HT. Thích Thanh Từ – GIẢNG GIẢI



30.-Ẩn tu niệm Phật cảnh sâu huyền !

Trong sáng linh hư hợp Tịnh, Thiền

Không hữu đều tan, Trung đạo dứt

Hoa vàng chợt nở Bảo trì liên !

 

NHƯ Ý :  TỊNH thuộc HỮU tông, THIỀN  là KHÔNG tông, trên bước dụng công sơ khởi, luối tu của đôi bên Tuy có khác nhau nhưng tiêu điểm đi về vẫn là một.

 

Bởi lẽ huyễn hữu tức chân không, chân như tam muội chẳng ngoài Niệm Phật tam-muội:


Cảnh cũ CHÂN TÂM vạn nẻo về,
Đường tuy khác lối vẫn đồng quê.
Trong THIỀN có TỊNH trời Lư-lảnh,
Trong TỊNH gồm THIỀN nước ĐỘNG KHÊ.

Hàng tu Phật nên ý thức điểm này.



ẨN TU NGẪU VỊNH

MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT

NIỆM PHẬT THẬP YẾU

TỊNH ĐỘ QUYẾT NGHI LUẬN

CỐ HÒA THƯỢNG TÔN SƯ




MUỐN LÀM PHẬT THÌ “NIỆM-PHẬT”

(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)



CHỨNG ĐẠO CA

 

Thiền sư Huyền Giác




Bài GIẢNG : của chúng tôi đợt này là GIẢNG : bài “Chứng đạo ca” của Thiền sư Huyền Giác. Bài này chúng tôi đã có GIẢNG : một lần trước rồi bao giờ đó tôi quên không nhớ ngày giờ rõ nhưng đã GIẢNG :. Ngày nay trở về Thiền viện Chơn Không tôi thấy sắp nghĩ, bài này là bài rất là chí yếu cho người tu Thiền muốn thấy được đạo chân thật sẳn ở mình thì cần phải hiểu cho thấu đáo cho nên tôi GIẢNG : lại.

Tuy nhiên ngày trước GIẢNG : và ngày nay GIẢNG : cũng có đôi phần khác nhau, quý vị  khéo chú ý thì mới thấy. Tôi biết trong đây đa số Phật tử là người mới, mà nghe bài GIẢNG : này chắc khó hiểu lắm. Nhưng mà thôi thì thấm được bây nhiêu tốt bấy nhiêu, chớ tôi không còn thời gian để GIẢNG : từ thấp lên cao được. Vậy quý vị  thông cảm cho. Trước khi GIẢNG : chúng tôi đọc sơ tiểu sử của Thiền sư Huyền Giác cho quý vị  biết đại cương.

 

 

TIỂU SỬ THIỀN SƯ HUYỀN GIÁC

 

Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác là con nhà họ Đới ở châu Ôn. Thuở nhỏ học tập kinh luận và chuyên ròng về phép chỉ quán của phái Thiên Thai. Kế do xem kinh Duy Ma Cật mà tâm địa phát sáng. Tình cờ có học trò của sư Huệ Năng là thầy Huyền Sách hỏi thăm tìm đến. Hai người trò chuyện hăng say, Sách nghe Giác nói lời nào cũng thầm hiệp với ý chư Tổ, bèn hỏi rằng: “Nhân giả được pháp với thầy nào?”.

Giác đáp: “Tôi nghe kinh luận Phương đẳng mỗi mỗi đều có thầy truyền dạy. Sau do kinh Duy Ma mà ngộ được tâm Phật, nhưng chưa có người chứng minh cho”.

Sách nói: “Từ thời Phật Oai Âm Vương trở về trước thì được, nhưng từ thời Phật Oai Âm Vương trở về sau không thầy mà tự ngộ thì toàn thuộc phái ngoại đạo thiên nhiên”.

Giác nói: “Xin nhân giả chứng dùm tôi”.

Sách nói: “Lời tôi thiếu sót lắm nay tại Tào Khê có Đại sư Huệ Năng, bốn phương người đổ dồn về đó mà thọ pháp với Ngài. Nếu ông muốn chúng ta cùng đến đó”.

Giác bèn theo Sách đến viếng Tổ sư. Giác đi quanh Sư ba vòng xong chống tích trượng đứng. Sư nói: “Phàm là Sa môn phải đủ ba ngàn oai nghi tám muôn tế hạnh. Đại đức từ đâu đến mà lớn lối ngạo mạn vậy?”.

Giác đáp: “Sanh tử là việc lớn, vô thường mau chóng”.

Sư nói: “Vậy sao chẳng thể nhận cái lý vô sanh, thấu rõ cái nghĩa không chóng sao”.

Giác đáp: “Thể tức vô sanh, thấu vốn không chóng”.

Sư nói: “Đúng vậy, đúng vậy”.

Huyền Giác bèn dùng hết oai nghi mà vái lạy, giây lát xin cáo về.

Sư bảo: “Về chóng thế?”.

Giác đáp: “Vốn mình chẳng phải động, há có mau chóng sao”.

Sư hỏi: “Ai biết chẳng phải động?”.

Giác đáp: “Đúng là tại nhân giả sanh tâm phân biệt”.

Sư nói: “Ông thực đã thấu cái ý vô sanh”.

Giác hỏi: “Vô sanh há có ý sao?”.

Sư vặn lại: “Không ý thì ai phân biệt đây”.

Giác đáp: “Phân biệt cũng chẳng phải là ý”.

Sư nói: “Tốt lắm hãy nán lại một đêm”.

Nhân đó người ta gọi là một đêm giác ngộ, nói theo chử Hán là “Nhất túc giác”. Sau này Huyền Giác có soạn bài “Chứng đạo ca” được truyền tụng trong đời. Người sau truy tặng Ngài là Đại sư Vô Tướng, đương thời tôn Ngài hiệu là Chân Giác.

 

GIẢNG:

Đại cương câu chuyện như vậy để cho quý vị  thấy. Nhưng trọng tâm ở đây tôi biết đọc qua quý vị  khó hiểu về sự đối đáp giữa Lục Tổ Huệ Năng và Thiền sư Huyền Giác. Đây tôi thứ tự để chỉ cho quý vị  thấy cái thâm sâu của Ngài.

Huyền Giác đi tới chỗ Lục Tổ không chào hỏi gì hết, đi quanh ba vòng chống tích trượng xuống đứng sửng đó. Khi đó Lục Tổ mới bảo: “Phàm là Sa môn phải đủ ba ngàn oai nghi tám muôn tế hạnh, Đại đức từ đâu đến mà lớn lối, ngạo mạn vậy?”. Bị quở.

Ngài đáp rằng: “Sanh tử là việc lớn, vô thường mau chóng”. Đáp có lạc đề không? Nghĩa là chúng ta đi học đạo là vì giải thoát sanh tử, mà sanh tử đã chực sẳn bên mình, không biết ngày nào nó sẽ đến, thì còn rảnh rổi đâu mà oai nghi tế hạnh. Vì vậy mà cần phải nói cái gì, tìm cái gì thẳng đó để thấy để biết, chớ không có cần cái oai nghi tế hạnh đó.

Khi Huyền Giác đáp vậy, Tổ Huệ Năng nói: “Vậy sao chẳng thể nhận cái lý vô sanh, thấu rõ cái nghĩa không chóng sao”. Như vậy thì ngay đó ông phải nhận ra lý vô sanh, thấu suốt được cái nghĩa thì nó chẳng chóng hơn không.

Ngài Huyền Giác đáp: “Thể tức vô sanh, thấu vốn không chóng”. Thể là bản thể vốn là vô sanh, còn mình thấu hiểu mà thấu hiểu cũng không có cái gì gọi là nhanh, là chậm hết.

Tổ Huệ Năng đáp: “Đúng vậy, đúng vậy”. Tức là thấy được rồi đó, chỗ ông nhìn, chỗ ông hiểu là đúng.

Huyền Giác bèn dùng hết oai nghi mà vái lạy, giây lát xin cáo về. Đủ rồi. Chỉ hỏi một câu mà được thừa nhận là đúng là mãn nguyện rồi, không cần phải hỏi nhiều, nên Ngài từ giả về.

Khi từ giả về Lục Tổ cũng e chưa biết thấu tột cùng, cho nên Tổ mới hỏi: “Về chóng thế sao?”.

Huyền Giác đáp: “Vốn mình chẳng phải động, há có mau chóng sao”. Cái đó nó không động không tịnh nói gì chóng, cái gì chày.

Tổ hỏi: “Ai biết chẳng phải động?”. Cái gì biết chẳng động. Như vậy nếu mình biết cái đó là cái chẳng động thì cái gì biết đó là chẳng động? Quý vị  thấy những câu này nghe như là khó hiểu nhưng đó là sự thực, thí dụ tôi thấy cái đồng hồ tôi biết đồng hồ trắng hay là đen. Như vậy tôi biết đồng hồ trắng đen thì cái trắng đen tôi biết ở đồng hồ đó là có tôi và có đồng hồ. Phải không? Bởi vậy nên Lục Tổ mới hỏi: “Ai biết chẳng phải động?”. Câu hỏi đó nếu có người biết chẳng động đó thì tức có hai rồi, tức là gài cho Ngài Huyền Giác mắc kẹt.

Huyền Giác đáp: “Đúng là tại nhân giả sanh tâm phân biệt”. Tại Tổ phân biệt chớ còn tôi nói vậy là vậy thôi chớ không có cái hay biết, cái bị biết gì hết. Ngài trách lại Lục Tổ.

Lục Tổ nói: “Ông thực đã thấu cái ý vô sanh”. Như vậy thì ông thấu suốt được cái ý vô sanh rồi.

Huyền Giác hỏi: “Vô sanh há có ý sao?”. Tổ nói thấu ý vô sanh, bây giờ Ngài hỏi lại vô sanh há có ý sao? Đây mấy câu này là mấy câu rất là tinh vi, nó quá là vi tế thường mình không biết. “Vô sanh có ý sao?”

Lục Tổ bảo: “Không ý thì ai phân biệt đây”. Nếu không có ý thì ai phân biệt đây?

Huyền Giác đáp: “Phân biệt cũng chẳng phải ý”. Cái câu đó là câu thấu triệt: phân biệt mà chẳng phải ý. Lâu nay chúng ta quen suy nghĩ tính toán gọi đó là phân biệt, thì suy nghĩ tính toán đó là ý. Còn cái này phân biệt mà không phải ý là sao? Thí dụ con mắt tôi nhìn cái bình hoa. Hoa hồng thấy đỏ, hoa khác thì thấy trắng, thấy xanh, thấy vàng, thấy gì đó đủ thứ thấy. Nếu có thấy đỏ, thấy trắng thì có phân biệt không? Có phân biệt rõ ràng mới biết đây là đỏ, đây là trắng. Nhưng phân biệt đó phải ý không? Mắt thấy thì tự biết đỏ, biết trắng, đâu đợi suy nghĩ mới biết đỏ biết trắng. Như vậy phân biệt mà không phải ý, đó là cái chỗ rất là thâm sâu. Còn chúng ta bây giờ nói phân biệt là nói chuyện suy tính hơn thua, phải quấy, tốt xấu thì cái đó là thuộc về ý. Còn tai nghe tiếng chuông, tiếng mõ, nghe tiếng chuông biết tiếng chuông, nghe tiếng mõ biết tiếng mõ là phân biệt, cái đó phải ý không? Cái đó không phải ý. Cho nên cái chữ “phân biệt cũng chẳng phải ý” là cái thấy của Ngài Huyền Giác rất là tột.


 

“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” 

trong kinh Kim Cang.


 

CHẤP TÂM KHÔNG DÍNH DÁNG VÀO ĐÂU TẤT CẢ

 

Ông A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, trước đây tôi thấy Phật cùng chuyển pháp-luân với 4 vị đại-đệ-tử là Đại-mục-liên, Tu-bồ-đề, Phú-lâu-na, Xá-lỵ-phất, Phật thường dạy : Cái tính của tâm hay-biết cũng chẳng ở trong, cũng chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở chặng giữa, chẳng ở chỗ nào cả, không dính-dáng vào đâu tất-cả thì gọi là tâm. Vậy tôi lấy cái không dính-dáng của tôi mà gọi là tâm, có được chăng?".

Phật bảo ông A-nan: "Ông nói tính của tâm hay-biết, không ở đâu cả. Vậy các vật-tượng thế-gian như hư-không và các loài thủy, lục, không, hành, gọi là tất-cả sự-vật mà ông không dính-dáng vào, là có hay là không có? Không, thì đồng như lông rùa, sừng thỏ, còn gì mà không dính-dáng? Đã có cái không dính-dáng thì không thể gọi là không. Không có tướng thì là không, không phải không thì có tướng; có tướng thì có chỗ ở, làm sao lại không dính-dáng được. Vậy nên biết rằng ông nói cái không dính-dáng vào đâu tất-cả gọi là tâm hay-biết, thật không có lẽ nào như vậy".

 

Nếu ông quyết-chấp cái tính hay-biết suy-xét phân-biệt là tâm của ông thì cái tâm ấy phải rời sự-nghiệp các trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, riêng có toàn-tính; chứ như hiện nay ông vâng nghe pháp-âm của tôi, đó là nhân cái tiếng mà có phân-biệt: dầu cho diệt hết tất-cả cái thấy, nghe, hay, biết, bên trong nắm-giữ cái u-nhàn, không biết, không nghĩ thì đó cũng còn là sự phân-biệt bóng-dáng pháp-trần mà thôi.

Chẳng phải tôi bảo ông chấp cái ấy không phải là tâm, nhưng ông phải, chính nơi tâm ông, suy-xét chín-chắn, nếu rời tiền-trần có tính phân-biệt, thì đó mới thật là tâm của ông. Nếu tính phân-biệt, rời tiền-trần, không còn tự-thể thì nó chỉ là sự phân-biệt bóng-dáng tiền-trần. Tiền-trần không phải thường-trụ, khi thay đổi diệt mất rồi, thì cái tâm nương vào tiền-trần ấy cũng đồng như lông rùa sừng thỏ và pháp-thân của ông cũng thành như đoạn-diệt, còn gì mà tu-chứng vô-sinh-pháp-nhẫn”. 

 

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

Việt Dịch: Cư Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám



Cho nên Tổ nói: “Tốt lắm hãy nán lại một đêm”. Như vậy là ông tốt rồi thôi hãy ở lại một đêm, nên người đời sau nói ông là “Nhất túc giác” tức ở một đêm mà được giác ngộ. Còn mình bây giờ tu bao lâu mới giác ngộ? Tu mười năm, hai mươi năm mà chưa giác ngộ, còn Ngài tới nói đạo một giờ, nữa giờ rồi ở lại một đêm liền được giác ngộ thì đó là chỗ rất là kỳ đặc của Ngài. Như vậy coi như Lục Tổ đã ấn chứng cho Ngài là người thấu triệt được cái lý Thiền. Vì vậy mà sau này Ngài đã làm ra những quyển sách nói về Thiền rất là thấu triệt mặc dầu Ngài ở chỗ Lục Tổ một đêm thôi, mà bài “Chứng đạo ca” này tất cả quý vị  tu thiền ở Nhật Bản ai cũng thuộc hết. Chỉ có Việt Nam, mấy Thiền sư Việt Nam ở Thiền viện mà không thuộc gì hết. Có không? Đó là cái hổ thẹn của mình đó, chớ bên kia người ta thuộc hết.

Bây giờ trong bài “Chứng đạo ca” tôi sẽ đi từng phần, tôi đọc bản chữ Hán GIẢNG cho quý vị  nghe để cho thấy âm vận và ý nghĩa sâu xa của bài này.

Trước hết “Chứng đạo ca” là bài ca chứng đạo. Mà ngài chứng đạo Ngài ca, còn chúng ta chưa gì hết cho nên lời ca của Ngài mình không biết gì hết. GIẢNG  lắm mà không biết biết được bao nhiêu, chớ còn thực ra chúng ta khó mà biết được. Đây tôi đọc:

 

CHÁNH VĂN :

 

Quân bất kiến :

 

Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân,
Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân?
Vô minh thực tánh tức Phật tánh,
Ảo hoá không thân tức Pháp thân.

 

GIẢNG:

 

Bài ca đó bốn câu.

 

Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân, Tuyệt học là dứt sự học. Vô vi là đối với hữu vi. Nhà Phật nói hữu vi là pháp nào có sanh trụ dị diệt hay nói đơn giản là sanh trụ diệt thì pháp đó là hữu vi. Còn cái nào không có sanh trụ diệt đó gọi là vô vi. Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân là dứt sự học và không còn sanh diệt là đạo nhân nhàn.

Nhưng chữ đạo nhân quý vị  có biết chưa? Đạo nhân là người sao? Thường thường thấy ai tu cũng nói đạo nhân hết chớ gì. Nhưng không phải. Tôi nhớ hồi xưa học nhưng lâu rồi tôi không nhớ kỹ lắm, trong kinh Tứ thập nhị chương nói về ý nghĩa cúng dường, trong đó Phật dạy rằng: “Cúng dường một trăm người ác tức đem đồ giúp đở một trăm người ác không bằng cúng dường một người thiện. Cúng dường một trăm người thiện không bằng cúng dường một người tu giữ giới tức xuất gia giữ giới. Cúng dường một ngàn người xuất gia giữ giới không bằng cúng dường một vị A la hán. Cúng dường một ngàn vị A la hán không bằng cúng dường một đạo nhân vô tâm”. Như vậy đặt câu hỏi đạo nhân vô tâm là người nào? Đây đạo nhân là để chỉ cho người mà đã sống được cái chân thật của chính mình, không còn bị những cái gì bên ngoài nó che đậy, không còn bị những cái gì bên ngoài nó lừa bịp nữa, sống mãi với cái chân thật của mình cho nên gọi là đạo nhân vô tâm. Vô tâm là không có cái tâm sanh diệt, chớ không phải là vô tâm không, không có tâm, không có cái biết. Không có cái sanh diệt gọi là đạo nhân vô tâm. Như vậy thì đạo nhân vô tâm là ai? Là Phật sống mất rồi, cho nên A la hán không bằng Phật. Mà nói đạo nhân cái mình tưởng đạo nhân đó là ông nào lạ lùng.

Như vậy thì ở đây chỉ một câu thôi, Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân tức là người không còn học, hai chữ không còn học này quý vị  cũng nên hiểu cho rõ. Trong nhà Phật nói rằng chúng ta tu muốn có trí tuệ thì mới vào tu thì phải học Văn, Tư, Tu. Trước là phải nghe tức là học là Văn. Rồi phải suy gẩm cái lời mình học ở thầy đó đúng hay sai, nó chân lý hay chưa, đó là Tư. Rồi khi thấy đúng chân lý mình ứng dụng mình Tu. Ba trường hợp đó gọi là Văn Tư, Tu, ai mới vào đạo cũng phải như vậy hết. Học ba phần đó Văn, Tư, Tu là trí huệ, nhưng mà trí huệ đó là trí huệ hữu lậu tức trí huệ còn trong sanh tử. Muốn được trí huệ ra ngoài thoát khỏi sanh tử thì phải Giới, Định, Tuệ. Phải giữ giới cho trong sạch, giới trong sạch rồi tu được tâm an định, tâm an định rồi trí tuệ phát sáng thì cái đó mới là giải thoát sanh tử.

Như vậy tuyệt học là qua khỏi cái học gọi là văn tư tu rồi, không còn học nữa, mà chỉ định tâm để sáng lên thì đó là trí tuệ giải thoát sanh tử. Vì vậy ba phần đó, giới định tuệ gọi là giải thoát vô lậu.

Vậy thì đây nói tuyệt học tức là không còn học trong cái sanh diệt mà chỉ sống với cái bất sanh bất diệt. Bởi vậy nên khi trí tuệ từ cái tâm yên định sáng lên rồi thì trí tuệ đó không còn sanh diệt nữa nên gọi là vô vi, vô vi tức là không còn bị sanh diệt, thì đó là vị đạo nhân nhàn. Đạo nhân nhàn là như vậy. Quý vị  nghĩ bây giờ kiếm vị đạo nhân vậy có không? Chắc khó kiếm lắm. Bây giờ vị đạo nhân nhàn đó nhìn tất cả sự vật như thế nào?

 

Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân ? Người đạo nhân đó thấy tu không cần trừ vọng tưởng, không cầu chân. Tại sao? Bởi tâm Ngài không còn niệm sanh diệt nữa, mà không còn niệm sanh diệt nên Ngài thấy rằng cái chân và cái vọng đối đải nó không còn ở trong tâm các Ngài, mà không còn tâm sanh diệt đó thì trừ cái gì, cầu cái gì.

 

Vô minh thực tánh tức Phật tánh, Tánh thật của vô minh là tánh Phật. Quý vị  có vô minh không? Ai cũng có hết, mà có vô minh là có tánh Phật rồi. Như vậy thì quý vị  không có hổ thẹn rằng chúng ta là người si mê không, vì trong si mê nó có tánh Phật. Làm sao biết? Tôi thí dụ như ở dưới biển sóng nổi dậy đùng đùng, mà sóng nổi dậy đùng đùng đó có rời mặt biển không? Tuy sóng dậy ầm ầm thấy nguy hiểm nhưng mà thật ra sóng đó nó không rời mặt biển. Khi hết gió sóng lặng thì chỉ còn là mặt biển. Cũng vậy tâm lăng xăng lộn xộn của mình nó dấy động đó gọi là vô minh. Khi nó lặng hết không còn dấy động nữa thì đó là trở về Phật tánh.

Giờ quý vị  muốn thấy Phật tánh không? Chịu khó buông hết cái tâm lăng xăng đó đi. Đừng có tâm nghĩ hơn nghĩ thua, nghĩ phải nghĩ quấy, ngồi buông sạch hết thì đó là trở về tánh Phật của mình. Cho nên quí thầy lên ngồi thiền nhìn xuống để buông xả hết những cái tâm lăng xăng, đó là trở về với tánh Phật, chớ không phải cầu Phật cho mình thành Phật, mà trở về tánh Phật sẳn của mình. Vì vậy mà ở Thiền viện mới hướng dẫn Phật tử ngồi thiền đó, mà ngồi thiền thì kỵ cái gì? Không cho vọng tưởng, buông xả vọng tưởng. Mà buông xả vọng tưởng thì tánh Phật mình từ từ hiển lộ, chớ không tìm kiếm ở đâu. Vì vậy mà nói vô minh thực tánh là tánh thật của vô minh là tánh Phật, chớ không có gì lạ.

 

Ảo hóa không thân tức pháp thân. Cái thân chúng ta sanh ra năm bảy chục năm nó hoại, thân này đối với đạo thấy là thân tạm bợ, giả dối. Ngay thân tạm bợ, giả dối này nó có cái pháp thân sẳn. Pháp thân là cái thân không có sanh, không có diệt. Trong nhà Phật thường chia ra ba thân: Pháp thân, Báo thân, Hóa thân. Pháp thân chỉ cho cái thân không sanh không diệt. Báo thân là thân do quả báo mà được, tu hành nhiều tốt thì được báo thân tốt; hay làm tội nghiệp nhiều thì sanh ra thân xấu xí; đó là thân quả báo. Hóa thân là thân đối với Phật là thân Ngài ứng hóa để độ chúng sanh.

Như vậy thì Pháp thân của Phật có, chúng ta cũng có. Ngay cái thân huyễn hóa của chúng ta đây đã có cái Pháp thân rồi, chớ không có tìm kiếm ở đâu hết. Vậy thì người Phật tử tu sống trở về với tánh Phật là chúng ta ngay nơi tâm vô minh lặng thì tánh Phật hiện, ngay cái thân ảo hóa này thấy rõ trong đó có cái thân bất sanh bất diệt là Pháp thân, chớ không phải riêng Đức Phật có mà chúng ta không. Chúng ta cũng có như Ngài nhưng vì chúng ta mê lầm nên rồi chúng ta đuổi theo cái thân tạm bợ, rồi từ cái thân tạm bợ chúng ta cứ say sưa với nó cho tới ngày nó bại hoại rồi chừng đó chúng ta khổ sở.

Bây giờ tất cả quý vị  có người nào thấy thân mình không thật không? Trong đây có ai thấy thân không thật không? Chắc thật trăm phần trăm. Thấy thân này thật thì làm sao biết có Pháp thân. Khi biết thân này là tạm bợ, là hư giả thì mới nhận được cái Pháp thân trong đó. Còn thấy nó thật thì cứ cả ngày say sưa lo cho nó, lo cho cuối cùng rồi nó rả nát. Khi nó rả nát nó còn thật không? Đó là cái nhìn của mình mê, chúng ta chỉ biết cái thân hiện có là thật. Nhưng không ngờ thân hiện có ngày nay nó còn, ngày mai nó hoại hoặc ngày nay nó hoạt động được ngày kia thì nó không còn hoạt động. Như vậy thì nó làm sao mà thật được. Cho nên dưới con mắt Phật thấy nó là giả dối, là tạm bợ không thật. Không thật thì mình không có lệ thuộc nó, mình không có chìu theo cái đòi hỏi của nó, do đó nên mình tự do, tự chủ. Từ tự do, tự chủ đó từ từ chúng ta thấy được cái thân thật là Pháp thân bất sanh bất diệt. Đây là cái nhìn của vị đạo nhân.

Đạo nhân nhìn thấy tu các Ngài không cần phải trừ vọng tưởng, phải cầu chân thật. Vì đối với các Ngài không có vọng tưởng ngoài chân thật, cho nên rồi không có bỏ cái này tìm cái kia. Rồi thấy rõ vô minh là tánh Phật của mình, cuối cùng của vô minh đó là tánh Phật. Ngay thân ảo hóa này nó đã có sẳn Pháp thân. Như vậy cái nhìn của người đạt đạo thấy rõ ngay nơi mình đủ cả Phật tánh, đủ cả Pháp thân, chớ không có phải tìm cầu đâu hết. Không phải tu mười năm, hai mươi năm mới có mấy cái đó, mà nó đang sẳn đủ, rất tiếc là chúng ta quên.



CHÁNH VĂN :

 

Pháp thân giác liễu vô nhất vật,
Bổn nguyên tự tánh thiên chân Phật.
Ngũ ấm phù vân không khứ lai,
Tam độc thủy bào hư xuất một.

 

GIẢNG :

 

Pháp thân giác liễu vô nhất vật, Ngài nói rằng pháp thân mà giác ngộ rồi thì nó không một vật. Câu này có đúng với chỗ Lục Tổ ngộ chưa? Lục Tổ Ngài thấy bài kệ Ngài trình đó:

Bản lai vô nhất vật,

Hà xứ nhạ trần ai.

Cái đó xưa nay không một vật thì chỗ nào dính bụi bậm. Đây nếu chúng ta thấu suốt hiểu rõ được pháp thân rồi, thì mới biết pháp thân đó nó không có một vật. Như vậy thì câu Lục Tổ nói “Bản lai vô nhất vật”, Ngũ Tổ đọc tới câu đó thì đã biết được người này thấy được cái gì.

Bổn nguyên tự tánh thiên chân Phật. “Bổn” là gốc, “nguyên” là nguồn. Bổn nguyên là nguồn gốc. Hai chữ bổn nguyên là cái chung, một từ chung. Cái nguồn gốc chân thật của mình. “Tự tánh” là cái tánh của mình, “thiên chân Phật” là Đức Phật. Chữ thiên này không phải là trời, mà chữ thiên là cái sẳn có Đức Phật chân thật. Như vậy thì chúng ta sẳn có cái nguồn gốc chân thật, chúng ta sẳn có tánh thanh tịnh chân thật, chúng ta sẳn có ông Phật chân thật. Vậy nhận được pháp thân rồi thì mới thấy mình có đủ bổn nguyên tự tánh thiên chân Phật không thiếu gì hết.

Ngũ ấm phù vân không khứ lai, “ngũ ấm” là chỉ thân năm ấm của mình. Năm ấm là sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức ấm. Thân này do năm cái đó che đậy gọi là thân năm ấm. Thân này giống như là mây nổi bay qua bay lại vậy thôi. Con mắt người giác ngộ thấy thân này như mây nổi, còn chúng ta thấy thân này như cái gì? Như những khối đá chắc thật đập không bể.

Khi thấy được bổn nguyên tự tánh thiên chân Phật rồi thì thân ngủ ấm này giống như mây nổi, hợp đó tan đó, tụ đó rồi mất đó, chớ không có thật. Từ thấy nó không thật rồi thì sao? Thì chúng ta mới không vướng mắc, không có giành với nhau từ cái ăn cái mặc, không có so kè những cái gì mình thua người, người hơn mình..v.v…

Tam độc thủy bào hư xuất một. Tam độc là tham, sân, si. Ba cái này cũng như là bọt nước, nó vừa tụ đó thì tan đó, vừa nổi đó liền bể nát đó, dập nát đó, nó không có thật. Quý vị  thấy tham, sân, si của quý vị  thật không? Ai cũng thấy sợ tham, sân, si vì nó tạo ra bao nhiêu thứ nghiệp ác cho mình. Nhưng với con mắt người tỉnh ngộ rồi thấy tham, sân, si không có thật, giống như là cái bong bóng nước vậy, nổi rồi mất, nổi rồi mất. Bây giờ tôi thí dụ để cho quý vị  cảm thấy đúng hay sai?

Như có người làm gì đó chọc tức mình. Lúc đó mình nổi giận đỏ mặt lên, định làm cái gì đó cho đả giận. Khi mình nổi giận thì người ta vổ tay cười, đó lầm rồi thì lúc đó sao? Cái giận đó nó chìm hay nó còn? Thấy người ta gạt, người ta thử mình. Chừng đó xấu hổ cái giận nó lặng mất. Như vậy thì nó thật không? Nếu thật nó nổi lên tức phải còn. Nhưng mà nó thấy cái gì đó biết mình lầm, người ta gạt mình thử mình, chừng đó mắc cở cái mất tiêu. Đó là thí dụ cái nóng là sân.

Giờ cái tham. Tham quý vị  nghĩ nó thật không? Ai cũng nghĩ tham lam là cái thật của con người, nhưng thật ra cái tham nó cũng không thật. Tại sao nó không thật? Bởi vì nó không phải là cái cố định có hình, có tướng không có bị người ta làm cho nó tan nát được thì nó mới thật. Cái tham này nó không phải vậy. Thí dụ thấy người ta để cái bóp hay cái gì đó, cái không thấy chủ nhà, thì mình hơi dấy cái niệm tham. Mình mở coi. Vừa mới mở thì chủ nhà thấy người ta la ủa cái bóp của tôi bỏ quên, thì lúc đó làm sao, còn không? Cái tham mất tiêu hà. Hồi chưa thấy chủ thì dấy niệm tham. Nhưng chủ người ta nói của tôi đến lượm lại thì cái tham mất đâu còn nữa. Chớ nếu để mở ra thấy có của quí thì lúc đó cái tham nó đuổi, nó khiến cho mình phải lấy, phải tìm cách dấu diếm..v.v… Còn khi người ta nói cái đó tôi bỏ quên, người ta lại lấy lúc đó cái tham hết trơn. Có tan chưa?

Như vậy cái tham, cái sân nó cũng tạm bợ chớ có thật đâu, nếu thật thì nó còn hoài. Nó dấy lên cái lở cơ hội thì nó mất tiêu, thì đó như bọt nước, bong bóng nước, nó đâu có gì thật. Tham sân không thật thì si cũng không thật.

Nếu người giác ngộ rồi thấy thân năm ấm như mây nổi, tụ tán qua lại, không có gì cố định, không có gì là chân thật. Rồi thấy ba cái xấu là tham sân si của mình cũng như bong bóng, như bọt nước, có gì đâu quan trọng. Thấy như vậy thì tự nhiên chúng ta hết sợ, hết sợ thì nó không hoành hành được. Còn mình bây giờ hơi sợ, sợ tôi nóng quá kềm không nổi. Nhưng sự thật ra tại mình tưởng nó thật nên kềm không nổi, chớ thấy nó hư giả thì có gì mà không kềm được. Hiểu như vậy thì chúng ta mới thấy những câu này hết sức là chí lý chớ không phải là chuyện nói để an ủi mình.

Thân năm ấm là không thật. Quý vị  thấy có khi người ta đang đi ngồi trên xe máy chạy mà lở đụng nhau cái ầm thì ngũ ấm này còn không? Thì như phù vân vậy, như mây nổi vậy, đang tụ đó rồi nó tan liền có gì thật đâu. Rồi cả tam độc cũng không thật. Vậy mà mình cứ ngở mình thật, tới chừng cái tướng không thật nó hiện ra thì mình hoảng hốt lên.

Như vậy thì đây là cái nhìn của đạo nhân. Cái nhìn của đạo nhân nhìn thấy rõ vọng tưởng và chân thật nó không có hai, vô minh và Phật tánh nó cũng không có hai, thân ảo hóa và pháp thân nó cũng không có hai. Khi giác ngộ được như vậy rồi thì thấy rõ nơi mình có sẳn cái bổn nguyên, tự tánh và thiên chân Phật của mình. Từ đó mình mới biết rằng thân năm ấm này như mây nổi, tam độc chỉ là bong bóng hay là bọt nước thôi chớ không có gì thật hết.



CHÁNH VĂN :

 

Chứng thực tướng, vô nhân pháp,
Sát-na diệt khước A-tỳ nghiệp.
Nhược tương vọng ngữ cuống chúng sanh,
Tự chiêu bạt thiệt trần sa kiếp.

 

GIẢNG :

 

Chứng thực tướng, vô nhân pháp, Người mà chứng được tướng thật đó rồi tức cái tâm chân thật thì người đó không còn phân biệt đây là người kia là pháp. Pháp là cảnh, người và cảnh không có hai.

Sát-na diệt khước A-tỳ nghiệp. Tức là trong một chốc, trong một khảy móng tay mình tiêu diệt hết nghiệp a tì. Nghiệp a tì là nghiệp trong địa ngục đó.

Như vậy người đạt được thật tướng đó rồi thì không còn thấy có mình là thật, các vật là thật. Bởi không thấy thật cho nên bao nhiêu thứ nghiệp để mà đọa trong địa ngục mình liền tiêu diệt một cách nhẹ nhàng trong một khảy móng tay chớ không có lâu, không có xa. Như vậy thì lời nói đó có thật hay không? Ngài dám nói:

Nhược tương vọng ngữ cuống chúng sanh,

Tự chiêu bạt thiệt trần sa kiếp.

Nếu mà tôi đem lời dối trá để lừa gạt chúng sanh thì tôi tự chịu cái nghiệp đọa địa ngục, bị cái cày nó cày trên lưỡi nhiều như số kiếp cát bụi.

Ngài nói rằng người thấy được tướng thật rồi, không còn bị cái nhân và cái pháp tức người và cảnh nó chi phối nữa, thì chỉ trong một khảy móng tay cái nghiệp địa ngục nó tiêu tan. Ngài dám nói rằng nếu tôi nói đây là nói dối nói gạt quý vị  thì tôi sẽ chịu đọa địa ngục, mà địa ngục hành bằng cách kéo lưỡi ra rồi cày về tội nói dối. Như vậy thì Ngài nghĩ chúng ta mê muội nên lời nói thật chúng ta không tin. Nói rằng nếu mình nhận chân được thật tướng rồi, mình không còn thấy cảnh thấy người thật thì mình qua hết tất cả những nghiệp địa ngục chỉ trong khoảng khảy móng tay hay nói cách khác tất cả những tội chướng mình tiêu tan hết. Bởi vậy quý vị  nghe trong kinh nhất là những buổi sám hối quí thầy, quí cô hay tụng câu:

Tội tánh bổn không vô tâm tạo,

Tâm nhược diệt thời tội diệt vong.

Tội vong, tâm diệt lưỡng câu không,

Thị tắc danh vi chơn sám hối.

Tội tánh vốn là không. Cái tánh tội vốn là không. Từ đâu mà có? Do tâm mình tạo ra. Tâm mê muội tạo thành tội lỗi. Nếu tâm hết mê muội rồi thì tội lỗi không còn. Như vậy khi chứng được thật tướng mình còn mê muội không? Hết mê muội, cho nên lúc đó không còn thấy người thấy cảnh là thật nữa. Người không thật, cảnh không thật thì bao nhiêu nghiệp từ vô số kiếp mình đều diệt hết. Đó tội tánh bổn không, mình thấy được cái thật rồi thì tánh tội không còn. Từ tội không còn cho nên bao nhiêu nghiệp mình tạo mình đều dứt sạch. Lời nói đó e rằng Phật tử chưa tin, Ngài thề rằng tôi nói những lời này mà dối trá quý vị  thì xin chịu đọa địa ngục bạt thiệt, gan như vậy, quyết định như vậy.

Vậy để thấy rằng khi chứng đạo rồi thì cái chân thật nó hiện tiền, mà thấy được cái chân thật rồi mới biết tất cả những cái giả dối nó không có thật. Mà không thật thì một khi mình mê thì tạo nghiệp bị luân hồi, bị khổ đau. Nếu mình tỉnh rồi thì các nghiệp theo đó mà nó tan biến chớ không có còn. Tại sao vậy? Quý vị  nghĩ làm sao? Tôi nói thí dụ chúng ta làm việc mê mệt tối ngủ say, khi ngủ say thấy mộng dữ mộng ác nào là bị người ta rượt người ta đánh, nào là bị người ta chửi bới..v.v… Như vậy trong mộng mình đang thấy bị rượt, bị đánh, bị chửi bới khổ sở đó, rồi chừng nào mới hết? Chỉ cần giựt mình thức dậy thì hết trơn. Giựt mình thức dậy thì tất cả cảnh khổ nó không còn nữa. Giựt mình thức dậy thì cái mê mộng khổ sở không còn.

Cũng như vậy chúng ta chứng thật tướng tức là ngộ được thấy được tướng chân thật của mình thì tất cả vòng luân hồi huyễn hóa này theo đó nó tan hết, tan biến không còn. Giống cũng như là đang say trong mộng đó là mê, say trong mộng thì cảnh dữ mình không biết chạy đi đâu, không ai cứu; nhưng mình tỉnh rồi thì tất cả cảnh mình sợ hải khi mộng không còn nữa. Cũng vậy chúng ta đang sống trong mộng mà không hay rồi cứ tưởng mình đang sống thật. Nếu mình thức tỉnh như các Tổ đây thấy thì tự nhiên các khổ theo đó nó biến, nó tiêu tan không còn.

Bởi vậy nên Ngài khẳng định rằng nếu Ngài nói câu này: người chứng thật tướng thì không còn nhân, không còn pháp thì chỉ trong khảy móng tay thì nghiệp a tì liền hết. Như mình thấy người ta bắt mình ở tù năm năm, mười năm trong lúc mê. Bây giờ giựt mình thức dậy thì tù năm năm, mười năm đó còn không? Liền hết trơn, đâu có thật. Biết được nó không thật thì nó tan biến. Vậy thì một cơn tỉnh là bao nhiêu cái khổ mê không còn. Chúng ta một phen giác ngộ rồi thì cái nghiệp trầm luân ngang đó nó hết.

Như vậy thì quý vị  tu muốn giác ngộ không? Hay là muốn tu phước từ từ năm này một ít, năm kia một ít dồn lại để trả nợ nghiệp cũ. Thí dụ như mình ăn thịt một trăm, một ngàn con cá mà lâu lâu mình mua ít con thả để trả bớt nghiệp. Nhưng thả con này thì bắt con khác ăn, thì chừng nào hết nghiệp? Chỉ có cái chúng ta thức tỉnh thì nghiệp liền hết. Cho nên Phật nói chỉ có giác ngộ chúng ta mới hết cái khổ trong mê lầm. Vì cái khổ mê lầm này nhà Phật dùng từ là vô minh nghĩa là không có sáng. Chúng ta không sáng nên không thấy đúng sự thật, rồi cứ như vậy mà tạo nghiệp với nhau, lẩn quẩn mấy mươi năm rồi đi rồi tạo nữa. Có người nào mà gần chết nói tôi không thèm trở lại đây nữa đâu, có nói vậy được không? Hay chết cứ sợ mất thân này? Sợ mất thân này cái nhắm mắt kiếm đủ cách để gặp lại thân khác. Gặp thân khác rồi chui vô đó tiếp tục tạo nữa. Như vậy đời đời tiếp nối khổ đau, cho nên Đức Phật mới nói: “Nước mắt chúng sanh nhiều hơn nước bể cả”. Vì sanh đi tử lại hoài không chịu ra, mà không chịu ra thì làm sao hết khổ. Muốn hết khổ chỉ có cái chứng thật tướng tức là giác ngộ thấy được cái thật của mình bất sanh bất diệt. Đó là người được giải thoát sanh tử.


(Thông thường người đời chỉ TIN NHÂN QUẢ THẾ GIAN mà thôi, còn NHÂN QUẢ XUẤT THẾ GIAN thì không đủ NHẪN LỰC, để TIN ĐƯỢC NGUYỆN LỰC  CỦA CHƯ PHẬT, CHƯ BỒ TÁT…)

 

 

Chứng thực tướng, vô nhân pháp,
Sát-na diệt khước A-tỳ nghiệp.

 


Tu-Bồ-Đề! Môn Nhẫn-nhục Ba-la-mật, đức Như-Lai nói đó chẳng phải Nhẫn-nhục Ba-la-mật, mà tạm gọi là Nhẫn-nhục Ba-la-mật.

Bởi vì sao? Nầy Tu-Bồ-Đề! Như Ta thuở xưa, bị vua Ca-Lợi chặt đứt thân thể. Trong lúc đó, Ta không có tướng ngã, không có tướng nhân, không có tướng chúng-sanh, không có tướng thọ-giả.

Vì sao vậy? Vì thuở xưa, trong lúc thân phận bị chặt rời rã đó, nếu Ta còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng-sanh, tướng thọ-giả, thời lẽ ra Ta khởi lòng hờn-giận.



ĐỨC PHẬT NHIÊN ĐĂNG THỌ KÝ

 

Nầy Tu-Bồ-Đề, nơi ý của Ông nghĩ thế nào? – Ở nơi chỗ đức Phật Nhiên-Đăng thì Như Lai có pháp chi mà được thành Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác chăng?"

"Bạch đức Thế-Tôn! Không, như chỗ con hiểu nghĩa-lý của lời Phật dạy, thời ở nơi đức Phật Nhiên-Đăng, Đức Thế Tôn đã không có pháp chi mà được thành Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác cả."

Đức Phật dạy rằng: "Đúng thế! Đúng thế! Nầy Tu-Bồ-Đề! Thiệt không có pháp chi đức Như-Lai đặng Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác.

Nầy Tu-Bồ-Đề! Nếu còn có pháp nào mà đức Như-Lai được Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, thời đức Phật Nhiên-Đăng bèn chẳng thọ-ký cho Ta rằng: "Ông ở đời sau sẽ được thành Phật hiệu là Thích-Ca Mâu-Ni."

 


KINH KIM CANG 
BÁT NHÃ BA LA MẬT 



VUA CA LỢI và TIÊN NHẪN NHỤC

 

(Kinh Pháp Hoa Lược Giảng

Hòa Thượng Tuyên Hóa)

 

 

Vua Ca Lợi này là ai? Chính là Tôn giả A Nhã Kiều Trần Như.

Vào thời quá khứ, có một hôm vua Ca Lợi dẫn theo một nhóm cung nữ lên núi đi săn—vây bắt một số động vật như hoẵng, nai, hươu. Vào trong núi, số cung nữ này vốn từ xưa đến nay toàn ở trong thâm cung giống như ở tù vậy, không hề được ra ngoài; lần này được sổ lồng, có thể nhìn ngắm được trời mây. Ố! Nhìn quan cảnh núi rừng sao mà thoáng đãng, có núi, có nước, cây cỏ đâm chồi nẩy lộc, nước suối nhẹ nhàng êm trôi; trong hoàn cảnh như thế làm cho lòng người vô cùng hoan hỷ. Phong cảnh núi rừng xinh đẹp hùng vĩ, chuyến đi này thật không thể dùng lời tả xiết, các cung nữ mải mê chạy đi thăm thú khắp nơi. Bọn họ nhìn thấy trong một hang núi có một cụ già, lớp bụi đất bám trên thân người này dày không biết bao nhiêu mà kể, tóc dài đến nổi bện thành một cục rối sù sì. Những cung nữ này khi nhìn thấy một người như thế ở phía trước đều không dám tiến lên, bọn họ cho rằng trong hang núi này có một con yêu quái; sau đó nhìn kỹ lại, ồ! Thì ra là một cụ già, một cụ già rất kỳ quái!

Đó là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tu hạnh bồ tát đã làm một vị tiên tu hạnh nhẫn nhục, Ngài cũng rất ít khi gặp người khác, nên lúc bấy giờ nhìn thấy nhiều cung nữ đến thế, Ngài cũng muốn hóa độ nhóm cung nữ này, nên lên tiếng: “Ây! Các cô không nên sợ tôi! Tôi không ăn thịt các cô đâu! Tôi không biết ăn thịt người, tôi cũng là người mà.”

Các cung nữ này vừa nghe, vui mừng: Ồ! Cụ già đã nói chuyện rồi! Bèn vây quanh lại hỏi: “Cụ ngồi ở đây làm gì? Cụ ở nơi đây có cơm ăn không? Quần áo của cụ đã rách nát hết rồi! Cụ đi được không? Tại sao cụ lại ngồi mãi ở đây? … ”

Tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chính là vị tiên Nhẫn Nhục này, bảo các cung nữ rằng: “Tôi ở đây tu đạo, chuyên tu về hạnh nhẫn nhục!” Các cung nữ liền hỏi: “Nhẫn nhục? Nhẫn nhục là cái gì?” Nghe đến chữ “nhẫn nhục” bọn họ không hiểu. Tiên nhân Nhẫn Nhục liền giải thích: “Nhẫn nhục có nghĩa là người ta có đối xử tệ với mình, mình đều không được nổi sân, xem như không hề xảy ra việc ấy.” Sau đó, Tiên nhân giảng cho các cung nữ này nghe về pháp môn “nhẫn nhục”.

Giảng thuyết một hồi, người nói cũng sẵn lòng nói, người nghe cũng sẵn lòng nghe; vì các cung nữ này từ xưa đến giờ chưa từng nghe được diệu pháp như vậy. Lần này người nghe cũng nhập tâm, người nói cũng định tâm; xung quanh có xảy ra động tĩnh gì, tất cả đều không hay biết. Giống như chúng ta hiện nay, nếu như quý vị là người thật tâm ở đây nghe kinh thì dù bên ngoài có xảy ra chuyện gì, quý vị cũng không nghe thấy; còn nếu như quý vị là người không thật tâm nghe kinh thì ở ngoài phố có những khách du lịch nào, hoặc giả hiện giờ ở tại “Kim Sơn Thời Báo” giảng về nguồn gốc của Kim Sơn Thời Báo ra sao thì quý vị đều nghe biết hết. Nếu như quý vị nghe kinh bằng tất cả tấm lòng thì bên ngoài có âm thanh gì cũng đều không nghe thấy.

Vị tiên nhân Nhẫn Nhục này giảng cho các cung nữ nghe pháp môn “nhẫn nhục” khiến cho tất cả đều nhập vào định; vào lúc này vua Ca Lợi từ xa đi tới, đến thăm các cung nữ. Bình thường vua hay đùa nghịch với các cung nữ đã quen, lần này cũng vậy, Ngài đi nhè nhẹ, chầm chậm không để cho các cung nữ nhìn thấy; các cung nữ cũng đang nghe kinh một cách xuất thần, Tiên nhân Nhẫn Nhục cũng đang giảng một cách xuất thần, tất cả đều không hay biết đến những gì xảy ra xung quanh.

Vua Ca Lợi đi nhẹ nhẹ đến gần phía trước xem, Ồ! Thì ra có một cụ già! Các cung nữ của vua đều đang quây quanh cụ già nghe nói chuyện. Thế là vua liền khởi sanh tâm đố kỵ nghĩ “Các cung nữ này đều là những người nữ nhân của mình, bây giờ lại bị một cụ già như ông ấy mê hoặc, tất cả đều tỏ ra thích thú ông ấy!” Nghĩ như thế vua liền cất tiếng hỏi: “Nhà ngươi đang giảng gì vậy?” Tiên nhân Nhẫn Nhục nghe có người hỏi như thế, ngước lên nhìn, thì ra là một vị hoàng đế. Tiên nhân đáp: “Bần đạo đang giảng cho các cung nữ nghe về pháp môn 'nhẫn nhục'!”

Vua hỏi: “Nhẫn nhục? Sao gọi là “nhẫn nhục””? Nhà ngươi có thể nhẫn được không? Chỉ dựa vào tấm thân già nua này, ngươi có thể nhẫn được không? Tiên nhân Nhẫn Nhục trả lời: “Bần đạo có thể nhẫn được!” Vua Ca Lợi hỏi lại: “Ngươi có thể nhẫn được à? Bây giờ ta muốn chứng thực lời nói của ngươi! Thử nghiệm xem nhà ngươi có thể nhẫn được không? Theo cách nhẫn nhục của ngươi thì dù có đau đớn gì nhà ngươi cũng có thể nhẫn được phải không?” Vị tiên trả lời: “Dạ phải!”

“Thế thì đầu tiên ta sẽ dùng kiếm báu của mình cắt cánh tay của ngươi, xem ngươi phản ứng như thế nào?” Tiên nhân trả lời: “Vâng, xin Ngài cứ thử!” Thế là, vút, vua Ca Lợi rút kiếm báu đeo bên mình ra; thanh bảo kiếm của vua có thể chẻ vàng cắt ngọc, vô cùng sắc bén, thanh kiếm báu vừa chạm vào tay Tiên nhân, cánh tay liền bị cắt lìa. Vua Ca Lợi hỏi: “Ngươi có đau không?” Tiên nhân Nhẫn Nhục đáp: “Không đau!” Vua tiếp: “Tâm ngươi có khởi lên sân hận không? Ngươi có oán hận ta không?” Tiên nhân đáp: “Không oán hận!” “Ngươi thật không oán hận? Tốt! Còn lại một cánh tay, ta cũng sẽ cắt nốt! Một cánh tay, ngươi đương nhiên không oán hận, thử hai cánh tay xem!” Thế là vua chém đứt luôn cánh tay còn lại. “Ngươi có đau không?”

Tiên nhân Nhẫn Nhục đáp: “Không đau!” “Tâm ngươi có oán hận ta không?” Tiên nhân đáp: “Không oán hận!” “Thế có gì chứng minh không? Ngươi nói ngươi không oán hận ta, nhất định là ngươi nói dối, khoác lát! Hừ! Há lại có đạo lý này! Ta chặt tay của ngươi, ngươi lại không oán hận ta? Trên đời này không có loại người như vậy! Ta không tin! Ta cắt thêm một cái chân của ngươi, xem ngươi có oán hận hay không? Ta vốn muốn ngươi nói lời chân thật! Ngươi lại nói dối với ta, ta không thể tha thứ cho ngươi được!” Nói xong, liền vung kiếm chém lìa một chân của Tiên nhân.

Quý vị xem! Hai tay và một chân của người ta đã bị cắt, chỉ còn lại một chân. A! Nếu là người bình thường sẽ rất đau khổ, nước mắt tuôn tràn như suối chảy; nhưng lúc này vị Tiên Nhẫn Nhục không có tâm trạng như vậy. Vua Ca Lợi lại hỏi Tiên nhân: “Bây giờ ngươi có đau không?”

Tiên nhân đáp: “Không đau! Việc này không đáng là gì!” “Ồ? Không đáng à? Tâm ngươi có hận ta không?” Tiên nhân đáp: “Bần đạo không hận Ngài!” “Sao? Thế thì tốt! Hai tay của ngươi đã không còn, chân chỉ còn lại một cái. Một chân cũng không làm được gì, không thể đi đứng, ta sẽ hoàn thành tâm hạnh nhẫn nhục không đau khổ cho ngươi bằng cách chặt đứt luôn cả chân còn lại của ngươi!” Thế là vua chém lìa luôn cả chân kia và hỏi Tiên nhân: “ Ngươi có đau không? Bây giờ hai tay và hai chân của ngươi đã không còn, ta xem ngươi còn làm thế nào được? Bây giờ ngươi có đau không? Phải nói lời chân thật! Nếu ngươi nói thật, sẽ không có việc gì; nếu nói dối, ta vẫn phải thử nghiệm tiếp!”

Tiên nhân Nhẫn Nhục trả lời: “Ồ! Bây giờ bần đạo vẫn cảm thấy không đau!” “Thế tâm ngươi có oán hận ta không?”, vua Ca Lợi hỏi. Tiên nhân vẫn từ tốn: “Bần đạo không oán hận Ngài!” Vua không tin “Ngươi ngoài miệng nói không oán ta, vì ta là một vị hoàng đế nên ngươi không dám oán, ngươi dám giận mà không dám nói, cho nên mới gắng chịu đựng đau đớn, cho nên phải nói dối mà không chịu nói thật, có phải như vậy không?” Tiên nhân Nhẫn Nhục vẫn trước sau như một: “Dạ, không phải! Nếu như bần đạo không có tâm oán hận bệ hạ thì xin cho tay chân của bần đạo được mọc dài ra; còn như bần đạo có tâm oán hận Ngài thì xin cho tay chân của bần đạo không thể trở lại như xưa.”

Tiên nhân vừa dứt lời, tay và chân quả nhiên mọc trở lại, như chưa hề bị chặt đứt. Lúc bấy giờ tất cả hộ pháp thiện thần đều phẫn nộ, từ trên không trung giáng mưa bão xuống, đánh vua Ca Lợi. Bấy giờ Tiên nhân Nhẫn Nhục xin với các vị hộ pháp thiện thần rằng: “Chư vị không nên trách phạt vua, vua chỉ thử bần đạo, giúp thành tựu đạo nghiệp cho bần đạo. Trong cùng tận những kiếp mai sau, nếu được thành Phật, trước tiên bần đạo sẽ độ cho vua cũng được thành Phật; bần đạo sẽ độ vua trước, vua sẽ được khai ngộ đầu tiên.

Vua Ca Lợi kiếp trước nay chính là Tôn giả A Nhã Kiều Trần Như, kiếp trước Tôn giả đã không khách sáo đối với Phật như thế, nên sau khi thành đạo, Phật độ cho Tôn giả khai ngộ trước. Ngay cái tên “A Nhã” của Tôn giả dịch là “giải bổn tế”, hay còn gọi là “tối sơ giải”, nghĩa là được “khai ngộ đầu tiên” vậy.



CHÁNH VĂN :

 

Đốn giác liễu Như Lai thiền,
Lục độ vạn hạnh thể trung viên.
Mộng lý minh minh hữu lục thú,
Giác hậu không không vô đại thiên.

 

GIẢNG:

 

Đốn giác liễu Như lai thiền, là chóng giác ngộ được Như Lai thiền. Như Lai thiền là Thiền tông đó. Thiền tông mình tu thẳng. Tôi nói tu thẳng để cho quý vị  nhớ cái ý. Lúc nào đó tôi có GIẢNG : một bài đề tựa là “Một phương thuốc ngừa được cả trăm thứ bệnh”. Bởi vì thường thường đây là tôi nói xa cho quý vị  hiểu một chút, thường thường chúng ta tu nếu nói tu thiền thì người nào bệnh tham ái nhiều trong kinh dạy mình phải quán bất tịnh. Quán chừng nào mình chán mình sợ cái thân này thì đó là thành công, thành công rồi phải quán tịnh nữa. Người nào nóng giận nhiều Phật dạy phải tu hạnh nhẫn nhục. Người nào hay tham lam nhiều thì Phật dạy tu hạnh bố thí để trừ nó, góp vô bây giờ mình buông ra mình cho để trừ. Như vậy những hạnh đó, từng hạnh từng hạnh để dẹp tật xấu của mình.

Nhưng mà tu Thiền này niệm khởi dấy lên mình biết nó hư giả không theo. Không có niệm dấy lên thì quý vị  có tham sân si không? Rồi có đủ thứ, nào ngã mạn, nào đủ thứ xấu không? Như vậy chỉ có một cách phản quan lại thấy niệm khởi là hư giả, ngay chỗ đó mình buông mình bỏ thì tất cả cái khác nó không có sanh. Đó là một phương thuốc ngừa tất cả bệnh hay trị tất cả bệnh. Như vậy thì có nhanh không. Chớ bây giờ để khởi nghĩ, nghĩ về người rồi mình khởi ra tham lam này kia rồi sau mình mới trừ thì lâu quá, xa xôi quá. Cho nên đây là phương pháp đi thẳng nên thường gọi là trực chỉ đó, chỉ thẳng để mà ứng dụng tu. Vì vậy gọi đó là Như Lai thiền.

Nếu mình giác ngộ được Như lai thiền thì Lục độ vạn hạnh thể trung viên. Trong đó nào là lục độ, nào là vạn hạnh, trong cái thể đó nó tròn đủ hết, tròn đủ chớ không có thiếu

Mộng lý minh minh hữu lục thú, Trong giấc mộng thì mờ mờ nó có sáu đường. Lục thú là sáu cõi.

Giác hậu không không vô đại thiên. Mình giác ngộ rồi thì không ngơ, không còn cả đại thiên sa giới nữa, chớ đừng nói lục thú.

Như vậy ở đây Ngài muốn nhắn nhủ chúng ta rằng, người tu thấu suốt được lý Như Lai thiền, ứng dụng được lý Như Lai thiền thì trong đó đủ cả lục độ, vạn hạnh hết. Nói như vậy là sao? Thí dụ như bây giờ tôi tu tôi biết các niệm khởi là hư dối. Nó là hư dối tôi không theo nó. Như vậy thì tôi có làm gì bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục gì đâu mà lục độ. Nhưng mà tôi không có dấy niệm, không có tâm so đo nghĩ tưởng, vừa thấy người đó đói mà tôi có ổ bánh mì liền móc cho liền. Tôi không nghĩ gì hết nhưng mà lòng thương nó sẳn sàng có, chớ không phải đợi nghĩ mới có. Rồi tôi không nghĩ gì hết mà thấy người đó họ khổ tôi liền an ủi họ. Như vậy thì đạo lý nó ở sẳn trong Như Lai thiền này. Tâm mình được an, được thanh tịnh thì mọi hành động đều là tốt, đều là trong sạch. Vì vậy mà đủ cả lục độ vạnh hạnh. Chừng đó mình mới thấy sáu đường là địa ngục, ngạ quỹ, súc sanh, nhơn, a tu la, và cõi trời, sáu đường đó chỉ là giấc mơ thôi, chớ nó không có thật. Vì vậy mà mình sau khi được giác ngộ rồi thì cả đại thiên sa giới cũng không còn nữa. Bởi vì trong nhà Phật nói các cõi ở trong bầu hư không này nó vô số, dùng từ là tam thiên đại thiên thế giới đó nghĩa là nhiều vô kể. Vậy khi mình giác ngộ rồi tất cả thế giới cũng là không thật chớ đừng nói là lục thú không thật thôi. Đó là ý hết sức là rõ.

Ngài muốn chỉ, muốn hướng dẫn cho chúng ta tu, tu về Như Lai thiền thì tất cả hạnh đầy đủ trong đó. Chừng đó chúng ta mới thấy rõ sáu đường và tất cả cõi trong thế gian này đều là hư ảo không thật thì có cái gì đâu mà mắc kẹt.

Đó là một đoạn. Mấy chỗ này quý vị  nghe đừng có vội sợ nghe.



Giác hậu không không vô đại thiên.


Điểm thứ nhứt là Giác Ngộ Tâm. Chúng sanh thường chấp sắc thân này là ta, tâm thức có hiểu biết, có buồn giận thương vui là ta. Nhưng thật ra, sắc thân này giả dối, ngày kia khi chết đi nó sẽ tan về với đất bụi, nên thân tứ đại không phải là ta. Tâm thức cũng thế, nó chỉ là thể tổng hợp về cái biết của sáu trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, như một người trước kia dốt, nay theo học chữ Việt, tiếng Anh, khi học thành, có cái biết về chữ Việt, tiếng Anh. Lại như một kẻ chưa biết Ba Lê, sau một dịp sang Pháp du ngoạn, thu thập hình ảnh của thành phố ấy vào tâm. Khi trở về bản xứ có ai nói đến Ba Lê, nơi tâm thức liền hiện rõ quang cảnh của đô thị ấy. Cái biết đó trước kia không, khi lịch cảnh thu nhận vào nên tạm có, sau bỏ lãng không nghĩ đến, lần lần nó sẽ phai lạt đến tan mất hẳn, trở về không. Cái biết của ta khi có khi không, hình ảnh này tiêu, hình ảnh khác hiện, tùy theo trần cảnh thay đổi luôn luôn, hư giả không thật, nên chẳng phải là ta. Cổ đức đã bảo: "Thân như bọt tụ, tâm như gió. Huyễn hiện vô căn, không tánh thật." Nếu giác ngộ thân tâm như huyễn, không chấp trước, lần lần sẽ đi vào cảnh giới "nhơn không" chẳng còn ngã tướng. Cái ta của ta đã không, thì cái ta của người khác cũng không, nên không có nhơn tướng. Cái ta của mình và người đã không, tất cái ta của vô lượng chúng sanh cũng không, nên không có chúng sanh tướng. Cái ta đã không, nên không có bản ngã bền lâu, không thật có ai chứng đắc, cho đến cảnh chứng thường trụ vĩnh cữu của Niết Bàn cũng không, nên không có thọ giả tướng. Đây cần nên nhận rõ, chẳng phải không có thật thể chân ngã của tánh Chân Như thường trụ, nhưng vì thánh giả không chấp trước, nên thể ấy thành không.

Nhơn đã không, thì Pháp cũng không, vì sự cảnh luôn luôn đổi thay sanh diệt, không có tự thể. Đây lại cần nên nhận rõ chẳng phải các pháp khi hoại diệt mới thành không, mà vì nó hư huyễn, nên đương thể chính là không, cả Nhơn cũng thế. Cho nên cổ đức đã bảo: "Cần chi đợi hoa rụng. Mới biết sắc là không" (Hà tu đãi hoa lạc. Nhiên hậu thỉ tri không).

Hành giả khi đã giác ngộ Nhơn và Pháp đều không, thì giữ lòng thanh tịnh trong sáng không chấp trước mà niệm Phật. Dùng lòng giác ngộ như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm.

 

Niệm Phật Thập Yếu



CHÁNH VĂN :

 

Vô tội phước, vô tổn ích,
Tịch diệt tánh trung mạc vấn mịch.
Tỷ lai trần kính vị tằng ma,
Kim nhật phân minh tu phẫu tích.

 

GIẢNG:

 

Vô tội phước, vô tổn ích, chỗ này có nhiều người nói mình tu mà không có tội, không có phước thì cái đó là trái đạo lý. Nhưng mà ở đây nói không tội không phước, và không tổn, không có lợi ích. Tại sao? Đứng về tánh chân thật đó nó không có sanh diệt, không có sanh diệt thì làm sao có tội, làm sao có phước. Nếu mình đi trong vòng luân hồi sanh diệt này thì có tội có phước không? Tội thật phước thật. Nhưng mà bước qua chỗ tánh chân thật đó thì nó không có tội, không có phước. Bởi vì nó đâu còn sanh diệt, nó cũng không tổn hại mà cũng không có lợi ích.

Tịch diệt tánh trung mạc vấn mịch. Là tánh tịch diệt của mình tánh lặng lẻ của mình không có nên tìm hỏi cái gì hết, nó là như nhiên sẳn như vậy chớ không phải do hình ảnh nào hay là những phương tiện nào tụ họp.

Tỷ lai trần kính vị tằng ma, Tỷ” là xưa, “lai” là nay. Từ xưa tới giờ cái gương dính bụi chúng ta chưa từng chùi. Nghĩa là cái gương chân thật của mình hay là cái gương tâm sáng của mình từ bao giờ chúng ta không có lau chùi bị bụi nó phủ.

Kim nhật phân minh tu phẫu tích. Là ngày nay rõ ràng phân biệt chia chẻ cho mình hiểu, mình thấu được.

Như vậy, ý Ngài muốn nói rằng trên phương diện chân thật, ở đây gọi là tánh tịch diệt, thì nó không có tội, không có phước, không có lợi ích, không có tổn hại. Nhưng mà chúng ta cái gương trong sáng của mình để bụi đóng nhiều quá rồi, phủ kín từ bao giờ rồi, chưa từng chùi. Cho nên hôm nay cần phải giải thích, cần phân biệt cho quý vị  hiểu rõ, để quý vị  ráng lau chùi gương của mình. Gương quý vị  đóng chừng bao nhiêu lớp bụi? Chắc nó dày cả tấc, cho nên nó tối mò. Ngồi lại cái bao nhiêu thứ bụi nó phủ lên, phủ lên không. Nên tội lắm quý vị  mới tập ngồi thiền, ngồi một giờ hơn một giờ ra hỏi có yên được phút nào không thì đều lắc đầu không có yên. Tại vì nó phủ lâu quá rồi mới chùi sơ sơ làm sao mà nó sáng được. Cho nên phải chịu khó, phải nổ lực lau chùi cho nó sạch rồi tự nó sáng, chừng đó chúng ta khỏi có lo, khỏi có cần tìm kiếm cái gì.




CHÁNH VĂN :

Thùy vô niệm? Thùy vô sanh?
Nhược thực vô sanh vô bất sanh.
Hoán thủ cơ quan mộc nhân vấn:
Cầu Phật thi công tảo vãn thành ?

 

GIẢNG:

 

Mấy câu này nghe nó cũng xót xa.

Thùy vô niệm? Thùy vô sanh?

Nhược thực vô sanh vô bất sanh.

Ai mà không niệm, ai mà không sanh. Cái gì không niệm, cái gì không sanh? Nếu thật sự không sanh tức là không bất sanh là có sanh rồi. Còn đây là cái không sanh tức có cái sanh ở bên kia đối đải. Đây là vô niệm thì còn cái có niệm đối đải.

Hoán thủ cơ quan mộc nhân vấn: là gọi người gổ hỏi thử việc này coi làm sao? Hỏi cái gì?

Cầu Phật thi công tảo vãn thành? Tức là cầu Phật ra công sớm hay muộn được thành. Nói cách khác tôi cố gắng tu cầu thành Phật chừng nào được thành? Giờ hỏi người gổ chừng nào nó trả lời?

Bởi vì chúng ta có cái nhìn hơi nông nổi, hơi cạn cợt. Làm cái gì chúng ta cũng đòi được biết kết quả, tu thì hỏi coi chừng nào thành Phật. Nếu không dám hỏi thành Phật sợ tội thì hỏi tu chừng nào được định? Bây giờ quý vị  hỏi tu chừng nào được định tôi trả lời làm sao? Tôi trả lời chừng nào hết vọng tưởng thì được định, chớ đâu có nói chừng nào được. Vì cái đó là việc của mình, mình làm mình biết người ngoài làm sao mà trả lời. Cho nên, ở đây nói rằng nếu mà hỏi mấy cái đó thì chỉ hỏi người gổ, chớ hỏi người thật thì họ cũng không làm gì được vì chuyện đó là chuyện của mình.

Vậy chúng ta tu là phải cố gắng dẹp bỏ tâm vọng tưởng điên đảo. Tâm vọng tưởng điên đảo sạch thì tự chúng ta sáng suốt, chớ khỏi cần cầu thành Phật mà Phật cũng vẫn đến. Nếu chúng ta không chịu cố gắng, không chịu dẹp bỏ, không chịu dùng trí tuệ đánh thức mê lầm của mình thì dầu có hỏi một trăm người cũng không ai đáp được việc đó, vì cái đó là cái của mình.




Thùy vô niệm? Thùy vô sanh?

Hỏi: Kinh Pháp Bảo Đàn nói: "Không niệm, niệm mới chánh. Có niệm, niệm thành tà." Như vậy, niệm Phật có phải là tà vọng chăng?

- Đáp: Về đạo lý vô sanh vô niệm, đoạn trước đã có nói. Nơi đây xin đáp một cách thẳng tắt: - Chẳng phải không niệm Phật, không tụng kinh, gọi là vô niệm. Mà thường hằng niệm Phật tụng kinh, nhưng tâm địa rỗng không, chẳng chấp thấy mình có niệm tụng, mới gọi là vô niệm. Trái lại, dù ngồi an tĩnh lòng không suy nghĩ chi cả, mà còn cảm thấy biết cho mình, có sự ngồi thiền, vẫn gọi là "có niệm". Nếu nghĩ rằng "không niệm" là chẳng niệm Phật, tụng kinh, thuyết pháp, không có sự suy tư, thì thành ra gỗ đá; muốn tránh lỗi “chấp Có”, lại lạc vào lỗi “chấp Không”. Thế thì đã trái với ý kinh chỉ dạy. Cho nên đức Lục Tổ mới nói tiếp: "Có, Không đều chẳng tưởng. Ngồi được bạch ngưu xa". Bậc cao đức bên Tịnh Độ khi xưa, tuy hằng niệm Phật cầu vãng sanh, song chẳng chấp tướng niệm Phật cầu sanh, nên đã có lời kệ:

Có niệm đồng không niệm,
Không sanh tức là sanh,
Chẳng phiền dời nửa bước.
Thân đến Giác Vương thành

Nhưng, trên đây là nói tác phong tu niệm của bậc thượng căn. Với hàng căn cơ trung, hạ, cứ nên gắng công niệm Phật cho nhiều, dù còn chấp thấy mình có niệm có tha thiết cầu sanh, cũng là điều tốt. Bởi nếu được như thế, khi mạng chung tất vãng sanh về Tây Phương, chừng ấy kết cuộc cũng sẽ chứng vào cảnh giới vô niệm vô sanh, đâu có điều đáng lo ngại! Bằng chẳng lượng sức mình, ưa cầu cao thắng, nê chấp theo kinh văn trên, đối với đạo lý vô niệm chưa thể làm nổi, với sự thấy có niệm Phật có cầu sanh lại không muốn thật hành, kết cuộc cả hai đều hỏng, vẫn chỉ là phàm phu trong vòng luân hồi thống khổ mà thôi!




Nhược thực vô sanh vô bất sanh.

 vô sanh há lại ngại vì sanh?


Hỏi: Thể của pháp là không, xưa nay vẫn vô sanh và bình đẳng vắng lặng. Nếu bỏ Ta Bà cầu về Cực Lạc, há chẳng là trái lý ư? Lại trong Kinh nói: “Muốn cầu về Cực Lạc, trước phải tịnh tâm mình; tâm mình thanh tịnh, cõi Phật mới thanh tịnh”. Người cầu sanh Cực Lạc, cũng chẳng là trái lý này?

-Đáp: Vấn đề ấy có hai nghĩa. Xin phân làm tổng đáp và biệt đáp.

Về phần tổng đáp, nếu ông cho rằng cầu về Cực Lạc tức là bỏ đây tìm kia, không hợp với lý bình đẳng như như. Còn ông chấp Ta Bà không cầu về Cực Lạc, há lại không bị lỗi bỏ kia chấp đây sao? Nếu ông bảo: “Tôi không cầu kia cũng không chấp đây” thì lại mắc lỗi đoạn diệt. Cho nên Kinh Kim Cang Bát Nhã nói: “Tu Bồ Đề! Ông đừng nghĩ rằng nói phát tâm Vô Thượng Bồ Đề là đoạn diệt hết tướng của các pháp. Tại sao thế? Vì phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, đối với các pháp không nói tướng đoạn diệt”.

Về phần biệt đáp, như ông đã gạn về lý vô sanh và tâm tịnh, tôi xin giải thích. Vô sanh cũng chính là lý bất sanh bất diệt. Bất sanh là các pháp giả hợp của sanh duyên không tự tánh, nên không thật có sanh thể và thời gian sanh. Xét ra không phải thật từ đâu mà đến, nên gọi là bất sanh. Bất diệt là khi các pháp hoại diệt cũng không tự tánh, nó không bảo rằng mình hoại diệt. Vì nó không thật có chỗ đi về nên gọi là bất diệt. Cho nên lý vô sanh hay bất sanh diệt không phải ngoài các pháp sanh diệt mà có. Vì thế chẳng phải không cầu sanh Cực Lạc mà gọi là vô sanh. Trung Quán Luận nói: “Các pháp nhân duyên sanh, ta nói chính là không, đó gọi là giả danh, cũng là nghĩa Trung đạo”. Lại nói: “Các pháp không tự sanh, không từ nơi cái khác mà sanh, không phải cộng sanh, cũng không phải vô nhân, nên gọi là vô sanh”. Kinh Duy Ma nói: “Tuy biết các cõi Phật, cùng với hữu tình không, mà thường tu Tịnh Độ, để giáo hóa quần sanh”. Lại nói: “Ví như có người tạo lập cung thất, nếu cất ở chỗ đất trống thì tùy ý không ngại. Nếu muốn xây giữa hư không, tất không thể thành. Chư Phật thuyết pháp thường nương theo nhị đế, không phải hoại giả danh mà nói thật tướng của các pháp”. Cho nên người trí tuy siêng cần cầu sanh Cực Lạc, mà rõ sanh thể không thật có. Đây mới là chân vô sanh và cũng là nghĩa tâm tịnh cõi Phật thanh tịnh. Trái lại kẻ ngu bị cái sanh ràng buộc, nghe sanh liền nghĩ là sanh, nghe nói vô sanh lại chấp là không có sanh về nơi nào cả, đâu biết rằng sanh chính là vô sanh, vô sanh há lại ngại vì sanh? Vì không hiểu lẽ ấy, họ sanh lòng tranh chấp thị phi khinh chê người cầu sanh Cực lạc, thật rất sai lầm! Đây chính là kẻ tội nhơn báng pháp, hạng tà kiến ngoại đạo vậy.

 

Niệm Phật Thập Yếu

Tịnh Độ THẬP NGHI Luận của ngài Trí Giả


Chứng Đạo Ca (Thảo Luận)



CHÁNH VĂN :

 

Phóng tứ đại, mạc bả tróc,
Tịch diệt tánh trung tùy ẩm trác.
Chư hành vô thường nhất thiết không,
Tức thị Như Lai đại viên giác.

 

GIẢNG:

 

Chỗ này Ngài dạy mình tu để cho chóng đạt được kết quả. Phóng tứ đại, mạc bả tróc, Phóng tứ đại là buông thân tứ đại này, mạc bả tróc là chớ có nắm bắt nó. Chỉ một câu này quý vị  thấy dễ làm hay khó làm? Coi như buông xả thân tứ đại hết quan trọng, rồi đừng có nắm đừng có giữ nó, thì:

Tịch diệt tánh trung tùy ẩm trác. Tức là trong cái tánh tịch diệt của mình tùy ăn, tùy uống chớ không có gì hết. Chỉ cần buông thân tứ đại đừng nắm bắt nó thì trong tánh tịch diệt tùy mà ứng dụng không có gì lo sợ hết.

Mình bây giờ tu nó cay đắng là tại vì mình trọng cái thân quá chừng. Quý vị  có người nào coi thường thân không? Ai cũng quí nó như vàng như ngọc. Mà quí nó như vàng như ngọc cho nên chạm đụng nó một cái thì tóe lữa liền. Nên tham sân si mà tham cái thân, giữ cái thân là cái nguy số một. Mình tham giữ cái thân thì mọi phiền não khác theo đó mà nó dấy động lên. Bây giờ buông nó đi, không có nắm giữ nó nữa, sống với tánh tịch diệt sẳn của mình đó, tùy đi đứng nằm ngồi ăn uống một cách tự nhiên bằng cái tánh lặng lẻ thanh tịnh của mình, thì đó là cái chỗ quan yếu của sự tu.

Chư hành vô thường nhất thiết không, là tất cả cái hành động, tất cả những cái gì mà chúng ta đã làm, tất cả những cái đó đều là vô thường. Mà vô thường thì nó thật hay là không? Bây giờ quý vị  thấy ai đó tỏ vẻ mến thương mình thì đó là cái hạnh người ta mến thương tốt. Nhưng mà hạnh mến thương đó đang lúc này họ mến thương, mai kia mình có cái gì xấu hơi tệ tệ một chút thì người ta còn mến thương không? Hết liền. Đừng nói mai kia, như mới giờ trước mình ăn nói nhỏ nhẹ hòa nhả người ta mến thương. Giờ sau ai lại chọc tức mình nổi giận la ó om sòm thì người ta còn mến thương không? Như vậy tất cả hạnh đó đều là vô thường, mà đã là vô thường thì nó không có thật, nên tất cả đều là không. Thương ghét buồn giận gì..v.v… đều là vô thường, nó không có thật. Bây giờ giả sử ai đó có cái gì mà họ buồn mình, họ lại chửi vài ba câu. Mình nhớ những lời chửi là vô thường, tất cả là không, thôi chửi thì chửi vài ba câu rồi đi mất. Nếu người ta chửi vài ba câu mà nổi nóng mình cự lại cái nó còn, chẳng những nó còn mà nó còn tăng nữa chớ không có giảm.

Như vậy thì từ cái mê thấy thật cho nên rồi chúng ta cứ tạo nghiệp. Bây giờ chúng ta tỉnh sáng thấy các hạnh là vô thường, tất cả đều trở về không thì Tức thị Như Lai đại viên giác là liền đó chính là đại viên giác của Như Lai. “Tức thị” là liền đó.

Thấy ở trên không chấp cái thân mà mình sống với cái hạnh tịch diệt. Rồi dưới đây thấy các hạnh vô thường nó là không, thì như vậy là mình đang sống với đại viên giác của mình, tánh Phật của mình chớ không gì lạ hết.

Vậy chúng ta muốn thấy Phật muốn gần Phật khó hay dễ? Như trở bàn tay hà. Tại sao như trở bàn tay? Nghĩa là thấy tất cả các pháp là vô thường, nó là không thật; rồi mình thấy các pháp thường thật; thì hai cái thấy đó đổi có khó không? Có tốn bao nhiêu công không? Chỉ cần đổi cái thấy cái được hà, mà không chịu đổi mới lạ vậy chớ. Đổi thì từ mê trở thành giác, không đổi thì cứ mê mãi mãi.

Như vậy từ thấy các pháp không thật, cho nên chúng ta mới thành người giác người tỉnh, còn nếu thấy nó thật thì chúng ta cứ trong mê. Cũng như trong giấc ngủ mà chúng ta thấy cảnh mộng mà còn biết đây là cảnh thật, nhận cảnh mộng hoặc vui hoặc buồn là thật thì lúc đó tỉnh chưa? Chỉ lúc nào nói à cái này mộng rồi thì lúc đó mình mới là người tỉnh, mà tỉnh rồi thì cơn mộng hết. Dễ quá. Bởi vậy cho nên đạo lý chân thật rất là khó hiểu, nhưng hiểu rồi thì thấy nó không phải là khó, chúng ta có thể làm được chớ không phải không làm được.



CHÁNH VĂN :

Quyết định thuyết, biểu chân Tăng,

Hữu nhân bất khẳng nhiệm tình trưng :

Trực tiệt căn nguyên Phật sở ấn,

Trích diệt tầm chi ngã bất năng!

 

GIẢNG:

 

Đây Ngài nói nghe thật là thiết tha.

 

Quyết định thuyết, biểu chân Tăng, tức là quyết định nói để rõ một người tăng chân thật.

Hữu nhân bất khẳng nhiệm tình trưng : là có người không chấp nhận mặc tình mà hỏi. Nói cách khác tôi nói thật, tôi nói quyết định như vậy bây giờ các ông không tin thì cứ hỏi.

Trực tiệt căn nguyên Phật sở ấn, Trích diệt tầm chi ngã bất năng! là chỉ thẳng cái cội nguồn mà Đức Phật đã ấn chứng, còn vạch lá tìm cành việc đó tôi không có thể làm được.

Ngài nói một cách thiết tha. Bởi vì tôi là người tu, tôi nói quyết định với quý vị  rằng điều đó như vậy là như vậy, chớ tôi không có thể nào nói khác. Nếu quý vị  không bằng lòng thì cứ hỏi. Ở đây tôi chỉ thẳng cội nguồn mà Đức Phật đã ấn chứng cho các đồ đệ, chớ tôi không nói những phần chi tiết, những cái nhỏ nhặt để mất thời gian quí báu của quý vị. Đó là tinh thần của Ngài.



CHÁNH VĂN :

 

Ma ni châu, nhân bất thức,

Như Lai tạng lý thân thâu đắc:

Lục ban thần dụng không bất không,

Nhất lỏa viên quang sắc phi sắc.

 

GIẢNG:

 

Ma ni châu, nhân bất thức, nghĩa là mỗi người có hạt châu ma ni tức ma ni châu mà không có tự biết. Hạt châu đó ở đâu?

Như Lai tạng lý thân thâu đắc: là ở trong kho Như Lai của mình đó, tự mình nhận ra chớ không ở đâu hết. Nghĩa là mỗi chúng ta đều có hạt châu ma ni ở sẳn trong kho Như Lai của mình mà mình không biết nhận. Khi nhận được thì sao?

Lục ban thần dụng không bất không, tức là sáu thứ thần dụng không mà không phải không.

Nhất lỏa viên quang sắc phi sắc. Là một đóa trong sáng tròn đầy sắc mà không phải sắc.

Như vậy ở bốn câu này Ngài bảo với chúng ta rằng ở mỗi người đều có hạt châu ma ni. Vậy thì ở đây ai cũng có hạt châu ma ni hết. Nếu có hạt châu ma ni thì quý vị  giàu hay nghèo? Đâu có ai mà bần cùng đâu, ai cũng giàu hết. Có hạt châu ma ni, thì Ngài hỏi hạt châu đó ở chỗ nào? Thì đây ở trong kho Như Lai ngay đó mà lấy chớ không đâu hết. Mình có kho Như lai này chứa hạt ma ni, thì cứ trong kho Như Lai tàng mình lấy ra chớ không gì hết. Nếu mình lấy rồi thì sáu thứ thần dụng tức lục thông đó thấy như nó không mà không phải không, nó có diệu dụng không thể lường. Rồi chỉ một viên ma ni đó mà nó sáng ngời sắc mà không phải sắc, không phải hình sắc.

Như vậy là Ngài muốn chỉ thẳng cho chúng ta biết ở nơi mỗi người đã có hòn ngọc quí mà chúng ta phớt lờ bỏ qua rồi phải lang thang khổ sở chịu nghèo chịu đói. Tại sao? Bởi vì chúng ta quên của báu của mình cho nên rồi phải nghèo khổ. Nếu quý vị  nhớ chắc là hết nghèo. Hết nghèo phải không? Hết nghèo về trí tuệ chớ không phải hết nghèo về tiền của. Đừng nghe nói hết nghèo rồi ai cũng nói mình có hạt châu bây giờ cứ vay tiền đả đời đi, sau chừng nào tôi khui được ra tôi trả. Không phải vậy, mà mình có hạt châu mà hạt châu đó là của mình chớ không ai lãnh được hết mà mình chưa khui ra. Bây giờ mình ráng quên hết những cái lặt vặt, những cái tạm bợ ở ngoài rồi một ngày nào đó hạt châu của mình được hiển hiện, nó sáng ngời cho mình. Chừng đó mình mới có đầy đủ lục thông, mà lục thông đó có đủ nhưng mà nó không phải là không mà cũng không phải là có. Tại sao? Vì nó là cái dụng, nó không phải là cái thật, cái dụng huyền biến chớ không phải là cái thật. Rồi mình cũng có một viên minh châu sáng, thấy sáng ngời nhưng nó là sắc mà không phải là sắc. Cái sắc là người ta cứ thấy cái sáng ở bên ngoài, những cái chiếu soi bên ngoài, đây là cái sáng sẳn ở nơi mình, ở bên trong cho nên không phải ở đâu mà mình tìm được.




CHÁNH VĂN :

 

Tịnh ngũ nhãn, đắc ngũ lực,

Duy chứng nải tri nan khả trắc.

Kính lý khán hình kiến bất nan,

Thủy trung tróc nguyệt tranh nan đắc.

 

GIẢNG:

 

Mấy lời dạy này thật là thiết tha. Tịnh ngũ nhãn, đắc ngũ lực, là nếu mình được năm con mắt trong sạch thì mình cũng được năm cái lực, ngũ căn ngũ lực đó được đầy đủ. Mà cái này Duy chứng nải tri nan khả trắc. Tức là chỉ người nào chứng được thì người đó biết chớ khó mà lường nổi. Cái đó tu đến nơi tự chứng tự biết chớ không có thể nào lường được những cái kỳ đặc đó.

