HT. Thích Thanh Từ – GIẢNG GIẢI
30.-Ẩn tu niệm Phật cảnh sâu huyền !
Trong sáng linh hư hợp Tịnh, Thiền
Không hữu đều tan, Trung đạo dứt
Hoa vàng chợt nở Bảo trì liên !
NHƯ Ý : TỊNH thuộc HỮU tông, THIỀN là KHÔNG tông, trên bước dụng công sơ khởi, luối tu của đôi bên Tuy có khác nhau nhưng tiêu điểm đi về vẫn là một.
Bởi lẽ huyễn hữu tức chân không, chân như tam muội chẳng ngoài Niệm Phật tam-muội:
Cảnh cũ CHÂN TÂM vạn nẻo về,
Đường tuy khác lối vẫn đồng quê.
Trong THIỀN có TỊNH trời Lư-lảnh,
Trong TỊNH gồm THIỀN nước ĐỘNG KHÊ.
Hàng tu Phật nên ý thức điểm này.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
CHỨNG ĐẠO CA
Thiền sư Huyền Giác
Bài GIẢNG : của chúng tôi đợt này là GIẢNG : bài “Chứng đạo ca”
của Thiền sư Huyền Giác. Bài này chúng tôi đã có GIẢNG : một lần trước rồi bao
giờ đó tôi quên không nhớ ngày giờ rõ nhưng đã GIẢNG :. Ngày nay trở về Thiền
viện Chơn Không tôi thấy sắp nghĩ, bài này là bài rất là chí yếu cho người tu
Thiền muốn thấy được đạo chân thật sẳn ở mình thì cần phải hiểu cho thấu đáo
cho nên tôi GIẢNG : lại.
Tuy nhiên ngày trước GIẢNG : và ngày nay GIẢNG : cũng có đôi phần
khác nhau, quý vị khéo chú ý thì mới thấy.
Tôi biết trong đây đa số Phật tử là người mới, mà nghe bài GIẢNG : này chắc khó
hiểu lắm. Nhưng mà thôi thì thấm được bây nhiêu tốt bấy nhiêu, chớ tôi không
còn thời gian để GIẢNG : từ thấp lên cao được. Vậy quý vị thông cảm cho. Trước khi GIẢNG : chúng tôi đọc
sơ tiểu sử của Thiền sư Huyền Giác cho quý vị
biết đại cương.
TIỂU SỬ THIỀN SƯ HUYỀN GIÁC
Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác là con nhà họ Đới ở châu Ôn. Thuở
nhỏ học tập kinh luận và chuyên ròng về phép chỉ quán của phái Thiên Thai. Kế
do xem kinh Duy Ma Cật mà tâm địa phát sáng. Tình cờ có học trò của sư Huệ Năng
là thầy Huyền Sách hỏi thăm tìm đến. Hai người trò chuyện hăng say, Sách nghe
Giác nói lời nào cũng thầm hiệp với ý chư Tổ, bèn hỏi rằng: “Nhân giả được pháp
với thầy nào?”.
Giác đáp: “Tôi nghe kinh luận Phương đẳng mỗi mỗi đều có thầy
truyền dạy. Sau do kinh Duy Ma mà ngộ được tâm Phật, nhưng chưa có người chứng
minh cho”.
Sách nói: “Từ thời Phật Oai Âm Vương trở về trước thì được,
nhưng từ thời Phật Oai Âm Vương trở về sau không thầy mà tự ngộ thì toàn thuộc
phái ngoại đạo thiên nhiên”.
Giác nói: “Xin nhân giả chứng dùm tôi”.
Sách nói: “Lời tôi thiếu sót lắm nay tại Tào Khê có Đại sư Huệ
Năng, bốn phương người đổ dồn về đó mà thọ pháp với Ngài. Nếu ông muốn chúng ta
cùng đến đó”.
Giác bèn theo Sách đến viếng Tổ sư. Giác đi quanh Sư ba vòng
xong chống tích trượng đứng. Sư nói: “Phàm là Sa môn phải đủ ba ngàn oai nghi
tám muôn tế hạnh. Đại đức từ đâu đến mà lớn lối ngạo mạn vậy?”.
Giác đáp: “Sanh tử là việc lớn, vô thường mau chóng”.
Sư nói: “Vậy sao chẳng thể nhận cái lý vô sanh, thấu rõ cái
nghĩa không chóng sao”.
Giác đáp: “Thể tức vô sanh, thấu vốn không chóng”.
Sư nói: “Đúng vậy, đúng vậy”.
Huyền Giác bèn dùng hết oai nghi mà vái lạy, giây lát xin cáo về.
Sư bảo: “Về chóng thế?”.
Giác đáp: “Vốn mình chẳng phải động, há có mau chóng sao”.
Sư hỏi: “Ai biết chẳng phải động?”.
Giác đáp: “Đúng là tại nhân giả sanh tâm phân biệt”.
Sư nói: “Ông thực đã thấu cái ý vô sanh”.
Giác hỏi: “Vô sanh há có ý sao?”.
Sư vặn lại: “Không ý thì ai phân biệt đây”.
Giác đáp: “Phân biệt cũng chẳng phải là ý”.
Sư nói: “Tốt lắm hãy nán lại một đêm”.
Nhân đó người ta gọi là một đêm giác ngộ, nói theo chử Hán là
“Nhất túc giác”. Sau này Huyền Giác có soạn bài “Chứng đạo ca” được truyền tụng
trong đời. Người sau truy tặng Ngài là Đại sư Vô Tướng, đương thời tôn Ngài hiệu
là Chân Giác.
GIẢNG:
Đại cương câu chuyện như vậy để cho quý vị thấy. Nhưng trọng tâm ở đây tôi biết đọc qua quý
vị khó hiểu về sự đối đáp giữa Lục Tổ Huệ
Năng và Thiền sư Huyền Giác. Đây tôi thứ tự để chỉ cho quý vị thấy cái thâm sâu của Ngài.
Huyền Giác đi tới chỗ Lục Tổ không chào hỏi gì hết, đi quanh ba
vòng chống tích trượng xuống đứng sửng đó. Khi đó Lục Tổ mới bảo: “Phàm là Sa
môn phải đủ ba ngàn oai nghi tám muôn tế hạnh, Đại đức từ đâu đến mà lớn lối,
ngạo mạn vậy?”. Bị quở.
Ngài đáp rằng: “Sanh tử là việc lớn, vô thường mau chóng”. Đáp
có lạc đề không? Nghĩa là chúng ta đi học đạo là vì giải thoát sanh tử, mà sanh
tử đã chực sẳn bên mình, không biết ngày nào nó sẽ đến, thì còn rảnh rổi đâu mà
oai nghi tế hạnh. Vì vậy mà cần phải nói cái gì, tìm cái gì thẳng đó để thấy để
biết, chớ không có cần cái oai nghi tế hạnh đó.
Khi Huyền Giác đáp vậy, Tổ Huệ Năng nói: “Vậy sao chẳng thể nhận
cái lý vô sanh, thấu rõ cái nghĩa không chóng sao”. Như vậy thì ngay đó ông phải
nhận ra lý vô sanh, thấu suốt được cái nghĩa thì nó chẳng chóng hơn không.
Ngài Huyền Giác đáp: “Thể tức vô sanh, thấu vốn không chóng”. Thể
là bản thể vốn là vô sanh, còn mình thấu hiểu mà thấu hiểu cũng không có cái gì
gọi là nhanh, là chậm hết.
Tổ Huệ Năng đáp: “Đúng vậy, đúng vậy”. Tức là thấy được rồi đó,
chỗ ông nhìn, chỗ ông hiểu là đúng.
Huyền Giác bèn dùng hết oai nghi mà vái lạy, giây lát xin cáo về.
Đủ rồi. Chỉ hỏi một câu mà được thừa nhận là đúng là mãn nguyện rồi, không cần
phải hỏi nhiều, nên Ngài từ giả về.
Khi từ giả về Lục Tổ cũng e chưa biết thấu tột cùng, cho nên Tổ
mới hỏi: “Về chóng thế sao?”.
Huyền Giác đáp: “Vốn mình chẳng phải động, há có mau chóng sao”.
Cái đó nó không động không tịnh nói gì chóng, cái gì chày.
Tổ hỏi: “Ai biết chẳng phải động?”. Cái gì biết chẳng động. Như
vậy nếu mình biết cái đó là cái chẳng động thì cái gì biết đó là chẳng động? Quý
vị thấy những câu này nghe như là khó hiểu
nhưng đó là sự thực, thí dụ tôi thấy cái đồng hồ tôi biết đồng hồ trắng hay là
đen. Như vậy tôi biết đồng hồ trắng đen thì cái trắng đen tôi biết ở đồng hồ đó
là có tôi và có đồng hồ. Phải không? Bởi vậy nên Lục Tổ mới hỏi: “Ai biết chẳng
phải động?”. Câu hỏi đó nếu có người biết chẳng động đó thì tức có hai rồi, tức
là gài cho Ngài Huyền Giác mắc kẹt.
Huyền Giác đáp: “Đúng là tại nhân giả sanh tâm phân biệt”. Tại Tổ
phân biệt chớ còn tôi nói vậy là vậy thôi chớ không có cái hay biết, cái bị biết
gì hết. Ngài trách lại Lục Tổ.
Lục Tổ nói: “Ông thực đã thấu cái ý vô sanh”. Như vậy thì ông thấu
suốt được cái ý vô sanh rồi.
Huyền Giác hỏi: “Vô sanh há có ý sao?”. Tổ nói thấu ý vô sanh,
bây giờ Ngài hỏi lại vô sanh há có ý sao? Đây mấy câu này là mấy câu rất là
tinh vi, nó quá là vi tế thường mình không biết. “Vô sanh có ý sao?”
Lục Tổ bảo: “Không ý thì ai phân biệt đây”. Nếu không có ý thì
ai phân biệt đây?
Huyền Giác đáp: “Phân biệt cũng chẳng phải ý”. Cái câu đó là câu
thấu triệt: phân biệt mà chẳng phải ý. Lâu nay chúng ta quen suy nghĩ tính toán
gọi đó là phân biệt, thì suy nghĩ tính toán đó là ý. Còn cái này phân biệt mà
không phải ý là sao? Thí dụ con mắt tôi nhìn cái bình hoa. Hoa hồng thấy đỏ,
hoa khác thì thấy trắng, thấy xanh, thấy vàng, thấy gì đó đủ thứ thấy. Nếu có
thấy đỏ, thấy trắng thì có phân biệt không? Có phân biệt rõ ràng mới biết đây
là đỏ, đây là trắng. Nhưng phân biệt đó phải ý không? Mắt thấy thì tự biết đỏ,
biết trắng, đâu đợi suy nghĩ mới biết đỏ biết trắng. Như vậy phân biệt mà không
phải ý, đó là cái chỗ rất là thâm sâu. Còn chúng ta bây giờ nói phân biệt là
nói chuyện suy tính hơn thua, phải quấy, tốt xấu thì cái đó là thuộc về ý. Còn
tai nghe tiếng chuông, tiếng mõ, nghe tiếng chuông biết tiếng chuông, nghe tiếng
mõ biết tiếng mõ là phân biệt, cái đó phải ý không? Cái đó không phải ý. Cho
nên cái chữ “phân biệt cũng chẳng phải ý” là cái thấy của Ngài Huyền Giác rất
là tột.
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”
trong kinh Kim Cang.
CHẤP TÂM KHÔNG DÍNH DÁNG VÀO ĐÂU TẤT CẢ
Ông A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, trước đây tôi thấy Phật cùng chuyển pháp-luân với 4 vị đại-đệ-tử là Đại-mục-liên, Tu-bồ-đề, Phú-lâu-na, Xá-lỵ-phất, Phật thường dạy : Cái tính của tâm hay-biết cũng chẳng ở trong, cũng chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở chặng giữa, chẳng ở chỗ nào cả, không dính-dáng vào đâu tất-cả thì gọi là tâm. Vậy tôi lấy cái không dính-dáng của tôi mà gọi là tâm, có được chăng?".
Phật bảo ông A-nan: "Ông nói tính của tâm hay-biết, không ở đâu cả. Vậy các vật-tượng thế-gian như hư-không và các loài thủy, lục, không, hành, gọi là tất-cả sự-vật mà ông không dính-dáng vào, là có hay là không có? Không, thì đồng như lông rùa, sừng thỏ, còn gì mà không dính-dáng? Đã có cái không dính-dáng thì không thể gọi là không. Không có tướng thì là không, không phải không thì có tướng; có tướng thì có chỗ ở, làm sao lại không dính-dáng được. Vậy nên biết rằng ông nói cái không dính-dáng vào đâu tất-cả gọi là tâm hay-biết, thật không có lẽ nào như vậy".
Nếu ông quyết-chấp cái tính hay-biết suy-xét phân-biệt là tâm của ông thì cái tâm ấy phải rời sự-nghiệp các trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, riêng có toàn-tính; chứ như hiện nay ông vâng nghe pháp-âm của tôi, đó là nhân cái tiếng mà có phân-biệt: dầu cho diệt hết tất-cả cái thấy, nghe, hay, biết, bên trong nắm-giữ cái u-nhàn, không biết, không nghĩ thì đó cũng còn là sự phân-biệt bóng-dáng pháp-trần mà thôi.
Chẳng phải tôi bảo ông chấp cái ấy không phải là tâm, nhưng ông phải, chính nơi tâm ông, suy-xét chín-chắn, nếu rời tiền-trần có tính phân-biệt, thì đó mới thật là tâm của ông. Nếu tính phân-biệt, rời tiền-trần, không còn tự-thể thì nó chỉ là sự phân-biệt bóng-dáng tiền-trần. Tiền-trần không phải thường-trụ, khi thay đổi diệt mất rồi, thì cái tâm nương vào tiền-trần ấy cũng đồng như lông rùa sừng thỏ và pháp-thân của ông cũng thành như đoạn-diệt, còn gì mà tu-chứng vô-sinh-pháp-nhẫn”.
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
Việt Dịch: Cư Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám
Cho nên Tổ nói: “Tốt lắm hãy nán lại một đêm”. Như vậy là ông tốt
rồi thôi hãy ở lại một đêm, nên người đời sau nói ông là “Nhất túc giác” tức ở
một đêm mà được giác ngộ. Còn mình bây giờ tu bao lâu mới giác ngộ? Tu mười
năm, hai mươi năm mà chưa giác ngộ, còn Ngài tới nói đạo một giờ, nữa giờ rồi ở
lại một đêm liền được giác ngộ thì đó là chỗ rất là kỳ đặc của Ngài. Như vậy
coi như Lục Tổ đã ấn chứng cho Ngài là người thấu triệt được cái lý Thiền. Vì vậy
mà sau này Ngài đã làm ra những quyển sách nói về Thiền rất là thấu triệt mặc dầu
Ngài ở chỗ Lục Tổ một đêm thôi, mà bài “Chứng đạo ca” này tất cả quý vị tu thiền ở Nhật Bản ai cũng thuộc hết. Chỉ có
Việt Nam, mấy Thiền sư Việt Nam ở Thiền viện mà không thuộc gì hết. Có không?
Đó là cái hổ thẹn của mình đó, chớ bên kia người ta thuộc hết.
Bây giờ trong bài “Chứng đạo ca” tôi sẽ đi từng phần, tôi đọc bản
chữ Hán GIẢNG cho quý vị nghe để cho
thấy âm vận và ý nghĩa sâu xa của bài này.
Trước hết “Chứng đạo ca” là bài ca chứng đạo. Mà ngài chứng đạo
Ngài ca, còn chúng ta chưa gì hết cho nên lời ca của Ngài mình không biết gì hết.
GIẢNG lắm mà không biết biết được bao nhiêu, chớ còn thực ra chúng ta khó mà
biết được. Đây tôi đọc:
CHÁNH VĂN :
Quân
bất kiến :
Tuyệt học vô
vi nhàn đạo nhân,
Bất trừ vọng tưởng bất cầu
chân?
Vô minh thực tánh tức Phật tánh,
Ảo hoá không thân tức Pháp thân.
GIẢNG:
Bài ca đó bốn câu.
Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân, Tuyệt
học là dứt sự học. Vô vi là đối với hữu vi. Nhà Phật nói hữu vi là pháp nào có
sanh trụ dị diệt hay nói đơn giản là sanh trụ diệt thì pháp đó là hữu vi. Còn
cái nào không có sanh trụ diệt đó gọi là vô vi. Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân
là dứt sự học và không còn sanh diệt là đạo nhân nhàn.
Nhưng chữ đạo nhân quý vị
có biết chưa? Đạo nhân là người sao? Thường thường thấy ai tu cũng nói đạo
nhân hết chớ gì. Nhưng không phải. Tôi nhớ hồi xưa học nhưng lâu rồi tôi không
nhớ kỹ lắm, trong kinh Tứ thập nhị chương nói về ý nghĩa cúng dường, trong đó
Phật dạy rằng: “Cúng dường một trăm người ác tức đem đồ giúp đở một trăm người
ác không bằng cúng dường một người thiện. Cúng dường một trăm người thiện không
bằng cúng dường một người tu giữ giới tức xuất gia giữ giới. Cúng dường một
ngàn người xuất gia giữ giới không bằng cúng dường một vị A la hán. Cúng dường
một ngàn vị A la hán không bằng cúng dường một đạo nhân vô tâm”. Như vậy đặt
câu hỏi đạo nhân vô tâm là người nào? Đây đạo nhân là để chỉ cho người mà đã sống
được cái chân thật của chính mình, không còn bị những cái gì bên ngoài nó che đậy,
không còn bị những cái gì bên ngoài nó lừa bịp nữa, sống mãi với cái chân thật
của mình cho nên gọi là đạo nhân vô tâm. Vô tâm là không có cái tâm sanh diệt,
chớ không phải là vô tâm không, không có tâm, không có cái biết. Không có cái
sanh diệt gọi là đạo nhân vô tâm. Như vậy thì đạo nhân vô tâm là ai? Là Phật sống
mất rồi, cho nên A la hán không bằng Phật. Mà nói đạo nhân cái mình tưởng đạo
nhân đó là ông nào lạ lùng.
Như vậy thì ở đây chỉ một câu thôi, Tuyệt học vô vi nhàn đạo
nhân tức là người không còn học, hai chữ không còn học này quý vị cũng nên hiểu cho rõ. Trong nhà Phật nói rằng
chúng ta tu muốn có trí tuệ thì mới vào tu thì phải học Văn, Tư, Tu. Trước là
phải nghe tức là học là Văn. Rồi phải suy gẩm cái lời mình học ở thầy đó đúng
hay sai, nó chân lý hay chưa, đó là Tư. Rồi khi thấy đúng chân lý mình ứng dụng
mình Tu. Ba trường hợp đó gọi là Văn Tư, Tu, ai mới vào đạo cũng phải như vậy hết.
Học ba phần đó Văn, Tư, Tu là trí huệ, nhưng mà trí huệ đó là trí huệ hữu lậu tức
trí huệ còn trong sanh tử. Muốn được trí huệ ra ngoài thoát khỏi sanh tử thì phải
Giới, Định, Tuệ. Phải giữ giới cho trong sạch, giới trong sạch rồi tu được tâm
an định, tâm an định rồi trí tuệ phát sáng thì cái đó mới là giải thoát sanh tử.
Như vậy tuyệt học là qua khỏi cái học gọi là văn tư tu rồi,
không còn học nữa, mà chỉ định tâm để sáng lên thì đó là trí tuệ giải thoát
sanh tử. Vì vậy ba phần đó, giới định tuệ gọi là giải thoát vô lậu.
Vậy thì đây nói tuyệt học tức là không còn học trong cái sanh diệt
mà chỉ sống với cái bất sanh bất diệt. Bởi vậy nên khi trí tuệ từ cái tâm yên định
sáng lên rồi thì trí tuệ đó không còn sanh diệt nữa nên gọi là vô vi, vô vi tức
là không còn bị sanh diệt, thì đó là vị đạo nhân nhàn. Đạo nhân nhàn là như vậy.
Quý vị nghĩ bây giờ kiếm vị đạo nhân vậy
có không? Chắc khó kiếm lắm. Bây giờ vị đạo nhân nhàn đó nhìn tất cả sự vật như
thế nào?
Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân ? Người
đạo nhân đó thấy tu không cần trừ vọng tưởng, không cầu chân. Tại sao? Bởi tâm
Ngài không còn niệm sanh diệt nữa, mà không còn niệm sanh diệt nên Ngài thấy rằng
cái chân và cái vọng đối đải nó không còn ở trong tâm các Ngài, mà không còn
tâm sanh diệt đó thì trừ cái gì, cầu cái gì.
Vô minh thực tánh tức Phật tánh, Tánh
thật của vô minh là tánh Phật. Quý vị có
vô minh không? Ai cũng có hết, mà có vô minh là có tánh Phật rồi. Như vậy thì quý
vị không có hổ thẹn rằng chúng ta là người
si mê không, vì trong si mê nó có tánh Phật. Làm sao biết? Tôi thí dụ như ở dưới
biển sóng nổi dậy đùng đùng, mà sóng nổi dậy đùng đùng đó có rời mặt biển
không? Tuy sóng dậy ầm ầm thấy nguy hiểm nhưng mà thật ra sóng đó nó không rời
mặt biển. Khi hết gió sóng lặng thì chỉ còn là mặt biển. Cũng vậy tâm lăng xăng
lộn xộn của mình nó dấy động đó gọi là vô minh. Khi nó lặng hết không còn dấy động
nữa thì đó là trở về Phật tánh.
Giờ quý vị muốn thấy Phật
tánh không? Chịu khó buông hết cái tâm lăng xăng đó đi. Đừng có tâm nghĩ hơn
nghĩ thua, nghĩ phải nghĩ quấy, ngồi buông sạch hết thì đó là trở về tánh Phật
của mình. Cho nên quí thầy lên ngồi thiền nhìn xuống để buông xả hết những cái
tâm lăng xăng, đó là trở về với tánh Phật, chớ không phải cầu Phật cho mình
thành Phật, mà trở về tánh Phật sẳn của mình. Vì vậy mà ở Thiền viện mới hướng
dẫn Phật tử ngồi thiền đó, mà ngồi thiền thì kỵ cái gì? Không cho vọng tưởng,
buông xả vọng tưởng. Mà buông xả vọng tưởng thì tánh Phật mình từ từ hiển lộ,
chớ không tìm kiếm ở đâu. Vì vậy mà nói vô minh thực tánh là tánh thật của vô
minh là tánh Phật, chớ không có gì lạ.
Ảo hóa không thân tức pháp thân. Cái
thân chúng ta sanh ra năm bảy chục năm nó hoại, thân này đối với đạo thấy là
thân tạm bợ, giả dối. Ngay thân tạm bợ, giả dối này nó có cái pháp thân sẳn.
Pháp thân là cái thân không có sanh, không có diệt. Trong nhà Phật thường chia
ra ba thân: Pháp thân, Báo thân, Hóa thân. Pháp thân chỉ cho cái thân không
sanh không diệt. Báo thân là thân do quả báo mà được, tu hành nhiều tốt thì được
báo thân tốt; hay làm tội nghiệp nhiều thì sanh ra thân xấu xí; đó là thân quả
báo. Hóa thân là thân đối với Phật là thân Ngài ứng hóa để độ chúng sanh.
Như vậy thì Pháp thân của Phật có, chúng ta cũng có. Ngay cái
thân huyễn hóa của chúng ta đây đã có cái Pháp thân rồi, chớ không có tìm kiếm ở
đâu hết. Vậy thì người Phật tử tu sống trở về với tánh Phật là chúng ta ngay nơi
tâm vô minh lặng thì tánh Phật hiện, ngay cái thân ảo hóa này thấy rõ trong đó
có cái thân bất sanh bất diệt là Pháp thân, chớ không phải riêng Đức Phật có mà
chúng ta không. Chúng ta cũng có như Ngài nhưng vì chúng ta mê lầm nên rồi
chúng ta đuổi theo cái thân tạm bợ, rồi từ cái thân tạm bợ chúng ta cứ say sưa
với nó cho tới ngày nó bại hoại rồi chừng đó chúng ta khổ sở.
Bây giờ tất cả quý vị có
người nào thấy thân mình không thật không? Trong đây có ai thấy thân không thật
không? Chắc thật trăm phần trăm. Thấy thân này thật thì làm sao biết có Pháp
thân. Khi biết thân này là tạm bợ, là hư giả thì mới nhận được cái Pháp thân
trong đó. Còn thấy nó thật thì cứ cả ngày say sưa lo cho nó, lo cho cuối cùng rồi
nó rả nát. Khi nó rả nát nó còn thật không? Đó là cái nhìn của mình mê, chúng
ta chỉ biết cái thân hiện có là thật. Nhưng không ngờ thân hiện có ngày nay nó
còn, ngày mai nó hoại hoặc ngày nay nó hoạt động được ngày kia thì nó không còn
hoạt động. Như vậy thì nó làm sao mà thật được. Cho nên dưới con mắt Phật thấy
nó là giả dối, là tạm bợ không thật. Không thật thì mình không có lệ thuộc nó,
mình không có chìu theo cái đòi hỏi của nó, do đó nên mình tự do, tự chủ. Từ tự
do, tự chủ đó từ từ chúng ta thấy được cái thân thật là Pháp thân bất sanh bất
diệt. Đây là cái nhìn của vị đạo nhân.
Đạo nhân nhìn thấy tu các Ngài không cần phải trừ vọng tưởng, phải
cầu chân thật. Vì đối với các Ngài không có vọng tưởng ngoài chân thật, cho nên
rồi không có bỏ cái này tìm cái kia. Rồi thấy rõ vô minh là tánh Phật của mình,
cuối cùng của vô minh đó là tánh Phật. Ngay thân ảo hóa này nó đã có sẳn Pháp
thân. Như vậy cái nhìn của người đạt đạo thấy rõ ngay nơi mình đủ cả Phật tánh,
đủ cả Pháp thân, chớ không có phải tìm cầu đâu hết. Không phải tu mười năm, hai
mươi năm mới có mấy cái đó, mà nó đang sẳn đủ, rất tiếc là chúng ta quên.
CHÁNH VĂN :
Pháp thân giác liễu vô
nhất vật,
Bổn nguyên tự tánh thiên chân Phật.
Ngũ ấm phù vân
không khứ lai,
Tam độc thủy bào hư xuất một.
GIẢNG :
Pháp thân giác liễu vô nhất vật, Ngài
nói rằng pháp thân mà giác ngộ rồi thì nó không một vật. Câu này có đúng với chỗ
Lục Tổ ngộ chưa? Lục Tổ Ngài thấy bài kệ Ngài trình đó:
Bản lai vô nhất vật,
Hà xứ nhạ trần ai.
Cái đó xưa nay không một vật thì chỗ nào dính bụi bậm. Đây nếu
chúng ta thấu suốt hiểu rõ được pháp thân rồi, thì mới biết pháp thân đó nó
không có một vật. Như vậy thì câu Lục Tổ nói “Bản lai vô nhất vật”, Ngũ Tổ đọc
tới câu đó thì đã biết được người này thấy được cái gì.
Bổn nguyên tự tánh thiên chân Phật. “Bổn”
là gốc, “nguyên” là nguồn. Bổn nguyên là nguồn gốc. Hai chữ bổn nguyên là cái
chung, một từ chung. Cái nguồn gốc chân thật của mình. “Tự tánh” là cái tánh của
mình, “thiên chân Phật” là Đức Phật. Chữ thiên này không phải là trời, mà chữ
thiên là cái sẳn có Đức Phật chân thật. Như vậy thì chúng ta sẳn có cái nguồn gốc
chân thật, chúng ta sẳn có tánh thanh tịnh chân thật, chúng ta sẳn có ông Phật
chân thật. Vậy nhận được pháp thân rồi thì mới thấy mình có đủ bổn nguyên tự
tánh thiên chân Phật không thiếu gì hết.
Ngũ ấm phù vân không khứ lai, “ngũ ấm”
là chỉ thân năm ấm của mình. Năm ấm là sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức ấm.
Thân này do năm cái đó che đậy gọi là thân năm ấm. Thân này giống như là mây nổi
bay qua bay lại vậy thôi. Con mắt người giác ngộ thấy thân này như mây nổi, còn
chúng ta thấy thân này như cái gì? Như những khối đá chắc thật đập không bể.
Khi thấy được bổn nguyên tự tánh thiên chân Phật rồi thì thân ngủ
ấm này giống như mây nổi, hợp đó tan đó, tụ đó rồi mất đó, chớ không có thật. Từ
thấy nó không thật rồi thì sao? Thì chúng ta mới không vướng mắc, không có
giành với nhau từ cái ăn cái mặc, không có so kè những cái gì mình thua người,
người hơn mình..v.v…
Tam độc thủy bào hư xuất một. Tam độc
là tham, sân, si. Ba cái này cũng như là bọt nước, nó vừa tụ đó thì tan đó, vừa
nổi đó liền bể nát đó, dập nát đó, nó không có thật. Quý vị thấy tham, sân, si của quý vị thật không? Ai cũng thấy sợ tham, sân, si vì
nó tạo ra bao nhiêu thứ nghiệp ác cho mình. Nhưng với con mắt người tỉnh ngộ rồi
thấy tham, sân, si không có thật, giống như là cái bong bóng nước vậy, nổi rồi
mất, nổi rồi mất. Bây giờ tôi thí dụ để cho quý vị cảm thấy đúng hay sai?
Như có người làm gì đó chọc tức mình. Lúc đó mình nổi giận đỏ mặt
lên, định làm cái gì đó cho đả giận. Khi mình nổi giận thì người ta vổ tay cười,
đó lầm rồi thì lúc đó sao? Cái giận đó nó chìm hay nó còn? Thấy người ta gạt,
người ta thử mình. Chừng đó xấu hổ cái giận nó lặng mất. Như vậy thì nó thật
không? Nếu thật nó nổi lên tức phải còn. Nhưng mà nó thấy cái gì đó biết mình lầm,
người ta gạt mình thử mình, chừng đó mắc cở cái mất tiêu. Đó là thí dụ cái nóng
là sân.
