đều tồn tâm

NHƯ LAI cũng như vậy ”

Lại có kẻ đua tướng

Tranh Thượng Tọa ,Ni Sư

Mượn thuyết pháp, tụng kinh

Ðể mưu cầu lợi dưỡng

Dành đệ tử, chùa chiền

Lập bè đảng, quyến thuộc

Thấy có ai hơn mình

Liền thị phi tật đố

Hại Thầy Bạn, phản Ðạo

Lừa dối hàng tín tâm

Lời nói thật rất cao

Việc làm thật rất thấp

Lý Sự đều sai trái

Hạng ấy hiện rất nhiều

Tạo biển khổ thêm sâu

Khiến đau lòng tri-thức

Lý, Sự đại lược thế

 

Công đức làm sao được?

Phật là ÐẠI-Y-VƯƠNG

Pháp là DIỆU-TIÊN-DƯỢC

Là phương-thuật rất mầu

Là như-ý bảo châu

Hay trừ nạn nghèo khổ

Khiến cho được giàu vui

Hay trừ tất cả bệnh

Khiến mau được bình phục

Hay trừ nạn yểu số

Khiến thọ-mạng dài lâu

Hay khỏi các tai ách

Như bão lụt, binh lửa

Giặc cướp cùng tà ngoại

Ác thú với độc xà

Các yêu ma , quỷ mị

Nạn động đất, xe, thuyền

Những phù-chú ếm-đối

Ðều phá tiêu tan hết

Cho đến trừ tội chướng

Sanh trưởng phước huệ to

Cứu chúng đọa Tam Ðồ

Siêu lên bờ giải thoát

 

Chuyên tụng một phẩm Kinh

Một Chân-Ngôn, hiệu Phật

Thì thành tựu các nguyện

Thỏa mãn các mong cầu

Chỉ sợ người không tin

 Hoặc tin mà không sâu

Lại ngại không thực hành

Hoặc hành không bền lâu

Hoặc tuy hành bền lâu

Không chí tâm khẩn cầu

 

Chí tâm là không vọng

Trì niệm quên thân tâm

Lặng lẽ dứt phân biệt

Không trong, ngoài, người, cảnh

Khi đi, đứng, thức, ngủ

Chẳng bỏ câu trì niệm

Lúc hưỡn, gấp, an, nguy

Cũng vững vàng trì niệm

Cho đến khi sắp chết

Vẫn như thế trì niệm

Ðắc, thất đều do đây

Cần chi hỏi tri thức

 

Không hành như trên đây

Phật cũng khó cứu vớt

Huống nữa là phàm Tăng

Giúp ích được gì đâu

 

Nhớ lời Cổ Ðức dạy:

 

“Ta có một bí quyết

Khẩn thiết khuyên bảo nhau

Là hết lòng thành kính

Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”

Hãy ghi nhớ lời nầy

Lắng lòng suy gẫm sâu

 

Trời xanh tươi biếc một mầu

Ánh trăng vẫn sáng một mầu xưa nay

Mà sao đời đạo đổi thay

Cỏ hoa đượm nét u-hoài thờ-ơ

“Thuyết pháp bất đậu cơ

Chúng sanh một khổ hải ”

Ðời mạt suy thế đạo lại thêm thương

Sóng dồn bọt biển tà dương

Con thuyền cứu độ khuất đường vân yên

Bụi hồng tung gió đảo điên

Vô tình mai nở diệu hiền cành xuân.

 

Nam-mô Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như-Lai.




Niệm Phật Thập Yếu

Buddhism of Wisdom & Faith



 BÀI SỐ 98

 

Ẩn tu phương tiện mượn thi ngâm

Thức ngộ mình người khởi đạo tâm

Đâu nghỉ hoa đào ra động bích

Mà mong Lưu Nguyễn ghé vào thăm?





 

 Trời, A-Tu-La, Dạ-Xoa thảy
 Ai đến nghe pháp phải hết lòng
 Ủng-hộ Phật-Pháp cho thường còn
 Mọi người siêng tu lời Phật dạy
 Bao nhiêu thính-giả đến chỗ này
 Hoặc ở cõi đất hoặc trên không
 Nương theo chánh-pháp ngày đêm tu
 Xót thương người đời luôn cứu-hộ
 Cầu cho Thế-giới thường an-ổn
 Pháp-trí vô-biên lợi quần-sanh
 Tất cả tội-nghiệp đều tiêu trừ
 Dứt hẳn quả khổ vào viên-tịch
 Thường dùng giới-hương thoa vóc sáng
 Luôn gìn định-phục mặc che thân
 Hoa mầu trí-giác khắp trang-nghiêm
 Khắp xứ, khắp nơi thường an-lạc.


Nam-Mô Hộ-Pháp Vi-Đà Tôn-Thiên Bồ-Tát Ma-Ha-Tát  

( 3 lần )

Comments

Popular posts from this blog