Kính lý khán hình kiến bất nan, là trong cái gương để nhìn hình mình thì thấy không khó.

Thủy trung tróc nguyệt tranh nan đắc. Là còn trong nước mà nắm bắt cái mặt trăng thì điều đó thật là khó được.

Như vậy mình đưa cái gương để nhìn mặt mình trong gương dễ hay khó? Nó rất là dễ, cái gương trước mặt thì ảnh mình nó hiện trong gương, chuyện đó rất là dễ. Chớ còn thấy mặt trăng dưới hồ dưới giếng mình muốn nắm vớt nó lên dễ hay khó? Như vậy thì cái đó là khó, còn cái kia là dễ. Vậy chúng ta tu ứng dụng phương tiện để tu hành, như mình ngồi lại mình tu thì khi mình ngồi lại tu mình thấy được những niệm, những vọng tưởng của mình mình bỏ thì dễ hay khó? Dễ. Thấy nó biết nó là bóng. Niệm khởi vọng tưởng mình thấy phải bóng không? Nó là bóng chớ có gì đâu, dấy lên rồi mất, dấy lên rồi mất, nó không có thật. Cho nên những cái đó là dễ thấy dễ biết. Còn cảnh trần ở ngoài nó không thật giống như mặt trăng ở đáy giếng, nó không thật mà cứ nắm bắt nó hoài chừng nào bắt được? Chừng nào nắm được?

Nhưng mà bây giờ thế gian thấy ngược lại nó thật hết trơn, cảnh trần nó thật, đồng tiền là thật, của cải là thật, cái gì cũng thật hết, mà nói nó như là mặt trăng ở dưới đáy nước thì không ai tin. Nhưng mà nó thật thì quý vị  nghĩ nếu nó thật thì nó còn mãi, nhưng nó còn mãi không? Thân mình không thật thì những cái mình được cũng là không thật. Cái không thật mà mình cứ ngở là thật thì không bao giờ mình tỉnh nổi. Bởi vậy cái không thật biết rõ là không thật thì đó là người tỉnh.

Như vậy quý vị  nghĩ người thấy cảnh trần không thật và người thấy cảnh trần thật, hai người đó mặt mũi có đổi khác nhau nhiều ít? Có khác không? Cũng như nhau, bởi vậy trong nhà Phật mới nói:

Như nhau dọc mũi ngang mày,

Lòng phàm lòng Thánh khác nhau muôn trùng.

Cũng mày ngang mũi dọc ai cũng như ai, nhưng tâm phàm thấy cảnh gì cũng thiệt cũng mê và tâm Thánh thấy biết nó không thật không dính, thì hai cái đó nó khác muôn trùng. Như vậy thì phàm và Thánh có thay đổi cái gì không? Về thân thì không đổi cái gì đổi hết. Người ta cứ lầm mấy ông tu gần thành Thánh có hào quang đồ đó nghĩa là như vậy mới là Thánh, còn thường thì không ai Thánh hết. Rồi thấy những người được người ta tán tụng khen ngợi, đạo đức cao sâu gì gì, lại mình không thấy hào quang, ông này không phải đâu, không phải Thánh đâu, chờ hào quang thấy mới cho là Thánh. Nhưng không phải. Thánh là tâm của người ta thấy đúng như thật rồi không vướng, không mắc không bị lôi kéo, không có bị nhiễm theo. Còn phàm thì thấy những cái giả cho là thật rồi vướng mắc, rồi dính dấp đủ thứ hết.

Cũng như bây giờ quý vị  thấy chúng ta đi đường có những người ngồi gần mình trên một chiếc xe đò. Thấy người đó cũng mặt mày như mình nhưng mà ngồi một hồi cái thì ai lơ là cái họ lén họ móc. Còn người mình thật thà ngồi đó mà mình không móc thì như vậy hai người cũng như nhau nhưng mà tâm của họ làm sao? Người thấy của người ta mà mình không có lưu tâm, không có để ý thì mình là người tốt. Còn người thấy mà tìm cách móc moi là người xấu thôi, nó có khác gì đâu. Lên ngồi thấy giống nhau hệt ai cũng là người khách như nhau nhưng mà nó khác trong tâm niệm.

Người tu chúng ta cũng vậy, không phải thành Phật là liền có hào quang sáng rở, mà chỉ dứt được tâm mê lầm. Tâm mê lầm mình dứt được thì đó là thành bậc giác ngộ. Mà dứt được tâm mê lầm, ai dứt cho mình? Bây giờ quý vị  thấy tôi thí dụ thấy tiền, thấy của cải chúng ta ham. Bây giờ muốn hết cái ham đó ai làm cho mình hết? Nếu mà muốn hết cái ham thì mình phải tự chừa bỏ, cho đó là cái xấu mình bỏ thì nó hết, chớ đâu có ai làm cho mình hết được. Như vậy thì cái tu chính là mình chuyển đổi tâm tánh mình. Mình chuyển đổi được nó thì mình thành người tốt, chuyển đổi được nó cao thì thành bậc hiền, cao nữa là bậc Thánh, cũng mình làm hết trơn chớ không ai làm thế cho mình. Việc đó là một lẻ thật. Vậy mà người tu của mình ít chịu tìm kiếm lẻ thật đó, mà hay tìm ở nơi khác, ở đâu đâu.

Cho nên ở đây nói rằng chúng ta nhìn vào gương thấy mặt thì chuyện đó dễ, nhưng chúng ta đưa tay vớt bóng trăng dưới nước thì thật là khó. Cái dễ mà không chịu làm, cái khó mà thích làm. Phải không? Cứ nghĩ phải làm cho giàu, làm cho hơn người này, người kia, mà làm cả đời không hơn người ta rồi làm sao? Ngã đùng ra chết cái hết. Rất là khó, khó mà chúng ta lại ham làm.



CHÁNH VĂN :

 

Thường độc hành, thường độc bộ,

Đạt giả đồng du Niết-bàn lộ.

Điệu cổ thần thanh phong tự cao,

Mạo tụy cốt cương nhân bất cố.

 

GIẢNG :

 

Ở đây Ngài nói cái tư cách mà để hiển lộ con người đạt đạo.

Thường độc hành, thường độc bộ, tức là thường đi một mình, thường đứng một mình. Chẳng lẻ hành, rồi bộ cũng là bước đi. Cho nên đi một mình, đứng một mình.

Đạt giả đồng du Niết-bàn lộ. Tức người mà thấu suốt rồi thì đồng đi trên con đường Niết-bàn.

Ở đây tôi muốn nói cho quý vị  hiểu kỹ chỗ này. Chúng ta tu là việc của mình chớ không phải của mọi người. Phải không? Mình bỏ phiền não là việc làm của mình, còn người khác bỏ phiền não cũng là việc làm của họ, chớ không phải mình bỏ phiền não nhờ người khác mình mới bỏ được. Như vậy thì việc làm đó là việc làm riêng của mỗi người. Mỗi người làm được như vậy, phiền não bỏ sạch thì đi đứng nằm ngồi mình cũng thảnh thơi nhẹ nhàng, tâm không vướng không bận không dính kẹt thì đó là chúng ta cùng đi trên con đường Niết-bàn.

Như vậy Niết-bàn là gì? Niết-bàn là vô sanh, không còn có cái gì sanh diệt nữa. Tâm chúng ta biết đi, biết đứng, biết nằm, biết ngồi mà không dính mắc cái gì thì cái biết đó có sanh có diệt không? Ai cũng có quyền được cái đó hết. Không phải ngồi thiền chúng ta mới tu, mà chính khi đi đứng nằm ngồi chúng ta vẫn không để cho cái tâm chạy theo trần cảnh, không để tâm vướng mắc trần cảnh thì đó là chúng ta đang đi trên con đường Niết-bàn. Quý vị  được đi đường Niết-bàn mất bước rồi? Có bước nào chưa? Chắc chưa. Bây giờ bắt đầu đi, bắt đầu đi từng bước, chớ chẳng lẻ tu ai cũng mong đạt đến Niết-bàn mà không chịu bước bước nào chừng nào đạt đến? Nên chúng ta phải bắt đầu từng bước, mỗi người đi độc hành độc bộ. Nhưng mà ai được như vậy thì cùng đi một con đường như nhau. Đó là đường Niết-bàn.

Điệu cổ thần thanh phong tự cao, là cái dáng dấp rất là thanh cao, đẹp đẻ.

Mạo tụy cốt cương nhân bất cố. Là xương cứng thân gầy người không đói.

Ở đây hai câu, câu thứ nhất Điệu cổ thần thanh phong tự cao đối với tinh thần chúng ta là con người rất là thanh nhã cao thượng, không có cái gì làm cho chúng ta phải kẹt, làm cho chúng ta phải nhiễm. Nhưng mà xương cứng mà thân gầy người ta không có đoái tới. Bởi vì thế này người tu không phải trọng ở cái thân, mà phải trọng ở tinh thần cao thượng, sáng suốt. Do trọng tinh thần cao thượng sáng suốt nên đối với sự trau giồi ăn mặc..v.v… người ta không có quan trọng. Thấy con người thì tiều tụy, thân gầy xương cứng không ai thèm quan tâm tới. Nhưng mà cái tinh thần cao thượng thanh bai của người ta rất là quí báu.

Như vậy người đời nhìn người qua hình dáng nhiều hơn là cái tư thái, cái tinh thần của họ. Tư cách thái độ xử sự cao cả mình ít biết. Như vậy người nào mà tu hành mà được đi con đường Niết-bàn thì con người đó tinh thần họ rất là sảng khoái, rất là cao thượng, nhưng mà thân họ hơi gầy và chỉ là một cái thân bày xương. Gầy thì xương bày ra cho nên đây nói xương cứng mà thân gầy, người ta không có quan tâm. Chỉ quan tâm người nào thân thể coi nó sung túc thấy dễ coi thì chịu hơn, thấy người thân gầy kia thì coi thường. Đó là cái lời Ngài muốn nhắc cho chúng ta rõ biết.



CHÁNH VĂN :

 

Cùng Thích tử, khẩu xưng bần,

Thực thị thân bần đạo bất bần.

Bần tắc thân thường phi lũ hạt,

Đạo tắc tâm tàng vô giá trân.

 

GIẢNG :

Cùng Thích tử, khẩu xưng bần, là người Thích Tử gọi là bần tăng. Có ai gọi là phú tăng không? Nói chuyện bần tăng muốn xin điều đó, muốn nhờ việc đó, thì khẩu xưng bần. Nhưng thật có bần chưa?

Thực thị thân bần đạo bất bần. Là thực tình thân thì nghèo thật nhưng mà đạo không có nghèo. Nghèo ngoài thân chớ không nghèo trong đạo hay là ngược lại thân thì đơn giản thiếu thốn, chớ cái đạo nó dư thừa.

Bần tắc thân thường phi lũ hạt, là nghèo vì thân thường mặc áo vá, áo nhuộm.

Đạo tắc tâm tàng vô giá trân. Là đạo thì trong tâm chứa được hạt châu vô giá. Như vậy thì ngoài thấy họ nghèo nhưng tâm ở trong họ chứa của báu phi thường.




CHÁNH VĂN :

 

Vô giá trân, dụng vô tận,

Lợi vật ứng cơ chung bất tận.

Tam thân, tứ trí thể trung viên,

Bát giải, lục thông tâm địa ấn.

 

GIẢNG:

 

Nói đoạn sau thì tôi nhắc đoạn trước. Bây giờ Thích tử mình nói xưng bần mà thân cũng không bần. Đó là cái trái với người xưa một chút. Người ta nói:

Cùng Thích tử, khẩu xưng bần,

Thực thị thân bần đạo bất bần.

Bây giờ thân không bần, không biết đạo làm sao à? Như vậy thân phú thì đạo làm sao? Đạo bần. Đó chỗ này tôi xin nhắc để rồi quý vị  thấy nghĩa là người thời nay nó hơi có cái lẫn lộn vậy đó. Cho nên đây là những lời của người xưa nhắc nhở dạy bảo người Thích tử thì lúc nào cũng thấy mình là nghèo nên xưng là bần tăng. Nhưng thân thì thấy bần mà đạo thì không bần, còn nếu ngược lại thân không bần thì đạo phải bần. Đó là điều phải ráng giữ.

Đây câu sau nói:

Vô giá trân, dụng vô tận,

Nói rằng trong cái kho tâm nó chứa đựng được hạt châu vô giá. Bởi hạt châu vô giá nên dụng hoài không hết.

Lợi vật ứng cơ chung bất tận.

Tam thân, tứ trí thể trung viên,

Bát giải, lục thông tâm địa ấn.

Làm lợi cho vật, làm lợi cho người đều tùy duyên mà không bao giờ hết. Nào là tam thân, tứ trí trong cái thể đó nó tròn đủ. Nào là bát giải là bát giải thoát, và lục thần thông ngay trong cái tâm địa đó sẳn sàng không có thiếu một món nào.

Như vậy người tu tuy rằng thấy nghèo, thấy thân thể bần cùng gầy ốm nhưng mà đạo người ta vẫn sung mãn. Nhờ đạo sung mãn cho nên cần cái gì, được cái gì thì nó đều được như ý chớ không có thiếu thốn.



CHÁNH VĂN :

 

Thượng sĩ nhất quyết nhất thiết liễu,

Trung hạ đa văn đa bất tín.

Đản tự hoài trung giải cấu y,

Thùy năng hướng ngoại khoa tinh tiến?

 

GIẢNG :

 

Thượng sĩ nhất quyết nhất thiết liễu,

Trung hạ đa văn đa bất tín.

Bậc thượng sĩ một khi quyết định là nhất định làm xong. Còn hàng trung căn hạ căn học nhiều mà cái không tin cũng là nhiều. Trung hạ là bậc trung bậc hạ căn học nhiều, “đa văn” là học nhiều, mà lòng tin nó không có đủ.

Đản tự hoài trung giải cấu y,

Thùy năng hướng ngoại khoa tinh tiến?

Chúng ta chỉ ngay ở trong lòng mình mà mở bỏ cái y nhớp, chớ ai hay hướng ra ngoài mà khoe mình tinh tiến. Câu này là câu quở người tu. Mình tu là nhắm vào trong mình sửa, mình gạn lọc. Chớ không phải tu để cho bà con thấy thầy đó siêng quá, thầy đó tu cần mẫn quá. Nghĩa là tu là quay lại để gạn lọc chính mình, chớ không phải để cho người ngoài thấy mình tu hay. Vậy đó mà nhiều khi ở trong chùa cũng lẫn lộn có cái đó. Khi nào một mình không có lễ lượt thì thầy ngủ tới sáng. Khi nào Phật tử tới tập tu thì thầy tu cần lắm, siêng lắm. Đó là không có mở cái cấu y ở trong lòng mình, chỉ mở những cái ở bên ngoài thôi. Vì vậy cho nên đây ngài bảo ai mà hay hướng ra ngoài khoe tinh tiến, mình phải mở bỏ cái y nhơ y nhớp của mình bỏ đi, chớ không phải hướng ra ngoài để khoe với người ta tôi tinh tiến tu hành.

Bậc thượng sĩ một khi quyết định thì tất cả đều được rõ ràng, đều được kết liểu hết, tức là xong suôi hết. Còn trung căn, hạ căn được nghe nhiều, càng nghe nhiều thì lòng tin lại càng không được vững, tức càng nghi ngờ. Tại sao vậy? Bởi vì người tâm trí sáng suốt biết thấy những cái gì đúng cái gì thật thì nhận liền hiểu liền, còn những bậc trung, bậc ha thì nghe không có phân biêt đâu là chánh đâu là tà, đâu là phải đâu là quấy, bởi vậy nên càng nghe càng không tin.

Đản tự hoài trung giải cấu y,

Thùy năng hướng ngoại khoa tinh tiến?

Chúng ta chỉ ngay ở trong tâm mình mà cởi áo nhơ bẩn của mình, chớ không thể, không nên hướng ra ngoài khoe rằng mình là người tu hay, tu giỏi. Chữ thùy là hay hướng ra ngoài khoe tu khoe giỏi. Nói như vậy để thấy rằng, ý của ngài Huyền Giác muốn nhắc chúng ta ai tu hành thì cũng đều nhắm thẳng vào nội tâm mình. Cái gì xấu, cái gì dỡ cái gì là mê muội chúng ta phải quét phải dọn cho sạch. Chớ đừng có hình thức bên ngoài khoe mình siêng tu, siêng học, mà rốt cuộc rồi chỉ là cái dáng để khoe người, chớ không phải là thực tâm tu.

Quý vị  thấy ở thế gian cũng có lắm người như vậy, đi ra thì tỏ vẻ nghiêm trang tề chỉnh, mà về nhà thì tha hồ lăng xăng lộn xộn. Như vậy thì tu để cho thiên hạ thấy chớ không phải tu để dẹp cái xấu, cái dỡ của mình. Vì vậy mà ngài dùng câu chỉ hướng vào nội tâm mình mà cởi bỏ cái áo nhơ, tức tâm nhơ bẩn của mình mình phải cởi phải giặt giủ cho sạch, còn chuyện bên ngoài không quan tâm, không quan trọng. Đó để khuyến khích ai là người thực tu nên xét lại mình, trừ bỏ cái nhơ nhớp của mình chớ đừng dùng hình tướng bên ngoài để khoe khoang với thiên hạ tỏ ra ta là tu kỹ, tu hay.



CHÁNH VĂN :

 

Tòng tha báng, nhiệm tha phi,

Bả hỏa thiêu thiên đồ tự bì.

Ngã văn kháp tự ẩm cam lồ,

Tiêu dung đốn nhập bất tư nghì.

 

GIẢNG:

 

Tòng tha báng, nhiệm tha phi, Tòng là từ, hay là mặc tình; tha là người; báng là chê bay; nhiệm tha phi là mặc ai chê bai mình, phỉ báng mình, dèm xiểm mình. Cho nên “Tòng tha báng, nhiệm tha phi,” nghĩa là dù cho ai chê bai, ai phỉ báng mình, mình cũng không có phiền, không giận, không buồn. Câu này quý vị  và tăng ni chúng ta dễ chịu chưa? Mặc tình người ta chê bai, người ta phỉ báng mình, mình cũng không có bận lòng.

Bả hỏa thiêu thiên đồ tự bì. Tức cũng như người cầm cây đuốc mà đốt hư không vậy đó. Mà đốt chừng nào hư không cháy? Đốt mãi, đốt suốt đời mà hư không không có cháy. Nếu tâm chúng ta thanh thản tự tại không cố chấp, buồn giận thương ghét thì mặc người ta chê bai, người ta dèm xiễm, mình cũng thản nhiên tự tại coi như là hư không, kẻ dèm xiễm như người cầm đuốc mà đốt hư không vậy đó. Quý vị  tu vậy được chưa? Khó hay dễ? Còn mình không phải hư không mà là đóng bổi, vừa châm lữa thì nó cháy rần rần liền, nó không chịu yên, chịu lặng. Nên ngài khuyên chúng ta tu hành mặc người khen chê, dèm xiễm chúng ta vẫn thản nhiên tự tại, như người cầm lữa mà đốt hư không, không có dính gì, không có làm cho hư không phải cháy, phải nám gì hết.

Ngã văn kháp tự ẩm cam lồ,

Tiêu dung đốn nhập bất tư nghì.

Ngài nghe người chê bai phỉ báng, giống như được uống nước cam lồ. Nước cam lồ là nước gì? Nói Bồ-tát Quán Thế Âm cầm bình tịnh thủy, trong chứa nước cam lồ phải không. Cam là ngọt. Cam lồ là mát ngọt, nước đó vừa mát, mà vừa ngọt nữa. Như vậy khi chúng ta bị nóng bức mà uống được nước cam lồ thì nó mát mẻ, nó ngọt ngào, cho nên ngài mới dùng đó để thí dụ.

Dù cho ai chê bai, dù cho ai dèm xiễm đối với tâm ngài nó không dấy động, giống như người đó đang đốt hư không vậy. Ngài nghe những lời chê bai, dèm xiễm của người tợ như uống nước cam lồ, mát mẻ ngọt ngào. Quý vị  chịu cái đó không? Tu hành phải như vậy. Chớ còn cái này tu mà ở trong chùa, thỉnh thoảng người này nói qua, người kia nói lại cái giận; có khi giận bỏ ăn cơm, có khi xách gói đi..v.v… thì cái đó nghe giống như uống cái gì há? Uống cam lồ hay uống nước muối? Chúng ta phải làm sao mà tu nghe lời khen chê, phỉ báng, dèm pha chúng ta nghe như uống nước cam lồ. Rồi Tiêu dung đốn nhập bất tư nghì, nó đều tan biến vào chỗ không nghĩ bàn nổi. Tu như vậy mới đáng là tu.

Nói ở đây chúng tôi giải thích rộng cho quý vị  thấy ý nghĩa này. Bởi vì chúng ta lâu nay, ai dèm xiễm, ai chê bai chúng ta chịu không nổi. Tại sao chịu không nổi? Vì cho là nhục nhã mình, cho là làm khinh bỉ mình, đủ thứ hết. Nhưng giờ tôi đặt câu hỏi lại mình là cái gì? Quý vị  chỉ dùm tôi cái mình coi? Cái gì là mình mà nhục nhã, mà khinh bỉ? Chắc thân này, phải không. Tứ đại nó đâu biết nhục nhã khinh bỉ gì nếu là thân. Như vậy cái gì? Cái tâm, mà tâm so sánh hơn thua, phải quấy; mà tâm đó nó thật không? Quý vị  tìm coi tâm đang ở đâu? Tâm hay so sánh hơn thua, phải quấy nó ở chỗ nào, kiếm coi nó đang ở đâu? Kiếm thì nó mất tiêu, mà khi gặp duyên thì nó dấy, hết duyên thì nó tan thì cái đó thật không? Thí dụ như bong bóng nước, khi giọt nước mưa ở trên mái nhà rơi xuống nổi bong bóng, thì bong bóng đó nổi lên một chút thì tan. Rồi giọt mưa khác rơi xuống nổi bong bóng thì giọt mưa và nước ở dưới nó chạm nhau nổi bong bóng, thì bóng bóng đó là đợi duyên mà có, có rồi mất.

Cái giận, buồn, vui của mình có đợi duyên mà có không? Có khi nào không có buồn phiền ai hết mà quý vị  tức giận không? Ai chọc ghẹo gì đó, rồi nghĩ người đó nói hơn, nói thua hoặc nói nhục nói xấu gì mình rồi mình mới nổi giận lên; khi nổi giận rồi thì một lát nó hết. Như vậy thì cái giận đó nó đợi duyên mới có, duyên qua rồi thì nó mất, vậy đâu có thật. Cái không thật mà mình chấp, mình cố giữ thì mình khổ.

Nhiều người ở thế gian này nghe người ta rầy, nghe người ta chê trách chịu không nổi, nói đó là phạm tới danh dự của tôi rồi đó; rồi phải tìm cách này, cách nọ để mà hơn thua. Như vậy thì chúng ta đang chạy theo cái gì? Chúng ta là một đống rác hay là hư không? Là đống rác khô, miễn một tàn lữa nhỏ xíu cũng cháy được nữa. Nếu tâm chúng ta rỗng rang như hư không, không chấp nê, không hờn giận gì hết thì ai nói gì thì cứ nói, mình không buồn, không giận. Như vậy thì quý vị  sẽ có lợi ích rất là lớn.

Như sớm mai, có đức bé hỏi tôi: “Thưa thầy, như bây giờ có người chọc mình, họ nói những lời nặng mình thì mình làm sao dằn được tâm tức giận được?” Quý vị  nghĩ phải làm sao? Người ta nói nặng mình thì làm sao dằn tức giận xuống được? Tôi chỉ cần nói: “Tụi con áp dụng lý nhân quả thì hết giận liền”. Bây giờ thầy hỏi, tụi con có người họ chưa từng quen biết mà gặp họ chửi vô mặt mình, thì lúc đó có nên giận không, có đáng giận không? Chắc ai cũng nói đáng giận. Mình không có chọc ghẹo gì mà mình chửi vô mặt mình thì đáng giận rồi, như vậy thì cái giận nó sẽ khởi liền và mình giận rồi mình làm dữ lại họ, hai cái đó thành một cuộc ấu đã hung dữ.

Bây giờ người ta chưa từng quen biết mình, mình chưa biết họ, họ cũng chưa biết mình, mà gặp mình họ chửi vô mặt mình. Giờ đặt câu hỏi có những người chưa từng biết mình, gặp họ mà trong lòng mình không có giận, không có tức họ, thì mình có dám chửi họ không? Chắc không ai dám chửi. Nghĩa là không có giận sẳn thì làm sao mà chửi được. Bây giờ gặp mình mà người ta chửi mình tức là mình đã làm cái gì cho người ta ức trong lòng lắm rồi, nên gặp mình người ta chửi được.

Bây giờ người ta chửi mình mà mình chưa biết lý do thì lúc đó phải nói sao? “Thưa anh, thưa chị, không biết tôi có làm cái gì lầm lỗi mà anh chị chửi tôi?”. Nói như vậy thì họ kể ra, nếu mà họ nhớ hồi xưa mình làm cái gì lầm lỗi, bây giờ họ chửi mình thì mình xin lỗi họ; còn họ không nhớ đây tôi chửi lầm, lầm thì thôi tha thứ cho họ, cái huề. Như vậy lữa sân họ vừa đốt mà gặp mình nguội lạnh như vậy thì chẳng khác nào đốt với hủ nước hay là với vũng nước nó không cháy được. Nếu họ vừa chửi mình cái nổi nóng lên cự lại họ, thì hai bên đều nổi nóng hết, lữa gặp lữa cháy rần rần.

Như vậy biết tu, Phật dạy không có cái quả nào mà chẳng có nhơn, từ nhơn rồi mới có quả. Bây giờ người ta giận mình, thì biết mình đã làm gì cho họ tức rồi họ mới giận, người ta thương mình bởi mình làm cái gì đó người ta mến thương. Bây giờ khi cái đó đến, mình hãy xét lại mình rồi đặt câu hỏi để người đó phân trần thì hai bên hết giận nhau, ngay đó là hết. Nếu người ta vừa chửi mình, mình liền nổi nóng chửi lại thì sân hận oán thù chừng nào cạn, chừng nào hết? Chắc là liên tục luôn đời, tức trận này qua rồi trận khác tới, cứ như vậy.

Quý vị  có ai can đảm làm việc này không? Khi có chửi mình, mình cho là oan ức với mình đó, thì quý vị  chịu khó ngồi lại, hay đứng hỏi thưa chị tôi có làm gì lỗi mà chị chửi tôi, chị nói cho tôi biết để tôi xin lỗi? Người đó còn giận không? Nếu họ giận họ kể ra cái gì đó, mình xin lỗi cái rồi. Như vậy người ta là lữa thì mình phải là nước để dập tắt lữa, chớ người ta đã là lữa mình lữa thêm nữa thì cháy càng nhiều, rồi nó cháy lan tùm lum, không có gì dừng. Đó là giá trị của sự tu.

Bởi vậy với ngài Huyền Giác, ngài nói rằng nghe người ta kinh chê, gièm xiễm giống như mình được uống nước cam lồ nó mát ngọt, chớ không có khó chịu gì hết. Quý vị  chịu câu đó không? Nghe ai mắng chửi nói tôi bửa nay được uống nước cam lồ, mình được vậy thì tu dễ biết mấy, tu tiến không thể nào mà người ta lường nổi. Rồi tất cả những cái đó đều tiêu dung hết đến chỗ không thể nghĩ bàn. Như vậy thì quý vị  thấy lời khuyên, lời dạy của ngài không phải khuyên dạy bằng lời, mà chính ngài tự nhận rằng gặp những trường hợp đó ngài xử sự như vậy, chúng ta nên học và nên bắt chước theo. Đó là tu.



CHÁNH VĂN :

 

Quán ác ngôn, thị công đức,

Thử tắc thành ngô thiện tri thức.

Bất nhân san báng khởi oan thân,

Hà biểu vô sanh từ nhẫn lực?

 

GIẢNG:

 

Quán ác ngôn, thị công đức,

Ngài bảo rằng mình xét, mình phải quán chiếu lời nói ác của họ đó, lời nói dữ của họ đó nó là công đức cho mình.

Thử tắc thành ngô thiện tri thức.

Người chửi bới miếng nhiếc mình đó là thiện tri thức của mình.

Quý vị  thấy dễ chịu không? Phải quán xét lời nói dữ, nói ác của người là công đức; người đó là thiện tri thức của mình. Tôi giải thích rộng hai câu này cho quý vị  thấy. Ở thế gian cũng như ở trong chùa, nghe người ta khen mình tu hay, mình tu giỏi, người tu chân chánh có buồn không? Có khi mình tu dỡ mà khen mình tu hay có buồn không? Đó là trường hợp đặc biệt, mình tu dỡ mà khen tu hay, mình có khi nào nói đừng nói bậy à, tôi dỡ lắm, dám nói vậy không? Hay nói thầy đó tu hay quá, thật là bậc đại tri thức của chúng con đó; nghe nói vậy thì hài lòng cười, mà thật tình là mình dỡ mình biết. Vậy thì quý vị  nghĩ làm sao?

Người thế gian cũng vậy, gặp cái họ tán mình, họ khen mình thế này, thế kia, khen đủ thứ. Khi khen như vậy đó mình có giận không? Nói anh này là người trượng phu, anh này là một bậc danh nhân..v.v… nghe vậy mình có bụm miệng họ không, anh đừng nói bậy tôi không phải. Dám bụm miệng họ không hay nói để cho họ nói rồi mình cười cười thôi, không biết trúng hay trật mà đều không có từ chối.

Ở ngoài cũng vậy, mấy bà mấy cô, có người gặp thì nói đây là những người thật là tâm đại từ, đại bi, giúp đở mọi người, thương mọi người, không có bao giờ bỏ ai này kia. Khen như vậy mà sự thật mình chưa làm gì đáng kể hết, mà người ta khen như vậy thì quý vị  nghĩ làm sao? Giữa mọi người chúng ta có dám nói rằng, thôi chị đừng nói tôi không có làm việc đó đâu, có dám nói vậy không? Hay để cho họ khen ngon miệng? Chúng ta tất cả có cái bệnh đó.

Như vậy tất cả lời khen đó, mình chưa xứng đáng mà họ khen mình là giỏi, là hay, đó là họ khen đúng lẽ thật hay không đúng lẽ thật? Mình biết không đúng lẽ thật mà mình không can đảm cải chánh cái không đúng đó, thì mình chấp nhận hay không chấp nhận? Chắc cũng chịu chịu một chút phải không. Như vậy thì lời khen đó là họ vuốt ve mình để rồi cầu cái này, nhờ cái kia. Khen mình lòng từ bi, lòng rộng rãi giúp người này, giúp người kia, rồi lâu lâu nói thưa chị tôi túng quá, chị giúp tôi cái gì đó, hay một số tiền nào đó. Lở người khen rồi bây giờ không lẽ trở lại eo hẹp với họ sao. Như vậy thì khen đó để làm gì? Khen cho thỏa mãn cái tâm danh của mình rồi họ lợi dụng.

Trong đạo cũng vậy, họ khen mình có đức có hạnh, mà thật tình đức hạnh mình chưa xứng đáng mà họ khen quá đó, thì tất nhiên để thử coi tâm ngã mạn của mình tới đâu. Nghe khen mà chịu tức là mình thích cao, cầu cao. Nghe khen mà lúc nào cũng từ chối, cho mình là người thua kém, mình là người ít công đức nhất, không dám bì với các vị lớn, không dám bì với các vị khác, thì ít ai can đảm nói, mà cứ lặng thinh chịu.

Người khen chúng ta nhiều khi khen để lợi dụng chúng ta, thì có khen chúng ta để tăng trưởng bản ngã cho chúng ta làm bản ngã tăng lên, thì đó là thiện tri thức hay ác tri thức? Người làm cho mình tăng trưởng lòng xấu, tăng trưởng tâm danh lợi, tăng trưởng tâm ngã mạn, thì người đó là người hại mình chớ đâu phải giúp đở mình. Vì vậy mà người đó không phải là thiện tri thức.

Còn người gặp mình nói ông thầy này tu lơ mơ mà giả bộ đạo mạo, tu lơ mơ mà giả bộ đạo mạo nghe khó chịu không? Thì thấy hơi khó chịu rồi, đó cũng như là lời ác làm cho mình khó chịu. Nhưng nghe lời đó rồi tự xét, ờ mình tu còn dỡ quá ông đó nói đúng đó, thì nhờ lời nói tu lơ mơ đó mà mình cố gắng tu hơn, tu thêm nữa, đó là thiện tri thức.

Cho nên nói: “Quán ác ngôn thị công đức, thử tắc thành ngô thiện tri thức”. Vì vậy mà lời ác đó là thiện tri thức của mình. Bây giờ quí Phật tử học câu này, rồi huynh đệ tới ái mà có câu gì nói nặng nhẹ mình, vổ vai nói ôi chị là thiện tri thức của tôi rồi. Cứ nói vậy thì người ta hết nói nữa chớ gì. Ai nói nặng, nói nhẹ mình, ai khinh bỉ mình, mình cứ vổ vai nói chị hay anh là thiện tri thức của tôi rồi; không có gì buồn phiền hết thì vậy có phải là tu hay không!

Tu hay là người chê mình, khinh miệt mình mà vẫn coi quí người đó vì người đó dám chỉ cái dỡ của mình, dám nói cái xấu của mình, thì mình nhờ vậy mà biết chừa bỏ, không phải thiện tri thức là gì? Còn những người mình không có mà nói có, nói gạt, nói dối mình để mà tô điểm cho mình tăng bản ngã lên thì đâu có làm lợi gì cho mình, mà là hại. Cho nên hiểu điều này thì quý vị  thấy người tu cần phải nhận kẻ nào can đảm chỉ lỗi mình là thiện tri thức của mình.

Người trong chùa, cũng như người ở thế gian ai dám chỉ lỗi, dám nói những cái xấu dỡ của mình thì phải kính trọng họ là thiện tri thức chớ không nên óan thù, mà người thế gian có mấy người được như vậy? Quý vị  kiểm coi có mấy người bị người ta khinh, người ta nói xấu, nói dỡ mà vui mừng coi như được thiện tri thức nhắc nhở? Mấy người được vậy, ai được vậy giơ tay tôi coi? Chưa ai dám chịu, cái hay vậy mà sao không dám chịu há. Cái đó là cái hay mà còn hơi dè dặt, không dám nhận.

Bất nhân san báng khởi oan thân,

Hà biểu vô sanh từ nhẫn lực?

Bất là chẳng. Chẳng nhân cái chê bai mà khởi tâm oán hay là thân. Tại sao vậy? Vì nếu khởi tâm oán hay là thân thì đâu có đủ (hà biểu là đâu có đủ) nêu rõ cái sức từ nhẫn vô sanh của mình. Lời này ngài nói rõ ràng rằng, nếu mình bị người ta chê bai mà khởi tâm giận hờn oán ghét, thì như vậy là mình không đủ tư cách làm người tu hành nhẫn nhục, tu hành từ bi. Mình từ bi, nhẫn nhục thì có khen chê mình vẫn tự tại, vẫn thản nhiên. Nếu mình không được tự tại thản nhiên, thì đâu đủ tư cách tiêu biểu cho người đã có đủ đức nhẫn nhục lớn, có lòng từ bi lớn và có tâm vô sanh an lạc.

Như vậy người đã được tâm vô sanh và được đức từ bi, nhẫn nhục thì không còn oán hờn thù hận. Còn oán hờn thù hận thì chưa phải là người có lòng từ bi, có đức nhẫn nhục và tu hạnh vô sanh. Đối với người tu mà ai đó tự nói rằng người đó là người thù của tôi, thì chúng ta đánh giá làm sao? Người đó có phải là từ bi không? Nếu thấy có người thù thì chưa phải từ bi, chưa phải nhẫn nhục.

Vậy giới tăng ni chúng ta hiện tại có oán thù ai không? Nếu huynh đệ trong chùa không có oán thù, mà ai đó ở bên ngoài hoặc ở chùa khác họ làm nhiều cái phiền nhiễu mình, có oán thù họ không? Đừng bao giờ khởi niệm, người đó là người thù của tôi. Còn nói là người thù của tôi thì chưa phải là từ bi. Từ bi không có oán thù, nhớ vậy đó. Có lòng từ bi thì không có oán thù, còn có oán thù thì không phải từ bi. Phật tử chúng ta tu cũng phải như vậy.

Người học đạo Phật, mà đạo Phật là đạo trí tuệ, đạo từ bi, mà chúng ta thù người này, óan người kia, hờn người nọ thì mình còn từ bi không? Không còn từ bi thì xứng đáng là Phật tử chưa? Xét vậy thì quí Phật tử tự đánh giá mình, mình là người xứng đáng đệ tử Phật hay chưa xứng đáng đệ tử Phật? Nếu chúng ta xứng đáng đệ tử Phật thì ai làm cái gì khó khăn, làm cái gì nhục nhã chúng ta, chúng ta cũng không thù không oán. Thôi bỏ đi, tha thứ đi, không hờn, không oán gì hết. Đó là đạo đức chân thật, đạo đức chân thật là ở chỗ này. Chớ còn nói tôi thù người này quá, tôi hận người kia quá thì chưa phải Phật tử thật, Phật tử đó hơi giả hiệu một chút, có cái tên, có lá phái, mà chưa thấm ở trong tâm. Nhớ vậy.

Vậy mà lâu lâu ở trong chùa cũng có hơi rầy rà một chút, có không? Khi rầy rà thì nói với nhau làm sao? Nói tôi không ưa chị, tôi không muốn thấy mặt chị, gì gì đó, hay là nói không ưa cô, không muốn thấy mặt cô. Nói như vậy nghĩa là sao? Có thù oán không? Nếu không thù sao không muốn thấy mặt? Vì vậy mà chúng ta dè dặt từng lời nói, đạo đức không cho phép chúng ta nói những lời như vậy. Nghĩa là dù người đó mình dễ mến mấy đi nữa cũng là người tốt, dù người đó mình dễ ghét mấy đi nữa cũng là người tốt, không có oán, không có ghét ai hết, thì đó mới thật là người tu.

Ở trong quí sư của mình lâu lâu có oán ghét ai không? Thấy ông thầy đó dễ ghét quá, có cái đó không? Chúng ta không có ghét người nào, người nào cũng là huynh đệ với mình hết, đều là đồng đạo mà. Nếu họ làm sai mình thương để mà nhắc, chớ không phải giận để mà rầy. Hai lời đó, thương nhắc giận rầy, quý vị  thấy khác nhau không? Có người nói, tại khó dạy quá cho nên giận tôi la nó, đó là để cho nó hết tật xấu, vậy đó là lòng từ bi, thật từ bi chưa? La riết rồi người ta gọi mình là thầy chùa lữa, chớ không thành cái gì hết.

Mình từ bi thì nói rầy bằng cái thương, chớ không phải bằng cái giận. Nhớ như vậy đó thì người tu mới xứng đáng là người tu. Bởi vậy ở đây, ngài bảo mình không nên bởi những cái chê bai rồi sanh ra có oán, có thân. Nếu mình có oán, có thân thì không đủ tiêu biểu cho đức từ bi, nhẫn nhục của mình. Từ bi, nhẫn nhục thì không có sân; mà sân thì tiêu hết từ bi, nhẫn nhục. Quý vị  nhớ, nhớ cho thật kỹ.



CHÁNH VĂN :

 

Tông diệc thông, thuyết diệc thông,

Định huệ viên minh bất trệ không.

Phi đản ngã kim độc đạt liễu,

Hằng sa chư Phật thể giai đồng.

 

GIẢNG :

 

Đây ngài nói cho chúng ta biết chỗ tu mà ngài đã đến.

Tông diệc thông, thuyết diệc thông, là tông cũng thông, thuyết cũng thông. Tại sao? Trong nhà Phật nói, tông là chỉ cho thiền nên gọi là thiền tông; thuyết là chỉ cho pháp nên gọi là thuyết pháp đó. Người tu thông suốt cả thiền, thông suốt cả chánh pháp của Phật, thông suốt cả hai nên gọi là tông thông thuyết thông.

Mà thông suốt được cả hai như vậy mới có, Định huệ viên minh bất trệ không. Tức là được định và huệ tròn sáng, không có kẹt, không có mắc ở nơi chỗ không. Không là chấp không hay kẹt nơi không.

Như vậy người tu trong đạo Phật phải thấu suốt được hai mặt, một là thấu suốt được thiền, hai là thấu suốt được giáo. Thông suốt giáo lý Phật và thông suốt đường lối tu thiền thì người như vậy đó mới tròn đầy cái định và cái huệ. Thiền thì định, pháp thì huệ; hai cái tròn đủ đầy sáng thì mới không mắc kẹt, dính nơi chấp có chấp không, hay là dính nơi chỗ mà rơi vào không.

Phi đản ngã kim độc đạt liễu,

Hà sa chư Phật thể giai đồng.

Chẳng phải chỉ có mình tôi riêng đạt liễu. Liễu là rồi, là xong việc này. Mà hà sa chư Phật cái thể cũng đồng như vậy.

Ngài nói rằng chỗ tông thông, thuyết thông này đã được thông suốt rồi thì định và huệ tròn sáng không mắc kẹt, không có vướng cái gì hết. Không phải riêng ngài tu được như vậy, mà cả chư Phật đều đồng được như vậy hết.

Vậy nhìn lại người tu hiện giờ tông và thuyết thông chưa? Đó là một câu hỏi để rồi chúng ta nếu thấy còn thiếu, phải ráng cho đủ. Tông là thiền, thuyết là giáo, cả hai thiền và giáo phải thông suốt. Cho nên tôi chủ trương thiền, giáo song hành đó, cả hai cái phải thông suốt hết. Như vậy thì định và huệ mình mới được tròn sáng. Nếu thông một bên, mà chưa thông bên kia thì chưa đầy đủ định huệ.

Thời của chúng ta bây giờ có hai cái tệ. Có người tu thì nói tôi chuyên tu thôi không cần học giáo lý, như chuyên tu thiền là thuộc về tông, mà không có giáo lý tức là thiếu về thuyết. Hoặc có người chuyên học giáo lý mà không chịu tu thiền, cứ đem giáo lý nói mà không tu, như vậy thì có huệ mà không có định. Nếu mình chuyên tu được định thì không có huệ. Như vậy đạo Phật không cho phép mình nghiêng một bên mà phải có cả định, có cả huệ. Định huệ được tròn sáng thì mới xứng đáng người tu theo Phật.

Vậy ngài nói tông thông, thuyết thông không phải là việc riêng của ngài, ngài được; mà hằng sa chư Phật cũng đều như vậy hết, các Ngài cũng đồng tông thông thuyết thông chớ không có Đức Phật nào mà chỉ có một bên. Cho nên từ chỗ thấy của ngài Huyền Giác, ngài thấy rõ người tu phải thông suốt về tông là thiền, và phải thông suốt về giáo lý là kinh. Hai cái đó phải thông suốt đầy đủ, rồi tu đầy đủ thì chừng đó mới được trí tuệ tròn sáng. Không phải một người như vậy mà chư Phật từ trước tới giờ thành đạo cũng đều tông thuyết đều thông. Đó là ngài nói chung để cho tất cả chúng ta hiểu.


Định huệ viên minh bất trệ không.



PHÁP YẾU TU HÀNH

Hòa Thượng Thích Thiền-Tâm 

 

Yếu điểm của đường tu

Gồm hai phần Sự, Lý

 

Lý tu là sửa tâm

Cho hợp với chân lý

Sự tu chỉnh ba nghiệp

Giúp chứng cảnh chân như

Sửa tâm là dứt trừ

Nghiệp tham, ái, nóng, giận

Si mê cùng tật đố

Ngã mạn với kiêu căng

Chớ chạy theo hình thức

Say đắm nẻo lợi danh

Chuộng địa vị, quyền hành

Khoe thông minh, tài giỏi

Phải sanh lòng giác ngộ

Niệm thanh tịnh từ bi

Dõng tiến mà kiên trì

Sáng suốt mà khiêm hạ

Tự nghĩ mình xưa nay

Ðã tạo nhiều tội chướng

Chịu nhẫn nhục, sám hối

Biết an phận, tùy duyên

Duyên tốt chẳng kiêu khoe

Duyên xấu không thối não

Bình tỉnh mãi tiến tu

Như bơi thuyền ngược nước

Về biển Tát Bà Nhã

Ðến Bảo Sở an vui

Ðó là phần tu tâm

Hợp với lý giải thoát

 

Sự tu là thân nghiệp

Lễ kính Phật sám hối

Khẩu nghiệp trì chú kinh

Hoặc niệm Phật khen ngợi

Ý  nghiệp giữ thanh tịnh

Mật tu môn Lục Niệm

Nguyện đền đáp bốn ân

Nguyện mình cùng chúng sanh

Sanh cõi vui thành Phật

Ðời đời gặp chánh Pháp

 Tu sáu độ muôn hạnh

Tâm Bồ Ðề độ sanh

Trần kiếp không thối chuyển

Tu Sự mà bỏ Lý

Làm sao mở chân tâm?

Tu Lý mà phế Sự

Cũng không thể thành Phật !

Tu Sự chẳng chấp TƯỚNG

Thì tức SẮC là KHÔNG

Tu Lý không bỏ Sự

Ðó tức KHÔNG là SẮC

Lý chính thật Chân-Không

Sự là phần Diệu-Hữu

Chân-Không tức Diệu-Hữu

Diệu-Hữu tức Chân-Không

Nếu chưa đạt lẽ nầy

Thà tu hành chấp CÓ

Ðừng cầu cao bác tướng

Mà lạc vào Ngoan-Không

Ðây chính hầm khổ đọa

Kẻ thông minh đời nay

Ða số mắc lỗi nầy

 

Xưa có sư Tông-Thắng

Tài huệ biện cao siêu

Vì ỷ giỏi kiêu căng

Nên bị nhục chiết phục

Hỗ thẹn muốn tự tận

Thọ thần hiện thân khuyên

“ Sư nay đã trăm tuổi 

Tám mươi năm lầm lạc

May nhờ gặp Thánh nhân

Huân tu mà học đạo

Tuy có chút công đức

Mà lòng hay bỉ ngã

Ỷ thông minh biện bác

Lấn người không khiêm hạ

Lời cao hạnh chưa cao

Nên phải bị quả báo

 Từ đây nên tự kiểm

Ít lâu thành trí lạ

Các THÁNH đều tồn tâm

NHƯ LAI cũng như vậy ”

 

Lại có kẻ đua tướng

Tranh Thượng Tọa ,Ni Sư

Mượn thuyết pháp, tụng kinh

Ðể mưu cầu lợi dưỡng

Dành đệ tử, chùa chiền

Lập bè đảng, quyến thuộc

Thấy có ai hơn mình

Liền thị phi tật đố

Hại Thầy Bạn, phản Ðạo

Lừa dối hàng tín tâm

Lời nói thật rất cao

Việc làm thật rất thấp

Lý Sự đều sai trái

Hạng ấy hiện rất nhiều

Tạo biển khổ thêm sâu

Khiến đau lòng tri-thức

Lý, Sự đại lược thế

 

Công đức làm sao được?

Phật là ÐẠI Y VƯƠNG

Pháp là DIỆU TIÊN DƯỢC

Là phương-thuật rất mầu

Là như-ý bảo châu

Hay trừ nạn nghèo khổ

Khiến cho được giàu vui

Hay trừ tất cả bệnh

Khiến mau được bình phục

Hay trừ nạn yểu số

Khiến thọ-mạng dài lâu

Hay khỏi các tai ách

Như bão lụt, binh lửa

Giặc cướp cùng tà ngoại

Ác thú với độc xà

Các yêu ma , quỷ mị

Nạn động đất, xe, thuyền

Những phù-chú ếm-đối

Ðều phá tiêu tan hết

Cho đến trừ tội chướng

Sanh trưởng phước huệ to

Cứu chúng đọa Tam Ðồ

Siêu lên bờ giải thoát

 

Chuyên tụng một phẩm Kinh

Một Chân-Ngôn, hiệu Phật

Thì thành tựu các nguyện

Thỏa mãn các mong cầu

Chỉ sợ người không tin

 Hoặc tin mà không sâu

Lại ngại không thực hành

Hoặc hành không bền lâu

Hoặc tuy hành bền lâu

Không chí tâm khẩn cầu

 

Chí tâm là không vọng

Trì niệm quên thân tâm

Lặng lẽ dứt phân biệt

Không trong, ngoài, người, cảnh

Khi đi, đứng, thức, ngủ

Chẳng bỏ câu trì niệm

Lúc hưỡn, gấp, an, nguy

Cũng vững vàng trì niệm

Cho đến khi sắp chết

Vẫn như thế trì niệm

Ðắc, thất đều do đây

Cần chi hỏi tri thức

Không hành như trên đây

Phật cũng khó cứu vớt

Huống nữa là phàm Tăng

Giúp ích được gì đâu

 

Nhớ lời Cổ Ðức dạy:

 

“Ta có một bí quyết

Khẩn thiết khuyên bảo nhau

Là hết lòng thành kính

Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”

Hãy ghi nhớ lời nầy

Lắng lòng suy gẫm sâu

 

Trời xanh tươi biếc một mầu

Ánh trăng vẫn sáng một mầu xưa nay

Mà sao đời đạo đổi thay

Cỏ hoa đượm nét u-hoài thờ-ơ

“Thuyết pháp bất đậu cơ

Chúng sanh một khổ hải ”

Ðời mạt suy thế đạo lại thêm thương

Sóng dồn bọt biển tà dương

Con thuyền cứu độ khuất đường vân yên

Bụi hồng tung gió đảo điên

Vô tình mai nở diệu hiền cành xuân.

 

Nam-mô Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như-Lai.



CHÁNH VĂN :

 

Sư tử hống, vô úy thuyết,

Bách thú văn chi giai não liệt.

Hương tượng bôn ba thất khước uy,

Thiên long tịch thính sanh hân duyệt.

 

GIẢNG :

 

Sư tử hống, vô úy thuyết, Ngài nói con sư tử mà nó rống lên thì rống lên những lời không có sợ sệt, những lời tự tại. Tiếng rống con sư tử là tiếng rống tự tại, không sợ sệt, không e dè. Bách thú văn chi giai não liệt. Bởi vậy nên cả trăm con thú mà nghe tiếng rống đó thì đầu óc muốn ran muốn bể vậy đó, người ta nói muốn tét não ra. Tại sao vậy? Bởi vì những lời nói chân thật thì những người tầm thường hèn hạ họ không hiểu nổi, cho nên họ hoảng hốt, sợ sệt.

Chỗ này tôi dùng một hai thí dụ nhỏ cho quý vị  thấy. Như tất cả chúng ta ngày nay, quý vị  nghĩ có người nào mà không muốn được nghe, được biết những lẽ thật không? Ai cũng muốn nghe, cũng muốn biết được lẽ thật. Thế mà khi nói lẽ thật, quý vị  chịu nghe không? Hay là hoảng sợ?

Thí dụ như tới ba mươi tết mà một vị tăng, vị ni nào lại mừng tuổi tôi, chúc mừng thầy năm nay chết sớm, nghe câu đó quý vị  chịu không? Có mắng ông thầy đó điên không? Nhưng đó đâu phải là lời nói tội lỗi gì? Người nghe câu chúc chết sớm đó thì nên mừng hay nên sợ? Huynh tốt đó, huynh chúc vậy thì năm nay tôi tu rút. Chết sớm phải tu rút chớ tu lơ mơ đâu được, như vậy là giúp cho mình. Còn người không hiểu biết nhiều, nghe chúc chết sớm cái hỏang nói ông này trù tôi nè, ông rủa tôi nè, nổi sanh hận lên.

Như vậy thì cũng một câu nói, mà người biết thì tốt lành, người không biết thì trở thành thù oán. Người trở thành thù oán nhiều hay ít? Chắc nhiều quá, đầu năm mà lại chúc anh chị năm nay chết sớm, thì chắc họ chửi liền, họ đuổi ra khỏi nhà. Gần như trăm người như một, chớ ít có người nào nghe nói chết sớm cái cười bảo phải rồi, được mừng, anh nhắc tôi đó năm nay tôi ráng tu nhiều, ít có người nói câu đó lắm phải không. Chớ còn đuổi ra khỏi nhà là thường.

Như vậy thì lời nói chân thật lợi ích, bởi vì Phật nói mạng sống bao lâu? Trong hơi thở mà anh này, chị này chúc mình tới một năm lận mà. Năm nay chết sớm thì cả mấy tháng nữa mới chết, thì như vậy cũng còn xa đó chớ, tại sao nổi giận. Phật nói mạng sống trong hơi thở mà mình chịu, người ta chúc mình tới mấy tháng nữa mới chết mà lại giận. Tại sao vậy? Bởi vì lời nói thật thì người ta lại sợ. Còn lời nói chúc anh chị năm mới sống bá niên trường thọ. Chịu không? Có mấy người được bá niên? Vậy chuyện đó là chúc rỗng, không có lẽ thật mà lại ưa. Còn người ta chúc thật chết sớm một chút, mà mình nghe chết sớm lại hoảng ráng mà tu thì như vậy hay biết mấy mà không chịu.

Quý vị  thấy tiếng rống của sư tử không có sợ, mà cả trăm con thú ngoài sư tử ra nghe thì hoảng hốt hết. Lời nói thật của Phật nói đúng như thật, như sư tở rống vậy, mà các lời thú hoảng hốt.

Hương tượng bôn ba thất khước uy, tức là con voi lớn nghe tiếng rống của sư tử cũng hoảng hốt mà chạy.

Thiên long tịch thính sanh hân duyệt. Tức long thiên có thể lặng nghe tiếng rống của sư tử đó mà được vui vẻ.

Đây là nói lời chân thật của chánh pháp hay lời chân thật của Phật nói ra giống như tiếng sư tử rống, đã giống như sư tử rống nên các loài thú sợ. Cũng vậy chúng ta nghe lời Phật nói chân thật mà chúng ta nghe cũng hoảng hốt. Nếu mà ai hỏi huynh sống bao lâu thì nói tám mươi, chín mươi tuổi nghe không sợ chút nào hết. Nói anh sống trong hơi thở thì giựt mình. Nghe nó lạ tai quá, khó chịu quá. Nhưng đó là lẽ thật, có ai thở khì ra không hít vô mà lại sống đâu? Chỉ có hơi thở là định thời gian sống chết đúng như thật, còn cái tuổi không đúng. Ai mà bảo đảm mình tới tuổi nào, tới ngày nào, sơ sẩy một chút là chết rồi. Cho nên chỉ thở khì ra không hít lại là chết, nghe nó mỏng manh, nó tạm bợ hết sức, nhưng đó là một chân lý, một lẽ thật.

Những lời chân thật đó, những người yếu, người không can đảm nghe chịu không nổi. Nên nói rằng các loài thú khi nghe tiếng rống sư tử muốn xé óc, muốn bể đầu, cho nên ai nói câu gì nặng mình nói tôi nghe muốn bể óc. Tức những lời nói chịu không nổi, mà những lời nói đó là lời nói thật. Kể cả những người tu khá khá như con voi là ai? Là các sư, các ni ở chùa, tu khá khá hơn một chút mà nghe cái đó cũng còn không vui một chút nào hết, cũng còn sợ. Đâu năm nào quí Phật tử vô chúc tết quí thầy, quí cô, quì xuống thưa năm nay con chúc thầy sống được mười ngày, thử coi thầy có cười không? Hay là thầy sợ? Nói bậy.

Đó là lời nói để cho quý vị  xét, hương tượng là chỉ cho mấy vị khá khá đó, người biết đạo lý mà còn phải sợ tiếng rống của sư tử. Chỉ thiên long tức các cõi trời và loài thiên long, thường thường người ta nói long thiên hộ pháp đồ đó, thì lặng lẽ nghe lời Phật nói mà sanh vui vẻ. Những người nào thấm nhuần đạo lý mà rất là cao siêu, rất là thấu đáo thì nghe những lời đó mới vui, mới thích. Chớ còn những hạng thường kia thì hoảng hốt hết. Đó là ngài nói lên cái giá trị chánh pháp của Phật nó cao siêu, người thường ít có thấm, ít thấu hiểu; cho tới bậc hơi khá khá cũng còn sợ thay.



CHÁNH VĂN :

 

Du giang hải, thiệp sơn xuyên,

Tầm sư phỏng đạo vị tham thiền.

Tự tòng nhận đắc Tào Khê lộ,

Liễu tri sanh tử bất tương can.

 

GIẢNG:

 

Du giang hải, thiệp sơn xuyên, Du giang hải, là dạo biển sông; thiệp sơn xuyên, là đi trong rừng trong suối

Tầm sư phỏng đạo vị tham thiền. Là tìm thầy để hỏi đạo gọi đó là tham thiền. Tham thiền là gì? Tham là tham vấn, thiền là thiền định hay thiền tông. Chúng ta đi chỗ này đến chỗ kia, qua sông leo suối để tìm thầy học đạo. Tìm thầy học đạo gọi đó là tham thiền. Ở đây ngài không phải nói chung, mà muốn nói riêng cho ngài đã từng đi trên sông trên biển, từng lội suối trèo non để tìm thầy học đạo, gọi đó là đi tham thiền.

Tự tòng nhận đắc Tào Khê lộ, là từ khi nhận được con đường của Tào Khê. Đường Tào Khê là đường nào? Đường của Lục Tổ. Nhận được con đường của Lục Tổ chỉ dạy rồi thì:

Liễu tri sanh tử bất tương can. Là biết rõ sanh tử không còn vướng mắc nữa.

Như vậy ngài tán thán Lục Tổ. Sở dĩ ngài tầm sư học đạo nơi này nơi kia, qua sông xuống biển, lội suối trèo non để tìm kiếm thưa hỏi thì gọi là ngài đi tham thiền. Nhưng từ khi nhận được lời chỉ dạy của Lục Tổ rồi thì ngay nơi đó đó ngài thấy rõ ràng sanh tử không còn vướng mắc gì nữa hết.

Quý vị  thấy học đạo không có vướng mắc sanh tử, không vướng mắc sanh tử mà ngài có chết không? Câu này là câu tôi muốn hỏi cho tất cả quý vị  chú ý. Ngài Huyền Giác có chết không? Nếu có chết thì sanh tử có vướng không? Nếu không vướng thì không có sanh tử, mà vướng là còn sanh tử. Bốn mươi ngoài tuổi ngài đã tịch rồi, thì còn sanh tử không! Đó là chỗ tôi muốn nói cho tất cả chú ý hiểu tường tận lý đạo.

Tôi lập lại, Lục Tổ bài thuyết pháp đầu tiên của ngài là khi ngộ được tâm ấn của Ngũ Tổ trong đêm nghe GIẢNG : kinh Kim Cang. Rồi Ngũ Tổ bảo đi về phương Nam, thì Lục Tổ vội vả đi. Đi qua sông, rồi tìm đường về phương nam thì bị các sư trong chùa đuổi theo. Hôm sau chúng trong chùa không thấy Ngũ Tổ mở cửa thất, mà đóng cửa cả ngày. Lấy làm lạ vô hỏi, tại sao Hoà Thượng đóng của thất, thì Tổ nói đã trao y bát đi về phương nam rồi. Hồi xưa Thiền tông, ai được truyền y bát là người đó lãnh trách nhiệm để giáo hóa thay cho Tổ. Giờ đi về phương nam thì còn cái gì nữa mà trao cho người thứ hai, thứ ba, cho nên toàn chúng xôn xao về phương nam là ai. Bấy giờ mới xét lại, chỉ ngài Huệ Năng giả gạo ở dưới nhà bếp, đi kiếm coi còn ở dưới không. Đi kiếm thì ngài mất tiêu, vì ngài ở phương nam, liền đuổi theo.

Khi đuổi theo, có một người tướng đi tu cởi ngựa giỏi lắm, ông đi đầu hết nên tìm kịp ngài. Thấy vậy, Lục Tổ bỏ y bát ở ngoài, ngài chui vô bụi trốn. Ông tướng đó hiệu là Huệ Minh, thấy y bát mừng quá chạy lại ôm lên nhưng nặng quá ôm không nổi, thì ông biết đây là vật phi thường không thể đem tâm phàm tục mà giành giựt được. Nên ông để xuống và đổi tâm đuổi theo giành y bát, thành tâm kính mến học đạo, liền kêu: “Hành giả, hành giả, tôi đến đây không phải vì y bát, mà vì pháp”. Tổ ở trong bụi nghe nói vì pháp thì liền ra, nói: “Nếu ông vì pháp thì hãy đứng yên lặng ta sẽ nói cho”. Huệ Minh đứng yên lặng giây lâu, Lục Tổ nói: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng Tọa Minh?”. Ngay đó ông ngộ.

Quý vị  ngộ chưa? Tại sao mà người ta nghe câu đó người ta ngộ mà mình không ngộ? Đó là một vấn đề. Tôi chỉ choq v thấy, tại sao chỉ có một câu nói đơn giản vậy mà là một bài pháp? Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng Tọa Minh? Nói như vậy thì quý vị  khó hiểu. Bây giờ tôi nói lại khi quý vị  ngồi chơi một mình, không nghĩ phải, không nghĩ quấy, không nghĩ hơn, không nghĩ thua thì lúc đó quý vị  có biết? Ngồi một mình không nghĩ cái gì hết, thì có biết không? Nếu không biết thì chim kêu sao nghe, gió thổi sao biết mát, rồi người đi sao mình thấy. Như vậy thì mắt đang thấy, tai đang nghe, thân biết xúc chạm thì đang biết chớ đâu phải không biết. Nhưng mình quên cái biết thường trực đó gọi là bản lai diện mục củ mình đi, mà chỉ nhớ cái biết hơn thua, phải quấy, tốt xấu. Nhớ cái biết đó hoài trong đầu mình, hết cái phải qua cái quấy, lăng xăng lăng xăng tối ngày mà cái thật của mình quên mất. Nhưng Lục Tổ bảo không nghĩ thiện, không nghĩ ác, tức là lúc đó không nghĩ hai bên, mà không nghĩ hai bên thì cái gì là bản lai diện mục của Thượng Tọa Minh? Thì ông nhận ra lúc không nghĩ hai bên đó là cái biết chân thật hiện tiền. Quý vị  có cái đó không, có người nào thiếu cái đó không? Mà sao không chịu nhớ cái đó. Đi kiếm cái gì đâu, kiếm Phật ở trên trời trên mây, cho nên nhà thiền gọi là cổng Phật đi tìm Phật, cởi trâu đi tìm trâu.

Như vậy thì quý vị  xét kỷ coi, chúng ta tu thiền ngồi lại bỏ vọng tưởng là bỏ cái biết lăng xăng đó chớ gì. Vọng tưởng lúc nào lặng quý vị  biết không? Cái chân thật hiện tiền. Mà mình thôi trong đầu lung tung, lang tang, hết cái này tới cái kia, hết cái kia tới cái nọ. Nhiều cái đáng nghĩ nghĩ cũng được đi, cái tầm bậy cũng nghĩ nữa. Có nghĩ bậy không? Như vậy mình bâng quơ, lăng xăng, lộn xộn, cho nên Phật chê là điên đảo đó không có gì hết. Lẻ ra, ngày nay làm việc gì thì nghĩ làm việc đó sao sao xong rồi từ đó yên không nghĩ gì hết khỏe cái đầu biết mấy. Nhưng vừa đi, vừa nghĩ tùm lum.

Có nhiều khi tôi nói, quý vị  thấy người nào đi đường mà nói làm xàm một mình, quý vị  gọi là người gì? Người điên. Bây giờ trong đầu mình có nói làm xàm không? Cho tới đi tiểu, đi đại mà cũng còn nghĩ nữa, còn làm xàm ở trong hoài. Đi ra ngoài, đi đâu cũng làm xàm một mình hà, nó không ra lời, mà nó ở trong này nè, nó nhỏ nhỏ ở trong ấy thì mình có điên không? Bởi vậy Phật mới nói mình là điên đảo, sống trong điên đảo.

Quý vị  tập bao giờ mà đi chỉ biết đi, rồi ăn cơm chỉ biết ăn cơm, làm việc chỉ biết làm việc thì quý vị  thiền rồi. Mà thiền là gì? Là sống trở lại tâm thanh tịnh lặng lẽ của mình. Chữ thiền là tỉnh lự là dừng cái nghĩ suy chớ có gì đâu.

Vậy chuyện tu không phải là chuyện trên trời trên mây, mà tu là giải quyết cái thằng điên làm xàm của mình nó đi. Thằng điên làm xàm nó cứ nói nhảm nhí trong đầu mình hoài đó, mình giải quyết nó để cho mình được tự chủ. Khi cần nghĩ sẽ cho nghĩ, không cần thì thôi yên lặng. Được vậy đó là tu giỏi. Như vậy nói đi thiền, ngồi thiền, nói đứng gì cũng thiền hết. Còn mình bây giờ ngồi thiền mà cũng còn ráng mà nghĩ nữa chớ, chuyện không cho nghĩ mà cứ nghĩ, chịu nổi không. Như vậy thì quý vị  thấy chúng ta yếu đuối, lộn xộn làm sao đâu, không có tự chủ chút nào hết.

Nếu mình biết tu tự chủ là buông hết. Bây giờ quý vị  buông hết những cái lăng xăng lộn xộn, thì cái đầu quý vị  nhẹ không. Rồi cái nào cần nghĩ thì cho nghĩ năm phút, ba phút rồi việc đó thôi, dẹp sổ để yên lặng. Vậy đó là khéo tu. Còn mình bây giờ lộn xộn quá, cả ngày lộn xộn. Như tu ở trên chùa là thỉnh thơi, không có chuyện gì đó, mà cũng còn lộn xộn, chuyện của thế gian đâu đâu cũng chen vô, đủ thứ chuyện, tội nghiệp thay.

Còn ở ngoài chuyện của thế gian ở đâu đâu, tôi thấy thật là chúng ta cùng điên với nhau cả đám. Chuyện ở bên tây, bên Tàu ai chửi mắng ai mình cũng muốn nghe, kiếm nghe, nghe vô rồi tối ngồi lại nhớ. Vậy rồi cứ lộn xộn trong đầu hoài, có yên ổn lúc nào đâu.

Như vậy thì niệm Phật để làm chi? Để bỏ hết những loạn tưởng, dừng câu niệm Phật bỏ hết loạn tưởng, tâm mình nó yên định rồi mới thấy Phật. Niệm Phật cũng muốn được nhất tâm, tu thiền cũng muốn định mà cứ nhớ chuyện bậy bạ thế gian hoài thì chừng nào nhất tâm, chừng nào được định? Chừng nào? Không dám bỏ.

Bây giờ tôi nói rằng, chúng ta biết tu rồi có quyền nghĩ, nghĩ cái gì cần nghĩ, nghĩ xong rồi dẹp sổ không cho nó nghĩ nữa. Như vậy thì khỏe cái đầu, ngày nào đi đâu mình cũng thảnh thơi. Còn cái này đi đâu chuyện ở trên trời trên mây cũng nhớ, chuyện năm trên năm dưới cũng nhớ, cứ ôn tới ôn lui, tầm bậy tầm bạ mà cứ nhớ hoài, nó điên đảo vậy đó.

Như vậy quý vị  hiểu cái tu chưa? Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, thì cái bản lai diện mục hiện tiền chớ gì. Hết sức đơn giản, hết sức dễ dàng, mà cụ thể mình đang có, cái mình đang có mà mình quên chạy theo cái lăng xăng lộn xộn đó. Cái lăng xăng lộn xộn đó mình nuôi nó trong đầu hoài, rồi nói khó tu quá. Ai làm mình khó? Tại mình nuôi dưỡng cái thứ không ra gì đó phải không, lộn xộn lăng xăng. Bây giờ mình lọc đi, cái gì cho nghĩ thì nghĩ. Thí dụ nghe kinh, nghe GIẢNG : thì cho theo dõi nghe đi, còn chuyện gì bên ngoài kệ họ bỏ qua.

Bây giờ chúng ta thì sao? Đang đi đường xe chạy suông sẻ mà thấy có hai ba người lúm xúm rầy lộm , chủi lộn muốn dừng lại nghe. Nghe để làm gì chớ? Chuyện của họ chớ phải chuyện của mình đâu, mà mình đâu phải cảnh sát dừng lại bắt họ xử. Vậy đó mà động tới thì dừng lại muốn nghe, muốn biết, muốn thấy, rồi đủ thứ chuyện, can thiệp vào chuyện thiên hạ quá chừng, quá đổi đi. Chuyện của người ta nói thầm thầm nhau cũng ráng lắng tai nghe coi nói cái gì. Như vậy thì tất cả mình đều muốn gom vô trong cái đầu của mình, mà gom hết vô đó rồi ngồi thiền bỏ không được mới than tu khó quá. Bây giờ đừng đem vô nhiều thì tự nhiên bỏ ra dễ ợt chớ có gì khó.

Hiểu vậy thì quý vị  mới thấy cái tu hết sức là đơn giản, mà Đức Phật đã thấy, rồi Ngài chỉ cho các Tổ. Các Tổ nhận được điều đó, các ngài đã sống tự tại, mình bây giờ tu cũng vậy thôi. Cho nên tu Thiền hay tu Tịnh gì cũng là phải dừng tâm loạn tưởng. Niệm Phật mà không nhất tâm thì sao về Cực Lạc, mà nhất tâm thì hết loạn tưởng rồi, thì Cực lạc hiện tiền. Mình ngồi thiền cũng vậy, không nghĩ thiện, không nghĩ ác, tức là cái gì hai bên mình không được nghĩ, lặng hết tâm suy nghĩ thì đó là định. Như vậy cái chân thật của mình nó đầy đủ, không có thiếu chút nào hết.

Quý vị  xét kỹ tu Phật khó hay dễ? Nếu khó thì tôi cũng thấy vô lý, chuyện đó của mình tại mình tập, bây giờ mình bỏ có gì đâu khó. Cũng như hồi đó tới giờ quý vị  tập ăn mặn, bây giờ tập ăn chay lại bỏ ăn mặn chớ có gì đâu. Vậy đó mà cũng than khó.

Còn cái chuyện tìm Phật, nếu tìm Phật ở Ấn Độ hoặc ở đâu đâu thì xa khó. Còn Phật là ngay cái hiện tại của mình đây, hết nghĩ lăng xăng thì ông Phật thật của mình hiện ra, nên nói Phật tức tâm đó, ngay nơi tâm mình chớ đâu xa. Mà không dừng cái nghĩ lăng xăng thì ông Phật không hiện, bởi nhớ cái lăng xăng thì đâu có nhớ Phật. Quên hết lăng xăng đó là nhớ Phật. Như vậy ngồi định là để quên cái lăng xăng chớ gì đâu.

Rất là dễ mà chúng ta tu thấy thật là khó, là tại vì quá quen thói điên đảo rồi. Bây giờ muốn buông bỏ thói điên đảo hết sức khó, chớ còn thật không phải khó. Nếu Phật dạy mình phải đi ra khỏi biển bao nhiêu trăm cây số, tìm đảo nào có Phật lên đó tu mới được, thì nói mình không phương tiện làm sao đi, xa tìm không được. Còn cái này, ngay nơi mình có sẳn. Có ai mà ngồi một giờ, nữa giờ không suy nghĩ cá gì hết, mà vẫn biết rõ ràng không? Mình ngồi không suy nghĩ thì vẫn biết, chớ không biết đâu nhưng tại trong đầu lăng xăng nên quên hết những cái biết hiện tại. Giờ trở về cái biết hiện tại là bỏ cái lăng xăng thôi chớ không gì hết, mà cái biết hiện tại là biết Phật nên tâm tức Phật, Phật tức tướng là vậy đó, quý vị  hiểu được ý đó.

Như vậy thì chúng ta khi nhận được đường của Tổ Tào Khê là Lục Tổ đó, tức không nghĩ thiện, không nghĩ ác, thì Liễu tri sanh tử bất tương can tức không nghĩ thiện, không nghĩ ác thì việc sanh tử có dính dáng gì với mình không?

Chỗ này tôi nói thêm cho quý vị  hiểu. Mỗi khi sám hối, tôi hồi xưa thì quen sám hối bản chữ Hán, tới sám hối chót nói tột cùng là:

Tội tánh bổn không do tâm tạo,

Tâm nhược diệt thời tội diệt vong.

Tội vong tâm diệt lưỡng câu không,

Thị tắc danh vi chơn sám hối.

Tội tánh bổn không là tánh tội nó là không. Nhưng tại sao có? Vì do tâm mình tạo. Tâm mình nghĩ xấu nghĩ ác rồi mới làm xấu làm ác, nói xấu nói ác thì thành tội. Như vậy tội tự nó có sẳn không? Nó không có, mà có từ tâm mình ra. Muốn hết tội thì trước phải hết cái gì? Hết cái tâm, hết tâm xấu tâm ác đó. Vậy đó mà bây giờ Phật tử mình cứ ba mươi, rằm đi tới chùa sám hối, quì lạy đã rồi về nói bửa nay hết rồi, tội lỗi tháng này tôi sám hối rồi phải không. Mà tâm ác không sám hối chút nào hết, không bỏ chút nào hết, thì hết tội được không? Tâm là gốc của tội, là đầu mối của tội mà mình không chừa cái đó, đi bỏ cái ngọn thì làm sao bỏ được.

Như vậy tội không có thật, mà gốc từ tâm mình. Nếu tâm mình dứt được niệm thiện, niệm ác, không còn những niệm nghĩ đó nữa thì tội còn không? Tâm mình dứt được thì tội mình cũng theo đó mà hết. Cho nên nói tội hết, tâm cũng không rồi, thì đó mới thật chơn sám hối. Bởi vì còn khởi niệm tốt xấu hơn thua là còn tạo nghiệp, tạo nghiệp thì thành tội. Giờ dứt tâm nghĩ phải nghĩ quấy, hơn thua thì đâu còn tạo nghiệp, thì tội từ đâu mà ra, làm sao mà có, như vậy mới thật là hết tội.

Quý vị  thấy dễ tu chưa? Gốc ở chỗ mình, chớ không phải gốc ở ngoài. Mà cứ đổ thừa tại người này, tại người kia mà tôi khổ. Phải tại người ta không? Hay là tại mình? Mình sanh chuyện, nghĩ thế này, nghĩ thế nọ, rồi người ta nghĩ không giống mình nên mình tức. Cho nên ở thế gian này, nói thẳng là chúng ta điên đảo quá, điên đảo rồi đổ thừa nhau, cải lộn rùm với nhau hoài đó. Người nào cũng không chịu cái điên đảo của mình, cứ đổ trút qua người khác, vậy đó mà cả ngày bất an.

Bây giờ mình biết rõ tội là do tâm mình nghĩ xấu, nghĩ ác. Giờ lặng được tâm xấu ác rồi thì tội theo đó hết chớ gì. Chớ còn sám hối bao nhiêu, mà tâm xấu ác còn thì không bao giờ hết tội. Nếu tâm xấu ác hết rồi thì tội theo đó mà hết. Tội hết, tâm hết đó mới thật là chơn sám hối. Sám hối vậy mới thật hoàn toàn giải thoát.

Quý vị  nghe rõ thì mới thấy cái hay, cái quí của sự tu. Sự tu đây là tu chân thật, chớ không phải là tu tưởng tượng. Chúng ta tu hay tưởng tượng quá hà. Quý vị  nghĩ tưởng tượng làm sao? Ba má chết thỉnh thầy về cầu siêu, cầu siêu cái tưởng tượng thầy cầu siêu thì ba má được về Cực Lạc. Tu đó tu tưởng tượng, chớ thật tình người đứng cầu siêu chưa chắc người đó tin nữa, không tin mình đưa nổi người đó về Cực Lạc đâu. Vì chính ông thầy tụng có biết Cực lạc là chỗ nào đâu mà đưa, ông chưa từng biết mà bảo ông đưa thì đưa làm sao đây. Như bây giờ quý vị  muốn xuống đò đi đâu đó, mà chỗ đó ông lái đò không biết thì làm sao đưa tới. Bây giờ thầy cầu siêu cho ba mẹ mình về Cực Lạc, mà thầy chưa biết Cực Lạc ở đâu, nghe Phật nói tưởng tượng vậy thôi, rồi mình hài lòng như vậy.

Cho nên cái này mà là cái thật, chúng ta tu dẹp được cái xấu dỡ của mình là cái gốc của tội lỗi, mà xấu dỡ hết thì tội lỗi theo đó hết chớ gì, đó là sự thật. Không tội lỗi thì đi chỗ lành, chỗ tốt khỏi cần đưa đẩy gì hết.

Tôi nói vậy thì quý vị  hiểu rõ ý nghĩa, còn mình tưởng tượng thầy tụng như vậy thì ba má mình về Cực Lạc, đó là tu trong tưởng tượng chớ thiếu thực tế. Đó là một việc không phải tôi không đi tụng đám rồi nói như vậy, tại lẽ thật nó như vậy thì phải tôi nói, chớ không để Phật tử chúng ta cứ lầm lẫn làm những việc không có lẽ thật.

Nếu chúng ta thấu suốt được con đường của Lục Tổ, thì mình rõ biết sanh tử không còn can thiệp, không còn dính dáng gì mình nữa hết.



Liễu tri sanh tử bất tương can.


Phật bảo: “Ðại-vương, ông thấy biến-hóa dời-đổi không ngừng, ngộ biết là phải diệt; vậy trong lúc diệt đó, ông có biết trong thân có cái gì không diệt chăng?”

Vua Ba-tư-nặc chấp tay bạch Phật: “Thật tôi không biết”.

Phật bảo: “Nay tôi chỉ cho ông cái tính không sinh-diệt, Ðại-vương, khi ông mấy tuổi, mới thấy nước sông Hằng”.

Vua bạch: “Khi tôi ba tuổi, mẹ tôi dắt đi yết-lễ thần Kỳ-bà-thiên thì đã đi qua sông ấy; lúc đó tôi liền biết là nước sông Hằng”.

Phật bảo: “Ðại-vương, như lời ông nói: Lúc 20 tuổi thì sút hơn lúc lên 10, cho đến nay đã 60 tuổi, từng năm, từng tháng, từng ngày, từng giờ, dời-đổi mãi mãi; vậy khi ông 3 tuổi thấy nước sông ấy, rồi đến khi 13 tuổi thì nước ấy thế nào?”

Vua bạch: “Tôi thấy nước ấy cũng giống khi 3 tuổi, như nhau không khác và đến nay tuổi đã 62, cũng vẫn không khác”. (CHỈ RÕ TÍNH-THẤY KHÔNG PHẢI LÀ CON MẮT)

Phật bảo: “Nay ông xét mình đầu bạc mặt nhăn, mặt ông chắc là nhăn hơn lúc trẻ; vậy cái thấy hiện nay của ông thấy sông Hằng so với cái thấy lúc nhỏ thấy sông Hằng, có già trẻ gì không?”

Vua bạch: “Thưa Thế-tôn, không”.

Phật bảo: “Ðại-vương, mặt ông tuy nhăn, nhưng cái thấy đó chưa hề bị nhăn; cái bị nhăn thì thay-đổi, còn cái không bị nhăn thì không có thay-đổi. Cái thay-đổi thì phải diệt, còn cái không thay-đổi kia, vốn không sinh-diệt, làm sao trong ấy, lại nhận sống cái chết của ông, mà ông còn dẫn những thuyết của bọn Mạt-già-lê kia bảo rằng thân này chết rồi diệt hẳn”.

Vua nghe lời Phật dạy như vậy, tin-biết về sau bỏ thân nầy qua thân khác, cùng với đại-chúng nhẩy-nhót vui-mừng, được cái chưa từng có.


KINH THỦ LĂNG NGHIÊM



Các tông đại khái chia ra làm hai, là Không môn và Hữu môn. Không môn từ phương tiện lý tánh đi vào. Hữu môn từ phương tiện sự tướng đi vào. Nhưng đi đến chỗ tận cùng thì dung hội tất cả, sự tức lý, lý tức sự, tánh tức tướng, tướng tức tánh, nói cách khác: “Sắc tức là không, không tức là sắc, không và sắc chẳng khác nhau”.

Cho nên khi xưa có một vị đại sư tham Thiền ngộ đạo, nhưng lại mật tu về Tịnh Độ. Lúc lâm chung, ngài lưu kệ phó chúc cho đại chúng, rồi niệm Phật sắp vãng sanh. Một vị thiền giả bỗng lên tiếng hỏi: “Cực Lạc là cõi hữu vi, sao tôn đức lại cầu về làm chi?”

Đại Sư quát bảo: “Ngươi nói vô vi ngoài hữu vi mà có hay sao?” Thiền giả nghe xong chợt tỉnh ngộ.

Thế nên Thiền và Tịnh đồng về một mục tiêu. Hữu môn cùng Không môn tuy dường tương hoại mà thật ra tương thành cho nhau vậy.



Hỏi: Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, đức Lục Tổ bảo: "Người phương Đông tạo tội, niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Người Tây Phương tạo tội, niệm Phật cầu sanh về cõi nào?" Như thế thì chỉ cốt làm sao diệt được tội, cần gì niệm Phật cầu vãng sanh?

- Đáp: Đức Lục Tổ và các vị cao đức bên Thiền Tông đứng trên cương vị truyền bá tông chỉ Duy Tâm, nên mỗi lời nói phải căn cứ theo chỗ lập pháp của mình, đều chỉ ngay vào bản tánh, và đều lấy tâm làm chủ. Ý Ngài muốn bảo: nếu tâm được thanh tịnh, thì tuy ở Ta Bà cũng tự tại giải thoát; tâm không thanh tịnh dù ở Tây Phương vẫn bị khổ não luân hồi. Thật ra, đối với người tu Tịnh Độ hiểu đạo lý, lời nói của Tổ chỉ có tác dụng khuyến tấn, bảo phải niệm Phật đến chỗ tịnh tâm không còn chấp tướng; chớ không phải bác sự niệm Phật cầu vãng sanh. Đức Thích Tôn, chư Phật khắp mười phương, chư Đại Bồ Tát và chư vị Tổ Sư đều khuyên niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Hai vị Tổ bên Thiền Tông ở Thiên Trúc là Mã Minh, Long Thọ đều khuyên niệm Phật; và chính ngài Long Thọ đã chứng ngôi Sơ Hoan Hỷ Địa, vãng sanh về Cực Lạc. Nếu đức Lục Tổ quả thật có ý bài bác sự Niệm Phật, thì chẳng hóa ra bài bác đức Thích Ca Mâu Ni, chư Phật, chư Bồ Tát, Tổ Sư, và cả hai vị tiền bối trong tông của mình là Mã Minh, Long Thọ hay sao? Cho nên, nếu hiểu lầm rồi đem lời này chê bai niệm Phật, chính là bài xích và gieo mối oan cho đức Lục Tổ vậy.

Lại, hành môn nào cũng có lý và sự. Lời của đức Lục Tổ là nói về lý, ngoài ra còn có sự tướng của đường tu, cần phải nghĩ đến. Ta thử đặt lại câu hỏi: "Người ở ngoài đời tạo tội, vào chùa am xuống tóc, ăn chay, giữ giới tìm nơi thanh vắng tu hành. Người ở chùa am tạo tội tìm nơi nào để tu?" Nếu chỉ y theo lý mà bác như vậy, thì việc xuất gia đến chùa am, ăn chay giữ giới, cho đến tụng kinh, niệm Phật, trì chú, tham thiền, đều là lỗi lầm hết cả hay sao? Pháp tu Tịnh Độ cũng thế, thật ra chẳng phải người Đông Phương do tạo tội mới niệm Phật cầu sanh Tây Phương, mà niệm Phật cầu về Tây Phương chính là muốn mượn thắng duyên tu hành, để mau chứng lên quả Vô Sanh giải thoát. Dù người đã tạo nhiều tội, biết hồi tâm sám hối niệm Phật cầu vãng sanh, cũng là vì muốn sớm thoát sanh tử, vẫn không ngoài mục đích này. Còn người ở Tây Phương Cực Lạc cũng không tạo tội, bởi khi đã về cõi ấy, trên có Phật Bồ Tát, dưới có các bậc thượng thiện nhơn, xung quanh mình tiếng chim nói pháp, tiếng nhạc giảng kinh, không còn nhọc lòng lo đến vấn đề ăn mặc ở và các sự đau bịnh, tai nạn, oán thù, đường đạo chỉ thêm tiến lên, đâu còn có duyên gì để tạo tội?