Giờ cái tham. Tham quý vị
nghĩ nó thật không? Ai cũng nghĩ tham lam là cái thật của con người,
nhưng thật ra cái tham nó cũng không thật. Tại sao nó không thật? Bởi vì nó không
phải là cái cố định có hình, có tướng không có bị người ta làm cho nó tan nát
được thì nó mới thật. Cái tham này nó không phải vậy. Thí dụ thấy người ta để
cái bóp hay cái gì đó, cái không thấy chủ nhà, thì mình hơi dấy cái niệm tham.
Mình mở coi. Vừa mới mở thì chủ nhà thấy người ta la ủa cái bóp của tôi bỏ
quên, thì lúc đó làm sao, còn không? Cái tham mất tiêu hà. Hồi chưa thấy chủ
thì dấy niệm tham. Nhưng chủ người ta nói của tôi đến lượm lại thì cái tham mất
đâu còn nữa. Chớ nếu để mở ra thấy có của quí thì lúc đó cái tham nó đuổi, nó
khiến cho mình phải lấy, phải tìm cách dấu diếm..v.v… Còn khi người ta nói cái
đó tôi bỏ quên, người ta lại lấy lúc đó cái tham hết trơn. Có tan chưa?
Như vậy cái tham, cái sân nó cũng tạm bợ chớ có thật đâu, nếu thật
thì nó còn hoài. Nó dấy lên cái lở cơ hội thì nó mất tiêu, thì đó như bọt nước,
bong bóng nước, nó đâu có gì thật. Tham sân không thật thì si cũng không thật.
Nếu người giác ngộ rồi thấy thân năm ấm như mây nổi, tụ tán qua
lại, không có gì cố định, không có gì là chân thật. Rồi thấy ba cái xấu là tham
sân si của mình cũng như bong bóng, như bọt nước, có gì đâu quan trọng. Thấy
như vậy thì tự nhiên chúng ta hết sợ, hết sợ thì nó không hoành hành được. Còn
mình bây giờ hơi sợ, sợ tôi nóng quá kềm không nổi. Nhưng sự thật ra tại mình
tưởng nó thật nên kềm không nổi, chớ thấy nó hư giả thì có gì mà không kềm được.
Hiểu như vậy thì chúng ta mới thấy những câu này hết sức là chí lý chớ không phải
là chuyện nói để an ủi mình.
Thân năm ấm là không thật. Quý vị thấy có khi người ta đang đi ngồi trên xe máy
chạy mà lở đụng nhau cái ầm thì ngũ ấm này còn không? Thì như phù vân vậy, như
mây nổi vậy, đang tụ đó rồi nó tan liền có gì thật đâu. Rồi cả tam độc cũng
không thật. Vậy mà mình cứ ngở mình thật, tới chừng cái tướng không thật nó hiện
ra thì mình hoảng hốt lên.
CHÁNH VĂN :
Chứng thực tướng, vô
nhân pháp,
Sát-na diệt khước A-tỳ nghiệp.
Nhược tương vọng ngữ cuống chúng sanh,
Tự chiêu bạt thiệt trần sa kiếp.
GIẢNG :
Chứng thực tướng, vô nhân pháp, Người
mà chứng được tướng thật đó rồi tức cái tâm chân thật thì người đó không còn
phân biệt đây là người kia là pháp. Pháp là cảnh, người và cảnh không có hai.
Sát-na diệt khước A-tỳ nghiệp. Tức là
trong một chốc, trong một khảy móng tay mình tiêu diệt hết nghiệp a tì. Nghiệp
a tì là nghiệp trong địa ngục đó.
Như vậy người đạt được thật tướng đó rồi thì không còn thấy có
mình là thật, các vật là thật. Bởi không thấy thật cho nên bao nhiêu thứ nghiệp
để mà đọa trong địa ngục mình liền tiêu diệt một cách nhẹ nhàng trong một khảy
móng tay chớ không có lâu, không có xa. Như vậy thì lời nói đó có thật hay
không? Ngài dám nói:
Nhược tương vọng ngữ cuống chúng
sanh,
Tự chiêu bạt thiệt trần sa kiếp.
Nếu mà tôi đem lời dối trá để lừa gạt chúng sanh thì tôi tự chịu
cái nghiệp đọa địa ngục, bị cái cày nó cày trên lưỡi nhiều như số kiếp cát bụi.
Ngài nói rằng người thấy được tướng thật rồi, không còn bị cái
nhân và cái pháp tức người và cảnh nó chi phối nữa, thì chỉ trong một khảy móng
tay cái nghiệp địa ngục nó tiêu tan. Ngài dám nói rằng nếu tôi nói đây là nói dối
nói gạt quý vị thì tôi sẽ chịu đọa địa
ngục, mà địa ngục hành bằng cách kéo lưỡi ra rồi cày về tội nói dối. Như vậy
thì Ngài nghĩ chúng ta mê muội nên lời nói thật chúng ta không tin. Nói rằng nếu
mình nhận chân được thật tướng rồi, mình không còn thấy cảnh thấy người thật
thì mình qua hết tất cả những nghiệp địa ngục chỉ trong khoảng khảy móng tay
hay nói cách khác tất cả những tội chướng mình tiêu tan hết. Bởi vậy quý vị nghe trong kinh nhất là những buổi sám hối
quí thầy, quí cô hay tụng câu:
Tội tánh bổn không vô tâm tạo,
Tâm nhược diệt thời tội diệt vong.
Tội vong, tâm diệt lưỡng câu không,
Thị tắc danh vi chơn sám hối.
Tội tánh vốn là không. Cái tánh tội vốn là không. Từ đâu mà có?
Do tâm mình tạo ra. Tâm mê muội tạo thành tội lỗi. Nếu tâm hết mê muội rồi thì
tội lỗi không còn. Như vậy khi chứng được thật tướng mình còn mê muội không? Hết
mê muội, cho nên lúc đó không còn thấy người thấy cảnh là thật nữa. Người không
thật, cảnh không thật thì bao nhiêu nghiệp từ vô số kiếp mình đều diệt hết. Đó
tội tánh bổn không, mình thấy được cái thật rồi thì tánh tội không còn. Từ tội
không còn cho nên bao nhiêu nghiệp mình tạo mình đều dứt sạch. Lời nói đó e rằng
Phật tử chưa tin, Ngài thề rằng tôi nói những lời này mà dối trá quý vị thì xin chịu đọa địa ngục bạt thiệt, gan như
vậy, quyết định như vậy.
Vậy để thấy rằng khi chứng đạo rồi thì cái chân thật nó hiện tiền,
mà thấy được cái chân thật rồi mới biết tất cả những cái giả dối nó không có thật.
Mà không thật thì một khi mình mê thì tạo nghiệp bị luân hồi, bị khổ đau. Nếu
mình tỉnh rồi thì các nghiệp theo đó mà nó tan biến chớ không có còn. Tại sao vậy?
Quý vị nghĩ làm sao? Tôi nói thí dụ
chúng ta làm việc mê mệt tối ngủ say, khi ngủ say thấy mộng dữ mộng ác nào là bị
người ta rượt người ta đánh, nào là bị người ta chửi bới..v.v… Như vậy trong mộng
mình đang thấy bị rượt, bị đánh, bị chửi bới khổ sở đó, rồi chừng nào mới hết?
Chỉ cần giựt mình thức dậy thì hết trơn. Giựt mình thức dậy thì tất cả cảnh khổ
nó không còn nữa. Giựt mình thức dậy thì cái mê mộng khổ sở không còn.
Cũng như vậy chúng ta chứng thật tướng tức là ngộ được thấy được
tướng chân thật của mình thì tất cả vòng luân hồi huyễn hóa này theo đó nó tan
hết, tan biến không còn. Giống cũng như là đang say trong mộng đó là mê, say
trong mộng thì cảnh dữ mình không biết chạy đi đâu, không ai cứu; nhưng mình tỉnh
rồi thì tất cả cảnh mình sợ hải khi mộng không còn nữa. Cũng vậy chúng ta đang
sống trong mộng mà không hay rồi cứ tưởng mình đang sống thật. Nếu mình thức tỉnh
như các Tổ đây thấy thì tự nhiên các khổ theo đó nó biến, nó tiêu tan không còn.
Bởi vậy nên Ngài khẳng định rằng nếu Ngài nói câu này: người chứng
thật tướng thì không còn nhân, không còn pháp thì chỉ trong khảy móng tay thì
nghiệp a tì liền hết. Như mình thấy người ta bắt mình ở tù năm năm, mười năm
trong lúc mê. Bây giờ giựt mình thức dậy thì tù năm năm, mười năm đó còn không?
Liền hết trơn, đâu có thật. Biết được nó không thật thì nó tan biến. Vậy thì một
cơn tỉnh là bao nhiêu cái khổ mê không còn. Chúng ta một phen giác ngộ rồi thì
cái nghiệp trầm luân ngang đó nó hết.
Như vậy thì quý vị tu muốn
giác ngộ không? Hay là muốn tu phước từ từ năm này một ít, năm kia một ít dồn lại
để trả nợ nghiệp cũ. Thí dụ như mình ăn thịt một trăm, một ngàn con cá mà lâu
lâu mình mua ít con thả để trả bớt nghiệp. Nhưng thả con này thì bắt con khác
ăn, thì chừng nào hết nghiệp? Chỉ có cái chúng ta thức tỉnh thì nghiệp liền hết.
Cho nên Phật nói chỉ có giác ngộ chúng ta mới hết cái khổ trong mê lầm. Vì cái
khổ mê lầm này nhà Phật dùng từ là vô minh nghĩa là không có sáng. Chúng ta
không sáng nên không thấy đúng sự thật, rồi cứ như vậy mà tạo nghiệp với nhau,
lẩn quẩn mấy mươi năm rồi đi rồi tạo nữa. Có người nào mà gần chết nói tôi
không thèm trở lại đây nữa đâu, có nói vậy được không? Hay chết cứ sợ mất thân
này? Sợ mất thân này cái nhắm mắt kiếm đủ cách để gặp lại thân khác. Gặp thân
khác rồi chui vô đó tiếp tục tạo nữa. Như vậy đời đời tiếp nối khổ đau, cho nên
Đức Phật mới nói: “Nước mắt chúng sanh nhiều hơn nước bể cả”. Vì sanh đi tử lại
hoài không chịu ra, mà không chịu ra thì làm sao hết khổ. Muốn hết khổ chỉ có
cái chứng thật tướng tức là giác ngộ thấy được cái thật của mình bất sanh bất
diệt. Đó là người được giải thoát sanh tử.
(Thông thường người đời chỉ TIN NHÂN QUẢ THẾ GIAN mà thôi, còn NHÂN QUẢ XUẤT THẾ GIAN thì không đủ NHẪN LỰC, để TIN ĐƯỢC NGUYỆN LỰC CỦA CHƯ PHẬT, CHƯ BỒ TÁT…)
Chứng thực tướng, vô nhân pháp,
Sát-na diệt khước A-tỳ nghiệp.
Tu-Bồ-Đề! Môn Nhẫn-nhục Ba-la-mật, đức Như-Lai nói đó chẳng phải Nhẫn-nhục Ba-la-mật, mà tạm gọi là Nhẫn-nhục Ba-la-mật.
Bởi vì sao? Nầy Tu-Bồ-Đề! Như Ta thuở xưa, bị vua Ca-Lợi chặt đứt thân thể. Trong lúc đó, Ta không có tướng ngã, không có tướng nhân, không có tướng chúng-sanh, không có tướng thọ-giả.
Vì sao vậy? Vì thuở xưa, trong lúc thân phận bị chặt rời rã đó, nếu Ta còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng-sanh, tướng thọ-giả, thời lẽ ra Ta khởi lòng hờn-giận.
ĐỨC PHẬT NHIÊN ĐĂNG THỌ KÝ
Nầy Tu-Bồ-Đề, nơi ý của Ông nghĩ thế nào? – Ở nơi chỗ đức Phật Nhiên-Đăng thì Như Lai có pháp chi mà được thành Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác chăng?"
"Bạch đức Thế-Tôn! Không, như chỗ con hiểu nghĩa-lý của lời Phật dạy, thời ở nơi đức Phật Nhiên-Đăng, Đức Thế Tôn đã không có pháp chi mà được thành Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác cả."
Đức Phật dạy rằng: "Đúng thế! Đúng thế! Nầy Tu-Bồ-Đề! Thiệt không có pháp chi đức Như-Lai đặng Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác.
Nầy Tu-Bồ-Đề! Nếu còn có pháp nào mà đức Như-Lai được Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, thời đức Phật Nhiên-Đăng bèn chẳng thọ-ký cho Ta rằng: "Ông ở đời sau sẽ được thành Phật hiệu là Thích-Ca Mâu-Ni."
KINH KIM CANG
BÁT NHÃ BA LA MẬT
VUA CA LỢI và TIÊN NHẪN NHỤC
(Kinh Pháp Hoa Lược Giảng
Hòa Thượng Tuyên Hóa)
Vua Ca Lợi này là ai? Chính là Tôn giả A Nhã Kiều Trần Như.
Vào thời quá khứ, có một hôm vua Ca Lợi dẫn theo một nhóm cung nữ lên núi đi săn—vây bắt một số động vật như hoẵng, nai, hươu. Vào trong núi, số cung nữ này vốn từ xưa đến nay toàn ở trong thâm cung giống như ở tù vậy, không hề được ra ngoài; lần này được sổ lồng, có thể nhìn ngắm được trời mây. Ố! Nhìn quan cảnh núi rừng sao mà thoáng đãng, có núi, có nước, cây cỏ đâm chồi nẩy lộc, nước suối nhẹ nhàng êm trôi; trong hoàn cảnh như thế làm cho lòng người vô cùng hoan hỷ. Phong cảnh núi rừng xinh đẹp hùng vĩ, chuyến đi này thật không thể dùng lời tả xiết, các cung nữ mải mê chạy đi thăm thú khắp nơi. Bọn họ nhìn thấy trong một hang núi có một cụ già, lớp bụi đất bám trên thân người này dày không biết bao nhiêu mà kể, tóc dài đến nổi bện thành một cục rối sù sì. Những cung nữ này khi nhìn thấy một người như thế ở phía trước đều không dám tiến lên, bọn họ cho rằng trong hang núi này có một con yêu quái; sau đó nhìn kỹ lại, ồ! Thì ra là một cụ già, một cụ già rất kỳ quái!
Đó là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tu hạnh bồ tát đã làm một vị tiên tu hạnh nhẫn nhục, Ngài cũng rất ít khi gặp người khác, nên lúc bấy giờ nhìn thấy nhiều cung nữ đến thế, Ngài cũng muốn hóa độ nhóm cung nữ này, nên lên tiếng: “Ây! Các cô không nên sợ tôi! Tôi không ăn thịt các cô đâu! Tôi không biết ăn thịt người, tôi cũng là người mà.”
Các cung nữ này vừa nghe, vui mừng: Ồ! Cụ già đã nói chuyện rồi! Bèn vây quanh lại hỏi: “Cụ ngồi ở đây làm gì? Cụ ở nơi đây có cơm ăn không? Quần áo của cụ đã rách nát hết rồi! Cụ đi được không? Tại sao cụ lại ngồi mãi ở đây? … ”
Tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chính là vị tiên Nhẫn Nhục này, bảo các cung nữ rằng: “Tôi ở đây tu đạo, chuyên tu về hạnh nhẫn nhục!” Các cung nữ liền hỏi: “Nhẫn nhục? Nhẫn nhục là cái gì?” Nghe đến chữ “nhẫn nhục” bọn họ không hiểu. Tiên nhân Nhẫn Nhục liền giải thích: “Nhẫn nhục có nghĩa là người ta có đối xử tệ với mình, mình đều không được nổi sân, xem như không hề xảy ra việc ấy.” Sau đó, Tiên nhân giảng cho các cung nữ này nghe về pháp môn “nhẫn nhục”.
Giảng thuyết một hồi, người nói cũng sẵn lòng nói, người nghe cũng sẵn lòng nghe; vì các cung nữ này từ xưa đến giờ chưa từng nghe được diệu pháp như vậy. Lần này người nghe cũng nhập tâm, người nói cũng định tâm; xung quanh có xảy ra động tĩnh gì, tất cả đều không hay biết. Giống như chúng ta hiện nay, nếu như quý vị là người thật tâm ở đây nghe kinh thì dù bên ngoài có xảy ra chuyện gì, quý vị cũng không nghe thấy; còn nếu như quý vị là người không thật tâm nghe kinh thì ở ngoài phố có những khách du lịch nào, hoặc giả hiện giờ ở tại “Kim Sơn Thời Báo” giảng về nguồn gốc của Kim Sơn Thời Báo ra sao thì quý vị đều nghe biết hết. Nếu như quý vị nghe kinh bằng tất cả tấm lòng thì bên ngoài có âm thanh gì cũng đều không nghe thấy.
Vị tiên nhân Nhẫn Nhục này giảng cho các cung nữ nghe pháp môn “nhẫn nhục” khiến cho tất cả đều nhập vào định; vào lúc này vua Ca Lợi từ xa đi tới, đến thăm các cung nữ. Bình thường vua hay đùa nghịch với các cung nữ đã quen, lần này cũng vậy, Ngài đi nhè nhẹ, chầm chậm không để cho các cung nữ nhìn thấy; các cung nữ cũng đang nghe kinh một cách xuất thần, Tiên nhân Nhẫn Nhục cũng đang giảng một cách xuất thần, tất cả đều không hay biết đến những gì xảy ra xung quanh.
Vua Ca Lợi đi nhẹ nhẹ đến gần phía trước xem, Ồ! Thì ra có một cụ già! Các cung nữ của vua đều đang quây quanh cụ già nghe nói chuyện. Thế là vua liền khởi sanh tâm đố kỵ nghĩ “Các cung nữ này đều là những người nữ nhân của mình, bây giờ lại bị một cụ già như ông ấy mê hoặc, tất cả đều tỏ ra thích thú ông ấy!” Nghĩ như thế vua liền cất tiếng hỏi: “Nhà ngươi đang giảng gì vậy?” Tiên nhân Nhẫn Nhục nghe có người hỏi như thế, ngước lên nhìn, thì ra là một vị hoàng đế. Tiên nhân đáp: “Bần đạo đang giảng cho các cung nữ nghe về pháp môn 'nhẫn nhục'!”
Vua hỏi: “Nhẫn nhục? Sao gọi là “nhẫn nhục””? Nhà ngươi có thể nhẫn được không? Chỉ dựa vào tấm thân già nua này, ngươi có thể nhẫn được không? Tiên nhân Nhẫn Nhục trả lời: “Bần đạo có thể nhẫn được!” Vua Ca Lợi hỏi lại: “Ngươi có thể nhẫn được à? Bây giờ ta muốn chứng thực lời nói của ngươi! Thử nghiệm xem nhà ngươi có thể nhẫn được không? Theo cách nhẫn nhục của ngươi thì dù có đau đớn gì nhà ngươi cũng có thể nhẫn được phải không?” Vị tiên trả lời: “Dạ phải!”
“Thế thì đầu tiên ta sẽ dùng kiếm báu của mình cắt cánh tay của ngươi, xem ngươi phản ứng như thế nào?” Tiên nhân trả lời: “Vâng, xin Ngài cứ thử!” Thế là, vút, vua Ca Lợi rút kiếm báu đeo bên mình ra; thanh bảo kiếm của vua có thể chẻ vàng cắt ngọc, vô cùng sắc bén, thanh kiếm báu vừa chạm vào tay Tiên nhân, cánh tay liền bị cắt lìa. Vua Ca Lợi hỏi: “Ngươi có đau không?” Tiên nhân Nhẫn Nhục đáp: “Không đau!” Vua tiếp: “Tâm ngươi có khởi lên sân hận không? Ngươi có oán hận ta không?” Tiên nhân đáp: “Không oán hận!” “Ngươi thật không oán hận? Tốt! Còn lại một cánh tay, ta cũng sẽ cắt nốt! Một cánh tay, ngươi đương nhiên không oán hận, thử hai cánh tay xem!” Thế là vua chém đứt luôn cánh tay còn lại. “Ngươi có đau không?”
Tiên nhân Nhẫn Nhục đáp: “Không đau!” “Tâm ngươi có oán hận ta không?” Tiên nhân đáp: “Không oán hận!” “Thế có gì chứng minh không? Ngươi nói ngươi không oán hận ta, nhất định là ngươi nói dối, khoác lát! Hừ! Há lại có đạo lý này! Ta chặt tay của ngươi, ngươi lại không oán hận ta? Trên đời này không có loại người như vậy! Ta không tin! Ta cắt thêm một cái chân của ngươi, xem ngươi có oán hận hay không? Ta vốn muốn ngươi nói lời chân thật! Ngươi lại nói dối với ta, ta không thể tha thứ cho ngươi được!” Nói xong, liền vung kiếm chém lìa một chân của Tiên nhân.
Quý vị xem! Hai tay và một chân của người ta đã bị cắt, chỉ còn lại một chân. A! Nếu là người bình thường sẽ rất đau khổ, nước mắt tuôn tràn như suối chảy; nhưng lúc này vị Tiên Nhẫn Nhục không có tâm trạng như vậy. Vua Ca Lợi lại hỏi Tiên nhân: “Bây giờ ngươi có đau không?”
Tiên nhân đáp: “Không đau! Việc này không đáng là gì!” “Ồ? Không đáng à? Tâm ngươi có hận ta không?” Tiên nhân đáp: “Bần đạo không hận Ngài!” “Sao? Thế thì tốt! Hai tay của ngươi đã không còn, chân chỉ còn lại một cái. Một chân cũng không làm được gì, không thể đi đứng, ta sẽ hoàn thành tâm hạnh nhẫn nhục không đau khổ cho ngươi bằng cách chặt đứt luôn cả chân còn lại của ngươi!” Thế là vua chém lìa luôn cả chân kia và hỏi Tiên nhân: “ Ngươi có đau không? Bây giờ hai tay và hai chân của ngươi đã không còn, ta xem ngươi còn làm thế nào được? Bây giờ ngươi có đau không? Phải nói lời chân thật! Nếu ngươi nói thật, sẽ không có việc gì; nếu nói dối, ta vẫn phải thử nghiệm tiếp!”
Tiên nhân Nhẫn Nhục trả lời: “Ồ! Bây giờ bần đạo vẫn cảm thấy không đau!” “Thế tâm ngươi có oán hận ta không?”, vua Ca Lợi hỏi. Tiên nhân vẫn từ tốn: “Bần đạo không oán hận Ngài!” Vua không tin “Ngươi ngoài miệng nói không oán ta, vì ta là một vị hoàng đế nên ngươi không dám oán, ngươi dám giận mà không dám nói, cho nên mới gắng chịu đựng đau đớn, cho nên phải nói dối mà không chịu nói thật, có phải như vậy không?” Tiên nhân Nhẫn Nhục vẫn trước sau như một: “Dạ, không phải! Nếu như bần đạo không có tâm oán hận bệ hạ thì xin cho tay chân của bần đạo được mọc dài ra; còn như bần đạo có tâm oán hận Ngài thì xin cho tay chân của bần đạo không thể trở lại như xưa.”
Tiên nhân vừa dứt lời, tay và chân quả nhiên mọc trở lại, như chưa hề bị chặt đứt. Lúc bấy giờ tất cả hộ pháp thiện thần đều phẫn nộ, từ trên không trung giáng mưa bão xuống, đánh vua Ca Lợi. Bấy giờ Tiên nhân Nhẫn Nhục xin với các vị hộ pháp thiện thần rằng: “Chư vị không nên trách phạt vua, vua chỉ thử bần đạo, giúp thành tựu đạo nghiệp cho bần đạo. Trong cùng tận những kiếp mai sau, nếu được thành Phật, trước tiên bần đạo sẽ độ cho vua cũng được thành Phật; bần đạo sẽ độ vua trước, vua sẽ được khai ngộ đầu tiên.”
Vua Ca Lợi kiếp trước nay chính là Tôn giả A Nhã Kiều Trần Như, kiếp trước Tôn giả đã không khách sáo đối với Phật như thế, nên sau khi thành đạo, Phật độ cho Tôn giả khai ngộ trước. Ngay cái tên “A Nhã” của Tôn giả dịch là “giải bổn tế”, hay còn gọi là “tối sơ giải”, nghĩa là được “khai ngộ đầu tiên” vậy.
CHÁNH VĂN :
Đốn
giác liễu Như Lai thiền,
Lục độ vạn hạnh thể trung viên.
Mộng lý minh minh hữu lục thú,
Giác hậu không không vô đại thiên.
GIẢNG:
Đốn giác liễu Như lai thiền, là
chóng giác ngộ được Như Lai thiền. Như Lai thiền là Thiền tông đó. Thiền tông mình
tu thẳng. Tôi nói tu thẳng để cho quý vị
nhớ cái ý. Lúc nào đó tôi có GIẢNG : một bài đề tựa là “Một phương thuốc
ngừa được cả trăm thứ bệnh”. Bởi vì thường thường đây là tôi nói xa cho quý vị hiểu một chút, thường thường chúng ta tu nếu
nói tu thiền thì người nào bệnh tham ái nhiều trong kinh dạy mình phải quán bất
tịnh. Quán chừng nào mình chán mình sợ cái thân này thì đó là thành công, thành
công rồi phải quán tịnh nữa. Người nào nóng giận nhiều Phật dạy phải tu hạnh nhẫn
nhục. Người nào hay tham lam nhiều thì Phật dạy tu hạnh bố thí để trừ nó, góp
vô bây giờ mình buông ra mình cho để trừ. Như vậy những hạnh đó, từng hạnh từng
hạnh để dẹp tật xấu của mình.
Nhưng mà tu Thiền này niệm khởi dấy lên mình biết nó hư giả
không theo. Không có niệm dấy lên thì quý vị
có tham sân si không? Rồi có đủ thứ, nào ngã mạn, nào đủ thứ xấu không?
Như vậy chỉ có một cách phản quan lại thấy niệm khởi là hư giả, ngay chỗ đó
mình buông mình bỏ thì tất cả cái khác nó không có sanh. Đó là một phương thuốc
ngừa tất cả bệnh hay trị tất cả bệnh. Như vậy thì có nhanh không. Chớ bây giờ để
khởi nghĩ, nghĩ về người rồi mình khởi ra tham lam này kia rồi sau mình mới trừ
thì lâu quá, xa xôi quá. Cho nên đây là phương pháp đi thẳng nên thường gọi là
trực chỉ đó, chỉ thẳng để mà ứng dụng tu. Vì vậy gọi đó là Như Lai thiền.
Nếu mình giác ngộ được Như lai thiền thì Lục độ vạn hạnh thể trung viên. Trong đó nào là lục độ, nào là vạn
hạnh, trong cái thể đó nó tròn đủ hết, tròn đủ chớ không có thiếu
Mộng lý minh minh hữu lục thú, Trong
giấc mộng thì mờ mờ nó có sáu đường. Lục thú là sáu cõi.
Giác hậu không không vô đại thiên. Mình
giác ngộ rồi thì không ngơ, không còn cả đại thiên sa giới nữa, chớ đừng nói lục
thú.
Như vậy ở đây Ngài muốn nhắn nhủ chúng ta rằng, người tu thấu suốt
được lý Như Lai thiền, ứng dụng được lý Như Lai thiền thì trong đó đủ cả lục độ,
vạn hạnh hết. Nói như vậy là sao? Thí dụ như bây giờ tôi tu tôi biết các niệm
khởi là hư dối. Nó là hư dối tôi không theo nó. Như vậy thì tôi có làm gì bố
thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục gì đâu mà lục độ. Nhưng mà tôi không có dấy
niệm, không có tâm so đo nghĩ tưởng, vừa thấy người đó đói mà tôi có ổ bánh mì
liền móc cho liền. Tôi không nghĩ gì hết nhưng mà lòng thương nó sẳn sàng có,
chớ không phải đợi nghĩ mới có. Rồi tôi không nghĩ gì hết mà thấy người đó họ
khổ tôi liền an ủi họ. Như vậy thì đạo lý nó ở sẳn trong Như Lai thiền này. Tâm
mình được an, được thanh tịnh thì mọi hành động đều là tốt, đều là trong sạch.
Vì vậy mà đủ cả lục độ vạnh hạnh. Chừng đó mình mới thấy sáu đường là địa ngục,
ngạ quỹ, súc sanh, nhơn, a tu la, và cõi trời, sáu đường đó chỉ là giấc mơ
thôi, chớ nó không có thật. Vì vậy mà mình sau khi được giác ngộ rồi thì cả đại
thiên sa giới cũng không còn nữa. Bởi vì trong nhà Phật nói các cõi ở trong bầu
hư không này nó vô số, dùng từ là tam thiên đại thiên thế giới đó nghĩa là nhiều
vô kể. Vậy khi mình giác ngộ rồi tất cả thế giới cũng là không thật chớ đừng
nói là lục thú không thật thôi. Đó là ý hết sức là rõ.
Ngài muốn chỉ, muốn hướng dẫn cho chúng ta tu, tu về Như Lai thiền
thì tất cả hạnh đầy đủ trong đó. Chừng đó chúng ta mới thấy rõ sáu đường và tất
cả cõi trong thế gian này đều là hư ảo không thật thì có cái gì đâu mà mắc kẹt.
Đó là một đoạn. Mấy chỗ này quý vị nghe đừng có vội sợ nghe.