Kết lại, câu nói của đức Lục Tổ nên hiểu chỉ là lời khai thị về lý tánh thanh tịnh để khuyến tấn mà thôi, không nên nghĩ lầm đem nó để bác sự tướng. Người niệm Phật nghe lời này, càng nên cố gắng niệm cho đến trình độ tâm không, mới hợp với ý của Tổ.

 

Niệm Phật Thập Yếu



CHÁNH VĂN :

 

Hành diệc thiền, tọa diệc thiền,

Ngữ mặc động tịnh thể an nhiên.

Túng ngộ phong đao thường thản thản,

Giả nhiêu độc dược dã nhàn nhàn.

 

GIẢNG:

 

Bốn câu này ngài nói:

 

Hành diệc thiền, tọa diệc thiền, Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền.

Ngữ mặc động tịnh thể an nhiên. Nói nín động tịnh cái thể vẫn an nhiên.

Túng ngộ phong đao thường thản thản, Giả như gặp đao bén, đao nhọn cũng thường tự nhiên, không có dính dáng.

Giả nhiêu độc dược dã nhàn nhàn. Giả như mình uống lầm thuốc độc mình cũng vẫn tự tại, thảnh thơi chớ không có gì sợ sệt hết.

Vậy bốn câu nói, hồi xưa tôi cũng hơi khó hiểu. Tôi nghĩ ngồi thiền mới là thiền, còn đi làm sao thiền được. Mà nói đi cũng thiền, ngồi cũng thiền. Rồi nói nín động tịnh thể an nhiên, thì khi nói nín động tịnh là nó lăng xăng rồi đâu có thiền, mà nói an nhiên.

Nhưng thật ra như khi nảy tôi nói, đi mà mình chỉ biết đi, trong đầu không có cái gì lăng xăng lộn xộn, thì đi đó là thiền. Đi mà trong đầu không nghĩ bậy, nghĩ bạ vơ vẫn cái gì hết, đi đó là thiền rồi. Ngồi mà tâm mình nó lặng lẽ, không dấy động, đó là thiền. Ngồi để tâm lặng lẽ không dấy động, đi để tâm lặng lẽ không dấy động thì cũng như nhau. Cái trọng tâm là tâm lặng lẽ không dấy động, còn mình đi thì nghĩ tứ tung thành ra không có thiền. Nhiều khi nói thiền hành tức là đi, mà đi chừng năm ba bước thì nghĩ chuyện hôm qua hôm kia, ba bốn bước nghĩ hôm kia hôm qua, cứ nghĩ tới nghĩ lui hoài, chuyện không đáng cũng nghĩ như vậy có thiền chưa? Đi thiền mà không phải thiền.

Còn mình không chú ý đi thiền hành gì hết, đi làm đi tới đi lui, nhưng mà không để cái đầu mình nó lăng xăng lộn xộn, buông xả thảnh thơi, đi biết mình đang đi, thì đó là đi thiền. Rồi ngồi chỉ biết đang ngồi, tâm không có lộn xộn, không nghĩ trước nghĩ sau..v.v… thì đó là thiền. Ngồi trước bàn Phật cũng thiền, ngồi trên võng cũng thiền phải không, chớ đâu phải ngồi nghiêm chỉnh mới thiền. Nhiều khi ngồi nghiêm chỉnh trước bàn Phật mà cái đầu nó chạy tứ tung, xứ này xứ nọ, có thiền được không? Bởi vậy nên mình biết trọng tâm thiền là tâm lặng lẽ.

Cho nên định nghĩa chữ thiền một lần nữa cho quý vị  nhớ. Thiền là đúng là thiền na theo âm chữ Phạn, Trung Hoa dịch là tịnh lự. Tịnh là lặng, lự là suy gẫm. Lặng những cái suy gẫm mình gọi là thiền chớ có gì đâu. Như vậy đi mà không suy nghĩ lăng xăng thì đi không thiền là gì! Rồi ngồi mà không suy nghĩ lăng xăng thì ngồi đó là thiền. Nhưng tại vì mình quá ư là lôi thôi, tôi có thể nói một từ mà quý vị  hơi khó chịu một chút là tại mình điên lậm quá. Chúng ta điên lậm quá, nên cứ làm xàm hoài, không thể nào kềm được. Bắt buộc phải đến trước bàn Phật mặc áo nghiêm chỉnh rồi ngồi kiết già kềm cho nó đở lộn xộn. Tại điên nặng, bệnh nặng nên thuốc cũng hơi nặng một chút, cho nó đau chân mà phải cố gắng kềm nó mới từ từ dịu. Chớ còn nếu để thường thường nói đi cũng thiền, mà đi cứ nghĩ hoài thì chừng nào thành thiền.

Vì vậy mà bắt buộc phải ngồi nữa giờ, một giờ nghiêm chỉnh, thì giả sử ở ngoài nữa giờ đó mình nghĩ một trăm lần, còn mình ngồi mình kềm nghĩ tám chục lần đở hơn một chút. Rồi lần lần còn năm chục, lần lần còn bốn chục, ba chục thì đó là giãm từ từ. Giãm cái đó thì gọi là giãm cái gì? Quý vị  dùng từ cho xứng đáng coi. Giãm vọng tưởng là nói nhẹ đó, chớ đúng ra nói giãm điên loạn của mình. Giờ đó là giờ ngồi tu mà chuyện đâu đâu cũng nghĩ thì không phải điên loạn là gì! Những điên loạn nó từ từ giãm bớt. Đó như vậy mới hiểu được ý nghĩ ngồi thiền, ý nghĩa tu thiền, chớ không thì chúng ta tu mà không biết rõ ý nghĩa của nó.

Trong nhà thiền thường nói đi đứng nằm ngồi gì cũng thiền hết, là tại chỗ đó đó. Cho nên nói: Ngữ mặc động tịnh thể an nhiên. Ngữ là nói, mặc là nín. Khi động, khi tịnh thì tâm mình nó cũng an nhiên tự tại. Thí dụ quí Phật tử ở nhà những người nào thợ may, thì cứ ngồi nhắm thẳng đường may mà may thì đó là động, nhưng mà tâm mình vẫn an. Thợ mộc đang bào, đang đục mà tâm không nghĩ gì hết, đó cũng là an. Như vậy dù có động, dù có tịnh cái thể nó vẫn an ổn, không có gì hết, chớ không phải ngồi yên mới được an.

Dù gặp đao bén, đao nhọn mình vẫn thản nhiên không sợ. Giả sử gặp thuốc độc hay bị thuốc độc mình cũng vẫn thảnh thơi nhàn hạ, không có gì mà bực bội khổ đau. Như vậy cái tu của mình tới cảnh bình thường tâm mình lặng, trong cảnh rất hiểm nguy tâm mình cũng lặng, được như vậy đó là mới tự tại, mới giải thoát.

Bây giờ bước đầu, trong cảnh bình thường mà lặng là phước lắm rồi. Cho nên quý vị  thấy giờ ngồi thiền ở trên chùa, phải vô ngồi yên, rồi không được ai động cái gì hết. Ngồi cho lặng để tập cho nó yên lần lần. Chừng nào quý vị  giỏi rồi đi ra đường thiên hạ làm gì thì làm, nói gì thì nói, mình cũng không thèm dính thì đó rất hay. Cho tới gặp những lúc tai họa tới ầm ầm trên đầu mình, mình cũng vẫn tự tại, thì đó là thành công viên mãn. Đó là tới cái chỗ này, cho nên ngài nói:

Túng ngộ phong đao thường thản thản,

Giả nhiêu độc dược dã nhàn nhàn.

Dù cho gặp đao bén mình cũng vẫn coi nó rất là thường, giả sử như bị thuốc độc mình cũng đếm xỉa gì hết, tự tại, vì vậy mà sống chết tự tại. Vì tất cả đao bén, thuốc độc là cái tử, đem cái chết đến cho mình, mà mình đã sanh tử tự nhiên, sanh tử là trò chơi, thì hai cái đó mình hết sợ.

Bây giờ mình nói sanh tử là thật, sống là thật; sống là thật sống, chết là thật chết. Nhưng thật ra có cái sống thật, chết thật không? Bởi vì hiểu được lý luân hồi của đạo Phật thì sanh tức rồi tử, mà tử tức là sẽ sanh. Như vậy tử có thật tử đâu, mà sanh có thật sanh đâu. Sanh rồi đi tới cái tử, tử rồi trở lại sanh, chớ đâu phải dứt. Như vậy sanh cũng không thật sanh, tử cũng không thật tử, chỉ là vòng lẩn quẩn chớ nó không có gì thật hết, mà chúng ta sợ. Sợ mà khỏi không?

Có người nào không sợ chết không, kể cả người tu? Chắc ai cũng sợ chết hết. Mà có khỏi chết không? Ai cũng chết hết. Cái không khỏi mà sợ thì sáng suốt chưa? Nếu mình sợ vì người người kia chết, người nọ chết mà mình khỏi chết hay người này khỏi chết, thì mình sợ để tránh, mình tìm cách tránh. Nhưng rồi ai cũng chết, kẻ đi sớm, người đi muộn thôi, mà phải chết thì sợ sao được mà sợ. Thôi thì mình tự tại, sống vui sống, chết vui chết, tự tại thảnh thơi, khỏe biết mấy, ra đi mà không hồi hộp, không lo âu gì hết.

Còn chúng ta bây giờ gần chết thì than thở đủ điều, đó là vì tưởng rằng chỉ có mình chết thôi, người khác không chết. Mình đi trước thì bà con đi sau chớ gì. Có người nhìn lại những người sống rồi khổ rơi nước mắt, có gì đâu mình đi trước thời gian rồi người ta cũng đuổi theo, cùng đi với nhau hết trơn, có người nào ở lại mà sợ. Hiểu vậy rồi mình cười trong cái sống, cái chết chớ mình không có sợ, đó là đạo lý thật. Đạo lý thật đó chúng ta hiểu thấu rồi thì chúng ta sống mới an nhàn tự tại. Nếu chúng ta không hiểu, không thấu rồi thì thấy nó như cái gì xa lạ với chúng ta.

Như vậy thì quý vị  hiểu tu thiền chưa, mà biết tu thiền của Tổ chưa! Xin đừng nghĩ thiện, nghĩ ác cái rồi, dễ biết mấy. Chuyện đó quý vị  kiểm lại coi ai có quyền cho mình không nghĩ thiện, không nghĩ ác? Mình trọn quyền, nên mình có quyền làm Phật. Mình có quyền mà mình còn dung dưỡng nó thì tội tại ai? Cũng tại mình. Mình có quyền nghĩ, mình cũng có quyền không nghĩ. Giờ nó nghĩ đó cứ để nó nghĩ hoài không cho nó ngưng nghĩ, không bắt nó ngưng nghĩ thì lỗi đó tại mình chớ tại ai. Như vậy thì đừng trách thiên hạ, mà trách mình đi. Mình chưa ưng làm Phật, vậy mà cứ lạy Phật, Phật cho con được đời đời gặp Phật để tu để được thành Phật. Cần gì đời đời, ngay bây giờ đừng thèm nghĩ bậy bạ cái rồi hà, khỏi đời đời chi cho xa xôi.

Cho nên thiền đó là thiền đốn ngộ, đốn ngộ tức là nhanh, mà khả năng mình không giỏi thì nó không nhanh. Người nào đủ khả năng nghe hiểu rồi buông được hết, không cho nghĩ thì nó dừng ngay thì nhanh trở bàn tay chớ không gì lạ hết. Đó là lẽ thật của sự tu.



CHÁNH VĂN :

 

Ngã Sư đắc kiến Nhiên Đăng Phật,

Đa kiếp tằng vi nhẫn nhục tiên.

Kỷ hồi sanh! Kỷ hồi tử!

Sanh tử du du vô định chỉ!

 

GIẢNG:

 

Ngã Sư đắc kiến Nhiên Đăng Phật, ngã sư là thầy của tôi. Thầy tôi được thấy Đức Phật Nhiên Đăng.

Đó là kể lại Đức Phật Thích Ca của chúng ta ngày xưa, khi tu thành Phật, Ngài có kể lại rằng trước kia Ngài đã từng gặp Đức Phật Nhiên Đăng giáo hoá, nên Ngài tu hành đến bây giờ được thành Phật. Đó là nhắc lại lời của Đức Phật kể.

Đa kiếp tằng vi nhẫn nhục tiên. Nghĩa là nhiều đời nhiều kiếp Ngài đã làm vị tiên nhẫn nhục.

Đó là để cho thấy rằng, tu thành Phật không phải một lần hay một kiếp, mà rất nhiều đời nhiều kiếp. Bởi nhiều đời nhiều kiếp tu hành, nên đời cuối cùng Đức Thích Ca mới thành Phật. Chúng ta bây giờ tu quý vị  nghĩ chừng bao lâu thành Phật? Chắc cũng nhiều đời nhiều kiếp lắm. Vậy hiện giờ nhìn trong hội chúng này tăng ni và Phật tử, nếu nhìn cái đầu thì nói ai tu được nhiều kiếp rồi? Đây là tôi nói cái đầu, chớ chưa nói tới tiền duyên tiền kiếp của mỗi người. Người được đầu tròn áo vuông chắc rằng tu trước hơn người chưa được. Quý vị  được đầu tròn áo vuông có tin rằng, con đường đến thành Phật mình đã gần mục đích chưa? Chắc cũng còn xa.

Như vậy từ khi phát tâm tu cho tới thành Phật quả là phải nhiều kiếp nhiều đời, chớ không phải một kiếp một đời. Hiểu vậy rồi thì trên sự tu hành chúng ta không lấy gì làm lạ. Như trên trong kinh Phật kể lại rằng, trước kia Ngài đã từng làm những vị tiên nhơn nhẫn nhục. Có khi bị người ta xin tay xin chân, có khi xin vợ xin con..v.v… đủ thứ, mà Ngài kham chịu nhẫn nhục không buồn, không phiền, mà nhiều lần như vậy đó, cho nên sau này Ngài mới thành Phật.

Vậy toàn thể tăng ni, Phật tử chúng ta tu nếu gặp cái gì khó khăn, gặp cái gì buồn phiền thì chúng ta làm sao? Nên tập là tiên nhẫn nhục không? Hay là mình cũng ăn thua chung đủ với người ta? Nếu Đức Phật ngày xưa chưa từng làm tiên nhẫn nhục, thì làm sao sau này có đắc quả thành Phật! Còn chúng ta bây giờ tu không nhịn ai hết, không nhịn mà còn đòi thành Phật thì tu được không, thành được không? Như vậy quý vị  hiểu chúng ta phải dày công, phải có sức nhẫn nhục, thì kết quả mới thành tựu. Tu Phật muốn được thành Phật thì phải đủ những tư cách chịu đựng nhẫn nhục, bố thí..v.v…

Đó là hai câu ngài nhắc lại đời Đức Phật từ hiện tại cho tới những quá khứ đã qua Ngài từng tu như vậy.

Kỷ hồi sanh! Kỷ hồi tử! Tức là bao nhiêu lần sanh, bao nhiêu lần tử.

Sanh tử du du vô định chỉ! Tức là sanh và tử, nó luôn luôn nối tiếp không dừng. Từ khi khởi tâm tu cho tới ngày thành Phật trên đường sanh tử nó liên miên không dừng không dứt.

Như vậy thì tất cả chúng ta tu mà muốn được kết quả viên mãn thì trên đường tu phải liên tục, đời này kiếp tới, luôn luôn. Chúng ta nhìn trong một đời này thấy qua một đời dài hay ngắn? Lúc còn trẻ mười lăm, mười bảy thấy nó dài. Nếu tới bảy tám chục thì thấy dài hay ngắn? Nó kề một bên. Vậy một đời người mới ra còn trẻ thì chúng ta thấy dài ngán, nếu đi qua gần cuối đời rồi thì thấy rất là ngắn, cứ đời này qua rồi tới đời khác.

Nhiều khi với tuổi của tôi, năm nào đó thấy mấy Phật tử tới với tôi thì cũng đầu xanh hết, bây giờ nhìn lại người nào tối thiểu cũng bạc hoa râm rồi. Như vậy cái tuổi, cuộc đời của chúng ta nó liên tục biến chuyển, từ tẻ sang già, rồi tới chết. Mà quý vị  nghe chết có buồn không? Nghe chết ngán quá. Vậy thì chúng ta muốn không chết phải không? Nếu muốn không chết thì ráng tu như Phật chứng quả rồi hết chết. Còn chưa chứng quả thì liên tục chết, chết đời này, chết đời nọ, chết mãi mãi, cho tới cuối cùng được giác ngộ viên mãn, chứng được quả vô sanh rồi Niết bàn thì chừng đó mới ngừng sanh tử, đó gọi là giải thoát sanh tử.

Vậy trên đường tu chúng ta là người lữ hành đang từng bước, từng bước hướng về cái gì? Nếu tăng ni thì hướng về cái đích giải thoát, giải thoát tức là hết sanh tử. Còn Phật tử mình thì hướng về cái gì? Cũng từng bước từng bước hướng về gieo duyên lành, đời này được một ít, đời sau được một ít. Cứ gom góp từng chút ít, rồi không biết chừng nào đó đầy đủ thì mới đến được cái đích giải thoát. Vì vậy đối với sự tu hành chúng ta phải đầy đủ lòng tin rằng, có tu là có tiến. Tiến ít, tiến nhiều cũng là có tiến. Người hùng dũng thì tiến nhanh, người yếu ớt thì tiến chậm, nhưng có tu thì có tiến. Chỉ sợ không tu thì chịu thôi, không biết đời này được làm người, đời sau được làm cái gì không biết, chớ có tu là có tiến.

Hiểu vậy thì quý vị  yên lòng để chúng ta cố gắng tiến lên, đừng dừng một chỗ hay đừng lùi đừng sụt, thì đó là con người biết tu và cố gắng tu.



CHÁNH VĂN :

 

Tự tòng đốn ngộ liễu vô sanh,

Ư chư vinh nhục hà ưu hỷ?

Nhập thâm sơn, trú lan nhã,

Sầm ngâm u thúy trường tùng hạ,

Ưu du tĩnh tọa dã tăng gia,

Khuých tịch an cư thật tiêu sái!

 

GIẢNG :

 

Ngài diễn tả đời tu của người thấy được con đường thoát tục. Ngài nói rằng:

Tự tòng đốn ngộ liễu vô sanh, nghĩa là từ khi ngài chóng ngộ được lý vô sanh của Phật dạy. Khi nhận được lý vô sanh đó rồi thì làm gì?

Ư chư vinh nhục hà ưu hỷ? Là đối với cái vinh cái nhục không buồn, không lo, không vui gì hết. Không vui, không buồn khi gặp cảnh vinh, cảnh nhục. Sở dĩ không có buồn vui đối với cảnh vinh nhục là thấy được lý vô sanh, còn chưa thấy được lý vô sanh thì gặp cảnh vinh thì cười hú hí, gặp cảnh nhục thì khóc lu bù, chớ không được yên. Chúng ta chưa thấy được lý vô sanh nên chúng ta vui khi được vinh, tủi buồn khi bị nhục.

Vậy người thấy được lý vô sanh rồi làm cái gì, thích cái gì?

Nhập thâm sơn, trú lan nhã, Sau khi thấy được lý vô sanh rồi, thì thích vào núi sâu, ở chỗ vắng vẻ. Đó là tư cách, đó là hạnh an lạc của người xuất gia.

Sầm ngâm u thúy trường tùng hạ, Sầm ngâm là chỗ dày bịt hay chỗ sâu kín. U thúy cũng là chỗ thâm sâu ở trong. Nói theo thế thường là chỗ rừng già, chỗ thâm sâu ở trong, ở dưới cội tùng hay gốc thông mình ngồi lặng lẽ. Hay nói cách khác là chúng ta sau khi hiểu được lý vô sanh rồi thì chúng ta thích đi vào núi sâu, chỗ vắng vẻ, nơi rừng rậm vắng vẻ, rồi ngồi dưới cội tùng yên tu.

Quý vị  có làm được cái đó chút nào chưa? Chắc chưa thấy được lý vô sanh, nên rồi cũng còn vật lộn với cuộc sanh tử này, chưa có yên mà ngồi trong chỗ vắng vẻ đó.

Ưu du tĩnh tọa dã tăng gia, Ưu du là thong thả, tỉnh tọa là ngồi yên. Thong thả ngồi yên đó là tư cách của người tu, người xuất gia, của tăng gia.

Vậy khi chúng ta tu vào rừng sâu, ở chỗ vắng lặng, rồi đi hành, ngồi tọa thiền, đó là tư cách, là thái độ của người tu.

Khuých tịch an cư thật tiêu sái! Yên ở chỗ vắng vẻ đó thật là vui tuyệt, vui vô cùng. Quý vị  được cái vui đó chưa?

Bây giờ, chẳng những là cư sĩ mà người tu chúng ta bắt bỏ vô rừng ở chỗ vắng một thời gian thì sao? Xách gói chạy về thành thị liền, ở đó buồn quá, nghe tiếng cọp rống, nghe tiếng chim kêu, rồi nhớ nhà, nhớ chùa, không an ở được chỗ vắng vẻ. Đừng nói là một mình, mà ở chỗ vắng vài ba huynh đệ cũng là buồn nữa, huống là một mình yên ở chỗ ấy.

Còn ở đây khi chúng ta thấy được lý vô sanh rồi, thì ở chỗ vắng vẻ yên tịnh, núi sâu, rừng rậm mà chúng ta rất là vui, rất là tự tại. Quý vị  thấy cái vui của người đạt đạo, với cái vui của người thế gian khác nhau quá. Một bên thì tìm cảnh ồn náo vui chơi cho đó là vui. Một một bên thì vào núi sâu rừng rậm, ngồi một mình tỉnh tọa, đó là vui, vui tuyệt.

Như vậy cái vui bên ồn náo, và cái vui bên tịch tĩnh vắng lặng hai cái vui nó khác nhau chỗ nào? Cười thì cũng vẫn cười, vui thì cũng vẫn vui. Nhưng bên này vui trong cái khổ, còn bên kia vui trong lý vô sanh.

Vui trong cái khổ là gì? Thí dụ quý vị  đi coi đá bóng vui không? Nếu người ta đá trái bóng vào lưới đội kia thì mình vổ tay ầm ỉ lên, thì trong đó có những người đau khổ không? Nghĩa là hai bên, một bên vổ tay thì hoan hỉ lắm mừng lắm, còn bên thua thì rầu khổ. Như vậy cái vui trong cái khổ, chớ không có cái vui thật.

Gần nhất là quý vị  vào rạp hát để xem tuồng hát, tuồng ca, cải lương chẳng hạn. Khi sắp mua vé vào rạp vui không? Đi chơi giải trí vui. Nhưng vô đó rồi đôi khi quý vị  có khóc không? Gặp mấy cô đào thương làm cái gì buồn quá bắt chước khóc theo. Như vậy thật vui không, hay vui trong cái buồn, vui trong cái khổ?

Vậy tất cả cái vui của thế gian là vui đối đải, bên cạnh cái vui là có cái khổ, chớ không có cái vui trọn.

Còn cái vui của người thấy đạo ở nơi vắng vẻ đó là vui mà không có khổ? Tại sao vui? Bởi vì những niệm dấy lên tạo nghiệp sanh tử nó đã lặng hết rồi. Niệm tạo nghiệp sanh tử không còn nữa thì còn lại cái gì? Hết buồn, hết vui, hết thương, hết ghét rồi, thì như vậy chỉ còn thuần một điều là nhàn hạ, thảnh thơi, không một niệm gì thương ghét giận hờn. Cái vui thanh nhàn, cái vui tự tại đó có khổ một bên không? Không có. Bởi vậy cái vui đó mới là vui thật.

Còn cái vui đối đải nó không thật đâu, vui bên cái khổ. Nhất là những người đánh quyền với nhau, bên này hạ được bên kia thì vổ tay mừng thắng trận. Nhưng mừng thắng trận đó, thì có một người muốn ói ra máu. Như vậy mình vui trong cái đau khổ chớ có vui thật đâu, mà thế gian cứ tìm cái vui như vậy gọi là giải trí. Giải trí trong cái đau khổ, chớ không giải trí thật là vui.

Vui của người tu là vui gạn lọc hết những tâm tư ghét thương, buồn phiền, giận thù..v.v… lặng hết không còn, chỉ một thảnh thơi nhàn hạ, tâm nó an nhàn, tự tại. Cái vui đó mới là vui thật, vui đó là vui của người tu. Cho nên ngài dùng từ thật tiêu sái tức thật là vui tuyệt, không có cái gì bằng, không có đối đải.

Chúng ta hiểu được cái vui của người tu và cái vui của người đời hai bên nó khác nhau. Mà cái vui của người tu, nó không có cái khổ bên cạnh. Còn vui của người đời thì đều có cái khổ một bên.



CHÁNH VĂN :

 

Giác tức liễu, bất thi công,

Nhất thiết hữu vi pháp bất đồng.

Trụ tướng bố thí sanh thiên phước,

Do như ngưỡng tiễn xạ hư không.

 

GIẢNG :

 

Giác tức liễu, bất thi công, nghĩa là mình giác ngộ là xong không cần dụng công gì nữa hết. Câu này nghe hơi khó. Giác ngộ là xong không cần dụng công gì.

Đây tôi thí dụ cho quý vị  dễ hiểu. Như mình thấy thân này là thật, thì lúc đó mình giác hay mê? Nếu thấy thân là thật tức là mê. Tại sao mê? Nó không thật mà tưởng là thật. Quý vị  nghĩ thân thật không? Nếu thật thì nó phải còn hoài. Bây giờ chúng ta nhìn từ chặng đường, ông cha chúng ta những người trước giờ còn đủ hết không? Vậy ngày xưa còn gọi là thật, chừng mất đi gọi là sao? Thật hay giả? Nếu thật thì trước thật, sau cũng thật, thật thì còn hoài. Trước có, bây giờ không, thì thật được không? Đó là nhìn ngược chiều theo dòng lịch sử ông cha mình thì thấy những người đã qua, qua rồi mất, qua rồi mất, từng đợt. Tới mình rồi sao nữa, mình cũng qua rồi mất nữa. Người trước qua rồi mất từng đợt, mình cũng qua rồi mất thì một chuỗi dài đó thật hay giả? Nếu thật thì chuỗi dài đó còn nguyên, còn chuỗi dài đó qua rồi mất thì làm sao nói thật được.

Đó là nói những lớp trước, lớp kế và lớp sau nhìn lại thì lớp trước không còn. Có mặt rồi mất, có mặt rồi mất, vậy mà chúng ta nói thật. Thật được không? Rồi nhìn lại lớp ngang với mình, những người sống được năm sáu mươi tuổi, nhìn lại lớp ngang của mình coi có mất người nào chưa? Mất khá nhiều rồi chớ, mất anh mất chị, mất em, mất cháu gì cũng có mất hết, lớn mất, nhỏ cũng có mất. Như vậy người ngang mình họ cũng đã mất. Họ có đồng thời với mình bây giờ họ mất mình còn, họ mất coi như giả dối rồi, mình còn thì thật được không? Hai món đồ giá trị ngang nhau đang ở kề nhau, cái biết nó giả thì cái này thật được không? Cũng không thật, vậy mà tưởng thật có phải mê không? Quý vị  xét thật kỹ thấy chúng ta đang mê muội đáng thương.

Như vậy xét từng chặng đường những người đi trước thì đã qua mất, xét ngay hiện thời của mình người mình đã biết có bao nhiêu người đã mất rồi. Vậy chúng ta còn lại chúng ta thật được à. Ai mất rồi là giả, ai còn là thật được sao? Chỉ thật hơn là nó dài hơn một chút thôi, chớ làm sao nói thật được. Vậy mà chúng ta khi còn thở, còn đi lại được thì nói thật, thật một trăm phần trăm, động tới thì sân si đùng đùng lên, nổi giận nổi nóng lên. Bây giờ quý vị  thấy rõ, đang sống mà biết mình giả thì người ta chửi có giận không?

Vậy giác tức liễu, giác ngộ rồi thì mọi việc giải quyết xong hết. Tại vì mê, mê cái giả mà tưởng là thật nên tu hoài trần ai lai khổ, nghĩa là họ động tới thì mình phản ứng rất mạnh là tại vì mình chấp mình thật. Nếu mình biết mình tạm giả, thì động tới mình cười thôi có ra gì, chuyện đó là chuyện thường. Nhất là động tới danh dự của mình đó, họ chê họ khinh bỉ, có giận không? Tất cả cái mà chúng ta đặt là danh dự của mình, là cái gì nó ở đâu? Chẳng qua là một chuỗi dài của người xưa tạo cho mình một tưởng tượng danh dự của tôi đó. Danh dự tôi không biết cái gì. Như vậy khi chúng ta lầm mê thân, lầm mê danh dự, lầm mê bản ngã thì không biết bao nhiêu phiền hà, bởi vậy nên tu hết sức là khó. Người ta nói anh đó ngu quá, chạm tới danh dự tôi rồi đó.

Phật có chạm tới danh dự mình không? Phật nói mình si mê, là vô minh thì có chạm danh dự không? Sao mình không giận Phật, mà người khác nói một chút liền nổi giận đùng đùng lên. Quý vị  thấy rõ ràng là chúng ta đang điên đảo, không có một cái nhìn tường tận thấu đáo, gọi đó là mê. Bởi mê cho nên rồi tất cả những cái gì đến với chúng ta, thì chúng ta đều chấp chặt bám giữ nên hết sức khó tu. Bây giờ, mình giác ngộ thân này là giả, thân giả thì tất cả những cái gì quanh nó, bên cạnh nó cũng giả theo thì mọi việc khỏi cần tu nó cũng sạch hết. Giờ quý vị  làm cái đó thử coi nó sạch được không? Ai chửi nói tôi còn giả huống nữa lời chửi. Như vậy thì có nhẫn nhục có gì đâu. Cho nên giác tức liễu bất thi công, nghĩa là giác ngộ là xong, khỏi cần phải công phu gì hết.

Giá trị của người tu Phật là ở chỗ giác ngộ. Chúng ta giác ngộ thì mọi cái khó, khó thắng, khó nhẫn đều dễ như trở tay, không khó chút nào hết. Nếu chúng ta mê thì thật là cái gì cũng khó, khó đủ hết. Thua một lời nói cũng không nhịn, hơn một lời nói thì mừng, cứ như vậy mà khổ hoài, từ khổ này kéo sang khổ khác. Cho nên người biết tu là người phải giác ngộ.

Quý vị  nói là đệ tử Phật là đệ tử bậc giác ngộ, mà đệ tử bậc giác ngộ thì không giác được trăm phần trăm, tối thiểu cũng giác được vài chục phần trăm. Thế mà dường như y nguyên. Bởi vậy quí Phật tử nghe huynh đệ mình nói, tu mười năm hai mười năm mà sao phiền não không hết, thì đánh giá người đó tu mà chưa giác ngộ, vì chưa giác ngộ nên phiền não làm gì hết. Chỉ biết tụng kinh gỏ mỏ mà không biết giác ngộ; không biết giác ngộ, không giác ngộ thì xứng đáng đệ tử Phật chưa?

Đó là những cái mà tôi đặt ra cho quý vị  thấy cái tu của mình nó nằm ở chỗ nào, khác với người đời ở cái gì. Chúng ta cứ tưởng tượng dụng công nhiều, hoặc xử sự với mọi người bằng cách biết nhẫn, biết nhịn là tu khá rồi. Nhưng nhẫn nhịn mà thấy nó thật thì về nhà cũng buồn lắm, bửa nay nói câu đó ráng nhịn chớ còn trong lòng uất ức chưa yên. Còn mình biết mình là giả, thân này giả thì người nào có chê có khen cũng là đùa chơi chớ không gì hết, thành ra không có gì uất ức, không có gì bực bội trong lòng hết. Đó là trò đùa con nít mà có gì.

Câu này mới nghe thì thấy thường nhưng đi sâu rồi mới thấy giá trị người biết tu. Nếu mình giác là xong không cần phải dụng công gì nhiều hết.

Nhất thiết hữu vi pháp bất đồng.

Trụ tướng bố thí sanh thiên phước,

Hai câu này để đánh thức chúng ta. Nói rằng tất cả pháp hữu vi, hữu vi là đối với vô vi. Tôi giải thích hữu vi cho quý vị  hiểu. Trong nhà Phật nói hữu vi là cái gì có đủ bốn tướng sanh, trụ, dị, diệt. Như con người sanh già bệnh chết là pháp hữu vi, quả địa cầu có thành trụ hoại không là thuộc pháp hữu vi. Tất cả sự vật có hình có tướng đều trải qua bốn tướng đó đều là pháp hữu vi, vì có trong tạm bợ rồi mất nên gọi là pháp hữu vi.

Nhất thiết hữu vi pháp bất đồng, là tất cả pháp hữu vi nó không đồng. Không đồng là nó không còn mãi, mà có lớn có nhỏ, có sanh có diệt, một chiều chuyển biến không dừng.

Trụ tướng bố thí sanh thiên phước, nếu người nào trụ tướng bố thí thì được phước sanh cõi trời.

Quý vị  chịu không? Thích bố thí đời sau được sanh cõi trời, chắc đa số thích rồi. Đời này làm việc bố thí, đời sau sanh cõi trời tha hồ mà hưởng. Muốn ăn có ăn, muốn mặc có mặc, muốn dùng cái gì thì có cái ấy sẳn sàng hết, không có thiếu, không có cái gì mà không thỏa mãn mình. Như vậy là ai cũng thích sanh cõi trời.

Nhưng ở đây ngài nói mình trụ tướng bố thí, thí dụ đem một triệu đồng giúp người nghèo, người tàn tật… thì khi mình thấy đồng tiền mình quí và mình làm cứu giúp được người kia một phần nào, cái gì đó mình cũng cho là quí. Như vậy đó là mình trụ tướng bố thí. Trụ tướng bố thí thì kết quả làm sao? Mình được phước sanh lên cõi trời, sau muốn cái gì được cái nấy. Như vậy thì thoả mãn được cái nguyện vọng của mình, thụ hưởng phước mình đã tạo.

Do như ngưỡng tiễn xạ hư không.

Ở đây người thí dụ như là mũi tên hay viên đạn bắn lên hư không. Khi bắn thì nó vọt tuốt lên hư không, nhưng khi sức đẩy hết thì rơi tuột xuống không có giữ được.

Bây giờ tôi nói gần, thí dụ như những người ở trên thế gian được địa vị cao, tiền của nhiều, sung sướng muốn gì được nấy, thì những người đó tu được không? Ở địa vị đó thụ hưởng, thụ hưởng hết rồi tuột xuống.

Đó là nói thế gian thôi, huống nữa là cõi trời còn sung sướng hơn nhiều. Nghĩa là muốn ăn ngon thì có cái gì đó đúng sở thích ăn ngon của mình, muốn mặc đẹp thì cái gì đúng sở thích mình mặc vô hài lòng. Rồi cả ngày nghe ca nghe nhạc đủ thứ hết, cái gì vui chơi đều có đủ, mà người ta nói nhạc trời hay hơn nhạc thế gian nữa. Như vậy thì say mê tít mù không có tuột xuống, hưởng cho đả đời còn thời giờ đâu mà tu. Cứ lo hưởng, hưởng hết rồi cái thôi, chừng đó hết phước thì tuột xuống nhân gian trở lại như thường.

Như vậy một thời gian mười ngàn năm, hai chục ngàn năm được sanh cõi trời là thời gian hưởng, hưởng hết rồi tuột xuống, chớ không có tiến được nữa. Cái đó hết rồi sẽ tuột cũng như viên đạn hay mũi tên bắn cao lên, còn sức thì nó còn lên, hết sức rồi nó tuột xuống tận dưới. Như vậy thì quý vị  thích lên cõi trời không? Lên hưởng sướng quá mà, lên đó là được hưởng.

Nhưng Đức Phật khuyên chúng ta không nên nguyện sanh lên cõi trời. Tại sao vậy? Bởi vì ở trên đó mấy ngàn năm là mấy ngàn năm thụ hưởng, thụ hưởng hết rồi tuột xuống. Bây giờ tôi hỏi quý vị, hằng ngày chúng ta được ăn cao lương mỹ vị, mặc gấm vóc, được tất cả, cái gì thế gian cho là đẹp mình được hưởng hết, mà hưởng hết rồi tới chết. Hưởng cho đủ rồi chết thì quý vị  nghĩ làm sao? Hạnh phúc chưa? Có người họ thiếu thốn quá họ tưởng được hưởng như vậy là hạnh phúc.

Với cái nhìn của đức Phật thì hưởng đó là tạm bợ cho thể xác tạm bợ, không có cái gì quan trọng, không có gì lâu dài. Chúng ta cứ muốn hưởng cái tạm bợ đó, khi thân tạm bợ này rả tan thì bao nhiêu cái hưởng thành cái gì? Ăn ngon, mặc đẹp cái gì cũng sang trọng hết, nhưng khi tắt thở vài tiếng đồng hồ còn sang trọng không? Nó chỉ là cái giả tạm, mà mình thích giả tạm đó là mình hưởng hết rồi nó cũng trở lùi cái xấu xa, cái tệ hại chớ không gì hết. Lên cõi trời cũng vậy, lên đó hưởng cho đả rồi hết tuột xuống, như vậy mất mấy ngàn năm không làm gì hết, ăn ngủ không. Mấy ngàn năm ăn ngủ không có nghĩa lý gì hết, rồi cũng tuột xuống như thường.

Chi bằng ở cõi trần gian này có khi thì khổ, có khi vui. Gặp vui thì mình hơi say sưa quên, gặp lúc khổ thức tỉnh à đời này khổ quá ráng tu. Vì mình có chứng kiến, có nhận ra được cái đau khổ đó rồi, nên không quyến luyến cõi đời nữa, mà cố gắng tu. Như vậy trong mấy chục năm, chúng ta sống ở đây, có vui có khổ lẫn lộn rồi chúng ta dễ tỉnh. Từ dễ tỉnh đó chúng ta có thời gian tiến tu. Vậy thời gian ở đây ngắn mà chúng ta còn tìm cách vươn lên được, còn thời gian cõi trời rất dài mà thụ hưởng rốt rồi tuột xuống như không, mất hết trơn công phu của mình uổng không.

Vì vậy Phật không muốn chúng ta tu cầu sanh cõi trời, mà muốn chúng ta tu cầu giác ngộ giải thoát sanh tử mới là quan trọng.

Đây dùng thí dụ để hiểu rằng mình có bao nhiêu phước được hưởng, được say sưa trong đó nhưng rốt cuộc cũng tuột xuống thành hai bàn tay không, không có gì. Còn chúng ta ở đây mà sớm tỉnh, thì chúng ta sẽ có phước để vươn lên. Bởi vậy câu sau ngài nói:



CHÁNH VĂN :

 

Thế lực tận, tiễn hoàn trụy,

Chiêu đắc lai sanh bất như ý.

Tranh tự vô vi thực tướng môn,

Nhất siêu trực nhập Như Lai địa.

 

GIẢNG :

 

Thế lực tận, tiễn hoàn trụy, là thế lực hết rồi thì mũi tên cũng rơi xuống trở lại.

Chiêu đắc lai sanh bất như ý, là chừng đó mình mới chuốc lấy những đời sau không được vừa ý.

Ở cõi trời sung sướng quá, rồi tuột xuống đây làm người phàm tục trở lại, rồi cũng buồn thương giận ghét, đói thiếu đủ thứ khổ không như ý nữa.

Như vậy thì tất cả cái phước hữu lậu là phước được rồi sẽ mất, cho nên trong nhà Phật dùng từ bố thí “tam luân không tịch”. Tam luân là mình là người bố thí, người nhận của thí và món đồ thí đều thấy ba cái đó không thật, như huyễn hoá, không có gì chấp. Làm tất cả mà không chấp không thấy nó thật, thì cái đó gọi là bố thí ba la mật đó, cứu kính đó. Bố thí mà mình thấy đồng tiền mình thật, người bệnh kia mình giúp hết bệnh thật, rồi mình vui mừng thì đó là bố thí hữu lậu, còn sanh diệt. Cái nào cũng có kết quả hết, kết quả của sanh diệt, còn cái này kết quả của vô sanh, hai hành động khác nhau chỗ đó.

Cho nên mình tu phải làm sao vượt qua tướng hữu vi là tướng sanh diệt đó, để đi tới tướng vô vi là không sanh không diệt. Nghĩa là không còn thành trụ hoại không hay là sanh già bệnh chết…, đó là tướng vô vi.

Ở đây nói:

Tranh tự vô vi thực tướng môn,

Nhất siêu trực nhập Như Lai địa.

Ở trên mình làm được tướng hữu vi, làm thì được có kết quả nhưng kết quả trong hữu vi, mà được rồi cũng phải mất chỉ trong thời gian ngắn hoặc dài thôi, chớ không phải được hoàn toàn viên mãn. Ở đây về phước vô vi hay tu vô vi, vô vi là tu không phải theo đạo vô vi, mà tu vô vi là không chấp tướng, không trụ nơi pháp. Đó là vô vi, thực tướng môn, là cửa thực tướng.

Nhất siêu trực nhập Như Lai địa, một phen thẳng lên rồi nhập được vào đất Như Lai tức là đất Phật là đất bất sanh bất diệt.

Như vậy quý vị  thấy chúng ta đuổi theo tìm kiếm được bao nhiêu cái sanh diệt, diệt rồi sanh rốt cuộc cũng không đi tới đâu.

Thí dụ như người tu phước làm những việc lành việc phước, tạo được những công đức lớn đời sau sanh lên cõi trời sống một ngàn tuổi, hưởng hết ngàn tuổi rồi tuột xuống trở lại. Như vậy lên rồi xuống. Trở xuống đây rồi ráng tu phước nữa, rồi chết sanh cõi trời hưởng ngàn năn nữa rồi tuột xuống trở lại. Như vậy đi lên, đi xuống chừng một trăm lần, có bước được mấy bước xa không? Lên rồi cuối cùng cũng tuột xuống chỗ này, tuột xuống chỗ này rồi lên nữa rồi tuột xuống nữa, rốt cuộc một trăm lần lên như vậy rồi cũng ngồi y nguyên dưới này chớ không có gì hết.

Nhưng một khi mình đi thẳng vào chỗ vô sanh mình không còn trở lại nữa, không bị sanh tử lôi kéo nữa thì đó gọi là thực tướng môn tức cái cửa chân thật, mà cửa chân thật đó là cửa vô vi tức không sanh không diệt, không có thành trụ hoại không, không có sanh già bệnh chết..v.v…

Như vậy chúng ta tu cũng làm thiện, bây giờ tôi nói để nhiều khi quý vị  hiểu lầm, người tu về hạnh vô vi hay hạnh giải thoát có làm việc bố thí không, có làm việc phước đức không? Vẫn làm tất cả nhưng làm để mà làm chớ không có hưởng, không có mong mình hưởng hai bên. Mình làm mà có hậu ý được hưởng, thì khi thấy có ai nghèo đói mình giúp đở họ. Họ qua cơn nghèo đói rồi, mai mốt họ làm ăn khá giả, họ thấy mình không thèm chào thì có giận không? Ngày xưa khổ sở được mình giúp, bây giờ khá rồi thì không nhìn há, khinh miệt đồ. Như vậy làm phước của mình còn mong cái gì đền trả, mà họ không biết đền trả thì nổi sân lên.

Còn mình làm, anh đói tôi giúp anh rồi thôi, không nhớ cái mình là người ban ân, kia là kẻ thọ ân, mà không nhớ như vậy thì làm mình tất cả mà không có gì ở mình hết. Như vậy mai mốt họ gặp mình chửi cũng cười thôi, không có gì giận hờn.

Còn mình làm mà có hậu ý người đó phải biết ơn mình rồi để đền đáp lại, ngày nay anh nghèo tôi giúp, ngay mai khá anh phải giúp lại tôi; nếu ngày mai khá không giúp thì nổi tức lên liền. Như vậy cái giúp đó là giúp có hậu ý mà trong nhà Phật gọi là phước hữu lậu, phước đó nó hết không còn hoài. Còn mình làm tất cả mà tâm mình thản nhiên tự tại, thì đó là phước vô vi không sanh diệt.

Như vậy quý vị  muốn làm phước nào? Bây giờ chẳng những làm rồi mai kia gặp lại họ không biết ơn mình giận. Mà làm bố thí chỗ này giúp được một trăm người đói, nhóm khác giúp được một trăm người đói, rồi về nhóm sau được đăng báo còn mình không được đăng báo giận không? Như vậy mình hữu vi hay vô vi? Chỉ một chút đó thôi, đừng nói những người được mình trực tiếp giúp họ không biết ơn mình, như vậy chúng ta bây giờ đang kẹt trong hữu vi hết trơn. Bởi vậy làm rồi trông được khen, rồi làm nhiều ít bửa được nhà nước khen thưởng, gắn huy chương thì thôi phấn khởi vô cùng. Nếu làm mà không ai ngó ngàng tới, làm một hồi chán, làm phước như vậy đó mà không ai biết. Vậy mình làm đòi người khác biết là hữu lậu hay vô lậu?

Cho nên người Phật tử chân chánh làm tất cả mà không cần ai biết tới. Sẳn sàng giúp người đói, giúp rồi thôi không nhớ; sẳn sàng cứu người tật bệnh, cứu rồi thôi không nhớ. Không cần ghi sổ tay nay tôi cứu được người này, mai tôi cứu được người kia, cuối năm tính lại để được khen thưởng. Đó là tướng hữu vi, không phải là người làm với tâm giác ngộ. Mình giác ngộ thì thấy kẻ khổ mình thương, sẳn sàng có lòng từ bi cứu giúp mà giúp rồi thôi không nhớ, không mong mõi phước gì đến với mình. Làm tất cả mà không trông đợi, không cầu mong đó là phước vô vi. Cũng việc bố thí mà một bên hữu vi, một bên vô vi, một bên nằm trong sanh diệt, một bên thoát ra sanh diệt, tăng trưởng công đức giải thoát sanh tử.

Như vậy bên bố thí mà không mong cầu, bố thí mà không muốn đền trả thì có kết quả gì không? Bố thí mà không mong cầu, không muốn đền trả, làm rồi buông không nghĩ gì hết, thì có phước hay không? Nhiều khi quý vị  lại nghĩ, mình còn nhớ mình bố thí, mình nhớ mình giúp ai ai đó thì mới có phước. Bây giờ làm rồi không nhớ gì hết thì đâu có phước, phải không? Thật ra không phải vậy, không nhớ gì hết phước còn to hơn. To là to làm sao? Bởi vì mình làm tất cả điều lành, tất cả điều thiện mà tâm không bận nghĩ tới người đền ơn, người khen thưởng gì hết, thì đó là tâm thênh thang rộng rãi, mà tâm thênh thang rộng rãi thì phước cũng thênh thang, không có nhỏ. Còn người hơi hẹp hòi, thì phước cũng hạn chế theo tâm hẹp hòi của họ.

Thí dụ như quí Phật tử, thấy một người đang gặp hoạn nạn đau khổ, mình có khả năng tới đâu giúp. Giúp rồi thôi không cần nhớ, không cần nhắc, mà người đó là người biết ơn thì họ có quên ơn mình không? Họ vẫn biết ơn, chớ đâu phải nhắc. Còn mình giúp cho họ rồi, ít bửa lại nhắc hôm đó anh nguy quá tôi có giúp anh. Nếu hỏi bửa đó họ không tỏ ra qúi kính mình thì mai mốt nhắc nữa thì như vậy thì lòng của người được thọ ơn họ có thấy mình rộng rãi không? Như vậy mới thấy tâm của con người rộng rãi thênh thang thì phước cũng mênh mông, còn tâm người hẹp hòi ít kỷ thì phước cũng hạn chế theo đó, được thì có được mà cũng trong phạm vi đó thôi chớ không có rộng rãi.

Bởi vậy người có phước làm việc lành việc phước mà không quan tâm không để ý, nhưng trên đường tu của họ thì mọi việc đều trôi chảy. Làm cái gì lợi chúng sanh thì họ làm được đầy đủ không trở ngại thì như vậy có phước không? Vì phước đó là sức mạnh, là trợ lực cho họ tiến trên con đường đạo cho viên mãn. Nhiều người ít phước thì được đi tu, mà làm gì trục trặc nấy, muốn làm mà làm không được thì như vậy là họ thiếu phước. Phước đó không phải là phước họ cầu cạnh người ta trả, nhưng vì họ làm mà không có được cái tâm rộng rãi, nên rồi phước lớn không có.

Vì vậy hiểu đạo lý rồi, nhìn trong đạo mình thấy thương. Có nhiều người tu cũng kỷ lắm, hạnh cũng tốt lắm, mà muốn cất cái chùa không có tiền cất, tội nghiệp không thấy thương. Có người thì tu cũng vừa phải thôi mà người này cúng chùa, người kia cúng chùa mà chùa tốt nữa, thì mình thấy làm sao? Có ức không? Tại sao người này tu ít mà hưởng được nhiều, người kia tu nhiều mà lại khó khăn vậy? Đó thì mình cứ ngở vậy, nhưng không ngờ cái phước của người kia đã sẳn, họ làm mà họ tính gì hết. Bây giờ đây họ phát tâm tu thì mọi cái chướng không có, mọi thuận duyên đầy đủ, người ta làm được việc lớn. Cho nên người biết vậy rồi, ở trong đạo đừng có nghĩ rằng người này tại sao tu mà làm trục trặc, người kia tu mà tại sao làm dễ dàng. Đó là phước duyên của mỗi người, dầu họ không cầu mà nó cũng vẫn đến như thường.

Hiểu như vậy quý vị  mới thấy cái phước nó không mất, chớ đừng ngở rằng mình không nghĩ, mình không nhớ phước thì phước không có. Đừng nghĩ vậy. Không nghĩ không nhớ là tâm thênh thang, mà tâm thênh thang thì phước cũng mênh mông chớ không có giới hạn. Đó là tôi nói cho quý vị  hiểu thêm.



Nhất siêu trực nhập Như Lai địa.


ĐƯỜNG SANH TỬ NHIỀU NGUY HIỂM

 

Đường vào vườn giác ngộ có nhiều cửa, hành giả trước tiên phải lấy tâm đại Bồ Đề làm khởi điểm chánh chân, rồi tùy căn cơ sở thích, muốn tu theo pháp môn nào cũng tốt. Trên đường tu, nếu luận về "căn cơ" thì môn Tịnh Độ bao gồm cả ba căn thượng, trung, hạ; chẳng những hạng phàm thường, mà các bậc Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ đều nguyện vãng sanh. Nếu luận về "thời tiết" thì thời mạt pháp này chúng sanh phần nhiều tâm tạp chướng nặng, môn Tịnh Độ dễ thật hành, lại có thể trong một đời được vãng sanh giải thoát. Nhưng, nếu luận về sở thích, thì riêng môn Tịnh Độ không thể thỏa mãn được hết mọi người, vì thế đức Như Lai mới nói nhiều pháp môn. Đại khái như những vị có tâm hùng tráng, ưa sự giản dị trực thiệp trong sáng, thì thích về Thiền Tông. Những vị ưa sự thần thông linh ứng kỳ bí, thích tu về Mật Tông. Những vị ưa lý luận, cần phân tích cho xác thật rành rẽ mới chịu tin tưởng làm theo, thích tu về Duy Thức Tông... Trong mỗi tông lại có nhiều chi tiết khác biệt, mà mỗi người hành trì không giống nhau.

Tuy nhiên, trong đời Mạt Pháp, hành giả đã phát đại Bồ Đề tâm thề độ mình độ sanh, mà muốn bảo đảm cho tâm ấy thành tựu không bị thối thất; dù tu các môn khác, cũng nên kiêm hành Tịnh Độ để cầu vãng sanh. Tại sao thế? Trong đây có ba sự kiện thiết yếu, xin tuần tự kể phần đại lược:

 

Trong nẻo sống chết luân hồi, có nhiều hiểm nguy chướng nạn cho đường tu. Muốn thoát cảnh hiểm luân hồi để bảo đảm tâm Bồ Đề không thối thất, phải cầu sanh Tịnh Độ. Đây là sự kiện thiết yếu trước tiên, mà hành giả cần lưu ý.

Tiên đức hằng răn nhắc: "Nếu tu mà không chuyên cầu giải thoát, thì sự tu nơi kiếp này là mối thù trong kiếp thứ ba." Sở dĩ có việc ấy, bởi kiếp thứ nhứt lo kham khổ tu hành, nên chuyển sanh qua kiếp thứ nhì được hưởng quả báo thông minh giàu sang quyền thế. Trong kiếp thứ hai này, do giàu sang nên dễ mê theo cảnh quyền quý, vợ đẹp con xinh, cùng các thú vui vật chất nơi cõi trần. Đã nếm mùi dục lạc tất dễ sanh đắm nhiễm, càng đắm nhiễm càng đi đến chỗ sa đọa tối tăm, dám làm nhiều điều ác để củng cố lợi quyền và thỏa lòng tham vọng. Kiếp thứ nhì đã gieo nhân như thế, kiếp thứ ba làm sao khỏi bị đọa lạc tam đồ?

Có kẻ gạn: "Kiếp trước đã có công tu gieo nhân tốt, không lẽ sang kiếp thứ nhì trí huệ căn lành đều mất, để đến nỗi phải bị đọa hay sao?" - Xin đáp: "Căn lành tuy có, nhưng nghiệp ác từ vô lượng kiếp chưa phải đã tiêu trừ. Mà trong cảnh trần, việc lành rất khó làm như leo lên cây cao, điều ác rất dễ phạm như tuột xuống dốc lở. Người xưa đã chẳng bảo: ‘Trọn đời làm lành, lành còn chẳng đủ; một ngày làm ác, ác tự có dư’ đó ư? Như những người giàu sang quyền thế mà chúng ta hiện thấy, kiếp trước họ đều có ít nhiều công đức bố thí tu phước làm lành, nhưng kẻ hướng về nẻo thiện không bao nhiêu, người say đắm danh lợi vinh hoa lại chiếm phần đa số. Thử hỏi có mấy vị đỗ cao quyền quý chịu xuất gia, sống một cuộc đời khắc khổ đạm bạc, hướng về mục đích giải thoát thanh cao? Ngay như người xuất gia, khi chưa có địa vị còn kham nhẫn tu hành, lúc đã được quyền danh, nhiều kẻ lễ bái tôn trọng cúng dường, lại dễ bị cảnh phù trần ràng buộc. Hiện tại ta thấy có biết bao hàng Tăng Ni thiện tín, trước còn tinh tấn hành trì, sau lần lần biếng trễ bỏ tu hoặc hoàn tục thối đạo, nói chi đến kiếp sau?"

Ở cõi người còn như thế, nếu sanh lên cõi trời cảnh vui ngũ dục quá nhiệm mầu, lại còn khó tu hơn nữa! Đó là nói những vị có phước, còn những người ít phước sống một cuộc đời nghèo khổ quá cũng khó tu. Hoặc tuy vào hạng trung lưu, nhưng giữa đời này tà đạo dẫy đầy; trong chánh pháp bậc thiện hữu tri thức khó gặp, nẻo đường giải thoát không phải dễ tìm! Đến như chúng sanh trong ba ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, thì việc tu niệm thật là khó đến muôn phần, vì các loài ấy ngu tối, thân tâm hằng ở trong cảnh khổ.

Kiếp luân hồi có nhiều hiểm nạn như thế, nếu không cầu sanh Tịnh Độ để thoát ly, tất khó bảo đảm tâm Bồ Đề không bị thối thất.

 

Niệm Phật Thập Yếu



CHÁNH VĂN :

 

Đản đắc bổn, mạc sầu mạt,

Như tịnh lưu ly hàm bửu nguyệt.

Ký năng giải thử như ý châu,

Tự lợi lợi tha chung bất kiệt.

Giang nguyệt chiếu, tùng phong xuy,

Vĩnh dạ thanh tiêu – hà sở vi?

 

GIẢNG :

 

Đoạn này nói rõ về người tu.

 

Đản đắc bổn, mạc sầu mạt, là chỉ được cái gốc chớ buồn về cái ngọn. Mình chỉ cần cái gốc chớ không nghĩ lo về cái ngọn. Vậy cái gì là gốc, cái gì là ngọn? Chúng ta tu là cốt được giác ngộ, cốt được giải thoát sanh tử là cái gốc. Nếu chúng ta tu ma cứ nói mình ít phước quá, huynh đệ đó họ có tiền làm chùa to, mình không có tiền rồi buồn đi than thở với Phật tử nói tôi tu mà vô phước quá. Đừng có buồn, mình nắm cái gốc là được. Giả sử mình không có bổn đạo, mình không có chùa to chỉ ở chòi tranh thôi, mà mình đạt được cái gốc của mình là gốc giác ngộ giải thoát, mình nắm được rồi thì không có lo buồn gì cái ngọn mình không được. Còn ai cứ than thở về cái ngọn thì người đó chưa biết được cái gốc.

Quý vị  xét thật kỹ để thấm được ý nghĩa, chúng ta tu phải phăng tận nguồn gốc mà chúng ta muốn. Có người nào cạo tóc, mặc áo nhuộm, đắp y mà không nghĩ mình tu là giải thoát sanh tử không? Hay nói tôi tu để cho bớt khổ ở đời khổ quá vô chùa thảnh thơi hơn, nghĩ vậy phải không? Ai nghĩ tệ vậy, ai mà cạo tóc xuất gia đều nghĩ rằng tất cả thế gian là tạm bợ, chúng ta xuất gia để cầu giải thoát sanh tử. Bởi vậy đắp y lên thì quý vị  đọc kệ sao? Đắp y lên là nhớ câu: “Thiện tai giải thoát phục”, mặc cái áo giải thoát. Cạo đầu, mặc áo đó là hình thức giải thoát. Đầu không còn trang sức nữa để cho người ta không thèm ngó, mặc áo này là áo giải thoát không còn bận bịu với trần tục. Như vậy người tu nào cũng là vì giải thoát sanh tử, muốn giải thoát sanh tử thì phải giác ngộ, giác ngộ thì mới giải thoát sanh tử được.

Vậy mục tiêu chúng ta nhắm đó là cái gốc, mình nhắm cái gốc đó thì giả sử mình ra đời tu hành mà phước mình ít, không ai thương sót nhiều, không ủng hộ nhiều, mình cất chòi tranh ở trong mé rừng tu. Mình thấy được gốc giải thoát đó, con đường giải thoát đó thì mình nắm được cái gốc rồi, còn chuyện chùa lớn, chuyện bổn đạo đông là cái ngọn ngành, không hận không phiền gì hết. Đó là lời nhắc nhở để chúng ta thấy mục đích chúng ta tu, nhiều khi lâu rồi quên. Hồi xuất gia thì mục đích cao cả lắm, nhưng một thời gian rồi lo chuyện này chuyện kia rồi nó tuột hồi nào không hay, cái gốc của mình mình quên tuốt, rốt cuộc mình bám vào cái ngọn, rồi khổ sở.

Vì vậy ở đây ngài bảo mình nắm được cái gốc chớ buồn cái ngọn.

Như tịnh lưu ly hàm bửu nguyệt. Như có hòn ngọc lưu ly trong sáng để ngoài trống mà trên bầu trời có mặt trăng sáng, thì chúng ta nhìn hòn ngọc lưu lý đó thấy cái gì? Mặt trăng sáng đó nằm sẳn trong hòn ngọc lưu ly. Không cần phải tới trăng mà miễn có hòn ngọc lưu ly trong sáng để ngoài trời thì mặt trăng hiện rõ trong ngọc lưu ly. Đó là thí dụ.

Nếu chúng ta được cái gốc rồi cũng như chúng ta nắm được hòn ngọc lưu ly, mà hòn ngọc lưu ly đã sẳn chúng ta để ngoài trời thì mặt trăng hiện ra đầy đủ trong hòn ngọc. Chúng ta tu tâm thanh tịnh rồi thì tánh giác tròn đầy hiện trong tâm, chớ không có mất mát đâu. Cho nên nói rằng tâm thanh tịnh thì trí tuệ hiện đủ. Vì vậy mà ngài mới dùng thí dụ hòn ngọc lưu ly và mặt trăng.

Rồi đến đây:

Ký năng giải thử như ý châu,

Tự lợi lợi tha chung bất kiệt.

Đây là dẫn ý nghĩa trong kinh Pháp Hoa, anh chàng ăn mày nghèo khổ bổng dưng gặp người bạn sang cả mời về nhà đải đằng đủ thứ, rượu chè. Sau khi ăn nhậu rồi thì anh ăn mày say sưa. Người bạn giàu có việc gấp phải đi, thương người bạn nghèo anh lấy hạt châu như ý nhét trong túi áo anh bạn nghèo, ngở rằng anh sờ vào túi lấy hạt châu thì hết nghèo. Không ngờ đi năm năm, bảy năm tới chừng gặp lại bạn nghèo thấy vẫn đi ăn mày như thường. Tức quá anh nói tôi đã cho hạt châu để trong túi áo, sao không lấy ra xài mà vẫn đi ăn mày. Anh bạn nghèo nghe vậy thò tay vô túi lấy ra hạt châu, từ đó về sau hết nghèo.

Đó là hình ảnh Phật muốn nói nơi chúng ta ai ai cũng có tánh giác, mà tánh giác đó là gốc của mình. Nếu chúng ta nhận được, chúng ta biết được thì chúng ta hết khổ. Còn có tánh giác mà bỏ quên đi không nhớ, không biết thì chúng ta khổ mãi không cùng. Anh chàng đó nếu hết cơn say thò tay vào túi lấy hòn ngọc ra thì đâu cần người bạn gặp lần thứ hai chê anh, rầy anh mà tại vì anh quên. Quên đó là gì? Là mê. Như vậy chúng ta có hòn ngọc quí ở trong đây, mà chúng ta không biết.

Đây tôi nói cho quý vị  thấy cái mê của mình thật là đáng thương. Như hiện giờ chúng ta có tánh giác như Phật đã nói: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành”. Sẽ thành tức là khả năng mình cũng sẽ được như Đức Phật. Đó là Phật thầm bảo rằng các ngươi sẳn có tánh giác như ta sẳn tánh giác. Ta sẳn tánh giác mà ta biết khơi dậy thì nó sáng suốt giác ngộ thành Phật. Các ngươi có tánh giác mà bỏ quên thì thành chúng sanh.

Như vậy thì chúng ta có tánh giác mà cứ quên, lại chỉ nhớ hai cái hà. Nhớ cái gì? nhớ cái thân. Thân này là gì theo lời Phật nói? Là cái thây thúi, nhớ cái đó cho là mình. Rồi kế nhớ cái gì nữa? Nhớ cái tâm lăng xăng lộn xộn; thương ghét, buồn giận là tâm mình. Một thây thúi và một cái sanh diệt như chong chóng không dừng mà cho nó là mình. Bám vào hai cái tạm bợ giả dối đó cho là mình rồi quên cái chân thật của chính mình, bởi quên cái chân thật của chính mình nên lăn lộn muôn kiếp không ra khỏi.

Vậy chúng ta tu là để làm gì? Để thấy rõ thân này là thây thúi hay thân này là sự sống tạm bợ chốc lát không bền; rồi biết tâm lăng xăng buồn thương giận ghét đó chỉ là tâm giả dối, chợt còn, chợt mất không thật. Biết rõ hai cái đó thì chúng ta còn chấp, còn khổ không? Không chấp thân thật, không chấp tâm thật thì còn khổ không? Không chấp thân thật, không chấp tâm thật thì cái chân thật hiện ra. Còn bây giờ mình cứ chấp cái này thật, cái hơn thua phải quấy thật thì muôn đời không thấy được cái chân thật. Đó chúng ta quên, chúng ta mê. Chúng ta muốn hết quên, hết mê thì phải làm sao cho cái thật hiện ra.

Bởi vậy nhiều khi Phật khéo mà Phật tử không biết. Phật dạy ráng niệm Phật. Niệm Phật để làm chi? Cuối cùng mục đích niệm Phật tới đâu? Nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn thì tâm lăng xăng chết mất rồi, thì đó là để đi tới chỗ cứu kính là nhắm mắt thấy Phật hiện tiền. Còn người tu thiền, ngồi yên tỉnh buông xả vọng tưởng để làm chi? Cũng đi tới cuối cùng là tâm lăng xăng lặng đi, lặng đi thì gọi là định, mà định thì trí tuệ sáng lên. Như vậy thì hai bên hành động khác nhưng mục đích không khác. Bởi vì bên này mượn câu niệm Phật đập chết tâm vọng tưởng, bên kia mượn cái yên tỉnh nhìn thấy từng đợt vọng tưởng lên buông xả , buông xả nó rồi nó cũng mất. Như vậy cốt làm sao đừng chấp nhận tâm sanh diệt đó là mình thì mình sẽ dừng được nhân tạo nghiệp ra khỏi vòng sanh tử. Nếu mình cứ chấp cái đó là tâm mình thật, thì muôn đời khỏi mong ra khỏi sanh tử tức là nó dẫn đi liên tục.



PHẬT THUYẾT 

 KINH A DI ĐÀ

 

NHƠN HẠNH VÃNG SANH

  

Xá-Lợi-Phất! Bất khả dĩ thiểu thiện-căn phước-đức nhơn-duyên, đắc sanh bỉ quốc.

Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu thiện-nam tử, thiện-nư nhơn, văn thuyết A-Di-Ðà Phật, chấp trì danh-hiệu, nhược nhứt nhựt, nhược nhị nhựt, nhược tam nhựt, nhược tứ nhựt, nhược ngũ nhựt, nhược lục nhựt, nhược thất nhựt, nhứt tâm bất loạn.

Kỳ nhơn lâm mạng chung thời, A-Di-Ðà Phật dữ chư Thánh chúng, hiện tại kỳ tiền.

Thị nhơn chung thời, tâm bất điên-đảo, tức đắc vãng sanh A-Di-Ðà Phật Cực-lạc quốc-độ.

Xá-Lợi-Phất! Ngã kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn.

Nhược hữu chúng-sanh văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ.

 

( Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó.


Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của Đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tạp loạn.


Thời người đó đến lúc lâm chung Đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó.

 

Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.


Xá-Lợi-Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.

 

Nếu có chúng sanh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc. )

 


HẠNH TINH CHUYÊN CŨNG LÀ ĐIỂM KHÔNG THỂ THIẾU

 

Như trên đã nói, điểm thiết yếu của môn Niệm Phật là phải phát nguyện vãng sanh. Nếu nghĩ rằng: "Ta chỉ cầu niệm hồng danh muôn đức của Phật A Di Đà cho thật nhiều, tự nhiên sẽ có vô lượng công đức; dù không vãng sanh, công đức ấy cũng chẳng mất." Nghĩ như thế là sai lầm nguy hiểm và thiếu trí huệ. Bởi có hạnh mà không nguyện thì công đức ấy sẽ biến thành phước báo ở đời sau. Đời thứ hai đã hưởng si phước tất dễ tạo nghiệp, sang đời thứ ba nhất định phải bị đọa lạc tam đồ, đó là điều sai lầm, nguy hiểm! Vì thế, ở trên mới gọi tín nguyện là "huệ hạnh".

Đã có đủ Tín Nguyện mà thiếu phần Hạnh, ví như chiếc thuyền có lái không chèo, cũng không thể vãng sanh. Có kẻ nghe nói: "Chỉ cần tín nguyện chân thiết, khi lâm chung mười niệm hay một niệm cũng quyết được sanh Tây Phương", thì liền nghĩ rằng: "Nếu như thế cần chi phải vội gấp, để lúc sắp chết niệm Phật cũng được!" Ý niệm này cũng sai lầm, bởi vì quá xem thường hành môn Niệm Phật. Phải biết, điểm quan yếu để vãng sanh, theo trong kinh văn là: "Người ấy khi lâm chung lòng không điên đảo" (Thị nhơn chung thời tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ - Kinh Phật Thuyết A Di Đà). Như quả lúc lâm chung lòng không điên đảo, thì niệm mười niệm hay một niệm cũng được vãng sanh. Nhưng ai dám bảo rằng: mình khi lâm chung lòng không điên đảo? Nếu lúc bình thời không tinh chuyên dụng công, đến khi mạng chung, bốn đại phân ly, sức nghiệp dồn dập, thân tâm bị sự khổ làm cho kinh hoàng mê loạn, sợ e một niệm cũng không thể thật hành, huống chi mười niệm? Như muốn cho khi lâm chung có phần bảo đảm, lúc bình thời hành giả phải tinh chuyên niệm Phật cho nhiều, và gắng tu tập trình độ "nhứt tâm bất loạn". Bằng chỉ đợi khi sắp chết mới niệm, trên đạo lý nói ra thì cố nhiên suốt thông, nhưng lại e trên sự thật chẳng phải là đơn giản. Cho nên các hành giả niệm Phật phải gắng dụng công, đừng lơ là khinh thường sự hành trì, mà rước lấy nỗi thất bại.


Hỏi: Tu Tịnh Độ cần phải chứng Niệm Phật Tam Muội, hoặc ít nữa đi đến cảnh giới nhứt tâm bất loạn, mới được vãng sanh. Như thế người hạ căn chưa chắc đã thực hành nổi. Vậy thì kẻ thấp kém ngu tối làm sao được sanh về Cực Lạc? Nếu kẻ hạ căn ngu tối không vãng sanh được, sao lại gọi pháp môn Niệm Phật thâu nhiếp cả ba căn?

 

- Đáp: Thật ra với căn cơ thời nay, cảnh giới nhứt tâm bất loạn trong lúc hiện tiền, còn không có mấy người đi đến, huống chi là Niệm Phật Tam Muội! Nhưng, theo Kinh Quán Vô Lượng Thọ, kẻ tạo tội ngũ nghịch thập ác khi lâm chung tướng địa ngục hiện, chí tâm xưng danh hiệu Phật A Di Đà từ một cho đến mười niệm, liền được Phật hiện đến tiếp dẫn vãng sanh. Thế thì sự nhứt tâm được vãng sanh, là chỉ cho khi lâm chung chớ không phải lúc hiện tiền. Nếu lúc bình thời niệm Phật được nhứt tâm, nhưng sau đó lại chuyển hướng tu theo pháp môn khác không cầu vãng sanh, thì làm sao được về Cực Lạc? Mà muốn được nhứt tâm khi lâm chung, thì lúc bình thời phải tập câu niệm Phật cho thuần thục. Do bình thời thường niệm Phật, dù chưa được nhứt tâm, nhưng chủng tử niệm Phật dồn chứa đã nhiều, lúc sắp chết, hành giả khởi niệm Phật nó liền phát hiện mạnh mẽ nên được nhứt tâm. Kẻ hạ căn niệm Phật được vãng sanh, thường ở trong tình trạng ấy.

 

Từ Chiếu đại sư nói: "Người tu Tịnh Độ khi lâm chung thường có ba điều nghi, bốn cửa ải, hay làm chướng ngại cho sự vãng sanh, phải dự bị suy nghĩ trước để phá trừ ba điều nghi là:


1- Nghi mình túc nghiệp sâu nặng, thời gian công phu tu hành ít, e không được vãng sanh.

2- Nghi mình bản nguyện chưa trả xong, tham sân si chưa dứt, e không được vãng sanh.

3- Nghi mình niệm Phật, Phật không đến rước, e không được vãng sanh.


Bốn cửa ải là:


1- Hoặc nhân bị bịnh khổ mà trở lại hủy báng Phật không linh.

2- Hoặc nhân tham sống mà giết vật mạng cúng tế.

3- Hoặc nhân uống thuốc mà dùng rượu cùng chất máu tanh hôi.

4- Hoặc nhân ái luyến mà tự ràng buộc với gia đình."


Đại sư nêu ra thuyết Tam Nghi Tứ Quan ở trên, bậc trí huệ có thể suy nghĩ tìm phương pháp giải quyết. 


Nay bút giả xin mạn phép nói lược qua cách phá trừ để góp ý, và các bạn đồng tu với sự hiểu biết của mình, có thể suy diễn hiểu rộng thêm ra.

 

1. Phá mối nghi túc nghiệp nặng, công tu ít: - Phật A Di Đà từng có lời thệ nguyện: "Chúng sanh nào chí tâm muốn về Cực Lạc, niệm danh hiệu Ngài cho đến mười niệm, nếu không được vãng sanh, Ngài thề không thành Phật." Phật không khi nào nói dối, vậy hành giả phải tin nơi đức Từ Tôn. Mười niệm là thời gian công phu tu hành rất ít mà còn được vãng sanh, huống chi ta niệm nhiều hơn số đó. Lại dù kẻ nghiệp nặng đến đâu, như phạm trai phá giới, tạo đủ nghiệp ác, nếu chí tâm sám hối nương về Phật A Di Đà, Ngài đều tiếp dẫn. Kinh Quán Vô Lượng Thọ đã chẳng nói kẻ tạo tội nặng ngũ nghịch thập ác, khi lâm chung chí tâm niệm mười niệm đều được vãng sanh đó ư? Trong truyện Vãng Sanh, như Trương Thiện Hòa, Hùng Tuấn, Duy Cung, trọn đời giết trâu bò, phá giới, làm ác, khi lâm chung tướng địa ngục hiện, sợ hãi niệm Phật, liền thấy Phật đến rước. Cho đến loài chim sáo, két niệm Phật , còn được vãng sanh, huống chi ta chưa phải là tệ đến mức đó?

 

2. Phá mối nghi bản nguyện chưa trả, tham sân si chưa dứt: - Bản nguyện của hành giả đại khái có hai: đạo và đời. Về đạo, có người nguyện cất chùa bố thí hay nguyện tụng số kinh chú bao nhiêu, làm chưa tròn đã đến giờ chết. Phải nghĩ rằng: chỉ tín tâm niệm Phật, khi được vãng sanh sẽ làm vô lượng vô biên công đức, còn bản nguyện chỉ là việc nhỏ, làm xong hay chưa không mấy quan hệ, và chẳng có hại chi cả. Về đời, hoặc có người vì nhiệm vụ gia đình chưa tròn, như cha mẹ suy già không ai săn sóc, vợ con thơ dại thiếu chỗ tựa nương, hoặc có kẻ thiếu nợ người chưa kịp trả, tâm nguyện chưa vẹn nên lòng chẳng yên. Phải nghĩ rằng: lúc ta sắp chết, dù có lo hay không cũng chẳng làm sao được. Chi bằng chuyên tâm niệm Phật, khi đã được vãng sanh Tây Phương chứng đạo quả, thì tất cả bản nguyện trái duyên đều có thể trả xong, tất cả kẻ oán người thân đều có thể cứu độ.

Lại Kinh Na Tiên nói: "Ví như hột cát nhẹ, bỏ xuống nước liền chìm. Trái lại tảng đá dù nặng to, nếu được thuyền chở, có thể đem từ chỗ này sang chỗ khác. Người niệm Phật cũng thế, nghiệp tuy nhẹ nếu không được Phật cứu độ, tất bị luân hồi, tội chướng dù nặng bao nhiêu, được Phật tiếp dẫn sẽ sanh về Cực Lạc." Theo đoạn kinh đây, ta thấy môn Niệm Phật là pháp có thể đới nghiệp vãng sanh, vì nhờ tha lực. Tảng đá lớn ví cho sức nghiệp nặng to, thuyền chở ví cho nguyện lực của Phật. Vậy người tu đừng nghĩ rằng mình còn tham, sân, si, e không được vãng sanh. Thí dụ trên có thể phá luôn điểm nghi về nghiệp nặng ở điều thứ nhứt.

 

3. Phá mối nghi niệm Phật, e Phật không đến rước: - Người niệm Phật tùy theo công đức mình, khi lâm chung thấy Phật, hoặc Bồ Tát, hay Thánh chúng đến rước. Có khi không thấy chi, mà nhờ sức nguyện của mình và Phật lực thầm nhiếp thọ, thần thức tự bay về Tây Phương. Đây là bởi công hạnh của mình có cao thấp, sâu cạn. Chỉ cần yếu lúc ấy ta phải chí tâm niệm Phật, đừng nghĩ chi sai khác. Nếu nghi ngờ sẽ tự sanh ra chướng ngại. Tóm lại, khi lâm chung dù thấy tướng tốt hay không cũng đừng quản đến, chỉ hết lòng niệm Phật cho đến giây phút cuối cùng mà thôi.

 

Phá chung bốn cửa ải: - nhân bịnh khổ hủy báng Phật - tham sống sát sanh cúng tế - cầu lành bịnh uống ruợu, hoặc dùng thuốc có chất huyết tanh - vì ái luyến nên tâm niệm ràng buộc với gia đình.

Người niệm Phật mà bị tai nạn bịnh khổ, đó là do nhờ công đức tu hành, nên chuyển quả nặng thành quả nhẹ, chuyển hậu báo thành hiện báo, trả cho hết để được sanh về Tây Phương. Nếu trở lại nghi ngờ hủy báng, là người kém tin hiểu, phụ ơn Phật, tự gây tội chướng cho mình. Trong sự tích Tịnh Độ có thuật chuyện ông Ngô Mao cùng rất nhiều Phật tử khác, nhờ dồn nghiệp mà sớm được vãng sanh. Vậy khi gặp cảnh này, người niệm Phật nên ý thức để hiểu rõ.

Lại thân này giả tạm, tùy theo tội nghiệp mà kiếp sống có vui khổ lâu mau. Nếu giết sanh mạng để nuôi dưỡng sanh mạng, hoặc cúng tế, thì tội khổ càng thêm nặng, phải triệt để nương theo Phật và tin chắc lý nhân quả.

Khi đau yếu chỉ cầu Phật, không nên cầu phù phép tà sư, hoặc nghe lời kẻ chưa hiểu đạo, trở lại ăn mặn, uống rượu, hay dùng thuốc bằng chất máu huyết tanh hôi. Thân này nhơ nhớp, được về cõi Phật sớm chừng nào hay chừng ấy, như bỏ chiếc áo hôi rách mặc sắc phục đẹp thơm, đáng chi phải bận lòng?

Đến như mối hại về ái luyến khi lâm chung, thì như đoạn trên đã nói. Phải nghĩ: trong gia đình từ cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, đều do đời trước có nợ nần ân oán, nên mới tạm hội ngộ nhau. Khi nhân duyên đã hết thì mỗi người đi mỗi ngả. Nếu có lòng thương, tốt hơn ta nên gát bỏ tình trần cầu sanh Tây Phương, để độ tất cả kẻ oan thân. Khi cái chết sắp đến, dù có quyến luyến cũng không thể đem theo, không làm chi được, bởi chính sắc thân của ta còn phải tan về cát bụi. Nếu ái luyến thì đã không được vãng sanh, lại bị khổ luân hồi vô cùng vô tận.

Những điểm về Tam Nghi Tứ Quan trên đây, hành giả phải suy nghiệm ghi nhớ kỹ, để dự bị trước cho tinh thần được yên ổn trong lúc lâm chung.

 

 

Nhứt cú Di Ðà
Ðại ý phân minh
Xà sanh cung ảnh
Dược xuất kim bình.

 

Một câu A Di Ðà
Ðại ý thật phân minh
Rắn sanh từ cung ảnh
Thuốc lấy ở kim bình.

 

Một người tới nhà bạn thân chơi, cố giao rót trà ra chén mời uống. Lúc ấy vào khoảng đầu đêm, ánh đèn chấp chóa in bóng cung treo gần bên vào chén giống như con rắn đang lăng quăng chao động. Trong lúc không kịp suy nghĩ, người ấy uống vội hết chén trà, rồi chợt sanh lòng nghi là mình đã nuốt con rắn nhỏ vào bụng, nhưng không dám nói. Về đến nhà anh lo sợ, rồi phát bịnh. Sau bạn đến thăm, hỏi biết duyên cớ, mời đến nhà để dĩa đèn và chén trà chỗ cũ, chỉ cây cung treo gần bên, người ấy mới dứt hết mối nghi và lành bịnh. Thuở xưa người Ấn Ðộ khi luyện thuốc quí, thường dùng gương dầy hoặc ngọc thủy tinh tụ ánh sáng mặt trăng để lấy nước. Luyện xong lại cất thuốc vào bình bạc hoặc bình vàng, cho tăng thêm hiệu lực linh nghiệm. Ðây ý nói câu niệm Phật rõ ràng là pháp Viên Ðốn đi thẳng vào chân tâm, ngay lúc niệm Phật tức đã thể hiện Phật tánh, ví như thuốc quí lấy ra từ bình vàng. Kẻ không biết lầm hiểu niệm Phật là pháp Quyền Giáo để dứt trừ vọng tưởng, hoặc pháp Tiệm Giáo để gieo lần thiện căn. Như thế có khác gì anh chàng lờ lạc nghi ngờ lầm bóng cung là rắn đâu ?


 

 DIỆU HIỆP

  

Diệu Hiệp đại sư, người ở huyện cần tại Minh Châu. Ngài xuất gia khoảng cuối đời nhà Nguyên sang đầu triều Minh, nghiên cứu tinh tường về Thiên Thai giáo quán, chuyên tu môn Niệm Phật tam muội. Đại sư có soạn thuật hai quyển Niệm Phật Trực Chỉ, trong đó thiên Trực Chỉ Tâm Yếu phá vọng hiển chân, biện giải đến chỗ tinh vi. Văn rằng:

 

“… Đức Thế Tôn thấy cõi Ta Bà có các sự khổ: sanh, già, bịnh, chết, nghiệp phiền não thiêu đốt buộc ràng, nên khuyên chúng hữu tình niệm Phật A Di Đà cầu sanh về Cực Lạc. Nhưng cách Phật lâu xa, con đường thánh đạo càng bị cỏ tranh khuất lấp. Nhiều người nghe nói: “Các pháp đều ở nơi tâm”, liền lầm nhận nghiệp vọng tưởng thuộc bóng duyên sáu trần trong thân là tâm mình. Do đó nên bảo: “Phật ở nơi đây, cõi Cực Lạc cũng ở trong ấy, không cần tìm cầu đâu xa!” Họ không biết thể huyễn bóng duyên sáu trần đó, thuộc về vọng tâm, vốn không bền chắc. Nếu tiền trần tiêu tan, vọng tâm ấy liền diệt. Như thế, làm sao có cõi Cực Lạc ở trong đó được?

 

Có kẻ lại miễn cưỡng bảo: “Các bậc ngộ đạo thấy tánh đều nói cõi Phật ở nơi tâm. Đã thấy tánh, lẽ đâu còn chấp bóng duyên của sáu trần nữa!” Các người ấy đâu biết rằng sự ngộ đạo thấy tánh đó, là ngộ được bản tâm chân thật, chớ không phải là vọng tâm như họ tưởng. Muốn ngộ được chân tâm ấy, phải thấu suốt tâm vọng thuộc bóng duyên sáu trần vốn ở trong huyễn thân, huyễn thân lại ở trong thế giới, và tất cả thế giới thật lành hoặc nhơ ác đều ở trong hư không. Thể hư không ấy tuy bao gồm tất cả y báo chánh báo của mười phương, rộng lớn không ngằn mé, nhưng lại ở trong chân tâm sáng suốt bất động vô cùng vô tận của ta, ví như một cụm mây nhỏ điểm lơ lửng giữa khoảng thái thanh bao la lặng lẽ. Chân tâm đã rộng lớn như thế, làm sao tất cả mười phương thế giới hoặc nhơ hoặc sạch lại không ở trong tâm? Thế thì đức Phật hoặc các bậc ngộ đạo nói các pháp ở nơi tâm, là chỉ cho chân tâm đó, chớ không phải vọng tâm thuộc bóng duyên sáu trần trong huyễn thân nầy đâu! Chân tâm ấy vượt niệm hiểu biết, lìa sự thấy nghe, dứt hẳn các tướng sanh, diệt, thêm, bớt. Tất cả thế giới gồm thân chư Phật và chúng sanh đã ở trong chân tâm đó, thì cảnh Ta Bà cùng Cực Lạc đều là tâm của ta. Cho nên các hữu tình ở trong đó tùy ý bỏ đông cầu tây, chán cõi nhơ thích cảnh sạch, dù có trước tướng, vẫn không lìa ngoài chân tâm.

 

Bởi thế, khi cảnh tướng đẹp của cõi Cực Lạc và đức A Di Đà hiện ra, tức từ tâm ta hiển lộ. Và khi tâm ta hiển lộ thì đức A Di Đà hiện ra. Tâm ta là tâm đức Phật kia, đức Phật kia là Phật của tâm ta, đồng một thể không khác, nên gọi “duy tâm Tịnh độ, bản tánh Di Đà”. Cho nên khi nói duy tâm hay bản tánh, chẳng phải chỉ cho cái vọng tâm sanh diệt thuộc bóng duyên sáu trần trong huyễn thân. Và ở phương Tây chẳng phải không có cõi Cực Lạc cùng đức A Di Đà, mà nói không cần tìm cầu. Cầu đức Phật kia chính là cầu tâm mình, muốn sớm ngộ chân tâm mình, phải cầu đức Phật kia. Thế thì tại sao đời nay các nhà thức giả vừa mới biết chút ít lý thiền, những tăng sĩ nông cạn phá rối Phật pháp, không nghiên tầm sâu chân lý để ngộ cảnh tức là tâm? Mà trở lại ở trong môn Bất nhị, họ chia trong chia ngoài, phân tâm phân cảnh, dạy người tìm trong bỏ ngoài, lìa cảnh để cầu tâm, khiến lòng thương ghét thêm rộng nhiều, niệm phân biệt càng sâu đậm? Khi phân chia cảnh, thì cho cõi Cực Lạc ở ngoài, dạy người chẳng nên cầu vãng sanh … Và khi phân chia tâm, lại lầm nhận vọng thức là tâm, bảo cõi Cực Lạc ở trong đó. Càng sai lầm hơn nữa, họ cho chân tâm là rỗng không, lìa tất cả cảnh tướng nhân quả lành dữ tội phước, nên từ đó muốn tỏ ra mình là vô ngại, lại buông lung theo duyên đời, dạy người không cần lễ Phật. Tụng kinh, sám nguyện, tu phước bảo là trước tướng. Đối với cảnh Thiên cung, Địa ngục và các cõi Tịnh, độ, tuy nghe trong kinh nói đến, nhưng vì mắt phàm không thấy, họ bác hẳn nói không có, cho lời kinh là quyền thuyết. Họ lại bảo cảnh vui hiện tại, hay một niệm vui tươi là Thiên đường, cảnh khổ trước mắt, hoặc một niệm phiền não là Địa ngục. Sự hiểu biết cạn cợt nông nổi như trên, thật đáng thương xót!

 

Phải biết tâm ta cùng tâm Phật đồng một chân thể. Đức A Di Đà chứng ngộ đầy đủ tâm ấy, nên phóng ánh sáng oai đức soi khắp mười phương, dùng sức nguyện thương xót rộng sâu nhiếp lấy những chúng sanh niệm Phật. Ta tuy đồng một tâm thể với Phật, nhưng bởi bị sức nghiệp vô minh phiền não che lấp buộc ràng, chưa chứng ngộ được bản tâm, nên cần phải tu tất cả hạnh lành, và niệm Phật để cầu sanh Cực Lạc. Vì tất cả pháp chẳng phải khác, nên muôn hạnh đều hướng về chân tâm, đều trôi về biển Phật. Bởi tất cả pháp chẳng phải đồng, nên tuy cùng một tâm thể, vẫn có thiện có ác, có uế có tịnh, thì ở địa vị phàm phu phải bỏ ác cầu thiện, bỏ uế cầu tịnh, phát nguyện cầu sanh để mau chứng quả chân tâm. Khi tu hành như thế, ví như một giọt nước gieo vào biển, tất cả sẽ đồng một vị một thể với biển cả. Lúc được chứng ngộ toàn thể chân tâm, thì trong ánh đại quang minh sẽ thấy tất cả cảnh tướng thiện ác nhơ sạch ở mười phương thế giới đều như bóng như huyễn, sanh diệt không dừng. Sự thiện ác nhơ sạch sanh diệt như huyễn ấy, cũng tức là tâm, nhưng không làm ngại đến tâm thể đại quang minh, như một cụm mây nhỏ không làm ngại đến hư không bao la rộng rãi. Chứng ngộ được như thế mới có thể nói là vô ngại.

 

Đa số hàng thiện tín nơi thôn ấp quê mùa, tuy không thông hiểu Phật lý, nhưng vì tin có Phật và cõi Cực Lạc, chuyên tâm làm lành phát nguyện niệm Phật, nên khi lâm chung được sự lợi ích vãng sanh, lên ngôi Bất thối chuyển, mau chứng quả Đại bồ đề. Trái lại người có chút ít học thức thông minh, bởi chưa thấu suốt lý tánh, bác sự tướng, trệ vào thiên không, dù tu đạo hạnh, kết cuộc lại lạc vào vòng ngoại đạo, chìm trong nẻo luân hồi. Cho nên hàng Phật tử chân chánh, về chữ Tín phải tin có tội phước nhân quả, có Địa ngục Thiên đường, có mười phương Tịnh độ. Về chữ Nguyện, nên phát tâm cầu sanh Cực Lạc, để sớm thoát ly nỗi khổ ở Ta Bà, mau chứng ngộ bản tâm, khởi sự luân hồi sống chết, rồi độ tất cả chúng sanh đồng thành Phật quả. Về chữ Hạnh, phải hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ sư trưởng, tu các nghiệp lành, thọ trì tam quy, giữ gìn giới phẩm, phát lòng Bồ đề, tụng kinh niệm Phật, khuyên người tu hành, đem tất cả công đức ấy hồi hướng về Tây phương. Phải nghĩ mạng người vô thường, chỉ mong manh trong hơi thở, việc thế tục quanh quẩn buộc ràng, móc nối nhau không dứt. Nếu chẳng phát tâm mạnh mẽ, cắt một dao cho đứt đoạn, nhảy hết sức để vượt qua, thì biết chừng nào mới được an nhàn giải thoát? Nay tôi thiết tha đảnh lễ, kính khuyên các Phật tử, nên một lòng thật ngộ thật tu, nguyện ngày kia đồng làm bạn lành nơi cõi Liên hoa thế giới…”

 

Về sau khi lâm chung, đại sư biết ngày giờ trước, an tường niệm Phật mà vãng sanh.



 MẤY ĐIỆU SEN THANH

Hòa Thượng Thích Thiền-Tâm


 

Như vậy thấy thân không thật, thấy tâm không thật, đó là chỗ đưa chúng ta tới giải thoát sanh tử. Tất cả chúng ta tu thì tu mà ít ai muốn vươn lên tới chỗ đó, chỉ tu là muốn được phước đời sau hưởng nhiều. Cho nên bỏ thân này để kiếm thân khác, cứ như vậy mà liên tục liên tục, không có dừng, không có nghĩ. Do đó mà cái vòng sanh tử triền miên không dứt.

Đó là tôi nói rõ cho quý vị  thấy ý nghĩa của câu này.

Cho nên nói, Kí năng giải thử như ý châu, là ai mà khéo hay mở được hạt châu như ý trong chéo áo đó, thì Tự lợi lợi tha chung bất kiệt, thì chừng đó lợi cho mình lợi cho người muôn đời không hết. Như vậy thì mới khéo. Đó là câu Tự lợi lợi tha chung bất kiệt, tức tự lợi lợi tha trọn không có hết, không bao giờ hết.

Giang nguyệt chiếu, tùng phong xuy, Giang nguyệt chiếu, tức là trăng rọi sông; tùng phong xuy là gió thổi tùng.

Vĩnh dạ thanh tiêu – hà sở vi? Vĩnh dạ là đêm dài, thanh tiêu là thanh vắng, hà sở vi là làm gì đây. Nghe nói thì coi bợ không có gì đặc biệt, nhưng ở đây là ý nghĩa rất thâm trầm. Ở dưới sông thì có mặt trăng rọi sáng, bên cây tùng thì có gió thổi. Trăng rọi sáng ở dưới sông, gió thổi cây tùng, quý vị  thấy hai hình ảnh đó giúp chúng ta được cái gì? Nếu dòng sông nước trong thì mặt trăng hiện dưới dòng sông. Cây tùng vững thì có gió thổi tùng vẫn trơ trơ.

Như vậy để nói lên rằng, khi chúng ta tu tâm được thanh tịnh thì trí tuệ sáng sẽ hiện ra giống như dòng nước trong, nước sông mà trong trẻo thì bóng mặt trăng hiện ở dưới. Không tìm kiếm, không phải mình lên tới hư không để gặp mặt trăng, mà mặt trăng nó có sẳn ngay trong tâm hay trong dòng sông trong đó. Cây tùng đứng trơ trơ dù cho có gió thổi, dù cho có những cái gì lay động, nó cũng vẫn là trơ trơ.

Như vậy để thấy rằng chúng ta tu mà tới chỗ tâm thanh tịnh, chỗ mà gió thổi không xao động cây tùng, mà từ trong nhà thiền gọi là “bát phong suy bất động”. Tám gió thổi không động, không lung linh đó là để diễn tả cây tùng, cây thông đứng ở giữa trời.

Vậy thì dòng sông trong thì tự nhiên trăng hiện giữa dòng sông, cây tùng vững, cây thông vững thì dù có gió mấy cũng không xao động. Được hai cái đó rồi thì đêm khuya thanh vắng, hỏi lúc đó mình làm gì? Lúc đó mình tu cái gì đâu? Có gì để mà tu. Tâm nó trong sạch, rồi tánh giác hiện ra chớ đâu có làm gì để kiếm tánh giác. Mình là chỗ an trụ vững chắc, không có bị tám gió thổi lay động, mình đứng trơ trơ đó chơi chớ làm gì. Cây thông có cự với gió không? Nó không chống cự gì hết, gió là gió, cây thông là cây thông.

Như vậy thì chúng ta tu cho tới một lúc nào tâm thanh tịnh, quý vị  niệm Phật tới nhất tâm bất loạn, chúng ta tu thiền thì tới an định, thì đức Phật Di Đà hiện ra với quý vị, còn tôi thì tánh giác hiện ra với tôi. Di Đà và tánh giác là sao? Là một hay là hai? Đức Phật Di Đà thì cụ thể hóa như một con người, còn tánh giác là một thực trạng của tâm mình. Nhưng cái kia cụ thể hóa vì niệm danh hiệu ngài, thì thấy như có ngài đến. Bên này mình không có niệm, mình buông xả cho tâm trong sáng thì Phật ở trong hiện ra. Cho nên dùng hình ảnh dòng sông, nước trong liền thấy mặt trăng trên trời hiện trong dòng sông. Không cần tìm kiếm, sông không đòi trăng xuống đây với tôi, mà trăng tự tới. Chúng ta không đòi thành Phật mà Phật trong ta hiện ra.

Như vậy thì những phương tiện Phật dạy tu cuối cùng rồi gặp nhau chớ không khác. Nhưng Phật tử cho tới người tu mình hay so bì tu cái này, tu cái kia, rồi có khi còn đố kỵ nhau là khác nữa, có đáng thương không? Bởi vậy nhiều khi nhìn lại rồi thương cho người tu mình sao mà còn bỉ thử, nhân ngã to quá chừng to. To không? Cái gì thuộc về mình thì hơn, thuộc người khác thì nó không hơn, nó là thua. Như vậy thì không tốt.

Cho nên ở đây nếu tâm mình trong sạch, không một chút bợn nhơ thì lúc đó cái mặt trời, mặt trăng trí tuệ tự nó hiện, cũng như cây thông, cây tùng nó vững đứng, nó không cần chống chọi gió, mà bốn phương có gió không làm sao lay động nó được. Như vậy thì trong đêm khuya canh vắng đó hỏi ta làm cái gì đây? Có tu có chứng gì không? Bởi vì chúng ta có cái bệnh tu là đòi chứng, mà chứng thì ai chứng cho mình? Chỉ đòi hỏi tâm mình thanh tịnh thì trí tuệ, tánh giác hiện ra. Nếu tâm thanh tịnh, tánh giác hiện ra rồi còn đòi gì nữa, muốn làm gì nữa? Còn tám gió thổi không rung rinh mình thì còn muốn làm gì nữa? Thì tự tại vô ngại, không có gì là chướng, là ngại hết.

Cho nên mấy câu này thấm thía làm sao. Hỏi Vĩnh dạ thanh tiêu – hà sở vi? Nó ngọt ngào quá, dễ dàng quá. Tu như vậy rồi thì đêm khuya canh vắng hỏi mình làm cái gì đây? Có cái gì nữa phải làm.



CHÁNH VĂN :

 

Phật tánh giới châu tâm địa ấn,

Vụ lộ vân hà thể thượng y.

Hàng long bát, giải hổ tích,

Lưỡng cổ kim hoàn minh lịch lịch.

Bất thị tiêu hình hư sự trì,

Như Lai bửu trượng thân tung tích.

 

 

GIẢNG :

 

Phật tánh giới châu tâm địa ấn,

Lúc đó, trong khi đêm khuya canh vắng đó mình chỉ thấy Phật tánh giới châu và in ở nơi tâm mình, tâm địa ấn ở ngay nơi tâm mình. Như vậy Phật tánh hiện ra thì giới đức muôn trùng cũng đủ trong đó chớ có gì đâu, không cần tìm, không cần xin mà nó vẫn có đầy đủ.

Vụ lộ vân hà thể thượng y.

Nào là những cái gì? Là mây, là ráng, là sương mù đều là cái áo hay cái y đắp trên mình chớ không gì hết. Như vậy thì lúc đó thấy cả bầu trời mây, ráng, sương mù đều là áo của mình, mình vẫn trơ trơ giữa bầu trời, không có cái gì làm chướng ngại hết, tự tại vô ngại.

Như vậy là diễn đạt được ý nghĩa khi tâm thanh tịnh thì tất cả đều đầy đủ, không cần làm gì mà tất cả đều có, không cần làm gì mà tất cả sẳn đủ. Đó là ý nghĩa đoạn này.

Đây là nói về diệu dụng, khi nảy là nói khi mình đến được chỗ đó là thể nhập được chỗ đó rồi, thì cái diệu dụng ở đây.

Hàng long bát, giải hổ tích, Hàng long bát, là cái bát để hàng phục con rồng. Đây là kể chỗ Lục Tổ Huệ Năng. Khi ngài ở trên núi Tào Khê, một hôm có con rồng dữ hoành hành. Tổ mới xuống tới cái hồ đưa cái bát nói, nếu ngươi dám chun vô đây thì ta độ được. Con rồng lớn biến thành nhỏ chun vô bát, Tổ đậy nắp đem lên, rồi ngài độ cho nó. Như vậy gọi là hàng long bát là cái bát hàng phục được rồng.

Giải hổ tích, là hồi xưa có một thiền sư lâu rồi tôi quên tên. Ngài tu trên núi có hai con cọp cắn lộn gầm hét. Khi đó ngài thấy vậy ngài muốn giải hòa cho nó mà không biết làm sao. Ngài lấy cây gậy để ngang giữa hai con, thì một con đi đầu này, một con đi đầu kia không dám cắn lộn nữa. Đó là giải hổ tích là cây tích trượng để giải hòa hai con cọp.

Tại sao lại nói hai câu này? Bởi vì ở trên diển tả khi chúng ta tu tâm thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt rồi tất cả giông tố không có rung rinh thì chừng đó không cần làm gì hết mà diệu dụng nó vô cùng. Bát hàng được rồng, gậy giải hoà được cọp, đó là cái diệu dụng vô cùng. Không làm gì hết mà làm được tất cả. Đó là ý nghĩa thật rõ ràng.

Lưỡng cổ kim hoàn minh lịch lịch.

Thường thường cây gậy, cây tích trượng có hai vòng khoen vàng, cho nên lưỡng cổ kim hoàn là hai khoen vàng, minh lịch lịch là đi nó khua nghe leng keng, leng keng.

Bất thị tiêu hình hư sự trì, là không phải bày ra có hình tướng để làm cái sự tạm bợ đó, mà đây là nó có giá trị rất là phi thường.

Như Lai bửu trượng thân tung tích. Là gậy báu của Phật nó đã hiện bày hình ảnh dấu vết trong đó.

Như vậy thì bốn câu này là giải cho chúng ta thấy ý nghĩa của người tu khi đến chỗ chân thật viên mãn rồi, không làm gì hết mà cái diệu dụng nó phi thường. Cho nên nói chân không mà diệu hữu, tới chỗ chân thật đó rồi không làm gì hết mà cái diệu dụng phi thường. Chớ đừng nói tu vậy rồi tới đó không còn gì hết. Người ta tu tiên tập thần thông đồ, biết bay biết biến hoá. Còn mình tập ngồi yên lặng cái tâm không hà, rồi thấy thân này giả dối, rồi tâm yên lặng chửi bới gì cũng không buồn, không giận thì thấy coi bộ mình trơ trơ quá, không có giá trị gì. Nhưng không ngờ chính cái đó rồi thì diệu dụng không thể kể hết.

Như vậy quý vị  thấy người tu khéo đi tới chỗ chân thật cứu kính rồi thì mọi khả năng, mọi diệu dụng đều vượt hơn tất cả thế gian. Còn người thế gian hay người tu chấp hình tướng, tuy làm việc này được việc kia, thiên hạ khen ngợi. Nhưng rốt cuộc rồi cũng là hình ảnh một mũi tên bay lên cao vót trong hư không, rồi hết sức tuột xuống rớt cái đụi dưới đất, đó chớ không có gì khác. Còn chúng ta tu mà tới chỗ chân thật giải thoát này rồi, thấy như không làm cái gì mà tất cả đều có đủ. Đó là giá trị siêu phàm hay phi thường của người tu.

Hiểu như vậy rồi chúng ta mới không ngạc nhiên tại sao người khác tu người ta luyện phép này phép nọ, rồi biết tâm ý người này người kia. Còn trong nhà Phật dạy tu êm ru không hà, cứ lo bỏ không hà. Nghĩa là giận hờn thương ghét gì cứ bỏ, bỏ hết đi đừng có gì hết. Chính cái bỏ, cái buông đó mới được cái thật. Còn cái chúng ta góp nhặt, tất cả cái gì gọi là luyện tập đó thì được rồi cũng mấy vì đó là cái hữu vi. Luyện tập là hữu vi, là cái công dụng. Còn cái buông hết, sạch hết cái tâm điên đảo được yên và thân phàm tục mình không chấp nữa thì chừng đó cái được của nó không thể lường.

Như vậy buông mà được, còn cái kia luyện tập rồi sẽ mất. Nên hồi xưa bên Tàu cũng có mấy ông Tiên tới thi thố tài năng với quí thiền sư, rồi bị thiền sư chinh phục hết. Tài năng đó là luyện tập mà được, còn cái này không phải, tâm thanh tịnh mà có. Cái đó có hiện ra là cái thực của mình, còn cái kia tập được là cái bên ngoài người ta dạy thôi. Cho nên người tu Phật hiểu cho sâu nắm cho vững rồi mới thấy giá trị của đạo Phật, nó siêu thoát phi thường chớ không phải là tầm thường.

Nhưng nhìn lại hiện giờ chúng ta cũng buồn, người tu bây giờ làm sao? Thực tế quý vị  nghĩ làm sao? Chúng ta tu bây giờ có ai chửi thản nhiên đi không hay là ở lại cự lộn? Chỗ đó là chỗ tôi thường hay dẫn hay nhắc. Chúng ta nghe một lời nói trái tai, hay một lời nói chạm danh dự, thì vẫn cười tươi tỉnh đi hay là đứng lại cự lộn? Như vậy nếu mà tôi hỏi như tôi thường hay nhắc nhiều người đó, tôi hỏi quí Phật tử nếu có ai đó bất thường gặp mình hoặc nói chuyện với mình chỉ mặt nói chị ngu như con bò giận không? Nói chị ngu như con bò lúc đó chúng ta đổi sắc mặt không? Đổi liền chớ gì, nói ngu là nổi giận liền. Như vậy chúng ta nổi giận là chúng ta khôn hay ngu? Người ta nói mình ngu, mà mình có thành ngu hay không? Nếu người ta nói mình ngu, lúc đó mình thành chú điên nói bậy nói bạ thì giận thật đã làm cho tôi ngu. Còn người ta nói mình ngu mà mình không ngu thì thôi. Thành ra họ nói cũng là lời nói như gió thổi qua, có giá trị gì đâu. Chừng nào họ nói mình mà mình thành ngu thì cái đó là thật buồn. Quý vị  thấy người ta nói mình ngu mà mình không ngu có buồn không?

Nếu quý vị  hơi văn chương một chút, khi họ nói anh ngu quá hay chị ngu quá, thì nói phải người xưa nói càng học thấy càng dốt mà, không ngu làm sao được. Người xưa đã thừa nhận càng học thấy càng dốt, mà giờ mình chưa học được bao nhiêu thì không ngu sao được. Đó là trả lời văn chương một chút. Nếu người ta nói mình ngu mà mình không ngu thì cười thôi.

Vậy đó mà thế gian cải lộn, đánh lộn nhau cũng tại khôn ngu đó. Nói ngu một cái thì nổi nóng lên liền rồi chửi lộn, đánh lộn. Hai người đánh lộn, cải lộn, hai người đó có ai khôn không? Người ta nói mình ngu mà mình không thành ngu lại chửi người ta, thì như vậy chứng tỏ rằng mình đã bị ngu. Mình bị ngu mới chửi bậy, chửi bậy người ta, người ta chửi lại rồi hai bên ấu đả nhau, thì một đám ngu hết trơn.

Bây giờ nói mình ngu, để tỏ ra mình không ngu thì cười đi, quý vị  chịu không? Cái nào, người ta nói mình ngu để thành người ngu, hay người ta nói mình ngu mình vẫn giữ là không ngu, muốn cái nào? Như vậy mai mốt ra chợ ai có chê có nói thì cười thôi, như vậy thì Phật tử mình tu tiến lắm, mình thấy được lẽ thật, mình biết được rõ ràng.

Còn mình không thấy, không biết đúng rồi nghe đâu chụp đó rồi dính mắc tùm lum, cả ngày khổ. Nghe người ta chê ngu cái giận, rồi cự lộn, về nhà nằm gát tay lên trán tức tối khổ sở tại sao. Người ta nói mình mình cười thì về cũng cười thôi, khỏe làm sao. Cuộc sống rất là thảnh thơi nhàn hạ, còn cái này cứ giành hơn giành thua nhau, rồi khổ cả đám với nhau. Rốt cuộc không đi tới đâu hết rồi cũng ra một đám ngu như nhau vậy. Quý vị  chịu chưa.



CHÁNH VĂN :

 

Bất cầu chân, bất đoạn vọng,

Liểu tri nhị pháp không vô tướng.

Vô tướng vô không vô bất không,

Tức thị Như Lai chân thực tướng.

 

GIẢNG :

 

Đoạn này quý vị  nghe hơi khó hiểu Bất cầu chân, bất đoạn vọng, là không cầu chân, cũng chẳng đoạn vọng. Tại sao mình lại không cầu chân, không đoạn vọng? Bởi vì đối với người tu, khi đến chỗ cứu kính thì không mắc kẹt hai bên. Nếu còn chân là có đối với vọng, hoặc còn vọng là đối với chân. Cho nên, đến chỗ chân thật rồi nó không còn đối đãi, vì vậy mà nói không cầu chân, không đoạn vọng. Tất cả chúng ta tu, vì lâu nay cứ ngở rằng bao nhiêu thứ phiền não, bao nhiêu thứ vọng tưởng nó làm rối, nó làm khổ cho mình. Nhưng biết tường tận thì vọng tưởng, phiền não là cái hư dối không thật. Hư dối không thật nên nó lặng đi thì chân thật tự nó thành hình chớ không phải cầu, không phải tìm ở đâu hết.


Quý vị  thấy phiền não vọng tưởng có thật không? Đa số ai cũng nói rằng mình bị phiền não quá. Vậy phiền não là cái gì? Là buồn, thương, giận, ghét, oán thù..v.v…, những cái đó nó làm cho mình khổ. Như vậy thì chúng ta tu phải thấy những cái buồn thương giận ghét, thử có thật hay không? Quý vị  thấy có thật không? Tôi nói thí dụ một chuyện nhỏ xíu thôi. Thí dụ như mình ở chung trong một nhà hay trong một chùa. Rồi hôm nào đó mình có để món đồ hơi quí của mình, huynh đệ bên cạnh họ thấy, thấy rồi họ lượm họ giấu. Khi mình mất mới tìm kiếm nó. Nếu mình biết ai lấy cái này thì sẽ làm sao? Là người có tội ăn cắp, ăn trộm của mình rồi. Cho nên nghĩ nếu mình biết được ai ăn trộm, ăn cắp của mình thì mình sẽ tát tay hoặc nạt nộ gì đó. Nhưng khi mình tìm một hồi, bất thần huynh đệ đưa ra, đây tôi giấu chơi chớ tôi không có lấy. Lúc đó mình tát tay không? Cái giận cái buồn khi mất đó còn không? Nó bay đi đâu mất tiêu. Nếu nó thật thì nó nổi lên rồi kéo dài, nhưng mà không phải. Nghĩa là khi mất thì mình bực bội la hét, khi người ta đưa ra trả lại mình thì mình vui vẻ nhiều. Như vậy cái buồn cái giận nó không có thật mà lâu nay chúng ta bị nó sử mình, nó sai khiến mình. Đó là tôi nói trường hợp đặc biệt mình mất đồ.

Còn trường hợp đặc biệt như người mình thương thật là thương, mà người đó lâu nay cái gì cũng chiều ý mình hết, nói cái gì thì tuân lệnh vâng làm, thì lúc đó mình thương. Hôm nào đó, mình bảo cái gì mà họ chứng cự lại, lúc đó còn thương không hay nổi giận? Thì như vậy cái thương không thật, cái giận cũng không thật. Bởi vậy nên rồi chúng ta bị cái thương cái ghét, cái giận cái buồn, nó làm rối loạn trong tâm mình gọi đó là phiền não, nói tôi phiền não quá. Phiền não vì cái buồn thương giận ghét đó nó quấy nhiễu, nó không cho mình yên. Bây giờ biết nó không thật, cái giận vừa dấy lên thì biết nó không thật, cái thương đấy lên biết nó không thật. Nó không thật biết rõ bản chất không thật thì nó hết quay cuồng rối loạn mình nữa. Như vậy biết phiền não không thật thì đâu cầu cái gì chân, tìm không thật làm gì. Phiền não không thật thì tất cả cái khác đều không thật. Cho nên biết phiền não không thật, đó là biết được vọng không thật, không thật thì cần dứt vọng nữa hay không? Nó không thật thì tự nó hết.

Bây giờ quý vị  thử khi nào đang nổi giận ai đó, cái mình nhìn lại cái giận, ôi chú không thật thì cái giận tự nó lặng thôi, nó trốn mất hà, chớ không có đi đâu, không phải trốn tránh chỗ nào. Như vậy thì cái vọng hay cái nóng giận nó không thật, thì cái chân thật cũng đâu có thật. Vì vậy mà nói khi chúng ta tu dùng trí tuệ bát-nhã quán chiếu thấu suốt các pháp duyên hợp không thật, thì không còn nói chân, nói vọng gì nữa hết, vì cái đối đãi nó cũng không thật. Vì vậy nên đây mới nói chẳng cầu chân, không đoạn vọng là như vậy.

 

Liểu tri nhị pháp không vô tướng. Tức rõ biết hai pháp là không có tướng thật. Biết cái chân, cái vọng đối đãi là không thật.

Bởi không thật nên, Vô tướng vô không vô bất không, nó không tướng, mà nó cũng không không, mà cũng chẳng không cái chẳng không. Dùng từ thật là khó.

 

Vô tướng, vô không, vô bất không, ba chữ vô. Vô tướng vì nó không thật nên gọi là vô tướng, không thật nhưng mà không phải không. Bây giờ tôi nói thí dụ cho quý vị  hiểu từ này. Chúng ta đứng dựa bên hồ nước trong đêm rằm, trên hư không có mặt trăng sáng chiếu xuống, thì nhìn xuống mặt hồ chúng ta thấy cái gì? Ờ thấy bóng mặt trăng. Như vậy thì bóng mặt trăng ở đáy hồ là thật hay không thật? Nếu mình đưa tay vớt lên được không? Vớt lên thì nó không, nên nói rằng vô tướng là nó không có tướng thật. Nhưng vớt thì không thật, không được, mà đứng trên nhìn thì có không? Không thật mà vẫn có, mắt vẫn thấy nó đang ở dưới đáy hồ, nó là vô tướng vô không, nó chẳng không. Như vậy thì nó là không tướng, nó là không phải là không ngơ, nó có cái bóng rõ ràng. Nhưng rồi thêm chữ vô bất không, vô là không, bất là chẳng, không mà chẳng không. Tại sao không chẳng không? Không là không có cái tướng thật, mà có bóng nên thấy không mà chẳng phải không.

 

Các pháp ở giữa này cũng vậy, người ta cứ ngở rằng cái gì mình thấy mình biết thì cái đó đều thật. Nhưng mà đâu phải vậy, cái mình thấy mình biết mà nó vẫn là giả, chớ nó không có thật. Bởi vậy nên mình hiểu rõ ràng thì lẽ thật của nó hiện tiền, nên người học Phật nếu hiểu sơ sơ thì không thể nào thấu suốt. Như chúng ta thường đứng hai bên hoặc là có hoặc là không, cái gì có là có thật, không là không thật. Nhưng ở đây không mà chẳng không thì sao? Không là không cái tướng thật, nhưng giả tướng vẫn có, nên không mà chẳng không. Như trăng ở đáy nước nó không khi mình mò bắt nó đâu có, nhưng nó chẳng không vì mình đứng đây nhìn thấy bóng ở dưới nước rõ ràng, như vậy không mà chẳng không.

 

Tức thị Như Lai chân thực tướng. Là thấu suốt được cái đó thì mình biết cái tướng chân thật của Phật. Như vậy tất cả chúng ta tu, chúng ta phải làm sao thấu suốt được lẽ này: cái chân thật tướng của Như Lai là chỗ không phải thực, không phải hư. Nếu nói là thật thì không được, nói không ngơ thì cũng không được.

 

Như bây giờ tôi nói thí dụ đây là chỉ lẽ thật cho quý vị  thấy. Như giờ nội tâm chúng ta khởi suy nghĩ thì quý vị  nói cái gì? Tâm tôi đang suy nghĩ. Nhưng khi không suy nghĩ quý vị  có tâm không? Bởi vì chúng ta lầm chữ tâm, ngở rằng tâm là cái biết, cho cái suy nghĩ biết đó gọi đó là tâm. Tâm đó là mình phải không? Đó là tâm mình. Tôi đang suy nghĩ, cho suy nghĩ là tâm của tôi. Bây giờ giả sử lúc nào quý vị  thản nhiên tự tại ngồi chơi, không suy nghĩ gì hết, rồi có tâm không? Có tôi không? Không suy nghĩ, lẽ ra nói tâm suy nghĩ là tâm tôi, thì không suy nghĩ là không có tôi rồi. Nhưng không suy nghĩ mà tôi vẫn nghe, tôi vẫn thấy thì cái tôi đâu phải là cái suy nghĩ, mà lâu nay chúng ta cột cái suy nghĩ là tâm mình.

 

Cho nên Phật thấy mê lầm cái suy nghĩ là tâm nên chúng ta đi theo cái tạo nghiệp. Bởi vì suy nghĩ thì có thương, có ghét, có buồn, có giận; đó tất cả cái suy nghĩ đều dẫn mình tới buồn thương ghét giận đó nên mình tạo nghiệp trầm luân sanh tử. Bây giờ buông hết suy nghĩ mà mình vẫn hiện tiền, mình hiện tiền mà không có suy nghĩ thì có tạo nghiệp không? Không tạo nghiệp mà vẫn có mình, như vậy nhắm mắt mình giải thoát tự tại, nghiệp không dẫn. Vậy mục đích tu là tới chỗ đó.

 

Phật dạy mình tu là gì? Tu là dứt hết vọng tưởng, vọng tưởng điên đảo phải dứt, vì vậy bắt mình phải niệm Phật cho nhất tâm. Nhất tâm thì mới thấy được Phật, còn tu thiền thì phải định, định cái tâm lăng xăng đó, như vậy thì mới giải thoát sanh tử.

 

Mình tu bây giờ thì hay cấm cho cái suy nghĩ xấu, tội lỗi nhưng suy nghĩ tốt thì cho. Nghĩ cái này phải, cái kia hay, cái kia tốt, cái nọ là hơn gì đó, những cái gì mình thấy hay mình cho nó nghĩ. Như vậy mình cho nó nghĩ, nghĩ điều lành, điều phải thì khi chết mình đi đâu? Nhất định đi được cõi lành, cõi người, cõi trời, mà đi cõi người cõi trời Phật có ưng ý cho người tu mình đi cõi đó không? Phật chưa, được cõi người rồi mấy chục năm cũng chết nữa, được lên cõi trời mấy ngàn năm hết phước rồi cũng tuột xuống, như vậy thì không phải là chỗ giải thoát an lành.

 

Vì vậy mà Phật bảo mình dừng hết mọi suy nghĩ đừng cho tâm nó dấy niệm tạo nghiệp thì mình hết bị tạo nghiệp luân hồi sanh tử. Giải thoát ngay chỗ đó, quý vị  nghiệm lại những pháp tu, pháp nào cũng dạy mình tới chỗ đó hết. Ngồi thiền thì phải định, chớ ngồi thiền mà tưởng tứ tung thì không được gì. Niệm Phật thì phải nhất tâm, không nhất tâm thì cũng chưa được cái gì. Đó là chỗ chú ý mà Phật dạy chúng ta. Cho nên khi tâm mình không còn cái niệm lăng xăng nữa, đó là nhân của giải thoát sanh tử.



CHÁNH VĂN :

 

Tâm kính minh giám vô ngại,

Quách nhiên oánh triệt châu sa giới.

Vạn tượng sum la ảnh hiện trung,

Nhất lỏa viên quang phi nội ngoại.

 

GIẢNG :

 

Tâm kính minh giám vô ngại, Chỗ này diễn đạt chỗ cứu cánh của chúng ta tu. Khi chúng ta được tâm trong sáng rồi, giống như mặt gương trong vậy đó, thì nó chiếu soi không có gì trở ngại hết. Quý vị  thấy mặt gương chúng ta chừng một tấc vuông thôi mà trong thì chúng ta để ngoài trời nhìn thấy tận mây xanh không? Nó trong thì tất cả hình ảnh ở ngoài đều chiếu rọi vô. Gương tâm mình nếu khi nó không còn những niệm khởi che đậy thì lúc đó nó chiếu soi không ngại, tự tại vô ngại đó. Lúc đó nó chiếu tới đâu?

 

Quách nhiên oánh triệt châu sa giới. Nó chiếu thông suốt, quách nhiên oánh triệt là thông suốt khắp cả châu sa giới. Châu sa giới là thế giới nhiều như cát như bụi vậy đó. Nghĩa là vô lượng vô biên thế giới mình đều chiếu soi khắp hết. Đó là chuyện phi thường, khó mà tin nổi. Nhưng điều đó quý vị  muốn tôi chứng minh không?

 

Bây giờ tôi hỏi quý vị  Đức Phật ngồi tu dưới cội bồ-đề, khi từ canh một tới canh ba thì Ngài chứng được Thiên nhãn minh. Khi chứng thiên nhãn minh rồi Ngài nhìn thấy trong bầu trời, có vô lượng vô số thế giới. Như vậy còn mắt phàm mình thấy tới đâu? Thấy có một thế giới mình ở thôi, ngoài ra mình không biết, cái gì ở xa đó là sao là trăng là gì đó chớ không phải thế giới nữa. Với con mắt Phật lúc đó tâm hoàn toàn trong sáng rồi, Ngài nhìn thấy thế giới vô số kể, nên từ chuyên môn là hằng hà sa số thế giới là thế giới nhiều như cát sông Hằng. Như vậy tâm Ngài chiếu tới đâu? Không phải khắp hết cả bầu trời, hay khắp hết cả thế giới hay không. Cho nên mới nói rằng quách nhiên tức là nó rỗng rang chiếu suốt cả thế giới nhiều vô số kể, như số cát sông Hằng. Điều đó là một lẽ thật Phật đã thấy.

 

Còn mình ngày nay mình chiếu không xa là tại vì gương mình bụi quá mà, bụi nó phủ dầy kín làm sao mà thấy. Vì vậy nên nói tu là phủi bụi, phủi bụi của cái gì? Phủi bụi của mặt gương tâm. Tâm mình nó trong sáng mà bây giờ cứ phiền não lên hoài, lát thì thương, lát thì giận, lát thì buồn, lát thì tức, nó cứ liên miên, liên miên. Có khi nào quý vị  ngồi một giờ mà không có cái nghĩ gì không, hay là cái này chồng lên cái kia, cái kia chồng lên cái nọ, vừa dứt cài này nó sang cái khác liên tục, liên tục, bởi vậy nên nó che khuất gương sáng của mình. Phật bải mình muốn có gương sáng đó hiện bày thì phải dừng bụi lăng xăng đó, phải lau chùi nó cho sạch, chớ đừng để nó tối, đừng để nó mờ.

 

Như vậy thì quý vị  biết tu chưa? Đừng lấy làm lạ tại sao mình tu mà cứ bỏ không cho nghĩ. Cái nghĩ là bụi phủ che tâm sáng của mình, cho nên Phật bảo mình bỏ, mình trừ nó đi thì cái tâm sáng tự hiện. Nếu mình chứa chấp nó thì muôn đời mình đi trong mờ mịt tối tăm, không bao giờ được sáng tỏ. Đó là chỗ mà Phật muốn nói.

 

Còn ở đây ngài Huyền Giác ngộ được đạo rồi, ngài nói cũng đúng như vậy đó.

 

Vạn tượng sum la ảnh hiện trung, tức là muôn tượng ở chung quanh đều hiện trong cái gương không thể nghĩ bàn của mình đó, chớ không ở đâu hết.

 

Nhất lỏa viên quang phi nội ngoại. Tức là chỉ một hòn ngọc sáng, nó không phải ở trong, không phải ở ngoài. Nghĩa là khi chúng ta có hòn ngọc sáng để ở trên bàn, rồi tất cả cảnh hiện trong hòn ngọc sáng đó, thì cảnh hiện trong hòn ngọc sáng đó là cảnh ở trong hay cảnh ờ ngoài? Mình thấy là thấy ở trong hòn ngọc, nhưng không phải ở trong hòn ngọc, từ ngoài mà nó hiện bóng vào đây đủ hết, cho nên không nói ở trong không nói ở ngoài.

 

Đây ngài chỉ người tu khi đạt tới chỗ tâm mình trong sáng không còn những niệm lăng xăng che đậy nữa thì như một hòn ngọc trong sáng vậy, hình bóng ở ngoài đều hiện vô trong hòn ngọc. Khi thấy bóng hình sự vật trong hòn ngọc mà thật ra những cái đó không phải ở trong hòn ngọc, cho nên không phải trong mà cũng không phải ngoài là vậy.



CHÁNH VĂN :

 

Hoát đạt không, bác nhân quả,

Mãng mãng đãng đãng chiêu ương họa.

Khí hữu trước không bệnh diệc nhiên,

Hoàn như tỵ nịch nhi đầu hỏa.

 

CHÁNH VĂN :

 

Hoát đạt không, bác nhân quả, là bác hoàn toàn không, không có nhân quả. Người ở đời họ nói làm rồi thôi, tất cả cái gì hiện tại này chớ đời sau không có. Mình làm được phước hay điều lành thì hưởng ngay bây giờ chớ không phải tới đời sau. Hoặc giả đời này mình làm, đời sau không có cái quả gì mà sợ. Cho nên họ nói rằng hoàn toàn không, không có nhơn quả.

 

Nếu người chấp chặt như vậy, bác lý nhơn quả triệt để như vậy thì:

 

Mãng mãng đãng đãng chiêu ương họa. Là mênh mông thênh thang chuốc họa ương. Tức chuốc họa ương dẫy đầy, tràn ngập không biết là bao nhiêu. Bởi vì chúng ta tin được lý nhân quả, đời này chúng ta làm xấu làm ác, đời sau chúng ta khổ bị trầm luân. Cho nên ráng tu chừa cái ác làm lành.

 

Nếu người không tin có nhơn quả, bác lý nhơn quả thì họ có sợ cái gì ác, cái gì tội đâu. Bởi không sợ ác, không sợ tội nên rồi họ tạo không biết bao nhiêu là tội, mênh mông bát ngát kể không hết. Khi tội nhiều đó là họ đã chuốc khổ không thể nào lường, không thể nào tính được. Đó là nói người bác không, không có tội không có phước gì hết.

 

Khí hữu trước không bệnh diệc nhiên, tức bỏ cái có mà chấp cái không thì bệnh cũng giống nhau như vậy. Hoặc nói không nhơn không quả, hoặc nói nhơn quả không thật..v.v.., khí hữu là bỏ cái có rồi chấp vào cái không thì nó cũng giống hệt như vậy.

 

Hoàn như tỵ nịch nhi đầu hỏa. Là giống như mình sợ chết chìm mà nhào vô đóng lữa. Sợ chết chìm lạnh mà nhào vô đóng lữa thì sao? Thì mình cũng chết nóng.

 

Bởi vì ở thế gian có hai cái bệnh: bệnh chấp có và bệnh chấp không. Có người nói rằng đời này chết đời sau sẽ còn trở lại để chịu những phước, những tội mà mình đã gây đời trước, nhất định nó không sai chạy, đó là chấp có. Có người nói chết rồi là hết, không còn gì hết, đó là chấp không.

 

Cho nên có nhiều khi, các vị tu trong nhà Phật mà còn có lầm lẫn lớn. Như khi tụng kinh nhất là kinh Bát Nhã, chiếu kiến ngũ uẩn giai không..v.v… cái gì cũng không hết. Vô nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý, tất cả cái gì không hết. Rồi họ nói Phật nói trong kinh cái gì cũng không hết, không đó mới đúng, còn nói có là trật, thì có tội không? Không là không tướng thật, chớ không phải không giả tướng. Mình lầm như khi nảy tôi nói, mặt trăng ở dưới đáy nước nó không phải mặt trăng thật, nhưng mà không phải không có bóng mặt trăng. Không phải mặt trăng thật đành rồi, nhưng bóng mặt trăng đâu có không. Cũng như vậy, Phật nói thân này không là không cái tướng thật, chớ tướng giả hợp do duyên đâu phải là không.

 

Như vậy thì phải hiểu chữ không trong đó là để phá cái chấp thật, mà cái giả tướng không phải là không. Có nhiều người nói trong kinh bát-nhã nói cái gì cũng không, không hết. Vậy thì tất cả pháp không có gì hết, không mình không có người, không có gì hết, thì tha hồ muốn làm gì làm, thì chẳng khác nào như người sợ chết chìm mà chui vô đống lữa, như vậy cả hai đều nguy hiểm. Cho nên trong nhà Phật cấm không cho chúng ta chấp một bên, hoặc là có, hoặc là không, bởi vì tất cả pháp ở giữa thế gian này đều là không thật. Có mà không thật, không thật mà nói thật không được cho nên không nói có, mà không thật nói không cũng không được.

 

Bây giờ tôi hỏi tất cả quý vị, hiện giờ thân chúng ta ngồi đây nghe GIẢNG : thân mình thật không? Không thật, người ta ngắt một cái có la không? La vì thấy đau tức là thấy mình thật rồi, nói không sao được. Cho nên chỗ này là chỗ rất khó. Chữ không thật là Phật chỉ cho mình thấy cái thân này đủ duyên thì nó còn, thiếu duyên thì nó mất, cho nên không thật.

 

Bây giờ quý vị  kiểm nghiệm coi tất cả chúng ta những người trước chúng ta và những người đồng thời với chúng ta, họ còn hết? Nếu có người nào đang nói chuyện với mình vui vẻ, bất thần bị nhồi máu cơ tim ngã đùng ra chết. Đang nói chuyện với mình thì lúc đó thật hay giả? Nhất định là thật. Mà nhồi máu cơ tim ngã ra chết lúc đó thật hay giả? Chết rồi thì giả. Như vậy thật giả đó rõ ràng chưa? Mới phút giây trước mình nói là thật, vì đối diện nói chuyện với mình. Nhưng tới chừng nhồi máu cơ tim ngã ra chết, thì lúc ngã ra chết thì thật hay giả? Nếu thật thì lúc nào cũng thật, còn mới đó thật bây giờ thành giả thì nó đâu phải là thật nguyên vẹn. Nó chỉ có trong lúc nào rồi nó sẽ mất, cho nên rồi đều giả.

 

Chúng ta kiểm lại ông cha chúng ta trước có bây giờ không. Kể cả ông nội, bà nội gì đó hồi xưa mình nói có, nhưng bây giờ kiểm lại mất rồi. Lần lần cho tới cha, tới mẹ mất, cho tới mình cũng mất luôn thì giả hết trơn. Hể mất rồi thì giả chớ thật sao được. Như vậy mà Phật nói giả mình không chịu. Tại sao mình không chịu? Tại vì mình mê lầm nhận cái giả làm cái thật, bởi vậy cho nên mình cứ khổ hoài. Mất cái giả này tìm cái giả khác nữa không bao giờ dừng, Phật gọi đó là luân hồi sanh tử. Bây giờ biết cái giả là giả, thì không có quan tâm mấy, cần nó thì dùng không cần thì thôi, không có sao hết.

 

Như vậy thì chúng ta tu phải có trí tuệ thấy đúng như thật. Cái giả biết là giả, cái thật biết là thật, đó là chúng ta có trí tuệ. Còn giả mà tưởng là thật thì chúng ta là người si mê. Bây giờ tôi hỏi toàn quý vị  ở đây, quý vị  đang là người giác ngộ hay người si mê? Si mê. Vậy mà ai nói si mê cái nổi giận liền. Mình rõ ràng nếu xét lẽ thật thì chúng ta đang si mê, vì mang thân giả mà ngở là thật, rồi chấp hơn chấp thua, được mất đủ thứ khổ, cho nên đó là si mê. Chúng ta biết giả là giả thì đâu còn si mê nữa. Bởi chúng ta si mê chấp thân giả làm thật, rồi tất cả cái giả khác dồn tới chúng ta cũng thấy thật hết trơn. Mình thấy thân thật thì có ai chửi mình, mình chịu nổi không? Nếu họ chửi mình thì chắc ăn thua tới cùng, chết sống với nhau.

 

Như vậy thì tại thấy thân thật nên lời chửi cũng thật, nếu thấy thân giả thì lời chửi cũng giả, có gì đâu. Thân còn là giả, huống nữa là lời chửi nó qua mất tiêu. Cho nên Phật hồi xưa giác ngộ rồi người ta chửi Ngài cũng thản nhiên tự tại, không giận không hờn. Còn mình bây giờ động tới thì la đông đổng. Như vậy thì mới thấy kẻ mê thì nhiều khổ đau, nhiều phiền não. Còn giác ngộ rồi thì hết phiền não hết khổ đau như vậy đó. Cho nên tu là đưa chúng ta tới chỗ giác ngộ không còn mắc kẹt cái gì hết.

 

Như vậy thì đây để nói rõ rằng, tất cả các pháp không nên chấp có, mà cũng không nên chấp không. Có và không là hai bên, mà chỉ nói là giả.

 

Trở lại thí dụ hồi nảy, mặt trăng dưới đáy nước, giờ chúng ta phải nói nó làm sao? Nói có thì thử vớt lên coi. Vớt không được nói không. Bây giờ để yên nước trong lại nhìn thấy coi có hay không? Nếu không thì sao mắt mình thấy, thấy có rõ ràng. Như vậy nói không cũng không được. Nói đúng nhất là đây là bóng mặt trăng. Bóng mặt trăng là cái giả nó không thật, thì đó là lẽ thấy được chân lý. Còn nói mặt trăng đó là thật, mặt trăng đó không có, đều là trật hết, đều là sai lầm. Đó để cho quý vị  thấy cái mê lầm của chúng ta nó cũng na ná như người nhìn mặt trăng dưới nước vậy đó. Con nít thấy thì tưởng mặt trăng thật, còn người lớn thì thấy biết đó là bóng mặt trăng.

 

Giờ Phật giác ngộ nên biết thân này giả, còn chúng ta thì mê nên nói thân này thật, thì chúng ta giống như con nít vậy thôi mặt trăng ở dưới nước mà cho là thật. Như vậy chúng ta bị cuộc đời lầm lẫn, nó lôi kéo chúng ta đi mãi trong sanh tử luân hồi.

 

Đó là giải thích đoạn này cho biết rằng đừng chấp khẳng định có thật, mà cũng đừng chấp khẳng định là không ngơ. Phải biết tất cả pháp tạm bợ, giả dối không thật.



CHÁNH VĂN :

 

Xả vọng tâm, thủ chân lý,

Thủ xả chi tâm, thành xảo ngụy.

Học nhân bất liễu dụng tu hành,

Chân thành nhận tặc tương vi tử.

 

GIẢNG :

 

Có những vị mới tu nói rằng cái tâm hư vọng là tâm dối, tâm điên đảo tạo nghiệp. Vậy rồi thôi bỏ hết vọng tâm đó để cho mình được cái chân lý, được chân lý là được chân tâm. Bỏ vọng tâm để được chân tâm. Như vậy thì bỏ bên này để được bên kia. Bỏ là xả, được là thủ; cả tâm thủ xả đó cũng thành ra xảo ngụy nữa. Xảo ngụy tức là giả dối không thật. Người tu thấy rõ tâm hư dối nó không thật, cho nên mình không lệ thuộc nó. Khi không lệ thuộc hư dối thì tự nó hiện cái chân thật hiện tiền, không có bỏ cái này mà giữ cái kia gì hết. Cái thật là nó hiện tiền, hiện tiền là tâm mình, còn khởi cái giữ tâm mình thì nó là hai cái: cái giữ và cái tâm; mà hai cái thì không phải là mình rồi.

 

Như vậy cho nên cái vọng mình biết nó rồi, tự nó mất. Vọng mất mà cái biết này là chân, mình giữ hoài cái biết này thì như vậy cái biết vọng là một, cái giữ cái biết nữa là hai, vậy cũng xảo ngụy chớ chưa phải thật. Cho nên vọng, biết vọng không theo thôi đủ rồi, hết vọng thì tự nó chân, chớ không có bỏ cái này giữ cái kia. Bỏ cái này giữ cái kia cũng là bệnh, cũng là hai bên.

 

Vì vậy mà ở đây ngài nói:

 

Xả vọng tâm, thủ chân lý,

Thủ xả chi tâm, thành xảo ngụy.

 

Tức là bỏ vọng tâm mà giữ chân lý, thì tâm giữ và bỏ đó cũng thành tâm xảo ngụy.

 

Học nhân bất liễu dụng tu hành,

Chân thành nhận tặc tương vi tử.

 

Người học đạo không rõ dùng cái đó mà tu hành, cho nên trở thành nhận giặc làm con.

 

Chỗ này tôi nói rộng một chút cho quý vị  hiểu. Đây là chúng ta nói về cách tu niệm Phật. Chúng ta dùng câu niệm Nam mô A Di Đà Phật để trừ hết vọng tưởng. Mình cứ niệm phải câu đó cho tới tất cả vọng tưởng đều lặng hết thì câu niệm Phật đó nó còn hoài được không? Ở đây câu niệm Phật cốt để trừ hết những niệm lăng xăng, niệm lăng xăng hết rồi thì câu niệm Phật cũng phải lặng. Cho nên trong thí dụ ở bên Tịnh Độ có nói, chân chúng ta đạp gai, muốn lấy gai đó ra thì phải mượn gai khác mình lể. Mượn gai khác mình lể gai cũ ra rồi thì gai khác cũng quăng luôn. Nếu gai cũ ra rồi, mà gai mới mình cũng để nguyên trong chân thì hết đau không? Không. Đó, cho nên câu niệm Phật là phương tiện để trừ muôn niệm, khi muôn niệm hết rồi thì câu niệm Phật cũng phải buông.


 

Nhứt cú Di Ðà
Như Lai tạng tâm
Thủy ngoại vô lãng
Khí nguyên thị kim

 

Một câu A Di Ðà
Là tâm tạng Như Lai
Ngoài nước đâu có sóng?
Xuyến, vàng vốn chẳng hai!

 

Có một tu sĩ hỏi vị thượng tọa: "Niệm Phật để làm gì?". Ngài đáp: "Niệm Phật để thành Phật!" Tu sĩ ấy mỉm cười lui về, ý không công nhận. Tu sĩ đó không công nhận vì ông chưa hiểu và chưa ứng dụng được hạnh niệm Phật đi ngay vào Phật cảnh, tức vào tâm tạng của Như Lai. Theo trí phân biệt, ông chỉ chấp nhận và chỉ có thể ứng dụng câu niệm Phật để trừ vọng tưởng, lần lần chứng vào Chân Như mà thôi. Nếu theo tâm chấp tướng phân biệt, người ta thấy sóng với nước, xuyến cùng vàng khác nhau. Nhưng thật ra, các thứ đó chẳng phải một, cũng chẳng phải hai. Nếu các hành giả niệm Phật từ thí dụ này để tìm hiểu, tất sẽ xóa tan niệm phân biệt, dung hòa tâm với cảnh, thể nhập pháp môn Bất Nhị, đi ngay vào tạng tánh Phật, đại khái ý nghĩa như thế. Thuở xưa, một hành giả khi chứng ngộ vào cảnh giới này đã có bài kệ:


Bước đường vô vị đã cùng rồi
Thấy sóng là đâu chỉ nước thôi !
Ông Triệu siêu quần chi lắm đó
Mặt mày trông cũng thế mà thôi.


 

 

Nhứt cú Di Ðà
Như thủy thanh châu
Phân vân tạp niệm
Bất đoạn tự vô.

 

Một câu A Di Ðà
Như ngọc lắng trong nước
Ngàn muôn tạp niệm rối
Chẳng dứt tự thành không.

 

Hạt châu Thủy Thanh có công năng lóng nước đục thành trong. Câu niệm Phật cũng thế, không luận vọng niệm nhiều ít, hành giả cứ chuyên chú giữ chắc sáu chữ hồng danh lâu ngày, tạp niệm tự nhiên tan mất. Ðiểm đáng lưu ý trong đây là không nên khởi tâm dứt trừ vọng niệm. Vì vọng niệm vốn như huyễn, cố tình muốn dẹp, nó lại càng tăng. Một nhà hiền triết đã nói kinh nghiệm này qua câu: "Càng muốn đè nén, chính là cố tâm làm cho nó thêm phát khởi." (Tương dục án chi, tất cố hưng chi).


Khi xưa có một Tú Tài đến phỏng đạo nơi bậc cao đức, vị Thiền sư này hỏi: “Cư sĩ tên họ chi?" Tú Tài đáp: "Thưa, đệ tử nhũ danh Trương Chuyết". Chữ Chuyết có nghĩa là vụng về. Thiền Sư nghe xong bảo: “Với đạo khéo còn chẳng có, huống chi đến vụng!" Tú Tài nghe qua liền ngộ vào Bất Nhị pháp môn, làm kệ trình lên rằng:


Ánh linh lặng chiếu khắp hằng sa
Phàm thánh nguyên lai bản tánh ta
Một niệm chẳng sanh toàn thể hiện
Sáu căn vừa động bị mây lòa
Dứt trừ phiền não càng thêm bịnh
Tìm tới Chân Như cũng vẫn tà
Tùy thuận các duyên không trở ngại
Niết bàn sanh tử tợ không hoa.


Theo ý hai câu luận bài kệ trên, phiền não vốn là không, là huyễn, cứ mặc nhiên giữ chánh niệm, nó sẽ tự tiêu tan. Nếu khởi ý dứt trừ thì phiền vọng lại hóa thành có. Chân Như là thể tánh tự nhiên, biết lặng lẽ dung hợp với tự nhiên, tánh Chân Như sẽ hiển lộ. Nếu khởi tâm tìm tòi xu hướng, tức có niệm phân biệt, trái với thể bản nhiên, đó chính là tà vọng. Ðể bổ túc ý trên, xin ghi thêm lời của Ðàm Hư đại sư, một bậc cao tăng cận đại thuộc giáo phái Thiên Thai bên Trung Quốc.


Ðây Phật Tổ quê hương
Xứ xứ hiện phong quang
Nước non miền đất rộng
Ưng tự có biên cương
Ðộng vật tùy sanh trưởng
Thực vật tự phô trương
Nắng mưa tùy đổi tiết
Tháng năm tự đoản trường
Vinh hư muôn tượng hiện
Là tự thể chân thường
Nếu cố ý cầu toàn
Trở lại bị tổn thương!


  

 

Nhứt cú Di Ðà
Tánh bản tự không
Tinh giai củng Bắc
Thủy tận triều Ðông.

 

Một câu A Di Ðà
Tánh thể vốn tự không
Các sao chầu Bắc Ðẩu
Muôn nước chảy về Ðông.

 

Một tín nữ đến thuật lại với bút giả: "Có vị sư-cô bảo con bỏ hết đừng nên niệm Phật nữa, hãy để lòng yên lặng cho tâm không, cảnh không, mới mau ngộ đạo!". Bút giả nói: "Các pháp đều như huyễn, câu niệm Phật cũng như huyễn, tự thể của nó đã là không rồi, cần gì phải bỏ? Nếu muốn chứng được tâm không, cảnh không, mà còn ngại câu niệm Phật, còn bác bỏ sự tướng, thì đó chính là Thiên Không hay Ngoan Không (cái không thiên lệch, trống rỗng, cứng chắc) của ngoại đạo, chớ chẳng phải ý nghĩa Chân Không của Phật pháp. Ý nghĩa chân không chân chánh của đạo Phật ở ngay nơi tất cả cái có thuộc mọi sự tướng, mà không chấp thấy là có (Chân không bất không, diệu hữu phi hữu). Chẳng phải riêng sư cô ấy lạc lầm, trong hiện tại có rất nhiều vị tu học Phật pháp đã sa vào hầm hố đó. Thật là điều không may và đáng thương cảm!" Nay nhân tiện xin tạm mượn sự việc trên để giải thích về ý nghĩa "tự không" của câu niệm Phật.


Theo quan niệm địa dư xưa, người Trung Hoa cho rằng vùng đất của loài người ở là một châu lớn, chỗ họ cư trú thuộc Trung Quốc. Phía Ðông của châu ấy là biển cả, muôn dòng nước ở lục địa đều chảy ra đó. Người Việt Nam hấp thụ văn hóa Trung Hoa, cũng đồng với quan điểm ấy. Bởi thế cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm mới có câu: "Hồng nhật Ðông thăng tri đại hải. Bạch vân Tây vọng thị thần châu". Và theo thiên văn học xưa, người Trung Hoa bảo rằng các vì sao đều chầu hướng về ngôi Bắc Ðẩu. Ðể dẫn giải cho Phật pháp, Triệt Ngộ đại sư cũng phương tiện mượn quan niệm thế gian ấy mà làm thí dụ. Bởi tất cả pháp đều từ nơi biển Chân Không lưu xuất và đều tan về Chân Không. Bên tông Tịnh Ðộ gọi thể Chân Không đó là Tự Tánh Di Ðà.

 

Bài kệ trên đại ý: Câu niệm Phật tánh vốn TỰ KHÔNG, KHI HÀNH GIẢ TỪ KHỞI ĐIỂM NÀY tu tiến chứng thể tánh ấy một cách viên mãn, sẽ thức ngộ muôn pháp từ nơi đó mà lưu xuất, lại cũng qui nhập về nơi đó. Như sao Bắc Ðẩu làm chủ muôn sao, muôn sao chầu về Bắc Ðẩu, biển Ðông dâng nước vào các sông ngòi, nước sông ngòi đều đổ về biển Ðông vậy.



Vì vậy trong nhà Phật thường thí dụ. Như con mắt mình đang trong, đang sáng. Bây giờ có người nói để lấy một chút mạt vàng hay mạt ngọc gì đó để vô con mắt cho nó tốt hơn, rồi bỏ vô mắt mình thì sao? Cái đó là của quí mà bỏ vô mắt thì nó có sáng hơn không, hay là nó bệnh? Vì vậy cho nên cái chỗ chân thật đó nó không còn các niệm nào, cho nên nói niệm Phật tới vô niệm đó. Từ một câu niệm Phật để đánh tạt hết các niệm khác rồi, cuối cùng câu niệm Phật đó từ từ chúng ta cũng phải buông. Buông câu Phật niệm rồi đó gọi là vô niệm. Niệm tới vô niệm gọi đó là nhất tâm. Như vậy thì niệm Phật là phải đi tới chỗ niệm mà vô niệm, nếu còn niệm thì đó là nhất niệm chớ không phải nhất tâm. Còn nhất niệm thì còn động, còn động là còn sanh diệt. Cho nên đi tới chỗ vô sanh thì phải là vô niệm.

 

 

Nhứt cú Di Ðà
Minh minh thị hữu
Tứ biện, bát âm
Bà tâm khổ khẩu!

 

Một câu A Di Ðà
Rõ ràng chính là có.
Dùng tứ biện, bát âm
Khổ lời thương giải tỏa!

 

Trong cảnh giới Nhứt Chân, chẳng phải rỗng không, cũng chẳng phải thật có các pháp. Cho nên Tâm Kinh nói: "Này Xá Lợi Tử! Huyễn sắc chẳng khác chân không, chân không chẳng khác huyễn sắc. Huyễn sắc chính là chân không, chân không chính là huyễn sắc". Tóm lại, Chân Không chẳng phải cái không trống rỗng, mà chính nó ở ngay nơi hiện tượng huyễn hữu. Có một số người tu về Không môn, như Thiền tông chẳng hạn, chưa hiểu chân lý này, lầm nhận chân tâm là một tự thể sáng suốt rỗng không. Chư cao đức bên Tông môn cũng bác lối tu theo nhận thức sai lạc ấy, cho đó là Hư Ðầu Thiền. Bởi hiểu biết sai lạc như thế, nên họ rất ngại niệm Phật, cho tu Tịnh Ðộ còn có cái chướng của tướng có, như cát lẫn vào cơm. Hoặc họ cũng nhận niệm Phật là có công đức, nhưng còn thuộc về pháp hữu vi. Vì vậy, trong số các vị ấy có người đã mượn câu nói của cổ đức để thí dụ: "Mạt vàng tuy là quí, nhưng rơi vào mắt thì xốn xang thành bịnh!". Kỳ thật cổ nhơn cũng có lời ấy, song nói với một ý khác về bên Thiền khi hành giả hỏi, chớ không phải thuộc bên Tịnh. Các vị ấy cũng không hiểu: Pháp vô vi dung thông bao quát, đâu riêng có ngoài pháp hữu vi?


Thuở xưa ni cô Ðạo Càn đến chùa Quốc Thanh ở non Thiên Thai để phỏng đạo, có hỏi Bảo Lâm Trân thiền sư: "Bạch tôn đức! Thế nào là tướng đại nhơn?". Trân công đáp: "Ðợi khi nào ngươi trừ hết ngũ chướng, đến đây ta sẽ nói cho!" Ni cô thưa: "Thế thì Hòa thượng đã bị che lầm rồi đấy!" Ngũ chướng là thân tướng người nữ. Ý Ðạo Càn muốn nói Chân Tánh không có tướng nam nữ, nếu y cứ nơi hình tướng để tìm chân tánh là sai lầm. Ngài Bảo Lâm Trâm nghe nói biết chỗ tu của Ni cô còn lạc vào lối chấp Thiên Không, nên quát bảo: "Ngươi học ở đâu được cái Hư Ðầu Thiền như thế?". Ðạo Càn bị quở, bất giác xuất hạn dầm mình, chợt tỏ ngộ, liền cúi xuống đảnh lễ. Trân công gạn hỏi lại: "Thế nào là tướng đại nhơn?". Ni cô liền đứng chẩm hẩm, giang đôi chân, giăng hai tay ra. Ðây là hành động biểu thị tướng đại trượng phu, cũng ngầm nêu rõ tánh Chân Không ở ngay trong tướng có. Ngài Bảo Lâm Trân thấy thế biết cô đã lãnh ngộ, liền gật đầu ấn khả.


Bài kệ trên của tổ Triệt Ngộ, nhấn rõ lý Chân Không ở ngay nơi hình thức Diệu Hữu của một câu A Di Ðà, nên mới nói: "Rõ ràng chính là có". Tứ biện tài như tập trước đã dẫn giải. Còn “bát âm” là tám giọng nói của Phật, gồm có: 1. Âm thanh rất trong tốt. 2. Âm thanh cực dịu dàng. 3. Âm thanh hòa nhã thích ý. 4. Âm thanh tôn trọng sáng suốt. 5. Âm thanh không pha lẫn giọng nữ. 6. Âm thanh giác ngộ không mê lầm. 7. Âm thanh rất sâu xa. 8. Âm thanh sang sảng tuôn trào bất tận. Vì thương xót muốn cho chúng sanh giác ngộ, chư Phật đã dùng bốn thứ vô ngại biện tài, tám điệu âm thanh, khổ thiết tỏ bày dẫn đủ phương tiện chỉ rõ lý Chân Không ở ngay trong Diệu Hữu. Và chư tổ sư trước nay cũng đã thương xót nói đến đắng miệng cạn lời để giải thích lý này.



32.-Ẩn tu niệm chẳng thánh cùng phàm

Mắt huệ can chi dính mạt vàng ?

Hữu tướng tức đồng Vô tướng niệm

Chân Không huyễn sắc khắp bao hàm.

 

NHƯ Ý : Trong Thiền-lục có ghi câu chuyện đại khái như sau:  Có vị THIỀN giả đến Trình-bày kiến giải  với một Bậc Tôn-Đức, Bậc Tôn-Đức thấy thiền  giả Tuy có chỗ sở đắc,  song còn ưa đấm cảnh giới THANH TỊNH an vui của Thiền.

 

Liền bảo: MẠT VÀNG Tuy-quý, nhưng để nó dính vào đôi TRỒNG, tức còn làm XỐN con mắt.

 

Gần đây một vị tu thiền góp nhăc ý này, khi thấy có ai niệm phật, lại dùng câu ấy để bác phá, làm HOẠI Đường tu của người niệm phật, trong khi họ chưa thể Hành-thiền, trong KINH KIM CANG Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: Nhược kiến chư tướng PHI tướng, tức kiến như lai”.

 

Giải một cách thoát văn là : Khi thấy các tướng Hữu vi nên dùng tâm ấn Hiệp, như gương sáng in muôn trượng không khởi Ý chấp hoặc bỏ,  tức là thấy PHẬT hay thấy được Phật TÁNH.

 

 Niệm PHẬT tuy HỮU tướng, nhưng khi hành giả đứt hẳn PHÀM Tâm và THÁNH Tâm, không sanh NIỆM chấp hay bỏ, Tức là đồng với VÔ tướng rồi.

 

Lại nói thêm cho rõ, VÔ tướng  đây chẳng phải rỗng KHÔNG mà chính là gồm đủ MUÔN sắc tướng, chỉ vì không chắp nên Huyễn-sắc mới tức Chân-không, TÂM thể ta rộng khắp mười phương bao gồm chân không tức phần không chân như, và huyễn sắc tức phần bất KHÔNG chân như, như trong Đại-thừa Khởi-tín luận đã diễn giải, nếu hiểu và thực hành đúng như thế, làm sao Niệm Phật Tụng Kinh lại dính MẠT VÀNG được ?


  

 

Nhứt cú Di Ðà
Vô tận bảo tạng
Bát tự đả khai
Phổ đồng cúng dường.

 

Một câu A Di Ðà
Là kho báu vô tận
Tám chữ mở toang ra
Khắp cho không tiếc lẫn.



Tám chữ trên đây, là "Ðại từ đại bi A Di Ðà Phật". Trong Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục có thuật chuyện một hành giả niệm Phật, khi lâm chung thấy tám chữ ấy hiện ra giữa hư không to lớn, sắc như vàng ròng. Tám chữ ấy hàm ý tiêu biểu cho bốn mươi tám bi nguyện độ sanh rộng lớn của đức A Di Ðà Thế Tôn. Song về sự trì niệm thì yếu ước lại chỉ có sáu chữ "Nam mô A Di Ðà Phật". Sao gọi là tám chữ, hay sáu chữ mở kho báu vô tận?


Theo Hiển Giáo, sáu chữ ấy tiêu biểu cho sự nương về kho vô lượng thọ mạng, vô lượng quang minh, vô lượng công đức.


Theo Mật giáo, về quyển Thánh Tài Tập, sáu chữ đó là chủng tử của năm đức Phật. Hai chữ Nam Mô có nghĩa là quy mạng. Mạng là Thọ Thường Trú, tức chỉ cho đức Tỳ Lô Giá Na Như lai. Còn bốn chữ kia, theo thứ tự là chủng tử của năm đức Phật. Hai chữ Nam Mô có nghĩa là quy mạng. Mạng là Thọ thường trú, tức chỉ cho đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Còn bốn chữ kia, theo thứ tự là chủng tử của bốn đức Phật: A Súc Bệ, Bảo Sanh, A Di Ðà, và Bất Không Thành Tựu. Cho nên sáu chữ hồng danh là kho bí mật, gồm thâu tất cả chánh báo, y báo khắp mười phương.


Theo Tâm giáo, sáu chữ này là kho chân tâm, gồm nhiếp tất cả nhân quả, tánh tướng, phước huệ, sự lý. Vì thế nên gọi: "Một câu A Di Ðà là kho báu vô tận".


Về điểm dùng tám chữ hay yếu ước lại sáu chữ, để mở kho báu vô tận, cổ nhơn đã có câu:

 

"Lục tự đả khai vô tận tạng.

Thâu lai phóng khứ chỉ như nhiên".

 

Hai câu này có ý nghĩa:

 

Niệm sáu chữ hồng danh có thể mở toang kho báu vô tận như trên đã nói. Và khi đã thể nhập vào kho chân tâm, thì niệm tức là vô niệm, vô niệm tức là niệm, buông ra thâu vào đều ở trong trạng thái như như.


Chư Phật Thế Tôn, chư Bồ Tát, chư Tổ, vì lòng bi nguyện, đã đem tám chữ hay sáu chữ nầy mà phổ thí cúng dường khắp tất cả loài hữu tình, để cho chúng sanh mở được cửa và thọ dụng kho báu vô tận ấy.


Người tu thiền cũng vậy thôi, mình tu ngồi yên. Thí dụ người theo hơi thở thì mượn hơi thở. Tới chừng tâm nó yên rồi thì hơi thở mình cũng bỏ luôn. Người tu thiền có khi dùng phương tiện quán thân bất định hay gì đó, thì khi tâm mình nó yên rồi thì cũng bỏ luôn, thì mới đi tới chỗ hoàn toàn an định, mà an định rồi mới giải thoát sanh tử, mới gọi là nhập Niết bàn. Chớ còn chưa được an định thì chưa được Niết bàn.

 

Cho nên hiểu thấu đáo được con đường tu Phật dạy, vì tinh thần, trình độ của người học Phật khác nhau nên Phật phải có nhiều pháp môn, để tùy theo trình độ. Thí dụ ai thích mình sau chết thì sau được sanh chỗ nào cho vui thì Phật nói niệm Phật đi chết được về Cực Lạc. Mà niệm chừng nào nhất tâm bất loạn nhắm mắt mới được Phật đón. Còn ai tự thấy có khả năng quán chiếu được mình thì dùng phương pháp Thiền, ai muốn linh thiêng Phật bảo trì chú đi. Thí dụ trì câu “Án ma ni bát di hồng” có biết gì đâu, cứ đọc mãi câu chú đó linh lắm mình tin như vậy, rồi tới ngày nào đó định được tâm thì câu chú cũng lặng luôn.

 


Án Ma Ni Bát Di Hồng

( OM MANI PADME HUM)

Tam Tạng Pháp Sư Tuyên Hóa Thượng Nhân giảng vào năm 1971

 

Nếu quý vị có thể thường xuyên trì tụng Chú Lục Tự Đại Minh thì sẽ chiêu cảm được sáu đạo ánh sáng có công năng biến đổi sự tối tăm của sáu nẻo luân hồi trở nên sáng lạn.

 

Sáu chữ nầy gọi là “Chú Lục Tự Đại Minh”, mỗi chữ đều có thể phóng ra một luồng ánh sáng.

Mật tông chuyên nghiên cứu về lời và ý nghĩa của thần chú. Phật giáo phân thành năm tông phái là: Thiền tông, Giáo tông, Luật tông, Mật tông và Tịnh Độ tông. Thiền tông chuyên về tham thiền tĩnh tọa; Giáo tông chuyên về giảng kinh thuyết pháp; Luật tông thì tu trì, nghiêm tịnh giới luật, làm mô phạm trong ba cõi. Về Mật tông, thì “mật” là bí mật, là “không biết lẫn nhau” (hỗ bất tương tri). Tịnh Độ tông thì chuyên trì danh hiệu, niệm sáu chữ hồng danh “Nam Mô A Di Đà Phật”.

Trong năm tông phái nầy, có người cho rằng Thiền tông là hơn hết; có người lại cho Giáo tông hay nhất; lại có người cho Luật tông là đứng đầu; người tu theo Mật tông thì nói Mật tông của mình là cao siêu nhất; người tu theo pháp môn Tịnh Độ thì nói pháp môn Tịnh Độ là số một, không gì sánh bằng. Trên thực tế, các pháp đều bình đẳng, không có cao thấp—“thị pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ”. Cho rằng một pháp nào đó tối thắng, chẳng qua chỉ là cái thấy của cá nhân, mình thích tông nào thì cho tông đó là nhất.

Bây giờ chúng ta đang nói về Mật tông. Theo cách hiểu thông thường của mọi người thì Mật tông là Lạt Ma giáo. Kỳ thực, Mật tông không phải là cái gì bí mật. Trong Hiển giáo thì Hiển-Mật viên thông—trong Hiển giáo cũng có Mật giáo; như Chú Đại Bi, Chú Lục Tự Đại Minh đều là “mật” cả. Chú Lăng Nghiêm lại càng “mật” hơn nữa. Nên nói “mật” chính là, không biết lẫn nhau.

Người không hiểu thì cho rằng cái gì bí mật mới tốt nhất, vì nó không được truyền bá công khai. Có một số người không hiểu Phật Pháp, lại càng làm ra vẻ thần bí, bảo: “Cái nầy không thể giảng cho ông nghe được. Mật tông của tôi ấy à, không thể giảng cho ông nghe được đâu!” Quý vị không thể giảng cho người khác nghe, thì tại sao quý vị lại đề cập đến nó chứ? Tại sao quý vị lại nói: “Tôi không thể giảng cho ông nghe”? Nếu thật sự là Mật tông thì phải không nói gì cả mới đúng, tại sao quý vị còn nói: “Tôi không thể giảng cho ông nghe”? Quý vị nói rằng mình không thể giảng, song, như thế có phải là quý vị đã giảng rồi không? Đó chính là quý vị đã giảng rồi đấy! Thế tại sao còn nói là không thể giảng được? Là vì không hiểu rõ Phật Pháp, căn bản không hiểu được cái gì gọi là “Mật Tông”!

Bây giờ tôi sẽ nói cho quý vị nghe về Mật tông. Lời chú, thật ra không có gì bí mật cả. Sở dĩ được gọi là Mật tông, vì khi quý vị trì tụng lời chú, bản thân quý vị sẽ nhận được sự linh cảm mà tôi không thể biết được; khi tôi trì tụng lời chú, thì bản thân tôi sẽ có được sự linh cảm mà quý vị không thể biết được. Vì chúng ta không thể biết được công năng và sức mạnh của lời chú đối với mỗi người, cho nên gọi là Mật tông; chứ bản thân bài chú tuyệt đối không phải là Mật tông. Chính năng lực của chú mới là “mật”. Đó là ý nghĩa của Mật tông vậy.

Nếu lời chú là bí mật, thì quý vị không nên truyền cho người khác; một khi quý vị đem truyền cho người khác thì nó không còn là bí mật nữa. Cũng thế, Lục Tổ và Huệ Minh có một đoạn đối đáp như sau:

Huệ Minh hỏi: “Ngoài mật ngữ mật ý Ngài vừa giảng, còn mật ý nào nữa chăng?”

Lục Tổ đáp: “"Ðiều tôi nói với ông đó chẳng phải là mật. Nếu ông phản chiếu, thì mật ấy ở ngay nơi ông."

Quý vị thấy không, đoạn đối đáp trên đã nói rất rõ ràng: Điều mà quý vị có thể nói ra thì chẳng còn là bí mật nữa. Những gì có thể trao truyền cho quý vị cũng giống như thế. Nếu là bí mật thì không nên truyền. Sự bí mật vốn ở ngay nơi quý vị, sát bên cạnh quý vị. Đây mới chính là cái được gọi là bí mật.

Tôi tin rằng ngay cả các Pháp sư của Mật tông cũng không biết cách giải thích về “mật tông” như thế nào; họ chỉ cho rằng bài chú là bí mật. Nhưng bài chú nào cũng đều có thể trao truyền cho mọi người, lời chú nào cũng đều có thể nói ra; không có bài chú nào là không thể nói ra cả! Nếu không được nói ra thì họ sẽ không có cách nào để truyền cho quý vị, có đúng vậy không nào? Chúng ta giảng chân lý nầy là vì nó có thể được truyền đạt cho quý vị, không phải là bí mật—đây không phải là Mật tông!

“Mật,” thì không có cách gì để truyền đạt. Điều bí mật chính là năng lực của bài chú. Không ai có thể nói cho quý vị biết chú nầy có năng lực gì, hoặc quý vị trì tụng thì sẽ như thế nào, như thế nào; mà “như người uống nước, nóng lạnh tự biết”—chỉ có quý vị tự mình biết mình mà thôi, người khác không thể nào biết được, do đó gọi là “mật”. Năng lực là bí mật, sự cảm ứng là bí mật, diệu dụng là bí mật, chứ không phải bài chú là bí mật! Bây giờ quý vị đều hiểu rõ rồi chứ?

Những người không hiểu rõ Phật Pháp ắt hẳn cho rằng tôi giảng không đúng. Cho dù là không đúng, tôi cũng vẫn muốn nói như vậy. Quý vị cho là tôi đúng ư? Quý vị không thể nào nói như vậy được! Bởi vì quý vị vốn hoàn toàn không hiểu gì cả, thì làm thế nào quý vị biết được là tôi hiểu!!! Tôi thì càng không hiểu gì cả; tôi còn hồ đồ hơn nữa! Có điều, trước kia sư phụ tôi đã chỉ dạy cho tôi rất rõ ràng, cho nên mới biến đổi kẻ hồ đồ này thành một người biết giảng Chú Lục Tự Đại Minh của Mật tông!

Mật tông được chia thành năm bộ—Đông, Tây , Nam , Bắc, và Trung ương. Phương Đông là bộ Kim Cang, chuyên hộ trì chánh pháp; bộ Bảo Sanh ở phương Nam; bộ Liên Hoa ở phương Tây; bộ Yết Ma ở phương Bắc và bộ Phật ở chính giữa. Nếu có thời gian quý vị hãy nghiên cứu Chú Lăng Nghiêm, trong đó có giảng về năm bộ này một cách tường tận.

Trên thế gian, nếu có một người trì niệm Chú Lăng Nghiêm thì ma vương không dám xuất hiện; nếu không có người biết trì niệm Chú Lăng Nghiêm thì ma vương trong ba ngàn đại thiên thế giới sẽ lũ lượt kéo đến thế gian. Tại sao ư? Vì không có người quản thúc chúng, năm bộ đều không hoạt động, cho nên ma vương mới dám xâm nhập thế gian. Bởi nếu có một người biết tụng Chú Lăng Nghiêm thì ma vương sẽ không dám xuất hiện, cho nên chúng tôi mong muốn có thêm nhiều người trì tụng Chú Lăng Nghiêm. Trong khoá tu học hè đầu tiên của chúng ta, trước hết, tôi đã khảo hạch xem ai có khả năng học thuộc Chú Lăng Nghiêm. Kết quả là có hai người đạt tiêu chuẩn, sau đó lại có thêm rất nhiều người có thể tụng chú được. Bây giờ tôi sẽ giảng về Chú Lục Tự Đại Minh.

Đầu tiên là chữ “Án”. Khi quý vị tụng chữ “Án” nầy, tất cả quỷ thần đều phải chắp tay lại. Vì sao phải chắp tay lại? Đó là giữ gìn pháp tắc, tuân theo khuôn phép. Quý vị tụng một chữ nầy, thì tất cả quỷ thần đều không dám gây rối, không dám không tuân theo mệnh lệnh. Chữ nầy có nghĩa là “tiếng dẫn” (dẫn thanh), là tiếng mở đầu dẫn tới những lời chú tiếp theo, cho nên khi đọc chú, đầu tiên đều đọc chữ nầy.

Ma Ni” chính là “mâu ni”. “Mâu ni” là tiếng Phạn, dịch là “trí tịch,” tức là dùng trí huệ để làm sáng tỏ tất cả các đạo lý, và do đó đạt đến trạng thái tịch diệt vô sanh. Lại có thể dịch là “ly cấu,” nghĩa là rời xa tất cả bụi bặm dơ bẩn, ví như viên ngọc “như ý,” rất toàn hảo, không có chút tỳ vết. Viên bảo châu “như ý” nầy có công năng sanh trưởng tất cả công đức, có thể đáp ứng mọi sở nguyện của con người.

Bát Di” vốn nên đọc là “Bát Đặc Di,” dịch là “quang minh viên giác”; cũng dịch là “liên hoa khai,” tức là diệu tâm của Bồ tát Quán Thế Âm, diệu tâm ấy viên mãn đầy đủ, vô ngại. Đó là chữ “bát di.”

Chữ “Hồng” có nghĩa là “xuất sanh” —tất cả mọi thứ đều có thể được sanh ra từ chữ “Hồng” nầy. Lại có nghĩa là “ủng hộ” —niệm chữ nầy thì liền cảm ứng chư hộ pháp thiện thần đến trợ giúp, che chở cho quý vị. Lại còn có nghĩa là “tiêu tai” —quý vị có tai nạn gì, tụng chữ nầy liền được tai qua nạn khỏi. Lại cũng có nghĩa là “thành tựu” —bất luận quý vị cầu nguyện điều gì, đều có thể được thành tựu như ý.

Một khi quý vị niệm Chú Lục Tự Đại Minh, thì sẽ có vô lượng chư Phật, vô lượng Bồ tát và vô số hộ pháp Kim Cang thường xuyên đến ủng hộ quý vị. Cho nên, Bồ tát Quán Thế Âm sau khi nói xong Chú Lục Tự Đại Minh nầy, liền có bảy ức đức Phật đến vây quanh, ủng hộ. Năng lực và diệu dụng của Chú Lục Tự Đại Minh không thể nghĩ bàn, sự cảm ứng đạo giao cũng không thể nghĩ bàn. Do vậy nên gọi là Mật tông. Nếu giảng chi tiết hơn thì ý nghĩa nhiều đến vô lượng vô biên, không thể nào nói cho hết được; thế nên tối nay tôi chỉ giảng sơ lược cho đại chúng nghe mà thôi.

Tôi có thể cho quý vị biết một chút về thứ thần lực bí mật không thể nói ra được. Tại sao tôi bảo là “thần lực bí mật không thể nói ra được”? Bởi vì những điều tôi nói thì chưa được một phần vạn của sự việc. Thế là thế nào? Nếu quý vị có thể thường xuyên trì tụng Chú Lục Tự Đại Minh thì sẽ chiêu cảm được sáu đạo ánh sáng có công năng biến đổi sự tối tăm u ám của sáu nẻo luân hồi trở nên sáng lạn. Điều cần thiết là quý vị phải chuyên tâm trì tụng mới có thể đạt được thứ Tam-muội này. Bấy giờ, ánh sáng không chỉ chiếu khắp trong sáu nẻo luân hồi, mà cả mười Pháp giới cũng biến thành “quang minh tạng”. Tôi hy vọng mọi người dù bận rộn đến đâu cũng nên nhín  chút thì giờ để trì tụng Chú Lục Tự Đại Minh nầy.

Như vậy phương tiện thì có nhiều, nhưng cứu kính thì không hai. Hiểu như vậy thì ai tu cái nào cũng tốt, mà phải tu đến nơi, chớ đừng tu lơ mơ rồi cải lộn với nhau vô ích. Đó là chỗ hiểu thấu đáo, hành thấu đáo. Bây giờ người tu đi chưa tới cửa, đứng ngoài cải lộn nhau, cái nhà đó có cái gì cái gì, vô ích quá.