Điểm thứ nhứt là Giác Ngộ Tâm. Chúng sanh thường chấp sắc thân này là ta, tâm thức có hiểu
biết, có buồn giận thương vui là ta. Nhưng thật ra, sắc thân này giả dối, ngày
kia khi chết đi nó sẽ tan về với đất bụi, nên thân tứ đại không phải là ta. Tâm
thức cũng thế, nó chỉ là thể tổng hợp về cái biết của sáu trần là: sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp, như một người trước kia dốt, nay theo học chữ Việt, tiếng
Anh, khi học thành, có cái biết về chữ Việt, tiếng Anh. Lại như một kẻ chưa
biết Ba Lê, sau một dịp sang Pháp du ngoạn, thu thập hình ảnh của thành phố ấy
vào tâm. Khi trở về bản xứ có ai nói đến Ba Lê, nơi tâm thức liền hiện rõ quang
cảnh của đô thị ấy. Cái biết đó trước kia không, khi lịch cảnh thu nhận vào nên
tạm có, sau bỏ lãng không nghĩ đến, lần lần nó sẽ phai lạt đến tan mất hẳn, trở
về không. Cái biết của ta khi có khi không, hình ảnh này tiêu, hình ảnh khác
hiện, tùy theo trần cảnh thay đổi luôn luôn, hư giả không thật, nên chẳng phải
là ta. Cổ đức đã bảo: "Thân như bọt tụ, tâm như gió. Huyễn hiện vô căn,
không tánh thật." Nếu giác ngộ thân tâm như huyễn, không chấp trước, lần
lần sẽ đi vào cảnh giới "nhơn không" chẳng còn ngã tướng. Cái ta của
ta đã không, thì cái ta của người khác cũng không, nên không có nhơn tướng. Cái
ta của mình và người đã không, tất cái ta của vô lượng chúng sanh cũng không,
nên không có chúng sanh tướng. Cái ta đã không, nên không có bản ngã bền lâu,
không thật có ai chứng đắc, cho đến cảnh chứng thường trụ vĩnh cữu của Niết Bàn
cũng không, nên không có thọ giả tướng. Đây cần nên nhận rõ, chẳng phải không có thật thể chân ngã của
tánh Chân Như thường trụ, nhưng vì thánh giả không chấp trước, nên thể ấy thành
không.
Nhơn
đã không, thì Pháp cũng không, vì sự cảnh luôn luôn đổi thay sanh diệt, không
có tự thể. Đây lại cần nên nhận rõ chẳng phải các pháp khi hoại diệt mới thành
không, mà vì nó hư huyễn, nên đương thể chính là không, cả Nhơn cũng thế. Cho
nên cổ đức đã bảo: "Cần chi đợi hoa rụng. Mới biết sắc là không" (Hà
tu đãi hoa lạc. Nhiên hậu thỉ tri không).
Hành
giả khi đã giác ngộ Nhơn và Pháp đều không, thì giữ lòng thanh tịnh trong sáng
không chấp trước mà niệm Phật. Dùng lòng giác ngộ như thế mà hành đạo, mới gọi
là phát Bồ Đề tâm.
Niệm Phật Thập Yếu
CHÁNH VĂN :
Vô tội phước, vô tổn ích,
Tịch diệt tánh trung mạc vấn mịch.
Tỷ lai trần kính vị tằng ma,
Kim nhật phân minh tu phẫu tích.
GIẢNG:
Vô tội phước, vô tổn ích, chỗ
này có nhiều người nói mình tu mà không có tội, không có phước thì cái đó là
trái đạo lý. Nhưng mà ở đây nói không tội không phước, và không tổn, không có lợi
ích. Tại sao? Đứng về tánh chân thật đó nó không có sanh diệt, không có sanh diệt
thì làm sao có tội, làm sao có phước. Nếu mình đi trong vòng luân hồi sanh diệt
này thì có tội có phước không? Tội thật phước thật. Nhưng mà bước qua chỗ tánh
chân thật đó thì nó không có tội, không có phước. Bởi vì nó đâu còn sanh diệt,
nó cũng không tổn hại mà cũng không có lợi ích.
Tịch diệt tánh trung mạc vấn mịch. Là
tánh tịch diệt của mình tánh lặng lẻ của mình không có nên tìm hỏi cái gì hết,
nó là như nhiên sẳn như vậy chớ không phải do hình ảnh nào hay là những phương
tiện nào tụ họp.
Tỷ lai trần kính vị tằng ma, “Tỷ” là xưa, “lai” là nay. Từ xưa tới giờ cái gương dính bụi chúng
ta chưa từng chùi. Nghĩa là cái gương chân thật của mình hay là cái gương tâm
sáng của mình từ bao giờ chúng ta không có lau chùi bị bụi nó phủ.
Kim nhật phân minh tu phẫu tích. Là
ngày nay rõ ràng phân biệt chia chẻ cho mình hiểu, mình thấu được.
Như vậy, ý Ngài muốn nói rằng trên phương diện chân thật, ở đây
gọi là tánh tịch diệt, thì nó không có tội, không có phước, không có lợi ích,
không có tổn hại. Nhưng mà chúng ta cái gương trong sáng của mình để bụi đóng
nhiều quá rồi, phủ kín từ bao giờ rồi, chưa từng chùi. Cho nên hôm nay cần phải
giải thích, cần phân biệt cho quý vị hiểu
rõ, để quý vị ráng lau chùi gương của
mình. Gương quý vị đóng chừng bao nhiêu
lớp bụi? Chắc nó dày cả tấc, cho nên nó tối mò. Ngồi lại cái bao nhiêu thứ bụi
nó phủ lên, phủ lên không. Nên tội lắm quý vị
mới tập ngồi thiền, ngồi một giờ hơn một giờ ra hỏi có yên được phút nào
không thì đều lắc đầu không có yên. Tại vì nó phủ lâu quá rồi mới chùi sơ sơ
làm sao mà nó sáng được. Cho nên phải chịu khó, phải nổ lực lau chùi cho nó sạch
rồi tự nó sáng, chừng đó chúng ta khỏi có lo, khỏi có cần tìm kiếm cái gì.
CHÁNH VĂN :
Thùy vô niệm? Thùy vô sanh?
Nhược thực vô sanh vô bất sanh.
Hoán thủ cơ quan mộc nhân vấn:
Cầu Phật thi công tảo vãn thành ?
GIẢNG:
Mấy câu này nghe nó cũng xót xa.
Thùy vô niệm? Thùy vô sanh?
Nhược thực vô sanh vô bất sanh.
Ai mà không niệm, ai mà không sanh. Cái gì không niệm, cái gì
không sanh? Nếu thật sự không sanh tức là không bất sanh là có sanh rồi. Còn
đây là cái không sanh tức có cái sanh ở bên kia đối đải. Đây là vô niệm thì còn
cái có niệm đối đải.
Hoán thủ cơ quan mộc nhân vấn: là gọi
người gổ hỏi thử việc này coi làm sao? Hỏi cái gì?
Cầu Phật thi công tảo vãn thành? Tức
là cầu Phật ra công sớm hay muộn được thành. Nói cách khác tôi cố gắng tu cầu
thành Phật chừng nào được thành? Giờ hỏi người gổ chừng nào nó trả lời?
Bởi vì chúng ta có cái nhìn hơi nông nổi, hơi cạn cợt. Làm cái
gì chúng ta cũng đòi được biết kết quả, tu thì hỏi coi chừng nào thành Phật. Nếu
không dám hỏi thành Phật sợ tội thì hỏi tu chừng nào được định? Bây giờ quý vị hỏi tu chừng nào được định tôi trả lời làm
sao? Tôi trả lời chừng nào hết vọng tưởng thì được định, chớ đâu có nói chừng
nào được. Vì cái đó là việc của mình, mình làm mình biết người ngoài làm sao mà
trả lời. Cho nên, ở đây nói rằng nếu mà hỏi mấy cái đó thì chỉ hỏi người gổ, chớ
hỏi người thật thì họ cũng không làm gì được vì chuyện đó là chuyện của mình.
Vậy chúng ta tu là phải cố gắng dẹp bỏ tâm vọng tưởng điên đảo.
Tâm vọng tưởng điên đảo sạch thì tự chúng ta sáng suốt, chớ khỏi cần cầu thành
Phật mà Phật cũng vẫn đến. Nếu chúng ta không chịu cố gắng, không chịu dẹp bỏ,
không chịu dùng trí tuệ đánh thức mê lầm của mình thì dầu có hỏi một trăm người
cũng không ai đáp được việc đó, vì cái đó là cái của mình.
Hỏi:
Kinh Pháp Bảo Đàn nói: "Không niệm, niệm mới chánh. Có niệm, niệm thành
tà." Như vậy, niệm Phật có phải là tà vọng chăng?
- Đáp: Về đạo lý vô sanh
vô niệm, đoạn trước đã có nói. Nơi đây xin đáp một cách thẳng tắt: - Chẳng phải
không niệm Phật, không tụng kinh, gọi là vô niệm. Mà thường hằng niệm Phật tụng
kinh, nhưng tâm địa rỗng không, chẳng chấp thấy mình có niệm tụng, mới gọi là
vô niệm. Trái lại, dù ngồi an tĩnh lòng không suy nghĩ chi cả, mà còn cảm thấy
biết cho mình, có sự ngồi thiền, vẫn gọi là "có niệm". Nếu nghĩ rằng
"không niệm" là chẳng niệm Phật, tụng kinh, thuyết pháp, không có sự
suy tư, thì thành ra gỗ đá; muốn tránh lỗi “chấp Có”, lại lạc vào lỗi “chấp
Không”. Thế thì đã trái với ý kinh chỉ dạy. Cho nên đức Lục Tổ mới nói tiếp:
"Có, Không đều chẳng tưởng. Ngồi được bạch ngưu xa". Bậc cao đức bên
Tịnh Độ khi xưa, tuy hằng niệm Phật cầu vãng sanh, song chẳng chấp tướng niệm
Phật cầu sanh, nên đã có lời kệ:
Có niệm đồng không niệm,
Không sanh tức là sanh,
Chẳng phiền dời nửa bước.
Thân đến Giác Vương thành
Nhưng, trên đây là nói
tác phong tu niệm của bậc thượng căn. Với hàng căn cơ trung, hạ, cứ nên gắng
công niệm Phật cho nhiều, dù còn chấp thấy mình có niệm có tha thiết cầu sanh,
cũng là điều tốt. Bởi nếu được như thế, khi mạng chung tất vãng sanh về Tây
Phương, chừng ấy kết cuộc cũng sẽ chứng vào cảnh giới vô niệm vô sanh, đâu có
điều đáng lo ngại! Bằng chẳng lượng sức mình, ưa cầu cao thắng, nê chấp theo
kinh văn trên, đối với đạo lý vô niệm chưa thể làm nổi, với sự thấy có niệm
Phật có cầu sanh lại không muốn thật hành, kết cuộc cả hai đều hỏng, vẫn chỉ là
phàm phu trong vòng luân hồi thống khổ mà thôi!
Hỏi: Thể của pháp là không, xưa nay vẫn vô sanh và bình đẳng vắng
lặng. Nếu bỏ Ta Bà cầu về Cực Lạc, há chẳng là trái lý ư? Lại trong Kinh nói:
“Muốn cầu về Cực Lạc, trước phải tịnh tâm mình; tâm mình thanh tịnh, cõi Phật
mới thanh tịnh”. Người cầu sanh Cực Lạc, cũng chẳng là trái lý này?
-Đáp: Vấn đề ấy có hai nghĩa. Xin phân làm tổng đáp
và biệt đáp.
Về phần tổng đáp, nếu ông cho rằng cầu về Cực Lạc tức
là bỏ đây tìm kia, không hợp với lý bình đẳng như như. Còn ông chấp Ta Bà không
cầu về Cực Lạc, há lại không bị lỗi bỏ kia chấp đây sao? Nếu ông bảo: “Tôi
không cầu kia cũng không chấp đây” thì lại mắc lỗi đoạn diệt. Cho nên Kinh Kim
Cang Bát Nhã nói: “Tu Bồ Đề! Ông đừng nghĩ rằng nói phát tâm Vô Thượng Bồ Đề là
đoạn diệt hết tướng của các pháp. Tại sao thế? Vì phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, đối
với các pháp không nói tướng đoạn diệt”.
Về phần biệt đáp, như ông đã gạn về lý vô sanh và tâm
tịnh, tôi xin giải thích. Vô sanh cũng chính là lý bất sanh bất diệt. Bất sanh
là các pháp giả hợp của sanh duyên không tự tánh, nên không thật có sanh thể và
thời gian sanh. Xét ra không phải thật từ đâu mà đến, nên gọi là bất sanh. Bất
diệt là khi các pháp hoại diệt cũng không tự tánh, nó không bảo rằng mình hoại
diệt. Vì nó không thật có chỗ đi về nên gọi là bất diệt. Cho nên lý vô sanh hay
bất sanh diệt không phải ngoài các pháp sanh diệt mà có. Vì thế chẳng phải
không cầu sanh Cực Lạc mà gọi là vô sanh. Trung Quán Luận nói: “Các pháp nhân
duyên sanh, ta nói chính là không, đó gọi là giả danh, cũng là nghĩa Trung
đạo”. Lại nói: “Các pháp không tự sanh, không từ nơi cái khác mà sanh, không
phải cộng sanh, cũng không phải vô nhân, nên gọi là vô sanh”. Kinh Duy Ma nói:
“Tuy biết các cõi Phật, cùng với hữu tình không, mà thường tu Tịnh Độ, để giáo
hóa quần sanh”. Lại nói: “Ví như có người tạo lập cung thất, nếu cất ở chỗ đất
trống thì tùy ý không ngại. Nếu muốn xây giữa hư không, tất không thể thành.
Chư Phật thuyết pháp thường nương theo nhị đế, không phải hoại giả danh mà nói
thật tướng của các pháp”. Cho nên người trí tuy siêng cần cầu sanh Cực Lạc, mà
rõ sanh thể không thật có. Đây mới là chân vô sanh và cũng là nghĩa tâm tịnh
cõi Phật thanh tịnh. Trái lại kẻ ngu bị cái sanh ràng buộc, nghe sanh liền nghĩ
là sanh, nghe nói vô sanh lại chấp là không có sanh về nơi nào cả, đâu biết
rằng sanh chính là vô sanh, vô sanh há lại ngại vì sanh? Vì không hiểu lẽ ấy,
họ sanh lòng tranh chấp thị phi khinh chê người cầu sanh Cực lạc, thật rất sai
lầm! Đây chính là kẻ tội nhơn báng pháp, hạng tà kiến ngoại đạo vậy.
Niệm Phật Thập Yếu
Tịnh Độ THẬP NGHI Luận của ngài Trí Giả
CHÁNH VĂN :
Phóng tứ đại, mạc bả tróc,
Tịch diệt tánh trung tùy ẩm trác.
Chư hành vô thường nhất thiết không,
Tức thị Như Lai đại viên giác.
GIẢNG:
Chỗ này Ngài dạy mình tu để cho chóng đạt được kết quả. Phóng tứ
đại, mạc bả tróc, Phóng tứ đại là buông thân tứ đại này, mạc bả tróc là chớ có nắm
bắt nó. Chỉ một câu này quý vị thấy dễ
làm hay khó làm? Coi như buông xả thân tứ đại hết quan trọng, rồi đừng có nắm đừng
có giữ nó, thì:
Tịch diệt tánh trung tùy ẩm trác. Tức
là trong cái tánh tịch diệt của mình tùy ăn, tùy uống chớ không có gì hết. Chỉ
cần buông thân tứ đại đừng nắm bắt nó thì trong tánh tịch diệt tùy mà ứng dụng
không có gì lo sợ hết.
Mình bây giờ tu nó cay đắng là tại vì mình trọng cái thân quá chừng.
Quý vị có người nào coi thường thân
không? Ai cũng quí nó như vàng như ngọc. Mà quí nó như vàng như ngọc cho nên chạm
đụng nó một cái thì tóe lữa liền. Nên tham sân si mà tham cái thân, giữ cái
thân là cái nguy số một. Mình tham giữ cái thân thì mọi phiền não khác theo đó
mà nó dấy động lên. Bây giờ buông nó đi, không có nắm giữ nó nữa, sống với tánh
tịch diệt sẳn của mình đó, tùy đi đứng nằm ngồi ăn uống một cách tự nhiên bằng
cái tánh lặng lẻ thanh tịnh của mình, thì đó là cái chỗ quan yếu của sự tu.
Chư hành vô thường nhất thiết
không, là tất cả cái hành động, tất cả những cái gì mà chúng ta đã
làm, tất cả những cái đó đều là vô thường. Mà vô thường thì nó thật hay là
không? Bây giờ quý vị thấy ai đó tỏ vẻ mến
thương mình thì đó là cái hạnh người ta mến thương tốt. Nhưng mà hạnh mến
thương đó đang lúc này họ mến thương, mai kia mình có cái gì xấu hơi tệ tệ một
chút thì người ta còn mến thương không? Hết liền. Đừng nói mai kia, như mới giờ
trước mình ăn nói nhỏ nhẹ hòa nhả người ta mến thương. Giờ sau ai lại chọc tức
mình nổi giận la ó om sòm thì người ta còn mến thương không? Như vậy tất cả hạnh
đó đều là vô thường, mà đã là vô thường thì nó không có thật, nên tất cả đều là
không. Thương ghét buồn giận gì..v.v… đều là vô thường, nó không có thật. Bây
giờ giả sử ai đó có cái gì mà họ buồn mình, họ lại chửi vài ba câu. Mình nhớ những
lời chửi là vô thường, tất cả là không, thôi chửi thì chửi vài ba câu rồi đi mất.
Nếu người ta chửi vài ba câu mà nổi nóng mình cự lại cái nó còn, chẳng những nó
còn mà nó còn tăng nữa chớ không có giảm.
Như vậy thì từ cái mê thấy thật cho nên rồi chúng ta cứ tạo nghiệp.
Bây giờ chúng ta tỉnh sáng thấy các hạnh là vô thường, tất cả đều trở về không
thì Tức thị Như Lai đại viên giác là
liền đó chính là đại viên giác của Như Lai. “Tức thị” là liền đó.
Thấy ở trên không chấp cái thân mà mình sống với cái hạnh tịch
diệt. Rồi dưới đây thấy các hạnh vô thường nó là không, thì như vậy là mình
đang sống với đại viên giác của mình, tánh Phật của mình chớ không gì lạ hết.
Vậy chúng ta muốn thấy Phật muốn gần Phật khó hay dễ? Như trở
bàn tay hà. Tại sao như trở bàn tay? Nghĩa là thấy tất cả các pháp là vô thường,
nó là không thật; rồi mình thấy các pháp thường thật; thì hai cái thấy đó đổi
có khó không? Có tốn bao nhiêu công không? Chỉ cần đổi cái thấy cái được hà, mà
không chịu đổi mới lạ vậy chớ. Đổi thì từ mê trở thành giác, không đổi thì cứ
mê mãi mãi.
Như vậy từ thấy các pháp không thật, cho nên chúng ta mới thành
người giác người tỉnh, còn nếu thấy nó thật thì chúng ta cứ trong mê. Cũng như
trong giấc ngủ mà chúng ta thấy cảnh mộng mà còn biết đây là cảnh thật, nhận cảnh
mộng hoặc vui hoặc buồn là thật thì lúc đó tỉnh chưa? Chỉ lúc nào nói à cái này
mộng rồi thì lúc đó mình mới là người tỉnh, mà tỉnh rồi thì cơn mộng hết. Dễ
quá. Bởi vậy cho nên đạo lý chân thật rất là khó hiểu, nhưng hiểu rồi thì thấy
nó không phải là khó, chúng ta có thể làm được chớ không phải không làm được.
CHÁNH VĂN :
Quyết
định thuyết, biểu chân Tăng,
Hữu
nhân bất khẳng nhiệm tình trưng :
Trực
tiệt căn nguyên Phật sở ấn,
Trích
diệt tầm chi ngã bất năng!
GIẢNG:
Đây Ngài nói nghe thật là thiết tha.
Quyết định thuyết, biểu chân Tăng, tức
là quyết định nói để rõ một người tăng chân thật.
Hữu nhân bất khẳng nhiệm tình trưng
: là có người không chấp nhận mặc tình mà hỏi. Nói cách khác tôi
nói thật, tôi nói quyết định như vậy bây giờ các ông không tin thì cứ hỏi.
Trực tiệt căn nguyên Phật sở ấn,
Trích diệt tầm chi ngã bất năng! là chỉ thẳng cái cội nguồn mà Đức
Phật đã ấn chứng, còn vạch lá tìm cành việc đó tôi không có thể làm được.
Ngài nói một cách thiết tha. Bởi vì tôi là người tu, tôi nói quyết
định với quý vị rằng điều đó như vậy là
như vậy, chớ tôi không có thể nào nói khác. Nếu quý vị không bằng lòng thì cứ hỏi. Ở đây tôi chỉ thẳng
cội nguồn mà Đức Phật đã ấn chứng cho các đồ đệ, chớ tôi không nói những phần
chi tiết, những cái nhỏ nhặt để mất thời gian quí báu của quý vị. Đó là tinh thần
của Ngài.
CHÁNH VĂN :
Ma
ni châu, nhân bất thức,
Như
Lai tạng lý thân thâu đắc:
Lục
ban thần dụng không bất không,
Nhất
lỏa viên quang sắc phi sắc.
GIẢNG:
Ma ni châu, nhân bất thức, nghĩa
là mỗi người có hạt châu ma ni tức ma ni châu mà không có tự biết. Hạt châu đó ở
đâu?
Như Lai tạng lý thân thâu đắc: là ở
trong kho Như Lai của mình đó, tự mình nhận ra chớ không ở đâu hết. Nghĩa là mỗi
chúng ta đều có hạt châu ma ni ở sẳn trong kho Như Lai của mình mà mình không
biết nhận. Khi nhận được thì sao?
Lục ban thần dụng không bất không, tức
là sáu thứ thần dụng không mà không phải không.
Nhất lỏa viên quang sắc phi sắc. Là một
đóa trong sáng tròn đầy sắc mà không phải sắc.
Như vậy ở bốn câu này Ngài bảo với chúng ta rằng ở mỗi người đều
có hạt châu ma ni. Vậy thì ở đây ai cũng có hạt châu ma ni hết. Nếu có hạt châu
ma ni thì quý vị giàu hay nghèo? Đâu có
ai mà bần cùng đâu, ai cũng giàu hết. Có hạt châu ma ni, thì Ngài hỏi hạt châu
đó ở chỗ nào? Thì đây ở trong kho Như Lai ngay đó mà lấy chớ không đâu hết.
Mình có kho Như lai này chứa hạt ma ni, thì cứ trong kho Như Lai tàng mình lấy
ra chớ không gì hết. Nếu mình lấy rồi thì sáu thứ thần dụng tức lục thông đó thấy
như nó không mà không phải không, nó có diệu dụng không thể lường. Rồi chỉ một
viên ma ni đó mà nó sáng ngời sắc mà không phải sắc, không phải hình sắc.
Như vậy là Ngài muốn chỉ thẳng cho chúng ta biết ở nơi mỗi người
đã có hòn ngọc quí mà chúng ta phớt lờ bỏ qua rồi phải lang thang khổ sở chịu
nghèo chịu đói. Tại sao? Bởi vì chúng ta quên của báu của mình cho nên rồi phải
nghèo khổ. Nếu quý vị nhớ chắc là hết
nghèo. Hết nghèo phải không? Hết nghèo về trí tuệ chớ không phải hết nghèo về
tiền của. Đừng nghe nói hết nghèo rồi ai cũng nói mình có hạt châu bây giờ cứ
vay tiền đả đời đi, sau chừng nào tôi khui được ra tôi trả. Không phải vậy, mà
mình có hạt châu mà hạt châu đó là của mình chớ không ai lãnh được hết mà mình
chưa khui ra. Bây giờ mình ráng quên hết những cái lặt vặt, những cái tạm bợ ở
ngoài rồi một ngày nào đó hạt châu của mình được hiển hiện, nó sáng ngời cho
mình. Chừng đó mình mới có đầy đủ lục thông, mà lục thông đó có đủ nhưng mà nó
không phải là không mà cũng không phải là có. Tại sao? Vì nó là cái dụng, nó
không phải là cái thật, cái dụng huyền biến chớ không phải là cái thật. Rồi
mình cũng có một viên minh châu sáng, thấy sáng ngời nhưng nó là sắc mà không
phải là sắc. Cái sắc là người ta cứ thấy cái sáng ở bên ngoài, những cái chiếu
soi bên ngoài, đây là cái sáng sẳn ở nơi mình, ở bên trong cho nên không phải ở
đâu mà mình tìm được.
CHÁNH VĂN :
Tịnh
ngũ nhãn, đắc ngũ lực,
Duy
chứng nải tri nan khả trắc.
Kính
lý khán hình kiến bất nan,
Thủy
trung tróc nguyệt tranh nan đắc.
GIẢNG:
Mấy lời dạy này thật là thiết tha. Tịnh ngũ nhãn, đắc ngũ lực, là nếu mình được năm con mắt trong sạch
thì mình cũng được năm cái lực, ngũ căn ngũ lực đó được đầy đủ. Mà cái này Duy chứng nải tri nan khả trắc. Tức là
chỉ người nào chứng được thì người đó biết chớ khó mà lường nổi. Cái đó tu đến
nơi tự chứng tự biết chớ không có thể nào lường được những cái kỳ đặc đó.
Kính lý khán hình kiến bất nan, là
trong cái gương để nhìn hình mình thì thấy không khó.
Thủy trung tróc nguyệt tranh nan đắc. Là
còn trong nước mà nắm bắt cái mặt trăng thì điều đó thật là khó được.
Như vậy mình đưa cái gương để nhìn mặt mình trong gương dễ hay
khó? Nó rất là dễ, cái gương trước mặt thì ảnh mình nó hiện trong gương, chuyện
đó rất là dễ. Chớ còn thấy mặt trăng dưới hồ dưới giếng mình muốn nắm vớt nó
lên dễ hay khó? Như vậy thì cái đó là khó, còn cái kia là dễ. Vậy chúng ta tu ứng
dụng phương tiện để tu hành, như mình ngồi lại mình tu thì khi mình ngồi lại tu
mình thấy được những niệm, những vọng tưởng của mình mình bỏ thì dễ hay khó? Dễ.
Thấy nó biết nó là bóng. Niệm khởi vọng tưởng mình thấy phải bóng không? Nó là
bóng chớ có gì đâu, dấy lên rồi mất, dấy lên rồi mất, nó không có thật. Cho nên
những cái đó là dễ thấy dễ biết. Còn cảnh trần ở ngoài nó không thật giống như
mặt trăng ở đáy giếng, nó không thật mà cứ nắm bắt nó hoài chừng nào bắt được?
Chừng nào nắm được?
Nhưng mà bây giờ thế gian thấy ngược lại nó thật hết trơn, cảnh
trần nó thật, đồng tiền là thật, của cải là thật, cái gì cũng thật hết, mà nói
nó như là mặt trăng ở dưới đáy nước thì không ai tin. Nhưng mà nó thật thì quý
vị nghĩ nếu nó thật thì nó còn mãi,
nhưng nó còn mãi không? Thân mình không thật thì những cái mình được cũng là
không thật. Cái không thật mà mình cứ ngở là thật thì không bao giờ mình tỉnh nổi.
Bởi vậy cái không thật biết rõ là không thật thì đó là người tỉnh.
Như vậy quý vị nghĩ người
thấy cảnh trần không thật và người thấy cảnh trần thật, hai người đó mặt mũi có
đổi khác nhau nhiều ít? Có khác không? Cũng như nhau, bởi vậy trong nhà Phật mới
nói:
Như nhau dọc mũi ngang mày,
Lòng phàm lòng Thánh khác nhau muôn trùng.
Cũng mày ngang mũi dọc ai cũng như ai, nhưng tâm phàm thấy cảnh
gì cũng thiệt cũng mê và tâm Thánh thấy biết nó không thật không dính, thì hai
cái đó nó khác muôn trùng. Như vậy thì phàm và Thánh có thay đổi cái gì không?
Về thân thì không đổi cái gì đổi hết. Người ta cứ lầm mấy ông tu gần thành
Thánh có hào quang đồ đó nghĩa là như vậy mới là Thánh, còn thường thì không ai
Thánh hết. Rồi thấy những người được người ta tán tụng khen ngợi, đạo đức cao
sâu gì gì, lại mình không thấy hào quang, ông này không phải đâu, không phải
Thánh đâu, chờ hào quang thấy mới cho là Thánh. Nhưng không phải. Thánh là tâm
của người ta thấy đúng như thật rồi không vướng, không mắc không bị lôi kéo,
không có bị nhiễm theo. Còn phàm thì thấy những cái giả cho là thật rồi vướng mắc,
rồi dính dấp đủ thứ hết.
Cũng như bây giờ quý vị thấy
chúng ta đi đường có những người ngồi gần mình trên một chiếc xe đò. Thấy người
đó cũng mặt mày như mình nhưng mà ngồi một hồi cái thì ai lơ là cái họ lén họ
móc. Còn người mình thật thà ngồi đó mà mình không móc thì như vậy hai người
cũng như nhau nhưng mà tâm của họ làm sao? Người thấy của người ta mà mình
không có lưu tâm, không có để ý thì mình là người tốt. Còn người thấy mà tìm
cách móc moi là người xấu thôi, nó có khác gì đâu. Lên ngồi thấy giống nhau hệt
ai cũng là người khách như nhau nhưng mà nó khác trong tâm niệm.
Người tu chúng ta cũng vậy, không phải thành Phật là liền có hào
quang sáng rở, mà chỉ dứt được tâm mê lầm. Tâm mê lầm mình dứt được thì đó là
thành bậc giác ngộ. Mà dứt được tâm mê lầm, ai dứt cho mình? Bây giờ quý vị thấy tôi thí dụ thấy tiền, thấy của cải chúng
ta ham. Bây giờ muốn hết cái ham đó ai làm cho mình hết? Nếu mà muốn hết cái
ham thì mình phải tự chừa bỏ, cho đó là cái xấu mình bỏ thì nó hết, chớ đâu có
ai làm cho mình hết được. Như vậy thì cái tu chính là mình chuyển đổi tâm tánh
mình. Mình chuyển đổi được nó thì mình thành người tốt, chuyển đổi được nó cao
thì thành bậc hiền, cao nữa là bậc Thánh, cũng mình làm hết trơn chớ không ai
làm thế cho mình. Việc đó là một lẻ thật. Vậy mà người tu của mình ít chịu tìm
kiếm lẻ thật đó, mà hay tìm ở nơi khác, ở đâu đâu.
CHÁNH VĂN :
Thường
độc hành, thường độc bộ,
Đạt
giả đồng du Niết-bàn lộ.
Điệu
cổ thần thanh phong tự cao,
Mạo
tụy cốt cương nhân bất cố.
GIẢNG :
Ở đây Ngài nói cái tư cách mà để hiển lộ con người đạt đạo.
Thường độc hành, thường độc bộ, tức
là thường đi một mình, thường đứng một mình. Chẳng lẻ hành, rồi bộ cũng là bước
đi. Cho nên đi một mình, đứng một mình.