 

Cho nên có nhiều người đặt câu hỏi với tôi, nói chúng tôi niệm Phật sau chết về Cực Lạc, còn thầy tu thiền chết rồi đi đâu? Quý vị  nghĩ trả lời làm sao? Chết rồi cái mơ mơ, không biết đi đâu nữa. Nhưng đâu có ngờ Phật nói chỗ cuối cùng là hết sanh tử, giải thoát sanh tử mà. Nếu còn sanh là còn tử. Vì vậy mà muốn đi tới chỗ hết sanh tử thì phải hết niệm, hết vọng tưởng. Vọng tưởng hết, niệm hết rồi thì không tạo nghiệp, chừng đó nhắm mắt thì nhập Niết bàn vô sanh. Chớ hỏi đi đâu nữa là hỏi chuyện đi trong sanh tử. Đó là chỗ mà người học Phật chưa tới rồi cứ ngờ, rồi hỏi qua hỏi lại. Vì vậy mà tôi nói rộng cho quý vị  biết sự tu nó là như vậy. Không phải như người ta hiểu tưởng tượng bằng cách mình sanh chỗ kia vui, chỗ nọ buồn không phải. Chỉ là người tu mà còn sanh trong lục đạo mới có vui buồn, nếu đi tới chỗ cứu kính thì không có cái vui buồn đó nữa.

 

  

 

Nhứt cú Di Ðà
Thành Phật tiêu chuẩn
Dĩ niệm Phật tâm
Nhập Vô Sanh Nhẫn

 

Một câu A Di Ðà
Là thành Phật tiêu chuẩn
Dùng tâm hạnh niệm Phật
Chứng vào Vô Sanh Nhẫn.

 

 

Niệm Phật chẳng riêng khi lâm chung được sanh về cõi Phật mà thôi. Trong hiện tại nếu hành giả nhiếp cả sáu căn, giữ cho tịnh niệm nối luôn, và có thể ngay đời này được ngộ đạo, chứng vào Vô Sanh Pháp Nhẫn. Cho nên gọi: Niệm Phật là tiêu chuẩn thành Phật.

 

    

 

Nhứt cú Di Ðà
Chứng tam bất thối
Chỉ thử nhất sanh
Tiện bổ Phật vị

 

Một câu A Di Ðà
Chứng ba ngôi Bất Thối
Chỉ trong một đời này
Ðược bổ lên Phật vị

 

   

Ba ngôi Bất Thối Chuyển là: Vị Bất Thối, Hạnh Bất Thối, và Niệm Bất Thối. Cứ theo Thiên Thai Giáo, chứng được đệ nhất bất thối tâm trụ, mới lên ngôi Vị Bất Thối. Chứng Thập Hồi Hướng, lên ngôi Hạnh Bất Thối. Và chứng Sơ Ðịa mới vào ngôi Niệm Bất Thối. Nhưng ước theo đường lối phổ thông của Ðại Thừa giáo thì phá được kiến tư hoặc mới lên ngôi Vị Bất Thối. Phục đoạn trần sa hoặc, lên ngôi Hạnh Bất Thối. Và tiến phá vô minh hoặc, mới vào ngôi Niệm Bất Thối. Như thế chứng được ba ngôi bất thối thật không phải dễ! Theo các giáo môn khác, tất phải tu tập trải a tăng kỳ số kiếp mới chứng nhập được. Với pháp môn Tịnh Ðộ, khi được vãng sanh kể như vĩnh viễn không còn bị thối chuyển nữa. Ðiều này, theo kinh giáo, gọi là Xứ Bất Thối. Từ Xứ Bất Thối, địa vị tam bất thối là cầm chắc trong tay, lần lượt sẽ tiến lên Phật qủa. Cho nên kinh Di Ðà nói: “Là bậc A Bệ Bạt Trí (Bất thối chuyển)". Chư thiện nhơn ở Cực Lạc sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, chỉ trong một kiếp sanh về nơi đó đã dư thời gian chứng lên ngôi Nhứt Sanh Bổ Xứ, được bổ vào Phật vị rồi.



CHÁNH VĂN :

 

Tổn pháp tài, diệt công đức,

Mạc bất do tư tâm ý thức.

Thị dĩ thiền môn liễu khước tâm,

Đốn nhập vô sanh tri kiến lực.

 

GIẢNG :

 

Tổn pháp tài, diệt công đức, là làm tổn hao tài sản chánh pháp của mình mà lại diệt mất các công đức.

 

Mạc bất do tư tâm ý thức. Tư là đây. Đâu hẳng do đây tâm ý thức. Tâm ý thức là cái làm cho mình tổn pháp tài, làm cho mình diệt công đức. Bởi sao? Vì tâm ý thức mình nó lăng xăng, nó lộn xộn; do lăng xăng lộn xộn nên nó làm thương tổn tới chánh pháp, làm thương tổn đức hạnh của mình. Quý vị  thấy mình làm sai, mình làm bậy là tại cái gì? Tại ý thức nghĩ bậy, nghĩ sai. Từ ý thức nghĩ bậy, nghĩ sai rồi làm bậy làm sai, đó là tổn hao pháp tài, tổn hao công đức của mình. Vì vậy mà ý thức là cái gốc, tâm ý thức là cái gốc tội lỗi.

 

Thị dĩ thiền môn liễu khước tâm, thế nên trong nhà thiền khi liễu ngộ được tâm mình rồi.

 

Đốn nhập vô sanh tri kiến lực. Tức là chống vào tri kiến, cái sức tri kiến vô sanh của mình, thể nhập được cái vô sanh.

 

Trong nhà thiền dạy chúng ta tu là phải làm sao nhận chân được cái chân thật của mình. Bởi mình có cái chân thật mà bỏ quên, cứ chạy theo ý thức lăng xăng tạo nghiệp. Quý vị  có cái chân thật không? Có người nào nghèo không có không? Tất cả chúng ta đều có hòn ngọc quí là tâm chân thật của mình.

 

Bây giờ tôi nhắc lại chư tâm như khi nảy tôi nói tâm là cái biết. Nhưng có hai thứ biết, biết bằng suy nghĩ lăng xăng sanh diệt và biết bằng hiện tiền mà không suy nghĩ. Cái biết suy nghĩ lăng xăng gọi là vọng tâm, cái biết hiện tiền mà không suy nghĩ là chân tâm. Bây giờ tôi trở lại thí dụ hồi nảy, quý vị  ngồi chơi thản nhiên không nghĩ gì hết, mà tiếng chim kêu mình biết là tiếng chim, tiếng chó sủa mình biết là tiếng chó sủa, người đi qua biết là người, cây mình biết là cây. Tất cả cái thấy biết hiện tiền, thấy biết hiện tiền thì có mình không? Mà cái biết đó có suy nghĩ không? Vậy mà mình có nhớ nó đâu, chỉ nhớ cái suy nghĩ trong đầu không hà. Suy nghĩ trong đầu lăng xăng sanh diệt, còn cái biết hiện tiền là không sanh không diệt. Cho nên câu chuyện nhà thiền tôi kể cho quý vị  nhớ thêm.

 

Hồi xưa ngài Ngưỡng Sơn Huệ Tịch đi tới một thiền sư mới hỏi thăm: “Bạch Hoà Thượng, thế nào là Phật tánh?’. Hòa Thượng nói: “Thí dụ như có con khỉ để trong lồng, cái lồng đó có sáu mặt. Mỗi khi con khỉ ở ngoài tới mặt này kêu chéo chéo, thì con khỉ ở trong kêu chéo chéo. Rồi qua mặt kia nó kêu chéo chéo, con khỉ trong chạy ra kêu chéo chéo. Mỗi mặt con khỉ ngoài kêu thì con khỉ trong đáp ứng.” Rồi ngài không nói gì nữa hết. Ngài Ngưỡng Sơn thưa: “Bạch Hoà Thượng, nếu con khỉ trong nó ngủ thì sao?” Hòa Thượng từ trên giường thiền bước xuống nắm đứng nói: “Chúng ta thấy nhau rồi”. Sao vậy, thấy nhau rồi thấy cái gì?

 

Con khỉ trong là khỉ ý thức, khỉ ngoài là sáu trần. Cưa nào tỉ dụ như lỗ tai nghe tiếng thì ở trong nó phản ứng liền, tiếng đó hay tiếng đó dở, tiếng đó nam tiếng đó nữ gì..v.v… Rồi từ cái biết tiếng đó, nó suy nghĩ vậy rồi mới khởi cái niệm tiếng đó dễ thương, tiếng đó dễ ghét..v.v… tạo nghiệp. Như vậy vừa có khỉ ngoài kêu thì khỉ trong hưởng ứng.

 

Bây giờ tới cả mắt tai mũi lưỡi thân ý, nó tiếp xúc với trần mà ở trong ý thức nó không chạy nữa thì có biết không? Biết cũng biết, thấy cũng thấy, nghe cũng nghe mà không cần suy nghĩ gì hết, đó là con khỉ ở trong nó ngủ rồi. Con khỉ trong ngủ rồi mà mắt vẫn thấy tai vẫn nghe, mũi vẫn ngửi, lưỡi vẫn nếm, thân vẫn xúc chạm thì cái biết đó là cái gì? Là Phật tánh rồi chớ gì. Phật tánh ở ngay nơi mình sẳn mà mình không biết, mình cứ bị con khỉ này chạy ra, nó dựa theo sáu căn mà tạo thành nghiệp. Vì vậy mà tu có gì lạ đâu, là đập cho con khỉ ở trong nó chết, nó lặng xuống thì mọi việc yên lành chớ gì. Cho nên tất cả pháp Phật dạy đều nhắm vào diệt cái niệm lăng xăng ở trong đó, mà niệm lăng xăng đó là niệm của ý thức, nó làm cho mình tạo thành nghiệp chịu khổ. Nếu niệm đó lặng được rồi thì nghiệp khổ theo đó hết chớ có gì đâu.

 

Như vậy chúng ta tu là cốt để trở về với cái thật, cái sẳn của mình, nói trở về là phương tiện thôi. Cái hư dối mình không theo, không mắc kẹt để cho cái chân thật được hiển bày. Nên trong kinh Pháp Hoa Phật nói anh chàng say mà có viên ngọc đó, đã sẳn trong túi mà lại quên, rồi tới chừng người ta chỉ sờ vô nắm được ờ đây có viên ngọc.

 

Cũng vậy Sơ Tổ Trúc Lâm nói bài kệ trong Cư Trần Lạc Đạo phú, câu chót là “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”. Tức là đối cảnh là đối với sáu trần mà tâm không chạy ra thì đó là thiền rồi. Thiền là đối với sáu trần mà không vướng, không mắc, không dính, không kẹt. Giả sử đang đi chơi ngoài mà không vướng mắc cái gì cũng là thiền. Còn ngồi trong thiền đường mà nhớ tứ tung, thiền được chưa? Đó cũng chưa phải thiền. Như vậy thiền là để cho tâm không vướng mắc với sáu trần, không vướng mắc sáu trần là tâm chân thật đầy đủ, khỏi kiếm khỏi tìm ở đâu hết.

 

Giờ quý vị  thử làm vậy coi kết quả không, đừng thèm vướng mắc gì hết. Thấy người thì thấy người, đừng nói người đó dễ coi hay khó coi. Nghe tiếng thì nghe tiếng đừng nói tiếng đó hay, tiếng đó dở. Ăn thì cứ ăn đừng nói món này vừa ý, món kia không vừa ý. Vừa ý mình là ăn cho cái ý, chớ không phải ăn cho cái miệng. Như vậy chúng ta cứ lộn xộn, sống trong cái điên đảo. Bây giờ ăn thì cứ ăn, ngon dở gì cũng được hết, cốt ăn để sống thôi. Vậy không thèm nghĩ, ăn cũng không nghĩ gì hết. Rồi tất cả trường hợp mình cũng không thèm suy nghĩ khen chê để phân biệt, thì đó là mình đang thiền. Đi cũng thiền, đứng cũng thiền, ngồi cũng thiền, nằm cũng thiền, chớ không phải đợi giờ ngồi thiền mới thiền.

 

Nhưng mà kẹt bây giờ đi ra ngoài thấy cái gì cũng chạy theo hết bắt buộc phải ngồi ngó xuống kềm nó lần lần cho quen. Chừng nào quen rồi tha hồ đi, đi tới đi lui tự tại không ai bắt nữa hết. Nhưng lúc đầu thì bắt buộc để kềm chế từ buổi đầu. Hiểu như vậy thì quý vị  mới thấy cái tu.

 

Nói xa hơn nữa thì quý vị  thấy có nhiều người thấy mình ngồi thiền ngó xuống lim dim họ nói: “Thời giờ hiện nay quí lắm, một giờ bao nhiêu tiền, ngồi ngó lim dim hai ba tiếng đồng hồ vô ích quá”. Như vậy ngồi để làm gì? Nhiều người cắt nghĩa không nổi, không biết ngồi để làm gì. Chớ còn tôi nói rằng chúng ta chạy tìm vật chất bên ngoài được tất cả rồi sẽ mất tất cả. Bởi sao? Được cho thân này, nhưng khi thân này hoại rồi tất cả cái mình được nó thành cái gì? Nó thành đồ bỏ rồi. Như vậy dầu cho mình được nhà lầu, được xe hơi, được tất cả nhưng khi thở khì ra không hít vô thì mất hết trơn, không còn gì hết. Còn cái gì của mình?

 

Ngồi lại để phăng tìm cái thật của mình coi nó ở đâu nó ra sao. Phản quan nhìn lại mình để biết cái nào vọng, cái nào chân để mình không còn chạy theo, không còn mắc kẹt, buông xả những cái hư giả để sống với cái chân thật. Như vậy đó là việc làm quí hay không quí? Tất cả cái được bên ngoài thấy như là thực tế, nhưng mà cái ở trong mình, cái thật của mình mình bỏ quên, mình chạy theo cái giả. Được cái giả rồi, cái thân giả này mất rồi thì vô nghĩa, vô lý.

 

Còn bây giờ mình phăng tìm cho ra cái gì là thật mình, cái gì không phải thật mình. Biết cái không phải thật mình, mình xả mình buông, sống với cái thật an ổn. Nghĩa là mình hiện tiền không quên không mất, thì sống được cái đó thì quí hay là không quí? Cái đó là không sanh diệt, cái thật của mình không sanh không diệt mà mình bỏ quên. Bây giờ ngồi đó để nhìn, để ngó lại để mình thấy rõ cái hư dối không lầm và cái thật từ từ nó hiện. Như vậy đó là chúng ta biết phăng tìm cái chân thật của chính mình, chớ không phải là chuyện vô ích. Ngồi yên lặng để phăng cho ra, tìm cho được cái thật sẳn mà lâu nay mình bỏ quên.

 

Cho nên chữ mê trong nhà Phật là gì? Mê là quên. Mình có cái thật mà mình quên. Bây giờ nhớ lại là mình giác hết quên, hết mê. Như vậy thì tu theo đạo Phật là cốt giác tức thấy nhận được cái thật của mình. Nhận được cái thật của mình thì muôn đời không bị sanh tử nữa. Quí không! Nhận được cái chân thật của mình rồi, cái đó nó biết được tất cả lẽ thật của thế gian này. Còn ở ngoài mình học bao nhiêu, kiến thức bao nhiêu cũng chỉ là tạm thời qua rồi mất. Còn được cái đó rồi không mất.

 

Như Đức Phật khi mà ngộ được những lời Ngài nói tới bây giờ có cái nào sai không? Ngài nói trong nước có vi trùng, hồi xưa ông bà mình đâu có biết trong nước có vi trùng nên không tin lời Phật, nhưng bây giờ mình tin không? Biết rõ nước có vi trùng không nghi ngờ. Như vậy lời Phật nói hơn hai ngàn năm mà không lạc hậu. Bây giờ các học giả, học thuyết này nọ, họ nói một thời gian thì bị lạc hậu, lớp sau nó đi hơn mình.

 

Còn lời Phật nói tới bây giờ không lạc hậu. Như Phật nói thân này là giả. Bây giờ các nhà y học người ta thấy thân này thật hay giả? Nó là mớ kết tụ của tế bào chớ có gì thật. Tế bào bao nhiêu tỷ nó hợp lại thành thân này, rồi những cái đó mà nó công phá nhau thì rã ra thì thật sao được. Phật nói giả mình có tin không? Cũng không chịu tin. Bây giờ người ta phân tích ra quả tang là nó giả, nhưng mà quả tang giả khi mình đọc sách, khi mình nghe, qua rồi cũng thấy thật trở lại. Chừng tắt thở rồi cũng còn thấy thật nên kiếm thân nào để thế vô nữa, cho nên đi luân hồi không hết.

 

Vì vậy mà tu để trở lại mình, tìm cái thật của chính mình là một việc làm tối quan trọng của kiếp người. Cái gì ở ngoài mình tìm cho được, giữ cho có, cho còn chỉ là cái tạm bợ thôi. Tất cả cái gì tìm được tìm cho ai hưởng? Cho mình hưởng, mình hưởng là thân này. Thân này mình giữ không được mà tìm cho nhiều để làm gì? Phải chi mình giữ được cũng ráng tìm để cho nó hưởng. Nhưng thời gian nào đang tìm được chất cả đống ở đó, cái nó ngã đùng chết cái thôi, của mình tìm được là của ai? Đó là một lẽ thật mà thế gian đâu có biết. Bởi vậy người tu là người nhìn xa, thấy rộng không lầm lẫn, biết rõ những lẽ thật.

 

Nhưng nghe nói rằng thân này giả, cái có nhiều người nói như vậy đạo Phật bi quan nói thân này giả còn ai muốn làm gì nữa. Biết thân này giả mà chúng sanh nói nó thật nên thương phải tìm đủ cách để cảm hóa, để chỉ dạy, nhắc nhở cho họ biết. Chừng nào họ biết giả hết, thì chừng đó tất cả đều giác ngộ hết, không còn ở cõi trần tục này nữa.

 

Bây giờ còn người ta không biết thân này giả nhiều quá, quý vị  kiểm thế gian này một triệu có mấy người biết thân này là giả? Giỏi lắm là quý vị  tu sĩ xuất gia. Nhưng tu sĩ xuất gia một ngàn người có thể biết thân này giả chừng bao nhiêu? Không biết được trăm không. Như vậy thì mới biết người mê quá nhiều còn người tỉnh thì rất ít. Bởi vậy nên rồi chúng ta thương nhau, muốn đánh thức để cùng tỉnh với nhau. Cho nên ráng tu ráng thấy ráng hiểu cho đúng mà nhắc nhở nhau. Tuy biết cuộc đời là giả mà phải lăn vào đó để giáo hoá, để chỉ dạy. Chớ còn không phải thấy giả trốn mất tiêu, ở nhà cho yên thân mặc họ làm gì thì làm.

 

Cho nên tinh thần Bồ-tát là như thế, lăn lộn trong cõi trần để giáo hóa chúng sanh. Bồ-tát theo tiếng Phạn là bodhi shava dịch âm bồ-đề tát đỏa. Bồ-đề là giác, tát đỏa là phần. Bồ-tát là người giác từng phần, chưa có tròn. Phật là giác ngộ viên mãn. Cho nên Bồ-tát mà muốn được giác ngộ viên mãn thì mình giác ngộ rồi phải chỉ cho người khác giác; chỉ chừng nào mình giác, người giác được viên mãn mới được thành Phật, chớ đâu có được lôi thôi. Nói mình giác mình biết nó giả rồi mình trốn mình ẩn ở đâu đó một mình thì chưa phải là công hạnh của Bồ-tát. Vì vậy mà Bồ-tát phải tự giác rồi giác tha. Tự giác mà chưa giác tròn, giác có một phần, từng phần, mà cũng phải làm bổn phận đó.

 

Nói như vậy để quý vị  hiểu tuy rằng chúng ta thấy nó giả, biết nó là tạm bợ, nhưng vẫn mượn thân này để hướng dẫn, để chỉ dạy, để dìu dắt cho người Phật tử hay những người còn mê được trở lại con đường giác ngộ như mình. Đó là bổn phận người tu.

 

Nhưng mà nói một lần nữa chúng ta tu muốn cho làm Phật sự đúng với ý nghĩa của mình là Phật sự gì? Là Phật sự tự giác, giác tha. Đó là công hạnh Bồ-tát. Nhưng mình bây giờ làm Phật sự gì? Mình không chịu giác thì làm sao giác người được, thì thôi làm những chuyện tầm hoàng được bao nhiêu nên bây nhiêu đở buồn. Cho nên người tu là phải tự giác rồi mới giác tha, mà mình không chịu tự giác. Quý vị  ráng xét kỹ nhìn kỹ mới thấy bổn phận của mình, khi thấy bổn phận của mình rồi mới biết con đường để mình hướng dẫn dìu dắt người sau, đó là chỗ hết sức quan trọng.

 

Cho nên ở đây tôi nói rõ lời của thiền sư Huyền Giác, ngài nói rằng:

 

Thị dĩ thiền môn liễu khước tâm,

Đốn nhập vô sanh tri kiến lực.

 

Thế nên người tu ở trong nhà thiền phải thấu rõ được cái tâm, phải hiểu rõ được cái tâm của mình.

 

Đốn nhập vô sanh tri kiến lực. Tức là chóng vào cái tri kiến, cái sức tri kiên vô sanh của mình tức cái thấy không sanh diệt của mình đó, tới đó mới là chỗ cứu kính.


THẬT TƯỚNG NIỆM PHẬT

 

Thật Tướng Niệm Phật, tức là nhập vào Ðệ Nhất Nghĩa tâm, là niệm tánh Phật bản lai của chính mình. Đây là quán pháp thân thật tướng của Phật, kết quả sẽ chứng được Chân Như Tam Muội. Phương pháp này vẫn thuộc về Thiền, nhưng cảnh giới do tâm Thiền hiển lộ lại là Tịnh Độ, nên cũng nhiếp về Tịnh Độ. Pháp này không gồm thâu bậc trung, hạ căn, và nếu không phải là bậc thượng thượng căn, tất không thể ngộ nhập. Vì thế trong tông Tịnh Độ ít có người đề xướng, mà phần hoằng hóa lại thuộc về các vị bên Thiền Tông. Nhưng theo thiển ý: khi còn đi trên đoạn đường hành trì chưa đạt đến địa vị Viên Giác, thì tất cả pháp môn đều thuộc về phương tiện, niệm Phật cũng là phương tiện mà tham thiền cũng là phương tiện. Theo ba kinh Tịnh Độ, đức Thích Tôn mở phương tiện chỉ bày cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà, khuyên chúng hữu tình nên niệm Phật cầu sanh về thế giới ấy để không còn bị luân hồi, mượn cảnh duyên thắng diệu tiếp tục tu hành mau tiến lên Phật quả. Niệm Phật tinh chuyên cũng tỏ ngộ như bên Thiền Tông, nhưng điểm chánh yếu của môn Niệm Phật là cầu vãng sanh, còn tỏ ngộ được bao nhiêu cũng thuộc về phần thứ yếu. Cho nên pháp Thật tướng niệm Phật, luận về chỗ cứu cánh, vẫn nhiếp thuộc Tịnh Độ. Nhưng nếu nói đến phương tiện vãng sanh nó vẫn chưa chính thức thuộc về Tịnh Độ, như ý nghĩa ba kinh Tịnh Độ mà đức Thích Tôn đã đề xướng. Có lẽ do điểm này nên chư Tổ bên Tịnh Tông chỉ đề cập để cho rộng thêm về nghĩa lý Tịnh Độ, mà không rộng tuyên hóa để khuyên người tu chăng?

 

Niệm Phật

Phải Hành Trì Cho Thiết Thật

 

Lặng ngồi chốn tĩnh lâu
Trăng sáng, gió canh thâu!
Bát Nhã hương lòng nhẹ.
Lăng Già niệm ý sâu
Phật, Tâm chung một vẻ
Thiền, Tịnh chẳng hai mầu
Ngưng chuỗi, thầm riêng hỏi
Hoa đêm điểm điểm đầu...



CHÁNH VĂN :

 

Đại trượng phu bỉnh huệ kiếm,

Bát-nhã phong hề kim cương diệm.

Phi đản năng thôi ngoại đạo tâm,

Tảo tằng lạc khước thiên ma đảm.

 

GIẢNG :

 

Đại trượng phu bỉnh huệ kiếm, tức người đại trượng phu cầm cây kiếm trí tuệ. Đại trượng phu là chỉ cho Bồ-tát. Bồ-tát cầm cây kiếm trí tuệ là cây kiếm giác ngộ.

 

Bát-nhã phong hề kim cương diệm. phong là mũi nhọn, tức là cây kiếm bén, cây kiếm nhọn bát nhã cùng với ngọn lữa kim cương. Kinh Kim Cương hay Kim Cang là bộ kinh để dẹp phá hết những cái chấp mê lầm của chúng ta. Kinh Kim Cương thì dài, tôi chỉ cần nói một đoạn trong bài tụng. Trong kinh nói rằng nếu ai không được nhớ hết, nhớ nhiều thì trì một câu kệ cũng là có phước vô lượng vô biên, như bài kệ:

 

Nhất thiết hữu vi pháp

Như mộng huyễn bào ảnh

Như lộ diệc như điện

 

Tất cả pháp hữu vi. Hữu vi tức pháp có sanh có diệt.

Giống như giấc mộng, giống như ảo thuật.

Như điện chớp như sương mù chớ không có thật.

 

Thấy như vậy đó là thấy đúng với trí tuệ bát-nhã trí tuệ kim cương.

 

Như vậy thì chúng ta nếu thấy đúng như vậy tất cả pháp hữu vi đều như mộng huyễn, như bọt như bóng..v.v… thì chúng ta có đắm mê nó không? Bởi không đắm mê nên chúng ta thắng, chúng ta vượt qua hết. Giống như cây kiếm bén gặp những sợi dây trói buộc chúng ta chặt đứt hết. Giống như ngọn lữa mạnh nó cháy thì tất cả những cây cối hay gai góc gì nó cũng tiêu diệt hết. Như vậy trí tuệ bát-nhã ngọn lữa kim cương phá dẹp tất cả cái mê lầm, cái sai quấy mà lâu nay chúng ta chấp chứa để cho nó tan biến đi.

 

Bây giờ, quý vị  chỉ cần một việc làm mà hết sức là dễ tu, lúc nào cũng xét thấy thân mình là giả dối, khẳng định nó là giả dối. Bao nhiêu đó thôi thì quý vị  có tu được cái gì? Nếu thân giả dối thì người ta chửi mình cười, thân tôi còn giả huống nữa là chửi, khỏi cần tu nhẫn nhục. Chớ bây giờ nói tôi ráng tu hạnh nhẫn nhục, giờ nghe người ta chửi ráng nhịn đè nén. Nhịn được một lần hai lần rồi tuyên bố tôi nhịn hai lần rồi nhe, lần thứ ba là tôi nổ à, bởi vì đè quá rồi chịu không nổ thì bung. Bây giờ biết thân này giả thì lời chửi có nghĩa lý gì đâu, khỏi cần nhịn gì hết trơn.

 

Vậy từ biết thân giả thì chúng ta tu được hạnh nhẫn nhục. Từ biết thân giả rồi thì mình có tham danh tham lợi không? Thân còn giả thì danh lợi có nghĩa lý gì, thì tự nhiên tâm tham hết, sân hết. Biết thân giả thì còn si mê không? Cũng hết si mê luôn. Chỉ biết thân giả thì tham, sân, si theo đó nó hết.

 

Còn mình nhẫn mà thấy thân thật, cho nên nhẫn vừa phải thôi, mức độ nào thôi, quá nữa là không chịu nổi. Như vậy thì dùng trí tuệ bát-nhã mà soi thấu thân này, mà biết rõ thân này đúng như thật rồi thì tu hết sức là dễ dàng. Còn thấy thân này thật tu hết sức khó. Nhất là những người cao mạn cho thân là đẹp, thân là quí thì thôi tu khó vô cùng, động tới một chút là chịu không nổi rồi. Vì vậy trong nhà Phật dạy tu phải có trí tuệ bát-nhã. Quý vị  nhớ mỗi tối chúng ta tụng kinh A Di Đà hay thần chú Lăng Nghiêm đều có bài kinh Bát Nhã đi theo. Đó là để thấy rằng, trí tuệ bát-nhã phá dẹp năm uẩn này thì tu mới tới nơi tới chốn; còn không phá dẹp được năm uẩn thì tu có công, có phước vậy thôi, chớ không tới nơi tới chốn được, mà tu rất là khổ sở, rất là khó khăn. Nếu có được trí bát-nhã thấy đúng như thật rồi thì tu rất là dễ dàng.

 

Như vậy thì quý vị  mới biết cái gốc của sự tu, có nhiều khi chúng ta tu mà không biết gốc. Có người nói tụng kinh Bát Nhã để bổ túc vì tụng nảy giờ lanh quá rồi thiếu, thiếu chữ thiếu lời, nên kêu bằng bổ khuyết Tâm kinh đó. Tâm kinh đó là kinh bổ khuyết bù lại những cái thiếu của mình, như vậy là hiểu lầm lớn vô cùng. Bởi vì dù tu một hạnh nào, một pháp môn nào cũng phải có trí tuệ thấy rõ thân này không thật. Khi thấy rõ thân không thật thì tất cả pháp tu đều thành công. Nếu thấy thân này thật thì pháp tu nào cũng không thành công hết, vì đeo cái ngã trong quá thì thành công sao được. Đeo ngã to là đeo cái mê lầm, còn mê lầm thì tu làm sao được. Cho nên tu là phải giác ngộ, giác ngộ ít hoặc giác ngộ nhiều thôi.


Hỏi: Kinh Kim Cang nói: "Tất cả pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bóng, bọt". Thế thì cảnh Ta Bà đã huyễn, mà cõi Cực Lạc cũng là huyễn. Sao không đi ngay vào bản tâm chân thật, còn cầu về cảnh huyễn làm chi?

 

- Đáp: Thật ra các cõi Uế Độ và Tịnh Độ trong mười phương đều dường mộng huyễn; nhưng khi nào chứng được Như Huyễn Tam Muội, mới thấy đó là hư giả. Bằng chưa được như thế, vẫn thấy nó là thật, vẫn bị nó chi phối, vẫn còn biết khổ vui, vào mùa nắng vẫn khó chịu về sự nóng bức, cho đến việc rất nhỏ như con kiến, con muỗi cắn đốt cũng vẫn còn bị đớn đau. Như vậy sao được gọi là Huyễn? Nên biết môn Tịnh Độ là phương tiện nhiệm mầu của Phật, mượn cảnh như huyễn an vui, để đưa chúng sanh thoát khỏi cảnh như huyễn thống khổ dẫy đầy chướng duyên và hiểm nạn. Rồi từ cảnh an vui như huyễn đó tiến tu dễ dàng, để mau chứng vào cõi chân tâm thường tịch.

Lấy một thí dụ như tại cõi Ta Bà này, cảnh gia đình hay nơi thị tứ ồn ào là huyễn, cảnh chùa am hoặc chốn núi non vắng vẻ cũng là huyễn. Nhưng tại sao người tu giải thoát, lại bỏ cảnh gia đình thị tứ tìm nơi chùa am thanh vắng ở núi non? Có phải tại chốn gia đình nhiều bận buộc, cảnh huyên náo khó nhiếp tâm, mà nơi chùa am hay chỗ núi non thanh vắng dễ tu chăng? Cho nên cảnh phàm tình cùng cảnh thánh chứng khác nhau, phàm tình mà đặt mình vào cảnh thánh chứng là điều xa vời trái với thật tế. Ta còn phàm phu hãy cứ theo phận phàm phu mà tuần tự tiến tu, đừng vội đem con mắt thánh nhìn nói quá cao xa, thành ra vọng ngữ và có hại.

Khi xưa cũng có một Thiền giả cho cõi Cực Lạc là huyễn mộng, niệm Phật cầu vãng sanh vô ích. Triệt Ngộ đại sư nghe lời này, liền bảo: "Không phải thế đâu! Từ bậc Thất Địa Bồ Tát trở về trước, đều tu hành ở trong mộng. Đến như đối với mộng lớn vô minh, thì bậc Đẳng Giác vẫn còn say ngủ. Duy riêng chư Phật mới có thể tôn xưng Đại Giác, là những bậc hoàn toàn thức tỉnh mà thôi. Khi tự thân đã ở trong mộng, thì sự vui khổ vẫn uyển nhiên, vui cũng thấy vui, khổ còn biết khổ, sao được gọi mình là người tỉnh mơ, cảnh là huyễn mộng? Thế thì thay vì ở trong cảnh mộng khổ của Ta Bà, sao bằng về cảnh mộng vui nơi Cực Lạc! Huống chi mộng ở Ta Bà là từ mộng vào mộng, bị cảnh duyên nghiệp lực lôi cuốn, mãi luân hồi sống chết chìm mê. Còn cảnh mộng ở Cực Lạc là từ mộng đến giác, lần lượt sẽ thức tỉnh hoàn toàn chứng lên quả Phật. Cho nên mộng huyễn vẫn đồng, mà duyên cảnh mộng ở hai nơi thật chẳng đồng vậy. Thế thì sự niệm Phật cầu vãng sanh chẳng là cần thiết lắm ư!"

Lời cổ đức giải thích như thế, thì sự cầu sanh đã được hiển minh. Tuy nhiên, bài kệ trong Kinh Kim Cang nói đó, vẫn còn là lời phương tiện để cho chúng sanh lìa quan niệm chấp có theo phàm tình. Tiến một bước cao hơn, như Kinh Đại Phẩm Bát Nhã nói: "Như Lai vì hạng người căn tánh tối, mà nói các pháp như huyễn vắng lặng, vì e họ sanh chấp kiến; vì hạng người căn tánh sáng, nói tướng hảo của chư Phật, bởi họ như hoa sen chẳng nhiễm trần." Cho nên Tu Bồ Đề là bậc giải ngộ lý Không bậc nhứt, tuyệt không danh tướng, mà đức Thế Tôn lại thọ ký cho ông về sau thành Phật, hiệu là Danh Tướng Như Lai. Thế thì lý mầu không danh tướng chẳng ngoài danh tướng, tất cả pháp mộng huyễn đều là Phật pháp chân thường. Và đi sâu đến chỗ viên dung, như đức Lục Tổ nói, thì phàm phu nguyên là Phật, phiền não tức Bồ Đề, tất cả vô minh huyễn vọng đều là thể viên minh chân giác của Như Lai tạng.



CẦN PHÁ LỐI CHẤP NHỊ BIÊN

 

Những mối nghi về Tịnh Độ theo loại trên hãy còn nhiều. Đó do bởi người học Phật còn lối chấp hai bên, chưa dung hóa được giữa tánh tướng, có không, sự lý. Vì thế nên mới dùng tánh phá tướng, đem lý bác sự, lấy không bài có, và ngược lại, để gây thành những tranh chấp nghi vấn phân vân. Họ không ngờ sự lý tương tức, nghĩa là sự tức lý, lý tức sự, nếu phân chia ra mà nhận định thiên lệch, thì sự không thành chân sự, lý chẳng phải chân lý; cả đến tánh tướng, có không, và các pháp nhị biên khác cũng như vậy. Vì thế trong Kinh Duy Ma Cật mới nói đến Bất Nhị pháp môn, nghĩa là pháp môn Không Hai, để phá trừ lối chấp hai bên đó. Không Hai là dung hóa tất cả để nhập vào tánh thể, chớ chẳng phải một. Đây mới thật là chân cảnh của duy tâm. Ngoài ra, sự lập pháp riêng về hữu môn hay không môn, cũng còn ở trong vòng phương tiện quyền hóa mà thôi.

Đầu mồm nói suốt trăm phần diệu.
Dưới gót không ly một điểm trần!

 

Khi xưa, các bậc đại tri thức cũng thường dùng lý không để trừ bịnh chấp có, nhưng chỗ tu chúng cùng sự khai hóa của những vị ấy đúng tư cách và hợp cơ nghi, mới đem lại lợi ích. Chẳng hạn như câu chuyện sau đây:

Có một vị thiền sư tu hành rất tinh tấn, ban đêm chẳng ngủ và thường ngồi mãi không nằm. Nhưng đã lâu năm dụng công, sư vẫn chưa chứng ngộ. Trong chùa có chú Sa Di chẳng biết từ đâu đến, xin nhập chúng. Ông này thường biếng trễ thậm chí nhiều phen tiếng chuông công phu khuya nổi lên, vẫn nằm lỳ mãi không ngồi dậy. Thiền sư biết được, gọi đến quở rằng: "Sao đã vào chùa tu mà còn lười biếng cứ nằm mãi như thế? Chú không nghe trong Luật dạy: Nghe chuông mà vẫn nằm không ngồi dậy, tương lai sẽ đọa làm thân rắn hay sao?" Sa Di đáp: "Thầy bảo tôi thường nằm sẽ thành con rắn; còn thầy chấp cứ ngồi mãi cũng thành con cóc, chớ có chứng ngộ được chi?" Sa Di nói xong liền ẩn mất, nhưng vị thiền sư đã tỏ ngộ. Thì ra Sa Di này là một bậc đắc đạo, hiện thân đến khai hóa cho thiền sư.

Ngoài ra, còn câu chuyện Đơn Hà Thiên Nhiên hòa thượng cỡi lên cổ Phật và chẻ đốt tượng Phật gỗ để phá quan niệm chấp Phật. Sư Pháp Đạt vì ỷ mình đã tụng ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa, nên lạy đầu không chấm đất, bị đức Lục Tổ quở, để phá quan niệm chấp pháp, chấp công đức. Ngài Bắc Tháp sau khi chứng được Đại Tự Tại Tam Muội, viết danh hiệu Văn Thù, Phổ Hiền lên chiếc khố để phá quan niệm chấp Thánh Tăng.

Thuở xưa các bậc đại tri thức, mức tu chứng đã cao, biết tùy cơ nghi mà hóa đạo, lại những hành giả trong thời ấy có nhiều bậc thượng căn, nên sự giảng về lý "không" thường có lợi. Đời nay người trung, hạ căn nhiều, cách giảng hóa nên dung hòa sự-lý, tánh-tướng, mới không gây nghi ngờ và làm thối đạo tâm của người học Phật. Nếu đa số người chưa thể một bước đi thẳng vào cảnh chân không mà bác bỏ hình thức, tất sẽ diễn thành tai nạn "chưa được lên bờ đã vội phá bỏ chiếc bè", làm sao tránh khỏi cảnh đắm chìm? Lại còn một điều nên để ý, nếu nói lý không mà mình chưa được không, hoặc chưa có đôi phần tư cách nào trên sự tu, tất chẳng thể cảm hóa người, chỉ thành cuộc tranh chấp hơn thua vô ích. Trước đây, bút giả đã có lần chứng kiến cảnh tượng ấy: Một đại đức thông hiểu giáo lý ở ngụ nơi chùa nọ dạy kinh. Vị sư trụ trì đã lớn tuổi, siêng tụng niệm nhưng chấp theo cách thức xưa, thấy đại đức lối sống tự do có vẻ tân thời, ý không ưa thích, liền bảo: "Thầy khuyên dạy đạo mà ngày tối không thấy tụng một quyển kinh, niệm một câu Phật, như vậy làm sao nêu mô phạm tu hành cho đại chúng?" Vị đại đức đáp: "Cách tu có nhiều lối, phải chạy theo hình thức như thầy, tối ngày tụng niệm, mới gọi là tu sao? Kinh Kim Cang nói:

Nhược dĩ sắc kiến ngã.
Dĩ âm thanh cầu ngã,
Thị nhơn hành tà đạo.
Bất năng kiến Như Lai!

 

Chớ đức Lục Tổ khi xưa đâu có tụng kinh niệm Phật gì, mà Ngài cũng đắc đạo, làm Tổ được vậy?"

Sư trụ trì đuối lý, đành lặng yên. Xét ra, sư trụ trì có lỗi chấp nê hình thức; vị đại đức tuy nói lý cao, song thật ra cũng chẳng tham thiền, tịnh niệm chi nên đã không cảnh giác nổi mà còn gây thêm sự bực bội cho sư.

Trong hai lối chấp có và không, sự chấp không rất nguy hại. Kinh Lăng Già cùng Mật Nghiêm đều bảo: "Thà chấp có như non Tu, chớ chấp không như hạt cải". Chấp có, ý nói hằng kiêng nhân quả, sợ tội phước, lo giữ giới, tụng niệm, làm lành, tuy bị hình thức bó buộc không tự tại giải thoát, nhưng gây được công đức và thiện căn. Còn chấp không, mình đã chưa chứng được Chân Không, lại chẳng chịu theo hình thức, siêng tu công đức, tất sẽ luân hồi sa đọa.

Bút giả tự xét mình, nghiệp chướng nhiều, căn tánh kém, vẫn không muốn lạm bàn đến đạo lý cao siêu, sợ e hạnh chẳng xứng lời, trở thành vọng ngữ. Nhưng với lòng thành muốn cho người dứt nghi ngờ sanh tín tâm niệm Phật, nên bất đắc dĩ phải thổ lộ ít nhiều. Hằng ví mình như người bại chân ngồi ở ngã ba đường, tuy không tự đi được, song cũng cố gắng chỉ nhắc hành khách tránh nẻo hiểm nguy, theo lối đi rộng bằng an ổn. Còn sự biện luận để phân biệt phải quấy kém hơn, tuyệt nhiên lòng không nghĩ đến!

 

Bảo kiếm phi quang thấu tam tam

Ly Mỵ Vọng Lượng các tuân tuyên

Pháp giới yêu khí tòng tư tức

Hoằng dương chánh giáo độ càn khôn.


 

Bảo-Kiếm Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Tư 


Địa Rị Sắt Ni Na [50] 

Án-- đế thế đế nhá, đổ vỉ nảnh,

                 đổ đề bà đà dã, hồng phấn tra.

UM! BÚT RUM!  HÙM! 



 “BÁT NHÃN TÂM KINH” nói rằng :



Quán-tự-tại Bồ-tát “QUÁN THẤY”...


Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức;

( không có ngũ-uẩn)

vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp;

( không có 12 nhập)

vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới;

(không có 18 giới)

vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận;

(không có 12 nhân duyên)

vô khổ, tập, diệt, đạo;

(không có 4 đế)

vô trí diệc vô đắc.

(không có TRÍ của Bồ-tát do tu Lục-độ, cũng không có ĐẮC qủa Phật)

Lại nói, Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.

(Ba đời  “Chư Phật” y “VÔ SỞ ĐẮC”, mà đắc “PHẬT QỦA”)

Còn nói, Bát-nhã là Đại-thần, là đại minh, là vô-thượng, là vô đẳng đẳng chú... như lại phải nhờ thần-chú  

“Yết-đế Yết-đế, Ba-la yết-đế, Ba la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha.”,  

để tiêu trừ vô-minh vi tế của “A LẠI DA THỨC” (sở tri chướng),  mà thành tựu  “ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ” hay “NHẤT THIẾT CHỦNG TRÍ”, TỨC THÀNH PHẬT.

 

Tóm lại,  “QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT” y “VÔ SỞ ĐẮC”, mà đắc “PHẬT QỦA

 

MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA.

(3 lần)

 

 

Năm Thứ Mười Ba niên hiệu Đại Nghiệp, Đức Tứ Tổ Đạo Tín dẫn đồ chúng đến Cát Châu thì gặp bọn cướp vây thành bảy tuần (bảy mươi ngày) chẳng lui tan, mọi người đều sợ hãi.

Tổ thương xót, dạy bày niệm “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.” Khi ấy, bọn cướp nhìn lên trên thành như có thần binh, bèn bảo nhau: “Trong thành ắt có dị nhân, không thể đánh được”. Bèn lần lần bỏ đi.

 

(KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG)


 

SỰ TRÌ, LÝ TRÌ

 

Niệm Phật có sự Sự trì và Lý trì. Theo Ngẫu Ích đại sư: "Sự trì là tin có cõi Cực Lạc và Phật A Di Đà, mà chưa đạt lý tâm này làm Phật, tâm này là Phật, chỉ quyết định cầu sanh, tha thiết thì niệm như con nhớ mẹ không lúc nào tạm quên. Lý trì là tin hiểu Phật A Di Đà ở Tây Phương, do tâm ta sẵn đủ, tâm ta tạo nên; đem câu hồng danh sẵn đủ và tạo nên của tâm mình làm cảnh buộc niệm, chẳng giây phút nào xao lãng."

Nói giản lược, Sự trì là cách trì niệm của kẻ không biết chi về nghĩa lý, chỉ tin có cõi Cực Lạc và Phật A Di Đà, rồi chí thành tha thiết niệm Phật để cầu tiếp dẫn vãng sanh. Lý trì là lối trì niệm của người cũng thật hành đồng như cách Sự trì ở trên, nhưng giải ngộ cảnh Tịnh Độ cùng Phật A Di Đà đều ở trong chân tâm, do công đức thanh tịnh của chân tâm hiện thành.

Như thế, Sự trì với Lý trì có gì sai biệt? - Tất nhiên là có. Bởi kẻ tu theo Sự trì thấy Phật ở ngoài tâm, thành ra có tướng năng sở đối đãi, chưa được dung thông. Người thật hành theo Lý trì, do giải ngộ chân tâm, nên tuyệt được tướng năng sở, tức niệm là Phật, tức niệm là tâm, dung hòa cùng tâm cảnh. Xin thuật một câu chuyện:

Ông bạn xuất gia đồng tu của bút giả một đêm nằm mơ, thấy vị sư áo vàng đến hỏi: "Người niệm Phật, mà Phật là chi?" - Đáp: "Phật là tâm". Vị sư hỏi tiếp: "Ngươi thử giải thích thế nào Phật là tâm cho ta nghe?" Trong giấc mơ ông bạn bèn ứng khẩu đọc:

Mỗi câu tràng hạt Phật là tâm
Phật rõ là tâm, uổng chạy tìm!
Bể Phật dung hòa tâm với cảnh
Trời tâm bình đẳng Phật cùng sanh
Bỏ tâm theo Phật còn mơ mộng
Chấp Phật là tâm chẳng trọn lành.
Tâm, Phật nguyên lai đều giả huyễn
Phật, tâm đồng diệt đến viên thành.

Ông bạn trên đây đã hiểu cách Lý trì, dung hòa được câu niệm Phật vào tâm cảnh.

 

Có một lối nhận định sai lầm, mà những kẻ thiên về huyền luận tự cho là hành trì theo lý, cũng cần nên biện minh. Nhiều người trọng lý khinh sự, thường chấp nê theo lý luận: "Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ," rồi phủ nhận cõi Cực Lạc và sự tiếp dẫn vãng sanh. Những người này lý thuyết hóa các kinh nói về Tịnh Độ và bảo: "Di Đà tức là bản tánh Phật của mình; cõi Tịnh Độ là cảnh tịnh ở trong tâm, sao lại tìm bên ngoài?" Đây là điểm sai lầm rất lớn của thiên lý luận. Họ chấp lý bỏ sự, chuộng tánh quên tướng, đem chân đế mà bác hiện tượng của tục đế, chẳng biết rằng song phương không thể rời nhau.

Theo Đại Thừa Khởi Tín Luận, chân tâm có hai phần: tánh và tướng. Phần tánh gọi là Chân Như môn, phần tướng là Sanh Diệt môn; Chân Như không rời sanh diệt, sanh diệt tức là Chân Như. Bởi thế Mã Minh Bồ Tát gọi phần Chân Như là Tạng Như Thật Không, phần sanh diệt là Tạng Như Thật Bất Không; cả hai đồng chung một thể tánh như thật. Ví như mặt biển to rộng, không thể chỉ chấp nhận phần nước mà bỏ phần sóng bọt; vì chấp như thế tức đã sai lạc với hiện tượng của biển, mà cũng chẳng biết biển là gì? Cho nên, bỏ sự tức lý không thành, bác tướng thì tánh không đứng vững. Rất nhiều kẻ có chút học thức thế gian, khi nghiên cứu các kinh Đại Thừa nói về lý Bát Nhã, bởi không hiểu thấu đáo, nên thường mang chứng bịnh chấp "lý không" này. Do đó, họ đem các kinh nói về sự tướng, như các kinh Tịnh Độ hoặc Kinh Địa Tạng, mà lý thuyết hóa tất cả. Họ cho những kinh thuyết về sự tướng này là phương tiện để dẫn dắt hạng ngu thấp, những người tin có Tịnh Độ hoặc địa ngục, đều mê tín; nhưng thật ra, chính họ mới là kẻ lạc lầm! Nhân tiện, xin dẫn vài đoạn kinh ra biện minh, để phá lỗi chấp không ấy.

Như Bát Nhã Tâm Kinh nói: "... Không trí cũng không đắc, vì không sở đắc, nên Bồ Đề Tát Đỏa y Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm không quái ngại. Chư Phật ba đời y Bát Nhã Ba La Mật Đa, nên đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề." Trước y theo chân đế nói "không đắc", tiếp đó y theo tục đế lại nói "đắc". Thấy "đắc" là chấp có, thấy "không đắc" lạc vào chấp không, nên người học Phật phải khéo hiểu ý kinh để đi vào trung đạo.

Trong Kinh Kim Cang, đức Phật bảo: "Kẻ nào dùng sắc tướng âm thanh thấy và tìm cầu ta, là hành theo tà đạo." Nhưng tiếp đó Ngài lại bảo: "Tu Bồ Đề! Ông đừng nghĩ rằng Như Lai không dùng tướng Cụ Túc đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Tu Bồ Đề! Nếu ông suy nghĩ: phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề là nói các pháp đoạn diệt. Đừng nghĩ như thế! Tại sao? Vì phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đối với các pháp không nói tướng đoạn diệt." Trước tiên, Phật dạy đừng theo âm thanh sắc tướng mà tìm đạo; nhưng kế tiếp Ngài lại nhắc nhở; cũng như đừng rời bỏ âm thanh sắc tướng hoặc diệt hết các pháp để phát tâm cầu đạo. Như thế, ta thấy "đạo" chẳng phải thuộc về "sắc", cũng chẳng phải thuộc về "không"; tìm chấp một bên đều sai lầm. Ngài Thanh Nguyên Duy Tín thiền sư nói: "Ba mươi năm trước, khi lão tăng chưa vào đạo, thì thấy sông là sông, núi là núi. Đến khi gặp thiện tri thức chỉ dạy cho đường lối tu hành, thấy sông không phải là sông, núi không phải là núi. Ngày nay ngộ đạo, vào nơi tịch tĩnh, thấy sông vẫn là sông, núi vẫn là núi." Một vị thiền sư khác cũng diễn tả:

Tiếng gà tức tiếng quảng trường thiệt.
Sắc núi nguyên là tịnh pháp thân!

Đây là ý chỉ: sắc tướng âm thanh vốn thật đại đạo, ta nên đem tâm vô phân biệt mà thể nhận, đừng chấp lấy cũng đừng bác bỏ rồi tìm đạo nơi chỗ không không. Cho nên câu "Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ," không phải phủ nhận cõi Tịnh Độ và đức A Di Đà, mà chính là lối nói: nhiếp tướng về tánh, đem dụng về thể, để hiển bày lý Đệ Nhất Nghĩa Không. Trong Đệ Nhất Nghĩa Không, Phật còn chẳng lập, huống chi là các pháp khác.

Tiên đức bảo: "Lý tuy đốn ngộ, Sự phải lần lượt tu hành." Cho nên Thiền Tông tuy nói là môn tu trực chỉ, nhưng khi còn ngồi thiền, còn nhiếp tâm, còn tham thoại đầu, còn nhập định xuất định, đều còn ở trong vòng phương tiện. Và thật ra cảnh nội chứng còn bước những nấc thang từ thấp đến cao. Chừng nào đến bậc vô tu, mới không còn dùng phương tiện, mới có thể nói các pháp đều không. Nếu chưa được như thế, thì một pháp nhỏ như mảy bụi cũng đều có thật; vì gần lửa còn thấy nóng, ở giữa sương tuyết còn thấy lạnh, một mũi gai nhỏ đâm vào thịt còn biết đau, đâu có cái gì là không? Cho nên những kẻ thích đề xướng cao diệu "Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ," rồi bác bỏ hình thức niệm Phật cầu vãng sanh thuộc về "Sự tu", sẽ lâm vào cảnh: "Chưa bước lên bờ đã vội phá bỏ chiếc bè," tất không khỏi bị chết chìm dưới nước. Xưa nay những bậc hiểu sâu về Lý lại còn chú trọng đến Sự, vì Sự tiêu biểu cho Lý.

Cổ đức đã bảo: "Với môn Tịnh Độ, duy bậc trí huệ mới dung thông tánh tướng hiểu đến chỗ tận cùng. Bằng không, thà chấp tướng tu hành, càng chấp lại càng mầu nhiệm!" Bởi càng chấp tướng, chí nguyện cầu sanh lại càng thiết tha, khi đã sanh về Tây Phương lo gì không chứng ngộ được thật tướng? Vấn đề sự lý tánh tướng, nói ra vẫn không cùng, nhưng nếu hiểu được một sẽ hiểu tất cả. Mong các đồng nhơn khéo suy nghĩ, để tránh khỏi sự sai lạc trên bước đường tu.

Viết đến đây, có một Phật tử nhân khi lại thăm chơi, hỏi: - "Thưa thầy, con nghe vài vị tu thiền khá cao, bảo: Cõi Cực Lạc là quyền thuyết, là một ảo tượng của Phật phương tiện nói ra, để cho những kẻ thấp kém nương vào đó tin tưởng hâm mộ, phát lòng chuyên nhứt niệm Phật đặng để đi đến cảnh giới nhứt tâm. Ví như người cha có hai đứa con, một đứa thông minh biết lo học không cần phải nhắc nhở; một đứa tối tăm biếng trễ, nên cha phải dẫn dụ, bảo nếu cố gắng siêng học khi thi đỗ sẽ cho một chiếc xe đẹp. Chiếc xe đẹp là một ảo tượng hay phương tiện, sự học giỏi thi đỗ mới là chân mục đích hay cứu cánh. Bởi thế cho nên Tịnh Độ là lối tu của hạng thường dân tối dốt, còn hạng trí thức đều ưa thích về môn Thiền. Nếu hiểu được lẽ này thì người sáng suốt chỉ nên nhiếp tâm tịnh niệm, không cần phải theo ảo tượng niệm Phật làm chi cho lao hơi nhọc sức. Hãy để chiếc xe trống không chạy đi mới nhẹ nhàng, không nên chuyên chở thêm cho nặng! Con nghe như thế song chưa biết trả lời làm sao, mong nhờ Thầy giải thích."

Bút giả đáp: - Trong lối điều trần trên, có ba chủ điểm:

1. Cho Cực Lạc là ảo tưởng, quyền thuyết.

2. Bảo Tịnh Độ là lối tu thuộc hạng thấp kém thường dân.

3. Đưa ra mục đích trừ vọng nhứt tâm, cho rằng phương tiện niệm Phật làm tổn hơi nhọc sức như chiếc xe chở nặng, không được nhẹ nhàng thanh thoát như lối tu Thiền.

Về điểm thứ nhứt, Cực Lạc không phải là cảnh ảo tượng hay quyền thuyết, mà là thế giới có thật như cõi Ta Bà này; vì Phật không khi nào nói dối, và có rất nhiều người niệm Phật được vãng sanh, hiện tiền hoặc lúc lâm chung đã mục kích cảnh giới ấy, như trong Vãng Sanh Truyện và Tịnh Độ Thánh Hiền Lục đã có chép. Trong tập này nơi đoạn trước đã dẫn minh về ba lượng để giải thích, xem qua sẽ tự rõ, không cần phải biện luận thêm nhiều.

Về điểm thứ hai, nếu cho rằng Tịnh Độ không phải lối tu của hàng trí thức, chỉ sợ e trí "trí thức" của những vị ấy chưa đủ sức thấu hiểu Tịnh Độ mà thôi. Như khi xưa Phật nói Kinh Pháp Hoa, có đến năm ngàn bậc Đại Đức Thanh Văn chứng từ Sơ Quả đến Tứ Quả, vì chưa tin hiểu nổi nên lui ra khỏi pháp hội. Những vị ấy đã vào hàng Thánh, đâu phải tầm thường, nhưng trước diệu lý quá cao, họ đành thối bại. Nếu bảo rằng hàng trí thức sáng suốt đều phải tu Thiền, niệm Phật để cho hạng dốt nát tầm thường, tại sao vị Tổ thứ mười bốn bên Thiền Tông là Long Thọ Bồ Tát sau khi chứng ngôi Sơ Hoan Hỷ Địa rồi, lại niệm Phật "cầu sanh Cực Lạc?" Và tại sao có rất nhiều bậc thạc đức bên Thiền Tông, như các ngài Vĩnh Minh, Triệt Ngộ, Liên Trì, sau khi tham thiền ngộ đạo, lại chuyển hướng cầu về Tịnh Độ? Phải biết Niệm Phật là pháp môn cao siêu mầu nhiệm, gồm nhiếp ba căn, từ đức Thích Tôn cho đến các bậc đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ đều tuyên dương. Cho nên khi đức Thích Ca nói Kinh A Di Đà, hằng hà sa chư Phật ở sáu phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài mà khen ngợi. Và trong Kinh Hoa Nghiêm, sau khi đức Phổ Hiền nói mười đại nguyện vương rồi, liền khuyến tấn các bậc Bồ Tát ở những ngôi Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, đều nên phát nguyện cầu sanh về Cực Lạc? Nếu cảnh Cực Lạc là ảo tượng không phải thật có, và môn Tịnh Độ là tầm thường, tại sao các vị ấy lại cầu sanh? Cho nên Ấn Quang đại sư đã bảo: "Sự cao siêu mầu nhiệm của pháp môn Niệm Phật, chư Tổ bảo là chỉ có Phật với Phật mới hiểu biết hết được. Những kẻ khinh chê Niệm Phật, không phải chỉ khinh chê hạng ông già bà cả tu Tịnh Độ đâu, mà chính là khinh chê luôn cả chư Phật và các bậc Đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ đó!"

Về điểm thứ ba, xin giải thích rõ hơn. Chỗ cứu cánh của Thiền là Chân Như Tam Muội. Điểm cứu cánh của Tịnh Độ là Niệm Phật Tam Muội. Chân Như Tam Muội như vàng khối, Niệm Phật Tam Muội như vòng, xuyến và các món trang điểm chạm trổ xinh đẹp, mà trong vòng xuyến nguyên đã có vàng. Cho nên khi chứng Niệm Phật Tam Muội, tức đã bao gồm cả Chân Như Tam Muội. Chân Như Tam Muội chỉ thuần về mặt trí huệ, Niệm Phật Tam Muội đã có trí huệ còn gồm thêm phần phước đức; bởi người tu Tịnh Độ cũng lấy nhứt tâm thanh tịnh làm căn bản, trên chỗ nhứt tâm ấy lại có thêm công đức niệm Phật. Nhưng Chân Như Tam Muội với Niệm Phật Tam Muội không phải tu một đời mà chứng được, cần phải liên tục tu trong nhiều kiếp; nhứt là chúng sanh thời mạt pháp này khó mà hy vọng. Vì thế Niệm Phật Tam Muội tuy là chỗ cứu cánh của môn Niệm Phật, nhưng chỉ đứng về hàng thứ yếu, mà sự cầu vãng sanh Tịnh Độ trong một đời để được Bất Thối Chuyển, mới là tông chỉ chánh yếu cần thiết của tông này. Do đó pháp môn Niệm Phật mới có tên là tông Tịnh Độ. Cho nên sở dĩ các bậc tu Thiền sau khi ngộ đạo, tự biết con đường chứng đạo còn xa, sợ e kiếp người ngắn ngủi, khi luân hồi sang đời khác phải bị mê lạc, nên mới chuyển hướng Niệm Phật cầu vãng sanh là thế. Niệm Phật, lễ Phật dù rằng nhọc, nhưng được thêm công đức phước báo do công năng tu trì của hai nghiệp thân và khẩu. Như chiếc xe từ Đà Lạt về Saigon, chạy xe không tất nhiên nhẹ nhàng, nhưng nếu chuyên chở thêm bông hoa rau cải, thì đã về đến Thủ Đô mà còn được có thêm phần hàng hóa. Đem công năng siêng nhọc niệm Phật để được thêm nhiều phước báo, đó chính là phần công và thưởng đương nhiên theo luật nhân quả, đâu có chi phải thiệt thòi? Song mỏi nhọc nếu có, chỉ là lúc mới tu. Khi niệm Phật thuần thục đến chỗ vô tâm, nào có chi là mỏi nhọc!

Nghi vấn trên thấy cũng cần thiết, nên dù không phải đoạn quyết nghi, cũng xin ghi tiếp vào đây. Những điểm hiểu lầm chưa thấu triệt về Tịnh Độ hãy còn nhiều, vì e tâm niệm phạm lỗi đấu tranh, nên đối với các sự biện minh tạm xin ngừng bút.

 

Tất cả quý vị  ngồi tại đây đều là Phật tử hết phải không? Rồi quý vị  xuất gia là giòng gì? Giòng họ Thích. Giòng họ Thích là họ ai? Giòng họ Phật tức giòng họ của đấng giác ngộ, mà mình được con cháu trong giòng họ đó thì mình có giác ngộ không? Có. Còn Phật tử là cái gì? Phật tử là con Phật. Phật là giác mà con Phật có giác không? Có. Như vậy trong đạo Phật lấy giác ngộ làm tiêu chuẩn để hướng dẫn mọi người. Lâu nay chúng ta tu theo đạo Phật mà lại mê tín tôi chịu hết nổi. Đi đường giác mà lại mê thì hỏi làm sao được, nó ngược hẳn.

 

Tu Phật thì phải giác mà mình lại mê thì nghĩ làm sao? Vậy đó mà Phật tử lâu lâu có ông đồng ông bống nào lên nói hay hay thì chạy lại hỏi thăm coi năm nay làm ăn khá không, tuổi tôi tu được hay không. Rồi những gả nào đó nói gạt soi cơ, coi căn cũng chạy hỏi căn tôi tu được không. Mình quyết tâm tu thì được, mình bỏ cái mê thành cái giác thì tu chớ có gì đâu, mà càng đi sâu trong đó càng mê thêm. Phật tử là người con của bậc giác ngộ, thì mình không được giác trăm phần trăm, Phật trăm phần trăm là tròn là viên mãn, mình ít nhất cũng bao nhiêu? Một phần trăm cũng tốt rồi, chớ còn mình trụi luôn không có phần nào hết thì không phải là con Phật.

 

Còn chư tăng chư ni mình làm sao? Mình là con cháu trong nhà họ Thích, con cháu bậc giác ngộ. Người ta nói con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, mà không biết mình giống được cái gì? Chắc giống được cái đầu, giống được chiếc áo, còn phần giác ngộ không giống gì hết thì như vậy có buồn không.

 

Bởi vậy nên tu Phật quý vị  phải biết rõ lấy giác ngộ làm tiêu chuẩn. Vậy mà những người tu Phật không hiểu đạo, không thấy được đường tu, không biết bổn phận của mình rồi bày ra xin xăm, bói quẻ thấy làm vậy cũng có tiền khỏi xin đệ tử. Nhưng làm như vậy riết rồi mình đã mê mà còn làm cho người ta mê thêm nữa, đó là dạy người ta mê. Dạy người ta mê thì đúng là người xuất gia chưa? Xuất gia là mình tự giác, giác tha. Phật có định nghĩa rõ ràng quá, người tu là phải tự giác giác tha, rồi giác hạnh viên mãn mới thành Phật. Như vậy ai tu muốn thành Phật thì cũng phải đi con đường tự giác giác tha hết. Bây giờ mình không chịu giác, rồi còn dạy người ta mê thêm nữa, thì như vậy quý vị  đi đường nào? Đi đường mê mà nói là con Phật được không? Như vậy là lạm dụng nói gạt người ta. Cho nên người tu phải chân thành, phải thấu suốt cái ý nghĩa của mình.

 

Thật ra, nói thẳng chúng ta được làm người là một việc dễ hay khó? Phật nói những cái khó nè: được làm người là khó, gặp Phật pháp khó, sáu căn đầy đủ khó. Ba cái khó này mà quý vị  được đầy đủ hết, được hết mà không chịu cố gắng tu rồi mai mốt trở lại không biết có đầy đủ ba điều kiện này không? Nếu không đủ ba điều kiện này thì không biết tuột xuống tới đâu. Đời này tuột một phần, đời sau tuột xuống một phần, đời sau tuột tuột riết đi tới chỗ tối tăm nhất là địa ngục.

 

Chúng ta được vinh hạnh, được phước đức nên làm thân người là một phước đức lớn. Được thân người mà lại được nghe Phật pháp là đạo giác ngộ. Tại sao nói rằng Phật pháp khó nghe? Vì thiên hạ sống trong cái mê cho thân này là thật, mà Phật cho thân là giả thì dễ nghe không? Người ta nói thật mà Phật lại nói giả thì đó là khó nghe. Khó nghe mà mình nghe, mình thắm, mình hiểu được thì chuyện đó cũng rất là khó. Rồi được sanh làm người mà nhiều sáu căn nó thiếu: thiếu cặp mắt, thiếu lỗ tai hay thiếu cái gì đó, thì chúng ta cũng khó tu.

 

Bây giờ đủ hết ba điều kiện tốt: được thân người, được gặp Phật pháp, sáu căn liền lặng thì không tu còn đợi chừng nào! Nghĩ chừng nào được? Quý vị  có hẹn không nhất là người xuất gia? Được thân người, được làm con cháu giòng họ Thích nữa, mà không chịu gắng tu thì tôi không biết quý vị  muốn đòi cái gì nữa tôi không hiểu. Chẳng lẽ mình được làm người, được học Phật pháp, được đi trên con đường giác ngộ, lại nói không tôi lùi lại đi con đường tối cho vui, chịu không? Vô lý quá. Cho nên chúng ta phúc đức nhiều, duyên lành lớn mới được như vậy, thì phải cố gắng, phải tận lực mà tu hành chớ không nên lôi thôi.

 

Đó là tôi nói đoạn:

 

Đại trượng phu bỉnh huệ kiếm,

Bát-nhã phong hề kim cương diệm.

 

Tức chúng ta là người đại trượng phu, đây là nói người xuất gia. Xuất gia là bậc đại trượng chớ không phải thường. Tại sao dám nói đại trượng phu? Vì trượng phu ở ngoài là cầm quân đánh giặc được phong chức này chức nọ. Còn mình đi tu đây là buông hết tất cả, gan vậy đó. Ở ngoài người ta được làm lớn chừng nào người ta trang sức đẹp chừng ấy. Còn mình tu lâu chừng nào càng xấu chừng ấy, đầu cạo hết, thân thể mặc áo, ăn uống rất sơ sài, mà can đảm làm chuyện đó là đại trượng phu, thì mình phải cầm cây kiếm trí tuệ là kiếm giác ngộ. Kiếm giác ngộ đó là mũi nhọn của bát-nhã, của trí tuệ, là ngọn lữa lớn của trí kim cương, phải làm sao tiêu diệt hết những cái mê lầm của thế gian.

 

Phi đản năng thôi ngoại đạo tâm,

Tảo tằng lạc khước thiên ma đảm.

 

Không những mình hay dẹp hết tâm ngoại đạo, mà đã sớm từng làm cho thiên ma rụng tim hay vở mật. Như vậy người đại trượng là người tu, người xuất gia, mình phải làm sao dẹp hết cái tâm của ngoại đạo, làm sao mình phải ra sức hay biểu hiện cho loài thiên ma phải vở mật. Đó mới gọi là đại trượng phu, chớ không phải đại trượng phu là làm tôi tớ cho thiên ma. Mình làm tôi tới thiên ma là học trò nó, chớ không phải là đại trượng phu.

 

Vì vậy mà mong tất cả chư tăng, chư ni, Phật tử chúng ta phải biết rõ bổn phận của mình. Nhất là người xuất gia đừng nên đi lệch con đường Phật dạy. Nếu lệch con đường Phật dạy là chúng ta lạc về đạo tà. Vì vậy nên ráng tu. Càng thấm nhuần kinh Bát Nhã, càng thấu triệt kinh Kim Cang thì chúng ta sáng thêm trí tuệ của mình, nhờ đó mà chúng ta dẹp được những tâm ngoại đạo, dẹp được những lòng điên đảo của thiên ma để cho mọi người được an vui, sống trong cuộc đời tuy là tạm bợ mà đầy lòng thương, tất cả giúp đở, ủng hộ, dìu dắt nhau đi trên con đường giác ngộ. Đó là mục tiêu, là chủ trương Phật đã dạy con cháu phải làm theo.



CHÁNH VĂN :

 

Chấn pháp lôi, kích pháp cổ,

Bố từ vân hề sái cam lộ.

Long tượng xúc đạp nhuận vô biên,

Tam thừa ngũ tánh giai tỉnh ngộ.

 

GIẢNG :

 

Chấn pháp lôi, kích pháp cổ, Đây là nói về chứng đạo. Người khi chứng đạo rồi thì sẽ đánh trống pháp, phát ra lời pháp, bủa mây từ và rưới nước cam lồ. Nói theo nghĩa thường là khi chúng ta thấy được đạo lý chân thật rồi, lúc đó chúng ta nói lên lời gì cũng là lời đạo lý, chúng ta làm Phật sự nào cũng là Phật sự đúng đạo lý. Vì vậy cho nên nói rằng đánh trống pháp và nổi tiếng pháp.

 

Bố từ vân hề sái cam lộ. Và nói rằng bủa mây từ tức mây từ bi bủa khắp, và sái nước cam lồ tức tưới nước cam lồ cho tất cả. Bởi vì quý vị  thấy ở đời nếu người hung dữ thì họ mở ra lời nói nào cũng là lời nói hung dữ. Còn người hiền lành thì lời nói nào cũng là lời nói hiền lành. Cũng vậy người đến với đạo, thấu suốt lẽ đạo rồi thì mọi hành động, mọi ngôn ngữ đều là hành động từ bi, những ngôn ngữ đều là ngôn ngữ làm cho mọi người bớt đau khổ. Vì vậy mà nói bủa mây từ và rưới nước cam lồ.

 

Long tượng xúc đạp nhuận vô biên, Nói hàng long tượng là từ ngữ chuyên môn trong nhà thiền. Long tượng là người đứng ra gánh vác Phật sự lớn lao, cũng như là con rồng, con voi vậy đó, mạnh mẽ. Khi chạm tới hay gặp được những vị đó thì được tươi nhuần, được thấm ướt cái giáo lý, cái Phật pháp. Cho nên nói rằng Long tượng xúc đạp nhuận vô biên, tức là hàng rồng, hàng voi mà khi chạm tới thì được cái lợi vô cùng. Đó là ý nghĩa muốn nói lên rằng, gặp được những bậc hiểu đạo, thấu suốt lý đạo thì chúng ta sẽ có lợi ích rất nhiều.

 

Tam thừa ngũ tánh giai tỉnh ngộ. Tam thừa là Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ tát thừa. Ngũ tánh là chỉ cho năm tánh, năm tánh đó gặp Phật pháp đều tỉnh ngộ hết, không có ai thiếu, không có ai sót. Vì vậy mà tất cả chúng ta tu khi thấy đạo, biết đạo rồi, thì ai ai cũng đều được vào nhà Phật, chớ không có đi đâu khác, không có bị cái gì lôi dẫn.

 

Đó là ý nghĩa ngài Huyền Giác muốn diễn đạt cho chúng ta thấy, bậc đạo đức chân chánh đã thấu suốt lý đạo rồi, thì ai gặp đều có lợi ích, và đến đâu cũng đều gieo được sự an lạc cho mọi người, đều được làm cho người ta thức tỉnh. Đó là bốn câu này.



CHÁNH VĂN :

 

Tuyết sơn phì nhị cánh vô tạp,

Thuần xuất đề hồ ngã thường nạp.

Nhất tánh viên thông nhất thiết tánh,

Nhất pháp biến hàm nhất thiết pháp,

Nhất nguyệt phổ hiện nhất thiết thủy,

Nhất thiết thủy nguyệt nhất nguyệt nhiếp,

Chư Phật pháp thân nhập ngã tánh,

Ngã tánh đồng cộng Nhu Lai hiệp.

 

GIẢNG :

 

Tuyết sơn phì nhị cánh vô tạp, Câu này nói rằng ở trên núi Tuyết có một thứ cỏ tên là phì nhị, nó không có bị cái gì lẫn tạp trong nó hết, không có lẫn lộn mà chỉ là một thứ cỏ kỳ đặc, một thứ cỏ rất quí báu ở trên núi Tuyết. Nếu người nào hay con voi nào ăn được thứ cỏ đó thì khi nó xuất ra, nó tiêu hóa ra thành chất đề hồ, mà chất đề hồ đó thì ngài tự nói rằng tôi thường nhận. Đó là để nói rằng, dụ núi Tuyết là chỗ cứu kính chân thật, còn cỏ thì nhị là chỉ cho cái cỏ mà ai được gần, ai được dùng nó đều thành ra đề hồ hết.

 

Thuần xuất đề hồ ngã thường nạp. Tức là người nào đối với đạo chỗ cao tuyệt mà mình đã thấm nhuần được thì người đó họ nói, họ làm đều hiện ra những đồ quí giá vô cùng như chất đề hồ. Ngài nói ngài thường nhận được chất đề hồ của con trâu trắng trên núi Tuyết nó ăn cỏ phì nhị, nó tiêu hóa ra. Núi Tuyết là dụ cho pháp thân, thứ cỏ đó dụ cho cỏ giác, cỏ ngộ. Vì vậy mà ngài thường nhận được thường hưởng được cái tinh thần giác ngộ hay đạo đức giác ngộ xuất phát từ pháp thân.

 

Nhất tánh viên thông nhất thiết tánh,

Nhất pháp biến hàm nhất thiết pháp,

Nhất nguyệt phổ hiện nhất thiết thủy,

Nhất thiết thủy nguyệt nhất nguyệt nhiếp,

 

Đây là để vừa pháp, vừa dụ để cho chúng ta hiểu. Bây giờ tôi nói dụ trước. Như nói rằng một mặt trăng mà nó hiện tất cả nước, rồi tất cả nước đều nhiếp thuộc về một mặt trăng hay mặt trăng trong tất cả nước đều nhiếp thuộc về mặt trăng.

 

Như quý vị  đêm rằm nhìn xuống sông, nhìn xuống hồ, nhìn xuống tất cả chỗ nào có nước trong thì đều có mặt trăng hiện hết. Mà mặt trăng hiện hồ ao rồi sông biển đủ hết, cả trăm cả ngàn chỗ, ai đứng gần sông gần biển đều thấy mặt trăng. Như vậy mặt trăng hiện dưới đáy nước là bao nhiêu? Có thể nói là nhiều vô kể. Nhưng thật sự có mấy mặt trăng trên trời? Chỉ có một mặt trăng thôi. Đó là cái thí dụ. Nghĩa là trên trời chỉ một mặt trăng mà bao nhiêu thứ nước đều có bóng mặt trăng hiện dưới hết, thì muôn ngàn bóng mặt trăng đều nhiếp thuộc về một mặt trăng.

 

Nhất pháp biến hàm nhất thiết pháp, Tức là một pháp mà nó gồm thâu tất cả pháp. Tại sao? Ai cũng có sẳn tánh Phật của mình, mà tánh Phật trăm người, triệu ức người đều giống nhau. Bây giờ tôi hỏi quý vị  tất cả chúng ta hiện giờ nói người này khôn, người kia dại, thì khôn dại từ đâu mà có. Từ cái suy nghĩ học hỏi của mình mà ra. Người đó khéo suy nghĩ, người đó học hỏi nhiều thì mới là khôn. Người kia suy nghĩ vụng và học hỏi ít, gọi đó là dại. Khôn dại là căn cứ trên cái suy nghĩ, cái thu thập được từ người khác thì có phân ra khôn dại.

 

Nhưng mà cái thấy, cái nghe, cái ngữi, cái nếm, cái biết xúc chạm..v.v… người khôn, người dại có giống nhau không? Mình thấy hoa hồng vàng thì người khác nhìn vô cũng thấy cũng là vàng, mình thấy bầu trời trong người khác cũng nhìn thấy bầu trời trong, dầu ngu hay khôn thấy giống hệt nhau. Như vậy để nói rằng tánh giác sẳn của mình nó bình đẳng, nó không có sai biệt, không có khác. Cho nên Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, là tánh Phật sẳn của mình.

 

Vậy với con mắt nhà Phật nhìn tất cả chúng sanh đều bình đẳng. Nghĩa là ai cũng có tánh Phật, không có khen người khôn, không có chê người dại, vì ai ai cũng có tánh Phật hết. Nhưng mà có biết khai thác thì người đó sáng suốt mau, có mà chôn vùi thì người đó tối tăm hoài. Như vậy thì tánh giác ai cũng có, thì tánh giác đó ví như một mặt trăng. Nhưng mà cả trăm thứ hồ ao, giếng hay là sông, rạch, biển, mỗi nơi hiện bóng nó khác nhau. Khác nhau trong sông, khác nhau trên biển, khác nhau trong hồ, trong ao, chớ không có phải có mặt trăng khác, bóng nó khác thôi chớ mặt trăng đó nó giống nhau.

 

Để nói lên rằng tất cả chúng ta đều có tánh giác như nhau, cho nên nói rằng: Nhất tánh viên thông nhất thiết tánh. Cái tánh giác của mình nó trùm hết, nó hợp nhất với tất cả tánh giác khác, nó không có sai biệt cũng như là một pháp nó trùm hết các pháp. Thí dụ như mặt trăng trên trời thì có một, mà bóng mặt trăng thì vô số không thể kể hết. .

 

Đó là để nói tinh thần đạo lý của nhà Phật, Phật nhìn mọi chúng sanh đều có tánh giác, người khôn có tánh giác, người khờ cũng có tánh giác. Chỉ khác nhau là người biết dùng nó để rồi được thức tỉnh. Còn người không biết dùng nó để rồi mình cứ mê lầm, chớ không có khác tánh giác. Vì vậy mới dùng thí dụ này.

 

Bởi vậy nên câu kết thúc:

 

Chư Phật pháp thân nhập ngã tánh,

Ngã tánh đồng cộng Nhu Lai hiệp.

 

Tức là pháp thân của chư Phật nó vào trong tánh của ta. Rồi tánh của ta đồng giống như là tánh Như Lai, không có khác chút nào hết. Như vậy để đúng với câu Phật nói: “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”.

 

Hiểu như vậy thì quý vị  dám khinh ai không. Mình có Phật tánh, người nào cũng có, như vậy thì mình không có hơn, không có khác. Nhưng khác chẳng qua là người có tìm cách để cho nó sáng lên, hoặc người không biết tìm cách để cho nó sáng lên, rồi nó tối mù. Cũng như mỗi người đi học, thì người nào có học mà không đần độn lắm thì học rồi cũng biết như nhau, trừ phi những người nào có bệnh, có tật thì họ không bì kịp thôi. Nếu có hiểu biết tương tự, cơ thể khỏe mạnh như nhau, thì học hiểu rồi cũng biết như nhau. Đó là nói thí dụ tạm.



CHÁNH VĂN :

 

Nhất địa cụ túc nhất thiết địa,

Phi sắc phi tâm phi hạnh nghiệp.

Đàn chỉ viên thành bát vạn môn,

Sát na diệt khước tam kỳ kiếp.

Nhất thiết số cú phi số cú,

Dữ ngô linh giác hà giao thiệp?

 

GIẢNG :

 

Đó những câu này nói lý rất cao siêu, nhưng tôi cố giải thích cho quý vị  hiểu phần nào.

 

Nói rằng nhất địa đầy đủ tất cả địa, một địa đầy đủ tất cả địa. Tại sao? Vì trong nhà Phật nói có thập địa Bồ tát, Bồ tát sơ địa, Bồ tát nhị địa… tới thập địa. Như vậy thì ngài nói một địa tức đầy đủ tất cả địa. Tại sao? Bởi vì tâm thanh tịnh của chúng ta, tâm hằng giác của chúng ta ai cũng có. Ai cũng có thì bước chân được vào đó thì nó đủ hết như nhau. Tôi có tánh giác, quí Phật tử đều có tánh giác, ai cũng có tánh giác như nhau. Cho nên, khi mình nhận được tánh giác đó, thì đều giống hệt nhau, chớ không đợi thứ bậc, nhận một phần, nhận hai phần, tới mười phần, không có. Nghĩa là khi nhận một thì có tất cả trong đó, vì vậy mà nói:

Nhất địa cụ túc nhất thiết địa.

Phi sắc phi tâm phi hạnh nghiệp.

Đàn chỉ viên thành bát vạn môn,

 

Mà tánh giác đó, nó không phải là hình sắc, nó không phải là tâm suy nghĩ, cũng không phải là những hành động tạo nghiệp. Chỗ này nói cho quý vị  thấy, chúng ta là người mê muội đáng thương. Ngay nơi mình quý vị  thấy chúng ta nhìn nhận mình là cái gì? Nhìn nhận mình là thân xác thịt này. Rồi nhìn nhận cái gì nữa? Nhìn nhận tâm suy nghĩ hơn thua phải quấy là mình. Bên hình thức thể xác thì lấy thân xác thịt là mình, bên tinh thần thì lấy suy nghĩ là mình, phải vậy không. Chúng ta đang mắc kẹt ở chỗ đó. Nhưng thân xác thịt này quý vị  có giữ nó được ngàn năm không? Hay tới đâu rồi nó nát? Nghĩa là trên con đường đi nó cứ nát từ từ, nó hoại từ từ. Thân xác thịt là cái sẽ bại họai, vậy mà chúng ta cứ ngở nó là mình. Rồi khi tắt thở rồi thì mình làm sao?

 

Tôi nói cho quý vị  thấy lẽ thật. Khi chúng ta còn sống, còn hơi thở, còn ấm thì thân này nó còn tương đối dễ coi. Nhưng khi tắt thở hơi ấm mất rồi thì nó ra cái gì? Giả sử người nào quí thương nhiều thật là nhiều, mà họ tắt thở chừng vài chục tiếng đồng hồ, thì lúc đó có dám lại ngồi gần, có dám lại nằm chung không? Không. Như vậy tại sao thân này là mình, thân kia là người, mà thấy nó thật. Thật mà sao hồi còn họat động thì dám lại gần, còn hồi họ xuôi xị đó không dám đụng tới. Có người lại bội bạc hơn nữa, nói thây ma đó, rồi gớm rồi sợ. Như vầy, cái đó là quí, là thật thì trước sau cũng là quí, cũng là thật. Nhưng tại sao phút giây này nó là quí, mà phút giây khác nó lại là tiện, là không ra gì.

 

Bây giờ có người nào họ đủ tư cách là một người sang trọng, đẹp đẻ, ai thấy cũng quí cũng thương, mà họ tắt thở chừng vài hôm, đừng bỏ vô quan tài, thì đi ngang quý vị  làm sao? Thương nữa không? Có nhiều khi bịt mũi mà đi. Như vậy đó là cái gì, nếu nó là thật. Vậy mà cứ bám vào đó để tranh hơn, tranh thua, giành phải giành quấy. Rồi cái gì mình muốn được mà người khác giành đi, cái nổi giận sân si đánh đập nhau. Khổ chưa!

 

Bây giờ mình biết rõ thân không ra gì, thì đừng có giành, đừng có khoe ai hơn, ai thua gì hết. Hiểu như vậy thì mới thấy cái thật.

 

Rồi còn cái tâm. Tâm quý vị  suy nghĩ đúng trăm phần trăm là chân lý, hay là quý vị  suy nghĩ nữa trúng, nữa trật. Trúng hết không? Có nhiều khi không được phân nữa trúng, phân nữa trật, mà trật nhiều hơn trúng nữa. Vì vậy mà tâm đó không phải là lẽ thật, là chân lý.

 

Bây giờ quý vị  thử ngồi suy nghĩ rồi tìm coi cái suy nghĩ nó ở đâu, nó ra sao, thì tìm được không? Nếu nó thật thì nó ở đâu đó, mình phải thấy, mình phải biết chỗ nó ở. Nó ở chỗ nào nè, khi dấy lên nó chạy ra suy nghĩ, rồi khi mệt nó chùi xuống ở chỗ nào đó, hang ổ nó đâu mình phải biết thì mới có thật. Còn bây giờ quý vị  nhìn lại đang suy nghĩ chuyện gì tốt xấu đó, cái bổng nhớ lại tìm coi cái suy nghĩ nó ở đâu. Quý vị  thử tìm dùm tôi coi được không? Ai thử tìm được cái đó tôi phục lắm. Tìm được không? Thay vì nhìn lại cái nó mất tiêu, thì nó là cái bóng. Cái bóng mà mình lại tưởng nó thật.

 

Như vậy cả ngày, chúng ta sống đuổi theo vật chất để nuôi dưỡng thân, mà thân đó tạm bợ không thật. Rồi chúng ta khoe khôn chê dại..v.v… đủ thứ cho đó là tâm mình mà nó là cái bóng không thật, như vậy thì chúng ta sống đáng thương không? Sống trong mê lầm thật là đáng thương.

 

Còn cái chân thật đó nó không phải sắc tức là không phải hình tướng, không phải tâm suy nghĩ, mà cũng không phải là cái tạo hạnh nghiệp. Nếu ai nhận được cái đó rồi, chỉ trong khảy móng tay thì nó đã thành tựu đầy đủ bát vạn môn, tức tám ngàn môn. Vậy chỉ trong khảy móng tay chúng ta đầy đủ tám ngàn môn. Sao vậy? Bây giờ cái mà không phải sắc, không phải tâm, không phải hạnh nghiệp này là cái gì? Quý vị  có không?

 

Bây giờ tôi hỏi quý vị  một cách dễ thật là dễ. Hiện giờ chúng ta có thấy không? Có. Có nghe không? Có. Cái thấy nghe đó hình dáng ra sao? Nó không có hình dáng là không phải sắc. Mà khi thấy khi nghe đó có suy nghĩ không? Không suy nghĩ, đó không phải tâm. Rồi cái thấy, cái nghe có tạo nghiệp chưa? Đâu có tạo nghiệp.

 

Thí dụ như bây giờ mình thấy người đó đẹp, người kia xấu. Thấy đẹp, thấy xấu là có quyền thấy, chớ đâu phải đẹp xấu lộn xộn được. Đẹp ra đẹp, xấu ra xấu. Nhưng không khởi cái nghĩ người đó đẹp dễ thương, người kia xấu dễ ghét. Không khởi cái nghĩ đó thì ai cũng thấy, ai cũng biết như nhau hết. Người đó đẹp thì ai cũng thấy là đẹp, người kia xấu ai cũng thấy là xấu, thì cũng cái thấy đồng, nhưng khởi nghĩ ghét thương là khác. Có người thấy người này đẹp mà người khác lại thấy xấu. Người này dễ thương, người kia khó thương. Như vậy đó bước qua chặng đó rồi cái sai biệt.

 

Như vậy tất cả chúng ta đều thấy, mà thấy tức là biết; đều nghe, nghe là biết. Có cái biết không hình tướng là không sắc, không suy nghĩ nên không phải tâm, không tạo nghiệp nên không phải hạnh nghiệp. Nếu ai mà nhận được cái biết đó rồi, chỉ trong khảy móng tay là đầy đủ tất cả môn, nhanh như khảy móng tay. Tu dễ quá, phải không! Mà cái có sẳn chớ không phải cái ở đâu đem đến.

 

Sát na diệt khước tam kỳ kiếp. Chỉ trong một chốc lát thôi là diệt hết nghiệp trong tam a kỳ, tức ba a tăng kỳ kiếp, tức ba vô số kiếp. Nghiệp tạo trong ba vô số kiếp chỉ khảy móng tay thì hết trơn, thảnh thơi làm sao không có tuần tự. Tại sao vậy? Bởi vì nghiệp có từ tâm phân biệt tốt xấu hơn thua đó. Nếu tốt thì mình mến, xấu thì mình không ưa, mà có mến có không ưa thì có tạo nghiệp. Còn cái biết mà không phải sắc, không phải tâm, không phải hạnh nghiệp thì cái biết đó nó không có vướng vấp gì với cái trí đó hết. Bởi vậy nên ai sống được với cái đó một phút, một giây thì tất cả nghiệp đều tan biến hết. Cũng như chỉ trong một khảy móng tay là được tám vạn môn tức tám vạn pháp môn.

 

Quý vị  nhớ Đức Phật chưa cành hoa sen lên, nhìn tất cả đại chúng ai cũng ngơ ngác. Tới ngài ca Diếp, ngài nhận được ngài mỉm cười thì Phật liền thọ ký. Như ông Phật mình đưa hoa sen đó quý vị  cười chưa? Thấy Phật đưa thì đưa chớ mình không có cục cựa nhúc nhíc gì hết. Đó là vì chúng ta không nhận ra được cái mình hiện tiền đang thấy. Chính cái đang thấy đang nghe đó mới thật mình, còn cái suy nghĩ không phải thật mình, mà mình lại ngược bỏ quên cái thật mình chạy theo cái không thật.

 

Cho nên ngài Thần Hội tức đệ tử của Lục Tổ dùng thí dụ hết sức là chí lý. Ngài nói như cái gương, khi nhìn vào gương thấy hình dáng người thì còn nhớ cái gương không? Thấy hình dáng là quên gương. Nghĩa là thấy cứ nhớ hình dáng đẹp, hình dáng xấu, hình dáng trắng đen..v.v… không bao giờ nhớ cái gương. Chừng không còn hình bóng nào thì gương mới hoàn toàn trong sáng. Gương hiện trong sáng mà miễn chấp nhận nhìn cái bóng, chú tâm vào cái bóng thì quên gương.

 

Bây giờ chúng ta chú tâm nhớ cái suy nghĩ thì quên tâm thể hiện tiền. Cho nên đi sâu rồi quý vị  thấy Đức Phật dạy, nếu chúng ta biết phản quan nhìn lại đừng chạy theo vọng tưởng, vọng tưởng lặng hết thì tâm thể hiện tiền. Cũng như không có bóng thì thấy gương rõ ràng, không có thiếu chút nào hết. Không phải nói người tu thiền mới vậy, người tu Tịnh độ cũng giống như vậy thôi.

 

Phật dạy niệm Phật để làm gì? Niệm để diệt cái niệm, niệm Phật để quên những cái niệm khác. Cứ nhớ Nam mô A Di Đà Phật hoài đâu có nhớ chuyện gì, đâu có suy nghĩ cái gì. Chừng nào đi đứng nằm ngồi đều nhớ câu niệm thì đó gọi là nhất niệm. Nhất niệm chớ chưa phải là vô niệm. Khi niệm đó lặng hết hoàn toàn, cái nghĩ suy lặng hết hoàn toàn thì câu niệm Phật cũng buông luôn, đó gọi là nhất tâm. Hồi nảy là nhất niệm còn một câu niệm Phật, rồi sau đi tới nhất tâm. Nhất tâm là vô tâm, là không còn niệm nào hết, hay là vô niệm. Chừng tới nhất tâm thì Phật Di Đà mới hiện, còn đang niệm thì Phật không hiện. Phật Di Đà ở đâu? Tức là tánh giác mình hiện ra.

 

Vậy niệm Phật để dừng, để dứt những cái nghĩ suy vì đó là cái bóng mà lâu nay mình bám vào cái bóng, tự hài lòng mà quên cái thật của mình. Người tu thiền thì ngay đó, thẳng đó biết những cái bóng là không thật, buông để rồi lặng hết trở về tâm chân thật của mình. Chừng đó gọi là vô niệm, chừng đó thì thấy được pháp thân, thấy được Phật.

 

Như vậy pháp tu nghe có khác nhưng tới cứu kính thì không hai, đều đi tới chỗ đó.



SỰ NHỨT TÂM, LÝ NHỨT TÂM

 

Người niệm Phật phải thiết thật dụng công, trong tuyệt cả tướng thị phi nhơn ngã không thấy thân tâm, ngoài dứt hết tướng không sắc dục trần chẳng còn cảnh giới, duy có một câu Phật hiệu rành rạnh hiện tiền. Sự dụng công chí cực này, như người xưa đã nêu lên câu hỏi: "Trước mặt có cọp dữ, sau lưng có bầy chó sói, bên trái là vách núi cao, bên mặt là vực sâu thẳm; trong hoàn cảnh ấy hành nhơn phải vượt đi ngả nào?" Bên Tịnh Tông cũng bảo: "Ao sen bảy báu trước mặt, vạc dầu lò lửa phía sau, người niệm Phật phải nhứt hướng đi tới." Khi tu hành chưa thấy có điểm tiến bộ nào, là bởi chính mình còn yếu hèn biếng trễ. Cũng trong tình trạng ấy, khi xưa ngài Đổng Sơn đã nghiêm trách trong chúng:


Người nay học đạo nghĩ mà than
Ngoài cửa phân vân biết mấy ngàn!
Tưởng đến ngọc kinh triều thánh chúa
Giữa đường dừng bước ải Đồng Quan!


Nếu dụng công đến mức cùng cực, lâu ngày không gián đoạn, hành giả sẽ đi đến cảnh giới nhứt tâm. Cảnh nhứt tâm bất loạn này có hai mức cạn sâu, gọi là Sự nhứt tâm và Lý nhứt tâm.

 

Sự nhứt tâm là thế nào? - Khi hành giả chuyên tâm chú ý trên sáu chữ hồng danh, lâu ngày tất cả tạp niệm đều dứt bặt, lúc nằm ngồi đi đứng duy có một câu Phật hiệu hiện tiền, gọi là cảnh giới Sự nhứt tâm. Đây là định cảnh của người tu Tịnh Độ, cũng ngang hàng với sự nhập định của bậc tu Thiền.

 

Lý nhứt tâm là thế nào? - Trên Sự nhứt tâm nếu tiến thêm một bước, dụng công đến chỗ chí cực, ngày kia tâm địa rỗng suốt, thoát hẳn căn trần ngộ vào thật tướng. Khi ấy hiện tại tức là Tây Phương mà chẳng ngại gì riêng có cõi Cực Lạc, tánh mình chính là Di Đà cũng chẳng ngại gì riêng có đức A Di Đà. Đây là cảnh giới Lý nhứt tâm. Địa vị này là cảnh "định huệ nhứt như" của người niệm Phật, ngang hàng với trình độ khai ngộ bên Thiền Tông.

 

Với thuyết Sự, Lý nhứt tâm, Ngẫu Ích đại sư đã giản biệt tường tận. Ngài bảo: "Không luận sự trì hay lý trì; niệm đến hàng phục phiền não, kiến hoặc tư hoặc không khởi hiện, là cảnh giới Sự nhứt tâm. Không luận sự trì hay lý trì, niệm đến tâm khai, thấy rõ bản tánh Phật, là cảnh giới Lý nhứt tâm. Sự nhứt tâm không bị kiến, tư hoặc làm loạn. Lý nhứt tâm không bị nhị biên làm loạn" (Nhị biên: có, không - đoạn, thường v.v...)

Như thế chẳng nói chi Lý nhứt tâm, với Sự nhứt tâm người đời nay cũng chẳng dễ gì đi đến. Tuy nhiên, với công đức của câu niệm Phật cộng thêm sự chí thiết hành trì, trong mỗi niệm sẽ diệt được một phần vô minh thêm một phần phước huệ, lần lần tất sẽ đi đến cảnh giới tốt. Và hành trì lâu ngày như thế, lo gì không tiến đến chỗ mỗi niệm khai ngộ, được hảo cảnh gọi là "Nhứt phiên đề khởi nhứt phiên tân" (Một phen đề khởi niệm, một phen lộ bày cảnh mới).

Cho nên, dù là căn tánh thời mạt, nếu thiết thật dụng công, trình độ Sự, Lý nhứt tâm đối với chúng ta chẳng phải tuyệt phần hy vọng...


 

Nhứt cú Di Ðà
Nhứt Ðại Tạng Kinh
Tung hoành giao thái
Tuyệt đãi u linh.

 

Một câu A Di Ðà
Là một Ðại Tạng Kinh
Dọc, ngang giao chói sáng
Tuyệt đối, thể u linh.

 

Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:


Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.


Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!


Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!

 

LỜI BÀN: 

 

Thông thường người tụng kinh đều tìm kiến giải, rồi theo kiến giải mà thực hành, như theo Hòa Thượng thì quên hết mọi điều kiến giải, đọc từ đầu đến cuối, thì mới hợp với “CHƠN TÂM BỔN TÁNH”. 

Cũng như lìa sáu trần: Sắc, Thanh, Hương,Vị, Xúc, Pháp mà có sự hiểu biết , thì đó mới là CHƠN TÂM của chính mình. (KINH LĂNG NGHIÊM)

 

 

Nhứt cú Di Ðà
Cảm ứng phi khinh
Thiếu Khang hóa Phật
Thiện Ðạo quang minh.

 

Một câu A Di Ðà
Cảm ứng chớ xem khinh
Thiếu Khang hiện hóa Phật
Thiện Ðạo phóng quang minh.

 

Thiếu Khang đại sư niệm một câu hồng danh, trong miệng bay ra một vị hóa Phật. Thiện Ðạo Hòa thượng niệm mỗi câu Phật hiệu, nơi miệng phóng ra một đạo quang minh. Hai điều trên chứng minh cho công đức niệm câu hồng danh A Di Ðà thật lớn lao, và sự cảm ứng cưa Phật hiệu như thế đã đến mức cùng diệu. Và điều trên đây cũng nhắc cho người học đạo nên thức ngộ, đừng xem môn Niệm Phật là dung thường.


Trong mấy bài kệ liên tiếp, Triệt Ngộ đại sư đã dẫn chứng trên từ chư Phật Thế Tôn, nói rộng ra là các đức Như Lai ở sáu phương như kinh A Di Ðà đã thuyết minh, đều khen ngợi khuyên tu Tịnh Ðộ, và chỉ riêng các ngài mới biết cùng tận pháp này. Kế đến chư đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, các bậc đại Tổ Sư như Mã Minh, Long Thọ; những vị đại long tượng về bên Tông như ngài Vĩnh Minh, về bên Giáo như ngài Trí Giả và sau cùng chính chư Tổ bên Tịnh Ðộ như Thiện Ðạo, Thiếu Khang. Những vị trên tuy cũng suốt thông các pháp môn khác, song vẫn quy hướng về Tịnh Ðộ. Tại sao Tổ Triệt Ngộ lại nhiều phen dẫn chứng như thế? Trong đây có hai nguyên nhân rất quan trọng.


Ðiều thứ nhứt: Các vị học thức xưa nay (bút giả dùng danh từ “học thức” chớ không nói trí thức, vì học thức là một việc, trí thức lại là việc khác) khi mới tìm đạo, đều ưa thích những lý luận cao siêu huyền diệu. Sự ưa thích đó không phải là điều lỗi. Nhưng phần nhiều họ lầm lạc chấp theo Thiên Không, chưa dung hội được giữa Không và Có, bài bác nhân quả sự tướng, nên hầu như thành một căn bịnh trong khi học đạo. Ðối với môn Tịnh Ðộ, họ chưa thấu đáo được sự cao diệu của pháp này nên khi thấy những kẻ tối dốt, hạng bình dân cũng tu hành được, lại xem thường cho là pháp thấp kém. Chư đại thiện tri thức thấy sự lầm lạc tà kiến đó mới thẳng thắn bác phá, chỉ bày. Vì thế Tổ Triệt Ngộ đã dẫn những chứng minh trên để cảnh giác, ngụ ý bảo: "Nếu Tịnh Ðộ là thấp kém, tại sao từ chư Phật, Bồ Tát, cho đến chư Tổ, các bậc đại long tượng bên Tông lẫn bên Giáo đều ngợi khen khuyến khích, hoặc thân thiết phụng hành?"


Ðiều thứ hai: Các vị thông minh kiến thức trên, khi luận đạo thường nói những lý luận siêu huyền, để tỏ ra mình là những người hiểu rộng tu cao. Nhưng họ lại không tự xét rằng: Về phần thật hành, mình có làm được một phần nào đối với những lời nói đó chăng? Nhứt là buổi đi sâu vào thời mạt pháp này, người tu căn cơ non kém, nghiệp chướng nặng nề, dùng những hình thức dễ làm như niệm Phật tụng kinh, mà kẻ hành đạo tại gia lẫn xuất gia còn vọng niệm rối ren, nay chầy mai trễ, huống chi là sự nhiếp tâm nơi định trong tất cả thời, tất cả hành động nói năng? Bút giả từng nghe một vài vị tu học về Thiền khi luận đến sự hành trì, thường dẫn lời của những chư Tổ hoặc các bậc tôn túc thời xưa mà trạng huống cho lối tu của mình và còn ra vẻ đắc ý. Chẳng hạn như câu:

 

"Viên bão tử quy thanh chướng lý.

Ðiểu hàm hoa lạc bích nham thiền!"

(Vượn ôm con chuyền về rặng núi xanh.

Chim ngậm hoa sa trước gộp đá biếc).

 

Hoặc như:

 

"Nhập lâm bất động thảo.

Nhập thủy bất đạp ba".

(Vào rừng mà không làm động đến ngọn cỏ.

Xuống nước nhưng chẳng đạp sóng nước).

 

Các vị đó không xét lại hai câu trước là tâm cảnh của ngài Giáp Sơn, chớ chẳng phải cảnh giới của mình. Thỉnh thoảng có việc chi xúc động thì các vị liền tỏ vẻ phiền hà, tức giận. Thế là cỏ cây đã động, chân đã đạp sóng nước rồi đấy! Trước tệ trạng lạc lầm lạc rộng đó, chư thiện tri thức vì xót thương, vì muốn cứu vãn đạo pháp nên mới thẳng lời phê trích, cho hành động ấy là Cuồng Thiền. Và các ngài còn nói đến hạng Cuồng Mật nữa mà nếu có dịp, sau này bút giả sẽ dẫn giải.


Ðể kết luận, cần nhấn rõ thêm là những điều nói trên tuyệt không có ý bài bác Thiền, Mật. Thiền và Mật là hai pháp môn cao siêu, và thật ra Thiền, Mật, Tịnh cả ba đều có đặc điểm riêng, cần tu học để hỗ trợ cho nhau. Chẳng hạn như khi trì chú theo của chân ngôn, Phật hiệu huân sâu vào tạng thức, kích động cho phiền não nổi dậy, phương pháp làm lắng động hữu hiệu nhứt không chi hơn Thiền. Trong lúc tham thiền hoặc niệm Phật, ma chướng trong ngoài khuấy rối, cách hàng phục kiến hiệu mau lẹ nhứt, không chi hơn Mật. Và muốn giải quyết việc lớn là sống chết luân hồi một cách thẳng tắt chắc chắn nhứt, lại không chi hơn Tịnh. Luận cho cùng mỗi môn tự hàm đủ công năng của ba, song đó là ứng dụng của bậc trình độ cao siêu. Còn với bậc sơ cơ non kém, thật ra vẫn có sự sai biệt. Ví như bậc Tổ Sư về võ, dù sử dụng côn, chùy, kiếm, sự lợi hại vẫn đồng như nhau. Nhưng với hạng võ nghệ thông thường thì tác dụng của ba môn binh khí kia lại có sai biệt. Nếu chẳng thế, trong võ lâm cần chi bày ra ba môn ấy cho thêm phiền!


Cho nên trong thời mạt pháp, theo thiển ý nên lấy Tịnh Ðộ làm chánh yếu, Thiền, Mật làm phụ trợ. Hoặc nếu có tu Thiền hay Mật cũng nên niệm Phật nhiều ít hồi hướng về cõi Cực Lạc ở Tây phương.


Phật thương chúng ta mê muội. Mê muội cái gì? Mê muội chấp thân hư giả, tạm bợ là mình thật; chấp tâm bóng dáng cho là tâm mình thật. Cứ bao nhiêu đó mà bám cả đời, chạy ngược chạy xuôi theo hai cái đó. Bây giờ mình biết thân này là duyên hợp hư giả, như mỗi đêm quý vị  tụng Bát Nhã nhớ chiếu kiến ngũ uẩn giai không đó. Thân năm uẩn này không thật thì mình đã có trí tuệ rốt ráo rồi. Tâm lăng xăng đó mình biết là hư vọng, là giả dối gọi là vọng tưởng không theo nữa. Chúng ta buông không theo hai cái mê lầm đó để thấy được cái chân thật.

 

Người nào thân này giả dối mà tưởng là thật, tâm vọng tưởng là bóng dáng mà tưởng là tâm mình thật, thì người đó gọi là người gì quý vị  xác định dùm tôi coi? Thử nói coi. Chắc không dám nói quá, nói sợ thấy buồn. Thân không thật mà tưởng thật là trái lẽ thật rồi, còn tâm là bóng dáng mà tưởng là thật thì cũng trái lẽ thật rồi. Người thấy trắng là đen thì nói người đó người gì? Người mê. Hiện giờ chúng ta si mê nhiều ít? Gần như trọn vẹn, ai cũng bị cái đó hết, thấy không đúng lẽ thật mà bám vào đó. Cho nên Phật mới thương chúng sanh vì si mê. Phật thương mình là vì si mê đó, chớ Phật không thương mình đói, mình rách, mà thương mình si mê. Đói rách mình ráng làm thì có ăn, có mặc, còn si mê này thì không biết chừng nào mà hết. Vì vậy mà Phật mới dạy mình tu để được giác ngộ.



GIÁC NGỘ TÂM

 

Chúng sanh thường chấp sắc thân này là ta, tâm thức có hiểu biết, có buồn giận thương vui là ta. Nhưng thật ra, sắc thân này giả dối, ngày kia khi chết đi nó sẽ tan về với đất bụi, nên thân tứ đại không phải là ta. Tâm thức cũng thế, nó chỉ là thể tổng hợp về cái biết của sáu trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, như một người trước kia dốt, nay theo học chữ Việt, tiếng Anh, khi học thành, có cái biết về chữ Việt, tiếng Anh. Lại như một kẻ chưa biết Ba Lê, sau một dịp sang Pháp du ngoạn, thu thập hình ảnh của thành phố ấy vào tâm. Khi trở về bản xứ có ai nói đến Ba Lê, nơi tâm thức liền hiện rõ quang cảnh của đô thị ấy. Cái biết đó trước kia không, khi lịch cảnh thu nhận vào nên tạm có, sau bỏ lãng không nghĩ đến, lần lần nó sẽ phai lạt đến tan mất hẳn, trở về không. Cái biết của ta khi có khi không, hình ảnh này tiêu, hình ảnh khác hiện, tùy theo trần cảnh thay đổi luôn luôn, hư giả không thật, nên chẳng phải là ta. Cổ đức đã bảo: "Thân như bọt tụ, tâm như gió. Huyễn hiện vô căn, không tánh thật." Nếu giác ngộ thân tâm như huyễn, không chấp trước, lần lần sẽ đi vào cảnh giới "nhơn không" chẳng còn ngã tướng. Cái ta của ta đã không, thì cái ta của người khác cũng không, nên không có nhơn tướng. Cái ta của mình và người đã không, tất cái ta của vô lượng chúng sanh cũng không, nên không có chúng sanh tướng. Cái ta đã không, nên không có bản ngã bền lâu, không thật có ai chứng đắc, cho đến cảnh chứng thường trụ vĩnh cữu của Niết Bàn cũng không, nên không có thọ giả tướng. Đây cần nên nhận rõ, chẳng phải không có thật thể chân ngã của tánh Chân Như thường trụ, nhưng vì thánh giả không chấp trước, nên thể ấy thành không.

Nhơn đã không, thì Pháp cũng không, vì sự cảnh luôn luôn đổi thay sanh diệt, không có tự thể. Đây lại cần nên nhận rõ chẳng phải các pháp khi hoại diệt mới thành không, mà vì nó hư huyễn, nên đương thể chính là không, cả Nhơn cũng thế. Cho nên cổ đức đã bảo: "Cần chi đợi hoa rụng. Mới biết sắc là không" (Hà tu đãi hoa lạc. Nhiên hậu thỉ tri không).

Hành giả khi đã giác ngộ Nhơn và Pháp đều không, thì giữ lòng thanh tịnh trong sáng không chấp trước mà niệm Phật. Dùng lòng giác ngộ như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm.


Ba cõi không an dường hỏa trạch
Đâu miền chân lạc khỏi tang thương?
Người vô thường,
Cảnh vô thường!
Khuyên gọi cùng nhau tỉnh mộng
Quay về bể giác thanh lương.
Khởi lòng bi trí
Nguyện độ mười phương.
Ba tăng kỳ kiếp tu muôn hạnh.
Bền lòng không thối chuyển
Cầu ngôi vị Pháp Vương!


Bây giờ nếu thấy thân này không thật, thấy tâm niệm khởi suy nghĩ là bóng dáng không thật, thì quý vị  gọi người đó là người gì? Người đó là người giác. Bên kia là người mê, bên đây là người giác. Thấy đúng như thật đó là giác ngộ, giác ngộ thì hết khổ, còn si mê là còn khổ. Bởi si mê chấp thân này là thật nên chúng ta mới giành nhau từng phần vật chất, người nào được thì khôn, người nào thua thì dại. Rồi giành nhau từng lời ăn, tiếng nói, từng cái nghĩ suy. Ai nghĩ cái gì cũng nói cái nghĩ mình đúng, người khác cải cái cự, nổi giận sân lên. Như vậy khổ vì đòi hỏi nhu cầu của thân mà giành giựt nhau, khổ vì cái phân biệt cho cái nghĩ mình là đúng, nghĩ người khác là sai mà tranh đấu với nhau không cùng. Vì mê nên chúng ta khổ.

 

Bây giờ biết thân này không thật, thì giả sử mình muốn mua trái cam, trái quít gì đó nó đang vừa ý mình. Mình trả giá chưa xong, có người khác lại trả giá cao hơn mình một chút họ mua được, mình mất phần giận không? Bao nhiêu đó giận rồi, phần của mình lẽ ra mình mua mình chọn cái đó vừa ý. Nhưng người ta lại cướp mất phần đó, cái mình tức lên cự. Còn mình nói thế này là đúng, mà người khác nói sai thì cũng nổi giận lên. Như vậy thì bám vào nhu cầu vật chất mà tranh giành nhau, bám vào suy nghĩ cho mình là chân lý rồi cải lộn nhau, tất cả cái khổ đều từ cái đó mà ra.

 

Vậy mê là khổ, bởi vậy nên Phật mới nói chúng sanh đau khổ đó. Miễn còn mê là còn khổ.

 

Nếu quý vị  thấy thân này không thật, cái suy nghĩ của mình không bảo đảm là đúng, nó là hư giả, thì khi quý vị  bị ai nói nặng anh này ngu quá, hay chị này ngu quá, giận không? Quý vị  giận không? Mình vầy mà nói ngu, tức. Nhưng còn thấy sai sự thật là còn ngu, mê tức là ngu chớ gì. Cứ chào, ờ phải tôi ngu, vì thân giả mà tôi tưởng là thật. Nếu thân giả tưởng là thật mình ngu, còn người nói mình ngu đó họ thấy thân thật hay giả? Cũng thật, thì anh cũng ngu như tôi chớ gì. Như vậy có gì đâu mà giận, chúng ta đều là bọn ngu mê với nhau, có gì đâu mà giận hờn. Còn này mình cứ ngở mình khôn, nên ai nói ngu mình nổi tức lên. Mình có khôn thật đâu, có giả tưởng là thật mà khôn, khôn chỗ nào?

 

Quý vị  thấy như hoa cúc trên bàn, hoa trắng. Có đứa bé nào lại nói hoa này đen thui hà, quý vị  giận không, chê nó ngu không? Trắng mà nói nó đen kỳ vậy, ngu quá. Mình thân giả mà nói thật thì có giống nó không. Vậy đó mà ai cũng khổ. Cho nên Phật nói chúng sanh vì mê mà khổ. Mê là gốc của đau khổ. Nếu mình giác rồi thì cười thôi không có gì là quan trọng. Mình suy nghĩ thế này nói ờ phải làm thế này mới trúng, người khác nghĩ ngược lại làm như họ vậy mới đúng, thì mình cũng cười chơi, đây là cái nghĩ bóng dáng có thật đâu mà trúng mà sai, bỏ dễ ợt. Còn này mình nói nghĩ của mình là chân lý rồi không khác được, nên ai nghĩ khác cái cự. Trong nhà vợ chồng cải lộn nhau cũng vì cái bất đồng ý đó, cải lộn rồi cứ khi làm khổ nhau nữa.

 

Như vậy để thấy trên thế gian chúng ta vì mê lầm mà chúng ta đau khổ dồn dập. Một khi chúng ta thức tỉnh rồi, tỉnh giác rồi thì chúng ta hết khổ ngay. Tỉnh giác với mê, quý vị  thấy cách nhau bao xa? Thấy thân này là thật với thấy thân này là giả, thấy tâm suy nghĩ là thật với thấy tâm suy nghĩ là bóng dáng, hai cái đó cách bao xa? Từ cái này đổi qua cái kia đi chừng bao nhiêu cây số? Rất là dễ, thấy thân thật, ủa thân này giả cái rồi. Cái tâm suy nghĩ mình cho nó là chân lý, giờ ủa nó là bóng đâu có thấy, tìm nó mất tiêu nó là cái bóng, thì trong chớp mắt là mình chuyển được liền, không có khó. Vậy đó mà nói tu muôn kiếp mới được. Tu làm sao? Mình cứ tu trong cái mê lầm, cứ tụng kinh có phước, cứ niệm Phật có phước, thì như vậy cứ cầu phước hòai. Nhưng cầu phước để chi? Để cho thân này sau sanh ra tốt hơn bây giờ. Nhưng tốt rồi nó cũng chết queo hà, chớ nó có sống đời đâu. Rồi cứ tu như vậy đời sau khôn hơn đời này một chút. Như vậy là chúng ta tu ở trong mê lầm, chớ không tu trong giác ngộ. Tu trong mê lầm thì phải trải qua ba vô số kiếp mới thành Phật.

 

Còn tu cái này ngay trong khảy móng tay chuyển mê thành giác, mà mê là chúng sanh giác là Phật mất rồi. Phật với chúng sanh không cách bao xa hết. Vậy mà chúng ta không ưng làm. Bây giờ có vị nào ưng làm như vậy không? Giơ tay tôi coi. Ưng làm chúng sanh chớ không ưng làm Phật. Như vậy mà cầu Phật độ gì, Phật độ sao cho nổi. Phật chỉ đàng này, mình đi đàng kia mà bảo Phật độ.

 

Đó là những cái sai lầm tôi chỉ cho quý vị  thấy. Thật ra những cái này ít người dám nói, mà không dám nói thì chúng ta chấp nhận đi trong mê lầm muôn kiếp. Bây giờ quý vị  thử thấy thân này không thật, thấy tâm suy nghĩ mình không thật, thì chừng một tuần lễ coi quý vị  có cải lộn với ai không. Còn nếu thấy thật thì không bảo đảm. Đang vui đó mà ai nói trái tai thì nổi giận đùng đùng lên liền.

 

Như vậy thì tham sân si đều gốc từ thấy thân thật, thấy tâm thật mà ra. Nếu mình thấy thân không thật, tâm không thật thì đâu có tham sân si, như vậy thì tất cả phiền não theo đó tan biến, chỉ đổi cái nhìn. Đổi cái nhìn thì quý vị  nghĩ bao lâu? Hết sức là dễ, không có gì ngăn trở hết, không nói thời gian, không nói có cái này chướng cái kia chướng, không có gì hết. Chỉ cần thay đổi cái nhìn thì từ mê trở thành giác.

 

Giờ quý vị  kiểm nghiệm lại coi chỗ tôi nói có lẽ thật hay không? Chịu khó đổi một cái, thì từ thấy thân này thật, thấy tâm suy nghĩ là bóng dáng không thật. Bao nhiêu đó thì quý vị  so với bao nhiêu người khác tu năm năm, mười năm tụng kinh, niệm Phật, lạy Phật đầu gối chai thôi mà còn thấy thân thật, với tâm suy nghĩ thật thì hai người, người nào hơn. Ông này lạy Phật nhiều, tụng kinh nhiều mà động tới ông thì sân. Còn người này không tụng kinh niệm Phật, mà biết nó giả rồi chửi cũng cười thôi, thì ai tu hơn ai? Như vậy thì quý vị  tốn công ít mà kết quả nhiều. Vậy mà sao chúng ta không chịu làm. Đó là điều cụ thể trăm phần.

 

Bởi vậy cho nên ở đây mới nói rằng, cái đó không phải là sắc, không phải là tâm, không phải là hạnh nghiệp. Nhận được cái đó rồi chỉ trong khải móng tay thì đủ hết tám muôn bốn ngàn pháp môn. Rồi chỉ trong sát na là chốc lát, diệt hết tất cả nghiệp. Nó dễ như trở bàn tay, nó thảnh thơi nhẹ nhàng, mà tôi cũng không biết nói làm sao bà còn mình không chịu nhận cái đó. Nói thì nghe, nhận mà sống thì không chịu.

 

Bây giờ quý vị  đặt chữ tu lại cho tôi nghe coi. Tu là sao? Tu là sửa từ từ, phải không. Bửa nay giận mười, mai còn tám, mốt còn chín, tu như vậy thì ba vô số kiếp mới hết. Còn tu này là chuyển, từ mê chuyển thành giác, chuyển cái một hà. Như vậy cái chuyển nó mau, cái sửa từ từ nó rất chậm. Cho nên có chỗ Phật nói tu ba vô số kiếp mới thành Phật, có chỗ thì Phật nói nhanh như trở bàn tay. Đó là hai cái để cho quý vị  thấy cái siêu thoát của người tu được đốn ngộ.

 

Nhất thiết số cú phi số cú,

Dữ ngô linh giác hà giao thiệp?

 

Tất cả những câu nói, những lời, những số đều không phải là thật. Vì sao nó không phải thật? Vì cùng với linh giác của mình nó không dính dáng gì hết. Bây giờ chúng ta tu thì cứ nghĩ phải thuộc lòng cái này, thuộc lòng cái kia. Nhưng tất cả những văn tự, những câu số gì đó, nó đều là không thật hết, vì nó không phải là linh giác của mình. Đối với linh giác của mình thì nó sẳn sàng, không có ngôn ngữ, không có câu lời gì hết.



CHÁNH VĂN :

 

Bất khả hủy, bất khả tán,

Thể nhược hư không vô nhai ngạn,

Bất ly đương xứ thường trạm nhiên,

Mịch tức tri quân bất khả kiến.

Thủ bất đắc, xả bất đắc,

Bất khả đắc trung chỉ ma đắc.

Mặc thời thuyết, thuyết thời mặc,

Đại thí môn khai vô ủng tắc.


 

GIẢNG :

 

Bất khả hủy, bất khả tán, Đây cái chân thật đó hay cái linh giác của mình đó không thể hủy hoại được, mà cũng không cần tán thán nó. Tại sao? Thể nhược hư không vô nhai ngạn. Vì cái thể nó như hư không, không có bờ mé. Như khi nảy tôi nói cái quý vị  thấy được mọi người, cái quý vị  nghe được tất cả tiếng, cái hay nghe hay thấy đó tướng mạo làm sao? Con mắt thì có tướng mạo, lỗ tai thì có tướng mạo, nhưng cái hay thấy hay nghe đó tướng mạo làm sao? Cho nên nói thể giống như hư không, không có tướng mạo, mà có nghe có thấy không? Có nghe thấy rõ ràng, mà hỏi tướng mạo làm sao không nói được. Đó mình có một cái như vậy mà không tướng mạo thì có cái gì phá hoại nó được. Có tướng mạo thì bị vô thường, mà nó không tướng mạo làm sao vô thường.

 

Chỗ này tôi nhắc lại Lục Tổ Huệ Năng ngài chủ trương: Vô niệm vi tông, Vô tướng vi thể, Vô trụ vi bổn. Vô niệm tức là tâm mình không dấy khởi nghĩ suy. Cái không nghĩ suy đó nó không có tướng nên gọi là vô tướng vi thể, nó không có tướng mà thể nó trùm khắp. Vô trụ là không vướng mắc với sáu trần. Đó là chủ trương mà Lục Tổ đã giác ngộ được, ngài chỉ cho mình.

 

Ở đây thiền sư Huyền Giác cũng ngộ được chỗ đó mên ngài nói rằng cái đó không thể khen, không thể chê gì hết. Vì sao? Vì thể nó giống như hư không, không có ngằn mé.

 

Giờ tôi nhắc một lần nữa cho quý vị  thấy cái quí của người tu. Khi quý vị  nghĩ suy phăng tìm lại nghĩ suy không có, nó mất. Khi quý vị  không nghĩ suy gì hết mà hằng biết như nảy giờ tôi nói ở mắt, ở tai. Còn bây giờ nói ngay ở nội tâm mình khi mình không nghĩ suy mà lúc đó mình có biết không? Cái biết mà không nghĩ suy đó, nó không có giới hạn. Nếu nó có giới hạn thì nó phải có hình tướng, mà nó không hình tướng làm sao giới hạn. Cho nên nói thể của nó giống như hư không không có bờ mé.

 

Bất ly đương xứ thường trạm nhiên, tức không rời ngay chỗ này mà nó thường lặng lẽ. Như vậy quý vị  ai có cái đó không? Chắc là ai cũng có hết, ai cũng có một cái hiện tiền đầy đủ mà không chịu biết, có mà không biết.

 

Thí dụ như ông cha già chia cho các con mỗi đứa một hủ vàng hay một hòn ngọc quí. Ông nghĩ rằng hủ vàng hay hòn ngọc đó đủ cho gia đình các con sống rồi. Chia xong xuôi hết nhưng ông sợ con còn nhỏ, đưa cho nó không biết xài làm mất mát tội nghiệp. Ông mới đem chôn vàng hay ngọc ở gốc cột này, gốc cột kia, mỗi chỗ. Đây là thằng A gốc cột này, thằng B gốc cột kia… và chỉ cho các con hết rồi ông yên lòng. Bây giờ ông bệnh thì mấy đứa nhỏ lại hỏi bây giờ ba chia của con ở đâu? Chỉ chỗ đó đó. Nhưng mấy đứa lớn biết bươi ra lấy, còn mấy đứa nhỏ không biết rồi nó quên luôn. Nó thấy anh chị nó giàu quá mà nó không có gì hết nên buồn khổ trách ba má sao không chia của cho nó. Quý vị  thấy những đứa chia rồi chỉ chỗ mà nó không chịu lấy, rồi nó buồn trách thì ông cha sẽ nói làm sao? Tụi con có sẳn phần mà không lấy thì đó là tại tụi con, chớ cha có chia rồi, đừng khờ dại vậy. Thương rầy vì nó khờ dại, chớ nếu nó sáng suốt nó bươi nó lấy.

 

Phật thương chúng ta sao? Si mê, tức khờ dại quá, chỉ hoài có cái đó. Phật có cái đó Phật lấy ra được, dùng được nó thì được giác ngộ giải thoát sanh tử. Bởi vì cái đó không hình không tướng, làm sao mà chết sống, là giải thoát sanh tử. Nhận được cái đó là giác, từ giác ngộ mình được giải thoát sanh tử. Còn cái này chỉ cho mà không chịu, cứ bám vào cái thân tạm bợ, bám vào vọng tưởng hư dối, cứ bám vào hai cái đó làm mình hoài thì chừng nào mà giác ngộ, chừng nào mà giải thoát. Như vậy quý vị  có khả năng giải thoát không? Có khả năng giác ngộ không? Ai cũng có hết mà sao không chịu giác! Có mà để đó thôi, để trong tủ khóa kín lại chớ không chịu giác. Chúng ta có cái đó tại sao chúng ta không giác? Bởi vậy nên ngài nhắc: Bất ly đương xứ thường trạm nhiên, nó hiện tiền đây, nó không có thiếu vắng lúc nào hết.

 

Mịch tức tri quân bất khả kiến. Là nếu muốn tìm nó thì không bao giờ thấy. Vì nó đâu có tướng mạo, chỉ lặng hết vọng tưởng thì nó hiện ra. Bây giờ tìm coi tánh giác mình ở chỗ nào thì càng tìm càng mất. Sao vậy? Vì tánh giác là mình, mà mình tìm nó thì nó là vật ở ngoài rồi, cho nên tìm thì không thể được.

 

Những lời này rất là chân thành, rất là cứu kính, chúng ta nghe ráng tìm hiểu và nhận cho sâu.

 

Thủ bất đắc, xả bất đắc, Cái chân thật đó mình giữ cũng không được, bỏ cũng không được. Nói bây giờ thôi tôi bỏ tánh giác tôi đi, bỏ được không? Nó sẳn, nó của mình, còn mình là còn nó bỏ không được. Bây giờ nói rằng tôi giữ nó thì làm sao mà giữ? Cho nên cái này bỏ không được mà giữ cũng không được, mà nó thường hằng.

 

Bất khả đắc trung chỉ ma đắc. Trong cái chỗ không thể được đó chỉ thế mà được. Chỉ thế là sao? Buông hết vọng tưởng thì nó hiện ra, chớ không gì hết. Đừng chạy theo vọng tưởng thì nó hiện chớ không gì lạ hết.

 

Như vậy thì ngài chỉ tột cùng cái chân thật ai cũng có. Muốn thấy được cái chân thật thì buông cái lăng xăng lộn xộn đó thì cái chân thật hiện. Bây giờ quý vị  thử can đảm như đi một đoạn đường một câu số, mà quý vị  cấm trong một cây số này không cho nghĩ gì hết, quý vị  biết đường đi không? Biết. Ai dẫn đường mình đi? Không suy nghĩ như không có tâm rồi, nhưng thật ra mình biết, mình thấy rõ ràng mình đi đều đặn. Như vậy cái chân thật nó hiện tiền, chớ đâu phải đợi suy nghĩ mới biết đường đi. Vậy đó mà chấp nhận suy nghĩ chớ không chấp nhận cái kia. Đó là điều hết sức đáng buồn.

 

Mặc thời thuyết, thuyết thời mặc, tức là khi im lặng là nói, khi nói tức là im lặng. Như nảy giờ tôi nói ồn ào là nói cái gì, quý vị  biết không? Tôi nói cái im lặng của quý vị  đó. Còn quý vị  nhiều khi nói tôi tìm chân lý gì gì đó, nói ồn ào mà không có chân lý chút nào hết. Cho nên nói mà không nói, không nói mà nói.

 

Đại thí môn khai vô ủng tắc. Tức cái bố thí lớn này mở cửa chớ không có đống, không có bế lúc nào hết. Cửa đại thí mở toát, mở rộng, không đống, không bít, mà người nhận được, người hiểu được lại ít.



CHÁNH VĂN :

 

Hữu nhân vấn ngã giải hà tông,

Báo đạo Ma ha Bát Nhã lực.

Hoặc thị hoặc phi nhân bất thức,

Nghịch hành thuận hành thiên mạc trắc.

 

GIẢNG :

 

Hữu nhân vấn ngã giải hà tông, Nếu có ai hỏi ta hiểu tông gì, Báo đạo Ma ha Bát Nhã lực. Thì ta sẽ trả lời rằng đó là sức của Ma ha Bát nhã, tức là cái sức của trí tuệ Bát nhã. Quý vị  có ai không thuộc kinh Bát Nhã không? Chắc đa số thuộc kinh Bát Nhã. Kinh Bát Nhã mở đầu vô thì “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Bây giờ có không chưa? Bây giờ nếu nói theo thế gian thì quý vị  “chiếu kiến ngũ uẩn giai hữu”, đều có hết chớ không có không. Năm uẩn này không thật, không thật nên Phật nói là không. Mình bây giờ lại thấy có nên ngược với cái gì Phật nói hết.

 

Còn ngài, bây giờ hỏi ngài tu với cái tông gì, hiểu tông nào? Thì ngài nói ta hiểu được tông Bát nhã, đó cái sức của Bát nhã mà ta thấy được như vậy. Bát nhã là trí tuệ thấy đúng như thật.

Hoặc thị hoặc phi nhân bất thức, Khi người nhận được trí tuệ Bát nhã tột cùng đó rồi thì hoặc là phải, hoặc là quấy, người đời họ không thể nào biết nổi.

 

Nghịch hành thuận hành thiên mạc trắc. Có khi làm hạnh nghịch, có khi làm hạnh thuận, giờ chư thiên cũng không lường nổi. Bởi vì khi các vị Tổ sư thấu triệt cái lý này rồi, thì các ngài có khi nói những lời rất hiền từ, có khi nói những lời rất thô tháo, nghịch thuận đủ hết.

 

Thí dụ như các thiền sư hồi xưa, ngài Đức Sơn ai hỏi thế nào là Phật thì ông đập cho một cái bốp bằng gậy. Dễ chịu không! Như vậy là thương mình hay ghét mình? Còn những thiền sư hỏi thế nào là Phật thì im lặng không nói câu nào hết. Như vậy mình thấy như là các ngài không có thương, truyền đạo gì lạ đời. Hỏi thế nào là Phật? Phật là cái sẳn hay thấy, hay nghe của chính mình mà còn hỏi thì hỏi cái gì. Vừa hỏi thế nào là Phật mà cắt nghĩa Phật thế này, thế kia là đi xa. Cho nên đánh một cái giựt mình, à cái mình biết hỏi, cái mình biết thấy đó. Các ngài chỉ trở ngược lại mà mình không hay. Còn hỏi thế nào là Phật mà ngồi im lặng. Im lặng tức là gì? Vừa mở miệng nói là trật rồi, cứ trở về là trúng hà, không gì hết.

 

Như vậy các ngài làm hành động này, hành động khác, tuy thuận nghịch đủ thứ hết, nhưng không ngoài trí tuệ Bát nhã của quí ngài muốn chỉ chỗ chân thật cho chúng ta.

 


CHÁNH VĂN :

 

Ngô tảo tằng kinh đa kiếp tu,

Bất thị đẳng nhàn tương cuống hoặc,

Kiến pháp tràng, lập tông chỉ,

Minh minh Phật sắc Tào Khê thị.

 

GIẢNG :

 

Ngô tảo tằng kinh đa kiếp tu,

Bất thị đẳng nhàn tương cuống hoặc,

 

Tảo là sớm, tằng là từng. Tôi đã sớm từng có nhiều kiếp tu. Bởi nhiều kiếp tu nên bây giờ nghe mới nhận được như vậy. Cái nhận, cái hiểu của tôi đó là lẽ thật, chớ không phải khi rảnh rang mà nói gạt nhau, lường gạt nhau. Không phải đem lời thường dối gạt quý vị  đâu. Đó là do duyên tốt của tôi xưa đã từng tu nhiều kiếp, cho nên bây giờ nghe thấy tôi nhận được. Bởi nhận được nên đem chỉ dạy cho quý vị, chớ không phải tôi nói lừa, nói gạt quý vị  đâu.

 

Kiến pháp tràng, lập tông chỉ, Kiến pháp tràng là lập pháp tràng, lập tông chỉ tức lập đường lối tu.

 

Minh minh Phật sắc Tào Khê thị. Là rõ ràng Đức Phật bảo ra lệnh cho ngài Tào Khê tức Lục Tổ Huệ Năng. Chữ sắc là bảo, là ra lệnh.

 

Như vậy đường lối tu thiền này của ngài Huyền Giác tức là thiền tông, đó là đường lối của Lục Tổ Huệ Năng đi đúng như hướng của Phật chỉ dạy.



CHÁNH VĂN :

 

Đệ nhất Ca Diếp thủ truyền đăng,

Nhị thập bát đại Tây Thiên ký.

Pháp Đông lưu, nhập thử thổ,

Bồ Đề Đạt Ma vi sơ tổ.

Lục đại truyền y thiên hạ văn,

Hậu nhân đắc đạo hà cùng số.

 

GIẢNG :

 

Tức là từ Phật chỉ cho Tổ Huệ Năng ở Tào Khê. Bây giờ kể lại con đường truyền bá Thiền tông này. Đệ nhất Ca Diếp thủ truyền đăng, Người thứ nhất là Tổ Ca Diếp trong thời Đức Phật còn tại thế, ngài ngộ ở trong hội Linh Sơn. Nhị thập bát đại Tây Thiên ký.

Sau đó là hai mưới tám vị Tổ ở Ấn Độ còn ghi rõ. Pháp Đông lưu, nhập thử thổ, Khi pháp thiền truyền qua Đông độ tức Trung Hoa, Bồ Đề Đạt Ma vi sơ tổ. Khi vào Trung Hoa rồi thì vị đầu tiên là Bồ Đề Đạt Ma, ngài là người Ấn sang Trung Hoa truyền thiền ban đầu. Lục đại truyền y thiên hạ văn, Tiếp theo đó sáu đời truyền y thì ai cũng đều biết hết. Hậu nhân đắc đạo hà cùng số. Người sau ngộ được đạo lý này số tính không thể kể hết, không thể kể hết được số đó. Đó thì đoạn này dễ, nói về lịch sử.



CHÁNH VĂN :

 

Chân bất lập, vọng bổn không,

Hữu vô câu khiển bất không không,

Nhị thập không môn nguyên bất trước,

Nhất tánh Như Lai thể tự đồng.

 

GIẢNG :

 

Chân bất lập, vọng bổn không, Cái việc làm này, đạo lý này là đạo lý không có lập chân hay vọng. Tại sao? Bởi vì ở thế gian chúng ta nói cái gì, làm cái gì thì nằm ở trong cái đối đải, có phải có quấy, có tốt có xấu, luôn luôn là đối đải. Hoặc là trắng là đen, hoặc là ngày là đêm, hoặc là nam là nữ, tất cả đều có đối đải. Cái gì đối đải đều không thật. Cho nên ở đây ngài nói cái chân cũng không lập, mà cái vọng vốn là không.

Hữu vô câu khiển bất không không, Có và không đều dẹp hết, nó không cái không không nữa. Trong hai mươi hai môn không đều không vướng mắc.

 

Nhị thập không môn nguyên bất trước, Trong hai mươi hai cái không, trong đây nói là nội không, ngoại không rất là đầy đủ. Hai mươi cái không thì trong đây nói hai mươi cái không là trong kinh Bát nhã nói rõ, chúng ta không hơi đâu mà kể cho hết. Thường thường chúng ta hay nói nội không và ngoại không là cái chuyện ở trong ở ngoài, rồi tiếp nữa là nội ngoại không..v.v…

 

Nhất tánh Như Lai thể tự đồng. Một tánh Như Lai thể tự đồng. Chỉ còn một tánh Phật, cái thể đồng như vậy thôi.

 

Như vậy thì cái thể chân thật đó, không nói là chân, không nói là vọng, không nói là có, không nói là không. Tất cả những cái đó đều dẹp hết. Vì sao? Vì tánh Như Lai thể tự đồng, không phải là một bên, không phải là bên này bên kia.

 

Bởi vậy cho nên tôi thấy cái chỗ đặc biệt mà Tổ Huệ Năng truyền bá lần đầu tiên. Tức là kể lại câu chuyện khi ngài ôm y bát trốn về phương nam thì có một đoàn tăng đuổi theo để giựt lại, người đi đầu là Thượng tọa Minh. Khi ông tới rồi, Tổ biết người ta đuổi theo kịp ngài để y bát trên bàn thạch, rồi vô bụi lùm trốn. Ông tới thấy y bát tọai nguyện rồi, ôm lên nhưng giở không nổi thì biết rằng đây cái mầu nhiệm của đạo, không phải người vô phước, vô đức mà nhận được. Cho nên ông quí phục, mới tuyên bố rằng, tôi tới đây là vì pháp chớ không phải giành y bát. Nghe nói vì pháp thì Tổ ở trong ngài ra. Ngài nói nếu ông thực tâm cầu pháp thì đứng yên lặng giây lâu tôi sẽ nói cho. Ông đứng yên lặng giây lâu, Tổ bảo: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh”. Ngay câu đó ông ngộ liền.

 

Bây giờ tôi lập coi quý vị  có ngộ không nghe: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của tất cả quý vị”. Êm ru, không ngộ chút nào hết.

 

Cái này có gì lạ đâu, còn nghĩ thiện còn nghĩ ác là hai bên, buông tất cả cái hai bên thì bộ mặt thật hiện ra. Cái chân thật muôn đời của mình nó có sẳn, bởi chạy theo cái nghĩ hai bên nên nó mất tiêu. Bây giờ quý vị  ngồi lại hỏi bàn chuyện với nhau là bàn cái gì? Bàn cái hay cái dỡ, cái phải cái quấy. Mở miệng ra là hai bên. Không có hai bên thì cái chân thật hiện tiền. Dễ quá ư là dễ, không trèo non lội suối gì hết, chỉ buông cái hai bên thì quý vị  thấy được mặt thật muôn đời của mình. Mặt thật muôn đời là Phật tánh của mình, ngay nơi đó chớ không đâu xa hết. Như vậy thì tu này nhanh mà dễ nữa. Vừa nhanh vừa dễ nữa mà không chịu làm thì tôi không biết nói làm sao. Đâu phải chuyện gánh một ngàn khối đá đem lên ngọn núi thì mình làm không nởi nó nặng nhọc quá. Còn cái này chỉ buông cái chấp hai bên thì quý vị  thành Thánh mất rồi.

 

Cái chấp hai bên buông khó hay dễ? Đâu có gì khó. Đâu có ai nói nếu buông cái đó thì ở tù, mình buông cái đó thì dễ. Như hai người ngồi nói chuyện, nói câu chuyện đó xảy ra vậy vậy phải hay không? Phải. Phải tức có quấy. Cứ như vậy chúng ta cứ cả ngày đối đáp qua lại trong cái hai bên không hà. Bây giờ nói gì mình cười không có hai bên, mà không có hai bên thì người ta nói mình sao? Khùng rồi, điên rồi. Không biết phải quấy gì hết, nhưng mà không biết ai điên. Thôi thì người ta nói mình điên cũng cười thôi, điên thì cứ điên.

 

Ở đời cái khó tu không phải là việc làm khó, mà tại tập quán với nếp sống con người ở đời đã quen như vậy, mình khác hơn thì họ không chịu. Bởi vậy nên chư Tổ hồi xưa tới chỗ đó rồi phải như ngây như ngô đó, người ta tưởng như người ngu người dại, nhưng sự thật đó là Thánh. Còn mình khôn quá mình phàm mất tiêu. Càng khôn càng lanh thì càng phàm tục hơn nữa, càng tạo tội lỗi nhiều hơn, chớ không phải hay gì đâu.

 

Bởi vậy nên không mắc kẹt ở hai bên, mà không mắc kẹt hai bên thì không có gì thật đối đải hết.



CHÁNH VĂN :

 

Tâm thị căn, pháp thị trần,

Lưỡng chủng do như kiến thượng ngân.

Ngân cấu tận trừ quang thỉ hiện,

Tâm Pháp song vong tánh tức chân.

 

GIẢNG :

 

Tâm thị căn, pháp thị trần, Tâm là chỉ cho tâm suy nghĩ của mình đó. Tâm suy nghĩ đó nó phát hiện ra hay xuất phát ra từ các căn. Tâm thị căn là tâm đó nó phát ra từ các căn. Như lỗ tai nghe tiếng, nghe tiếng rồi suy nghĩ tiếng đó khen mình hay chê mình, thì đó là tâm nó phát ra từ căn. Pháp thị trần tức là pháp ở ngoài như sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là cái ngoài, nó thuộc về trần.

 

Lưỡng chủng do như kiến thượng ngân. Là hai cái này giống như bụi trên mặt gương vậy đó. Như vậy gương nguyên nó là trong, là sáng. Nhưng bụi cứ dồn dập lấp trên mặt thì gương còn trong còn sáng không? Chúng ta ngày nay cứ căn trần tiếp xúc, tiếp xúc rồi vướng mắc. Vướng mắc thì cứ thấy người xấu, nói người gì xấu quá; thấy người đẹp nói người này đẹp quá. Khen chê vậy thì mỗi lần khen chê đó là một lần lấp bụi trên mặt gương của mình.

 

Bây giờ quý vị  thấy bụi trên mặt gương mình dày hay mỏng? Dày cở nào? Mấy tấc? Bởi vậy cho nên nó tối mò phải không, nó không có sáng được. Vì thấy cái gì thì dính cái nấy hà. Quý vị  nhớ Lục Tổ ngộ ở câu nào?

 

“Bất ưng trụ sắc sanh tâm,

Bất ưng trụ thanh hương vị xúc pháp sanh tâm

Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”

 

Muốn phát tâm Vô thượng bồ đề thì đừng vướng mắc với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì ngay đó Lục Tổ ngộ liền, đâu ngờ tánh mình lâu nay thanh tịnh.

 

Còn mình nghe câu đó chừng mấy mươi lần mà không ngộ gì hết. Tại sao vậy? Bởi vì nghe thì nghe mà còn vướng mắc ở sáu trần. Muốn hết vướng mắc sáu trần phải thấy sáu trần không thật, sáu căn không thật thì còn gì vướng mắc. Tại mình thấy trần thật, căn thật thì vướng mắc hoài. Quý vị  thấy rõ không.

 

Bởi vậy cho nên Bát nhã dạy chúng ta nhìn thấy rõ tường tận cái đó là không thật, mà không thật rồi thì hết vướng mắc, mà không vướng mắc nữa thì tâm mình hoàn toàn trong sáng, cũng như cái gương không bụi.

 

Tôi thấy bây giờ gương của chúng ta mỗi ngày lấp thêm một lớp bụi, ngày lấp thêm một lớp bụi, lấp hoài cho tới nhắm mắt không biết mấy chục lớp, mấy ngàn lớp nữa. Bởi vậy nên rồi tối tăm đời này, tối tăm đời khác không bao giờ sáng. Đó là vì cái vướng mắc của chúng ta.

 

Bởi vậy nên đây mới nói;

 

Ngân cấu tận trừ quang thỉ hiện,

Tâm Pháp song vong tánh tức chân.

 

Nghĩa là cái nhơ bợn trên mặt gương nó phủ che ánh sáng, mà mình lau hết rồi, thì ánh sáng hiện chớ không gì hết. Còn tâm mình tức tâm phân biệt hơn thua và pháp trần ở ngoài mình đừng có dính, hai cái không dính nhau thì tánh chơn hiện ra rõ ràng.

 

Quý vị  thử thí nghiệm đi, mình tu không phải giờ ngồi thiền mới tu, mà giờ đi ra ngoài có thể cũng tu được. Như đi ra chợ thấy người qua lại, thấy buôn bán đủ thứ hết, mà thấy thì thấy không chú tâm vào cái gì, thì quý vị  đi giáp một vòng chợ trở về, hỏi anh hay chị đi chợ thấy cái gì thì trả lời làm sao? Tôi không thấy gì hết. Đâu phải không thấy, thấy mà không chú tâm, không chú tâm thì không vướng không mắc, không vướng mắc thì thấy như không thấy. Thấy như không thấy thì về đâu có suy gẩm gì về chuyện đi chợ.

 

Còn này đi đâu mình thấy đó, thấy bán hoa đẹp khen bó hoa đó đẹp quá. Hoặc thấy người làm cái gì lạ lạ cũng nhớ. Rồi về hỏi bửa nay đi chợ thấy gì? Bửa nay tôi thấy hoa thật đẹp, thấy người đó cải lộn nhau gì gì đó, thành ra cái thấy nó vướng trong này rồi, nó vướng mắc thì làm thành bụi rồi, che lấp tâm mình. Nếu mình thấy mà không vướng mắc thì không có bụi, nó vẫn trong vẫn sáng, đâu phải mù mà không vướng mắc.

 

Vì vậy mà nói :

 

Tâm Pháp song vong tánh tức chân.

 

Nghĩa là tâm và pháp cả hai mà quên, mà mất rồi, thì tánh chơn của mình nó hiện ra.



PHƯƠNG DIỆN KHAI TÂM

 

Đã là phàm phu, tất còn ở trong vòng phiền não, bị nó mê hoặc sai khiến, lắm lúc không tự chủ được. Phiền não có nghĩa: "khuấy động, thiêu đốt" làm cho tâm niệm không yên, ngăn trở bước tu hành, nên gọi nó là phiền não chướng. Pháp thân huệ mạng ta bị phiền não phá hại, nên cũng gọi nó là phiền não ma.

Có những Phật tử tuy ăn chay, bố thí, tụng kinh, niệm Phật, nhưng chỉ chú ý về hình thức, không quan tâm đến việc dứt trừ phiền não vọng duyên. Nên biết, nếu phiền vọng tăng một phần, tất đạo tâm phải thối một phần, dù có tụng kinh, niệm Phật cũng không được thanh tịnh. Cho nên trong Kinh Pháp Bảo Đàn, đức Lục Tổ đã bảo:

Người mê tu phước chẳng tu đạo
Bảo rằng tu phước ấy là đạo
Bố thí cúng dường phước không lường
Nơi lòng ba ác vẫn còn tạo.

Chữ Đạo của đức Lục Tổ nói, chỉ cho chân tâm thanh tịnh. Tất cả đường lối tu hành đều là phương tiện trở về chân tâm ấy. Chứng được chân tâm mới hoàn phục tánh bản giác, thoát nỗi khổ luân hồi, mà điểm căn bản để tu chứng, là phải dứt trừ phiền não vọng niệm.

Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, đức Phật cũng dạy: "Bậc sa môn hành đạo đừng giống như con trâu kéo chiếc cối xay, thân tuy hành đạo mà tâm đạo chẳng hành. Nếu tâm đạo được hành, cần gì dùng thân hành đạo?" Niệm Phật, sám hối, ngồi thiền, lễ bái, kinh hành, đều là phương tiện phá trừ vọng nghiệp, mở rộng chân tâm. Nếu thân, miệng áp dụng hình thức ấy, mà lòng còn dẫy đầy nghiệp chướng tham, sân, si, thì đâu gọi là hành đạo? Trái lại, tuy không dùng hình thức đó, nhưng tâm vẫn luôn luôn trong sáng như gương nguyệt hồ thu, mới thật là người hành đạo. Khi xưa vua Hương Chí hỏi Tổ Bát Nhã Đa La rằng: "Các vị tu hành khác đều tụng kinh, sao Ngài lại không tụng?"

Tổ đáp: "Bần tăng hơi thở ra không tiếp xúc các duyên, hơi thở vào không ở trong ấm giới, thường chuyển thứ kinh ấy đã ngàn muôn ức quyển rồi!" Tổ muốn nói rằng mình hằng tụng vô tự tâm kinh, tâm kinh ấy là chẳng trụ trước muôn duyên bên ngoài, và bên trong hằng vắng lặng không thấy có năm ấm mười tám giới, cả tướng trong, ngoài, chính giữa cũng đều dứt tuyệt. Đây là ý nghĩa "tâm hành đạo".

Tuy nhiên, cũng đừng chấp theo điều nói trên, mà bác bỏ ăn chay, bố thí, sám hối, niệm Phật, tụng kinh. Bởi các sự kiện ấy về mặt huệ nó giúp cho hành giả mau tiêu nghiệp chướng, sớm ngộ bản tâm; về mặt phước nó lại khiến cho người tu được quả báo đẹp vui, sanh về các cõi lành, hoặc miền Tịnh Độ để tiếp tục đường tu không còn thối chuyển. Mà phước huệ lưỡng toàn mới thành Phật được. Cho nên các bậc đại Bồ Tát tuy đã ngộ suốt nguồn tâm, nhưng vẫn tu muôn phước để trang nghiêm Phật độ. Như đức Di Lặc Bồ Tát tuy đã lên ngôi Nhất Sanh Bổ Xứ, xong mỗi ngày vẫn sám hối sáu thời để cầu tiêu trừ tế chướng, mau chứng quả Diệu Giác của Phật Đà. Nên biết lời dạy trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương và lời của Tổ Bát Nhã Đa La ở trên, chỉ có tánh cách phiến diện hoặc bán dụ, để phá trừ lối tu chấp tướng quên tâm mà thôi.

Để kết lại vấn đề, người tu tịnh nghiệp ngoài phương diện niệm Phật, trì chú, tụng kinh, sám hối, còn phải chú trọng về phương diện "khai tâm". Muốn cho tâm mở mang sáng suốt, để giúp kết quả niệm Phật mau thành tựu được sanh về Tây Phương, phải dứt trừ phiền não. Nếu nhận thức sâu thêm, câu niệm Phật tuy là tướng mà cũng chính là tánh, bởi lý không ngoài sự, tức niệm là Phật, tức niệm là tâm. Cho nên trong sáu chữ hồng danh, phước huệ gồm đủ, sự lý viên dung, vừa đưa người tu mau đến thể viên giác diệu tâm, vừa khiến hành giả được tịnh báo vãng sanh cõi Phật.

 


CHÁNH VĂN :

 

Ta mạc pháp ! Ác thời thế !

Chúng sanh phước bạc nan điều chế.

Khứ Thánh viễn hề tà kiến thâm,

Ma cường pháp nhược đa oan hại,

Văn thuyết Như Lai đốn giáo môn,

Hận bất diệt trừ như ngõa toái.

 

GIẢNG :

 

Ta mạc pháp ! Ác thời thế ! Đây ngài than. Than ôi, đời mạt pháp, thời ác.

 

Chúng sanh phước bạc nan điều chế. Chúng sanh phước thì mỏng cho nên khó điều phục được.

 

Khứ Thánh viễn hề tà kiến thâm, Cách Phật xa vời nên tà kiến sâu đậm.

 

Ma cường pháp nhược đa oan hại, Ma thì mạnh, pháp thì yếu nên nhiều oán hại.

 

Văn thuyết Như Lai đốn giáo môn, Nghe nói môn đốn giáo của Như Lai.

 

Hận bất diệt trừ như ngõa toái. Hận tức thù, ghét. Nếu không diệt trừ được, đập nát nó như ngói như gạch thì không vừa lòng.

 

Vì vậy, nếu có thể trong thời này chúng tôi GIẢNG : như vầy có nhiều người họ chịu không? Nhiều người họ không bằng lòng, chẳng những người chưa biết tu không bằng lòng, kể cả người biết tu cũng không bằng lòng nữa. Nói cái gì mà dễ quá vậy, Phật nói tu ba vô số kiếp mà ông này nói tu như trở bàn tay, thành ra nói đó là tà đạo rồi đó. Vì vậy mà đáng buồn cho cái thời của mình nó là như vậy. Cho nên những người đó muốn phá muốn dẹp cho hết tinh thần đốn giáo này.



Hỏi:- Sự rộng lớn và giản dị, tôi đã nghe lời chỉ dạy. Nhưng bậc ngộ đạt trong Thiền Tông, đã gọi thấy tánh thành Phật, há lại khứng chịu cầu sanh về Tây Phương ư?

Đáp:- Thật ra ông chưa biết đó thôi. Chính những bậc ngộ đạt càng cấp thiết cầu sanh. Cổ đức đã bảo: 'Không cầu về Tịnh Độ, còn nguyện sanh cõi nào?' Nay ông chưa ngộ đạo, giả sử khi được tỏ ngộ rồi, e cho tâm niệm cầu sanh Cực Lạc của ông, muôn trâu cũng không thể kéo lại!

 

Hỏi:- Sở dĩ Phật, Tổ ra đời vì độ chúng sanh; học giả chỉ lo việc lớn chưa xong, nếu đã phát minh đại sự (tức ngộ đạo), nên theo gương đấng Đại Giác hiện thân vào nơi khốn khổ, không hiềm đường sanh tử, mà độ khắp hàm linh. Nếu bậc đã ngộ đạt mà còn cầu sanh Tịnh Độ, đó chẳng qua là tâm niệm chán khổ tìm vui, không đoái đến kẻ đang ở trong vòng chìm đắm? Tôi dù ngu hèn, vẫn không thích làm như vậy!

Đáp:- Thấy chiếc trứng mà muốn cho nó nở liền, tâm niệm ấy sao đà vội gấp! Ông cho rằng sau một phen tỏ ngộ, thì nghiệp tập đã dứt sạch, được ngay vị bất thối chuyển ư? Và cũng không còn học khắp Phật Pháp, không cần phải tu hành thêm để chứng những quả vị từ thấp đến cao ư? Hay là ông lại nghĩ: sau một phen ngộ đạo, tất đã đồng hàng với chư Phật, có thể vào sanh ra tử không bị chướng duyên nhiễu loạn ư? Nếu quả như thế thì chư Đại Bồ Tát trải qua hằng hà sa kiếp tu sáu độ muôn hạnh, cũng đều phải hổ thẹn với ông vậy! Cổ giáo đã có lời răn nhắc: 'Hàng Thanh Văn còn muội lúc ra thai, bậc Bồ Tát còn mê khi cách ấm!' Hai hạng ấy mà còn như thế, huống chi người ngộ giải non kém, tự cứu chưa xong giữa đời nay ư? Dù cho chỗ tỏ ngộ có sâu xa, trí thông hiểu có cao sáng, hạnh cùng giải hợp nhau, chí quyết muốn độ người; nhưng vì chưa lên hàng bất thối, lực dụng chưa đầy đủ, mà muốn ở cõi đời ác nầy hóa độ kẻ cang cường, điều ấy bậc Tiên Thánh cũng chưa hứa nhận. Ví như đem chiếc thuyền đóng trám chưa kỹ, để vớt người nơi biển dậy ba đào, cái họa trầm nịch cả đoàn tất không tránh khỏi. Cho nên Luận Vãng Sanh nói: 'Muốn du hành nơi địa ngục, muốn cứu độ chúng hữu tình mê khổ, trước phải cầu sanh về cõi kia, đợi khi chứng được Vô Sanh Nhẫn rồi sẽ trở lại đường sanh tử mà thật hành bản nguyện. Do nhân duyên ấy nên người tu mới cầu về Tịnh Độ.' Lại Tiên Thánh cũng đã bảo: 'Chưa được vị Bất Thối Chuyển, chưa chứng Vô Sanh Nhẫn, cần phải thường không rời Phật. Ví như trẻ thơ không nên xa mẹ, như chim non chỉ có thể bay chuyền theo cành cây.'

Nay ở cõi Ta Bà nầy Đức Thích Ca đã diệt, Phật Di Lặc chưa sanh. Huống nữa, bốn đường khổ thú, nhân quả dây dưa, trăm mối ngoại tà, thị phi rối loạn; sắc tốt tiếng dâm hằng quyến dụ, cảnh hư duyên ác mãi vây quanh. Trong hiện trạng ấy, đã không có Phật để nương nhờ, lại bị cảnh duyên làm khuấy động, hàng sơ tâm ngộ đạo hỏi mấy ai không bị thối lui? Cho nên Đấng Thế Tôn ân cần chỉ về Cực Lạc là bởi lý do ấy. Phương chi ở cõi kia, Đức Di Đà hiện đang nói pháp, cảnh diệu độ muôn thứ thuận duyên; đã nương nhờ hải chúng, nhẫn lực mau thành, lại gần Đấng Pháp Vương, Phật Thừa dễ đạt. Chừng ấy muốn ra ứng hoá độ sanh, còn chi trở ngại? Cũng vì lẽ ấy, nên bậc thượng căn lợi trí còn nguyện thác sanh, huống chi ông là hạng trung hạ mới được đôi chút giải ngộ đó ư?

Ông há không thấy trong kinh Quán Phật Tam Muội, Ngài Văn Thù tự bày tỏ túc nhân, bảo mình đã chứng môn Niệm Phật Tam Muội, thường sanh ở Tịnh Độ ư? Do bởi đó, Đức Thế Tôn mới thọ ký cho ngài rằng: 'Ông sẽ được sanh về thế giới Cực Lạc.'

Lại chẳng thấy trong kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ Tát đem mười đại nguyện vương khuyến tấn Thiện Tài Đồng Tử và đại chúng nơi hải hội, nên dùng công đức đó cầu sanh về Cực Lạc ư? Trong ấy có đoạn nói: 'Tôi nguyện khi đến lúc lâm chung. Dứt trừ tất cả điều chướng ngại. Diện kiến Đức Phật A Di Đà, liền được sanh về cõi Cực Lạc.'

Lại chẳng thấy trong Kinh Lăng Già, Đức Thế Tôn đã huyền ký: 'Sau xứ Nam Thiên Trúc, có danh đức Tỳ Khưu, tôn hiệu là Long Thọ. Hay phá hữu, vô tông. Trong thế gian hiển ngã. Pháp Vô Thượng đại thừa. Chứng Sơ Hoan Hỷ Địa. Sanh về cõi Cực Lạc' ư?

Và chẳng thấy trong Luận Khởi Tín, Mã Minh Bồ Tát, khen ngợi sự vãng sanh; trong Kinh Đại Bảo Tích, Phật hứa khả cho Tịnh Phạn Vương và bảy muôn Thích chủng đồng về An Dưỡng; trong Kinh Thập Lục Quán, Đức Thế Tôn chỉ dạy phương pháp cho bà Vi Đề Hy cùng năm trăm thị nữ được lễ cẩn Đức A Di Đà ư?

Trong mấy vị trên, như Vua Tịnh Phạn và bà Vi Đề Hy hiện tiền đều đã chứng được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Ở Tây Trúc những hạng ấy cầu vãng sanh rất nhiều. Bên đông độ thì có Viễn Công ở Lô Sơn cùng các bậc cao nhơn trong Liên Xã, những vị tôn túc ở hai tông Thiên Thai, Hiền Thủ, tất cả đều dùng môn niệm Phật tự tu và độ người khuyến hóa hàng tăng tục đồng cầu sanh về Tịnh Độ. Nói chung những bậc cao đức tu tịnh nghiệp số lượng không biết bao nhiêu mà kể! Đến như hai ngài Văn Thù, Phổ Hiền là bậc Đại Bồ Tát, Thiện Tài Đồng Tử và hải chúng Hoa Tạng đều là bậc đại nhơn trong bốn mươi mốt vị. Mã Minh, Long Thọ là hàng Bồ Tát, mà cũng là bậc Đại Tổ Sư.

Những thánh nhơn ấy chỗ ngộ và chứng siêu xuất hơn người ngộ đạt ngày nay như trời với vực, mà còn nguyện sanh về Tây Phương, ông bảo rằng đã tỏ ngộ không cầu về Cực Lạc, lại bác sự cầu sanh, thì các ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, chắc là không bằng ông rồi! Ông thử tự lượng xem chổ tu chứng có bằng hai bậc Đại Sĩ, và hai vị Tổ Sư; sự tham ngộ có bằng ngài Thiện Tài cùng hải chúng, cảnh giới sở đắc và được Phật hứa khả có bằng vua Tịnh Phạn và bà Vi Đề Hy chăng? Vã Tịnh Phạn Vương là thân sanh của Phật, bảy muôn Thích chủng là tộc thuộc của Ngài, nếu sự về Tịnh Độ không có lợi ích thì Đức Thế Tôn đâu nỡ khiến phụ vương và hàng thân thuộc cầu vãng sanh? Trước kia đã nói bậc chứng được Vô Sanh Nhẫn có thể vào tục độ sanh, nay vua Tịnh Phạn và người thân thuộc của Phật đã đắc quả ấy mà Đức Như Lai còn khuyên và thọ ký cho vãng sanh, thì tấm lòng hộ trì bảo dưỡng của Ngài há chẳng là thân thiết và sâu xa ư?

Tôi thấy hàng thiền giả đời nay phần nhiều không xét liễu nghĩa của Như Lai, chẳng rõ huyền cơ của Đạt Ma, bụng rỗng lòng cao, tập quen thành bệnh cuồng vọng. Khi thấy người tu Tịnh Độ, họ khinh thường và cười bảo: 'Đó là việc làm thấp kém của hàng ngu phu ngu phụ!' Tôi thường cho đó không phải khinh hạng ngu phụ ngu phu, mà chính là khinh các Ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ; đó chẳng những tự mê chánh đạo, tự làm mất căn lành mà còn tự bỏ quên huệ thân và tự để tiêu Phật chủng. Đó cũng là tự gây ra tội báng Chánh Pháp, tự kết thành nghiệp khinh Thánh Tăng. Chư Phật, Tổ xem những kẻ ấy là hạng người đáng thương xót! Vì lẽ ấy nên Ngài Vĩnh Minh động mối bi tâm đem hết tâm can chủ trương Tịnh Độ, đã tự tu lại khuyên đời. Nên khi lâm chung, Đại Sư biết trước ngày giờ, có các điềm lành ứng hiện; lúc trà tỳ xá lợi tuôn ra vô số. Về sau có một vị tăng ở Phủ Châu thường cung kính đi nhiễu xung quanh tháp của ngài, nhiều người hỏi lý do thì vị tăng ấy đáp: 'Nhân lúc tôi bị bịnh nặng thần thức đi vào minh giới, Diêm Vương xét thấy thọ số chưa mãn, cho đưa trở về. Khi ấy tôi thấy bên phía tả đại điện có thiết bàn thờ di tượng một vị Đại Đức, Diêm Vương lễ bái ân cần. Hỏi ra thì Quan Chủ lại bảo đó là chân dung của Vĩnh Minh Diên Thọ Thiền Sư, vì ngài tu hành tinh tấn, được sanh về Thượng Phẩm ở Cực Lạc, nên Diêm Vương họa tượng để thờ.' Vĩnh Minh Đại Sư là bậc đã ngộ suốt môn thiền trực chỉ của tổ Đạt Ma, mà lại gởi chất nơi phẩm sen thượng thượng bên trời An Dưỡng; những sự kiện ấy đủ giải thích mối tình chấp của người tu thiền, còn làm duyên khuyến tấn cho chúng sanh đời mạt pháp. Cho nên tôi nói ngài rất có công đối với bên tông cũng như bên giáo là ở điểm nầy.

Song chẳng những chỉ có Vĩnh Minh Đại Sư mới như thế mà thôi. Ngoài ra, còn có Tử Tâm Tân Thiền Sư đã ngộ bên Thiền, lại khuyên tu bên Tịnh. Ngài đã bảo: Di Đà rất dễ niệm, Tịnh Độ rất dễ sanh. Người tham thiền niệm Phật rất tốt. Nếu kẻ căn cơ hơi kém, sợ e đời nay chưa được đại ngộ, kiếp sau dễ lạc bến mê, thì nên nhờ sức bi nguyện của Đức A Di Đà để sớm vãng sanh về Cực Lạc. Nếu vị nào chí tâm niệm Phật mà không được sanh về Tịnh Độ, lão tăng xin chịu đọa vào địa ngục Bạt Thiệt (ngục rút lưỡi). Lại như Chân Yết Liễu Thiền Sư, trong bài văn khuyên tu Tịnh Độ, có nói: 'Tại sao người trong tông Tào Động, ngoài sự tập thiền, còn mật tu Tịnh Độ? Sở dĩ có việc ấy, vì pháp môn niệm Phật là con đường tắt trong các lối tu hành. Xét trong Đại Tạng môn nầy ngoài sự tiếp dẫn bậc thượng thượng căn còn thâu nhiếp hạng người trung hạ... Bậc đại tượng trong tông môn đã ngộ pháp phi không phi hữu, lại chăm chú tu tịnh nghiệp, có phải sự thấy Phật cửa Tịnh Độ còn giản dị hơn tông môn chăng? Cho nên dù Phật dù Tổ, hoặc Giáo hoặc Thiền, đều do nơi cửa Tịnh Độ đồng về nơi chân nguyên. Vào được môn nầy, tức có thể vào được vô lượng pháp môn khác...'

Đến như các ngài: Thiên Y Hoài Thiền Sư, Viên Chiếu Bản Thiền Sư, Từ Thọ Thâm Thiền Sư, Nam Nhạc Tư Thiền Sư, Pháp Chiếu Thiền Sư, Tịnh Yết Thiền Sư, Tịnh Từ Đại Thông Thiền Sư, Thiên Thai Hoài Ngọc Thiền Sư, Lương Đạo Trân Thiền Sư, Đường Đạo Xước Thiền Sư, Tỳ Lăng Pháp Chân Thiền Sư, Cô Tô Thủ Nạp Thiền Sư, Bắc Nhàn Giản Thiền Sư, Thiên Mục Lễ Thiền Sư, những đại lão ấy là bậc tông tượng trong thiền môn, song xét ra chỗ mật tu và hiển hóa đều phát dương ý chỉ Tịnh Độ, tuy không ước hẹn mà ngẫu nhĩ đồng đường. Chẳng những các vị đại lão ấy như thế mà thôi, tôi lại thường nghe một vị kỳ túc bên tông môn nói: 'Hầu hết ngũ gia tông phái và những thiền tăng trong thiên hạ, đã tỏ ngộ cùng chưa tỏ ngộ, đều quy hướng về Tịnh Độ.' Hỏi lý do thì vị đó đáp: 'Ngài Bá Trượng Trí Hải Thiền Sư là đích tử của Giang Tây Mã Tổ, những tòng lâm trong thiên hạ đều y theo cách thức của ngài mà kiến lập và thanh quy ở khắp thiền môn đều y theo pháp chế của ngài mà cử hành. Từ xưa đến nay không ai dám có lời thị phi và trái với pháp chế ấy. Theo thanh quy của ngài, thì nghi thức tụng cầu cho những vị tăng bệnh nặng có lời văn như sau: 'Phải nhóm chúng lại, tất cả đồng tụng bài kệ tán Phật A Di Đà, rồi cao tiếng niệm Nam Mô A Di Đà Phật, hoặc trăm câu, ngàn câu. Khi niệm xong, hồi hướng phục nguyện rằng: Nếu các duyên chưa mãn, sớm được an lành. Như hạn lớn đến kỳ, sanh về A Dưỡng.' Đó chẳng phải là bằng chứng chỉ quy Tịnh Độ hay sao? Lại trong nghi thức đưa những vị tăng đã tịch có đoạn nói: 'Đại chúng đồng niệm A Di Đà Phật hồi hướng phục nguyện rằng: Thần siêu cõi tịnh, nghiệp dứt đường trần, thượng phẩm sen nở hiện kim thân, nhứt sanh Phật trao phần quả ký.' Đó không phải là bằng chứng chỉ quy Tịnh Độ hay sao? Đến như lúc trà tỳ, trong thanh quy lại dạy: Vị Duy Na chỉ dẫn khánh niệm Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật mười lần, đại chúng đồng xướng họa theo.

Khi xướng xong, lại hồi hướng rằng: 'Trước đây xưng dương mười niệm, phụ giúp vãng sanh...' Đó không phải là bằng chứng chỉ quy Tịnh Độ hay sao? Cho nên lão tăng nói: 'Các thiền gia trong thiên hạ đều quy hướng Tịnh Độ, là bởi nguyên nhân đó.' Tôi nghe những lời dẫn chứng của vị kỳ túc ấy đều có y cứ, nên không biện bác ra sao được. Nhân đó tôi lại chợt hiểu chỗ lập pháp của ngài Bá Trượng tất có thâm ý nhiệm mầu.

Nay ông ở tòng lâm, thân đã đưa không biết bao nhiêu vị tăng quy tịch, tai cùng miệng đã nghe và xướng không biết bao nhiêu lần mười niệm, ý đã chuyên chú hồi hướng về Tịnh Độ lại không biết bao nhiêu lần nữa! Thế mà ông đã không hiểu ý Tổ Sư, đã không phát lòng thức tỉnh, lại lầm bảo: những bậc ngộ đạt không nguyện vãng sanh. Quả thật cái bệnh chấp thiền trong thiên hạ, không còn ai hơn ông được.



CHÁNH VĂN :

 

Tác tại tâm, ương tại thân,

Bất tu oan tố cánh vưu nhân.

Dục đắc bất chiêu vô gián nghiệp,

Mạc báng Như Lai chánh pháp luân.

 

GIẢNG :

 

Tác tại tâm, ương tại thân, Tác tại tâm, mình khởi niệm ghét nên mình mới làm; ương tại thân, thì mắc họa ở thân. Tâm mình khởi niệm ác rồi thân mình phải chịu cái họa.

 

Bất tu oan tố cánh vưu nhân. Không nên không cần đổ thừa kẻ này, người kia hay nói oan cho người. Chuyện đó mình làm mình chịu chớ không phải ai làm.

 

Dục đắc bất chiêu vô gián nghiệp, nếu muốn không chuốc nghiệp vô gián. Nghiệp vô gián là nghiệp phải đọa địa ngục vô gián.

 

Mạc báng Như Lai chánh pháp luân. Chớ nên chê bai chánh pháp của Đức Như Lai.

 

Đó là ngài chỉ số người trong thời mạ pháp không tin được pháp môn đốn giáo, cho nên rồi họ trở thành chống đối, trở thành muốn tiêu diệt thì đó là chuốc họa địa ngục vô gián, cho nên họ mới chê bai pháp luân của Phật hay pháp môn đốn giáo của Phật.