Đạt giả đồng du Niết-bàn lộ. Tức
người mà thấu suốt rồi thì đồng đi trên con đường Niết-bàn.
Ở đây tôi muốn nói cho quý vị
hiểu kỹ chỗ này. Chúng ta tu là việc của mình chớ không phải của mọi người.
Phải không? Mình bỏ phiền não là việc làm của mình, còn người khác bỏ phiền não
cũng là việc làm của họ, chớ không phải mình bỏ phiền não nhờ người khác mình mới
bỏ được. Như vậy thì việc làm đó là việc làm riêng của mỗi người. Mỗi người làm
được như vậy, phiền não bỏ sạch thì đi đứng nằm ngồi mình cũng thảnh thơi nhẹ
nhàng, tâm không vướng không bận không dính kẹt thì đó là chúng ta cùng đi trên
con đường Niết-bàn.
Như vậy Niết-bàn là gì? Niết-bàn là vô sanh, không còn có cái gì
sanh diệt nữa. Tâm chúng ta biết đi, biết đứng, biết nằm, biết ngồi mà không
dính mắc cái gì thì cái biết đó có sanh có diệt không? Ai cũng có quyền được
cái đó hết. Không phải ngồi thiền chúng ta mới tu, mà chính khi đi đứng nằm ngồi
chúng ta vẫn không để cho cái tâm chạy theo trần cảnh, không để tâm vướng mắc
trần cảnh thì đó là chúng ta đang đi trên con đường Niết-bàn. Quý vị được đi đường Niết-bàn mất bước rồi? Có bước
nào chưa? Chắc chưa. Bây giờ bắt đầu đi, bắt đầu đi từng bước, chớ chẳng lẻ tu
ai cũng mong đạt đến Niết-bàn mà không chịu bước bước nào chừng nào đạt đến?
Nên chúng ta phải bắt đầu từng bước, mỗi người đi độc hành độc bộ. Nhưng mà ai
được như vậy thì cùng đi một con đường như nhau. Đó là đường Niết-bàn.
Điệu cổ thần thanh phong tự cao, là
cái dáng dấp rất là thanh cao, đẹp đẻ.
Mạo tụy cốt cương nhân bất cố. Là
xương cứng thân gầy người không đói.
Ở đây hai câu, câu thứ nhất Điệu cổ thần thanh phong tự cao đối
với tinh thần chúng ta là con người rất là thanh nhã cao thượng, không có cái
gì làm cho chúng ta phải kẹt, làm cho chúng ta phải nhiễm. Nhưng mà xương cứng
mà thân gầy người ta không có đoái tới. Bởi vì thế này người tu không phải trọng
ở cái thân, mà phải trọng ở tinh thần cao thượng, sáng suốt. Do trọng tinh thần
cao thượng sáng suốt nên đối với sự trau giồi ăn mặc..v.v… người ta không có
quan trọng. Thấy con người thì tiều tụy, thân gầy xương cứng không ai thèm quan
tâm tới. Nhưng mà cái tinh thần cao thượng thanh bai của người ta rất là quí
báu.
CHÁNH VĂN :
Cùng
Thích tử, khẩu xưng bần,
Thực
thị thân bần đạo bất bần.
Bần
tắc thân thường phi lũ hạt,
Đạo
tắc tâm tàng vô giá trân.
GIẢNG :
Cùng Thích tử, khẩu xưng bần, là
người Thích Tử gọi là bần tăng. Có ai gọi là phú tăng không? Nói chuyện bần tăng
muốn xin điều đó, muốn nhờ việc đó, thì khẩu xưng bần. Nhưng thật có bần chưa?
Thực thị thân bần đạo bất bần. Là thực
tình thân thì nghèo thật nhưng mà đạo không có nghèo. Nghèo ngoài thân chớ
không nghèo trong đạo hay là ngược lại thân thì đơn giản thiếu thốn, chớ cái đạo
nó dư thừa.
Bần tắc thân thường phi lũ hạt, là
nghèo vì thân thường mặc áo vá, áo nhuộm.
Đạo tắc tâm tàng vô giá trân. Là đạo
thì trong tâm chứa được hạt châu vô giá. Như vậy thì ngoài thấy họ nghèo nhưng
tâm ở trong họ chứa của báu phi thường.
CHÁNH VĂN :
Vô
giá trân, dụng vô tận,
Lợi
vật ứng cơ chung bất tận.
Tam
thân, tứ trí thể trung viên,
Bát
giải, lục thông tâm địa ấn.
GIẢNG:
Nói đoạn sau thì tôi nhắc đoạn trước. Bây giờ Thích tử mình nói
xưng bần mà thân cũng không bần. Đó là cái trái với người xưa một chút. Người
ta nói:
Cùng Thích tử, khẩu xưng bần,
Thực thị thân bần đạo bất bần.
Bây giờ thân không bần, không biết đạo làm sao à? Như vậy thân
phú thì đạo làm sao? Đạo bần. Đó chỗ này tôi xin nhắc để rồi quý vị thấy nghĩa là người thời nay nó hơi có cái lẫn
lộn vậy đó. Cho nên đây là những lời của người xưa nhắc nhở dạy bảo người Thích
tử thì lúc nào cũng thấy mình là nghèo nên xưng là bần tăng. Nhưng thân thì thấy
bần mà đạo thì không bần, còn nếu ngược lại thân không bần thì đạo phải bần. Đó
là điều phải ráng giữ.
Đây câu sau nói:
Vô giá trân, dụng vô tận,
Nói rằng trong cái kho tâm nó chứa đựng được hạt châu vô giá. Bởi
hạt châu vô giá nên dụng hoài không hết.
Lợi vật ứng cơ chung bất tận.
Tam thân, tứ trí thể trung viên,
Bát giải, lục thông tâm địa ấn.
Làm lợi cho vật, làm lợi cho người đều tùy duyên mà không bao giờ
hết. Nào là tam thân, tứ trí trong cái thể đó nó tròn đủ. Nào là bát giải là
bát giải thoát, và lục thần thông ngay trong cái tâm địa đó sẳn sàng không có
thiếu một món nào.
Như vậy người tu tuy rằng thấy nghèo, thấy thân thể bần cùng gầy
ốm nhưng mà đạo người ta vẫn sung mãn. Nhờ đạo sung mãn cho nên cần cái gì, được
cái gì thì nó đều được như ý chớ không có thiếu thốn.
CHÁNH VĂN :
Thượng
sĩ nhất quyết nhất thiết liễu,
Trung
hạ đa văn đa bất tín.
Đản
tự hoài trung giải cấu y,
Thùy
năng hướng ngoại khoa tinh tiến?
GIẢNG :
Thượng sĩ nhất quyết nhất thiết liễu,
Trung hạ đa văn đa bất tín.
Bậc thượng sĩ một khi quyết định là nhất định làm xong. Còn hàng
trung căn hạ căn học nhiều mà cái không tin cũng là nhiều. Trung hạ là bậc
trung bậc hạ căn học nhiều, “đa văn” là học nhiều, mà lòng tin nó không có đủ.
Đản tự hoài trung giải cấu y,
Thùy năng hướng ngoại khoa tinh tiến?
Chúng ta chỉ ngay ở trong lòng mình mà mở bỏ cái y nhớp, chớ ai
hay hướng ra ngoài mà khoe mình tinh tiến. Câu này là câu quở người tu. Mình tu
là nhắm vào trong mình sửa, mình gạn lọc. Chớ không phải tu để cho bà con thấy
thầy đó siêng quá, thầy đó tu cần mẫn quá. Nghĩa là tu là quay lại để gạn lọc
chính mình, chớ không phải để cho người ngoài thấy mình tu hay. Vậy đó mà nhiều
khi ở trong chùa cũng lẫn lộn có cái đó. Khi nào một mình không có lễ lượt thì
thầy ngủ tới sáng. Khi nào Phật tử tới tập tu thì thầy tu cần lắm, siêng lắm.
Đó là không có mở cái cấu y ở trong lòng mình, chỉ mở những cái ở bên ngoài
thôi. Vì vậy cho nên đây ngài bảo ai mà hay hướng ra ngoài khoe tinh tiến, mình
phải mở bỏ cái y nhơ y nhớp của mình bỏ đi, chớ không phải hướng ra ngoài để
khoe với người ta tôi tinh tiến tu hành.
Bậc thượng sĩ một khi quyết định thì tất cả đều được rõ ràng, đều
được kết liểu hết, tức là xong suôi hết. Còn trung căn, hạ căn được nghe nhiều,
càng nghe nhiều thì lòng tin lại càng không được vững, tức càng nghi ngờ. Tại
sao vậy? Bởi vì người tâm trí sáng suốt biết thấy những cái gì đúng cái gì thật
thì nhận liền hiểu liền, còn những bậc trung, bậc ha thì nghe không có phân
biêt đâu là chánh đâu là tà, đâu là phải đâu là quấy, bởi vậy nên càng nghe
càng không tin.
Đản tự hoài trung giải cấu y,
Thùy năng hướng ngoại khoa tinh tiến?
Chúng ta chỉ ngay ở trong tâm mình mà cởi áo nhơ bẩn của mình,
chớ không thể, không nên hướng ra ngoài khoe rằng mình là người tu hay, tu giỏi.
Chữ thùy là hay hướng ra ngoài khoe tu khoe giỏi. Nói như vậy để thấy rằng, ý của
ngài Huyền Giác muốn nhắc chúng ta ai tu hành thì cũng đều nhắm thẳng vào nội
tâm mình. Cái gì xấu, cái gì dỡ cái gì là mê muội chúng ta phải quét phải dọn
cho sạch. Chớ đừng có hình thức bên ngoài khoe mình siêng tu, siêng học, mà rốt
cuộc rồi chỉ là cái dáng để khoe người, chớ không phải là thực tâm tu.
Quý vị thấy ở thế gian cũng có lắm người như vậy, đi ra thì tỏ vẻ nghiêm trang tề chỉnh, mà về nhà thì tha hồ lăng xăng lộn xộn. Như vậy thì tu để cho thiên hạ thấy chớ không phải tu để dẹp cái xấu, cái dỡ của mình. Vì vậy mà ngài dùng câu chỉ hướng vào nội tâm mình mà cởi bỏ cái áo nhơ, tức tâm nhơ bẩn của mình mình phải cởi phải giặt giủ cho sạch, còn chuyện bên ngoài không quan tâm, không quan trọng. Đó để khuyến khích ai là người thực tu nên xét lại mình, trừ bỏ cái nhơ nhớp của mình chớ đừng dùng hình tướng bên ngoài để khoe khoang với thiên hạ tỏ ra ta là tu kỹ, tu hay.
CHÁNH VĂN :
Tòng
tha báng, nhiệm tha phi,
Bả
hỏa thiêu thiên đồ tự bì.
Ngã
văn kháp tự ẩm cam lồ,
Tiêu
dung đốn nhập bất tư nghì.
GIẢNG:
Tòng tha báng, nhiệm tha phi, Tòng
là từ, hay là mặc tình; tha là người; báng là chê bay; nhiệm tha phi là mặc ai
chê bai mình, phỉ báng mình, dèm xiểm mình. Cho nên “Tòng tha báng, nhiệm tha
phi,” nghĩa là dù cho ai chê bai, ai phỉ báng mình, mình cũng không có phiền,
không giận, không buồn. Câu này quý vị và
tăng ni chúng ta dễ chịu chưa? Mặc tình người ta chê bai, người ta phỉ báng
mình, mình cũng không có bận lòng.
Bả hỏa thiêu thiên đồ tự bì. Tức
cũng như người cầm cây đuốc mà đốt hư không vậy đó. Mà đốt chừng nào hư không
cháy? Đốt mãi, đốt suốt đời mà hư không không có cháy. Nếu tâm chúng ta thanh
thản tự tại không cố chấp, buồn giận thương ghét thì mặc người ta chê bai, người
ta dèm xiễm, mình cũng thản nhiên tự tại coi như là hư không, kẻ dèm xiễm như
người cầm đuốc mà đốt hư không vậy đó. Quý vị
tu vậy được chưa? Khó hay dễ? Còn mình không phải hư không mà là đóng bổi,
vừa châm lữa thì nó cháy rần rần liền, nó không chịu yên, chịu lặng. Nên ngài
khuyên chúng ta tu hành mặc người khen chê, dèm xiễm chúng ta vẫn thản nhiên tự
tại, như người cầm lữa mà đốt hư không, không có dính gì, không có làm cho hư
không phải cháy, phải nám gì hết.
Ngã văn kháp tự ẩm cam lồ,
Tiêu dung đốn nhập bất tư nghì.
Ngài nghe người chê bai phỉ báng, giống như được uống nước cam lồ.
Nước cam lồ là nước gì? Nói Bồ-tát Quán Thế Âm cầm bình tịnh thủy, trong chứa
nước cam lồ phải không. Cam là ngọt. Cam lồ là mát ngọt, nước đó vừa mát, mà vừa
ngọt nữa. Như vậy khi chúng ta bị nóng bức mà uống được nước cam lồ thì nó mát
mẻ, nó ngọt ngào, cho nên ngài mới dùng đó để thí dụ.
Dù cho ai chê bai, dù cho ai dèm xiễm đối với tâm ngài nó không
dấy động, giống như người đó đang đốt hư không vậy. Ngài nghe những lời chê
bai, dèm xiễm của người tợ như uống nước cam lồ, mát mẻ ngọt ngào. Quý vị chịu cái đó không? Tu hành phải như vậy. Chớ
còn cái này tu mà ở trong chùa, thỉnh thoảng người này nói qua, người kia nói lại
cái giận; có khi giận bỏ ăn cơm, có khi xách gói đi..v.v… thì cái đó nghe giống
như uống cái gì há? Uống cam lồ hay uống nước muối? Chúng ta phải làm sao mà tu
nghe lời khen chê, phỉ báng, dèm pha chúng ta nghe như uống nước cam lồ. Rồi
Tiêu dung đốn nhập bất tư nghì, nó đều tan biến vào chỗ không nghĩ bàn nổi. Tu
như vậy mới đáng là tu.
Nói ở đây chúng tôi giải thích rộng cho quý vị thấy ý nghĩa này. Bởi vì chúng ta lâu nay, ai
dèm xiễm, ai chê bai chúng ta chịu không nổi. Tại sao chịu không nổi? Vì cho là
nhục nhã mình, cho là làm khinh bỉ mình, đủ thứ hết. Nhưng giờ tôi đặt câu hỏi
lại mình là cái gì? Quý vị chỉ dùm tôi
cái mình coi? Cái gì là mình mà nhục nhã, mà khinh bỉ? Chắc thân này, phải
không. Tứ đại nó đâu biết nhục nhã khinh bỉ gì nếu là thân. Như vậy cái gì? Cái
tâm, mà tâm so sánh hơn thua, phải quấy; mà tâm đó nó thật không? Quý vị tìm coi tâm đang ở đâu? Tâm hay so sánh hơn
thua, phải quấy nó ở chỗ nào, kiếm coi nó đang ở đâu? Kiếm thì nó mất tiêu, mà
khi gặp duyên thì nó dấy, hết duyên thì nó tan thì cái đó thật không? Thí dụ
như bong bóng nước, khi giọt nước mưa ở trên mái nhà rơi xuống nổi bong bóng, thì
bong bóng đó nổi lên một chút thì tan. Rồi giọt mưa khác rơi xuống nổi bong
bóng thì giọt mưa và nước ở dưới nó chạm nhau nổi bong bóng, thì bóng bóng đó
là đợi duyên mà có, có rồi mất.
Cái giận, buồn, vui của mình có đợi duyên mà có không? Có khi
nào không có buồn phiền ai hết mà quý vị
tức giận không? Ai chọc ghẹo gì đó, rồi nghĩ người đó nói hơn, nói thua
hoặc nói nhục nói xấu gì mình rồi mình mới nổi giận lên; khi nổi giận rồi thì một
lát nó hết. Như vậy thì cái giận đó nó đợi duyên mới có, duyên qua rồi thì nó mất,
vậy đâu có thật. Cái không thật mà mình chấp, mình cố giữ thì mình khổ.
Nhiều người ở thế gian này nghe người ta rầy, nghe người ta chê
trách chịu không nổi, nói đó là phạm tới danh dự của tôi rồi đó; rồi phải tìm
cách này, cách nọ để mà hơn thua. Như vậy thì chúng ta đang chạy theo cái gì?
Chúng ta là một đống rác hay là hư không? Là đống rác khô, miễn một tàn lữa nhỏ
xíu cũng cháy được nữa. Nếu tâm chúng ta rỗng rang như hư không, không chấp nê,
không hờn giận gì hết thì ai nói gì thì cứ nói, mình không buồn, không giận.
Như vậy thì quý vị sẽ có lợi ích rất là
lớn.
Như sớm mai, có đức bé hỏi tôi: “Thưa thầy, như bây giờ có người
chọc mình, họ nói những lời nặng mình thì mình làm sao dằn được tâm tức giận được?”
Quý vị nghĩ phải làm sao? Người ta nói nặng
mình thì làm sao dằn tức giận xuống được? Tôi chỉ cần nói: “Tụi con áp dụng lý
nhân quả thì hết giận liền”. Bây giờ thầy hỏi, tụi con có người họ chưa từng
quen biết mà gặp họ chửi vô mặt mình, thì lúc đó có nên giận không, có đáng giận
không? Chắc ai cũng nói đáng giận. Mình không có chọc ghẹo gì mà mình chửi vô mặt
mình thì đáng giận rồi, như vậy thì cái giận nó sẽ khởi liền và mình giận rồi
mình làm dữ lại họ, hai cái đó thành một cuộc ấu đã hung dữ.
Bây giờ người ta chưa từng quen biết mình, mình chưa biết họ, họ
cũng chưa biết mình, mà gặp mình họ chửi vô mặt mình. Giờ đặt câu hỏi có những
người chưa từng biết mình, gặp họ mà trong lòng mình không có giận, không có tức
họ, thì mình có dám chửi họ không? Chắc không ai dám chửi. Nghĩa là không có giận
sẳn thì làm sao mà chửi được. Bây giờ gặp mình mà người ta chửi mình tức là
mình đã làm cái gì cho người ta ức trong lòng lắm rồi, nên gặp mình người ta chửi
được.
Bây giờ người ta chửi mình mà mình chưa biết lý do thì lúc đó phải
nói sao? “Thưa anh, thưa chị, không biết tôi có làm cái gì lầm lỗi mà anh chị
chửi tôi?”. Nói như vậy thì họ kể ra, nếu mà họ nhớ hồi xưa mình làm cái gì lầm
lỗi, bây giờ họ chửi mình thì mình xin lỗi họ; còn họ không nhớ đây tôi chửi lầm,
lầm thì thôi tha thứ cho họ, cái huề. Như vậy lữa sân họ vừa đốt mà gặp mình
nguội lạnh như vậy thì chẳng khác nào đốt với hủ nước hay là với vũng nước nó
không cháy được. Nếu họ vừa chửi mình cái nổi nóng lên cự lại họ, thì hai bên đều
nổi nóng hết, lữa gặp lữa cháy rần rần.
Như vậy biết tu, Phật dạy không có cái quả nào mà chẳng có nhơn,
từ nhơn rồi mới có quả. Bây giờ người ta giận mình, thì biết mình đã làm gì cho
họ tức rồi họ mới giận, người ta thương mình bởi mình làm cái gì đó người ta mến
thương. Bây giờ khi cái đó đến, mình hãy xét lại mình rồi đặt câu hỏi để người
đó phân trần thì hai bên hết giận nhau, ngay đó là hết. Nếu người ta vừa chửi
mình, mình liền nổi nóng chửi lại thì sân hận oán thù chừng nào cạn, chừng nào
hết? Chắc là liên tục luôn đời, tức trận này qua rồi trận khác tới, cứ như vậy.
Quý vị có ai can đảm làm
việc này không? Khi có chửi mình, mình cho là oan ức với mình đó, thì quý vị chịu khó ngồi lại, hay đứng hỏi thưa chị tôi
có làm gì lỗi mà chị chửi tôi, chị nói cho tôi biết để tôi xin lỗi? Người đó
còn giận không? Nếu họ giận họ kể ra cái gì đó, mình xin lỗi cái rồi. Như vậy
người ta là lữa thì mình phải là nước để dập tắt lữa, chớ người ta đã là lữa
mình lữa thêm nữa thì cháy càng nhiều, rồi nó cháy lan tùm lum, không có gì dừng.
Đó là giá trị của sự tu.
Bởi vậy với ngài Huyền Giác, ngài nói rằng nghe người ta kinh
chê, gièm xiễm giống như mình được uống nước cam lồ nó mát ngọt, chớ không có
khó chịu gì hết. Quý vị chịu câu đó
không? Nghe ai mắng chửi nói tôi bửa nay được uống nước cam lồ, mình được vậy
thì tu dễ biết mấy, tu tiến không thể nào mà người ta lường nổi. Rồi tất cả những
cái đó đều tiêu dung hết đến chỗ không thể nghĩ bàn. Như vậy thì quý vị thấy lời khuyên, lời dạy của ngài không phải
khuyên dạy bằng lời, mà chính ngài tự nhận rằng gặp những trường hợp đó ngài xử
sự như vậy, chúng ta nên học và nên bắt chước theo. Đó là tu.
CHÁNH VĂN :
Quán
ác ngôn, thị công đức,
Thử
tắc thành ngô thiện tri thức.
Bất
nhân san báng khởi oan thân,
Hà
biểu vô sanh từ nhẫn lực?
GIẢNG:
Quán ác ngôn, thị công đức,
Ngài bảo rằng mình xét, mình phải quán chiếu lời nói ác của họ
đó, lời nói dữ của họ đó nó là công đức cho mình.
Thử tắc thành ngô thiện tri thức.
Người chửi bới miếng nhiếc mình đó là thiện tri thức của mình.
Quý vị thấy dễ chịu
không? Phải quán xét lời nói dữ, nói ác của người là công đức; người đó là thiện
tri thức của mình. Tôi giải thích rộng hai câu này cho quý vị thấy. Ở thế gian cũng như ở trong chùa, nghe
người ta khen mình tu hay, mình tu giỏi, người tu chân chánh có buồn không? Có
khi mình tu dỡ mà khen mình tu hay có buồn không? Đó là trường hợp đặc biệt,
mình tu dỡ mà khen tu hay, mình có khi nào nói đừng nói bậy à, tôi dỡ lắm, dám
nói vậy không? Hay nói thầy đó tu hay quá, thật là bậc đại tri thức của chúng
con đó; nghe nói vậy thì hài lòng cười, mà thật tình là mình dỡ mình biết. Vậy
thì quý vị nghĩ làm sao?
Người thế gian cũng vậy, gặp cái họ tán mình, họ khen mình thế
này, thế kia, khen đủ thứ. Khi khen như vậy đó mình có giận không? Nói anh này
là người trượng phu, anh này là một bậc danh nhân..v.v… nghe vậy mình có bụm miệng
họ không, anh đừng nói bậy tôi không phải. Dám bụm miệng họ không hay nói để
cho họ nói rồi mình cười cười thôi, không biết trúng hay trật mà đều không có từ
chối.
Ở ngoài cũng vậy, mấy bà mấy cô, có người gặp thì nói đây là những
người thật là tâm đại từ, đại bi, giúp đở mọi người, thương mọi người, không có
bao giờ bỏ ai này kia. Khen như vậy mà sự thật mình chưa làm gì đáng kể hết, mà
người ta khen như vậy thì quý vị nghĩ
làm sao? Giữa mọi người chúng ta có dám nói rằng, thôi chị đừng nói tôi không
có làm việc đó đâu, có dám nói vậy không? Hay để cho họ khen ngon miệng? Chúng
ta tất cả có cái bệnh đó.
Như vậy tất cả lời khen đó, mình chưa xứng đáng mà họ khen mình
là giỏi, là hay, đó là họ khen đúng lẽ thật hay không đúng lẽ thật? Mình biết
không đúng lẽ thật mà mình không can đảm cải chánh cái không đúng đó, thì mình
chấp nhận hay không chấp nhận? Chắc cũng chịu chịu một chút phải không. Như vậy
thì lời khen đó là họ vuốt ve mình để rồi cầu cái này, nhờ cái kia. Khen mình
lòng từ bi, lòng rộng rãi giúp người này, giúp người kia, rồi lâu lâu nói thưa
chị tôi túng quá, chị giúp tôi cái gì đó, hay một số tiền nào đó. Lở người khen
rồi bây giờ không lẽ trở lại eo hẹp với họ sao. Như vậy thì khen đó để làm gì?
Khen cho thỏa mãn cái tâm danh của mình rồi họ lợi dụng.
Trong đạo cũng vậy, họ khen mình có đức có hạnh, mà thật tình đức
hạnh mình chưa xứng đáng mà họ khen quá đó, thì tất nhiên để thử coi tâm ngã mạn
của mình tới đâu. Nghe khen mà chịu tức là mình thích cao, cầu cao. Nghe khen
mà lúc nào cũng từ chối, cho mình là người thua kém, mình là người ít công đức
nhất, không dám bì với các vị lớn, không dám bì với các vị khác, thì ít ai can
đảm nói, mà cứ lặng thinh chịu.
Người khen chúng ta nhiều khi khen để lợi dụng chúng ta, thì có
khen chúng ta để tăng trưởng bản ngã cho chúng ta làm bản ngã tăng lên, thì đó
là thiện tri thức hay ác tri thức? Người làm cho mình tăng trưởng lòng xấu,
tăng trưởng tâm danh lợi, tăng trưởng tâm ngã mạn, thì người đó là người hại
mình chớ đâu phải giúp đở mình. Vì vậy mà người đó không phải là thiện tri thức.
Còn người gặp mình nói ông thầy này tu lơ mơ mà giả bộ đạo mạo,
tu lơ mơ mà giả bộ đạo mạo nghe khó chịu không? Thì thấy hơi khó chịu rồi, đó
cũng như là lời ác làm cho mình khó chịu. Nhưng nghe lời đó rồi tự xét, ờ mình
tu còn dỡ quá ông đó nói đúng đó, thì nhờ lời nói tu lơ mơ đó mà mình cố gắng
tu hơn, tu thêm nữa, đó là thiện tri thức.
Cho nên nói: “Quán ác ngôn thị công đức, thử tắc thành ngô thiện
tri thức”. Vì vậy mà lời ác đó là thiện tri thức của mình. Bây giờ quí Phật tử
học câu này, rồi huynh đệ tới ái mà có câu gì nói nặng nhẹ mình, vổ vai nói ôi
chị là thiện tri thức của tôi rồi. Cứ nói vậy thì người ta hết nói nữa chớ gì.
Ai nói nặng, nói nhẹ mình, ai khinh bỉ mình, mình cứ vổ vai nói chị hay anh là
thiện tri thức của tôi rồi; không có gì buồn phiền hết thì vậy có phải là tu
hay không!
Tu hay là người chê mình, khinh miệt mình mà vẫn coi quí người
đó vì người đó dám chỉ cái dỡ của mình, dám nói cái xấu của mình, thì mình nhờ
vậy mà biết chừa bỏ, không phải thiện tri thức là gì? Còn những người mình
không có mà nói có, nói gạt, nói dối mình để mà tô điểm cho mình tăng bản ngã
lên thì đâu có làm lợi gì cho mình, mà là hại. Cho nên hiểu điều này thì quý vị thấy người tu cần phải nhận kẻ nào can đảm chỉ
lỗi mình là thiện tri thức của mình.
Người trong chùa, cũng như người ở thế gian ai dám chỉ lỗi, dám
nói những cái xấu dỡ của mình thì phải kính trọng họ là thiện tri thức chớ
không nên óan thù, mà người thế gian có mấy người được như vậy? Quý vị kiểm coi có mấy người bị người ta khinh, người
ta nói xấu, nói dỡ mà vui mừng coi như được thiện tri thức nhắc nhở? Mấy người
được vậy, ai được vậy giơ tay tôi coi? Chưa ai dám chịu, cái hay vậy mà sao
không dám chịu há. Cái đó là cái hay mà còn hơi dè dặt, không dám nhận.
Bất nhân san báng khởi oan thân,
Hà biểu vô sanh từ nhẫn lực?
Bất là chẳng. Chẳng nhân cái chê bai mà khởi tâm oán hay là
thân. Tại sao vậy? Vì nếu khởi tâm oán hay là thân thì đâu có đủ (hà biểu là
đâu có đủ) nêu rõ cái sức từ nhẫn vô sanh của mình. Lời này ngài nói rõ ràng rằng,
nếu mình bị người ta chê bai mà khởi tâm giận hờn oán ghét, thì như vậy là mình
không đủ tư cách làm người tu hành nhẫn nhục, tu hành từ bi. Mình từ bi, nhẫn
nhục thì có khen chê mình vẫn tự tại, vẫn thản nhiên. Nếu mình không được tự tại
thản nhiên, thì đâu đủ tư cách tiêu biểu cho người đã có đủ đức nhẫn nhục lớn,
có lòng từ bi lớn và có tâm vô sanh an lạc.
Như vậy người đã được tâm vô sanh và được đức từ bi, nhẫn nhục
thì không còn oán hờn thù hận. Còn oán hờn thù hận thì chưa phải là người có
lòng từ bi, có đức nhẫn nhục và tu hạnh vô sanh. Đối với người tu mà ai đó tự
nói rằng người đó là người thù của tôi, thì chúng ta đánh giá làm sao? Người đó
có phải là từ bi không? Nếu thấy có người thù thì chưa phải từ bi, chưa phải nhẫn
nhục.
Vậy giới tăng ni chúng ta hiện tại có oán thù ai không? Nếu
huynh đệ trong chùa không có oán thù, mà ai đó ở bên ngoài hoặc ở chùa khác họ
làm nhiều cái phiền nhiễu mình, có oán thù họ không? Đừng bao giờ khởi niệm,
người đó là người thù của tôi. Còn nói là người thù của tôi thì chưa phải là từ
bi. Từ bi không có oán thù, nhớ vậy đó. Có lòng từ bi thì không có oán thù, còn
có oán thù thì không phải từ bi. Phật tử chúng ta tu cũng phải như vậy.