CHÁNH VĂN :

 

Chiên đàn lâm vô tạp thụ.

Uất mật sâm trầm sư tử trú.

Cảnh tịnh lâm nhàn độc tự du,

Tẩu thú phi cầm giai viễn khứ.

 

GIẢNG :

 

Chiên đàn lâm vô tạp thụ. Đây nói rằng trong rừng cây chiên đàn nó không có những cây lẫn lộn khác.

 

Uất mật sâm trầm sư tử trú. Tức là nó sâu kín, các loài sư tử ẩn trong đó.

 

Cảnh tịnh lâm nhàn độc tự du, là trong cảnh lặng lẽ yên ổn đó, chỉ riêng tự ở. Tự du là tự dạo đi.

 

Tẩu thú phi cầm giai viễn khứ. Là các loài chim chóc hay các loài thú cọp beo… nó đều chạy đi hết.

 

Đây là ngài muốn diễn tả lại pháp đốn giáo này như rừng chiên đàn, nó không có cái gì lẫn lộn được, không sống chung được. Trong đó chỉ có hàng sư tử ở, nó thích. Sư tử ở trong đó rồi nó đi tới đi lui một cách tự tại, còn các loài chim chóc hay thú khác nó chạy đi mất nó không có ở. Để diễn đạt rằng người lãnh hội được pháp môn đốn giáo này, thật là như sư tử ở trong rừng chiên đàn vậy, các loài khác không đến được. Đó là để diễn tả cái khó mà nhận được thì nó rất quí nhưng những người khác thì không thể chấp nhận.

 


CHÁNH VĂN :

 

Sư tử nhi, chúng tùy hậu,

Tam tuế tiện năng đại hao hống.

Nhược thị dã can trục Pháp Vương,

Bách niên yêu quái hư khai khẩu!

 

GIẢNG :

 

Sư tử nhi, chúng tùy hậu, Ngài nói nếu là con sư tử con thì nó sẽ theo sư tử cha, sư tử mẹ.

 

Tam tuế tiện năng đại hao hống. Tuy mới ba tuổi, nó rống cũng là rống tiếng sư tử, chớ không rống tiếng gì khác.

 

Nhược thị dã can trục Pháp Vương, Nếu là loài dã can mà có theo sư tử thì dầu cho trăm năm đi nữa nó có rống lên tiếng thì tiếng đó cũng là tiếng nói gở thôi, chớ không đúng tiếng sư tử.

 

Bách niên yêu quái hư khai khẩu! Đó là để nói rằng ai có chủng tử sâu về tinh thần đốn giáo hay thiền tông, thì người đó mới có thể đến được. Dầu thời gian ngắn, thời gian ít mà họ có chủng tử đó rồi, họ cũng có thể làm được chuyện của những vị tu hành lâu chỉ dạy. Nếu những người không có chủng tử đó hay tâm trí yếu hèn thì không thể nào bắt chước được. Nếu có bắt chước thì cũng là ngượng ngạo, là quái gở thôi chớ không đi tới đâu.



NHỮNG HUẤN THỊ VỀ BỒ ĐỀ TÂM

 

Về Bồ Đề tâm, trong nội điển có thuyết minh rất nhiều, nay chỉ xin trích lục ít đoạn nơi Kinh Hoa Nghiêm để chư vị đồng tu thể nhận:

* Này thiện nam tử! Bậc Bồ Tát phát lòng Vô Thượng Bồ Đề là: khởi lòng đại bi cứu độ tất cả chúng sanh. Khởi lòng cúng dường chư Phật, cứu cánh thừa sự. Khởi lòng khắp cầu chánh pháp, tất cả không sẻn tiếc. Khởi lòng thú hướng rộng lớn, cầu Nhứt Thiết Trí. Khởi lòng đại từ vô lượng, khắp nhiếp tất cả chúng sanh. Khởi lòng không bỏ rơi các loài hữu tình mặc áo giáp kiên thệ để cầu Bát Nhã Ba La Mật. Khởi lòng không siểm dối, vì cầu được trí như thật. Khởi lòng thật hành y như lời nói, để tu đạo Bồ Tát. Khởi lòng không dối với chư Phật, vì gìn giữ thệ nguyện lớn của tất cả Như Lai. Khởi lòng nguyện cầu Nhứt Thiết Trí, cùng tận kiếp vị lai giáo hóa chúng sanh không dừng nghỉ. Bồ Tát dùng những công đức Bồ Đề tâm nhiều như số bụi nhỏ của cõi Phật như thế, nên được sanh vào nhà Như Lai.

* Này thiện nam tử! Như người học bắn, trước phải tập thế đứng, sau mới học đến cách bắn. Cũng thế, Bồ Tát muốn học đạo Nhứt Thiết Trí của Như Lai, trước phải an trụ nơi Bồ Đề tâm, rồi sau mới tu hành tất cả Phật pháp. Thiện nam tử! Ví như vương tử tuy hãy còn thơ ấu, song tất cả đại thần đều phải kính lễ. Cũng thế, Bồ Tát tuy mới phát Bồ Đề tâm tu Bồ Tát hạnh, song tất cả bậc kỳ cựu hàng Nhị Thừa đều phải kính trọng nể vì. Thiện nam tử! Như thái tử tuy đối với quần thần chưa được tự tại, song đã đủ tướng trạng của vua, các bầy tôi không thể sánh bằng, bởi nhờ chỗ xuất sanh tôn quý. Cũng thế Bồ Tát tuy đối với tất cả nghiệp phiền não chưa được tự tại, song đã đầy đủ tướng trạng Bồ Đề, hàng Nhị Thừa không thể sánh bằng, bởi nhờ chủng tánh đứng vào bậc nhứt. Thiện nam tử! Như người máy bằng gỗ, nếu không có mấu chốt thì các thân phần rời rạc chẳng thể hoạt động. Cũng thế, Bồ Tát nếu thiếu Bồ Đề tâm, thì các hạnh đều phân tán, không thể thành tựu tất cả Phật pháp. Thiện nam tử! Như chất kim cương tất cả vật không thể phá hoại, trái lại có thể phá hoại tất cả vật, song thể tánh của nó vẫn không tổn giảm. Bồ Đề tâm của Bồ Tát cũng thế, khắp ba đời trong vô số kiếp, giáo hóa chúng sanh, tu các khổ hạnh, việc hàng Nhị Thừa không thể làm đều làm được, song kết cuộc vẫn chẳng chán mỏi, giảm hư...

* Phổ Hiền Bồ Tát bảo: - Thiện nam tử! Bồ Tát vì điều phục giáo hóa tất cả chúng sanh nên phát Bồ Đề tâm. Vì trừ diệt khổ tụ cho tất cả chúng sanh, nên phát Bồ Đề tâm. Vì đem cho tất cả chúng sanh sự an vui đầy đủ, nên phát Bồ Đề tâm. Vì dứt trừ sự ngu tối cho tất cả chúng sanh, nên phát Bồ Đề tâm. Vì đem lại Phật trí cho tất cả chúng sanh, nên phát Bồ Đề tâm. Vì cung kính cúng dường tất cả chư Phật, nên phát Bồ Đề tâm. Vì tùy thuận lời dạy Như Lai khiến chư Phật hoan hỷ, nên phát Bồ Đề tâm. Vì muốn thấy sắc thân tướng hảo của tất cả chư Phật, nên phát Bồ Đề tâm. Vì muốn vào trí huệ rộng lớn của tất cả chư Phật, nên phát Bồ Đề tâm. Vì muốn hiển hiện các đức: lực, vô úy của chư Phật, nên phát Bồ Đề tâm.

* Như thế, trong Kinh Hoa Nghiêm đức Thế Tôn và chư Bồ Tát đã thuyết minh rộng rãi về công đức của Bồ Đề tâm, trên đây chỉ lược trích một vài yếu điểm. Kinh văn cũng có nói: "Cửa yếu vào đạo, trước phải phát tâm. Việc yếu tu hành, trước nên lập nguyện."

Nếu không phát tâm rộng lớn, không lập nguyện bền chắc, thì dù trải qua vô lượng kiếp, vẫn y nhiên ở trong nẻo luân hồi; dù có tu hành cũng khó tinh tấn và chỉ luống công khổ nhọc. Do đó nên biết: muốn học Phật đạo, quyết phải phát Bồ Đề tâm không thể trì huỡn. Bởi thế khi xưa Tỉnh Am đại sư đã soạn ra Phát Bồ Đề Tâm Văn để khuyến khích tứ chúng. Trong ấy, Ngài theo các tâm nguyện mà trình bày sự phát tâm thành tám cách: tà, chánh, chân, ngụy, đại, tiểu, thiên, viên. Xin tóm đại lược như sau:

1. Có những người tu không tham cứu tự tâm, chỉ biết theo bên ngoài, hoặc cầu danh lợi, đắm cảnh vui hiện tại, hay mong quả phước tương lai mà phát lòng Bồ Đề. Phát tâm như thế gọi là Tà.

2. Như chẳng cầu danh lợi, không tham cảnh vui cùng mong quả phước, chỉ vì thoát vòng sanh tử, lợi mình lợi sanh mà cầu đạo Bồ Đề. Phát tâm như thế gọi là Chánh.

3. Mỗi niệm trên vì cầu Phật đạo, dưới vì độ chúng sanh, nhìn đường Bồ Đề dài xa mà không khiếp, thấy loài hữu tình khó độ nhưng chẳng sờn. Tâm bền vững như lên núi quyết đến đảnh, như leo tháp quyết đến chót. Phát tâm như thế gọi là Chân (thật).

4. Có tội lỗi không sám hối chừa cải, ngoài dường trong sạch, trong thật nhớp nhơ, trước tinh tấn sau biếng lười. Dù có tâm tốt nhưng còn xen lẫn lợi danh, có pháp lành song bị tội lỗi làm ô nhiễm. Phát tâm mà còn những điều này, gọi là Ngụy (dối).

5. Cõi chúng sanh hết, nguyện mới hết; đạo Bồ Đề thành, nguyện mới thành. Phát tâm như thế gọi là Đại.

6. Xem tam giới như tù ngục, sanh tử như oan gia; chỉ mong mình mau giải thoát, chẳng muốn độ người. Phát tâm theo quan niệm này, gọi là Tiểu.

7. Thấy chúng sanh và Phật đạo ở ngoài tự tánh, rồi nguyện độ nguyện thành, đường công hạnh chẳng quên, sự thấy hiểu không dứt. Phát tâm như thế gọi là Thiên (lệch).

8. Biết chúng sanh và Phật đạo đều là tự tánh, nên nguyện độ nguyện thành, tu công đức không thấy mình có tu, độ chúng sanh không thấy có chúng sanh được độ. Phát tâm như thế gọi là Viên (tròn).

Trong tám cách như trên, Tà, Ngụy, Thiên, Tiểu nên bỏ, Chân, Chánh, Viên, Đại nên theo. Được như thế mới gọi là phát Bồ Đề tâm đúng cách.

Trong văn, Tỉnh Am đại sư lại khuyên đại chúng nên nghĩ đến mười nhân duyên để phát tâm. Mười duyên ấy là: vì nghĩ đến ơn Phật, vì công ơn cha mẹ, vì nhớ ơn sư trưởng, vì tưởng ơn tín thí, vì biết ơn chúng sanh, vì lo khổ sanh tử, tôn trọng tánh linh, vì sám trừ nghiệp chướng, vì hộ trì chánh pháp, vì cầu sanh Tịnh Độ. Nơi điều cầu Tịnh Độ, Ngài dẫn một lời Kinh A Di Đà và bảo: "Kinh Văn nói: ‘Không thể dùng chút ít căn lành phước đức nhân duyên được sanh về nước kia’. Thế thì biết, phải có nhiều căn lành phước đức mới được vãng sanh Cực Lạc. Nhưng nhiều căn lành không chi hơn phát Bồ Đề tâm, nhiều phước đức không chi hơn trì danh hiệu. Nhiếp tâm niệm Phật giây phút hơn bố thí nhiều năm, chân thật phát lòng Bồ Đề hơn tu hành nhiều kiếp. Giữ chắc hai nhân duyên này, quyết định được sanh Cực Lạc."

Qua những lời dạy của Phật, Bồ Tát, Tổ Sư ở trên, ta thấy phát Bồ Đề tâm là điều rất quan yếu trên đường hành đạo.

 


CHÁNH VĂN :

 

Viên đốn giáo vật nhân tình,

Hữu nghi bất quyết trực tu tranh.

Bất thị sơn tăng sinh nhân ngã,

Tu hành khủng lạc đoạn thường khanh.

 

GIẢNG :

 

Viên đốn giáo vật nhân tình, Cái giáo lý viên đốn này nó không có hợp, không thích ứng với tình người.

 

Hữu nghi bất quyết trực tu tranh. Nếu cái gì nghi không giải quyết được thì phải tranh luận cho rõ ra, chớ đừng có ôm ấp.

 

Bất thị sơn tăng sinh nhân ngã, là không phải sơn tăng tức ông thầy núi này có nhân ngã mà cho rằng pháp tu mình là cao, pháp tu của người thấp, không phải vậy. Chỉ làm sao muốn nói cho người ta biết cái giá trị của đạo thôi.

 

Tu hành khủng lạc đoạn thường khanh. Bởi vì sợ e những người tu hành mà họ sẽ rơi vào hầm đoạn và thường. Hoặc là bên này là dứt, bên kia là còn; bên này là ngắn, bên kia là dài..v.v… Đừng có để cho người tu rơi vài hai bên.



CHÁNH VĂN :

 

Phi bất phi, thị bất thị,

Sai chi hào ly thất thiên lý.

Thị tắc Long Nữ đốn thành Phật,

Phi tắc Thiện Tinh sanh hãm trụy.

 

GIẢNG :

 

Phi bất phi, thị bất thị, Cái này quấy nó cũng chẳng quấy, phải nó cũng chẳng phải.

 

Sai chi hào ly thất thiên lý. Chỉ sai trong một hào ly, một tơ tóc thôi, thì nó cách xa ngàn dậm. Tại sao vậy? Bởi vì chỗ này là chỗ rất là chí lý, rất là thiết yếu, mà mình nhìn mình ngó nó với đôi mắt đối đải thì sai một chút nó đã lầm rồi.

 

Thị tắc Long Nữ đốn thành Phật, Thị tức là đúng, thì như bà Long Nữ trong kinh Pháp Hoa chỉ trong một phút giây thì ngài thị hiện thành Phật.


19. Thanh-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp 

 

Rị Ðà Dựng [26]

Án-- chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra,

                 bộ ra bạn đà, hồng phấn tra.

UM! BÚT RUM!  HÙM! 


Kinh nói rằng: “Nếu muốn được sanh về mười phương tịnh-độ, 

                                 nên cầu nơi Tay cầm Hoa-Sen-Xanh.”


Thần-chú rằng: Rị Ðà Dựng [26]

Chơn-ngôn rằng: Án-- chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra, bộ ra bạn đà, hồng phấn tra.




Kệ tụng:



Niệm Phật niệm pháp niệm thánh tăng
Thập phương tịnh độ bảo liên đăng
Hoa khai Phật hiện viên giác quả
Nhậm vận lai vãng sát na trung.


( Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm thánh Tăng.

Mười  phương tịnh độ được vãng sanh.

Hoa khai thấy Phật chứng “VÔ SANH”.

“TỰ TẠI” QUA LẠI MƯỜI PHƯƠNG TỊNH ĐỘ TRONG KHOẢNG MỘT SÁT NA.)



Ý nói là nếu Qúy-vị Niệm Phật (NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT…), hoặc Niệm Pháp (Tụng-Kinh, Tham-Thiền, Trì Chú…) hoặc Niệm Tăng (Nam-mô Ðại-bi Quán Thế Âm Bồ-tát… ) thì tùy theo ý nguyện được  vãng sanh về Tịnh-độ ở mười phương. Như là : Đức “Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai” ở phương Đông , Đức “A-Di Đà Như Lai” ở phương Tây


Hay là:

Nếu Qúy-vị “TRÌ TỤNG” THANH LIÊN HOA THỦ NHÃN ẤN PHÁP thì cũng được vãng sanh ở mười phương tịnh độ tùy theo ý nguyện của mình. Được hóa sanh trong hoa sen ở mười phương tịnh độ, khi hoa khai thì thấy Phật chứng Vô-sanh, rồi dùng “THẦN TÚC THÔNG” TỰ TẠI ĐẾN ĐI TRONG MƯỜI PHƯƠNG TỊNH ĐỘ, CHỈ KHOẢNG MỘT SÁT NA. ( Trong 1 niệm có 90 sát-na sanh diệt)


Cho nên, ta thấy cho dù “CÁC NHÀ BÁC HỌC, KHOA HỌC, THIÊN VĂN, VẬT LÝ, NGUYÊN TỬ…” Ở CÙNG TẬN ĐỜI VỊ LAI, CŨNG KHÔNG THỂ HIỂU ĐƯỢC LOẠI “THẦN TÚC THÔNG” NÀY, NẾU HỌ KHÔNG HỌC “KINH HOA NGHIÊN”, “LĂNG NGHIÊM” VÀ “PHÁP HOA.”


Tại sao? Vì Phật, Bồ-tát và người ở Tịnh-độ, thì “TỰ TẠI” với thời gian không gian, có thể đêm 60 tiểu kiếp ở trong khoảng thời gian “một bửa ăn”. Như đức Phật Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh chẳng hạn.




KINH VĂN :

 

24.- Bấy giờ, đức Phật Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh từ trong chánh-định mà dậy, vì Diệu-Quang Bồ-tát nói kinh đại-thừa tên 'Diệu-Pháp-Liên-Hoa Giáo-Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ-Niệm', trải qua sáu mươi tiểu kiếp chẳng rời chỗ ngồi.

25.- Lúc ấy trong hội, người nghe pháp cũng ngồi một chỗ đến sáu mươi tiểu kiếp thân tâm đều không lay động, nghe đức Phật nói pháp cho là như trong khoảng bữa ăn. Bấy giờ trong chúng không có một người nào hoặc là thân hoặc là tâm mà sanh lười mỏi.

 

( Kinh Diệu Pháp Liên Hoa-Phẩm 'Tựa' Thứ Nhất)




Hoặc có thể đêm “3 a-tăng-kỳ kiếp” ở trong khoảng thời gian hiến châu. Như Long-Nữ thành Phật chẳng hạn. Long-Nữ làm được việc nầy, chứng tỏ đây là một vị Bồ-tát nhất sanh bổ xứ thị hiện.



KINH VĂN :


7.--- Bấy giờ, ngài Xá-Lợi-Phất nói với Long-nữ rằng: "Ngươi nói không bao lâu chứng được đạo vô-thượng, việc đó khó tin. Vì sao? Vì thân gái nhơ-uế chẳng phải là pháp-khí, thế nào có thể được thành vô-thượng chính-giác? Ðạo Phật xa rộng phải trải qua vô-lượng kiếp cần khổ chứa nhóm công-hạnh, tu đủ các độ, vậy sau mới thành được.

Lại thân gái còn có năm điều chướng: một, chẳng được làm Phạm-Thiên-Vương; hai, chẳng được làm Ðế-Thích; ba, chẳng được làm Ma-vương; bốn, chẳng được làm Chuyển-luân Thánh-vương; năm, chẳng được làm Phật. Thế nào thân gái được mau thành Phật?".

Lúc đó, Long-nữ có một hột châu báu, giá-trị bằng cõi tam-thiên đại-thiên đem dâng đức Phật. Phật liền nhận lấy. Long-nữ nói với Trí-Tích Bồ-Tát cùng tôn-giả Xá-Lợi-Phất rằng: "Tôi hiến châu báu, đức Thế-Tôn nạp thọ, việc đó có mau chăng?".

---Ðáp: "Rất mau".
---Long-nữ nói: "Lấy sức thần của các ông xem tôi thành Phật lại mau hơn việc đó".

Ðang lúc đó cả chúng-hội đều thấy Long-nữ thoạt nhiên biến thành nam-tử, đủ hạnh Bồ-tát, liền qua cõi Vô-Cấu ở phương Nam, ngồi tòa sen báu thành bậc Ðẳng-chánh-giác, đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẽ đẹp, khắp vì tất cả chúng-sanh trong mười-phương mà diễn nói pháp mầu.

(Kinh Diệu Pháp Liên Hoa -Phẩm 'Ðề-Bà-Ðạt-Ða' Thứ Mười Hai)

 


Lại nữa, Ta thấy rằng Pháp Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng của “ĐẠI THỪA” LÀ CẦU VÃNG SANH TỊNH ĐỘ Đ CHỨNG ĐƯỢC “VÔ SANH” TỨC LÀ CHỨNG ĐƯỢC “VIÊN GIÁC QỦA”,  VÀ SẼ THÀNH PHẬT Ở VỊ LAI.

Chứ không phải “ Niệm-Phật, Niệm-Pháp, Niệm-Tăng” để được “HIỆN TẠI LẠC TRÚ”,  hay “Pháp Quyền Giáo” để dứt trừ vọng tưởng, hoặc “Pháp Tiệm Giáo” để giao lần thiện căn…




Kệ tụng:


Một câu A Di Đà
Chứng ba ngôi Bất thối
Chỉ trong một đời này
Được bổ lên Phật vị




( 100 Bài Kệ Niệm Phật
Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm dịch)



Lại nữa, từ xưa đến nay người tu “TỊNH ĐỘ” PHẦN ĐÔNG ĐỀU CẦU VÃNG SANH VỀ  cõi CỰC 
LẠC CỦA PHẬT A DI ĐÀ Ở PHƯƠNG TÂY.  TẠI VÌ SAO ?




Hỏi:- Mười phương đều có chư Phật và Tịnh Độ. Nếu vì lẽ chúng sanh ở cõi nầy tâm tánh trược loạn, niệm nhiều vị Phật e Tam Muội khó thành, tại sao người tu không tùy ý niệm một đức Phật, tùy nguyện cầu sanh về một Tịnh Độ nào khác, hà tất phải riêng niệm Đức A Di Đà cầu sanh về Cực Lạc? 


Đáp:- Phàm phu vô trí phải theo lời Phật dạy, chẳng nên tự chuyên, vì thế xưa nay những người tu Tịnh Độ đều chuyên niệm Phật A Di Đà. Theo lời Phật dạy là thế nào?


Đức Thích Ca Thế Tôn một đời thuyết pháp, hằng khuyên chúng sanh niệm Phật A Di Đà cầu sanh về thế giới Cực Lạc. Như trong các kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, Phật Thuyết A Di Đà,  Pháp Hoa, Hoa Nghiêm ... có đến mấy mươi bộ, Phật đều ân cần khuyên sanh về Tây Phương.

Chẳng những riêng các kinh, mà trong các luận, chư Bồ Tát, Tổ Sư đều bảo nên cầu sanh về Cực Lạc

Lại nữa, đức Phật A Di Đà có bốn mươi tám điều đại bi nguyện lực để tiếp độ chúng sanh.

Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: 'Phật A Di Đà có tám mươi bốn ngàn tướng, mỗi tướng có tám mươi bốn ngàn vẻ đẹp tùy hình, mỗi vẻ đẹp phóng ra tám mươi bốn ngàn tia sáng soi khắp pháp giới nhiếp lấy chúng sanh niệm Phật không rời bỏ.

Nếu có chúng sanh nào niệm danh hiệu ngài, thì cơ cảm tương ưng, quyết định sẽ được vãng sanh.'


Các kinh Phật Thuyết A Di Đà, Vô Lượng Thọ, Cổ Âm Vương Đà Ra Ni đều nói: 'Khi Đức Thích Ca thuyết kinh, hằng hà sa chư Phật ở mười phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài che khắp cõi đại thiên để chứng thật rằng nếu chúng sanh nào niệm Phật A Di Đà, tất sẽ nương nhờ đại bi nguyện lực của ngài, quyết định được sanh về thế giới Cực Lạc.' 




Còn về “KHÔNG GIAN” thì có thể đêm “KHẮP CÕI ĐẠI THIÊN” để ở trong “ MỘT TƯỚNG LƯỠI ” của Chư Phật. Xin xem, “THẬP HUYỀN MÔN “  của KINH HOA NGHIÊM sẽ rõ “SỰ RỘNG VÀ HẸP TỰ TẠI KHÔNG NGẠI.”




Nên biết Phật A Di Đà đối với cõi nầy có nhân duyên lớn. Như kinh Vô Lượng Thọ nói: 'Trong thời mạt, khi các kinh khác đã diệt hết, chỉ còn kinh nầy lưu trú ở đời một trăm năm để tiếp độ loài hữu tình vãng sanh về cõi kia.' Đây là điểm chứng minh Phật A Di Đà đối với chúng sanh ở cõi trược nầy có đại nhân duyên. 


Về các Tịnh Độ khác, tuy một, hai bộ kinh có lược khuyên vãng sanh, song chẳng bằng cõi Cực Lạc là tiêu điểm mà các kinh, luận đều ân cần khuyến hướng. 



Tịnh Độ Thập Nghi Luận  (của Trí Giả Đại Sư )
Việt Dịch: HÒA THƯỢNG Thiền Tâm




Tuy nhiên, sở thích và nhân duyên của chúng-sanh với chư Phật khác nhau, cho nên nếu Qúy-vị ưa thích vị Phật nào, thì nguyện sanh về cõi  Đức Phật đó.




Kệ tụng:


Chuyên tụng một phẩm Kinh
Một Chân-Ngôn, hiệu Phật
Thì thành tựu các nguyện
Thỏa mãn các mong cầu

Chỉ sợ người không tin
Hoặc tin mà không sâu
Lại ngại không thực hành
Hoặc hành không bền lâu
Hoặc tuy hành bền lâu
Không chí tâm khẩn cầu




Chí tâm là không vọng
Trì niệm quên thân tâm
Lặng lẽ dứt phân biệt
Không trong, ngoài, người, cảnh

Khi đi, đứng, thức, ngủ
Chẳng bỏ câu trì niệm
Lúc hưỡn, gấp, an, nguy
Cũng vững vàng trì niệm
Cho đến khi sắp chết
Vẫn như thế trì niệm
Ðắc, thất đều do đây
Cần chi hỏi tri thức

Không hành như trên đây
Phật cũng khó cứu vớt
Huống nữa là phàm Tăng
Giúp ích được gì đâu

Nhớ lời Cổ Ðức dạy:
“Ta có một bí quyết
Khẩn thiết khuyên bảo nhau
Là hết lòng THÀNH KÍNH
Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”
Hãy ghi nhớ lời nầy
Lắng lòng suy gẫm sâu





THÀNH KÍNH là “NHẤT TÂM” tu “MỘT PHÁP” như chỉ trì 1 thủ nhãn..., trong vòng 7, 21, 49…để khắc kỳ cầu chứng nghiệm.Tuy nhiên, nếu thấy không làm được thì có thể kiêm tu hoặc “Niệm Phật và Trì Chú” , hoặc “Trì Chú và Tụng Kinh”…  như dù “CHUYÊN TU” hay “KIÊM TU” , đều tối trọng yếu là dùng “TÍN, NGUYỆN”  để đem công hạnh tu trì trong một đời hướng về cõi Tịnh-độ mà Qúy-vị ưa thích ĐƯỢC VÃNG SANH.



PHÁP YẾU TU HÀNH


HÒA THƯỢNG Thích-Thiền-Tâm.





Tóm lại, nếu Qúy-vị “TRÌ” THANH LIÊN HOA THỦ NHÃN ẤN PHÁP  thì tùy ý vãng-sanh ở 10 phương “TỊNH ĐỘ”, được hóa sanh trong hoa sen xanh, khi hoa nở thấy Phật “CHỨNG VÔ SANH”, rồi trong khoảng 1 “SÁT NA TỰ TẠI” qua lại trong 10 phương Tịnh-độ.

Cũng như trong KINH LĂNG GÌA nói về “Ý SANH THÂN, KHÔNG CẦN TÁC Ý MÀ HIỆN VÔ LƯỢNG THÂN CÙNG MỘT LÚC KHẮP MƯỜI PHƯƠNG”


(CHỦNG LOẠI CÂU SANH VÔ HÀNH TÁC Ý SANH THÂN)





26. Ma Hê Ma Hê Rị Ðà Dựng 



Ma Hê Ma HêHán dịch là “Vô ngôn cực ý”

“Vô ngôn” nghĩa là không cần phải nói nữa.

 

“Cực ý” có nghĩa là ý niệm kia đã đạt đến chỗ tối thượng, đã đạt chỗ vi diệu rồi.

Ma hê ma hê cũng còn có thể dịch là “tự tại”. Tự tại như Đại Phạm Thiên Vương: không buồn, không phiền, không lo, không giận. Suốt ngày đều được tự chủ và an vui.

 

Đây là “Ngũ Sắc Vân Thủ Nhãn”. Khi biết ấn này, sẽ làm lưu xuất ra mây lành ngũ sắc, và hành giả sẽ đạt được năng lực tự tại phi thường. Diệu dụng và năng lực tự tại của ấn pháp này thực là vô lượng vô biên.



Rị Ðà Dựng  là “Thanh Liên Hoa thủ nhãn”. Có nghĩa là “Liên hoa tâm”. Khi quí vị hành trì ấn pháp này thành tựu, sẽ được mùi hương hoa sen xanh toả ra, và được mười phương chư Phật tán thán. Sự vi diệu thật khó có thể nghĩ bàn. Đúng là:

 

Pháp Phật cao siêu thật nhiệm mầu
Trăm ngàn ức kiếp khó tìm cầu!

 



26. Ma Hê Ma Hê Rị Ðà Dựng 

BỔN THÂN ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ




23. Ngũ-Sắc-Vân Thủ Nhãn Ấn Pháp 

 

Ma Hê Ma Hê [26]

Án-- phạ nhựt-ra, ca rị ra tra hàm tra.

UM! BÚT RUM!  HÙM! 




23.   The Five-colored Cloud Hand and Eye
         
Ngũ-Sắc-Vân Thủ Nhãn Ấn Pháp




Theo trong KINH ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI “XUẤT TƯỢNG” nói rằng: “Khi Quý vị trì tụng câu chú MA HÊ MA HÊ RỊ ÐÀ DỰNG,  thì ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ sẽ  “XUẤT HIỆN”, để TIẾP DẪN QUÝ VỊ  VỀ CÕI  CỰC LẠC CỦA NGÀI.

 

BỔN THÂN ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ Thường trì “THANH LIÊN HOA THỦ NHÃN ẤN PHÁP” và NGŨ SẮC VÂN THỦ NHÃN ẤN PHÁP”để TIẾP DẪN  CHÚNG SANH TRONG 10 PHƯƠNG SANH VỀ TÂY PHƯƠNG  CỰC LẠC CỦA NGÀI, THÌ CHỨNG ĐƯỢC “BẤT THOÁI CHUYỂN”, CHO TỚI KHI THÀNH PHẬT. Cũng như Bồ-tát QUÁN THẾ ÂM,  đã thành PHẬT là “CHÁNH PHÁP MINH NHƯ LAI”, mà vẫn TRÌ CHÚ ĐẠI BI để Tiếp Dẫn chúng sanh VÃNG SANH về Cực-lạc.

 

Nếu “QUÝ VỊ” Thường TRÌ “THANH LIÊN HOA THỦ NHÃN ẤN PHÁP” và NGŨ SẮC VÂN THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, thì Qúy vị là “HÓA THÂN” của PHẬT A DI ĐÀ, nghĩa là cũng làm được như Ngài vậy.




Kệ tụng :


 

Ứng cơ thị hiện vô lượng thân

Đại tiểu quyền thật hiển uy thần

Kim cang bất hoại thường tự tại

Thiên nhãn diêu quán thiên nhĩ văn.



Còn theo “KỆ TỤNG” thì BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM, TÙY THEO CĂN CƠ CỦA CHÚNG SANH TRONG 10 PHƯƠNG, MÀ HIỆN VÔ LƯỢNG THÂN, VÔ LƯỢNG TAY MẮT (THỦ NHÃN), VÔ LƯỢNG PHƯƠNG TIỆN NHƯ LÀ PHÁP: ĐẠI THỪA, TIỂU THỪA, QUYỀN THỪA, THẬT THỪA hoặc HIỂN UY LỰC  hoặc HIỆN THẦN THÔNG BIẾN HÓA...


ĐỂ GIÚP CHO NGƯỜI TU 2 THỦ NHÃN NẦY, MAU ĐƯỢC THÂN KIM CANG BẤT HOẠI THƯỜNG TỰ TẠI, TỨC LÀ CHỨNG ĐƯỢC “PHÁP THÂN THƯỜNG TRỤ” CỦA CÁC ĐỨC NHƯ LAI.



 

KINH ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI XUẤT TƯỢNG

Hòa Thượng THIỀN TÂM Dịch ra VIỆT VĂN

 

KỆ TỤNG

Hòa Thượng TUYÊN HÓA Kệ tụng

 

 

ĐẠI BI CHÚ

 

Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa

Bản dịch của THÍCH NHUẬN CHÂU

CÚ GIẢI
(Giảng giải từng câu)



Phi tắc Thiện Tinh sanh hãm trụy. Còn phi là sai, thì vị Tỳ kheo Thiện Tinh cũng bị đọa nữa.

 

Bởi vì Tỳ kheo Thiện Tinh tu chứng được Tứ thiền, ông sanh ở cõi trời sắc giới. Sau hết phước ở cõi trời sắc giới, ông đọa xuống trần gian. Lúc đó ông phỉ báng giáo lý Phật, ông nói rằng được lên cõi trời sắc giới tưởng là chứng được Niết bàn, ai ngờ đâu còn rớt trở lại. Vì phỉ báng như vậy cho nên sau này ông phải đọa. Như vậy thì đã là Tỳ kheo chứng được Tứ thiền rồi mà không hiểu thấu được lý Phật dạy rồi cũng phải bị đọa. Đây là trong kinh Niết Bàn phẩm Ca Diếp có nói rõ câu chuyện này, đó là đi sai.



CHÁNH VĂN :

 

Ngô tảo niên lai tích học vấn,

Diệc tằng thảo sớ tầm kinh luận,

Phân biệt danh tướng bất tri hưu,

Nhập hải toán sa đồ tự khốn,

Khước bị Như Lai khổ ha trách,

Sổ tha trân bảo hữu hà ích?

Tòng lai tắng đắng giác hư hành,

Đa niên uổng tác phong trần khách !

 

 

GIẢNG :

 

Đây ngài nói cái khổ của ngài lúc trước, lúc ban đầu đó.

 

Ngô là tôi; tảo là hồi xưa, hồi sớm đó; tích niên là nhiều năm.

 

Ngô tảo niên lai tích học vấn, là những năm về trước tôi tích lũy sự học vấn. Nhớ nhe ông thầy nào tích lũy học vấn nhớ kỹ đoạn này. Tôi sớm đã nhiều năm tích lũy học vấn.

 

Diệc tằng thảo sớ tầm kinh luận, là cũng từng thảo sớ tìm trong kinh trong luận dịch ra đồ..v.v…

 

Phân biệt danh tướng bất tri hưu, tức là phân biệt danh tướng không có thôi phân biệt. Danh từ này, danh từ kia khác nhau chỗ nào, chỗ nào nghe hay lắm, không có thôi.

 

Nhập hải toán sa đồ tự khốn, là chẳng khác nào vào biển mà đếm cát tự nhọc mình.

 

Quý vị  nghe chưa. Như vậy thì mới thấy, nếu chúng ta chỉ kẹt trong văn tự chữ nghĩa thì chúng ta phải lao khổ nhiều kiếp chớ không có giải thoát.

 

Những câu này là ngài diễn tả lại ngày trước của mình tu. Nếu mình tu cứ chạy theo danh tướng chữ nghĩa văn tự, rồi từ ngữ ..v.v…, rồi cả đời như vậy thì rất là uổng.

 

Khước bị Như Lai khổ ha trách, Rồi lại bị Như Lai khổ ha trách tức bị Phật quở nhiều nữa. Tại sao? Quở trách cách nào?

 

Sổ tha trân bảo hữu hà ích? Đếm của báo cho người thì có ích gì? Nghĩa là cứ thấy trong kinh, trong luận rồi dịch ra hoài thì thử hỏi mình được cái gì. Đó là làm việc cho ai chớ không có gì hết. Cho nên lại Như lai quở trách nặng, khổ đó, nhiều đó. Rồi trách bằng cách nào? Nói rằng ông đếm của báu cho người có ích gì cho ông.

 

Tòng lai tắng đắng giác hư hành, là từ đó đến giờ mới nhọc nhằn, mới thức tỉnh được hành động vô ích của mình. Hư là rỗng là vô ích

 

Đa niên uổng tác phong trần khách. Là nhiều năm luống làm người khách phong trần. Nghĩa là nhiều năm vẫn lang thang làm người khách phong trần, chớ không trở về được bảo sở. Giống như kinh Pháp Hoa nói chàng cùng tử đi lang thang mà không trở về với cha với mẹ vậy.

 

Hai câu này nói nghe rất là đáng nhớ. Nghĩa là đã từ bao nhiêu năm thức tỉnh mới biết rằng việc làm nó rỗng nhiều năm, luống làm kẻ khách phong trần. Nghĩa là người khách đi ngoài đường bụi bậm dính đầy mình, khách phong trần lang thang hoài.


 

Nhứt cú Di Ðà
Hiển lộ chỉ bình
Trực để bảo sở
Bất trụ hóa thành.

 

Một câu A Di Ðà
Lối hiểm đều san bằng
Thắng về nơi bảo sở
Không trụ cảnh hóa thành.

 

Trong kinh Pháp Hoa, nơi phẩm Hoá Thành Dụ, đức Thế Tôn có nói đại khái như sau:


"Một vị đạo sư hướng dẫn đoàn người vượt qua đoạn đường hiểm trở xa độ năm trăm do tuần, để đến nơi bảo sở là chỗ có nhiều châu báu. Nhưng giữa đường đoàn người ấy mỏi mệt thối tâm, xin muốn lui bước trở về. Ðạo sư nghe nói thương xót, dùng phương tiện biến ra một hóa thành cách đó ba trăm do tuần và bảo: "Các ông hãy cố gắng đến thành ấy tạm nghỉ sẽ hết nhọc mệt!". Ðoàn người vui mừng tiến tới hóa thành, cho rằng mình đã đến nơi, đã được chỗ an ổn. Khi đạo sư thấy họ đã nghỉ ngơi xong, liền diệt mất hóa thành và bảo: "Vừa rồi là hóa thành không phải cảnh thật. Ta vì thấy các ông mỏi mệt bỏ dở công khó muốn lui trở về, nên thương xót phương tiện hóa hiện ra. Nay đã sắp gần tới bảo sở các ông nên cố gắng gia công tiến bước..."


Theo thí dụ trên, Ðạo Sư chỉ cho đức Như lai. Ðoàn người chỉ cho hành giả tiến tu theo chánh pháp. Ðường năm trăm do tuần, chỉ cho sự hiểm nguy khổ nạn trong Ngũ thú luân hồi là: Thiên, nhơn, bàng sanh, ngạ quỉ, địa ngục. Trông đây không kể A tu la và thần tiên, vì hai đạo này nhiếp vào các nẻo kia. Như A-tu-la thì có thiên A-tu-la, nhơn A-tu-la, quỉ A- tu-la, súc A–tu-la. Tiên thì có thiên tiên, quỉ tiên cho đến súc tiên, chẳng hạn như hồ tiên cho đến long tiên v.v... Nếu phối hợp với các thừa, thì năm trăm do tuần là sự trải vượt qua năm thừa gồm: Nhơn thừa, Thiên thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa. Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát còn kể trong giai đoạn hiểm nguy, vì nếu không nhờ sức Phật gia bị, tất bị u trệ, khó nỗi tiến lên Phật quả. Nhưng đây là luận rộng thêm đó thôi, thật ra đường hiểm năm trăm do tuần chỉ cho Ngũ Thú thì thiết cận hơn.


Tiếp tục theo lời dụ, Bảo Sở chỉ cho Phật Quả Vô Thượng Ðẳng Giác. Cách ba trăm do tuần, chỉ cho sự vượt khỏi Tam Giới. Hóa thành chỉ cho quả vị giải thoát phiền hoặc ba cõi của hàng Nhị Thừa Thanh Văn, Duyên Giác. Tổng kết đại ý, đức Thế Tôn muốn nói trong giáo pháp của Ngài, chỉ duy một Phật Thừa, không có sự chia riêng hai thừa như Tiểu Thừa và Ðại Thừa, hoặc ba thừa như  Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát Thừa. Những thừa trên đều toàn giả lập, quả vị Thanh Văn, Duyên Giác, chỉ là Hóa Thành huyễn tạm mà thôi.


Ðối với pháp Tịnh Ðộ, có người không hiểu rõ môn này, lầm cho Cực Lạc là Hóa Thành, chẳng phải Bảo Sở. Thật ra Hóa Thành cùng Bảo Sở là cảnh giới tu chứng của tự tâm, không cuộc hạn nơi quốc độ. Xin nói rõ lại, Hóa Thành là cảnh giới Thanh Văn, Duyên Giác; Bảo Sở là cảnh giới Phật. Môn Niệm Phật đưa chúng sanh về Cực Lạc, để mau tiến lên cảnh giới Phật, chứng thành Phật quả. Ðó là đường lối thẳng tắt tiến về Bảo Sở; chớ đâu phải trụ nơi Hóa Thành. Ðúng ra Ta Bà và Cực Lạc đều là huyễn cảnh, nhưng Ta Bà có vô lượng khổ nạn chướng duyên, Cực Lạc đủ vô lượng duyên lành tiến đạo. Bởi thế chư Phật đều khuyên nên cầu vãng sanh để dễ tiến tu, không còn thuộc giới phàm phu đầy đủ nghiệp lực mà cho Cực Lạc là Hóa Thành, cam ở cảnh Ta Bà vô lượng chướng duyên hiểm nạn, rất khó được giải thoát, đó là Bảo Sở đấy ư? Thật là lầm lạc và đáng buồn cười lắm vậy!


Câu "Lối hiểm đều san bằng" hàm ý nghĩa: Khi công phu niệm Phật thuần thục, về cõi Phàm Thánh Ðồng Cư nơi Cực Lạc thì đã thoát khỏi sự luân hồi trong đường hiểm Ngũ Thú thuộc Tam Giới, lại thường được gần gũi Phật cùng chư Bồ Tát, không còn bị chướng ngại và bị thối chuyển trên đường Vô Thượng Bồ Ðề. Tóm lại một câu niệm Phật có công năng mầu nhiệm san bằng tất cả hiểm nạn trên đường tu, đưa hành giả tiến mau về Bảo Sở, nên Triệt Ngộ thiền sư mới tỏ bày khen ngợi!


CHÁNH VĂN :

 

Chủng tánh tà, thác tri giải,

Bất đạt Như lai viên đốn chế.

Nhị thừa tinh tiến vật đạo tâm,

Ngoại đạo thông minh vô trí huệ.

Diệc ngu si, diệc tiểu ngãi,

Không quyền chỉ thượng sanh thực giải,

Chấp chỉ vi nguyệt uổng thi công,

Căn cảnh pháp trung hư niết quái!

 

GIẢNG :

 

Chủng tánh tà, thác tri giải,

Bất đạt Như lai viên đốn chế.

 

Ở đây ngài nói rằng những người có chủng tánh tà, có cái hiểu biết sai thì những người đó họ không thấu suốt được cái giáo lý viên đốn của Đức Phật.

 

Nhị thừa tinh tiến vật đạo tâm, Còn hang Nhị thừa tuy là tinh tiến nhưng mà không có đạo tâm. Tại sao vậy? Tinh tiến mà không giác ngộ thì gọi là không có đạo tâm.

 

Ngoại đạo thông minh vô trí huệ. Người ngọai đạo tuy thông minh nhưng không có trí huệ. Tại sao vậy? Thông minh tức là suy xét, nhận định giỏi khéo. Nhưng không có trí tuệ là không nhận được lẽ thực, cái chân lý đã sẳn ở nơi mình. Nhận được lẽ thật, thấy được chân lý đó mới gọi là trí tuệ. Nếu chỉ so sánh đối chiếu hay dỡ với nhau thì đó người nào lanh lợi gọi là thông minh, chớ mà không có đi đến đâu.

 

Diệc ngu si, diệc tiểu ngãi, như vậy những người đó cũng là ngu si và những người còn ngây thơ. Tiểu ngãi là ngây thơ thôi. Như vậy những hàng đó chỉ là ngu si, là ngây thơ

 

Không quyền chỉ thượng sanh thực giải, là trong cái nắm tay không mà tưởng là trong đó có gì. Đây là ví dụ như bà mẹ xách giỏ đi chợ, con khóc đòi đi theo mới nói, đây có bánh này cho con đừng khóc nữa. Nó chạy lại mừng tưởng có bánh thật giở ra tay không. Không quyền là nắm tay không, mà chỉ để dỗ con nít thôi, mà mình lại lầm. Vì vậy mà ngài nói không quyền chỉ thượng sanh thực giải tưởng là có thật.

 

Chấp chỉ vi nguyệt uổng thi công, tức là mình chấp ngón tay làm mặt trăng thì công mình rất là lầm. Thí dụ như đêm mùng ba, mùng bốn, mặt trăng lên có ở phía tây, rồi hai ba huynh đệ ra đứng nhìn. Có người nhìn thấy nói, ờ kìa có mặt trăng. Hỏi mặt trăng chỗ nào? Người ta chưa thấy thì mình phải sao? Lấy tay chỉ đó, hướng đó, ngay chỗ đó đó, nương ngón tay nhìn thấy mặt trăng. Như vậy ngón tay có phải mặt trăng không? Ngón tay chỉ là một phương tiện hướng dẫn để thấy mặt trăng. Bao nhiêu kinh điển Phật dạy là ngón tay, mà nhận được tánh giác của mình mới là mặt trăng. Phật muốn chỉ mình có tánh giác.

 

Bây giờ tôi thấy thật là đáng thương. Kinh Phật dạy để làm gì? Để đọc, đọc tụng. Đọc tụng để làm gì? Để hiểu để thâm nhập được chỗ Phật chỉ. Nhưng bây giờ mình cứ đem ra đọc tụng đủ rồi, bửa nào đọc được hai ba bộ là bửa đó hay lắm rồi, tu như vậy rất là hay. Như tôi thường nói cứ đọc Bát Nhã chiếu kiến ngũ uẩn giai không một trăm biến thì cũng là như vậy thôi. Còn mình đọc tới chiếu kiến ngũ uẩn giai không, mình biết soi lại năm uẩn của mình quả tang nó không thật, thì cái đó mới là chỗ Phật chỉ, Phật bảo. Còn này mình cứ đọc hoài, đọc tới suốt kiếp thì chũng chỉ là kinh thôi, mình là mình kinh là kinh. Cho ngón tay là mặt trăng thì ngàn đời không thấy được mặ trăng. Bởi vậy mình hiểu cho chí lý mới thấy lời Phật dạy hết sức là rõ ràng.

 


Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,

Trần thế vinh-hư sá kể gì.

Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,

Mừng nay được thấy đức A-Di.

 

 

Bút giả (Hòa Thượng Thích Thiền-Tâm) vì xét thấy nhiều liên hữu khi tu bị phiền não và ma nạn khuấy rối, nên phối hợp dụng chân ngôn nầy đi tiên phong dẹp chướng ngại, khiến cho thân tâm dễ được thanh tịnh trước khi niệm Phật. Tuy nhiên chúng sanh túc tập và sở báo đều khác.

Vị nào thích tụng chú Đại Bi hoặc Chuẩn Đề, thì chỉ cần đổi bài kệ tán Đại Bi, Chuẩn Đề.  Và sau khi tụng chú hộ thân, Lục tự đại minh, tiếp tụng môn đà ra ni của mình. Và hành giả nào thích tụng kinh Kinh Cang hoặc Pháp Hoa, chỉ đổi đoạn trì chú thành tụng kinh, rồi tiếp tục niệm Phật.

Chân ngôn Vô Lượng Thọ thuộc về Bất tư nghì thần lực, câu niệm Phật thuộc về Bất tư nghì công đức. Cả hai, bên Mật bên Hiển, cùng một nguồn gốc, đều có năng lực đưa hành giả về Tịnh độ. Nếu phối hợp lại, tất công năng vãng sanh càng thêm kiến hiệu.

 

Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:

 

Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh

Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!

Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ

Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.

 

Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!

 

Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!

 

Nhứt cú Di Ðà

Nhứt Ðại Tạng Kinh

Tung hoành giao thái

Tuyệt đãi u linh.

(Một câu A Di Ðà

Là một Ðại Tạng Kinh

Dọc, ngang giao chói sáng

Tuyệt đối, thể u linh.)

 

LỜI BÀN: 

 

Thông thường người tụng kinh đều tìm kiến giải, rồi theo kiến giải mà thực hành, như theo Hòa Thượng thì quên hết mọi điều kiến giải, đọc từ đầu đến cuối, thì mới hợp với “CHƠN TÂM BỔN TÁNH”. 

Cũng như lìa sáu trần: Sắc, Thanh, Hương,Vị, Xúc, Pháp mà có sự hiểu biết , thì đó mới là CHƠN TÂM của chính mình. (KINH LĂNG NGHIÊM)

 

Ðể kết luận, cần nhấn rõ thêm là những điều nói trên tuyệt không có ý bài bác Thiền, Mật. Thiền và Mật là hai pháp môn cao siêu, và thật ra Thiền, Mật, Tịnh cả ba đều có đặc điểm riêng, cần tu học để hỗ trợ cho nhau. Chẳng hạn như khi trì chú theo của chân ngôn, Phật hiệu huân sâu vào tạng thức, kích động cho phiền não nổi dậy, phương pháp làm lắng động hữu hiệu nhứt không chi hơn Thiền. Trong lúc tham thiền hoặc niệm Phật, ma chướng trong ngoài khuấy rối, cách hàng phục kiến hiệu mau lẹ nhứt, không chi hơn Mật. Và muốn giải quyết việc lớn là sống chết luân hồi một cách thẳng tắt chắc chắn nhứt, lại không chi hơn Tịnh. Luận cho cùng mỗi môn tự hàm đủ công năng của ba, song đó là ứng dụng của bậc trình độ cao siêu. Còn với bậc sơ cơ non kém, thật ra vẫn có sự sai biệt. Ví như bậc Tổ Sư về võ, dù sử dụng côn, chùy, kiếm, sự lợi hại vẫn đồng như nhau. Nhưng với hạng võ nghệ thông thường thì tác dụng của ba môn binh khí kia lại có sai biệt. Nếu chẳng thế, trong võ lâm cần chi bày ra ba môn ấy cho thêm phiền!?



Cho nên trong thời mạt pháp, theo thiển ý nên lấy Tịnh Ðộ làm chánh yếu, Thiền, Mật... làm phụ trợ. Hoặc nếu có tu Thiền hay Mật... cũng nên niệm Phật nhiều ít hồi hướng về cõi Cực Lạc ở Tây phương.

 


Căn cảnh pháp trung hư niết quái! Là trong căn là mắt tai mũi lưỡi thân ý của mình, cảnh là sáu trần ngoài. Trong hai cái hư giả đó mà rồi mình luống tạo thành nghiệp điên đảo khổ sở.

 

Quý vị  thấy không, hiện giờ chúng ta cải lộn ầm ầm với nhau là tại cái gì? Vì cảnh sáu trần, vì sáu căn. Thí dụ lỗ tai mình nghe người ta nói câu gì hơi phạm tới giá trị mình thì sao? Thì câu nói đó là trần, căn lỗ tai nghe, nghe cái nổi giận. Như vậy trong cái căn, cái cảnh đó mà chúng ta tạo ra không biết bao nghiệp, bao nhiêu nghiệp mà tạo đó là nghiệp dối thôi chớ không có thật. Nhưng mà đang ở đây thì thật trăm phần trăm hết trơn, người ta chửi mình là thật thì cái nghiệp phải thật, người ta khen mình là thật thì cái nghiệp đó phải thật. Nên nó thật với kẻ mê, nhưng nó là dối với người tỉnh.

 

Bây giờ quý vị  xác định muốn làm người tỉnh hay thích làm người mê? Bên tỉnh bên mê muốn cái nào? Coi bộ muốn làm tỉnh ít quá, muốn làm mê nhiều. Bởi vậy nên Phật thương chúng ta là chỗ đó, si mê nói hoài nghe cũng không hiểu, rồi cũng đâu để đó không chịu tỉnh. Như vậy cho nên tu theo đạo Phật là giác, là tỉnh, mà bây giờ Phật tử mình tu theo đạo Phật mà ưng mê. Như vậy theo Phật hay theo ai? Phật là giác, theo đạo giác mà mình mê thì đi đúng không? Tức là giác đi bên đông, mê đi bên tây. Bây giờ theo Phật vổ ngực là đệ tử Phật mà lại mê, như vậy thì quý vị  nói làm sao? Có hổ thẹn không? Bởi vậy là đệ tử Phật phải ráng giác đừng để mê. Vì có giác thì chúng ta mới ra khỏi sanh tử, còn mê thì muôn đời không ra khỏi sanh tử.



CHÁNH VĂN :

 

Bất kiến nhất pháp tức Như Lai,

Phương đắc danh vi Quán Tự Tại.

Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không,

Vị liễu ưng tu hoàn túc trái.

 

GIẢNG :

 

Bất kiến nhất pháp tức Như Lai, là không thấy có một pháp thật tức là thấy Phật. Câu này nguyên văn chữ Hán trong kinh Kim Cang Phật cũng đã nói rõ: “Vô sở hữu pháp tức kiến Như Lai”, tức là mình không thấy có một pháp thật là thấy Phật. Tại sao lại có ý lạ vậy? Bởi vì nếu mình thấy một pháp nào có hình có tướng mà nói nó là thật, thì đối với con mắt Phật cho đó là mình thấy đã sai. Vì có hình có tướng là có sanh có diệt, có sanh có diệt thì chưa phải chân lý. Vì vậy mà chúng ta thấy tất cả pháp có hình tướng nó không thực, tức là chúng ta thấy được chân lý, là thấy Phật.

Phương đắc danh vi Quán Tự Tại. Được như vậy mới gọi là Bồ tát Quán Tự Tại. Quán Tự Tại tức là nhìn thấy các pháp không có một tí nào chướng ngại, không có một tí nào ngăn trở hết. Đối với con mắt Phật, thấy tất cả pháp có hình có tướng đều là vô thường, đều là sanh diệt, nên không phải là chỗ cứu kính chân thật, mà cứu kính chân thật đó gọi là Như Lai. Người nào thấy rõ tất cả pháp, không có một cái gì có hình tướng là thật hết, thì người đó thấy được lẽ thật, gọi đó là cái nhìn thấu suốt không có trở ngại, cho nên mới gọi là Quán Tự Tại.

Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không,

Vị liễu ưng tu hoàn túc trái.

Liễu tức là liễu ngộ. Liễu ngộ thì nghiệp chướng xưa nay nó là không. Còn người không liễu ngộ thì nên phải trả lại nợ trước. Tại sao vậy? Liễu ngộ là thế nào? Không liễu ngộ là thế nào? Bởi vì người học Phật chúng ta nhiều khi thấy trong kinh Phật dạy nó có cái gì hơi mâu thuẫn. Thí dụ như các kinh A Hàm thì Phật dạy rõ ràng làm một nghiệp lành, làm một nghiệp dữ thì đều phải trả lại nghiệp của mình. Làm lành thì được quả lành, làm dữ thì phải chịu quả dữ. Mọi nhân quả không sai chạy, cái nào thì phải đền lại cái ấy. Đó là tinh thần kinh A Hàm.

Nhưng lên hệ thống Bát Nhã thì lại khác. Hệ thống Bát nhã nếu thấy các pháp không thật thì nghiệp chướng nó không có thật. Nghiệp chướng không thật thì tức là liễu ngộ, thì nghiệp chướng xưa nay là không.

Tôi nói thí dụ cho quý vị  hiểu. Như chúng ta còn mê, mình nói một lời ra, lời lành thì người ta vui, lời dữ thì người ta giận. Bởi chúng ta quen ai nói hiền lành thì dễ thương, ai nói hung dữ là dễ ghét. Lời lành là tốt, lời dữ là ác. Như vậy nên mở miệng nói vừa có một lời không tốt thì bị phản ứng liền, người ta liền chống trả lại. Còn nói lời tốt thì người ta nghe vui vẻ. Đó là chúng ta ở trong tâm trạng mê lầm với nhau.

Nếu chúng ta nói lời lành, nói lời dữ mà ở trong tâm trạng của các vị Bồ tát thì sao? Mình nói lời dữ với Bồ tát, Bồ tát nghe không có phẩn uất, không có giận hờn. Còn nói lời lành với Bồ tát thì Bồ tát nghe cũng không có cái gì vui mừng. Như vậy thì tâm trạng người liễu ngộ không có thấy lời nói là thật, mà lời nói không thật thì nói hay nói dỡ cũng như nhau thôi. Còn tâm trạng mê lầm của chúng ta cho lời lành là thật, lời dữ là thật.

Bây giờ tôi hỏi quí Phật tử, người ta nói lời lành, người ta nói lời dữ, nếu mình nghe mình không để ý thì có dính vào lỗ tai mình không? Họ nói gì mặc họ, như gió thổi qua tai, thì có gì thương, có gì ghét không? Còn ngược lại, chúng ta nhạy vừa có nghe tiếng cái nó dính tuốt ở trong này, rồi chạy về trong tim, trong phổi nữa, thì lời nói qua mình có vui có buồn không? Nhất định phải có vui, có buồn.

Như vậy, liễu là liễu ngộ, người liễu ngộ rồi thì biết ngôn ngữ không thật, ngôn ngữ không thật thì khen chê cũng là không thật thôi. Đã không thật thì có cái gì mà vui, mà buồn. Cho nên nói liễu tức nghiệp chướng bổn lai không, người liễu ngộ rồi thì mọi nghiệp chướng người ta mắng mình, người ta khinh mình coi như không có gì hết, không buồn, không tức thì nghiệp chướng bổn lai không.

Còn vị liễu ưng tu hoàn túc trái, chưa liễu ngộ thì phải trả nợ đủ. Mình nói lời gì ra người ta phản ứng lại y nguyên. Hoặc nặng hơn mình nói người ta con mèo, người ta mắng lại mình là con chó. Nghĩa là nó trả liền chớ nó không có tha.

Vì vậy mà trên phương diện liễu ngộ thấy rồi, nghe rồi, qua hết không có chướng ngại. Vì biết rằng các pháp không thật, mà không thật thì có chấp vào đâu mà có chướng ngại. Còn người chưa liễu ngộ thì cố chấp một lời nói, một hành động, một cử chỉ nào mình không vừa ý, thì nổi tức lên. Còn hành động, lời nói nào vừa ý thì mình khen, mình thích. Vì vậy mà nghiệp chướng nó có đầy đủ, cho nên nói vị liễu ưng tu hoàn túc trái, người chưa liễu ngộ thì phải đền lại cái nợ trước. Trước mình gây cái gì thì nay mình phải trả cái ấy. Nếu trước mình gây cái lành thì nay mình phải hưởng cái lành, trước mình gây cái dữ thì nay mình phải đền cái dữ. Còn người liễu ngộ rồi thì hết, không còn đền trả nữa. Đó là hai trường hợp đặc biệt.



(Thông thường người đời chỉ TIN NHÂN QUẢ THẾ GIAN mà thôi, còn NHÂN QUẢ XUẤT THẾ GIAN thì không đủ NHẪN LỰC, để TIN ĐƯỢC NGUYỆN LỰC  CỦA CHƯ PHẬT, CHƯ BỒ TÁT…)


 

Chứng thực tướng, vô nhân pháp,
Sát-na diệt khước A-tỳ nghiệp.



CHÁNH VĂN :

 

Cơ phùng ngọc thiện bất năng xan.

Bệnh ngộ Y Vương chẩm đắc sái?

Tại dục hành thiền tri kiến lực,

Hỏa trung sanh liên chung bất hoại.

Dõng Thí phạm trọng ngộ vô sanh,

Tảo thời thành Phật ư kim tại.

 

 

GIẢNG :

 

Cơ phùng ngọc thiện bất năng xan. Cơ là đói, phùng là gặp, ngọc thiện là cơm rất ngon. Nghĩa là đói mà gặp cơm rất ngon nhưng không thể ăn.

Bệnh ngộ Y Vương chẩm đắc sái? Bệnh mà gặp ông vua thầy thuốc mà không chịu trị chửa.

Tại sao vậy? Đói gặp cơm ngon mà không chịu ăn, bệnh gặp thầy thuốc hay mà không chịu trị, chịu chửa, là tại làm sao? Tại vì cái mê lầm. Lời Phật nói là lời vàng, lời ngọc, Ngài chỉ chân lý chân lý bất sanh, bất diệt cho chúng ta. Nhưng nghe nói cái đó nó không dính gì với mình hết trơn đó. Nếu nói ngày mai mua bán món đó lời năm chục ngàn, ba chục ngàn coi bộ dính liền. Còn nói thân này giả nghe nó không dính vào đâu hết trơn đó, đó nó vậy đó.

Mà nói giả là chân lý, cũng như cơm ngon mà không chịu ăn, chỉ ăn những cái tạm tạm vậy thôi hà, cơm hẩm đó mà chịu. Còn bệnh thì ai ở thế gian này còn mê lầm là còn bệnh. Phật chỉ thẳng chỗ giác ngộ thoát khỏi mê lầm, mà mình lại không chịu nghe cái đó. Cứ nghe những chuyện gì có lợi cho hiện tại, cái gì được mọi người vui thích thì chịu nghe. Còn lẽ thật, cái chân lý siêu việt đó mình không muốn biết, không muốn hiểu. Cho nên nói bệnh mà gặp thầy thuốc hay không chịu chửa, không chịu trị mà muốn chửa trị những cái gì nhẹ nhẹ thôi.

Tại dục hành thiền tri kiến lực,

Hỏa trung sanh liên chung bất hoại.

Tại dục là ở trong cõi dục giới này. Trong nhà Phật chia trên thế giới làm ba phần: Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Cõi dục là con người, con vật trên cõi này đều do ái dục sanh nở ra. Cõi sắc là do tu thiền định mà được. Cõi vô sắc cũng do tu thiền định mà được. Hiện giờ ở trên thế gian các nhà khoa học tìm kiếm đều tìm kiếm những cái gì ở trong cõi dục thôi, còn cõi sắc và vô sắc họ chưa biết tới. Như vậy để thấy rằng lời nói của Phật chỉ tột cùng những cái mà thế gian chưa biết tới, chưa biết được. Cõi sắc giới còn chưa biết huống nữa là vô sắc làm gì biết.

Ở cõi dục hành thiền cũng như là trong cái lò lữa mà hoa sen mọc vậy. Quý vị  thấy dễ hay khó? Ở thế gian do tham mê tài sắc danh lợi..v.v… tất cả những cái đó là cái làm cho người ta ô nhiễm. Bây giờ nếu hỏi tất cả quí Phật tử có ai không thích: tài là tiền của, sắc là sắc đẹp, danh là danh lợi..v.v… thấy mấy cái đó có thích không? Có ai không ưa không? Ai cũng ưa hết. Cái mà mọi người đều ưa, đó là trong cõi dục này. Sự tham muốn những điều đó mà trong nhà Phật gọi là ngũ dục, không ai mà chẳng mê đắm nó. Vậy ngũ dục giống như lò lữa, mà trong cõi tham đắm ngũ dục đó mình ngồi tu, mình buông bỏ hết, giống như lò lữa mà có hoa sen mọc vậy đó, dễ hay khó? Khó. Bởi vậy tu mà được đạo, chứng đạo ở trong cõi dục này là một chuyện đắng cay. Tuy đắng cay mà được mới là quí. Cái quí là cái không ai làm được mà mình làm được. Còn cái ai cũng làm hết mình làm cũng thừa.

Vì vậy mà tất cả chúng ta tu nhất là tu thiền ở trong cõi dục giới này, chẳng khác nào trong lò lữa mà mọc ra hoa sen. Lữa là chỉ cho lữa ngũ dục, hoa sen là thiền định trong sáng của mình nó mọc lên.

Như vậy bốn câu này nói rõ cho chúng ta thấy ở thế gian vì mê đắm những dục lạc, mà được gặp được thấy những bậc thầy hay, những thức ăn quí mình lại không chịu dùng. Còn người trong cõi ngũ dục đó mà mình thức tỉnh được, mình tu hành được sức mạnh của tri kiến giống như trong lò lữa mà mọc ra hoa sen. Quí như vậy đó. Cho nên nhà Phật thường dùng từ hoa sen trong lò lữa. Lò lữa là thí dụ cho ngũ dục, hoa sen là thí dụ cho người ở trong cõi ngũ dục mà tâm trong sáng thanh tịnh, người đó là người hoa sen trong lò lữa.

 

Dõng Thí phạm trọng ngộ vô sanh,

Tảo thời thành Phật ư kim tại.

 

Trong đây dẫn kinh nói, Dõng Thí là tên một vị Bồ tát. Ngày xưa, Bồ tát này phạm hai tội: tội thứ nhất là tội dâm dục, tội thứ hai là tội sát sanh. Dâm dục và sát sanh thì hai tội đó không thể cứu được. Là một Tỳ kheo mà phạm hai tội đó coi như bỏ đi. Cho nên nói rằng Dõng Thí là Tỳ kheo mà phạm hai tội đó, ông đau khổ quá không biết làm sao. Ông hối hận tìm đến vị Bồ tát tên là Tỳ Cúc Đa khóc lóc xin sám hối. Bồ tát nói tội tánh vốn không, Dõng Thí vừa nghe câu đó rồi liền chứng được vô sanh.

Quý vị  thấy sao dễ quá ! Hồi xưa đọc mấy chỗ này tôi cũng hơi khó chịu. Mình tu mà phạm tội giết người, phạm tội dâm dục thì phá giới hoàn toàn rồi, còn phải phạm luật của nhà nước nữa. Nhưng tại sao gặp Bồ tát nói rằng tội tánh vốn không liền ngộ chứng được vô sanh. Như vậy thì có cái gì nó ẩn ở trong đó không? Vì vậy mà trong khi sám hối chúng ta có đọc bốn câu:

Tội tánh bổn không do tâm tạo,

Tâm nhược diệc thời tội diệc vong.

Tội vong tâm diệc lưỡng câu không,

Thị tắc danh vi chơn sám hối.

Tội tánh vốn là không do tâm tạo. Quý vị  thấy tội từ đâu ra? Nói lời ác có tội, hành động ác có tội. Nhưng lời nói và hành động cái gì chủ? Do lòng giận ghét mà nói ra lời ác, có hành động ác. Tâm nóng giận ác độc đó có thật không? Quý vị  xét kỹ coi cái tâm nóng giận của mình, cái tâm ác độc của mình đó nó thật không? Nếu nó thật thì trọn đời không bao giờ bỏ được. Có người hồi xưa nóng nảy, sau hiểu đạo rồi bỏ bớt hết nóng. Có người hồi xưa ác độc, bây giờ biết tu rồi bỏ cái ác độc. Như vậy cái nóng giận, cái ác độc đâu có thật. Nếu thật thì bỏ không được, mà bỏ được là không thật.

Bây giờ quý vị  tìm lại những cái gì hồi xưa mình nổi nóng đó, giờ coi nó ở đâu? Có chỗ nào không? Nó trốn, nó nằm ở chỗ nào, tìm coi cái nóng nó ở đâu? Tìm không có, mà không có thì nó không thật. Biết được cái tâm nóng giận, tâm ác độc đó nó không thật, thì mình biết cái tội nó cũng không thật. Vì nó là chủ tạo ra tội, mà cái chủ động lại không thật, thì cái tội làm sao mà thật được. Nếu ai biết cái tánh tội, cái chỗ ban sơ của tội không có, do lời nói ác độc của mình mà thành, mà lời nói ác độc đó từ tâm, mà tâm cũng không thật. Tâm không thật, tội không thật, biết rõ như vậy thì sao? Thì liền chứng vô sanh. Như vậy nghe nó hơi lạ quá.

Chỗ khác nói nếu ai là Tỳ kheo mà phạm tội sát, dâm thì đọa địa ngục. Chỗ này phạm cả hai tội mà sao lại chứng vô sanh? Có phải là mâu thuẫn không? Thật ra nó thế này. Nếu mình phạm tội sát, tội dâm, mà thấy mình thật, thấy hành động thật, thì muôn đời phải đọa địa ngục. Nếu mình phạm tội sát, tội dâm, mà bây giờ giác ngộ thấy mình không thật, tâm cũng không thật, tội cũng không thật, thì đó là đi tới chứng vô sanh. Bởi vì không thật thì còn có cái gì để đền trả.

Như tôi nói khi chúng ta còn một niệm nghĩ phải quấy, tốt xấu, hơn thua, thì mọi tội lỗi mình đều phải đền trả. Bao giờ chúng ta không còn một niệm phải quấy, hơn thua nữa thì mọi tội lỗi theo đó hết. Dễ không? Quý vị  nghĩ dễ hay khó? Nếu không còn một niệm phải quấy, hơn thua, tốt xấu nữa thì tâm mình nó hoàn toàn thanh tịnh. Mà tâm hoàn toàn thanh tịnh nó không bị nghiệp dẫn, còn tâm còn phải quấy hơn thua là tâm tạo nghiệp bị nghiệp dẫn.

Giờ quý vị  muốn chuyển cái một nhanh như trở bàn tay thì phải làm sao? Buông hết những cái niệm, những cái nghĩ. Phải cũng bỏ, quấy cũng bỏ, nên hay cũng bỏ, dỡ cũng bỏ, tốt bỏ, xấu bỏ. Cả ngày không một niệm gì dấy khởi, thì tội lỗi bao nhiêu cũng đều hết sạch. Chỉ một ngày thôi, tu một ngày hết mọi tội lỗi, quý vị  chịu không? Dễ quá phải không, đâu có nói mười ngày, hai chục ngày. Cũng như niệm Phật, Phật dạy chỉ niệm Phật nhất tâm bất loạn trong một ngày, hai ngày tới bảy ngày thì Phật A Di Đà hiện tiền. Đơn giản có bảy ngày được gặp Phật mà không chịu niệm. Như vậy tức là khi mình không còn một niệm phàm tục nào ở trong tâm thì lúc đó tâm mình thanh tịnh, mà thanh tịnh thì còn tội lỗi gì nữa. Tại vì tâm còn đối đải, còn hơn thua, còn phải quấy, còn tốt xấu cho nên tội lỗi còn nguyên không có mất.

Như vậy cái chỗ nói ngài chứng vô sanh, là khi nghe tội tánh vốn không do tâm tạo, thì ngài liền được cái lý tâm, mà tâm không thật thì tội không thật, vì vậy mà đi tới vô sanh. Còn mình tại nghe cái đó mà thấy thật hết thì không chứng nổi.

Đó là những câu nói cho chúng ta thấy rõ những cái gì ngày xưa Phật dạy nghe thì như khó, nhưng thực tình chúng ta biết thì không phải khó hiểu nữa. Câu chuyện Tỳ kheo Dõng Thí nghe liền chứng vô sanh, đó là trích trong kinh Tịnh chư nghiệp chướng. Như vậy thì câu đó chứng minh rằng, thời Đức Phật có những vị Tỳ kheo phạm giới mà ngộ được cái tội không thật, cái tâm không thật, ngay nơi đó ngài được vô sanh. Đó là đoạn nói cho mình thấy rõ sự tu hành mê thì bao nhiêu tội nghiệp đều phải trả đủ, còn lúc mình ngộ rồi thì tội chướng theo đó mà tan biến.



Bài văn phát nguyện

của Liên Trì đại sư

 

Cúi lạy phương Tây cõi An Lạc
Tiếp dẫn chúng sanh Đại Đạo Sư,
Nay con phát nguyện, nguyện vãng sanh
Nhờ lượng từ bi thương nhiếp thọ!

Nay con khắp vì, bốn ân ba cõi, pháp giới chúng sanh, cầu đạo Bồ Đề, Nhất Thừa của Phật; chuyên tâm trì niệm, hồng danh muôn đức, Phật A Di Đà, nguyện sanh Tịnh Độ. Lại bởi chúng con, nghiệp nặng phước khinh, chướng sâu huệ cạn, nhiễm tâm dễ động, tịnh đức khó thành, nay đối Từ Tôn, kính gieo năm vóc, bày tỏ một lòng, chí thành sám hối. Con và chúng sanh, khoáng kiếp đến nay, mê bản tịnh tâm, buông tham sân si, nhiễm dơ ba nghiệp, vô lượng vô biên, tội cấu đã gây, vô lượng vô biên, nghiệp oan đã kết, nguyện đều tiêu diệt. Nguyện từ hôm nay, lập thệ nguyện sâu, xa lìa pháp ác, thề không còn tạo, siêng tu đạo thánh, thề chẳng biếng lui, thề thành chánh giác, thề độ chúng sanh. Xin đức Từ Tôn, dùng nguyện từ bi, chứng biết lòng con, thương xót đến con, gia bị cho con. Nguyện khi thiền quán, hoặc lúc mộng mơ, được thấy thân vàng, A Di Đà Phật, được chơi cõi tịnh, của đấng Đạo Sư, được nhờ Từ Tôn, cam lộ rưới đầu, quang minh chiếu thể, tay xoa đảnh con, áo đắp thân con, khiến cho chúng con, chướng cũ tự trừ, căn lành thêm lớn, mau tiêu phiền não, chóng phá vô minh, viên giác tâm mầu, sáng bừng mở rộng, tịch quang cảnh thật, thường được hiện tiền. Đến lúc lâm chung, biết ngày giờ trước, thân không tất cả, bịnh khổ ách nạn, tâm dứt tất cả, tham luyến mê hoặc, các căn vui đẹp, chánh niệm phân minh, xả báo an lành, như vào thiền định. Phật A Di Đà, Quán Âm Thế Chí, cùng chư Hiền Thánh, ánh lành tiếp dẫn, tay báu dắt dìu, lầu các, tràng phan, nhạc trời hương lạ, Tây Phương cảnh Phật, bày hiện rõ ràng. Khiến cho chúng sanh, kẻ thấy người nghe, mừng vui khen cảm, phát Bồ Đề tâm. Bấy giờ thân con, ngồi đài Kim Cang, bay theo sau Phật, khoảng khảy ngón tay, sanh vào sen báu, nơi ao Thất Bảo, ở cõi Tây Phương. Rồi khi hoa nở, thấy Phật Bồ Tát, nghe tiếng pháp mầu, chứng Vô Sanh Nhẫn, giây phút lại đi, thừa sự chư Phật, nhờ ân thọ ký. Được thọ ký xong, ba thân bốn trí, năm nhãn sáu thông, vô lượng trăm ngàn, môn Đà Ra Ni, tất cả công đức, thảy đều thành tựu. Từ đó về sau, không rời An Dưỡng, trở lại Ta Bà, phân thân vô số, khắp cả mười phương, dùng sức thần thông, tự tại khó nghĩ, và các phương tiện, độ thoát chúng sanh, đều khiến lìa nhiễm, chứng được tịnh tâm, đồng sanh Tây Phương, lên ngôi Bất Thối.

Nguyện lớn như vậy, thế giới không tận, chúng sanh không tận, nghiệp và phiền não, thảy đều không tận, đại nguyện của con, cũng không cùng tận. Nay con lễ Phật, phát nguyện tu trì, xin đem công đức, hồi thí hữu tình, bốn ân khắp báo, ba cõi đều nhờ, pháp giới chúng sanh, đồng thành chủng trí.

 


CHÁNH VĂN :

 

Sư tử hống vô úy thuyết,

Thâm ta mông đỗng ngoan bì đát.

Chỉ tri phạm trọng chướng Bồ đề.

Bất kiến Như Lai khai bí quyết.

 

GIẢNG :

 

Sư tử hống vô úy thuyết, sư tử hống tức là con sư tử rống. Vô úy thuyết là những lời không sơ. Tiếng sư tử rống lên những lời không có sợ sệt.

Thâm ta mông đỗng ngoan bì đát. Nhưng thương thay, chúng ta là kẻ mê muội, mờ mịt, không có biết.

Chỉ tri phạm trọng chướng Bồ đề. Chỉ biết rằng người phạm trọng tội là chướng ngại bồ đề, tu không được.

Bất kiến Như Lai khai bí quyết. Không thấy được cái bí quyết mà Đức Phật đã chỉ.

Bây giờ tôi tin trăm phần trăm rằng, ai phạm tội gì đi nữa mà một ngày, hai ngày, ba ngày tới bảy ngày, nếu tu Tịnh độ thì niệm Phật tới nhất tâm bất loạn thì tội hết trên; còn ai tu thiền thì từ một ngày, hai ngày, ba ngày tới bảy ngày, tâm không còn một niệm nào hết, thì người đó cũng hết tội luôn. Cái phải đền trả bao nhiêu kiếp bây giờ mình chỉ lấy bảy ngày tu cái xong. Quý vị  chịu cái đó không? Quả là tu tắt đó. Cái đó là tu tắt đó, bảy ngày thôi, hoặc ba ngày thôi thì liền được. Như vậy đọa địa ngục cả trăm, cả ngàn kiếp, thì bây giờ mình tu có năm ngày, bảy ngày hết, vậy mà không chịu tu. Bí quyết đó hết sức là đơn giản mà không ai chịu làm.

Giờ giả sử như cư sĩ không làm, quí thầy quí cô chịu làm không? Chịu tu bảy ngày hết tất cả nghiệp chướng, chịu không? Dễ quá, thời gian ngắn quá. Đừng có một niệm nào chen vô. Nếu nhất tâm niệm Phật A Di Đà bảy ngày không có một cái gì dời đổi thì được nhất tâm, nhất tâm thì được thấy Phật, vậy hết tội lỗi rồi.

Còn người tu thiền, chỉ trong bảy ngày không có một niệm nào dấy động tâm thanh tịnh an nhiên thì người đó giải thoát sanh tử. Nhẹ nhàng sao đâu ! Dễ, gần mà không chịu tu. Còn chuyện hơn thua phải quấy, giành giựt với nhau năm này, qua tháng nọ cứ làm hoài, mà làm những cái đó rồi sao? Rồi đi xuống không hà. Càng ngày càng rơi trầm luân trong sanh tử mà chịu, còn cái kia đơn giản nhẹ nhàng mà không chịu. Cho nên ở đây mới nói cho chúng ta thấy cái tội lỗi nó là như vậy.



CHÁNH VĂN :

 

Hữu nhị Tỳ kheo phạm dâm sát.

Ba Ly huỳnh quang tăng tội kết.

Duy Ma đại sĩ đốn trừ nghi,

Do như hách nhật tiêu sương tuyết.

 

GIẢNG :

 

Hữu nhị Tỳ kheo phạm dâm sát. Trong đó có kể lại, hồi xưa Phật tại thế có hai vị Tỳ kheo ở chung một cái thất tu. Hôm đó một thầy Tỳ kheo đi khất thực, còn một Tỳ kheo ở nhà nằm ngủ. Có cô gái tới thấy Tỳ kheo ngủ mới vô phá thầy, rồi thầy phạm phải tội dâm. Tỳ kheo đi khất thực về thấy như vậy giận quá đuổi rượt cô ta, cô chạy rớt xuống giếng chết. Đó một người phạm tội dâm, một người phạm tội sát. Việc đó được đem đến cho ngài Ba Ly là nhà luật số một trong thời Phật, để hỏi ngài. Ngài nói rằng, hai người vừa phạm tội dâm, phạm tội sát thì phải đọa địa ngục không cứu được.

Hai vị Tỳ kheo này khổ sở quá, mới tìm tới Bồ tát Duy Ma cật hỏi, chúng tôi phạm tội như vậy đó thì có cách nào giải trừ. Ông Duy Ma cật mới nói rằng, tội tánh bổn không do tâm tạo, giờ tâm các ông không có. Ông phạm tội dâm là tại người ta phá chớ ý ông không muốn, cho nên tâm không có tội. Còn ông rượt là tức giận rượt, chớ đâu có nghĩ giết, tại cô đó rớt xuống giếng chết, thì không phải có cái tâm giết. Như vậy hai ông không có tội, tâm không tội thì làm sao phạm. Hai vị Tỳ kheo nghe trừ nghi được, từ đó tu hành cũng được chứng quả.

Như vậy ở đây nói:

Ba Ly huỳnh quang tăng tội kết.

Duy Ma đại sĩ đốn trừ nghi,

Tức là ông Ba Ly ánh sáng như đom đóm, rồi kết tội người nặng thêm nữa. Còn ông Duy Ma Cật nói tội từ tâm, mà tâm các ông không có thì không có phạm tội. Nhờ đó người ta biết được cái đó mừng rở tu cái hết tội.

Do như hách nhật tiêu sương tuyết. Giống như mặt trời lên cao thì sương tuyết đều tan hết.

Đó là để chỉ một bên nói về tánh tội. Tánh tội là tội không có sẳn, nó do cái tâm. Giờ cái tâm không có thì tội cũng không.



CHÁNH VĂN :

 

Bất tư nghị giải thoát lực,

Diệu dụng hằng sa dã vô cực.

Tứ sự cúng dường cảm từ lao,

Vạn lượng hoàng kim diệc tiêu đắc.

Phấn cốt toái thân vị túc thù,

Nhất cú liễn nhiên siêu bách ức.

 

 

GIẢNG :

 

Bất tư nghị giải thoát lực, tức là sức giải thoát không thể nghĩ bàn.

Diệu dụng hằng sa dã vô cực. Là diệu dụng như hằng sa không thể nào nói cùng tột được.

Tứ sự cúng dường cảm từ lao, là đem tứ sự, là tất cả những vật dụng cần thiết cúng dường không dám nghĩ tới mệt nhọc.

Vạn lượng hoàng kim diệc tiêu đắc. Tức là dầu cho những vị này nhận được một vạn lượng vàng tiêu cũng hết, cũng không có phạm tội.

Đây là để nói người thấy được chỗ tột cùng đó thì người đó là sức giải thoát phi thường, người đó có diệu dụng không thể cái gì mà lường được, cùng tột được. Dầu ai đem bốn việc cúng dường thuốc men quần áo..v.v… mà cúng dường không biết mệt nhọc, thì dầu vị đó họ có nhận một vạn lượng vàng tiêu dùng, vị đó cũng không có lỗi lầm gì hết.

 

Phấn cốt toái thân vị túc thù,

Nhất cú liễn nhiên siêu bách ức.

 

Bây giờ, chúng ta làm cái gì dù cho xương tan, thịt nát cũng chưa đủ mà đền. Vì sao vậy? Vì một câu mà mình rõ được, mình thông suốt được thì nó siêu việt cả trăm ức phần. Tức là tất cả những lời dạy chỗ sâu, chỗ tột cùng đó, nó quí không gì bì được. Vì chỗ đó đưa người ta tới từ một con người hư xấu trở thành một người giác ngộ, thì không phải chỗ siêu tất cả hay không. Vì vậy mà nghe được những lời này, thấu được những câu nói này thì cái đó, dù cho chúng ta đem thân này mà làm cho xương tan thịt nát để đền đáp cũng không bì được, không đủ mà đáp, huống vì một câu nói nó siêu việt hơn tất cả. Đó là chỉ cái lý vô sanh để cho chúng ta không có nghĩ, không có lầm.

Giờ tôi nói thêm đoạn này cho quý vị  hiểu cho rõ để nhiều khi nghi ngờ. Bởi vì tất cả chúng ta nhìn tội lỗi nó có hai mặt. Một mặt tội lỗi tạo tội gì thì phải đền nghiệp ấy, tạo ra tội gì thì phải đền trả nghiệp đó, không có sai chạy. Tại sao? Vì mình đang trong mê, thấy thân thật, thấy cảnh thật, thấy tất cả chung quanh đều thật hết, thì mình làm khổ người đó thì mình phải trả lại nghiệp khổ, mình làm vui cho người đó được an lạc thì mình được hưởng phước an lạc, không sai chạy một chút nào hết. Tại sao? Vì trong mê thì phải đền trả công bằng. Cho nên lý nhân quả nghiệp báo là cái lý đền trả trong mê.

Nếu mình từ con người mê mà mình chuyển thành giác, thì những nghiệp chướng theo đó mình cũng không có bị nó lôi kéo. Tại sao không bị nó lôi kéo? Chúng ta còn mê thì tâm niệm chúng ta nó chứa đủ các thứ phiền nảo nên rồi tạo tội, do nghiệp phiền nảo đó nó dẫn chúng ta sanh ra đời sau, đời sau rồi phải trả lại nghiệp đời trước, cứ như vậy mà liên miên.

Còn nếu tâm chúng ta trước có tội, có lỗi. Nhưng bây giờ tu, tâm hoàn toàn thanh tịnh. Như niệm Phật bảy ngày mà không có đổi một niệm khác thì đó là hoàn toàn thanh tịnh. Ngồi thiền tu thiền bảy ngày mà tâm không có một niệm khác đó là thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì không còn nghiệp gì dẫn đi được hết. Nghiệp là do tâm mê dẫn đi luân hồi. Nếu tâm giác thanh tịnh rồi thì nghiệp đâu có dẫn được.

Như vậy thì quý vị  thấy, ở trong kinh chỗ mà nói tạo nghiệp gì phải trả nghiệp đó là nói theo trong mê. Chúng ta trong mê thì nhân quả không thể sai chạy được. Nhưng mà nếu chúng ta được ngộ rồi thì chuyển nhân quả. Giả sử tôi nói còn trong thế gian mê muội này, mà chúng ta lúc trước phạm những cái tội lỗi rồi chưa trả kịp. Bây giờ đây chúng ta tu được thanh tịnh rồi, thì sao có trả hay không? Câu đó hơi khó đó.

Trong nhà Phật dùng từ là thân hữu lậu, thân hữu lậu là thân còn rơi rớt trong vòng sanh tử. Chúng ta tu khi nào tâm được thanh tịnh rồi mà thân hữu lậu còn thì cái thân đó phải trả. Đó là sao? Như trường hợp ngài Mục kiền Liên chứng A La Hán rồi, mà nghiệp đời trước ngài đốt ổ ong, sau bị bọn du côn vây đánh ngài. Ngài có thần thông bay đi, hóa thân lớn nhỏ đủ thứ hết, mà lúc đó dùng thần thông không được, bị đánh bèo nhèo. Đó là thân hữu lậu. Bị vì thân đó là thân từ những tâm niệm trước mà còn, mà có, chưa phải là thân do tâm vô lậu giải thoát mà có. Vì vậy mà thân đó phải trả hết nợ cũ rồi thì qua đời sau không còn. Bởi vì qua đời sau thì tâm thanh tịnh rồi, nhập Niết bàn. Nếu muốn vào thế gian này độ sanh thì nó cũng hết nghiệp đó.

Vì vậy cho nên nhiều người nói, tại sao tu chứng rồi mà còn phải trả? Vì thân hữu lậu còn là thân mắc nợ hồi xưa. Còn cái thân mà tâm mình không có một tí niệm mà sau này có thân là do nguyện, nguyện mà ra thì không còn nợ nần gì nữa hết. Cho nên bao nhiêu nợ cũ, các vị Bồ tát, cái vị A La Hán, nói rằng đời mình hồi xưa tạo bao nhiêu thứ nghiệp, bây giờ đối với thân hiện tại mình còn đây thì bao nhiêu nghiệp cũ mình sẳn sàng mang hết, ai lôi ra đánh đập gì cũng được trả cho rồi, cho nó hết. Chớ không phải mình ăn cướp nợ khỏi trả.

Cho nên có nhiều người tu khá, tu hay mà cũng gặp những trường hợp cũng hơi rắc rối, hơi đau khổ, đó là để trả nợ cũ rồi thì sau nó mới hết, chớ không phải là mình trốn nợ. Đây nói không còn gì nữa là chỉ cho cái sau này mình không có theo nghiệp nữa thì đâu còn trả. Còn bây giờ thân này trước là do nghiệp, thì bây giờ phải trả lại nghiệp. Hiểu như vậy thì không có thắc mắc, chớ còn không thì nghe nói như vầy dễ gây nghi ngờ.



 
Cu-Thi-Thiết-Câu Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Hai


Địa Rị Ni [31]

Án-- a rô rô, đa ra ca ra, vỉ sa duệ.
                                              Nẳng mồ-- tát-phạ hạ.

UM! BÚT RUM!  HÙM! 



Kinh nói rằng: “Nếu muốn được Thiên-thần, Long-vương thường đến ủng hộ, nên cầu
                      nơi Tay cầm Cu-Thi-Thiết-Câu.”



Thần-chú rằng: Địa Rị Ni [31]

Chơn-ngôn rằng: Án-- a rô rô, đa ra ca ra, vỉ sa duệ.
                                   Nẳng mồ-- tát-phạ hạ.


Kệ tụng:

Cấp Tu, Khoái Độ chư long vương
Quả Vãng, Pháp Đại các thiện tường
Quy y tam bảo hộ đạo trường
Hành trụ tọa ngọa vĩnh an khang.


[
Các LONG-VƯƠNG thích tu PHÉP THẦN THÔNG, như lại không giữ GIỚI-LUẬT,
Tuy làm THÂN RỒNG, cũng gieo được THIỆN CĂN về sau, là do tu “PHÁP ĐẠI-THỪA”.
Cũng được Quy Y Tam Bảo, thọ “BỒ-TÁT-GIỚI”, làm những vị BẢO HỘ ĐẠO TRÀNG,
Do SÁM-HỐI TRÌ GIỚI-LUẬT, nên được TỰ-TẠI AN-NHIÊN khi ĐI, ĐỨNG, NẰM, NGỒI.
]





Bài Kệ-tụng nầy ý nói rằng : “ Ngoài việc phát Bồ-đề-tâm, tu theo PHÁP ĐẠI THỪA, như trì CHÚ, TỤNG KINH, NIỆM PHẬT hoặc HÀNH THIỀN… thì phải “QUY Y TAM BẢO”, nghiêm trì giới luật (LẤY GIỚI LÀM THẦY), thì trong mọi oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, động, tịnh đều được TỰ-TẠI AN-NHIÊN, cho dù gặp phải “PHONG ĐAO ĐỘC DƯỢC” cũng được THANH THẢN NHẸ NHÀN.


Hành diệc thiền, tọa diệc thiền,                                      

Ngữ mặc động tịnh thể an nhiên.
Túng ngộ phong đao thường thản thản,
Giả nhiêu độc dược dã nhàn nhàn.

                       (Chứng Đạo Ca)



BỒ-TÁT-GIỚI  trong KINH PHẠM VÕNG  là “THÔNG GIỚI” vì chú trọng ở TÂM-TÁNH nhiều hơn là ở HÌNH-TƯỚNG. Cho nên, tất cả chúng-sanh trong PHÁP-GIỚI muốn thành “PHẬT” đều có thể  thọ trì, như các LONG-VƯƠNG chẳng hạn. Như có vài điều khác biệt như là:  NGƯỜI XUẤT-GIA THÌ KHÔNG DÂM DỤC, NGƯỜI TẠI-GIA THÌ KHÔNG TÀ DÂM

Lại nữa, Tất cả chư PHẬT khi mới thành đạo Y THEO TỰ TÂM BỔN TÁNH THANH TỊNH  CỦA TẤT CẢ CHÚNG-SANH, không có DÂM, SÁT, ĐẠO, VỌNG…mà KIẾT BỒ-TÁT GIỚI.
Khác với THANH-VĂN-GIỚI..là khi có người sai PHẠM thì mới kiết-giới, như ngài A-NAN ĐI MỘT MÌNH chẳng hạn, KHÔNG CÓ MỘT VỊ THƯỢNG-TỌA  và MỘT VỊ A-XÀ-LÊ (Thầy làm Mô-Phạm) đi cùng nên gặp phải nạn MA-ĐĂNG-GÌA. Vậy nên, PHẬT mới KIẾT-GIỚI TỶ-KHƯU ĐI ĐÂU, PHẢI CÓ 2 NGƯỜI ĐI THEO, NẾU KHÔNG  RẤT DẼ PHẠM GIỚI.
Lại nữa, THANH-VĂN-GIỚI  (Tỷ-khưu, Tỷ-khưu-ni, Sa-di, Sa-di-ni) chỉ có NGƯỜI mới thọ giới được. Người còn phải đủ các điều kiện : Các căn phải hoàn bị, đầy đủ tướng tốt, không đui điếc, câm ngọng…

Trong CHỨNG ĐẠO CA có nói về 2 VỊ TỶ-KHƯU phạm “DÂM, SÁT” nên đau khổ vô cùng, vì  HỌ KHÔNG CÓ KHỞI TÂM ĐỘNG NIỆM LÀM VIỆC DÂM, SÁT mà lại bị NGÀI BA-LY theo GIỚI THANH-VĂN KẾT TỘI  là không được “SÁM HỐI”.




Hữu nhị tỳ-kheo phạm dâm sát: Xưa có hai vị tỳ-kheo ở chung một nơi, một vị phạm vào giới dâm, một vị phạm vào giới sát. Bởi đâu mà phạm giới dâm? Số là hai vị tỳ-kheo này ở trong núi, rồi tới một hôm, một vị có việc phải xuống núi, còn vị kia, ở lại trên núi, nằm ngủ. Lúc đó có một người con gái hái củi đi qua, cô này sanh lòng ô nhiễm, mới cưỡng gian vị tỳ-kheo này.

Nhằm ngay lúc vị tỳ-kheo kia, sau khi xuống núi trở về, thấy cô gái đã làm tổn hại giới thể của bạn đồng tham với mình, bèn chạy đuổi bắt cô gái. Chẳng may, khi chạy trốn, cô gái lỡ chân rớt xuống khe suối chết.

Một vị thì nhận đã phạm giới dâm, vì hạnh bất tịnh của cô gái, còn vị kia nhận đuổi theo cô gái khiến cho cô này sẩy chân rớt xuống khe suối mà chết, nên nhận tội đã phạm giới sát.
Ba-la huỳnh-quang tăng tội kết: Cả hai tìm đến Tôn-giả Ba-ly Huỳnh-quang để cầu xin sám hối. Việc này giải quyết ra sao? Tôn-giả bèn bảo rằng cả hai đều phạm vào tội vô gián địa ngục, có sám hối cũng không được và cũng chẳng còn biện pháp nào để giải tội cho họ cả.

Hai vị tỳ-kheo đều cảm thấy trong lòng có sự hoài nghi, họ tự nghĩ rằng: Việc phạm giới dâm chẳng phải do sự nguyện ý và phạm giới sát cũng như vậy, cả hai việc xảy ra không do cố ý, họ vô tâm, như vậy vẫn bị tội thì chẳng công bình chút nào.


Nên 2 vị này “TÂM KHÔNG PHỤC”, phải tìm người hỏi về vấn đề nầy. HỌ ĐƯỢC ÔNG DUY MA CẬT, ĐEM “BỒ TÁT GIỚI MÀ KẾT TỘI”  THÌ : 2 ÔNG TUY PHẠM TỘI “DÂM và SÁT” NHƯ TÂM-TÁNH CHƯA PHẠM, NÊN CÓ THỂ SÁM HỐI TU HÀNH TRỞ LẠI.  

PHÁP CỦA PHẬT CŨNG KHÔNG TRÁI VỚI LUẬT PHÁP Ở THẾ GIAN NHƯ LÀ:  LUẬT ÂN-XÁ, GIẢM-TỘI …NẾU TỘI NHÂN KHÔNG CÓ  CỐ TÂM PHẠM TỘI…

THẬT SỰ MÀ NÓI, NẾU KHÔNG KHỞI TÂM ĐỘNG NIỆM PHẠM GIỚI, THÌ RẤT KHÓ PHẠM GIỚI. TẠI VÌ SAO?  VÌ TRONG TỰ TÁNH CỦA CHÚNG-SANH KHÔNG CÓ PHẠM 10 GIỚI TRỌNG VÀ 48 GIỚI KHINH. CHO NÊN, CHƯ PHẬT Y THEO TÂM THANH TỊNH CỦA CHÚNG SANH MÀ KIẾT BỒ-TÁT-GIỚI.



Sư tử hống, vô úy thuyết,
Thâm ta mộng đổng ngoan bì đát.
Chỉ tri phạm trọng chướng bồ-đề,
Bất kiến Như Lai khai bí quyết.

Hữu nhị Tỳ-kheo phạm dâm sát,
Ba-ly huỳnh quang tăng tội kết.
Duy-ma đại sĩ đốn trừ nghi,
Do như hách nhật tiêu sương tuyết.

Bất tư nghì, giải thoát lực,
Diệu dụng Hằng sa dã vô cực.
Tứ sự cung dưỡng cảm từ lao,
Vạn lượng hoàng kim diệc tiêu đắc.

Phấn cốt toái thân vị túc thù,
Nhất cú liễu nhiên siêu bá ức.

           (CHỨNG ĐẠO CA)



ĐỨC PHẬT KIẾT BỒ-TÁT GIỚI


Thủa ấy, đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni, lúc mới thành đạo vô-thượng chánh-giác trong khi ngồi dưới cội Bồ-Đề, Ngài bắt đầu kiết Bồ-Tát Giới. Ngài dạy: Hiếu thuận với cha mẹ, Sư-Tăng, Tam-Bảo. Hiếu thuận pháp chí-đạo. Hiếu gọi là giới, cũng gọi là cấm ngăn. 

Liền đó, từ nơi miệng, đức Phật phóng ra vô-lượng tia sáng. Bấy-giờ có đến trăm vạn ức đại-chúng, các Bồ-Tát, mười tám Phạm-Thiên, sáu cõi Trời Dục, mười sáu đại Quốc-vương đồng chắp tay chí tâm nghe đức Phật tụng Giới-Pháp đại-thừa của tất cả chư Phật.

Đức Phật nói với các vị Bồ-Tát : Nay ta cứ mỗi nửa tháng tự tụng giới-pháp của chư Phật. Tất cả hàng Bồ-Tát sơ phát tâm, nhẫn đến các Bồ-Tát thập Phát-ThúThập Trưởng-Dưỡng, Thập Kim-Cương, Thập-Địa cũng tụng giới ấy. Vì thế nên giới-quang từ miệng ta phóng ra. Phóng quang là vì có duyên do, chớ chẳng phải vô cớ. 


Giới-Quang ấy chẳng phải màu xanh, vàng, đỏ, trắng và đen, chẳng phải sắc-pháp, cũng chẳng phải tâm-pháp, chẳng phải pháp-hữu, pháp-vô, cũng chẳng phải pháp nhân, pháp quả. Nó chính là bổn-nguyên của chư Phật, là căn-bổn của chúng Phật-Tử. Vì thế nên chúng Phật-Tử phải thọ-trì, phải đọc tụng, phải học kỹ giới-pháp nầy.

Chúng Phật-Tử lóng nghe ! Nếu là người thọ giới Bồ-Tát nầy, không luận là Quốc-Vương Thái-Tử, các Quan-chức hay Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, không luận là chư Thiên cõi Sắc, cõi Dục, không luận là hàng thứ-dân, huỳnh-môn, dâm-nam, dâm-nữ hay hàng nô-tỳ, cũng không luận là tám bộ quỷ-thần, thần Kim-Cương hay loài súc-sanh nhẫn đến kẻ biến-hóa hễ ai nhận hiểu được lời truyền giới của Pháp-Sư thời đều thọ
 đặng giới, và đều gọi là thanh-tịnh thứ nhất.


(KINH PHẠM VÕNG)



Tại sao lại làm thân rồng?


Trong quá khứ họ đã tu đạo, nhưng tu theo kiểu “thừa cấp giới hoãn”, nghĩa là tu các thừa thì gấp gáp, mà trì giới thì trễ nãi. Chữ “thừa” ở đây là chỉ Tiểu thừa, Đại thừa. Họ nguyện tu các pháp Đại thừa, nguyện tinh tấn, dũng mãnh, nhưng lại muốn đi đường tắt cho mau, muốn được thần thông. Do đó họ đi khắp nơi tìm Phật Pháp, kiếm Mật tông và chuyên tu theo tông này.

Cách thức họ tu như thế nào? Họ không chú trọng giới luật, không giữ giới. Những người giữ giới phải luôn luôn theo đúng câu: “Việc ác thì tránh, việc lành thì làm”, trong khi đó, họ ăn cắp đầu lâu của xác chết để luyện công, niệm chú. Có khi họ ăn cắp bài vị tổ tiên của gia đình người ta, rồi biến các vong linh đó làm quỷ để sai khiến.

Chữ “thừa cấp” là nói về sự tinh tấn, dũng mãnh của họ trong việc luyện công, đặng có thể tiến bộ mau như hỏa tiễn vậy. “Giới hoãn” là nói họ không coi trọng giới luật, mặc sức hành động; kể cả các giới như giết hại, ăn cắp, dâm dục, họ đều không tuân thủ.

Vậy thì còn nói gì nữa! Quý vị coi! Họ ăn cắp đầu lâu, ăn cắp bài vị tổ tiên của nhà người ta, lấy cả mấy cây trồng trên mộ phần để luyện phép; vì tu pháp với tâm tham như vậy, do đó mới có câu “thừa cấp, giới hoãn”.  Vì thế mà phải đọa mang thân rồng, tuy có thần thông, nhưng vẫn là loài súc sinh.

Tuy nhiên, rồng cũng là loại linh vật, có thể thu nhỏ, có thể hiện lớn, khi ẩn khi hiện vô chừng. Có điều chúng rất sợ ánh sáng mặt trời, bởi một khi có ánh sáng chiếu tới chúng cảm thấy khổ sở như bị lửa đốt thân, khiến chúng phải đổ mưa xuống, giống như người ta tắm gội vậy.

(Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh Thiển Thích
Đời Đường, Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu dịch
Tuyên Hóa Thượng Nhân giảng tại Kim Luân Thánh Tự, Los Angeles, California, Hoa Kỳ năm 1983.)



PHẬT DẠY TRÌ CHÚ LĂNG NGHIÊM

(TRONG KINH LĂNG NGHIÊM NÓI : “NGƯỜI TU “CHÁNH ĐỊNH” TAM MA ĐỊA, TRƯỚC HẾT PHẢI BIẾT VỌNG TÂM, CHƠN TÂM. RỒI CHỌN PHƯONG PHÁP VÀO CHƠN TÂM : “NHĨ CĂN VIÊN THÔNG” CHẲNG HẠN. SAU CÙNG PHẬT DẠY PHẢI NGHIÊM TRÌ GIỚI LUẬT VÀ TRÌ CHÚ LĂNG NGHIÊM, MỚI KHÔNG BỊ LẠC VÀO 5O LOẠI MA CHƯỚNG (NGŨ ẤM MA), TRONG KHI TU NHĨ CĂN VIÊN THÔNG.)


A Nan! Ngươi hỏi cách nhiếp tâm, trước ta đã nói về pháp môn vi diệu, tu tập Tam Ma Địa. Người cầu đạo bồ đề trước tiên phải giữ bốn thứ luật nghi (DÂM, SÁT, ĐẠO, VỌNG) kể trên, trong sáng như băng tuyết để làm căn bản, tự nhiên chẳng sanh tất cả nhánh lá; nhờ đó, ba ý nghiệp và bốn khẩu nghiệp ắt chẳng có nhân để sanh khởi.

A Nan, nếu giữ kỹ bốn giới chẳng bỏ sót, tâm còn chẳng duyên theo Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, thì tất cả ma sự làm sao còn sanh khởi được?

Nếu có tập khí xưa chẳng thể diệt trừ, ngươi dạy người ấy nhất tâm tụng trì “Phật Đảnh Quang Minh Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát La Vô Thượng Thần Chú” của ta, ấy là cái tâm chú do Vô Kiến Đảnh Tướng Như Lai, từ nơi đảnh đầu hiện ra Vô Vi Tâm Phật, ngồi trên bửu liên hoa mà thuyết.

Ngươi và Ma Đăng Già, do tập khí ân ái từ nhiều kiếp, ta vừa tuyên thuyết thần chú, liền khiến Ma Đăng Già thoát hẳn lòng yêu, đắc quả A La Hán. Nàng kia là dâm nữ, chẳng có tâm tu hành, nhờ thần lực thầm giúp, được mau chứng vô học, huống là hàng Thanh Văn các ngươi trong hội, cầu tối Thượng Thừa, nhất định thành Phật, cũng như bụi bay theo chiều gió, đâu có ngăn ngại gì?



GIỚI LUẬT LÀ THỌ MẠNG CỦA PHẬT PHÁP

Hòa thượng Thích Trí Tịnh



Như trong luật Ðức Phật có nói: Tại sao người thọ giới được đắc giới? Vì rằng, người thọ giới ở trước giới. Sự truyền giới mà lãnh giới, nhờ có tâm kính trọng hết lòng nên đắc giới, phải nhớ điều đó.


Và tôi (Hòa thượng Thích Trí Tịnh) cũng xin nhắc tiếp theo là sau khi thọ giới rồi thì phải cố gắng học giới cho rànhnhờ có học hiểu ghi nhớ nên mới có thể hành trì đúng với giới luật được.


Quí vị đã có sự học hiểu, hành trì đúng như giới luật thì quí vị đã nắm được bước đầu tiên để bước lên bậc Hiền Thánh giải thoát hết khổ rồi, và cũng chính nơi giới luật nó làm nấc thang đầu tiên cho quí vị sẽ đến nơi hoài bảo duy nhất của Ðức Phật ra đời là muốn cho tất cả mọi người, tất cả chúng sinh khai thị ngộ, nhập Phật tri kiến để thành Phật như Phật không khác.






ĐÂY CŨNG LÀ LỜI PHẬT DẠY, KHI NGÀI SẮP VÀO NIẾT-BÀN.

1)       LẤY GIỚI-LUẬT LÀM THẦY

2)      AN TRỤ Ở TỨ NIỆM XỨ : THÂN, THỌ,TÂM, PHÁP.  (THÂN bất tịnh, THỌ thị khổ,TÂM  vô thường, PHÁP vô ngã).

3)      LẤY  “NHƯ THỊ TÔI NGHE”, Ở ĐẦU KINH VĂN, KHI KIẾT TẬP KINH ĐIỂN.

4)     ĐỐI VỚI TỶ-KHƯU ÁC TÁNH, THÌ PHẢI IM LẶNG ĐỪNG ĐẾ Ý TỚI HỌ.  ĐỂ GIÚP HỌ CÓ THỜI-GIAN PHẢN TỈNH TRỞ LẠI.


Tóm lại, nếu Qúy-vị tu hành mà không giữ giới-luật, bây giờ thấy lỗi lầm muốn sám hối, phát nguyện thọ trì giới luật trở lại, như nghiệp lực qúa mạnh, làm hoài mà không được (LỰC BẤT TÙNG TÂM), thì Qúy-vị nên thường trì tụng “Cu-thi-thiết-câu thủ nhãn ấn pháp”, thì TÂM, Ý và THỨC  của Qúy-vị sẽ bị CÂU MÓC TRỞ LẠI ở trong các oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, nói nín, động tịnh đều được TỰ-TẠI AN-NHIÊN, Y theo TAM-BẢO mà tu hành, LẤY GIỚI-LUẬT LÀM THẦY, có vậy thì mới có đủ ĐỊNH-LỰC và KHẢ NĂNG, BẢO HỘ ĐẠO TRÀNG NHƯ CHƯ LONG VƯƠNG VẬY.

Kệ tụng:


Cấp Tu, Khoái Độ chư long vương
Quả Vãng, Pháp Đại các thiện tường
Quy y tam bảo hộ đạo tràng
Hành trụ tọa ngọa vĩnh an khang. 





CHÁNH VĂN :

 

Pháp trung Vương tối cao thắng,

Hằng sa Như Lai đồng cộng chứng.

Ngã kim giải thử như ý châu,

Tín thọ chi giả giai tương ứng.

 

CHÁNH VĂN :

 

Pháp trung Vương tối cao thắng, là pháp của đấng trung vương rất là thù thắng, rất là cao siêu.

Hằng sa Như Lai đồng cộng chứng. Tức là tất cả chư Phật như cát sông Hằng cũng đồng chứng pháp này.

Ngã kim giải thử như ý châu, là tôi nay mở được hạt châu như ý.

Tín thọ chi giả giai tương ứng. Tức là tin thọ hiểu đều tương ưng nhau, sống được với cái đó. Tin thọ chi giả tức tín, tin, nhận và hiểu đều tương ứng với pháp đó.

Ở đây ngài Huyền Giác nói rằng cái pháp thù thắng nhất của bậc Trung vương hay là bậc tối cao, cái pháp đó đối với chư Phật các Ngài đồng chứng được. Bây giờ đây tôi như là người mở được hạt châu như ý trong cái túi áo hay trong chéo áo, thì tôi tin tôi hiểu rõ đúng như vậy không có sai chạy. Như vậy gọi là chứng đạo đó. Cái gì Phật được, cái gì Tổ được, tôi nay cũng thấy được rõ như vậy, không nghi ngờ gì hết. Đó là ngài xác nhận, gọi là chứng đạo ca mà, bài ca chứng đạo. Xác nhận cái chỗ mà Phật chư Tổ ngày xưa đã đạt được, thì ngài nay tôi cũng thấy như vậy.



CHÁNH VĂN :

 

Liễu liễu kiến vô nhất vật,

Diệc vô nhân diệc vô Phật.

Đại thiên sa giới hải trung âu,

Nhất thiết Thánh Hiền như điện phất.

 

GIẢNG :

 

Mấy chỗ này người mới nghe rất là khó hiểu.

Liễu liễu kiến vô nhất vật, là rõ ràng thấy không một vật. Ở trên thế gian tràn trề đầy dẫy nào người, nào vật, không biết bao nhiêu thiên muôn ngàn ức gì đó. Bây giờ với ngài, ngài thấy không một vật. Tại sao ngài thấy không một vật? Chẳng lẽ con mắt ngài đổi khác? Nếu mình thấy có vật, mà ngài thấy không vật tức là ngài mù sao? Nhưng đây tôi nói cho quý vị  thấy cái sâu của người thấy đạo gọi là giác ngộ đó.

Cái đồng hồ quý vị  thấy phải là một vật không? Bây giờ đặt câu hỏi trước khi ông thợ ráp chiếc đồng hồ, thì có đồng hồ nguyên vẹn vậy không? Mà rồi từng bộ phận, từng bộ phận ông ráp lại rồi thành chiếc đồng hồ. Như vậy thì chiếc đồng hồ buổi ban sơ là không, mà nay duyên hợp thành có. Đồng hồ trước ban đầu là không, duyên hợp rồi có. Có rồi khi nào đồng hồ cũ hư mở ra từng bộ phận, thì đồng hồ có không? Không. Như vậy thì trước không, sau cũng không. Tất cả pháp trước không, sau không thì thật được không.

Như mình trước khi cha mẹ chưa sanh có mình không? Rồi sau khi tắt thở rồi còn có mình không? Trước không, sau không thật được không. Bây giờ quý vị  nói quý vị  thật không? Giờ tôi nói thí dụ như hai người bạn thân đang ngồi nói chuyện với nhau, rồi bất thần có một người bị áp huyết lên đứt gân máu ngã đùng ra chết. Người nói chuyện với mình khi nảy là thật, bây giờ họ tắt thở rồi thật không? Như vậy là người ngồi nói chuyện khi nảy không thật, mình đang nói chuyện đây mình thật không? Rõ ràng người kia giả thì mình cũng phải giả. Như vậy ngồi kiểm lại từ Tổ tiên chúng ta ông bà, rồi tới cha mẹ, ở trên đi từ từ có mặt rồi mất, có mặt rồi mất. Tới mình có mặt rồi sau nữa? Mình cũng mất, có cái gì thật. Không có một cái gì thật hết, mà con mắt phàm tục mình chấm một khoảng đó là thật, rồi qua khoảng đó rồi sao không biết.

Như vậy thì ban sơ không thật, không có, duyên hợp mới có. Duyên hợp có thì tất cả các pháp đều không thật. Trước không sau không, thì khoảng giữa là tạm bợ không thật. Không thật mà ngở là thật thì gọi là gì? Vậy thì tất cả chúng ta đều là người mê muội, phải không. Mà mình mê muội chỉ Phật biết thôi, chớ mình có biết không? Mình không biết mình mê đâu, ai nói mình mê cái cải om sòm liền. Vì thấy mình còn khôn quá, mình biết cái này cái nọ, đâu có ngở mình mê. Lẽ thật mà mình không biết thì tức là mê. Lẽ thật đó kiểm tra lại thì thấy rõ như ban ngày. Con người như chúng ta, ai cũng trước không rồi sau cũng không, vật trước không sau cũng không. Tất cả thế gian này cái gì có trước mắt thì trước không sau cũng không, như vậy có một vật nào thật đâu. Cho nên ngài mới nói, Liễu liễu kiến vô nhất vật, là rõ ràng không thấy có một vật thật. Thấy không một vật thật thì đây:

Diệc vô nhân diệc vô Phật. Là cũng không người cũng không Phật luôn nữa. Nghe có buồn không. Người tu Phật mà nói không người không Phật. Ai ngồi đây mà không người, ai ngồi trên kia mà không Phật. Phật ngồi trên bàn, mình ngồi dưới này, mà nói không người không Phật. Như vậy, không nghĩa là trước khi duyên hợp chúng ta là không, rồi duyên hợp tạm có, rồi trở về không. Trước không, sau không tức là không.

Rồi Phật là một từ đối với chúng sanh, chúng sanh là mê, Phật là giác. Chúng ta mê nên mơi có chúng sanh, Phật là giác nên có giác. Nếu chúng ta mê bây giờ chúng ta giác, Phật mê rồi Phật giác, tất cả giác hết thì có Phật, có chúng sanh không? Nếu tất cả giác hết thì anh em hết, không còn Phật chúng sanh gì nữa, thì cũng không người không Phật. Nghĩa là tại có mê nên mới có giác, mới có người có Phật. Nếu mà chúng ta đều hết mê thôi lúc đó hết người hết Phật, bởi vì đâu còn phàm mà có Thánh, thì như nhau hết thì thôi bình đẳng. Như vậy cho nên cũng không người cũng không Phật.

Đại thiên sa giới hải trung âu, là cả thế giới đại thiên này cũng như bọt trong biển cả vậy. Nghĩa là sóng gió nó thổi tụ lại thành bọt, rồi cũng sóng đập cho nó nát bọt ra, tan ra. Tụ tán, tụ tán không có gì là thật hết. Như vậy thì quý vị  mới thấy chúng ta hiện tại trên cõi đời này mà gần nhất, còn xa nhất thì chúng ta thấy tổ tiên của chúng ta ngở rằng cái thế giới mình là có một đấng nào đó không biết có hình tướng hay không tạo nên, gọi đó ông tạo hóa. Ông tạo, ông hóa ra là thế giới, là con người lung tung. Nhưng khoa học ngày nay phân tích thì thấy rằng thế giới này nó là duyên hợp, từ những hạt bụi đùn lại rồi tụ lại thành nhóm nhỏ, rồi thành lớn, rồi cho tới thành thế giới, chớ nó không phải là ai tạo. Con người mình cũng duyên hợp, không có phải là một cái gì hay đấng nào nặn ra hết, từ duyên hợp mà thành, duyên hợp mà có thì nghe mình còn dễ hiểu.

Nhưng với con mắt người giác ngộ rồi cả cái đại thiên sa giới này, trong cõi đại thiên nhiều như cát bụi mà xem như hòn bọt nổi vậy. Bây giờ nói cách khác bao nhiêu tinh tú trên cõi hư không đó, bao nhiêu cái đó như số cát sông Hằng, đó cũng là như hạt bọt trong biển vậy thôi, không có giá trị gì hết, thì nói như vậy dễ hiểu không? Cái nhìn của người giác ngộ thấy bao xa? Ngày nay mình đã phục các nhà thiên văn thấy được bao nhiêu thế giới hay bao nhiêu hành tinh trong hư không, mình thấy mình cũng phục. Nhưng hồi xưa Phật nói bao nhiêu hành tinh đó không nghĩa lý gì hết, nó là vô số không thể tính kể hết được.

Nên đây nói : Đại thiên sa giới hải trung âu tức là thế giới nhiều như đại thiên hay số thế giới đại thiên nó như hằng sa như cát như bụi mà nó vẫn là hạt bọt trong biển.

Nhất thiết Thánh Hiền như điện phất. Tất cả thánh hiền như điện chớp vậy thôi. Bởi vì chúng ta lâu nay có cái hiểu phàm thì nó bị tiêu diệt bị mất, còn Thánh thì còn hoài, tức Thánh thì còn phàm thì mất. Nhưng trong nhà Phật nói mọi pháp ở thế gian đều đối đải, bởi có phàm nên có Thánh, mê thì phàm giác thì Thánh. Mà mê không thật thì giác có thật không? Còn gì đối đải mà thật. Cũng như bây giờ chúng ta có đêm thì có ngày, ngày thì sáng đêm thì tối. Như vậy có tối thì có sáng. Chừng nào hết đêm thì có ngày không ? Thì như nhau hoài đâu có nói đêm nói ngày. Như vậy khi nói sáng là vì có tối, nhưng tối không có thì sáng cũng không còn, cho nên tất cả Thánh hiền như điện chớp vậy thôi. Nghĩa là những từ ngữ tạm không thật, không phải là chỗ cứu kính, chỗ chân thật không cùng không tận.



CHÁNH VĂN :

 

Giả sử thiết luân đỉnh thượng triền,

Định huệ viên minh chung bất thất.

Nhật khả lãnh, nguyệt khả nhiệt,

Chúng ma bất năng hoại chân thuyết.

Tượng giá tranh vanh mạn tiến đồ,

Thùy kiến đường lang năng cự triệt?

 

 

GIẢNG :

 

Giả sử thiết luân đỉnh thượng triền, Ngài nói giả sử như có một vòng sắt cháy đỏ mà quay trên đầu ngài.

Định huệ viên minh chung bất thất. Là định huệ vẫn tròn sáng không có mất.

Mình ngồi thiền đang yên yên con muỗi chích một cái mình rung rinh không? Còn ngài thì giả sử có vòng lữa quay trên đầu thì định huệ ngài cũng không có mất. Đó để thấy rằng người thấy đúng như thật thấy tột cùng lẽ thật rồi thì dù trời đất có nghiêng ngã gì gì cái thấy cũng như vậy thôi, chớ không có đổi dời.

Còn mình bây giờ có khi cũng bắt chước các bậc thánh hiền quán thân không thật. Ngồi một mình quán thấy nó không thật, từ lỗ mũi tới dưới chân rồi xương xóc da thịt không gì thật hết, thì thấy như vậy đó. Nhưng ai lại véo một cái thì chừng đó thật liền, rồi la rồi đánh lại liền chớ không có tha. Đó là vì định lực của mình nó yếu quá đi, thấy đó chỉ là tạm thấy mờ mờ vậy đó chớ nó không có thấy rõ. Các ngài thấy nó rõ ràng không có gì thay đổi hết, cho nên giả sử một trường hợp kỳ đặc là bị một vòng quay trên đầu mà định huệ của ngài cũng không bị mất.

 

Nhật khả lãnh, nguyệt khả nhiệt,

Chúng ma bất năng hoại chân thuyết.

 

Ngài nói mặt trời có thể lạnh, mặt trăng có thể nóng mà các chúng ma không thể nào phá hoại thuyết chân thật này được. Cái thuyết chân thật mà Phật, Tổ đã nhận đã thấy thì không có thể con ma nào, hay ngoại đạo nào mà có thể họai được. Dù mặt trời có thể lạnh, mặt trăng có thể nóng nhưng mà ma không thể phá hoại được chân thuyết này.

Đó là một cái xác định không nghi ngờ, ai mà thấu suốt được, ai mà tu đến đây rồi thì mới thấy cái đó là cái bất khả xâm phạm, không cái gì hoại diệt được hết.

 

Tượng giá tranh vanh mạn tiến đồ,

Thùy kiến đường lang năng cự triệt?

 

Tượng giá là chiếc xe con voi, tranh vanh là đang tiến lên trên con đường ngược.

Tượng giá tranh vanh mạn tiến đồ, là chiếc xe đang lên dốc, đang bò lên dốc.

Thùy kiến đường lang năng cự triệt? Là ai mà thấy được con bọ ngựa ra chận đứng được.

Xe đang chạy lên đường dốc, có con bọ ngựa bò qua chận bánh xe khỏi chạy lên được không? Hay ở trên đổ xuống thì con bọ ngựa nó chận cho ở trên khỏi xuống được không? Đó để nói rằng lẽ thật là một sức mạnh như chiếc xe đang chạy, mà các cái gì, tà thuyết ngoại đạo muốn ngăn trở nó thì giống con bọ ngựa mà ra chận bánh xe vậy đó, không làm gì, không ngăn trở được chút nào.



CHÁNH VĂN :

 

Đại tượng bất du ư thố kính,

Đại ngộ bất câu ư tiểu tiết.

Mạc tương quản kiến báng thương thương,

Vị liễu, ngô kim vị quân thuyết.

 

GIẢNG :

 

Đại tượng bất du ư thố kính, là con voi lớn thì không đi theo dấu thỏ. Con voi lớn thì đi theo đường của voi đi, chớ không đi theo đường mòn của thỏ được.

Đại ngộ bất câu ư tiểu tiết. Người nào đại ngộ rồi thì họ không chấp những chi tiết nhỏ nhặt. Những chi tiết nhỏ nhặt đối với người đại ngộ người ta không cố chấp.

Mạc tương quản kiến báng thương thương, chớ đem cái nhìn nhỏ như lấy cái ống nhìn trời rồi nói trời nhỏ xíu, ông trời tròn quay hà. Đó đem cái ống nhìn trời rồi lại chê ông trời nhỏ hay hư không nhỏ.

Vị liễu, ngô kim vị quân thuyết. Tức là ai chưa hiểu thì tôi vì các người mà quyết nghi cho, mà giải quyết cho.

 

Như vậy tới đây là kết thúc bài Chứng Đạo Ca. Khi kết thúc tôi cũng nói thêm vài ý liên quan với bài Chứng Đạo Ca cho quý vị  nghe thâm nhập.

Bài Chứng Đạo Ca này là bài ca khi ngài Huyền Giác ngộ đạo. Khi ngài Huyền Giác ngộ đạo rồi thì ngài nhìn lại tất cả sự việc trên thế gian này, nó ngược nó khác hết với người phàm tục. Cho nên cái nhìn của ngài thấy đúng như thật, mà ngược với cái nhìn của thế gian nên ngài e người thế gian không hiểu. Không hiểu rồi cứ lầm đi trên con đường mê lầm mãi mãi. Nên ngài mới đem ra giải thích đầy đủ cho chúng ta nghe, chúng ta hiểu, để cùng đi trên con đường chứng đạo đó.

Người muốn nói cho chúng ta hiểu, nhưng cái hiểu ngài và cái biết của chúng ta gần hay xa? Cách nhau chừng bao nhiêu? Thật là muôn dậm. Nói thì nói vậy nhưng nó không có xa. Quý vị  đừng có mặc cảm mình mê ngài ngộ mà xa.

Cái mê là gì? Ngộ là gì? Như nảy giờ tôi nói, cái giả mà mình ngở là thật là mê; cái giả biết quả thật nó là giả thì đó là mình ngộ. Từ cái giả tưởng là thật, chuyển qua cái giả biết là giả, thì khoảng cách chừng bao xa? Dễ như trở bàn tay. Bây giờ giả sử tôi đang nghĩ thân tôi là quí, rồi có một vị nào đó giải thích thân tôi nó tầm thường, nó ô uế đủ thứ hết, cái giựt mình tôi tỉnh à như vậy thân quá là tầm thường, nó nhơ nhớp. Từ cái quí chuyển qua cái biết nhơ nhớp cách bao xa? Chỉ là cái chuyển đổi thôi. Cho nên mê và giác không phải là chuyện như là đi đường mấy ngàn cây số, nó không phải từ từ, mà nó là cái chuyển mê thành ngộ.

Như vậy tất cả quý vị, ai ai muốn chuyển mê thành ngộ có cái gì trở ngại không? Có luật nào cấm không được chuyển mê thành ngộ không? Nếu chuyển vậy có ở tù không? Vậy thì đâu có gì trở ngại, mình chuyển thì đổi cái nhìn của mình thôi.

Thí dụ như lâu nay, quý vị  nghe người ta nói nặng một câu, thì quý vị  nổi sân lên nói đó là khinh miệt mình nói xấu mình, rồi cự lộn với họ. Bây giờ người ta nói nặng một câu, mình cười vì mình không thật câu nói thật sao? Như vậy biết mình không thật thì câu nói nặng của người ta đâu có thật, mà hai cái không thật thì có giận có hờn gì không?

Như vậy, thấy mình thật thì tất cả chung quanh đều thật, nên được thật, mất thật, hơn thật, thua thật, cái gì cũng thật hết. Vì vậy cả ngày cứ quay trong cái thật đó, rồi khổ não. Tới giờ phút chót sắp tắt thở chừng đó biết thật không? Những cái thật đó mình có mang theo được không? Không đem được cái gì hết, như vậy tất cả cái thật đó thành giả. Thân giả rồi thì mọi cái đều là giả. Mà tới giờ đó biết giả có muộn chưa? Muộn quá rồi trở tay không kịp, tạo bao nhiêu thứ nghiệp rồi. Cho nên bây giờ còn sống, còn tỉnh, giả mình biết giả, để rồi khi biết giả rồi mình có tu, biết tu.

Còn bây giờ biết thật, thí dụ như quý vị  tập tu, nói bây giờ tôi tập tu nhẫn nhục, ráng tu hạnh nhẫn nhục cho khá để mình bớt sân. Nhưng bây giờ có người nào mắng quý vị, khi họ mắng mình thì ráng nhịn. Nhưng bửa nay mắng nhịn nổi ráng, rồi mai mắng nữa cũng ráng nhịn, rồi mốt cũng mắng nữa nhịn hết nổi, bung. Nhịn hai lần thôi, hai ngày đủ rồi, tới ngày thứ ba cái nổi nóng lên cự lại. Tại sao vậy? Bởi vì mình thấy mình đè, mình nén nó xuống, cho nên nó khó, nó khổ lắm, cho nên chịu hết nổi. Còn bây giờ quý vị  đã thấy mình giả, lời nói giả, thì mắng một trăm ngày cũng cười thôi, không đè chút nào hết.

Hai cái đó cũng là nhẫn nhục hết mà quý vị  thấy cái nào dễ, cái nào khó? Nếu thấy thật khó vô cùng, cho nên nhiều người than tu khó quá. Cái gì cũng khó hết tại vì thấy thân mình thật, thật như vàng vậy quí lắm, cho nên động tới khó. Còn mình biết thân này là giả, là tạm bợ, ngày nay còn, ngày mai mất không bảo đảm. Biết rõ như vậy thì mọi việc thế gian cười thôi, có gì đâu mà khổ. Thấy đúng như thật thì mình tu hết sức dễ. Còn thấy sai lầm thì cái khổ của mình vô cùng, tu hết sức khó.

Quý vị  nói tu khó quá, ngược lại tôi nói tu dễ, thì quý vị  nói tại thầy ở chùa, tụi con ở ngoài đời. Thật ra ở chùa, ở đời gì thấy nó giả cũng dễ hết trơn. Còn ở chùa mà thấy thật cũng khó như thường. Cho nên nhiều thầy, nhiều cô ở chùa cũng quạo như thường, chớ đâu có hết, bị thấy nó thật. Còn thấy giả thì chỗ nào tu cũng dễ hết, cư sĩ tu cũng hay mà xuất gia tu cũng giỏi. Còn thấy nó thật thì ai tu cũng dỡ hết, chớ không giỏi được.

Tôi lập lại một lần nữa, cái thấy thật và cái thấy giả, quý vị  xác nhận cái nào là đúng sự thật muôn đời? Thấy thân giả là sự thật muôn đời, còn thấy thật thì tạm bợ có ít chục năm hà, rồi nó bại hoại thì nó giả mất rồi. Cái thật muôn đời là chân lý, còn cái thật tạm bợ là cái thật sai lầm. Như vậy thì tại sao chúng ta không chịu thấy đúng chân lý, mà lại chịu thấy theo sự sai lầm? Từ thấy sai lầm đó chúng ta ngở rằng, chúng ta hay, chúng ta tốt, chúng ta khôn, đủ thứ ngở. Ngở như vậy cho nên đi ra mà ai nói động tới một cái, thì nổi nổi si lên mà rồi phiển não đầy dẫy.

Đó là tại vì chúng ta lầm một cái gốc là con người giả tưởng là thật, rồi mọi cái khác lầm theo, lầm luôn cả chùm. Cho nên, một khi mê tất cả đều mê. Bây giờ quý vị  giác được thân này giả là một cái gốc rồi thì mọi việc chung quanh này đều giả hết, như vậy sự tu hành dễ như trở bàn tay.

Nhưng nói giả thì quý vị  nói thân này giả rồi bi quan không muốn làm gì hết rồi sao, cơm đâu mà ăn? Nói giả là nói bằng cái thấy đúng như thật, còn trong cuộc sống giả này phải lăn lộn với mọi người, làm mà làm trong cái tạm bợ hư giả không cố chấp thì đó là người khéo tu. Cho nên Phật thấy giả mà Phật cũng đi giáo hóa bốn mươi chín năm, chớ đâu phải nói giả rồi Ngài ngồi một chỗ nhập Niết bàn liền, để trốn cái giả. Nghĩa là giả mà lăn lộn trong đó làm bổn phận của mình tròn, để rồi mình đánh thức mọi người, đó là cái giả mình thấy hữu ích cho chúng sanh. Chớ còn không phải thấy giả rồi đi trốn đi chạy ở đâu.

Nhiều khi chúng ta có những cái lầm lớn. Có người nói nếu thấy thân này giả rồi thì thôi ngồi chơi chờ nó chết cho rồi, tiêu cực hết muốn làm gì nữa. Đó là hiểu lầm. Chúng ta thấy nó giả thì mượn cái giả này làm lợi ích cho nhiều người thì đó là quí. Mình thấy giả mà thiên hạ chưa thấy, nên mình phải ráng đem cái giả này giúp ích cho mọi người. Mình thấy giả nên cái gì lợi ích cho chúng sanh mình dám hy sinh, mình không có sợ. Còn người ta thấy thật, cho nên có nhiều khi lợi ích cho người có khi không dám làm, nếu có làm bị bắt buộc lắm mới làm, chớ còn cái hy sinh tự mình không có.

Hiểu như vậy thì người tu, như trong này chứng đạo thì thấy tất cả pháp như huyễn như hóa không thật, mà nó không thật thì có cái gì mà bận lòng, có cái gì mà mình phải say sưa dính mắc. Như vậy cho nên tâm mình buông xả dễ dàng không trở ngại. Từ thấy đúng nên tu rất là thực tế, rất là dễ dàng chớ không có khó khăn gì hết. Đó là tôi nói cái ý cho quý vị  thấy.

Còn nói thật, tôi nhắc cho quý vị  nhớ thân chúng ta, quý vị  thấy phần xác thịt này là thật hay giả? Ngượng nói giả, vì mới nghe GIẢNG : nói thật nghe không được, ráng nói giả, chớ ra khỏi chùa chắc nó thật hết. Thân này là duyên hợp tụ tán không bảo đảm, cho nên nay còn mai mất không lường, mà cái như vậy làm sao nói thật được. Cái giả là cái thân, rồi mình biết cái giả là cái thân này mà người đời tưởng là thật, rồi tranh giành hơn thua phải quấy được mất rồi nó khổ, khổ với nhau. Mình biết thân này là giả thì mọi cái gì mình cũng không đuổi theo, mình cũng không còn muốn được đầy đủ.

Kế đó, tâm suy nghĩ phải quấy của quý vị  thật hay giả? Giả luôn nữa. Như vậy cái thân giả, cái tâm phân biệt hơn thua phải quấy cũng giả. Bây giờ thế gian đang sống với cái nào? Bám vào hai cái giả đó làm mình, mình tinh thần, mình thể xác. Thể xác là thân, tinh tần là tâm phân biệt hơn thua phải quấy, mà hai cái đó đều giả hết. Hai cái giả hết thì mình còn cái gì? Tưởng như cả thân, cả tâm đều là giả dối tạm bợ, chợt còn chợt mất. Nhưng sự thực trong cái giả nó còn hàm chứa một cái thật, mà cái thật đó hiện tiền không có lúc nào trốn tránh chúng ta hết. Nó hiện tiền mà chúng ta không chịu nhớ, cứ nhớ cái giả thôi. Bởi vậy nên Phật thương tội nghiệp chúng sanh làm sao, cái thật quí sẳn đó mà bỏ, rồi đuổi theo cái tạm bợ giả dối, rồi say sưa trong đó, rồi trầm luân sanh tử đời này kiếp nọ không có ngày cùng.

Cho nên Phật mới chỉ cho chúng ta cái thật. Cái thật làm sao có, làm sao biết? Quý vị  thử, cái gì là thật? Bây giờ tôi định nghĩa, cái gì duyên hợp có hình tướng thì vô thường là sanh diệt, đó là giả. Cái gì không có hình tướng thì không bị vô thường. Như cây cối nhà cửa thì vô thường. Còn hư không có vô thường không? Nó không hình tướng, không bị vô thường. Còn cái gì động thì có động có dừng, tức có sanh diệt. Cái gì không động thì có sanh diệt không? Không.

Như vậy thân này là duyên hợp, là vô thường. Vì thân có tướng nên bị vô thường. Còn cái nghĩ suy của mình, nó có động không? Dấy niệm, lặng niệm là động, động tức là sanh diệt. Mà nó lại là cái bóng nữa, mình tìm lại thì nó mất. Cả ngày mình lại chạy theo cái bóng đó, chạy theo cái thể xác tạm bợ này mà mình sống, còn có cái thật tàng ẩn trong đó mà mình bỏ quên. Như vậy quý vị  nghĩ nếu ai chỉ cái thật đó cho quý vị, quý vị  có mừng không? Rồi có muốn sống được cái thật hay không? Bây giờ tôi chỉ quý vị  chịu sống không? Muốn hén. Hứa với tôi là muốn hén, chịu. Bây giờ tôi chỉ.

Khi quý vị  khởi nghĩ thì đó là động. Cái nghĩ đó qua rồi hết. Khởi nghĩ là biết. Bây giờ, quý vị  không khởi nghĩ, không dấy niệm. Một phút, hai phút, tới mười phút đều không nghĩ, không dấy niệm, lúc đó quý vị  có biết không? Có. Ai biết mình không nghĩ? Như vậy có một cái biết hẳn trong này, biết được mình mà biết được sự vật nữa. Tiếng động thì nghe, người đi thì thấy, mọi cái mình đều biết, mà không có nghĩ. Như vậy cái biết đó là cái biết hằng hữu, còn cái biết dấy niệm là cái biết sanh diệt. Cái biết hằng hữu mà không hình tướng không động thì cái đó có vô thường được không? Có sanh diệt được không? Đó là cái biết thật của mình. Vậy mà chúng ta muôn đời cứ theo cái biết giả thôi. Giờ biết có cái thật chưa? Biết không? Biết nhẹ nhẹ, biết mà chưa dám nhận.

Bởi vậy nên Đức Phật dùng thí dụ chàng Diễn Nhã Đạt Đa đó. Sáng lại lấy gương soi, nhìn vô gương thấy mặt mình coi bộ đẹp trai quá, chải đầu đồ. Một hồi úp gương xuống, hoảng mất đầu tôi rồi. Ôm đầu chạy la mất đầu. Như vậy mất đầu hay là mất cái bóng trong gương? Mất là mất cái bóng, còn cái đầu mình sẳn đây. Đó, Phật cũng nói, tâm mình khi nghĩ suy lăng xăng lộn xộn, nếu nó yên được dừng lại thì nói tôi không có gì hết, không biết gì hết, không biết mà nói tôi không biết. Nghĩa là không nghĩ suy là không có cái bóng, còn cái biết nó hiện tiền. Vậy đó mà quên cái biết hiện tiền.

Ngồi chơi năm phút, mười phút không có một niệm, không có một ý nghĩ, nói bây giờ tôi không biết gì hết. Nói không biết gì hết, không biết gì hết sao biết giờ đó không có nghĩ, không có suy. Như vậy chúng ta có một cái biệt thực ngầm ở trong mà lúc nào cũng sẳn, mà mình lại quên cái biết đó, cứ chạy theo cái biết bóng thôi.

Do đó mà Phật bắt mình tu thiền là dừng cái chạy theo cái bóng. Nghĩ tốt, nghĩ xấu, nghĩ hơn, nghĩ thua mình phải dừng, phải bỏ, để rồi cái đó dừng thì cái biết kia nó đầy đủ hiện ra. Cái giả, cái vọng nó lặng thì cái thật nó hiện tiền.

Như mặt biển khi sóng lặng thì lúc đó chúng ta thấy một mặt biển phẳng. Khi sóng nổi lên, mặt biển có không? Mặt biển cũng vẫn có, nhưng mà nó không phẳng thôi. Như vậy khi chúng ta dấy niệm trong đó có cái thật đầy đủ rồi, mà dừng niệm thì nó phẳng, nó hiện đủ, còn không dừng niệm thì cái mênh mông cũng không thiếu. Thí dụ như dấy niệm lo nghĩ nhưng mà tai cũng vẫn nghe, mắt cũng vẫn thấy. Lo nghĩ chuyện khác mà tai vẫn nghe, mắt vẫn thấy thì đâu phải là không có mình.

Quý vị  nhớ, hồi xưa các vị Tổ ở Trung Hoa, các ngài ai tới hỏi một câu. Khi một câu hỏi vừa khởi lên thì như Tổ Lâm Tế liền nạt, hét lên một tiếng. Người ta nói lạ như là điên vậy, các thiền sư như điên. Hỏi thế nào là Phật, hét lên một tiếng. Ngạc nhiên quá. Nhưng có gì lạ đâu, vừa khởi nghĩ hỏi thì đó đã mất Phật rồi, cho nên hét lên một tiếng. Nếu ngài trả lời thì mình chạy theo dòng tư tưởng sanh diệt rồi, cho nên hét một tiếng dừng cái nghĩ ông thì Phật liền. Nghĩa là không cho nghĩ, dừng được cái nghĩ thì thấy Phật. Mà mình không chịu dừng cái nghĩ, kiếm nữa, kiếm thêm không hà. Cho nên các ngài vì thấy mình quá ham tìm hiểu, mà càng tìm hiểu thì càng đi trong sanh diệt. Cho nên các ngài chận đứng cái hiểu của mình, có khi nạt có khi đánh đủ thứ hết, để mình giựt mình dừng cái nghĩ lại, chớ có gì lạ đâu. Hiểu như vậy thì mới thấy cái thuật của các ngài rất là kỳ đặc.


UM! BÚT RUM!  HÙM! 


Ngày nay rất tiếc là, nếu hỏi thế nào Phật, tôi nạt một tiếng chắc họ đứng dậy đi ra mà còn cải lộn với tôi nữa, cái ông thầy điên. Vì vậy mà bây giờ phải giải thích, phải GIẢNG : đi GIẢNG : lại cho quý vị  nhận mình có cái không nghĩ suy. Đừng ngở rằng cái nghĩ suy đó mới là khôn, chính cái không nghĩ suy mới là tuyệt diệu. Cho nên chữ “Chân không” ở đây tôi đặt đó, Thiền viện Chân Không, nếu chân không thì diệu hữu. Cái chân thật nó không có một niệm nào dấy khởi, thì chừng đó diệu hữu như hằng sa.

Tại sao khi Phật mà Ngài an định được rồi, tâm Ngài lặng hết rồi thì Ngài liền chứng được Tam minh, Lục thông, Tứ vô sở uý, Thập bát bất động, đủ thứ hết. Như vậy phải diệu hữu hay không? Mà được diệu hữu phải đi tới từ cái chân không. Quí Phật tử đang ngồi ở Chân Không mà có không không? Ngồi trong thiền viện Chân Không mà hữu, vì vậy cho nên chưa có cái không.

Không đây là không những niệm vọng tưởng, không những cái tưởng nghĩ suy gì hết, chỉ còn một cái biết hiện tiền. Nên khi nghe pháp quý vị  lắng nghe không nghĩ suy, lắng nghe không nghĩ suy đó là cái thực nghe của mình rồi. Cái thực nghe đó nó đã có sẳn, không phải tới cái nghĩ suy mới hiểu. Nghe thì tự thấy tự biết, vì vậy mà chúng ta ở tai, ở mắt, ở mũi, ở lưỡi, ở thân, chỗ nào cũng có cái chân thật.

Bởi vậy ngài Triệu Châu đơn giản, ai tới hỏi ông mới tới, đi uống trà đi. Ông mới tới lần đầu thì mời uống trà đi. Người khác mới tới uống trà đi. Ngay uống trà biết bưng ly trà, biết uống trà thì đó là đạo rồi, cần gì nói. Nghe nói uống trà đi kỳ quá, thì tưởng đâu như chuyện đùa, mà thực uống trà là uống trà thì được. Cho nên ngày xưa các thiền sư khuya hay ngồi uống trà, hay bên Nhật bày ra trà đạo đó. Đó là như vậy. Nghĩa là làm có động tác, có thấm vào hương vị, mà chỉ trong ngằn đó, không nghĩ suy gì hết thì đạo hiện tiền.

Như vậy quý vị  thấy tu dễ hay khó? Uống trà đi chuyện dễ như trở bàn tay, mời uống trà có gì đâu mà khó. Vậy đó mà chúng ta hiểu rồi thì tất cả trường hợp nào, chúng ta cũng có cái chân thật.

Như vậy tôi nhắc lại, nếu có người trong túi sẳn một hòn ngọc quí vô giá, mà họ bị say sưa họ quên. Ai chỉ được cho họ biết rằng có hòn ngọc quí đó, họ lấy ra họ xài thì đó là người tỉnh. Nếu chỉ rằng trong túi có hòn ngọc quí, mà họ cứ say sưa hoài, họ không chịu lấy ra xài thì người đó là người gì? Người mê suốt đời. Người đó đáng thương hay đáng trách? Lý đáng không chỉ thì họ có họ không biết đáng thương. Chỉ mà không chịu lấy ra thì đáng thương hay đáng trách? Đáng trách. Tôi nói như vậy thì quý vị  thầm hiểu. Chúng ta đều có của báu như vậy, chỉ đi chỉ lại mà không chịu lấy ra xài, thì đó là đáng trách rồi đó. Chớ chi mà không chỉ thì thôi, tại vì người ta không biết. Cho nên chỉ biết rồi mà không chịu lấy ra xài, thì đáng trách.

Chúng tôi GIẢNG : cuốn Chứng Đạo Ca này, nếu quý vị  nghe từ đầu tới cuối thì chắc ai cũng biết mình có cái chân thật hết. Quý vị  biết có hay không? Biết. Biết có chân thật mà chịu trở về chân thật hay đuổi theo cái mê lầm? Nếu biết mà vẫn đuổi theo mê lầm, thì nếu tôi GIẢNG : thêm mười năm nữa chắc cũng chừng ấy thôi. Hồi xưa không biết thì chỉ. Chỉ mà không chịu nhận thì thôi GIẢNG : hoài cũng chừng ấy, nên tới đây tôi nghĩ có vừa chưa? Chỉ cho quý vị  biết rồi thì quý vị  khéo tỉnh rồi xoay lại lấy mà dùng, còn không chịu tỉnh thì tôi cũng bó tay, nói hoài cũng không làm lợi ích cho ai.

Vì vậy mà hôm nay, tôi GIẢNG : xong bài Chứng Đạo Ca này, tôi mong mỏi tất cả quí tăng ni, Phật tử xét cho thật kỹ, nghĩ cho chính chắn. Mình có cái thật thì phải cố gắng quay lại, không được trọn trăm phần trăm thì năm mười. Rồi tăng từ từ để rồi một ngày nào đó tất cả chúng ta đều là những người tỉnh giác, chớ không phải là những kẻ mê lầm như thuở nào không biết. Được như vậy là quý vị  khéo tiến trên con đường tu, thì cái công nhắc nhở của chúng tôi nó mới có giá trị. Nếu quý vị  nghe rồi thả trôi, bệnh nào tật nấy không bỏ, thì chắc rằng tôi nói cũng chỉ là gió qua tai, không ích lợi gì.

Vậy mong tất cả quý vị  thương tôi, quí tôi thì phải nhớ lời tôi nhắc để mà ráng tu. Cái đó là cái chân thật, chớ không phải là những lời huyễn hoặc mà chúng ta coi thường. Nhớ được như vậy, tu được như vậy thì chúng ta sẽ gặp nhau đời này và nhiều đời về sau nữa. Đó là chỗ mong của chúng tôi, mà chúng tôi cũng nghe nhiều Phật tử nguyện đời sau cũng gặp lại chúng tôi. Nhưng mà người thì đang đi trên con đường giác, người thì tuột xuống lối mê làm sao gặp cho được. Giờ thì tôi đi được mười bước, quý vị  cũng phải tập bước một hai bước, như vậy thì mới gặp được.

Như vậy mong tất cả quý vị  ai ai cũng thương mình cũng biết trở về với cái chân thật thì như vậy con đường đạo lý càng ngày càng sáng tỏ hơn. Như vậy thì chúng ta sống trong cõi đời trần tục mà chúng ta hằng có ngọn đuốc trí tuệ không có mê lầm. Đó là chỗ mong ước mà chúng tôi trông chờ ở tất cả quý vị. Thôi đến đây chấm dứt.


Tổng-Nhiếp-Thiên Tý Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Bốn Mươi Hai


Ma Bà Lỵ Thắng Yết Ra Dạ [74]


Đát nể dã thá, phạ lồ chỉ đế, thấp phạ ra dã,
tát bà đốt sắc, tra ô hạ di dả, Sá-phạ hạ.

UM! BÚT RUM!  HÙM! 



Kinh nói rằng: “Nếu muốn hàng phục ma oán trong cõi Đại-thiên, nên cầu nơi Tay
                      Tổng-Nhiếp-Thiên-Tý-Thủ.”


Thần-chú rằng: Ma Bà Lỵ Thắng Yết Ra Dạ [74]

Chơn-ngôn rằng: Đát nể dã thá, phạ lồ chỉ đế, thấp phạ ra dã,
                           tát bà đốt sắc, tra ô hạ di dả, Sá-phạ hạ.



Có bản Việt-văn thiếu 4 chữ tát bà đốt sắc, còn bản Anh-văn thì có thêm chữ Án-- (Nan.)  


Kệ tụng :

Thủ nhãn biến thân diệu vô biên
Hàng phục chúng ma trấn tam thiên
Khảo tà quy chánh tu thiện pháp
Ma ha bát nhã nan ngôn tuyên.


[

TAY MẮT hóa THÂN diệu khó lường
Hàng phục chúng ma, hộ TAM THIÊN
Cải tà qui chánh tu thiện pháp
Ma Ha Bát Nhã, THỂ VÔ NGÔN.


]


THỂ  của tất cả pháp đều tương đồng, đều là BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA, không thể dùng ngôn ngữ lời nói SUY NGHĨ luận bàn mà biết được, chỉ khi chứng được VIÊN THÔNG thì tự nhận biết , thì tự thành tựu tất cả pháp. Còn TƯỚNG  và DỤNG của các pháp thì khác nhau.


Cho nên, mỗi môn đều có tông chỉ riêng. Các bậc hoằng-dương tùy theo chỗ lập-pháp của mình, bao nhiêu phương tiện thuyết-giáo đều đi về những tông-chỉ ấy.

Như bên Thiền lấy: “Chỉ thẳng lòng người, thấy tánh thành Phật” làm tông-chỉ.

Tịnh Độ môn lấy: “Một đời vãng sanh, được Bất Thối chuyển” làm tông.

Bên Hoa Nghiêm lấy: “Lìa thế gian nhập pháp giới” làm tông.

Thiên Thai giáo lấy: “Mở, bày, ngộ vào tri kiến Phật” làm tông.

Bên Tam Luận lấy: “Lìa hai bên, vào Trung Ðạo” làm tông.

Pháp Tướng môn lấy: “Nhiếp muôn pháp về Chân Duy Thức” làm tông.

Mật giáo lấy: “Tam mật tương ưng, tức thân thành Phật” làm tông.

Và Luật môn lấy: “Nhiếp thân ngữ ý vào Thi La Tánh” làm tông.


( Niệm Phật Thập Yếu - Hòa Thượng Thích Thiền Tâm)


Vì vậy, nếu  qúi vị muốn ở nơi 1 THÂN TÂM, mà hiện ra ngàn tay ngàn mắt, soi thấy khắp pháp giới, hàng phục tất cả chúng ma,  bảo hộ chúng sanh trong cõi TAM THIÊN, thì qúi vị phải y theo bồ tát QUÁN-THẾ-ÂM mà phát thệ nguyện:


KINH VĂN:

Nếu trong đời vị lai, tôi có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú này, thì xin khiến cho THÂN tôi liền sanh ra ngàn tay ngàn mắt.

Khi tôi phát thệ rồi, thì ngàn tay ngàn mắt đều hiện đủ nơi thân, lúc ấy, cõi đất mười phương rung động sáu cách, ngàn đức Phật trong mười phương đều phóng ánh quang minh soi đến thân tôi, và chiếu sáng mười phương vô biên thế giới. Từ đó về sau, tôi ở trong vô lượng pháp hội của vô lượng chư Phật, lại được nghe và thọ trì môn đà ra ni này.

Mỗi lần nghe xong, tôi khôn xiết vui mừng, liền được vượt qua sự sanh tử vi tế trong vô số ức kiếp. Và từ ấy đến nay, tôi (bồ tát QUÁN-THẾ-ÂM) vẫn hằng trì tụng chú này, chưa từng quên bỏ. Do sức trì tụng ấy, tùy theo chỗ sanh, tôi không còn chịu thân bào thai, được hóa sanh nơi hoa sen, thường gặp Phật nghe pháp.

Nếu có vị Tỳ khưu, Tỳ khưu Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di hay đồng nam, đồng nữ nào muốn tụng trì chú này, trước tiên phải phát tâm từ bi đối với chúng sanh, và sau đây y theo tôi mà phát nguyện:

1)   Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau biết tất cả pháp.

2)   Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được mắt trí huệ.

3)   Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau độ các chúng sanh.

4)   Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được phương tiện khéo.

5)   Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau lên thuyền Bát nhã.

6)   Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được qua biển khổ.

7)   Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau được giới định đạo.

8)   Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm lên non Niết Bàn.

9)   Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau về nhà vô vi.

10) Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh.


Nếu con hướng về nơi non đao,
Non đao tức thời liền sụp đổ.

Nếu con hướng về lửa, nước sôi,
Nước sôi, lửa cháy tự khô tắt.

Nếu con hướng về cõi địa ngục,
Ðịa ngục liền mau tự tiêu tan.

Nếu con hướng về loài ngạ quỷ,
Ngạ quỷ liền được tự no đủ.

Nếu con hướng về chúng Tu La,
Tu la tâm ác tự điều phục.

Nếu con hướng về các súc sanh,
Súc sanh tự được trí huệ lớn.

Khi phát lời nguyện ấy xong, chí tâm xưng danh hiệu của tôi, lại chuyên niệm danh hiệu bổn sư tôi là đức A Di Đà Như Lai, kế đó tiếp tụng đà ra ni thần chú này. Nếu chúng sanh nào, trong một ngày đêm tụng năm biến chú, sẽ diệt trừ được tội nặng trong ngàn muôn ức kiếp sanh tử".

Ta thấy đoạn KINH trên bồ tát QUÁN THẾ ÂM dạy chúng ta tu theo 4 đều:

1)       PHÁT NGUYỆN

2)      Niệm “NAM MÔ ĐẠI-BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT” ít nhứt 3 lần trở lên, để  y theo hạnh ĐẠI-BI của ngài mà tu hành theo.

3)      Tụng mỗi ngày ít nhất là 5 LẦN CHÚ ĐẠI-BI, 5 LẦN THỦ NHÃN như Tổng-Nhiếp-Thiên-Tý Thủ Nhãn Ấn Pháp” chẳng hạn.

4)     Lại  CHUYÊN NIỆM “ Nam Mô A-Di-Đà Phật”. Nghĩa là ngoài thời khóa kể trên, trong một ngày đêm, khi nào có thể liền nhiếp THÂN TÂM vào danh hiệu “NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT”, lâu ngày sẽ được NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT, mới biết diệu dụng của câu niệm phật “BẤT KHẢ TƯ NGHỊ”, không thể dùng văn tự ngôn ngữ SUY NGHĨ  mà bàn luận biết được.  Cho nên, qúi vị phải hành trì cho thiết thật.


Lặng ngồi chốn tĩnh lâu
Trăng sáng, gió canh thâu!
Bát-Nhã hương lòng nhẹ.
Lăng-Già niệm ý sâu


Phật, Tâm chung một vẻ
Thiền, Tịnh chẳng hai mầu
Ngưng chuỗi, thầm riêng hỏi
Hoa đêm điểm điểm đầu...



( Niệm Phật Phải Hành Trì Cho Thiết Thật- HT.Thích Thiền Tâm)



KINH NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT

Đời Tấn, ngài Tam-tạng Pháp-sư Cưu-Ma-La-Thập dịch từ Phạn ra Hán.
Hòa-Thuợng Thích-Thiền-Tâm dịch từ Hán-văn ra Việt-văn.



PHẨM THỨ NĂM
QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG

Lúc bấy giờ, Quốc mẫu Vi-Đề-Hy hoàng thái hậu hớn hở vui mừng được nghe pháp yếu của Như-Lai qua lời dạy của ngài Phổ-Hiền Đại Bồ-Tát, bèn tiếp tục thưa thỉnh:

- "Kính bạch đấng Thiên Nhân Sư tối tôn, tối thắng ! Kính bạch Đại-sĩ đại từ, đại bi ! Con cũng thường nghe chư vị trưởng lão trong tăng già luôn luôn nhắc nhở rằng chỉ có Tứ-niệm-xứ là con đường độc nhất giúp chúng sanh diệt trừ ưu bi khổ não, chứng ngộ Niết-bàn. Nay được Thế-Tôn mở bày pháp Niệm Phật, khiến hằng ưu-bà-tắc, và ưu-bà-di đều phân vân, do dự. Ý nghĩa ấy như thế nào ? Đâu mới là pháp chân thật, rốt ráo ? Đâu là pháp phương tiện, quyền biến ? Đâu là pháp tối hậu mà Như-Lai thường ban cho các chúng sanh ở vào thời kỳ Chánh pháp cuối cùng ?"Đức Phật mỉm cười lặng yên. Ngài Phổ-Hiền an nhiên nhập vào Niệm Phật Tam-muội. Thân tâm bất động.

Khi ấy, ngài Quán-Thế-Âm Đại Bồ-Tát liền từ bảo tòa đứng dậy, trịch áo phơi bày vai bên hữu, cung kính nhiễu quanh đức Phật ba vòng. Rồi Ngài hướng về bà Vi-Đề-Hy mà bảo rằng:

- "Nay tôi nương uy thần vô hạn của đức Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn, và tùy thuận Bản-nguyện-lực vô biên vô lượng của đức Phật A-Di-Đà, mà tuyên dương năng lực vô cùng tận của danh hiệu Phật, tức là Pháp Môn Niệm Phật Tam Muội.

- Nầy Vi-Đề-Hy, hãy nhận rõ như thế nầy, đừng rơi vào nghi lầm nữa.
Đúng như ngươi vừa mới trình bày, Tứ-niệm-xứ là pháp diệt khổ, là pháp đối trị tham dục, ưu bi khổ não, là pháp đắc Niết-bàn vắng lặng. Còn pháp Niệm Phật Tam-muội lại là pháp thành Phật, là pháp chứng Vô-thượng-giác, là pháp thâm nhập cảnh giới bất tư nghị của chư Phật, là pháp mở bày tỏ ngộ Tri Kiến Như-Lai, là pháp cứu độ tất cả mọi chúng sanh, là pháp siêu việt trên hết thảy hí luận cùng thiên kiến của nhị thừa. Tại sao vậy ?

Trước đây, đức Thế-Tôn vì những người ghê sợ hiểm nạn sanh tử, mà nói pháp Tứ-niệm-xứ, chánh niệm tinh tấn nhiếp phục tham sân si, để thoát khổ và đắc A-la-hán.
Nay vì những người tín ngưỡng, khát khao quả vị Bồ-đề chí hướng mong cầu Phật đạo, phát khởi đại bi tâm mà thực hành hạnh nguyện Bồ-Tát thì đức Thế-Tôn chỉ dạy pháp môn Niệm Phật Tam-muội.

Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, vì một niệm bất giác nổi lên, che mờ Bản-thể Thường-trụ, nhận vật bên ngoài làm TÂM. Luôn luôn bỏ mất TÂM chân thật, nên bị cảnh vật xoay chuyển. Do đó khởi tâm phân biệt, thấy có lớn nhỏ, rộng hẹp, cao hạ... Nếu xoay được cảnh vật bên ngoài thì thân tâm sẽ sáng suốt, trạm nhiên, trọn đầy, tức thời đồng với Như-Lai không khác.

Muốn xoay chuyển ngoại vật, thì không chi bằng sử dụng diệu lực vô úy của danh hiệu Phật. Thật vậy, nhờ xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật mà hành giả nhìn thấy cảnh vật bên ngoài đúng như bản chất thật sự của chúng. Do đó không còn bị ngoại cảnh chi phối, điều phục thân tâm. Và chẳng còn mống khởi tâm phân biệt. Lúc ấy, tuy không rời pháp hội mà biến hiện khắp mười phương quốc độ; trong một lỗ chân lông vẫn chứa đựng cả Hoa-tạng Thế-giới-hải.



Khi xưng niệm danh hiệu Phật, hành giả không để tâm dong ruổi theo thanh trần, mà xoay cái nghe trở vào Chơn-tánh, đó là danh hiệu Phật đang tuôn chảy liên miên bất tận thành một dòng Tâm, mà mỗi mỗi sát-na đều hiển hiện Chơn-như-tánh. Chính nó thật là Tánh Nghe của mình, chẳng còn hai tướng động và tịnh, toàn là thể vắng lặng, soi chiếu khắp mười phương.

Tiếp tục hành trì niệm Phật như thế, chẳng bao lâu thì Tánh Nghe cũng không còn. Khi ấy, Phật Trí tự nhiên tỏa rạng, danh hiệu Phật vẫn tương tục, không gián đoạn.
Nầy Vi-Đề-Hy, trong pháp hội Thủ-Lăng-Nghiêm, tôi đã trình bày nhân địa tu hành Nhĩ Căn Viên Thông cho đại chúng. Nhưng, thời Mạt pháp các kinh điển dần dần ẩn mất, mà nên biết kinh Thủ-Lăng-Nghiêm, sẽ bị diệt trước nhất, tiếp sau là kinh Lăng-Già, kinh Kim-Cương, kinh Ma-Ha Bát-Nhã, kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa ... Nếu không nương nhờ pháp niệm Phật thì rất khó chứng đắc Nhĩ Căn Viên Thông. Bởi vì sao ? Bởi vì Niệm Phật Tam-muội chính là món Viên-thông đệ nhất.

Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, vì lăn lộn trong đêm tối vô minh, nhận giặc làm cha, lấy vọng kiến làm chỗn nương về, lấy tà kiến làm bạn lữ, lấy biên kiến làm lương dược. Nhận ngã chấp, ngã kiến làm Tâm. Rời xa Tri-kiến Giải-thoát Vô-thượng. Do đó, khởi tâm phân biệt, thấy đúng sai, tà chánh, thiện ác, chân ngụy ... nếu lọc sạch ngã kiến, ngã chấp thì thân tâm sẽ quang minh, thường tại, chiếu suốt mười phương pháp giới. Tức đồng đẳng với Tri Kiến giác ngộ của chư Như-Lai.

Nếu muốn gạn lọc ngã kiến, ngã chấp, thì không chi hơn là phát huy năng lực vô biên của danh hiệu Phật. Thật vậy, nhờ chuyên tâm xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật mà hành giả tuần tự chuyển Thức thành Trí. Ngã chấp tự nhiên rơi rụng, ngã kiến tự nhiên tan mất như bong bóng nước dưới ánh mặt trời. Lúc bấy giờ, tuy không lìa cung Đâu-Suất mà vẫn phân thân khắp vi trần quốc độ để chuyển pháp luân vô thượng, và khai thị tuệ giác cho vô lượng chúng sanh, giúp hết thảy tứ sanh, cửu hữu cùng ngộ nhập Phật Tri Kiến.

Khi xưng niệm danh hiệu Phật, hành giả không để Thức nương theo nhân duyên mà dấy động, nên chẳng thành tựu pháp Y-tha-khởi. Vì không có sự tham dự của ngã và ngã sở nên Biến-kế Sở-chấp cũng chẳng tồn tại. Chỉ có danh hiệu Phật vẫn tuôn chảy liên miên bất tận thành một dòng tâm, mà mỗi mỗi sát-na đều biểu hiện Vô-thượng Diệu-viên Thức-tâm Tam-Muội, tức là Chân Duy Thức Tánh.



Tiếp tục hành trì niệm Phật như thế chẳng bao lâu, thì chẳng còn nhìn thấy huyễn tướng của vạn pháp ở bên ngoài và cũng chẳng còn bắt gặp Tám thức ở bên trong. Trong hay ngoài đều giả dối, không thật. Ngay cả tướng Duy-thức cũng chẳng có nữa. Vì ba đời mười phương Như-Lai, vi trần sát quốc độ, hư không, sắc pháp, tâm vương, tâm sở... đều không một thứ nào ra ngoài Chân Duy Thức Tánh mà tự hữu, tự sanh, tự diệt, danh hiệu Phật vẫn tương tục, không gián đoạn, như có, như không, cho đến khi Chân Duy Thức biến mất, Đại Viên Cảnh Trí tự nhiên phơi bày, danh hiệu Phật sẽ dẫn dắt hành giả đi vào tánh Viên Thành Thật, chứng Vô-sanh Pháp-Nhẫn.

Do đó, phải nói rằng Niệm Phật là pháp môn đệ nhất dùng để chuyển thức thành trí, mà chúng sanh thời Mạt pháp phải siêng năng thọ trì.

Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, bị vô số tư tưởng điên đảo làm khuất lấp tánh Viên-giác. Như kẻ ngủ mê chợt thức giấc giữa ngã tư đường cái, chẳng rõ phương hướng, lẫn lộn chánh tà, thấy cong nhìn ngược, bất phân thiện ác. Tư tưởng điên đảo ấy nẩy sanh thân và tâm, rồi nhận thân tứ đại giả hợp làm thân, chấp cái tư tưởng vô minh điên đảo kia làm tâm. Cứ thế mà sanh tử, tử sanh nối nhau không dứt, tạo vòng lẩn quẩn luân hồi.

Nhưng cái vô minh điên đảo ấy cũng chẳng thật. Như hoa đốm, như bóng nước, như ảo tưởng nơi sa mạc, như người ngủ chiêm bao, thấy những sự việc, cảnh vật rõ ràng, nhưng khi thức dậy, thời không còn gì hết. Nếu chuyển hóa vô minh điên đảo thời thân và tâm sẽ thành Giác-ngộ. Hoặc không phát tâm tu trì thời vẫn ở mãi trong sanh tử huyễn mộng ấy mà tự vui. Chỉ có danh hiệu Phật là đầy đủ năng lực nhiệm mầu để chuyển hóa sanh tử trở nên Niết-bàn, chuyển hóa giả huyễn trở nên chân thật.

Vì sao vậy ?

Khi xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật, hành giả dần dần thành tựu chánh định Như-Lai, tự nhiên phát sanh Tuệ-giác Không-tánh, vì danh hiệu Phật là Hư-không-tạng, là Viên-giác-tánh, là Vô-cấu-tạng, là Tịch-tịnh-tạng... Nhờ vậy, hành giả biết các pháp đều như huyễn, thời tự nhiên lìa xa các huyễn hóa, sanh diệt. Ngay lúc ấy, bèn thâm nhập Viên-giác-tánh. Đó gọi là tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác.

Dùng pháp nào để Tri ? Nếu không phải là diệu dụng của danh hiệu Phật ?
Không cần phải hủy diệt các thứ huyễn, mới cho chúng nó là huyễn. Không cần thay đổi bản chất huyễn của nó mới gọi là Không. Mà chính cái biết "nhứt thiết pháp là Không" khiến đương thể của huyễn pháp tức là Không.

Tiếp tục xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật như thế, hành giả không phóng tâm theo huyễn cảnh, huyễn sự, mà hướng cái biết trở vào Viên-giác-tánh. Đó là danh hiệu Phật đang tuôn chảy liên miên bất tận thành một khối lưu ly sáng rực, vằng vặc. Mà mỗi mỗi sát-na đều hiển lộ Như-Lai Tạng, và cái biết cũng không còn nữa. Danh hiệu Phật vẫn tương tục không gián đoạn, hòa tan căn, trần, thức đều nhập vào Viên-giác-tánh, bình đẳng bất động, thường trụ như hư không và tròn đầy chiếu suốt mười phương.

Bởi vậy, phải nói rằng niệm Phật là pháp môn đệ nhất, sử dụng danh hiệu Như-Lai mà thâm nhập Như-Lai-Tạng, mà chuyển biến huyễn hóa, hư dối trở nên Viên-giác-tánh. Các hạng chúng sanh thời Mạt pháp phải siêng năng thọ trì.

Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, bị phiền não chi phối ngày đêm không tạm dừng, nên nhận vọng tưởng làm Tâm, bỏ quên Thắng-giải-trí, Vô-thượng-trí. Rồi lại bị tham, sân, si, mạn, nghi lôi cuốn, và thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến chồng chất lấp vùi. Do đó khởi tâm phân biệt, thấy có mừng có giận, yêu ghét, vui buồn, vinh hoa, hủy nhục... nếu tận trừ phiền não thì thân tâm vắng lặng, an nhiên, tự tại, tức đồng với chư Phật không hai không khác.

Muốn tận trừ phiền não, thì không chi hơn là phát huy năng lực Trí giả siêu việt của danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật. Thật vậy nhờ cần mẫn xưng niệm Phật hiệu mà hành giả hiện bày Tự Tâm Quang Minh Hiện Lượng, chuyển phiền não dữ dội ấy trở thành Bồ-đề thật tướng, đưa hành giả thẳng vào cảnh giới Thánh Tri Tự Chứng. Lúc bấy giờ, có khả năng bấm ngón chân xuống mặt đất, sử dụng ấn Địa Xúc để cải biến Ta-bà thành Tịnh-độ trang nghiêm, niệm niệm tương ứng với Thập-địa Bồ-Tát, niệm niệm du hành, giáo hóa xã hội chúng sanh khắp mười phương vi trần bằng hà sa thế giới.


Tóm lại, nếu qúi vị “CHUYÊN TRÌ”  Tổng-Nhiếp-Thiên-Tý Thủ Nhãn Ấn Pháp,  tức cũng như người “CHUYÊN NIỆM” PHẬT A-DI-ĐÀ ĐƯỢC VIÊN THÔNG vậy,  thì có khả năng  chuyển THỨC PHÂN BIỆT thành TRÍ KIM CANG (CHƠN TÂM THƯỜNG TRỤ), cho nên thành tựu  được tất cả các THỦ NHÃN.

Và ngược lại, nếu qúi vị tu bất cứ thủ nhãn nào  được VIÊN THÔNG, thì thành tựu được TỔNG NHIẾP THIÊN TÝ THỦ NHÃN ẤN PHÁP.

Lúc nầy, thì ở nơi 1 THÂN TÂM của qúi vị có khả năng hiện ra vô lượng TAY MẮT, để hàng phục tất cả loài yêu ma, cứu độ vô lượng vô biên chúng sanh trong cõi TAM THIÊN, làm cho họ cải TÀ quy CHÁNH tu theo thiện pháp. Sau cùng, thành tựu  NHỨT THIẾT CHỦNG TRÍ như chư PHẬT vậy.

Kệ tụng :


Thủ nhãn biến thân diệu vô biên
Hàng phục chúng ma trấn tam thiên
Khảo tà quy chánh tu thiện pháp

Ma ha bát nhã nan ngôn tuyên. 



- Vĩnh Gia Chứng Đạo Ca Thiển Thích

Hòa Thượng Tuyên Hóa Thuyết Giảng tại Kim Luân Thánh Tự Los Angeles, California, Mỹ Quốc, tháng 2 năm 1985


- Kiến Giải CHỨNG ĐẠO CA của NGỘ THÂM

Comments

Popular posts from this blog