Người học đạo Phật, mà đạo Phật là đạo trí tuệ, đạo từ bi, mà
chúng ta thù người này, óan người kia, hờn người nọ thì mình còn từ bi không?
Không còn từ bi thì xứng đáng là Phật tử chưa? Xét vậy thì quí Phật tử tự đánh
giá mình, mình là người xứng đáng đệ tử Phật hay chưa xứng đáng đệ tử Phật? Nếu
chúng ta xứng đáng đệ tử Phật thì ai làm cái gì khó khăn, làm cái gì nhục nhã
chúng ta, chúng ta cũng không thù không oán. Thôi bỏ đi, tha thứ đi, không hờn,
không oán gì hết. Đó là đạo đức chân thật, đạo đức chân thật là ở chỗ này. Chớ
còn nói tôi thù người này quá, tôi hận người kia quá thì chưa phải Phật tử thật,
Phật tử đó hơi giả hiệu một chút, có cái tên, có lá phái, mà chưa thấm ở trong
tâm. Nhớ vậy.
Vậy mà lâu lâu ở trong chùa cũng có hơi rầy rà một chút, có
không? Khi rầy rà thì nói với nhau làm sao? Nói tôi không ưa chị, tôi không muốn
thấy mặt chị, gì gì đó, hay là nói không ưa cô, không muốn thấy mặt cô. Nói như
vậy nghĩa là sao? Có thù oán không? Nếu không thù sao không muốn thấy mặt? Vì vậy
mà chúng ta dè dặt từng lời nói, đạo đức không cho phép chúng ta nói những lời
như vậy. Nghĩa là dù người đó mình dễ mến mấy đi nữa cũng là người tốt, dù người
đó mình dễ ghét mấy đi nữa cũng là người tốt, không có oán, không có ghét ai hết,
thì đó mới thật là người tu.
Ở trong quí sư của mình lâu lâu có oán ghét ai không? Thấy ông
thầy đó dễ ghét quá, có cái đó không? Chúng ta không có ghét người nào, người
nào cũng là huynh đệ với mình hết, đều là đồng đạo mà. Nếu họ làm sai mình
thương để mà nhắc, chớ không phải giận để mà rầy. Hai lời đó, thương nhắc giận
rầy, quý vị thấy khác nhau không? Có người
nói, tại khó dạy quá cho nên giận tôi la nó, đó là để cho nó hết tật xấu, vậy
đó là lòng từ bi, thật từ bi chưa? La riết rồi người ta gọi mình là thầy chùa lữa,
chớ không thành cái gì hết.
Mình từ bi thì nói rầy bằng cái thương, chớ không phải bằng cái
giận. Nhớ như vậy đó thì người tu mới xứng đáng là người tu. Bởi vậy ở đây,
ngài bảo mình không nên bởi những cái chê bai rồi sanh ra có oán, có thân. Nếu
mình có oán, có thân thì không đủ tiêu biểu cho đức từ bi, nhẫn nhục của mình.
Từ bi, nhẫn nhục thì không có sân; mà sân thì tiêu hết từ bi, nhẫn nhục. Quý vị nhớ, nhớ cho thật kỹ.
CHÁNH VĂN :
Tông
diệc thông, thuyết diệc thông,
Định
huệ viên minh bất trệ không.
Phi
đản ngã kim độc đạt liễu,
Hằng
sa chư Phật thể giai đồng.
GIẢNG :
Đây ngài nói cho chúng ta biết chỗ tu mà ngài đã đến.
Tông diệc thông, thuyết diệc thông,
là tông cũng thông, thuyết cũng thông. Tại sao? Trong nhà Phật
nói, tông là chỉ cho thiền nên gọi là thiền tông; thuyết là chỉ cho pháp nên gọi
là thuyết pháp đó. Người tu thông suốt cả thiền, thông suốt cả chánh pháp của
Phật, thông suốt cả hai nên gọi là tông thông thuyết thông.
Mà thông suốt được cả hai như vậy mới có, Định huệ viên minh bất trệ không. Tức là được định và huệ tròn
sáng, không có kẹt, không có mắc ở nơi chỗ không. Không là chấp không hay kẹt
nơi không.
Như vậy người tu trong đạo Phật phải thấu suốt được hai mặt, một
là thấu suốt được thiền, hai là thấu suốt được giáo. Thông suốt giáo lý Phật và
thông suốt đường lối tu thiền thì người như vậy đó mới tròn đầy cái định và cái
huệ. Thiền thì định, pháp thì huệ; hai cái tròn đủ đầy sáng thì mới không mắc kẹt,
dính nơi chấp có chấp không, hay là dính nơi chỗ mà rơi vào không.
Phi đản ngã kim độc đạt liễu,
Hà sa chư Phật thể giai đồng.
Chẳng phải chỉ có mình tôi riêng đạt liễu. Liễu là rồi, là xong
việc này. Mà hà sa chư Phật cái thể cũng đồng như vậy.
Ngài nói rằng chỗ tông thông, thuyết thông này đã được thông suốt
rồi thì định và huệ tròn sáng không mắc kẹt, không có vướng cái gì hết. Không
phải riêng ngài tu được như vậy, mà cả chư Phật đều đồng được như vậy hết.
Vậy nhìn lại người tu hiện giờ tông và thuyết thông chưa? Đó là
một câu hỏi để rồi chúng ta nếu thấy còn thiếu, phải ráng cho đủ. Tông là thiền,
thuyết là giáo, cả hai thiền và giáo phải thông suốt. Cho nên tôi chủ trương
thiền, giáo song hành đó, cả hai cái phải thông suốt hết. Như vậy thì định và
huệ mình mới được tròn sáng. Nếu thông một bên, mà chưa thông bên kia thì chưa
đầy đủ định huệ.
Thời của chúng ta bây giờ có hai cái tệ. Có người tu thì nói tôi
chuyên tu thôi không cần học giáo lý, như chuyên tu thiền là thuộc về tông, mà
không có giáo lý tức là thiếu về thuyết. Hoặc có người chuyên học giáo lý mà
không chịu tu thiền, cứ đem giáo lý nói mà không tu, như vậy thì có huệ mà
không có định. Nếu mình chuyên tu được định thì không có huệ. Như vậy đạo Phật
không cho phép mình nghiêng một bên mà phải có cả định, có cả huệ. Định huệ được
tròn sáng thì mới xứng đáng người tu theo Phật.
Vậy ngài nói tông thông, thuyết thông không phải là việc riêng của
ngài, ngài được; mà hằng sa chư Phật cũng đều như vậy hết, các Ngài cũng đồng
tông thông thuyết thông chớ không có Đức Phật nào mà chỉ có một bên. Cho nên từ
chỗ thấy của ngài Huyền Giác, ngài thấy rõ người tu phải thông suốt về tông là
thiền, và phải thông suốt về giáo lý là kinh. Hai cái đó phải thông suốt đầy đủ,
rồi tu đầy đủ thì chừng đó mới được trí tuệ tròn sáng. Không phải một người như
vậy mà chư Phật từ trước tới giờ thành đạo cũng đều tông thuyết đều thông. Đó
là ngài nói chung để cho tất cả chúng ta hiểu.
Định huệ viên minh bất trệ không.
PHÁP YẾU TU HÀNH
Hòa Thượng Thích Thiền-Tâm
Yếu điểm của đường tu
Gồm hai phần Sự, Lý
Lý tu là sửa tâm
Cho hợp với chân lý
Sự tu chỉnh ba nghiệp
Giúp chứng cảnh chân
như
Sửa tâm là dứt trừ
Nghiệp tham, ái,
nóng, giận
Si mê cùng tật đố
Ngã mạn với kiêu căng
Chớ chạy theo hình thức
Say đắm nẻo lợi danh
Chuộng địa vị, quyền
hành
Khoe thông minh, tài
giỏi
Phải sanh lòng giác
ngộ
Niệm thanh tịnh từ bi
Dõng tiến mà kiên trì
Sáng suốt mà khiêm hạ
Tự nghĩ mình xưa nay
Ðã tạo nhiều tội chướng
Chịu nhẫn nhục, sám hối
Biết an phận, tùy
duyên
Duyên tốt chẳng kiêu
khoe
Duyên xấu không thối
não
Bình tỉnh mãi tiến tu
Như bơi thuyền ngược
nước
Về biển Tát Bà Nhã
Ðến Bảo Sở an vui
Ðó là phần tu tâm
Hợp với lý giải thoát
Sự tu là thân nghiệp
Lễ kính Phật sám hối
Khẩu nghiệp trì chú
kinh
Hoặc niệm Phật khen
ngợi
Ý nghiệp
giữ thanh tịnh
Mật tu môn Lục Niệm
Nguyện đền đáp bốn ân
Nguyện mình cùng
chúng sanh
Sanh cõi vui thành Phật
Ðời đời gặp chánh
Pháp
Tu sáu độ muôn
hạnh
Tâm Bồ Ðề độ sanh
Trần kiếp không thối
chuyển
Tu Sự mà bỏ Lý
Làm sao mở chân tâm?
Tu Lý mà phế Sự
Cũng không thể thành
Phật !
Tu Sự chẳng chấp TƯỚNG
Thì tức SẮC là KHÔNG
Tu Lý không bỏ Sự
Ðó tức KHÔNG là SẮC
Lý chính thật
Chân-Không
Sự là phần Diệu-Hữu
Chân-Không tức Diệu-Hữu
Diệu-Hữu tức
Chân-Không
Nếu chưa đạt lẽ nầy
Thà tu hành chấp CÓ
Ðừng cầu cao bác tướng
Mà lạc vào
Ngoan-Không
Ðây chính hầm khổ đọa
Kẻ thông minh đời nay
Ða số mắc lỗi nầy
Xưa có sư Tông-Thắng
Tài huệ biện cao siêu
Vì ỷ giỏi kiêu căng
Nên bị nhục chiết phục
Hỗ thẹn muốn tự tận
Thọ thần hiện thân
khuyên
“ Sư nay đã trăm tuổi
Tám mươi năm lầm lạc
May nhờ gặp Thánh nhân
Huân tu mà học đạo
Tuy có chút công đức
Mà lòng hay bỉ ngã
Ỷ thông minh biện bác
Lấn người không khiêm hạ
Lời cao hạnh chưa cao
Nên phải bị quả báo
Từ đây nên tự kiểm
Ít lâu thành trí lạ
Các THÁNH đều tồn tâm
NHƯ LAI cũng như vậy ”
Lại có kẻ đua tướng
Tranh Thượng Tọa ,Ni
Sư
Mượn thuyết pháp, tụng
kinh
Ðể mưu cầu lợi dưỡng
Dành đệ tử, chùa chiền
Lập bè đảng, quyến
thuộc
Thấy có ai hơn mình
Liền thị phi tật đố
Hại Thầy Bạn, phản Ðạo
Lừa dối hàng tín tâm
Lời nói thật rất cao
Việc làm thật rất thấp
Lý Sự đều sai trái
Hạng ấy hiện rất nhiều
Tạo biển khổ thêm sâu
Khiến đau lòng tri-thức
Lý, Sự đại lược thế
Công đức làm sao được?
Phật là ÐẠI Y VƯƠNG
Pháp là DIỆU TIÊN DƯỢC
Là phương-thuật rất mầu
Là như-ý bảo châu
Hay trừ nạn nghèo khổ
Khiến cho được giàu
vui
Hay trừ tất cả bệnh
Khiến mau được bình
phục
Hay trừ nạn yểu số
Khiến thọ-mạng dài
lâu
Hay khỏi các tai ách
Như bão lụt, binh lửa
Giặc cướp cùng tà ngoại
Ác thú với độc xà
Các yêu ma , quỷ mị
Nạn động đất, xe,
thuyền
Những phù-chú ếm-đối
Ðều phá tiêu tan hết
Cho đến trừ tội chướng
Sanh trưởng phước huệ
to
Cứu chúng đọa Tam Ðồ
Siêu lên bờ giải
thoát
Chuyên tụng một phẩm
Kinh
Một Chân-Ngôn, hiệu Phật
Thì thành tựu các
nguyện
Thỏa mãn các mong cầu
Chỉ sợ người không
tin
Hoặc tin mà
không sâu
Lại ngại không thực
hành
Hoặc hành không bền
lâu
Hoặc tuy hành bền lâu
Không chí tâm khẩn cầu
Chí tâm là không vọng
Trì niệm quên thân
tâm
Lặng lẽ dứt phân biệt
Không trong, ngoài,
người, cảnh
Khi đi, đứng, thức,
ngủ
Chẳng bỏ câu trì niệm
Lúc hưỡn, gấp, an,
nguy
Cũng vững vàng trì niệm
Cho đến khi sắp chết
Vẫn như thế trì niệm
Ðắc, thất đều do đây
Cần chi hỏi tri thức
Không hành như trên
đây
Phật cũng khó cứu vớt
Huống nữa là phàm
Tăng
Giúp ích được gì đâu
Nhớ lời Cổ Ðức dạy:
“Ta có một bí quyết
Khẩn thiết khuyên bảo nhau
Là hết lòng thành kính
Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”
Hãy ghi nhớ lời nầy
Lắng lòng suy gẫm sâu
Trời xanh tươi biếc một
mầu
Ánh trăng vẫn sáng một
mầu xưa nay
Mà sao đời đạo đổi
thay
Cỏ hoa đượm nét
u-hoài thờ-ơ
“Thuyết pháp bất đậu cơ
Chúng sanh một khổ hải ”
Ðời mạt suy thế đạo lại
thêm thương
Sóng dồn bọt biển tà
dương
Con thuyền cứu độ khuất
đường vân yên
Bụi hồng tung gió đảo
điên
Vô tình mai nở diệu
hiền cành xuân.
Nam-mô Thánh Trí Hải
Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như-Lai.
CHÁNH VĂN :
Sư
tử hống, vô úy thuyết,
Bách
thú văn chi giai não liệt.
Hương
tượng bôn ba thất khước uy,
Thiên
long tịch thính sanh hân duyệt.
GIẢNG :
Sư tử hống, vô úy thuyết, Ngài
nói con sư tử mà nó rống lên thì rống lên những lời không có sợ sệt, những lời
tự tại. Tiếng rống con sư tử là tiếng rống tự tại, không sợ sệt, không e dè. Bách thú văn chi giai não liệt. Bởi vậy
nên cả trăm con thú mà nghe tiếng rống đó thì đầu óc muốn ran muốn bể vậy đó,
người ta nói muốn tét não ra. Tại sao vậy? Bởi vì những lời nói chân thật thì
những người tầm thường hèn hạ họ không hiểu nổi, cho nên họ hoảng hốt, sợ sệt.
Chỗ này tôi dùng một hai thí dụ nhỏ cho quý vị thấy. Như tất cả chúng ta ngày nay, quý vị nghĩ có người nào mà không muốn được nghe, được
biết những lẽ thật không? Ai cũng muốn nghe, cũng muốn biết được lẽ thật. Thế
mà khi nói lẽ thật, quý vị chịu nghe
không? Hay là hoảng sợ?
Thí dụ như tới ba mươi tết mà một vị tăng, vị ni nào lại mừng tuổi
tôi, chúc mừng thầy năm nay chết sớm, nghe câu đó quý vị chịu không? Có mắng ông thầy đó điên không?
Nhưng đó đâu phải là lời nói tội lỗi gì? Người nghe câu chúc chết sớm đó thì
nên mừng hay nên sợ? Huynh tốt đó, huynh chúc vậy thì năm nay tôi tu rút. Chết
sớm phải tu rút chớ tu lơ mơ đâu được, như vậy là giúp cho mình. Còn người không
hiểu biết nhiều, nghe chúc chết sớm cái hỏang nói ông này trù tôi nè, ông rủa
tôi nè, nổi sanh hận lên.
Như vậy thì cũng một câu nói, mà người biết thì tốt lành, người
không biết thì trở thành thù oán. Người trở thành thù oán nhiều hay ít? Chắc
nhiều quá, đầu năm mà lại chúc anh chị năm nay chết sớm, thì chắc họ chửi liền,
họ đuổi ra khỏi nhà. Gần như trăm người như một, chớ ít có người nào nghe nói
chết sớm cái cười bảo phải rồi, được mừng, anh nhắc tôi đó năm nay tôi ráng tu
nhiều, ít có người nói câu đó lắm phải không. Chớ còn đuổi ra khỏi nhà là thường.
Như vậy thì lời nói chân thật lợi ích, bởi vì Phật nói mạng sống
bao lâu? Trong hơi thở mà anh này, chị này chúc mình tới một năm lận mà. Năm
nay chết sớm thì cả mấy tháng nữa mới chết, thì như vậy cũng còn xa đó chớ, tại
sao nổi giận. Phật nói mạng sống trong hơi thở mà mình chịu, người ta chúc mình
tới mấy tháng nữa mới chết mà lại giận. Tại sao vậy? Bởi vì lời nói thật thì
người ta lại sợ. Còn lời nói chúc anh chị năm mới sống bá niên trường thọ. Chịu
không? Có mấy người được bá niên? Vậy chuyện đó là chúc rỗng, không có lẽ thật
mà lại ưa. Còn người ta chúc thật chết sớm một chút, mà mình nghe chết sớm lại
hoảng ráng mà tu thì như vậy hay biết mấy mà không chịu.
Quý vị thấy tiếng rống của
sư tử không có sợ, mà cả trăm con thú ngoài sư tử ra nghe thì hoảng hốt hết. Lời
nói thật của Phật nói đúng như thật, như sư tở rống vậy, mà các lời thú hoảng hốt.
Hương tượng bôn ba thất khước uy, tức là
con voi lớn nghe tiếng rống của sư tử cũng hoảng hốt mà chạy.
Thiên long tịch thính sanh hân duyệt. Tức
long thiên có thể lặng nghe tiếng rống của sư tử đó mà được vui vẻ.
Đây là nói lời chân thật của chánh pháp hay lời chân thật của Phật
nói ra giống như tiếng sư tử rống, đã giống như sư tử rống nên các loài thú sợ.
Cũng vậy chúng ta nghe lời Phật nói chân thật mà chúng ta nghe cũng hoảng hốt.
Nếu mà ai hỏi huynh sống bao lâu thì nói tám mươi, chín mươi tuổi nghe không sợ
chút nào hết. Nói anh sống trong hơi thở thì giựt mình. Nghe nó lạ tai quá, khó
chịu quá. Nhưng đó là lẽ thật, có ai thở khì ra không hít vô mà lại sống đâu?
Chỉ có hơi thở là định thời gian sống chết đúng như thật, còn cái tuổi không
đúng. Ai mà bảo đảm mình tới tuổi nào, tới ngày nào, sơ sẩy một chút là chết rồi.
Cho nên chỉ thở khì ra không hít lại là chết, nghe nó mỏng manh, nó tạm bợ hết
sức, nhưng đó là một chân lý, một lẽ thật.
Những lời chân thật đó, những người yếu, người không can đảm
nghe chịu không nổi. Nên nói rằng các loài thú khi nghe tiếng rống sư tử muốn
xé óc, muốn bể đầu, cho nên ai nói câu gì nặng mình nói tôi nghe muốn bể óc. Tức
những lời nói chịu không nổi, mà những lời nói đó là lời nói thật. Kể cả những
người tu khá khá như con voi là ai? Là các sư, các ni ở chùa, tu khá khá hơn một
chút mà nghe cái đó cũng còn không vui một chút nào hết, cũng còn sợ. Đâu năm
nào quí Phật tử vô chúc tết quí thầy, quí cô, quì xuống thưa năm nay con chúc
thầy sống được mười ngày, thử coi thầy có cười không? Hay là thầy sợ? Nói bậy.
Đó là lời nói để cho quý vị
xét, hương tượng là chỉ cho mấy vị khá khá đó, người biết đạo lý mà còn
phải sợ tiếng rống của sư tử. Chỉ thiên long tức các cõi trời và loài thiên
long, thường thường người ta nói long thiên hộ pháp đồ đó, thì lặng lẽ nghe lời
Phật nói mà sanh vui vẻ. Những người nào thấm nhuần đạo lý mà rất là cao siêu,
rất là thấu đáo thì nghe những lời đó mới vui, mới thích. Chớ còn những hạng
thường kia thì hoảng hốt hết. Đó là ngài nói lên cái giá trị chánh pháp của Phật
nó cao siêu, người thường ít có thấm, ít thấu hiểu; cho tới bậc hơi khá khá
cũng còn sợ thay.
CHÁNH VĂN :
Du
giang hải, thiệp sơn xuyên,
Tầm
sư phỏng đạo vị tham thiền.
Tự
tòng nhận đắc Tào Khê lộ,
Liễu
tri sanh tử bất tương can.
GIẢNG:
Du giang hải, thiệp sơn xuyên, Du
giang hải, là dạo biển sông; thiệp sơn xuyên, là đi trong rừng trong suối
Tầm sư phỏng đạo vị tham thiền. Là tìm
thầy để hỏi đạo gọi đó là tham thiền. Tham thiền là gì? Tham là tham vấn, thiền
là thiền định hay thiền tông. Chúng ta đi chỗ này đến chỗ kia, qua sông leo suối
để tìm thầy học đạo. Tìm thầy học đạo gọi đó là tham thiền. Ở đây ngài không phải
nói chung, mà muốn nói riêng cho ngài đã từng đi trên sông trên biển, từng lội
suối trèo non để tìm thầy học đạo, gọi đó là đi tham thiền.
Tự tòng nhận đắc Tào Khê lộ, là từ
khi nhận được con đường của Tào Khê. Đường Tào Khê là đường nào? Đường của Lục
Tổ. Nhận được con đường của Lục Tổ chỉ dạy rồi thì:
Liễu tri sanh tử bất tương can. Là biết
rõ sanh tử không còn vướng mắc nữa.
Như vậy ngài tán thán Lục Tổ. Sở dĩ ngài tầm sư học đạo nơi này
nơi kia, qua sông xuống biển, lội suối trèo non để tìm kiếm thưa hỏi thì gọi là
ngài đi tham thiền. Nhưng từ khi nhận được lời chỉ dạy của Lục Tổ rồi thì ngay
nơi đó đó ngài thấy rõ ràng sanh tử không còn vướng mắc gì nữa hết.
Quý vị thấy học đạo không
có vướng mắc sanh tử, không vướng mắc sanh tử mà ngài có chết không? Câu này là
câu tôi muốn hỏi cho tất cả quý vị chú
ý. Ngài Huyền Giác có chết không? Nếu có chết thì sanh tử có vướng không? Nếu
không vướng thì không có sanh tử, mà vướng là còn sanh tử. Bốn mươi ngoài tuổi
ngài đã tịch rồi, thì còn sanh tử không! Đó là chỗ tôi muốn nói cho tất cả chú
ý hiểu tường tận lý đạo.
Tôi lập lại, Lục Tổ bài thuyết pháp đầu tiên của ngài là khi ngộ
được tâm ấn của Ngũ Tổ trong đêm nghe GIẢNG : kinh Kim Cang. Rồi Ngũ Tổ bảo đi
về phương Nam, thì Lục Tổ vội vả đi. Đi qua sông, rồi tìm đường về phương nam
thì bị các sư trong chùa đuổi theo. Hôm sau chúng trong chùa không thấy Ngũ Tổ
mở cửa thất, mà đóng cửa cả ngày. Lấy làm lạ vô hỏi, tại sao Hoà Thượng đóng của
thất, thì Tổ nói đã trao y bát đi về phương nam rồi. Hồi xưa Thiền tông, ai được
truyền y bát là người đó lãnh trách nhiệm để giáo hóa thay cho Tổ. Giờ đi về
phương nam thì còn cái gì nữa mà trao cho người thứ hai, thứ ba, cho nên toàn
chúng xôn xao về phương nam là ai. Bấy giờ mới xét lại, chỉ ngài Huệ Năng giả gạo
ở dưới nhà bếp, đi kiếm coi còn ở dưới không. Đi kiếm thì ngài mất tiêu, vì
ngài ở phương nam, liền đuổi theo.
Khi đuổi theo, có một người tướng đi tu cởi ngựa giỏi lắm, ông
đi đầu hết nên tìm kịp ngài. Thấy vậy, Lục Tổ bỏ y bát ở ngoài, ngài chui vô bụi
trốn. Ông tướng đó hiệu là Huệ Minh, thấy y bát mừng quá chạy lại ôm lên nhưng
nặng quá ôm không nổi, thì ông biết đây là vật phi thường không thể đem tâm
phàm tục mà giành giựt được. Nên ông để xuống và đổi tâm đuổi theo giành y bát,
thành tâm kính mến học đạo, liền kêu: “Hành giả, hành giả, tôi đến đây không phải
vì y bát, mà vì pháp”. Tổ ở trong bụi nghe nói vì pháp thì liền ra, nói: “Nếu
ông vì pháp thì hãy đứng yên lặng ta sẽ nói cho”. Huệ Minh đứng yên lặng giây
lâu, Lục Tổ nói: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của
Thượng Tọa Minh?”. Ngay đó ông ngộ.
Quý vị ngộ chưa? Tại sao
mà người ta nghe câu đó người ta ngộ mà mình không ngộ? Đó là một vấn đề. Tôi
chỉ choq v thấy, tại sao chỉ có một câu nói đơn giản vậy mà là một bài pháp?
Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng Tọa
Minh? Nói như vậy thì quý vị khó hiểu.
Bây giờ tôi nói lại khi quý vị ngồi chơi
một mình, không nghĩ phải, không nghĩ quấy, không nghĩ hơn, không nghĩ thua thì
lúc đó quý vị có biết? Ngồi một mình
không nghĩ cái gì hết, thì có biết không? Nếu không biết thì chim kêu sao nghe,
gió thổi sao biết mát, rồi người đi sao mình thấy. Như vậy thì mắt đang thấy,
tai đang nghe, thân biết xúc chạm thì đang biết chớ đâu phải không biết. Nhưng
mình quên cái biết thường trực đó gọi là bản lai diện mục củ mình đi, mà chỉ nhớ
cái biết hơn thua, phải quấy, tốt xấu. Nhớ cái biết đó hoài trong đầu mình, hết
cái phải qua cái quấy, lăng xăng lăng xăng tối ngày mà cái thật của mình quên mất.
Nhưng Lục Tổ bảo không nghĩ thiện, không nghĩ ác, tức là lúc đó không nghĩ hai
bên, mà không nghĩ hai bên thì cái gì là bản lai diện mục của Thượng Tọa Minh?
Thì ông nhận ra lúc không nghĩ hai bên đó là cái biết chân thật hiện tiền. Quý
vị có cái đó không, có người nào thiếu
cái đó không? Mà sao không chịu nhớ cái đó. Đi kiếm cái gì đâu, kiếm Phật ở
trên trời trên mây, cho nên nhà thiền gọi là cổng Phật đi tìm Phật, cởi trâu đi
tìm trâu.
Như vậy thì quý vị xét kỷ
coi, chúng ta tu thiền ngồi lại bỏ vọng tưởng là bỏ cái biết lăng xăng đó chớ
gì. Vọng tưởng lúc nào lặng quý vị biết
không? Cái chân thật hiện tiền. Mà mình thôi trong đầu lung tung, lang tang, hết
cái này tới cái kia, hết cái kia tới cái nọ. Nhiều cái đáng nghĩ nghĩ cũng được
đi, cái tầm bậy cũng nghĩ nữa. Có nghĩ bậy không? Như vậy mình bâng quơ, lăng
xăng, lộn xộn, cho nên Phật chê là điên đảo đó không có gì hết. Lẻ ra, ngày nay
làm việc gì thì nghĩ làm việc đó sao sao xong rồi từ đó yên không nghĩ gì hết
khỏe cái đầu biết mấy. Nhưng vừa đi, vừa nghĩ tùm lum.
Có nhiều khi tôi nói, quý vị
thấy người nào đi đường mà nói làm xàm một mình, quý vị gọi là người gì? Người điên. Bây giờ trong đầu
mình có nói làm xàm không? Cho tới đi tiểu, đi đại mà cũng còn nghĩ nữa, còn
làm xàm ở trong hoài. Đi ra ngoài, đi đâu cũng làm xàm một mình hà, nó không ra
lời, mà nó ở trong này nè, nó nhỏ nhỏ ở trong ấy thì mình có điên không? Bởi vậy
Phật mới nói mình là điên đảo, sống trong điên đảo.
Quý vị tập bao giờ mà đi
chỉ biết đi, rồi ăn cơm chỉ biết ăn cơm, làm việc chỉ biết làm việc thì quý vị thiền rồi. Mà thiền là gì? Là sống trở lại
tâm thanh tịnh lặng lẽ của mình. Chữ thiền là tỉnh lự là dừng cái nghĩ suy chớ
có gì đâu.
Vậy chuyện tu không phải là chuyện trên trời trên mây, mà tu là
giải quyết cái thằng điên làm xàm của mình nó đi. Thằng điên làm xàm nó cứ nói
nhảm nhí trong đầu mình hoài đó, mình giải quyết nó để cho mình được tự chủ.
Khi cần nghĩ sẽ cho nghĩ, không cần thì thôi yên lặng. Được vậy đó là tu giỏi.
Như vậy nói đi thiền, ngồi thiền, nói đứng gì cũng thiền hết. Còn mình bây giờ
ngồi thiền mà cũng còn ráng mà nghĩ nữa chớ, chuyện không cho nghĩ mà cứ nghĩ,
chịu nổi không. Như vậy thì quý vị thấy
chúng ta yếu đuối, lộn xộn làm sao đâu, không có tự chủ chút nào hết.
Nếu mình biết tu tự chủ là buông hết. Bây giờ quý vị buông hết những cái lăng xăng lộn xộn, thì
cái đầu quý vị nhẹ không. Rồi cái nào cần
nghĩ thì cho nghĩ năm phút, ba phút rồi việc đó thôi, dẹp sổ để yên lặng. Vậy
đó là khéo tu. Còn mình bây giờ lộn xộn quá, cả ngày lộn xộn. Như tu ở trên
chùa là thỉnh thơi, không có chuyện gì đó, mà cũng còn lộn xộn, chuyện của thế
gian đâu đâu cũng chen vô, đủ thứ chuyện, tội nghiệp thay.
Còn ở ngoài chuyện của thế gian ở đâu đâu, tôi thấy thật là
chúng ta cùng điên với nhau cả đám. Chuyện ở bên tây, bên Tàu ai chửi mắng ai
mình cũng muốn nghe, kiếm nghe, nghe vô rồi tối ngồi lại nhớ. Vậy rồi cứ lộn xộn
trong đầu hoài, có yên ổn lúc nào đâu.
Như vậy thì niệm Phật để làm chi? Để bỏ hết những loạn tưởng, dừng
câu niệm Phật bỏ hết loạn tưởng, tâm mình nó yên định rồi mới thấy Phật. Niệm
Phật cũng muốn được nhất tâm, tu thiền cũng muốn định mà cứ nhớ chuyện bậy bạ
thế gian hoài thì chừng nào nhất tâm, chừng nào được định? Chừng nào? Không dám
bỏ.
Bây giờ tôi nói rằng, chúng ta biết tu rồi có quyền nghĩ, nghĩ
cái gì cần nghĩ, nghĩ xong rồi dẹp sổ không cho nó nghĩ nữa. Như vậy thì khỏe
cái đầu, ngày nào đi đâu mình cũng thảnh thơi. Còn cái này đi đâu chuyện ở trên
trời trên mây cũng nhớ, chuyện năm trên năm dưới cũng nhớ, cứ ôn tới ôn lui, tầm
bậy tầm bạ mà cứ nhớ hoài, nó điên đảo vậy đó.
Như vậy quý vị hiểu cái
tu chưa? Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, thì cái bản lai diện mục hiện tiền chớ
gì. Hết sức đơn giản, hết sức dễ dàng, mà cụ thể mình đang có, cái mình đang có
mà mình quên chạy theo cái lăng xăng lộn xộn đó. Cái lăng xăng lộn xộn đó mình
nuôi nó trong đầu hoài, rồi nói khó tu quá. Ai làm mình khó? Tại mình nuôi dưỡng
cái thứ không ra gì đó phải không, lộn xộn lăng xăng. Bây giờ mình lọc đi, cái
gì cho nghĩ thì nghĩ. Thí dụ nghe kinh, nghe GIẢNG : thì cho theo dõi nghe đi,
còn chuyện gì bên ngoài kệ họ bỏ qua.
Bây giờ chúng ta thì sao? Đang đi đường xe chạy suông sẻ mà thấy
có hai ba người lúm xúm rầy lộm , chủi lộn muốn dừng lại nghe. Nghe để làm gì
chớ? Chuyện của họ chớ phải chuyện của mình đâu, mà mình đâu phải cảnh sát dừng
lại bắt họ xử. Vậy đó mà động tới thì dừng lại muốn nghe, muốn biết, muốn thấy,
rồi đủ thứ chuyện, can thiệp vào chuyện thiên hạ quá chừng, quá đổi đi. Chuyện
của người ta nói thầm thầm nhau cũng ráng lắng tai nghe coi nói cái gì. Như vậy
thì tất cả mình đều muốn gom vô trong cái đầu của mình, mà gom hết vô đó rồi ngồi
thiền bỏ không được mới than tu khó quá. Bây giờ đừng đem vô nhiều thì tự nhiên
bỏ ra dễ ợt chớ có gì khó.
Hiểu vậy thì quý vị mới
thấy cái tu hết sức là đơn giản, mà Đức Phật đã thấy, rồi Ngài chỉ cho các Tổ.
Các Tổ nhận được điều đó, các ngài đã sống tự tại, mình bây giờ tu cũng vậy
thôi. Cho nên tu Thiền hay tu Tịnh gì cũng là phải dừng tâm loạn tưởng. Niệm Phật
mà không nhất tâm thì sao về Cực Lạc, mà nhất tâm thì hết loạn tưởng rồi, thì Cực
lạc hiện tiền. Mình ngồi thiền cũng vậy, không nghĩ thiện, không nghĩ ác, tức
là cái gì hai bên mình không được nghĩ, lặng hết tâm suy nghĩ thì đó là định.
Như vậy cái chân thật của mình nó đầy đủ, không có thiếu chút nào hết.
Quý vị xét kỹ tu Phật khó
hay dễ? Nếu khó thì tôi cũng thấy vô lý, chuyện đó của mình tại mình tập, bây
giờ mình bỏ có gì đâu khó. Cũng như hồi đó tới giờ quý vị tập ăn mặn, bây giờ tập ăn chay lại bỏ ăn mặn
chớ có gì đâu. Vậy đó mà cũng than khó.
Còn cái chuyện tìm Phật, nếu tìm Phật ở Ấn Độ hoặc ở đâu đâu thì
xa khó. Còn Phật là ngay cái hiện tại của mình đây, hết nghĩ lăng xăng thì ông
Phật thật của mình hiện ra, nên nói Phật tức tâm đó, ngay nơi tâm mình chớ đâu
xa. Mà không dừng cái nghĩ lăng xăng thì ông Phật không hiện, bởi nhớ cái lăng
xăng thì đâu có nhớ Phật. Quên hết lăng xăng đó là nhớ Phật. Như vậy ngồi định
là để quên cái lăng xăng chớ gì đâu.
Rất là dễ mà chúng ta tu thấy thật là khó, là tại vì quá quen
thói điên đảo rồi. Bây giờ muốn buông bỏ thói điên đảo hết sức khó, chớ còn thật
không phải khó. Nếu Phật dạy mình phải đi ra khỏi biển bao nhiêu trăm cây số,
tìm đảo nào có Phật lên đó tu mới được, thì nói mình không phương tiện làm sao
đi, xa tìm không được. Còn cái này, ngay nơi mình có sẳn. Có ai mà ngồi một giờ,
nữa giờ không suy nghĩ cá gì hết, mà vẫn biết rõ ràng không? Mình ngồi không
suy nghĩ thì vẫn biết, chớ không biết đâu nhưng tại trong đầu lăng xăng nên
quên hết những cái biết hiện tại. Giờ trở về cái biết hiện tại là bỏ cái lăng
xăng thôi chớ không gì hết, mà cái biết hiện tại là biết Phật nên tâm tức Phật,
Phật tức tướng là vậy đó, quý vị hiểu được
ý đó.
Như vậy thì chúng ta khi nhận được đường của Tổ Tào Khê là Lục Tổ
đó, tức không nghĩ thiện, không nghĩ ác, thì Liễu tri sanh tử bất tương can tức
không nghĩ thiện, không nghĩ ác thì việc sanh tử có dính dáng gì với mình
không?
Chỗ này tôi nói thêm cho quý vị
hiểu. Mỗi khi sám hối, tôi hồi xưa thì quen sám hối bản chữ Hán, tới sám
hối chót nói tột cùng là:
Tội tánh bổn không do tâm tạo,
Tâm nhược diệt thời tội diệt vong.
Tội vong tâm diệt lưỡng câu không,
Thị tắc danh vi chơn sám hối.
Tội tánh bổn không là tánh tội nó là không. Nhưng tại sao có? Vì
do tâm mình tạo. Tâm mình nghĩ xấu nghĩ ác rồi mới làm xấu làm ác, nói xấu nói
ác thì thành tội. Như vậy tội tự nó có sẳn không? Nó không có, mà có từ tâm
mình ra. Muốn hết tội thì trước phải hết cái gì? Hết cái tâm, hết tâm xấu tâm
ác đó. Vậy đó mà bây giờ Phật tử mình cứ ba mươi, rằm đi tới chùa sám hối, quì
lạy đã rồi về nói bửa nay hết rồi, tội lỗi tháng này tôi sám hối rồi phải
không. Mà tâm ác không sám hối chút nào hết, không bỏ chút nào hết, thì hết tội
được không? Tâm là gốc của tội, là đầu mối của tội mà mình không chừa cái đó,
đi bỏ cái ngọn thì làm sao bỏ được.
Như vậy tội không có thật, mà gốc từ tâm mình. Nếu tâm mình dứt
được niệm thiện, niệm ác, không còn những niệm nghĩ đó nữa thì tội còn không?
Tâm mình dứt được thì tội mình cũng theo đó mà hết. Cho nên nói tội hết, tâm
cũng không rồi, thì đó mới thật chơn sám hối. Bởi vì còn khởi niệm tốt xấu hơn
thua là còn tạo nghiệp, tạo nghiệp thì thành tội. Giờ dứt tâm nghĩ phải nghĩ quấy,
hơn thua thì đâu còn tạo nghiệp, thì tội từ đâu mà ra, làm sao mà có, như vậy mới
thật là hết tội.
Quý vị thấy dễ tu chưa? Gốc
ở chỗ mình, chớ không phải gốc ở ngoài. Mà cứ đổ thừa tại người này, tại người
kia mà tôi khổ. Phải tại người ta không? Hay là tại mình? Mình sanh chuyện,
nghĩ thế này, nghĩ thế nọ, rồi người ta nghĩ không giống mình nên mình tức. Cho
nên ở thế gian này, nói thẳng là chúng ta điên đảo quá, điên đảo rồi đổ thừa
nhau, cải lộn rùm với nhau hoài đó. Người nào cũng không chịu cái điên đảo của
mình, cứ đổ trút qua người khác, vậy đó mà cả ngày bất an.
Bây giờ mình biết rõ tội là do tâm mình nghĩ xấu, nghĩ ác. Giờ lặng
được tâm xấu ác rồi thì tội theo đó hết chớ gì. Chớ còn sám hối bao nhiêu, mà
tâm xấu ác còn thì không bao giờ hết tội. Nếu tâm xấu ác hết rồi thì tội theo
đó mà hết. Tội hết, tâm hết đó mới thật là chơn sám hối. Sám hối vậy mới thật
hoàn toàn giải thoát.
Quý vị nghe rõ thì mới thấy
cái hay, cái quí của sự tu. Sự tu đây là tu chân thật, chớ không phải là tu tưởng
tượng. Chúng ta tu hay tưởng tượng quá hà. Quý vị nghĩ tưởng tượng làm sao? Ba má chết thỉnh thầy
về cầu siêu, cầu siêu cái tưởng tượng thầy cầu siêu thì ba má được về Cực Lạc.
Tu đó tu tưởng tượng, chớ thật tình người đứng cầu siêu chưa chắc người đó tin
nữa, không tin mình đưa nổi người đó về Cực Lạc đâu. Vì chính ông thầy tụng có
biết Cực lạc là chỗ nào đâu mà đưa, ông chưa từng biết mà bảo ông đưa thì đưa
làm sao đây. Như bây giờ quý vị muốn xuống
đò đi đâu đó, mà chỗ đó ông lái đò không biết thì làm sao đưa tới. Bây giờ thầy
cầu siêu cho ba mẹ mình về Cực Lạc, mà thầy chưa biết Cực Lạc ở đâu, nghe Phật
nói tưởng tượng vậy thôi, rồi mình hài lòng như vậy.
Cho nên cái này mà là cái thật, chúng ta tu dẹp được cái xấu dỡ
của mình là cái gốc của tội lỗi, mà xấu dỡ hết thì tội lỗi theo đó hết chớ gì,
đó là sự thật. Không tội lỗi thì đi chỗ lành, chỗ tốt khỏi cần đưa đẩy gì hết.
Tôi nói vậy thì quý vị hiểu
rõ ý nghĩa, còn mình tưởng tượng thầy tụng như vậy thì ba má mình về Cực Lạc,
đó là tu trong tưởng tượng chớ thiếu thực tế. Đó là một việc không phải tôi
không đi tụng đám rồi nói như vậy, tại lẽ thật nó như vậy thì phải tôi nói, chớ
không để Phật tử chúng ta cứ lầm lẫn làm những việc không có lẽ thật.
Nếu chúng ta thấu suốt được con đường của Lục Tổ, thì mình rõ biết sanh tử không còn can thiệp, không còn dính dáng gì mình nữa hết.
Liễu tri sanh tử bất tương can.
Phật bảo: “Ðại-vương,
ông thấy biến-hóa dời-đổi không ngừng, ngộ biết là phải diệt; vậy trong lúc
diệt đó, ông có biết trong thân có cái gì không diệt chăng?”
Vua Ba-tư-nặc
chấp tay bạch Phật: “Thật tôi không biết”.
Phật bảo:
“Nay tôi chỉ cho ông cái tính không sinh-diệt, Ðại-vương, khi ông mấy tuổi, mới
thấy nước sông Hằng”.
Vua bạch:
“Khi tôi ba tuổi, mẹ tôi dắt đi yết-lễ thần Kỳ-bà-thiên thì đã đi qua sông ấy;
lúc đó tôi liền biết là nước sông Hằng”.
Phật bảo:
“Ðại-vương, như lời ông nói: Lúc 20 tuổi thì sút hơn lúc lên 10, cho đến nay đã
60 tuổi, từng năm, từng tháng, từng ngày, từng giờ, dời-đổi mãi mãi; vậy khi
ông 3 tuổi thấy nước sông ấy, rồi đến khi 13 tuổi thì nước ấy thế nào?”
Vua bạch: “Tôi thấy nước ấy cũng giống khi 3 tuổi, như nhau không khác và đến nay tuổi đã 62, cũng vẫn không khác”. (CHỈ RÕ TÍNH-THẤY KHÔNG PHẢI LÀ CON MẮT)
Phật bảo:
“Nay ông xét mình đầu bạc mặt nhăn, mặt ông chắc là nhăn hơn lúc trẻ; vậy cái
thấy hiện nay của ông thấy sông Hằng so với cái thấy lúc nhỏ thấy sông Hằng, có
già trẻ gì không?”
Vua bạch:
“Thưa Thế-tôn, không”.
Phật bảo:
“Ðại-vương, mặt ông tuy nhăn, nhưng cái thấy đó chưa hề bị nhăn; cái bị nhăn
thì thay-đổi, còn cái không bị nhăn thì không có thay-đổi. Cái thay-đổi thì
phải diệt, còn cái không thay-đổi kia, vốn không sinh-diệt, làm sao trong ấy,
lại nhận sống cái chết của ông, mà ông còn dẫn những thuyết của bọn Mạt-già-lê
kia bảo rằng thân này chết rồi diệt hẳn”.
Vua nghe lời
Phật dạy như vậy, tin-biết về sau bỏ thân nầy qua thân khác, cùng với đại-chúng
nhẩy-nhót vui-mừng, được cái chưa từng có.
KINH
THỦ LĂNG NGHIÊM
Các tông đại khái chia ra làm hai, là Không môn và Hữu môn.
Không môn từ phương tiện lý tánh đi vào. Hữu môn từ phương tiện sự tướng đi
vào. Nhưng đi đến chỗ tận cùng thì dung hội tất cả, sự tức lý, lý tức sự, tánh
tức tướng, tướng tức tánh, nói cách khác: “Sắc tức là không, không tức là sắc, không
và sắc chẳng khác nhau”.
Cho nên khi xưa có một vị đại sư tham Thiền ngộ đạo, nhưng
lại mật tu về Tịnh Độ. Lúc lâm chung, ngài lưu kệ phó chúc cho đại chúng, rồi
niệm Phật sắp vãng sanh. Một vị thiền giả bỗng lên tiếng hỏi: “Cực Lạc là cõi hữu
vi, sao tôn đức lại cầu về làm chi?”
Đại Sư quát bảo: “Ngươi nói vô vi ngoài hữu vi mà có hay sao?” Thiền giả nghe xong
chợt tỉnh ngộ.
Thế nên Thiền và Tịnh đồng về một mục tiêu. Hữu môn cùng
Không môn tuy dường tương hoại mà thật ra tương thành cho nhau vậy.
Hỏi:
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, đức Lục Tổ bảo: "Người phương Đông tạo tội, niệm
Phật cầu sanh Tây Phương. Người Tây Phương tạo tội, niệm Phật cầu sanh về cõi
nào?" Như thế thì chỉ cốt làm sao diệt được tội, cần gì niệm Phật cầu vãng
sanh?
- Đáp: Đức Lục Tổ và các
vị cao đức bên Thiền Tông đứng trên cương vị truyền bá tông chỉ Duy Tâm, nên
mỗi lời nói phải căn cứ theo chỗ lập pháp của mình, đều chỉ ngay vào bản tánh,
và đều lấy tâm làm chủ. Ý Ngài muốn bảo: nếu tâm được thanh tịnh, thì tuy ở Ta
Bà cũng tự tại giải thoát; tâm không thanh tịnh dù ở Tây Phương vẫn bị khổ não
luân hồi. Thật ra, đối với người tu Tịnh Độ hiểu đạo lý, lời nói của Tổ chỉ có
tác dụng khuyến tấn, bảo phải niệm Phật đến chỗ tịnh tâm không còn chấp tướng;
chớ không phải bác sự niệm Phật cầu vãng sanh. Đức Thích Tôn, chư Phật khắp
mười phương, chư Đại Bồ Tát và chư vị Tổ Sư đều khuyên niệm Phật cầu sanh Tây
Phương. Hai vị Tổ bên Thiền Tông ở Thiên Trúc là Mã Minh, Long Thọ đều khuyên
niệm Phật; và chính ngài Long Thọ đã chứng ngôi Sơ Hoan Hỷ Địa, vãng sanh về
Cực Lạc. Nếu đức Lục Tổ quả thật có ý bài bác sự Niệm Phật, thì chẳng hóa ra
bài bác đức Thích Ca Mâu Ni, chư Phật, chư Bồ Tát, Tổ Sư, và cả hai vị tiền bối
trong tông của mình là Mã Minh, Long Thọ hay sao? Cho nên, nếu hiểu lầm rồi đem
lời này chê bai niệm Phật, chính là bài xích và gieo mối oan cho đức Lục Tổ
vậy.
Lại, hành môn nào cũng có
lý và sự. Lời của đức Lục Tổ là nói về lý, ngoài ra còn có sự tướng của đường
tu, cần phải nghĩ đến. Ta thử đặt lại câu hỏi: "Người ở ngoài đời tạo tội,
vào chùa am xuống tóc, ăn chay, giữ giới tìm nơi thanh vắng tu hành. Người ở
chùa am tạo tội tìm nơi nào để tu?" Nếu chỉ y theo lý mà bác như vậy, thì
việc xuất gia đến chùa am, ăn chay giữ giới, cho đến tụng kinh, niệm Phật, trì
chú, tham thiền, đều là lỗi lầm hết cả hay sao? Pháp tu Tịnh Độ cũng thế, thật
ra chẳng phải người Đông Phương do tạo tội mới niệm Phật cầu sanh Tây Phương,
mà niệm Phật cầu về Tây Phương chính là muốn mượn thắng duyên tu hành, để mau
chứng lên quả Vô Sanh giải thoát. Dù người đã tạo nhiều tội, biết hồi tâm sám
hối niệm Phật cầu vãng sanh, cũng là vì muốn sớm thoát sanh tử, vẫn không ngoài
mục đích này. Còn người ở Tây Phương Cực Lạc cũng không tạo tội, bởi khi đã về
cõi ấy, trên có Phật Bồ Tát, dưới có các bậc thượng thiện nhơn, xung quanh mình
tiếng chim nói pháp, tiếng nhạc giảng kinh, không còn nhọc lòng lo đến vấn đề
ăn mặc ở và các sự đau bịnh, tai nạn, oán thù, đường đạo chỉ thêm tiến lên, đâu
còn có duyên gì để tạo tội?
Kết lại, câu nói của đức
Lục Tổ nên hiểu chỉ là lời khai thị về lý tánh thanh tịnh để khuyến tấn mà
thôi, không nên nghĩ lầm đem nó để bác sự tướng. Người niệm Phật nghe lời này,
càng nên cố gắng niệm cho đến trình độ tâm không, mới hợp với ý của Tổ.
Niệm Phật Thập Yếu
CHÁNH VĂN :
Hành
diệc thiền, tọa diệc thiền,
Ngữ
mặc động tịnh thể an nhiên.
Túng
ngộ phong đao thường thản thản,
Giả
nhiêu độc dược dã nhàn nhàn.
GIẢNG:
Bốn câu này ngài nói:
Hành diệc thiền, tọa diệc thiền, Đi
cũng thiền, ngồi cũng thiền.
Ngữ mặc động tịnh thể an nhiên. Nói
nín động tịnh cái thể vẫn an nhiên.
Túng ngộ phong đao thường thản thản,
Giả như gặp đao bén, đao nhọn cũng thường tự nhiên, không có
dính dáng.
Giả nhiêu độc dược dã nhàn nhàn. Giả
như mình uống lầm thuốc độc mình cũng vẫn tự tại, thảnh thơi chớ không có gì sợ
sệt hết.
Vậy bốn câu nói, hồi xưa tôi cũng hơi khó hiểu. Tôi nghĩ ngồi
thiền mới là thiền, còn đi làm sao thiền được. Mà nói đi cũng thiền, ngồi cũng
thiền. Rồi nói nín động tịnh thể an nhiên, thì khi nói nín động tịnh là nó lăng
xăng rồi đâu có thiền, mà nói an nhiên.
Nhưng thật ra như khi nảy tôi nói, đi mà mình chỉ biết đi, trong
đầu không có cái gì lăng xăng lộn xộn, thì đi đó là thiền. Đi mà trong đầu
không nghĩ bậy, nghĩ bạ vơ vẫn cái gì hết, đi đó là thiền rồi. Ngồi mà tâm mình
nó lặng lẽ, không dấy động, đó là thiền. Ngồi để tâm lặng lẽ không dấy động, đi
để tâm lặng lẽ không dấy động thì cũng như nhau. Cái trọng tâm là tâm lặng lẽ
không dấy động, còn mình đi thì nghĩ tứ tung thành ra không có thiền. Nhiều khi
nói thiền hành tức là đi, mà đi chừng năm ba bước thì nghĩ chuyện hôm qua hôm
kia, ba bốn bước nghĩ hôm kia hôm qua, cứ nghĩ tới nghĩ lui hoài, chuyện không
đáng cũng nghĩ như vậy có thiền chưa? Đi thiền mà không phải thiền.
Còn mình không chú ý đi thiền hành gì hết, đi làm đi tới đi lui,
nhưng mà không để cái đầu mình nó lăng xăng lộn xộn, buông xả thảnh thơi, đi biết
mình đang đi, thì đó là đi thiền. Rồi ngồi chỉ biết đang ngồi, tâm không có lộn
xộn, không nghĩ trước nghĩ sau..v.v… thì đó là thiền. Ngồi trước bàn Phật cũng
thiền, ngồi trên võng cũng thiền phải không, chớ đâu phải ngồi nghiêm chỉnh mới
thiền. Nhiều khi ngồi nghiêm chỉnh trước bàn Phật mà cái đầu nó chạy tứ tung, xứ
này xứ nọ, có thiền được không? Bởi vậy nên mình biết trọng tâm thiền là tâm lặng
lẽ.
Cho nên định nghĩa chữ thiền một lần nữa cho quý vị nhớ. Thiền là đúng là thiền na theo âm chữ Phạn,
Trung Hoa dịch là tịnh lự. Tịnh là lặng, lự là suy gẫm. Lặng những cái suy gẫm
mình gọi là thiền chớ có gì đâu. Như vậy đi mà không suy nghĩ lăng xăng thì đi
không thiền là gì! Rồi ngồi mà không suy nghĩ lăng xăng thì ngồi đó là thiền.
Nhưng tại vì mình quá ư là lôi thôi, tôi có thể nói một từ mà quý vị hơi khó chịu một chút là tại mình điên lậm
quá. Chúng ta điên lậm quá, nên cứ làm xàm hoài, không thể nào kềm được. Bắt buộc
phải đến trước bàn Phật mặc áo nghiêm chỉnh rồi ngồi kiết già kềm cho nó đở lộn
xộn. Tại điên nặng, bệnh nặng nên thuốc cũng hơi nặng một chút, cho nó đau chân
mà phải cố gắng kềm nó mới từ từ dịu. Chớ còn nếu để thường thường nói đi cũng
thiền, mà đi cứ nghĩ hoài thì chừng nào thành thiền.
Vì vậy mà bắt buộc phải ngồi nữa giờ, một giờ nghiêm chỉnh, thì
giả sử ở ngoài nữa giờ đó mình nghĩ một trăm lần, còn mình ngồi mình kềm nghĩ
tám chục lần đở hơn một chút. Rồi lần lần còn năm chục, lần lần còn bốn chục,
ba chục thì đó là giãm từ từ. Giãm cái đó thì gọi là giãm cái gì? Quý vị dùng từ cho xứng đáng coi. Giãm vọng tưởng là
nói nhẹ đó, chớ đúng ra nói giãm điên loạn của mình. Giờ đó là giờ ngồi tu mà
chuyện đâu đâu cũng nghĩ thì không phải điên loạn là gì! Những điên loạn nó từ
từ giãm bớt. Đó như vậy mới hiểu được ý nghĩ ngồi thiền, ý nghĩa tu thiền, chớ
không thì chúng ta tu mà không biết rõ ý nghĩa của nó.
Trong nhà thiền thường nói đi đứng nằm ngồi gì cũng thiền hết,
là tại chỗ đó đó. Cho nên nói: Ngữ mặc động tịnh thể an nhiên. Ngữ là nói, mặc
là nín. Khi động, khi tịnh thì tâm mình nó cũng an nhiên tự tại. Thí dụ quí Phật
tử ở nhà những người nào thợ may, thì cứ ngồi nhắm thẳng đường may mà may thì
đó là động, nhưng mà tâm mình vẫn an. Thợ mộc đang bào, đang đục mà tâm không
nghĩ gì hết, đó cũng là an. Như vậy dù có động, dù có tịnh cái thể nó vẫn an ổn,
không có gì hết, chớ không phải ngồi yên mới được an.
Dù gặp đao bén, đao nhọn mình vẫn thản nhiên không sợ. Giả sử gặp
thuốc độc hay bị thuốc độc mình cũng vẫn thảnh thơi nhàn hạ, không có gì mà bực
bội khổ đau. Như vậy cái tu của mình tới cảnh bình thường tâm mình lặng, trong
cảnh rất hiểm nguy tâm mình cũng lặng, được như vậy đó là mới tự tại, mới giải
thoát.
Bây giờ bước đầu, trong cảnh bình thường mà lặng là phước lắm rồi.
Cho nên quý vị thấy giờ ngồi thiền ở
trên chùa, phải vô ngồi yên, rồi không được ai động cái gì hết. Ngồi cho lặng để
tập cho nó yên lần lần. Chừng nào quý vị
giỏi rồi đi ra đường thiên hạ làm gì thì làm, nói gì thì nói, mình cũng
không thèm dính thì đó rất hay. Cho tới gặp những lúc tai họa tới ầm ầm trên đầu
mình, mình cũng vẫn tự tại, thì đó là thành công viên mãn. Đó là tới cái chỗ
này, cho nên ngài nói:
Túng ngộ phong đao thường thản thản,
Giả nhiêu độc dược dã nhàn nhàn.
Dù cho gặp đao bén mình cũng vẫn coi nó rất là thường, giả sử
như bị thuốc độc mình cũng đếm xỉa gì hết, tự tại, vì vậy mà sống chết tự tại.
Vì tất cả đao bén, thuốc độc là cái tử, đem cái chết đến cho mình, mà mình đã
sanh tử tự nhiên, sanh tử là trò chơi, thì hai cái đó mình hết sợ.
Bây giờ mình nói sanh tử là thật, sống là thật; sống là thật sống,
chết là thật chết. Nhưng thật ra có cái sống thật, chết thật không? Bởi vì hiểu
được lý luân hồi của đạo Phật thì sanh tức rồi tử, mà tử tức là sẽ sanh. Như vậy
tử có thật tử đâu, mà sanh có thật sanh đâu. Sanh rồi đi tới cái tử, tử rồi trở
lại sanh, chớ đâu phải dứt. Như vậy sanh cũng không thật sanh, tử cũng không thật
tử, chỉ là vòng lẩn quẩn chớ nó không có gì thật hết, mà chúng ta sợ. Sợ mà khỏi
không?
Có người nào không sợ chết không, kể cả người tu? Chắc ai cũng sợ
chết hết. Mà có khỏi chết không? Ai cũng chết hết. Cái không khỏi mà sợ thì
sáng suốt chưa? Nếu mình sợ vì người người kia chết, người nọ chết mà mình khỏi
chết hay người này khỏi chết, thì mình sợ để tránh, mình tìm cách tránh. Nhưng
rồi ai cũng chết, kẻ đi sớm, người đi muộn thôi, mà phải chết thì sợ sao được
mà sợ. Thôi thì mình tự tại, sống vui sống, chết vui chết, tự tại thảnh thơi,
khỏe biết mấy, ra đi mà không hồi hộp, không lo âu gì hết.
Còn chúng ta bây giờ gần chết thì than thở đủ điều, đó là vì tưởng
rằng chỉ có mình chết thôi, người khác không chết. Mình đi trước thì bà con đi
sau chớ gì. Có người nhìn lại những người sống rồi khổ rơi nước mắt, có gì đâu
mình đi trước thời gian rồi người ta cũng đuổi theo, cùng đi với nhau hết trơn,
có người nào ở lại mà sợ. Hiểu vậy rồi mình cười trong cái sống, cái chết chớ
mình không có sợ, đó là đạo lý thật. Đạo lý thật đó chúng ta hiểu thấu rồi thì
chúng ta sống mới an nhàn tự tại. Nếu chúng ta không hiểu, không thấu rồi thì
thấy nó như cái gì xa lạ với chúng ta.
Như vậy thì quý vị hiểu
tu thiền chưa, mà biết tu thiền của Tổ chưa! Xin đừng nghĩ thiện, nghĩ ác cái rồi,
dễ biết mấy. Chuyện đó quý vị kiểm lại coi
ai có quyền cho mình không nghĩ thiện, không nghĩ ác? Mình trọn quyền, nên mình
có quyền làm Phật. Mình có quyền mà mình còn dung dưỡng nó thì tội tại ai? Cũng
tại mình. Mình có quyền nghĩ, mình cũng có quyền không nghĩ. Giờ nó nghĩ đó cứ
để nó nghĩ hoài không cho nó ngưng nghĩ, không bắt nó ngưng nghĩ thì lỗi đó tại
mình chớ tại ai. Như vậy thì đừng trách thiên hạ, mà trách mình đi. Mình chưa
ưng làm Phật, vậy mà cứ lạy Phật, Phật cho con được đời đời gặp Phật để tu để
được thành Phật. Cần gì đời đời, ngay bây giờ đừng thèm nghĩ bậy bạ cái rồi hà,
khỏi đời đời chi cho xa xôi.
Cho nên thiền đó là thiền đốn ngộ, đốn ngộ tức là nhanh, mà khả
năng mình không giỏi thì nó không nhanh. Người nào đủ khả năng nghe hiểu rồi
buông được hết, không cho nghĩ thì nó dừng ngay thì nhanh trở bàn tay chớ không
gì lạ hết. Đó là lẽ thật của sự tu.
CHÁNH VĂN :
Ngã
Sư đắc kiến Nhiên Đăng Phật,
Đa
kiếp tằng vi nhẫn nhục tiên.
Kỷ
hồi sanh! Kỷ hồi tử!
Sanh
tử du du vô định chỉ!
GIẢNG:
Ngã Sư đắc kiến Nhiên Đăng Phật, ngã
sư là thầy của tôi. Thầy tôi được thấy Đức Phật Nhiên Đăng.
Đó là kể lại Đức Phật Thích Ca của chúng ta ngày xưa, khi tu
thành Phật, Ngài có kể lại rằng trước kia Ngài đã từng gặp Đức Phật Nhiên Đăng
giáo hoá, nên Ngài tu hành đến bây giờ được thành Phật. Đó là nhắc lại lời của
Đức Phật kể.
Đa kiếp tằng vi nhẫn nhục tiên. Nghĩa
là nhiều đời nhiều kiếp Ngài đã làm vị tiên nhẫn nhục.
Đó là để cho thấy rằng, tu thành Phật không phải một lần hay một
kiếp, mà rất nhiều đời nhiều kiếp. Bởi nhiều đời nhiều kiếp tu hành, nên đời cuối
cùng Đức Thích Ca mới thành Phật. Chúng ta bây giờ tu quý vị nghĩ chừng bao lâu thành Phật? Chắc cũng nhiều
đời nhiều kiếp lắm. Vậy hiện giờ nhìn trong hội chúng này tăng ni và Phật tử, nếu
nhìn cái đầu thì nói ai tu được nhiều kiếp rồi? Đây là tôi nói cái đầu, chớ
chưa nói tới tiền duyên tiền kiếp của mỗi người. Người được đầu tròn áo vuông
chắc rằng tu trước hơn người chưa được. Quý vị
được đầu tròn áo vuông có tin rằng, con đường đến thành Phật mình đã gần
mục đích chưa? Chắc cũng còn xa.
Như vậy từ khi phát tâm tu cho tới thành Phật quả là phải nhiều
kiếp nhiều đời, chớ không phải một kiếp một đời. Hiểu vậy rồi thì trên sự tu
hành chúng ta không lấy gì làm lạ. Như trên trong kinh Phật kể lại rằng, trước
kia Ngài đã từng làm những vị tiên nhơn nhẫn nhục. Có khi bị người ta xin tay
xin chân, có khi xin vợ xin con..v.v… đủ thứ, mà Ngài kham chịu nhẫn nhục không
buồn, không phiền, mà nhiều lần như vậy đó, cho nên sau này Ngài mới thành Phật.
Vậy toàn thể tăng ni, Phật tử chúng ta tu nếu gặp cái gì khó
khăn, gặp cái gì buồn phiền thì chúng ta làm sao? Nên tập là tiên nhẫn nhục
không? Hay là mình cũng ăn thua chung đủ với người ta? Nếu Đức Phật ngày xưa
chưa từng làm tiên nhẫn nhục, thì làm sao sau này có đắc quả thành Phật! Còn
chúng ta bây giờ tu không nhịn ai hết, không nhịn mà còn đòi thành Phật thì tu
được không, thành được không? Như vậy quý vị
hiểu chúng ta phải dày công, phải có sức nhẫn nhục, thì kết quả mới
thành tựu. Tu Phật muốn được thành Phật thì phải đủ những tư cách chịu đựng nhẫn
nhục, bố thí..v.v…
Đó là hai câu ngài nhắc lại đời Đức Phật từ hiện tại cho tới những
quá khứ đã qua Ngài từng tu như vậy.
Kỷ hồi sanh! Kỷ hồi tử! Tức
là bao nhiêu lần sanh, bao nhiêu lần tử.
Sanh tử du du vô định chỉ! Tức
là sanh và tử, nó luôn luôn nối tiếp không dừng. Từ khi khởi tâm tu cho tới
ngày thành Phật trên đường sanh tử nó liên miên không dừng không dứt.
Như vậy thì tất cả chúng ta tu mà muốn được kết quả viên mãn thì
trên đường tu phải liên tục, đời này kiếp tới, luôn luôn. Chúng ta nhìn trong một
đời này thấy qua một đời dài hay ngắn? Lúc còn trẻ mười lăm, mười bảy thấy nó
dài. Nếu tới bảy tám chục thì thấy dài hay ngắn? Nó kề một bên. Vậy một đời người
mới ra còn trẻ thì chúng ta thấy dài ngán, nếu đi qua gần cuối đời rồi thì thấy
rất là ngắn, cứ đời này qua rồi tới đời khác.
Nhiều khi với tuổi của tôi, năm nào đó thấy mấy Phật tử tới với
tôi thì cũng đầu xanh hết, bây giờ nhìn lại người nào tối thiểu cũng bạc hoa
râm rồi. Như vậy cái tuổi, cuộc đời của chúng ta nó liên tục biến chuyển, từ tẻ
sang già, rồi tới chết. Mà quý vị nghe
chết có buồn không? Nghe chết ngán quá. Vậy thì chúng ta muốn không chết phải
không? Nếu muốn không chết thì ráng tu như Phật chứng quả rồi hết chết. Còn
chưa chứng quả thì liên tục chết, chết đời này, chết đời nọ, chết mãi mãi, cho
tới cuối cùng được giác ngộ viên mãn, chứng được quả vô sanh rồi Niết bàn thì
chừng đó mới ngừng sanh tử, đó gọi là giải thoát sanh tử.
Vậy trên đường tu chúng ta là người lữ hành đang từng bước, từng
bước hướng về cái gì? Nếu tăng ni thì hướng về cái đích giải thoát, giải thoát
tức là hết sanh tử. Còn Phật tử mình thì hướng về cái gì? Cũng từng bước từng
bước hướng về gieo duyên lành, đời này được một ít, đời sau được một ít. Cứ gom
góp từng chút ít, rồi không biết chừng nào đó đầy đủ thì mới đến được cái đích
giải thoát. Vì vậy đối với sự tu hành chúng ta phải đầy đủ lòng tin rằng, có tu
là có tiến. Tiến ít, tiến nhiều cũng là có tiến. Người hùng dũng thì tiến
nhanh, người yếu ớt thì tiến chậm, nhưng có tu thì có tiến. Chỉ sợ không tu thì
chịu thôi, không biết đời này được làm người, đời sau được làm cái gì không biết,
chớ có tu là có tiến.
Hiểu vậy thì quý vị yên
lòng để chúng ta cố gắng tiến lên, đừng dừng một chỗ hay đừng lùi đừng sụt, thì
đó là con người biết tu và cố gắng tu.
CHÁNH VĂN :
Tự
tòng đốn ngộ liễu vô sanh,
Ư
chư vinh nhục hà ưu hỷ?
Nhập
thâm sơn, trú lan nhã,
Sầm
ngâm u thúy trường tùng hạ,
Ưu
du tĩnh tọa dã tăng gia,
Khuých
tịch an cư thật tiêu sái!
GIẢNG :
Ngài diễn tả đời tu của người thấy được con đường thoát tục.
Ngài nói rằng:
Tự tòng đốn ngộ liễu vô sanh, nghĩa
là từ khi ngài chóng ngộ được lý vô sanh của Phật dạy. Khi nhận được lý vô sanh
đó rồi thì làm gì?
Ư chư vinh nhục hà ưu hỷ? Là đối
với cái vinh cái nhục không buồn, không lo, không vui gì hết. Không vui, không
buồn khi gặp cảnh vinh, cảnh nhục. Sở dĩ không có buồn vui đối với cảnh vinh nhục
là thấy được lý vô sanh, còn chưa thấy được lý vô sanh thì gặp cảnh vinh thì cười
hú hí, gặp cảnh nhục thì khóc lu bù, chớ không được yên. Chúng ta chưa thấy được
lý vô sanh nên chúng ta vui khi được vinh, tủi buồn khi bị nhục.
Vậy người thấy được lý vô sanh rồi làm cái gì, thích cái gì?
Nhập thâm sơn, trú lan nhã, Sau
khi thấy được lý vô sanh rồi, thì thích vào núi sâu, ở chỗ vắng vẻ. Đó là tư
cách, đó là hạnh an lạc của người xuất gia.
Sầm ngâm u thúy trường tùng hạ, Sầm
ngâm là chỗ dày bịt hay chỗ sâu kín. U thúy cũng là chỗ thâm sâu ở trong. Nói
theo thế thường là chỗ rừng già, chỗ thâm sâu ở trong, ở dưới cội tùng hay gốc
thông mình ngồi lặng lẽ. Hay nói cách khác là chúng ta sau khi hiểu được lý vô
sanh rồi thì chúng ta thích đi vào núi sâu, chỗ vắng vẻ, nơi rừng rậm vắng vẻ,
rồi ngồi dưới cội tùng yên tu.
Quý vị có làm được cái đó
chút nào chưa? Chắc chưa thấy được lý vô sanh, nên rồi cũng còn vật lộn với cuộc
sanh tử này, chưa có yên mà ngồi trong chỗ vắng vẻ đó.
Ưu du tĩnh tọa dã tăng gia, Ưu du
là thong thả, tỉnh tọa là ngồi yên. Thong thả ngồi yên đó là tư cách của người tu,
người xuất gia, của tăng gia.
Vậy khi chúng ta tu vào rừng sâu, ở chỗ vắng lặng, rồi đi hành,
ngồi tọa thiền, đó là tư cách, là thái độ của người tu.
Khuých tịch an cư thật tiêu sái! Yên ở
chỗ vắng vẻ đó thật là vui tuyệt, vui vô cùng. Quý vị được cái vui đó chưa?
Bây giờ, chẳng những là cư sĩ mà người tu chúng ta bắt bỏ vô rừng
ở chỗ vắng một thời gian thì sao? Xách gói chạy về thành thị liền, ở đó buồn
quá, nghe tiếng cọp rống, nghe tiếng chim kêu, rồi nhớ nhà, nhớ chùa, không an ở
được chỗ vắng vẻ. Đừng nói là một mình, mà ở chỗ vắng vài ba huynh đệ cũng là
buồn nữa, huống là một mình yên ở chỗ ấy.
Còn ở đây khi chúng ta thấy được lý vô sanh rồi, thì ở chỗ vắng
vẻ yên tịnh, núi sâu, rừng rậm mà chúng ta rất là vui, rất là tự tại. Quý vị thấy cái vui của người đạt đạo, với cái vui của
người thế gian khác nhau quá. Một bên thì tìm cảnh ồn náo vui chơi cho đó là
vui. Một một bên thì vào núi sâu rừng rậm, ngồi một mình tỉnh tọa, đó là vui,
vui tuyệt.
Như vậy cái vui bên ồn náo, và cái vui bên tịch tĩnh vắng lặng
hai cái vui nó khác nhau chỗ nào? Cười thì cũng vẫn cười, vui thì cũng vẫn vui.
Nhưng bên này vui trong cái khổ, còn bên kia vui trong lý vô sanh.
Vui trong cái khổ là gì? Thí dụ quý vị đi coi đá bóng vui không? Nếu người ta đá
trái bóng vào lưới đội kia thì mình vổ tay ầm ỉ lên, thì trong đó có những người
đau khổ không? Nghĩa là hai bên, một bên vổ tay thì hoan hỉ lắm mừng lắm, còn
bên thua thì rầu khổ. Như vậy cái vui trong cái khổ, chớ không có cái vui thật.
Gần nhất là quý vị vào rạp
hát để xem tuồng hát, tuồng ca, cải lương chẳng hạn. Khi sắp mua vé vào rạp vui
không? Đi chơi giải trí vui. Nhưng vô đó rồi đôi khi quý vị có khóc không? Gặp mấy cô đào thương làm cái
gì buồn quá bắt chước khóc theo. Như vậy thật vui không, hay vui trong cái buồn,
vui trong cái khổ?
Vậy tất cả cái vui của thế gian là vui đối đải, bên cạnh cái vui
là có cái khổ, chớ không có cái vui trọn.
Còn cái vui của người thấy đạo ở nơi vắng vẻ đó là vui mà không
có khổ? Tại sao vui? Bởi vì những niệm dấy lên tạo nghiệp sanh tử nó đã lặng hết
rồi. Niệm tạo nghiệp sanh tử không còn nữa thì còn lại cái gì? Hết buồn, hết
vui, hết thương, hết ghét rồi, thì như vậy chỉ còn thuần một điều là nhàn hạ,
thảnh thơi, không một niệm gì thương ghét giận hờn. Cái vui thanh nhàn, cái vui
tự tại đó có khổ một bên không? Không có. Bởi vậy cái vui đó mới là vui thật.
Còn cái vui đối đải nó không thật đâu, vui bên cái khổ. Nhất là
những người đánh quyền với nhau, bên này hạ được bên kia thì vổ tay mừng thắng
trận. Nhưng mừng thắng trận đó, thì có một người muốn ói ra máu. Như vậy mình
vui trong cái đau khổ chớ có vui thật đâu, mà thế gian cứ tìm cái vui như vậy gọi
là giải trí. Giải trí trong cái đau khổ, chớ không giải trí thật là vui.
Vui của người tu là vui gạn lọc hết những tâm tư ghét thương, buồn
phiền, giận thù..v.v… lặng hết không còn, chỉ một thảnh thơi nhàn hạ, tâm nó an
nhàn, tự tại. Cái vui đó mới là vui thật, vui đó là vui của người tu. Cho nên
ngài dùng từ thật tiêu sái tức thật là vui tuyệt, không có cái gì bằng, không
có đối đải.
Chúng ta hiểu được cái vui của người tu và cái vui của người đời hai bên nó khác nhau. Mà cái vui của người tu, nó không có cái khổ bên cạnh. Còn vui của người đời thì đều có cái khổ một bên.
CHÁNH VĂN :
Giác
tức liễu, bất thi công,
Nhất
thiết hữu vi pháp bất đồng.
Trụ
tướng bố thí sanh thiên phước,
Do
như ngưỡng tiễn xạ hư không.
GIẢNG :
Giác tức liễu, bất thi công, nghĩa
là mình giác ngộ là xong không cần dụng công gì nữa hết. Câu này nghe hơi khó.
Giác ngộ là xong không cần dụng công gì.
Đây tôi thí dụ cho quý vị
dễ hiểu. Như mình thấy thân này là thật, thì lúc đó mình giác hay mê? Nếu
thấy thân là thật tức là mê. Tại sao mê? Nó không thật mà tưởng là thật. Quý vị nghĩ thân thật không? Nếu thật thì nó phải
còn hoài. Bây giờ chúng ta nhìn từ chặng đường, ông cha chúng ta những người
trước giờ còn đủ hết không? Vậy ngày xưa còn gọi là thật, chừng mất đi gọi là
sao? Thật hay giả? Nếu thật thì trước thật, sau cũng thật, thật thì còn hoài.
Trước có, bây giờ không, thì thật được không? Đó là nhìn ngược chiều theo dòng
lịch sử ông cha mình thì thấy những người đã qua, qua rồi mất, qua rồi mất, từng
đợt. Tới mình rồi sao nữa, mình cũng qua rồi mất nữa. Người trước qua rồi mất từng
đợt, mình cũng qua rồi mất thì một chuỗi dài đó thật hay giả? Nếu thật thì chuỗi
dài đó còn nguyên, còn chuỗi dài đó qua rồi mất thì làm sao nói thật được.
Đó là nói những lớp trước, lớp kế và lớp sau nhìn lại thì lớp
trước không còn. Có mặt rồi mất, có mặt rồi mất, vậy mà chúng ta nói thật. Thật
được không? Rồi nhìn lại lớp ngang với mình, những người sống được năm sáu mươi
tuổi, nhìn lại lớp ngang của mình coi có mất người nào chưa? Mất khá nhiều rồi
chớ, mất anh mất chị, mất em, mất cháu gì cũng có mất hết, lớn mất, nhỏ cũng có
mất. Như vậy người ngang mình họ cũng đã mất. Họ có đồng thời với mình bây giờ
họ mất mình còn, họ mất coi như giả dối rồi, mình còn thì thật được không? Hai
món đồ giá trị ngang nhau đang ở kề nhau, cái biết nó giả thì cái này thật được
không? Cũng không thật, vậy mà tưởng thật có phải mê không? Quý vị xét thật kỹ thấy chúng ta đang mê muội đáng
thương.
Như vậy xét từng chặng đường những người đi trước thì đã qua mất,
xét ngay hiện thời của mình người mình đã biết có bao nhiêu người đã mất rồi. Vậy
chúng ta còn lại chúng ta thật được à. Ai mất rồi là giả, ai còn là thật được
sao? Chỉ thật hơn là nó dài hơn một chút thôi, chớ làm sao nói thật được. Vậy
mà chúng ta khi còn thở, còn đi lại được thì nói thật, thật một trăm phần trăm,
động tới thì sân si đùng đùng lên, nổi giận nổi nóng lên. Bây giờ quý vị thấy rõ, đang sống mà biết mình giả thì người
ta chửi có giận không?
Vậy giác tức liễu, giác ngộ rồi thì mọi việc giải quyết xong hết.
Tại vì mê, mê cái giả mà tưởng là thật nên tu hoài trần ai lai khổ, nghĩa là họ
động tới thì mình phản ứng rất mạnh là tại vì mình chấp mình thật. Nếu mình biết
mình tạm giả, thì động tới mình cười thôi có ra gì, chuyện đó là chuyện thường.
Nhất là động tới danh dự của mình đó, họ chê họ khinh bỉ, có giận không? Tất cả
cái mà chúng ta đặt là danh dự của mình, là cái gì nó ở đâu? Chẳng qua là một
chuỗi dài của người xưa tạo cho mình một tưởng tượng danh dự của tôi đó. Danh dự
tôi không biết cái gì. Như vậy khi chúng ta lầm mê thân, lầm mê danh dự, lầm mê
bản ngã thì không biết bao nhiêu phiền hà, bởi vậy nên tu hết sức là khó. Người
ta nói anh đó ngu quá, chạm tới danh dự tôi rồi đó.
Phật có chạm tới danh dự mình không? Phật nói mình si mê, là vô
minh thì có chạm danh dự không? Sao mình không giận Phật, mà người khác nói một
chút liền nổi giận đùng đùng lên. Quý vị
thấy rõ ràng là chúng ta đang điên đảo, không có một cái nhìn tường tận
thấu đáo, gọi đó là mê. Bởi mê cho nên rồi tất cả những cái gì đến với chúng
ta, thì chúng ta đều chấp chặt bám giữ nên hết sức khó tu. Bây giờ, mình giác
ngộ thân này là giả, thân giả thì tất cả những cái gì quanh nó, bên cạnh nó
cũng giả theo thì mọi việc khỏi cần tu nó cũng sạch hết. Giờ quý vị làm cái đó thử coi nó sạch được không? Ai chửi
nói tôi còn giả huống nữa lời chửi. Như vậy thì có nhẫn nhục có gì đâu. Cho nên
giác tức liễu bất thi công, nghĩa là giác ngộ là xong, khỏi cần phải công phu
gì hết.
Giá trị của người tu Phật là ở chỗ giác ngộ. Chúng ta giác ngộ
thì mọi cái khó, khó thắng, khó nhẫn đều dễ như trở tay, không khó chút nào hết.
Nếu chúng ta mê thì thật là cái gì cũng khó, khó đủ hết. Thua một lời nói cũng
không nhịn, hơn một lời nói thì mừng, cứ như vậy mà khổ hoài, từ khổ này kéo
sang khổ khác. Cho nên người biết tu là người phải giác ngộ.
Quý vị nói là đệ tử Phật
là đệ tử bậc giác ngộ, mà đệ tử bậc giác ngộ thì không giác được trăm phần
trăm, tối thiểu cũng giác được vài chục phần trăm. Thế mà dường như y nguyên. Bởi
vậy quí Phật tử nghe huynh đệ mình nói, tu mười năm hai mười năm mà sao phiền
não không hết, thì đánh giá người đó tu mà chưa giác ngộ, vì chưa giác ngộ nên
phiền não làm gì hết. Chỉ biết tụng kinh gỏ mỏ mà không biết giác ngộ; không biết
giác ngộ, không giác ngộ thì xứng đáng đệ tử Phật chưa?
Đó là những cái mà tôi đặt ra cho quý vị thấy cái tu của mình nó nằm ở chỗ nào, khác với
người đời ở cái gì. Chúng ta cứ tưởng tượng dụng công nhiều, hoặc xử sự với mọi
người bằng cách biết nhẫn, biết nhịn là tu khá rồi. Nhưng nhẫn nhịn mà thấy nó
thật thì về nhà cũng buồn lắm, bửa nay nói câu đó ráng nhịn chớ còn trong lòng
uất ức chưa yên. Còn mình biết mình là giả, thân này giả thì người nào có chê
có khen cũng là đùa chơi chớ không gì hết, thành ra không có gì uất ức, không
có gì bực bội trong lòng hết. Đó là trò đùa con nít mà có gì.
Câu này mới nghe thì thấy thường nhưng đi sâu rồi mới thấy giá
trị người biết tu. Nếu mình giác là xong không cần phải dụng công gì nhiều hết.
Nhất thiết hữu vi pháp bất đồng.
Trụ tướng bố thí sanh thiên phước,
Hai câu này để đánh thức chúng ta. Nói rằng tất cả pháp hữu vi,
hữu vi là đối với vô vi. Tôi giải thích hữu vi cho quý vị hiểu. Trong nhà Phật nói hữu vi là cái gì có
đủ bốn tướng sanh, trụ, dị, diệt. Như con người sanh già bệnh chết là pháp hữu
vi, quả địa cầu có thành trụ hoại không là thuộc pháp hữu vi. Tất cả sự vật có
hình có tướng đều trải qua bốn tướng đó đều là pháp hữu vi, vì có trong tạm bợ
rồi mất nên gọi là pháp hữu vi.
Nhất thiết hữu vi pháp bất đồng, là tất cả pháp hữu vi nó không
đồng. Không đồng là nó không còn mãi, mà có lớn có nhỏ, có sanh có diệt, một
chiều chuyển biến không dừng.
Trụ tướng bố thí sanh thiên phước, nếu người nào trụ tướng bố
thí thì được phước sanh cõi trời.
Quý vị chịu không? Thích
bố thí đời sau được sanh cõi trời, chắc đa số thích rồi. Đời này làm việc bố
thí, đời sau sanh cõi trời tha hồ mà hưởng. Muốn ăn có ăn, muốn mặc có mặc, muốn
dùng cái gì thì có cái ấy sẳn sàng hết, không có thiếu, không có cái gì mà
không thỏa mãn mình. Như vậy là ai cũng thích sanh cõi trời.
Nhưng ở đây ngài nói mình trụ tướng bố thí, thí dụ đem một triệu
đồng giúp người nghèo, người tàn tật… thì khi mình thấy đồng tiền mình quí và
mình làm cứu giúp được người kia một phần nào, cái gì đó mình cũng cho là quí.
Như vậy đó là mình trụ tướng bố thí. Trụ tướng bố thí thì kết quả làm sao? Mình
được phước sanh lên cõi trời, sau muốn cái gì được cái nấy. Như vậy thì thoả
mãn được cái nguyện vọng của mình, thụ hưởng phước mình đã tạo.
Do như ngưỡng tiễn xạ hư không.
Ở đây người thí dụ như là mũi tên hay viên đạn bắn lên hư không.
Khi bắn thì nó vọt tuốt lên hư không, nhưng khi sức đẩy hết thì rơi tuột xuống
không có giữ được.
Bây giờ tôi nói gần, thí dụ như những người ở trên thế gian được
địa vị cao, tiền của nhiều, sung sướng muốn gì được nấy, thì những người đó tu
được không? Ở địa vị đó thụ hưởng, thụ hưởng hết rồi tuột xuống.
Đó là nói thế gian thôi, huống nữa là cõi trời còn sung sướng hơn
nhiều. Nghĩa là muốn ăn ngon thì có cái gì đó đúng sở thích ăn ngon của mình,
muốn mặc đẹp thì cái gì đúng sở thích mình mặc vô hài lòng. Rồi cả ngày nghe ca
nghe nhạc đủ thứ hết, cái gì vui chơi đều có đủ, mà người ta nói nhạc trời hay
hơn nhạc thế gian nữa. Như vậy thì say mê tít mù không có tuột xuống, hưởng cho
đả đời còn thời giờ đâu mà tu. Cứ lo hưởng, hưởng hết rồi cái thôi, chừng đó hết
phước thì tuột xuống nhân gian trở lại như thường.
Như vậy một thời gian mười ngàn năm, hai chục ngàn năm được sanh
cõi trời là thời gian hưởng, hưởng hết rồi tuột xuống, chớ không có tiến được nữa.
Cái đó hết rồi sẽ tuột cũng như viên đạn hay mũi tên bắn cao lên, còn sức thì
nó còn lên, hết sức rồi nó tuột xuống tận dưới. Như vậy thì quý vị thích lên cõi trời không? Lên hưởng sướng quá
mà, lên đó là được hưởng.
Nhưng Đức Phật khuyên chúng ta không nên nguyện sanh lên cõi trời.
Tại sao vậy? Bởi vì ở trên đó mấy ngàn năm là mấy ngàn năm thụ hưởng, thụ hưởng
hết rồi tuột xuống. Bây giờ tôi hỏi quý vị, hằng ngày chúng ta được ăn cao
lương mỹ vị, mặc gấm vóc, được tất cả, cái gì thế gian cho là đẹp mình được hưởng
hết, mà hưởng hết rồi tới chết. Hưởng cho đủ rồi chết thì quý vị nghĩ làm sao? Hạnh phúc chưa? Có người họ thiếu
thốn quá họ tưởng được hưởng như vậy là hạnh phúc.
Với cái nhìn của đức Phật thì hưởng đó là tạm bợ cho thể xác tạm
bợ, không có cái gì quan trọng, không có gì lâu dài. Chúng ta cứ muốn hưởng cái
tạm bợ đó, khi thân tạm bợ này rả tan thì bao nhiêu cái hưởng thành cái gì? Ăn
ngon, mặc đẹp cái gì cũng sang trọng hết, nhưng khi tắt thở vài tiếng đồng hồ
còn sang trọng không? Nó chỉ là cái giả tạm, mà mình thích giả tạm đó là mình
hưởng hết rồi nó cũng trở lùi cái xấu xa, cái tệ hại chớ không gì hết. Lên cõi
trời cũng vậy, lên đó hưởng cho đả rồi hết tuột xuống, như vậy mất mấy ngàn năm
không làm gì hết, ăn ngủ không. Mấy ngàn năm ăn ngủ không có nghĩa lý gì hết, rồi
cũng tuột xuống như thường.
Chi bằng ở cõi trần gian này có khi thì khổ, có khi vui. Gặp vui
thì mình hơi say sưa quên, gặp lúc khổ thức tỉnh à đời này khổ quá ráng tu. Vì
mình có chứng kiến, có nhận ra được cái đau khổ đó rồi, nên không quyến luyến
cõi đời nữa, mà cố gắng tu. Như vậy trong mấy chục năm, chúng ta sống ở đây, có
vui có khổ lẫn lộn rồi chúng ta dễ tỉnh. Từ dễ tỉnh đó chúng ta có thời gian tiến
tu. Vậy thời gian ở đây ngắn mà chúng ta còn tìm cách vươn lên được, còn thời
gian cõi trời rất dài mà thụ hưởng rốt rồi tuột xuống như không, mất hết trơn
công phu của mình uổng không.
Vì vậy Phật không muốn chúng ta tu cầu sanh cõi trời, mà muốn
chúng ta tu cầu giác ngộ giải thoát sanh tử mới là quan trọng.
Đây dùng thí dụ để hiểu rằng mình có bao nhiêu phước được hưởng,
được say sưa trong đó nhưng rốt cuộc cũng tuột xuống thành hai bàn tay không,
không có gì. Còn chúng ta ở đây mà sớm tỉnh, thì chúng ta sẽ có phước để vươn
lên. Bởi vậy câu sau ngài nói:
CHÁNH VĂN :
Thế
lực tận, tiễn hoàn trụy,
Chiêu
đắc lai sanh bất như ý.
Tranh
tự vô vi thực tướng môn,
Nhất
siêu trực nhập Như Lai địa.
GIẢNG :
Thế lực tận, tiễn hoàn trụy, là thế
lực hết rồi thì mũi tên cũng rơi xuống trở lại.
Chiêu đắc lai sanh bất như ý, là
chừng đó mình mới chuốc lấy những đời sau không được vừa ý.
Ở cõi trời sung sướng quá, rồi tuột xuống đây làm người phàm tục
trở lại, rồi cũng buồn thương giận ghét, đói thiếu đủ thứ khổ không như ý nữa.
Như vậy thì tất cả cái phước hữu lậu là phước được rồi sẽ mất,
cho nên trong nhà Phật dùng từ bố thí “tam luân không tịch”. Tam luân là mình
là người bố thí, người nhận của thí và món đồ thí đều thấy ba cái đó không thật,
như huyễn hoá, không có gì chấp. Làm tất cả mà không chấp không thấy nó thật,
thì cái đó gọi là bố thí ba la mật đó, cứu kính đó. Bố thí mà mình thấy đồng tiền
mình thật, người bệnh kia mình giúp hết bệnh thật, rồi mình vui mừng thì đó là
bố thí hữu lậu, còn sanh diệt. Cái nào cũng có kết quả hết, kết quả của sanh diệt,
còn cái này kết quả của vô sanh, hai hành động khác nhau chỗ đó.
Cho nên mình tu phải làm sao vượt qua tướng hữu vi là tướng sanh
diệt đó, để đi tới tướng vô vi là không sanh không diệt. Nghĩa là không còn
thành trụ hoại không hay là sanh già bệnh chết…, đó là tướng vô vi.
Ở đây nói:
Tranh tự vô vi thực tướng môn,
Nhất siêu trực nhập Như Lai địa.
Ở trên mình làm được tướng hữu vi, làm thì được có kết quả nhưng
kết quả trong hữu vi, mà được rồi cũng phải mất chỉ trong thời gian ngắn hoặc
dài thôi, chớ không phải được hoàn toàn viên mãn. Ở đây về phước vô vi hay tu
vô vi, vô vi là tu không phải theo đạo vô vi, mà tu vô vi là không chấp tướng,
không trụ nơi pháp. Đó là vô vi, thực tướng môn, là cửa thực tướng.
Nhất siêu trực nhập Như Lai địa, một phen thẳng lên rồi nhập được
vào đất Như Lai tức là đất Phật là đất bất sanh bất diệt.
Như vậy quý vị thấy chúng
ta đuổi theo tìm kiếm được bao nhiêu cái sanh diệt, diệt rồi sanh rốt cuộc cũng
không đi tới đâu.
Thí dụ như người tu phước làm những việc lành việc phước, tạo được
những công đức lớn đời sau sanh lên cõi trời sống một ngàn tuổi, hưởng hết ngàn
tuổi rồi tuột xuống trở lại. Như vậy lên rồi xuống. Trở xuống đây rồi ráng tu
phước nữa, rồi chết sanh cõi trời hưởng ngàn năn nữa rồi tuột xuống trở lại.
Như vậy đi lên, đi xuống chừng một trăm lần, có bước được mấy bước xa không?
Lên rồi cuối cùng cũng tuột xuống chỗ này, tuột xuống chỗ này rồi lên nữa rồi
tuột xuống nữa, rốt cuộc một trăm lần lên như vậy rồi cũng ngồi y nguyên dưới
này chớ không có gì hết.
Nhưng một khi mình đi thẳng vào chỗ vô sanh mình không còn trở lại
nữa, không bị sanh tử lôi kéo nữa thì đó gọi là thực tướng môn tức cái cửa chân
thật, mà cửa chân thật đó là cửa vô vi tức không sanh không diệt, không có
thành trụ hoại không, không có sanh già bệnh chết..v.v…
Như vậy chúng ta tu cũng làm thiện, bây giờ tôi nói để nhiều khi
quý vị hiểu lầm, người tu về hạnh vô vi
hay hạnh giải thoát có làm việc bố thí không, có làm việc phước đức không? Vẫn
làm tất cả nhưng làm để mà làm chớ không có hưởng, không có mong mình hưởng hai
bên. Mình làm mà có hậu ý được hưởng, thì khi thấy có ai nghèo đói mình giúp đở
họ. Họ qua cơn nghèo đói rồi, mai mốt họ làm ăn khá giả, họ thấy mình không
thèm chào thì có giận không? Ngày xưa khổ sở được mình giúp, bây giờ khá rồi
thì không nhìn há, khinh miệt đồ. Như vậy làm phước của mình còn mong cái gì đền
trả, mà họ không biết đền trả thì nổi sân lên.
Còn mình làm, anh đói tôi giúp anh rồi thôi, không nhớ cái mình
là người ban ân, kia là kẻ thọ ân, mà không nhớ như vậy thì làm mình tất cả mà
không có gì ở mình hết. Như vậy mai mốt họ gặp mình chửi cũng cười thôi, không
có gì giận hờn.
Còn mình làm mà có hậu ý người đó phải biết ơn mình rồi để đền
đáp lại, ngày nay anh nghèo tôi giúp, ngay mai khá anh phải giúp lại tôi; nếu
ngày mai khá không giúp thì nổi tức lên liền. Như vậy cái giúp đó là giúp có hậu
ý mà trong nhà Phật gọi là phước hữu lậu, phước đó nó hết không còn hoài. Còn
mình làm tất cả mà tâm mình thản nhiên tự tại, thì đó là phước vô vi không sanh
diệt.
Như vậy quý vị muốn làm
phước nào? Bây giờ chẳng những làm rồi mai kia gặp lại họ không biết ơn mình giận.
Mà làm bố thí chỗ này giúp được một trăm người đói, nhóm khác giúp được một
trăm người đói, rồi về nhóm sau được đăng báo còn mình không được đăng báo giận
không? Như vậy mình hữu vi hay vô vi? Chỉ một chút đó thôi, đừng nói những người
được mình trực tiếp giúp họ không biết ơn mình, như vậy chúng ta bây giờ đang kẹt
trong hữu vi hết trơn. Bởi vậy làm rồi trông được khen, rồi làm nhiều ít bửa được
nhà nước khen thưởng, gắn huy chương thì thôi phấn khởi vô cùng. Nếu làm mà
không ai ngó ngàng tới, làm một hồi chán, làm phước như vậy đó mà không ai biết.
Vậy mình làm đòi người khác biết là hữu lậu hay vô lậu?
Cho nên người Phật tử chân chánh làm tất cả mà không cần ai biết
tới. Sẳn sàng giúp người đói, giúp rồi thôi không nhớ; sẳn sàng cứu người tật bệnh,
cứu rồi thôi không nhớ. Không cần ghi sổ tay nay tôi cứu được người này, mai
tôi cứu được người kia, cuối năm tính lại để được khen thưởng. Đó là tướng hữu
vi, không phải là người làm với tâm giác ngộ. Mình giác ngộ thì thấy kẻ khổ
mình thương, sẳn sàng có lòng từ bi cứu giúp mà giúp rồi thôi không nhớ, không
mong mõi phước gì đến với mình. Làm tất cả mà không trông đợi, không cầu mong
đó là phước vô vi. Cũng việc bố thí mà một bên hữu vi, một bên vô vi, một bên nằm
trong sanh diệt, một bên thoát ra sanh diệt, tăng trưởng công đức giải thoát
sanh tử.
Như vậy bên bố thí mà không mong cầu, bố thí mà không muốn đền
trả thì có kết quả gì không? Bố thí mà không mong cầu, không muốn đền trả, làm
rồi buông không nghĩ gì hết, thì có phước hay không? Nhiều khi quý vị lại nghĩ, mình còn nhớ mình bố thí, mình nhớ
mình giúp ai ai đó thì mới có phước. Bây giờ làm rồi không nhớ gì hết thì đâu
có phước, phải không? Thật ra không phải vậy, không nhớ gì hết phước còn to
hơn. To là to làm sao? Bởi vì mình làm tất cả điều lành, tất cả điều thiện mà
tâm không bận nghĩ tới người đền ơn, người khen thưởng gì hết, thì đó là tâm
thênh thang rộng rãi, mà tâm thênh thang rộng rãi thì phước cũng thênh thang,
không có nhỏ. Còn người hơi hẹp hòi, thì phước cũng hạn chế theo tâm hẹp hòi của
họ.
Thí dụ như quí Phật tử, thấy một người đang gặp hoạn nạn đau khổ,
mình có khả năng tới đâu giúp. Giúp rồi thôi không cần nhớ, không cần nhắc, mà
người đó là người biết ơn thì họ có quên ơn mình không? Họ vẫn biết ơn, chớ đâu
phải nhắc. Còn mình giúp cho họ rồi, ít bửa lại nhắc hôm đó anh nguy quá tôi có
giúp anh. Nếu hỏi bửa đó họ không tỏ ra qúi kính mình thì mai mốt nhắc nữa thì
như vậy thì lòng của người được thọ ơn họ có thấy mình rộng rãi không? Như vậy
mới thấy tâm của con người rộng rãi thênh thang thì phước cũng mênh mông, còn
tâm người hẹp hòi ít kỷ thì phước cũng hạn chế theo đó, được thì có được mà
cũng trong phạm vi đó thôi chớ không có rộng rãi.
Bởi vậy người có phước làm việc lành việc phước mà không quan
tâm không để ý, nhưng trên đường tu của họ thì mọi việc đều trôi chảy. Làm cái
gì lợi chúng sanh thì họ làm được đầy đủ không trở ngại thì như vậy có phước
không? Vì phước đó là sức mạnh, là trợ lực cho họ tiến trên con đường đạo cho
viên mãn. Nhiều người ít phước thì được đi tu, mà làm gì trục trặc nấy, muốn
làm mà làm không được thì như vậy là họ thiếu phước. Phước đó không phải là phước
họ cầu cạnh người ta trả, nhưng vì họ làm mà không có được cái tâm rộng rãi,
nên rồi phước lớn không có.
Vì vậy hiểu đạo lý rồi, nhìn trong đạo mình thấy thương. Có nhiều
người tu cũng kỷ lắm, hạnh cũng tốt lắm, mà muốn cất cái chùa không có tiền cất,
tội nghiệp không thấy thương. Có người thì tu cũng vừa phải thôi mà người này
cúng chùa, người kia cúng chùa mà chùa tốt nữa, thì mình thấy làm sao? Có ức
không? Tại sao người này tu ít mà hưởng được nhiều, người kia tu nhiều mà lại
khó khăn vậy? Đó thì mình cứ ngở vậy, nhưng không ngờ cái phước của người kia
đã sẳn, họ làm mà họ tính gì hết. Bây giờ đây họ phát tâm tu thì mọi cái chướng
không có, mọi thuận duyên đầy đủ, người ta làm được việc lớn. Cho nên người biết
vậy rồi, ở trong đạo đừng có nghĩ rằng người này tại sao tu mà làm trục trặc,
người kia tu mà tại sao làm dễ dàng. Đó là phước duyên của mỗi người, dầu họ
không cầu mà nó cũng vẫn đến như thường.
Hiểu như vậy quý vị mới
thấy cái phước nó không mất, chớ đừng ngở rằng mình không nghĩ, mình không nhớ
phước thì phước không có. Đừng nghĩ vậy. Không nghĩ không nhớ là tâm thênh
thang, mà tâm thênh thang thì phước cũng mênh mông chớ không có giới hạn. Đó là
tôi nói cho quý vị hiểu thêm.
Nhất siêu trực nhập Như Lai địa.
ĐƯỜNG SANH TỬ NHIỀU NGUY HIỂM
Đường vào vườn giác ngộ có nhiều cửa, hành giả trước tiên phải lấy tâm đại Bồ Đề làm khởi điểm chánh chân, rồi tùy căn cơ sở thích, muốn tu theo pháp môn nào cũng tốt. Trên đường tu, nếu luận về "căn cơ" thì môn Tịnh Độ bao gồm cả ba căn thượng, trung, hạ; chẳng những hạng phàm thường, mà các bậc Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ đều nguyện vãng sanh. Nếu luận về "thời tiết" thì thời mạt pháp này chúng sanh phần nhiều tâm tạp chướng nặng, môn Tịnh Độ dễ thật hành, lại có thể trong một đời được vãng sanh giải thoát. Nhưng, nếu luận về sở thích, thì riêng môn Tịnh Độ không thể thỏa mãn được hết mọi người, vì thế đức Như Lai mới nói nhiều pháp môn. Đại khái như những vị có tâm hùng tráng, ưa sự giản dị trực thiệp trong sáng, thì thích về Thiền Tông. Những vị ưa sự thần thông linh ứng kỳ bí, thích tu về Mật Tông. Những vị ưa lý luận, cần phân tích cho xác thật rành rẽ mới chịu tin tưởng làm theo, thích tu về Duy Thức Tông... Trong mỗi tông lại có nhiều chi tiết khác biệt, mà mỗi người hành trì không giống nhau.
Tuy nhiên, trong đời Mạt Pháp, hành giả đã phát đại Bồ Đề tâm thề độ mình độ sanh, mà muốn bảo đảm cho tâm ấy thành tựu không bị thối thất; dù tu các môn khác, cũng nên kiêm hành Tịnh Độ để cầu vãng sanh. Tại sao thế? Trong đây có ba sự kiện thiết yếu, xin tuần tự kể phần đại lược:
Trong nẻo sống chết luân hồi, có nhiều hiểm nguy chướng nạn cho đường tu. Muốn thoát cảnh hiểm luân hồi để bảo đảm tâm Bồ Đề không thối thất, phải cầu sanh Tịnh Độ. Đây là sự kiện thiết yếu trước tiên, mà hành giả cần lưu ý.
Tiên đức hằng răn nhắc: "Nếu tu mà không chuyên cầu giải thoát, thì sự tu nơi kiếp này là mối thù trong kiếp thứ ba." Sở dĩ có việc ấy, bởi kiếp thứ nhứt lo kham khổ tu hành, nên chuyển sanh qua kiếp thứ nhì được hưởng quả báo thông minh giàu sang quyền thế. Trong kiếp thứ hai này, do giàu sang nên dễ mê theo cảnh quyền quý, vợ đẹp con xinh, cùng các thú vui vật chất nơi cõi trần. Đã nếm mùi dục lạc tất dễ sanh đắm nhiễm, càng đắm nhiễm càng đi đến chỗ sa đọa tối tăm, dám làm nhiều điều ác để củng cố lợi quyền và thỏa lòng tham vọng. Kiếp thứ nhì đã gieo nhân như thế, kiếp thứ ba làm sao khỏi bị đọa lạc tam đồ?
Có kẻ gạn: "Kiếp trước đã có công tu gieo nhân tốt, không lẽ sang kiếp thứ nhì trí huệ căn lành đều mất, để đến nỗi phải bị đọa hay sao?" - Xin đáp: "Căn lành tuy có, nhưng nghiệp ác từ vô lượng kiếp chưa phải đã tiêu trừ. Mà trong cảnh trần, việc lành rất khó làm như leo lên cây cao, điều ác rất dễ phạm như tuột xuống dốc lở. Người xưa đã chẳng bảo: ‘Trọn đời làm lành, lành còn chẳng đủ; một ngày làm ác, ác tự có dư’ đó ư? Như những người giàu sang quyền thế mà chúng ta hiện thấy, kiếp trước họ đều có ít nhiều công đức bố thí tu phước làm lành, nhưng kẻ hướng về nẻo thiện không bao nhiêu, người say đắm danh lợi vinh hoa lại chiếm phần đa số. Thử hỏi có mấy vị đỗ cao quyền quý chịu xuất gia, sống một cuộc đời khắc khổ đạm bạc, hướng về mục đích giải thoát thanh cao? Ngay như người xuất gia, khi chưa có địa vị còn kham nhẫn tu hành, lúc đã được quyền danh, nhiều kẻ lễ bái tôn trọng cúng dường, lại dễ bị cảnh phù trần ràng buộc. Hiện tại ta thấy có biết bao hàng Tăng Ni thiện tín, trước còn tinh tấn hành trì, sau lần lần biếng trễ bỏ tu hoặc hoàn tục thối đạo, nói chi đến kiếp sau?"
Ở cõi người còn như thế, nếu sanh lên cõi trời cảnh vui ngũ dục quá nhiệm mầu, lại còn khó tu hơn nữa! Đó là nói những vị có phước, còn những người ít phước sống một cuộc đời nghèo khổ quá cũng khó tu. Hoặc tuy vào hạng trung lưu, nhưng giữa đời này tà đạo dẫy đầy; trong chánh pháp bậc thiện hữu tri thức khó gặp, nẻo đường giải thoát không phải dễ tìm! Đến như chúng sanh trong ba ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, thì việc tu niệm thật là khó đến muôn phần, vì các loài ấy ngu tối, thân tâm hằng ở trong cảnh khổ.
Kiếp luân hồi có nhiều hiểm nạn như thế, nếu không cầu sanh Tịnh Độ để thoát ly, tất khó bảo đảm tâm Bồ Đề không bị thối thất.
Niệm Phật Thập Yếu
CHÁNH VĂN :
Đản
đắc bổn, mạc sầu mạt,
Như
tịnh lưu ly hàm bửu nguyệt.
Ký
năng giải thử như ý châu,
Tự
lợi lợi tha chung bất kiệt.
Giang
nguyệt chiếu, tùng phong xuy,
Vĩnh
dạ thanh tiêu – hà sở vi?
GIẢNG :
Đoạn này nói rõ về người tu.
Đản đắc bổn, mạc sầu mạt, là chỉ
được cái gốc chớ buồn về cái ngọn. Mình chỉ cần cái gốc chớ không nghĩ lo về
cái ngọn. Vậy cái gì là gốc, cái gì là ngọn? Chúng ta tu là cốt được giác ngộ,
cốt được giải thoát sanh tử là cái gốc. Nếu chúng ta tu ma cứ nói mình ít phước
quá, huynh đệ đó họ có tiền làm chùa to, mình không có tiền rồi buồn đi than thở
với Phật tử nói tôi tu mà vô phước quá. Đừng có buồn, mình nắm cái gốc là được.
Giả sử mình không có bổn đạo, mình không có chùa to chỉ ở chòi tranh thôi, mà
mình đạt được cái gốc của mình là gốc giác ngộ giải thoát, mình nắm được rồi
thì không có lo buồn gì cái ngọn mình không được. Còn ai cứ than thở về cái ngọn
thì người đó chưa biết được cái gốc.
Quý vị xét thật kỹ để thấm
được ý nghĩa, chúng ta tu phải phăng tận nguồn gốc mà chúng ta muốn. Có người
nào cạo tóc, mặc áo nhuộm, đắp y mà không nghĩ mình tu là giải thoát sanh tử
không? Hay nói tôi tu để cho bớt khổ ở đời khổ quá vô chùa thảnh thơi hơn, nghĩ
vậy phải không? Ai nghĩ tệ vậy, ai mà cạo tóc xuất gia đều nghĩ rằng tất cả thế
gian là tạm bợ, chúng ta xuất gia để cầu giải thoát sanh tử. Bởi vậy đắp y lên
thì quý vị đọc kệ sao? Đắp y lên là nhớ
câu: “Thiện tai giải thoát phục”, mặc cái áo giải thoát. Cạo đầu, mặc áo đó là
hình thức giải thoát. Đầu không còn trang sức nữa để cho người ta không thèm
ngó, mặc áo này là áo giải thoát không còn bận bịu với trần tục. Như vậy người
tu nào cũng là vì giải thoát sanh tử, muốn giải thoát sanh tử thì phải giác ngộ,
giác ngộ thì mới giải thoát sanh tử được.
Vậy mục tiêu chúng ta nhắm đó là cái gốc, mình nhắm cái gốc đó
thì giả sử mình ra đời tu hành mà phước mình ít, không ai thương sót nhiều,
không ủng hộ nhiều, mình cất chòi tranh ở trong mé rừng tu. Mình thấy được gốc
giải thoát đó, con đường giải thoát đó thì mình nắm được cái gốc rồi, còn chuyện
chùa lớn, chuyện bổn đạo đông là cái ngọn ngành, không hận không phiền gì hết.
Đó là lời nhắc nhở để chúng ta thấy mục đích chúng ta tu, nhiều khi lâu rồi
quên. Hồi xuất gia thì mục đích cao cả lắm, nhưng một thời gian rồi lo chuyện
này chuyện kia rồi nó tuột hồi nào không hay, cái gốc của mình mình quên tuốt,
rốt cuộc mình bám vào cái ngọn, rồi khổ sở.
Vì vậy ở đây ngài bảo mình nắm được cái gốc chớ buồn cái ngọn.
Như tịnh lưu ly hàm bửu nguyệt. Như
có hòn ngọc lưu ly trong sáng để ngoài trống mà trên bầu trời có mặt trăng
sáng, thì chúng ta nhìn hòn ngọc lưu lý đó thấy cái gì? Mặt trăng sáng đó nằm sẳn
trong hòn ngọc lưu ly. Không cần phải tới trăng mà miễn có hòn ngọc lưu ly
trong sáng để ngoài trời thì mặt trăng hiện rõ trong ngọc lưu ly. Đó là thí dụ.
Nếu chúng ta được cái gốc rồi cũng như chúng ta nắm được hòn ngọc
lưu ly, mà hòn ngọc lưu ly đã sẳn chúng ta để ngoài trời thì mặt trăng hiện ra
đầy đủ trong hòn ngọc. Chúng ta tu tâm thanh tịnh rồi thì tánh giác tròn đầy hiện
trong tâm, chớ không có mất mát đâu. Cho nên nói rằng tâm thanh tịnh thì trí tuệ
hiện đủ. Vì vậy mà ngài mới dùng thí dụ hòn ngọc lưu ly và mặt trăng.
Rồi đến đây:
Ký năng giải thử như ý châu,
Tự lợi lợi tha chung bất kiệt.
Đây là dẫn ý nghĩa trong kinh Pháp Hoa, anh chàng ăn mày nghèo
khổ bổng dưng gặp người bạn sang cả mời về nhà đải đằng đủ thứ, rượu chè. Sau
khi ăn nhậu rồi thì anh ăn mày say sưa. Người bạn giàu có việc gấp phải đi,
thương người bạn nghèo anh lấy hạt châu như ý nhét trong túi áo anh bạn nghèo,
ngở rằng anh sờ vào túi lấy hạt châu thì hết nghèo. Không ngờ đi năm năm, bảy
năm tới chừng gặp lại bạn nghèo thấy vẫn đi ăn mày như thường. Tức quá anh nói
tôi đã cho hạt châu để trong túi áo, sao không lấy ra xài mà vẫn đi ăn mày. Anh
bạn nghèo nghe vậy thò tay vô túi lấy ra hạt châu, từ đó về sau hết nghèo.
Đó là hình ảnh Phật muốn nói nơi chúng ta ai ai cũng có tánh
giác, mà tánh giác đó là gốc của mình. Nếu chúng ta nhận được, chúng ta biết được
thì chúng ta hết khổ. Còn có tánh giác mà bỏ quên đi không nhớ, không biết thì
chúng ta khổ mãi không cùng. Anh chàng đó nếu hết cơn say thò tay vào túi lấy
hòn ngọc ra thì đâu cần người bạn gặp lần thứ hai chê anh, rầy anh mà tại vì
anh quên. Quên đó là gì? Là mê. Như vậy chúng ta có hòn ngọc quí ở trong đây,
mà chúng ta không biết.
Đây tôi nói cho quý vị thấy
cái mê của mình thật là đáng thương. Như hiện giờ chúng ta có tánh giác như Phật
đã nói: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành”. Sẽ thành tức là khả
năng mình cũng sẽ được như Đức Phật. Đó là Phật thầm bảo rằng các ngươi sẳn có
tánh giác như ta sẳn tánh giác. Ta sẳn tánh giác mà ta biết khơi dậy thì nó
sáng suốt giác ngộ thành Phật. Các ngươi có tánh giác mà bỏ quên thì thành
chúng sanh.
Như vậy thì chúng ta có tánh giác mà cứ quên, lại chỉ nhớ hai
cái hà. Nhớ cái gì? nhớ cái thân. Thân này là gì theo lời Phật nói? Là cái thây
thúi, nhớ cái đó cho là mình. Rồi kế nhớ cái gì nữa? Nhớ cái tâm lăng xăng lộn xộn;
thương ghét, buồn giận là tâm mình. Một thây thúi và một cái sanh diệt như
chong chóng không dừng mà cho nó là mình. Bám vào hai cái tạm bợ giả dối đó cho
là mình rồi quên cái chân thật của chính mình, bởi quên cái chân thật của chính
mình nên lăn lộn muôn kiếp không ra khỏi.
Vậy chúng ta tu là để làm gì? Để thấy rõ thân này là thây thúi
hay thân này là sự sống tạm bợ chốc lát không bền; rồi biết tâm lăng xăng buồn
thương giận ghét đó chỉ là tâm giả dối, chợt còn, chợt mất không thật. Biết rõ
hai cái đó thì chúng ta còn chấp, còn khổ không? Không chấp thân thật, không chấp
tâm thật thì còn khổ không? Không chấp thân thật, không chấp tâm thật thì cái
chân thật hiện ra. Còn bây giờ mình cứ chấp cái này thật, cái hơn thua phải quấy
thật thì muôn đời không thấy được cái chân thật. Đó chúng ta quên, chúng ta mê.
Chúng ta muốn hết quên, hết mê thì phải làm sao cho cái thật hiện ra.
Bởi vậy nhiều khi Phật khéo mà Phật tử không biết. Phật dạy ráng
niệm Phật. Niệm Phật để làm chi? Cuối cùng mục đích niệm Phật tới đâu? Nhất tâm
bất loạn. Nhất tâm bất loạn thì tâm lăng xăng chết mất rồi, thì đó là để đi tới
chỗ cứu kính là nhắm mắt thấy Phật hiện tiền. Còn người tu thiền, ngồi yên tỉnh
buông xả vọng tưởng để làm chi? Cũng đi tới cuối cùng là tâm lăng xăng lặng đi,
lặng đi thì gọi là định, mà định thì trí tuệ sáng lên. Như vậy thì hai bên hành
động khác nhưng mục đích không khác. Bởi vì bên này mượn câu niệm Phật đập chết
tâm vọng tưởng, bên kia mượn cái yên tỉnh nhìn thấy từng đợt vọng tưởng lên
buông xả nó, buông xả nó rồi nó cũng mất. Như vậy cốt làm sao đừng chấp nhận
tâm sanh diệt đó là mình thì mình sẽ dừng được nhân tạo nghiệp ra khỏi vòng
sanh tử. Nếu mình cứ chấp cái đó là tâm mình thật, thì muôn đời khỏi mong ra khỏi
sanh tử tức là nó dẫn đi liên tục.
PHẬT THUYẾT
KINH
A DI ĐÀ
NHƠN HẠNH VÃNG SANH
Xá-Lợi-Phất! Bất khả dĩ thiểu thiện-căn phước-đức
nhơn-duyên, đắc sanh bỉ quốc.
Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu thiện-nam tử, thiện-nư nhơn,
văn thuyết A-Di-Ðà Phật, chấp trì danh-hiệu, nhược nhứt nhựt, nhược nhị nhựt,
nhược tam nhựt, nhược tứ nhựt, nhược ngũ nhựt, nhược lục nhựt, nhược thất nhựt,
nhứt tâm bất loạn.
Kỳ nhơn lâm mạng chung thời, A-Di-Ðà Phật dữ chư Thánh
chúng, hiện tại kỳ tiền.
Thị nhơn chung thời, tâm bất điên-đảo, tức đắc vãng sanh A-Di-Ðà Phật Cực-lạc quốc-độ.
Xá-Lợi-Phất! Ngã kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn.
Nhược hữu chúng-sanh văn thị thuyết giả, ưng đương
phát nguyện, sanh bỉ quốc độ.
( Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức
nhơn duyên mà được sanh về cõi đó.
Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Đà,
rồi chấp trì danh hiệu của Đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày,
hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một
lòng không tạp loạn.
Thời người đó đến lúc lâm chung Đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân
ở trước người đó.
Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền
được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.
Xá-Lợi-Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.
Nếu có chúng sanh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát
nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc. )
HẠNH
TINH CHUYÊN CŨNG LÀ ĐIỂM KHÔNG THỂ THIẾU
Như trên đã nói, điểm
thiết yếu của môn Niệm Phật là phải phát nguyện vãng sanh. Nếu nghĩ rằng:
"Ta chỉ cầu niệm hồng danh muôn đức của Phật A Di Đà cho thật nhiều, tự
nhiên sẽ có vô lượng công đức; dù không vãng sanh, công đức ấy cũng chẳng
mất." Nghĩ như thế là sai lầm nguy hiểm và thiếu trí huệ. Bởi có hạnh mà
không nguyện thì công đức ấy sẽ biến thành phước báo ở đời sau. Đời thứ hai đã
hưởng si phước tất dễ tạo nghiệp, sang đời thứ ba nhất định phải bị đọa lạc tam
đồ, đó là điều sai lầm, nguy hiểm! Vì thế, ở trên mới gọi tín nguyện là
"huệ hạnh".
Đã có đủ Tín Nguyện mà
thiếu phần Hạnh, ví như chiếc thuyền có lái không chèo, cũng không thể vãng
sanh. Có kẻ nghe nói: "Chỉ cần tín nguyện chân thiết, khi lâm chung mười
niệm hay một niệm cũng quyết được sanh Tây Phương", thì liền nghĩ rằng: "Nếu
như thế cần chi phải vội gấp, để lúc sắp chết niệm Phật cũng được!" Ý niệm
này cũng sai lầm, bởi vì quá xem thường hành môn Niệm Phật. Phải biết, điểm
quan yếu để vãng sanh, theo trong kinh văn là: "Người ấy khi lâm chung
lòng không điên đảo" (Thị
nhơn chung thời tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc
độ - Kinh Phật Thuyết A Di Đà).
Như quả lúc lâm chung lòng không điên đảo, thì niệm mười niệm hay một niệm cũng
được vãng sanh. Nhưng ai dám bảo rằng: mình khi lâm chung lòng không điên đảo? Nếu
lúc bình thời không tinh chuyên dụng công, đến khi mạng chung, bốn đại phân ly,
sức nghiệp dồn dập, thân tâm bị sự khổ làm cho kinh hoàng mê loạn, sợ e một
niệm cũng không thể thật hành, huống chi mười niệm? Như muốn cho khi lâm chung
có phần bảo đảm, lúc bình thời hành giả phải tinh chuyên niệm Phật cho nhiều,
và gắng tu tập trình độ "nhứt tâm bất loạn". Bằng chỉ đợi khi sắp
chết mới niệm, trên đạo lý nói ra thì cố nhiên suốt thông, nhưng lại e trên sự
thật chẳng phải là đơn giản. Cho nên các hành giả niệm Phật phải gắng dụng
công, đừng lơ là khinh thường sự hành trì, mà rước lấy nỗi thất bại.
Hỏi: Tu Tịnh Độ cần
phải chứng Niệm Phật Tam Muội, hoặc ít nữa đi đến cảnh giới nhứt
tâm bất loạn,
mới được vãng sanh. Như thế người hạ căn chưa chắc đã thực hành nổi. Vậy thì kẻ
thấp kém ngu tối làm sao được sanh về Cực Lạc? Nếu kẻ hạ căn ngu tối không vãng
sanh được, sao lại gọi pháp môn Niệm Phật thâu nhiếp cả ba căn?
-
Đáp: Thật
ra với căn cơ thời nay, cảnh giới nhứt tâm bất loạn trong lúc hiện tiền, còn
không có mấy người đi đến, huống chi là Niệm Phật Tam Muội! Nhưng, theo Kinh
Quán Vô Lượng Thọ, kẻ tạo tội ngũ nghịch thập ác khi lâm chung tướng địa ngục
hiện, chí tâm xưng danh hiệu Phật A Di Đà từ một cho đến mười niệm, liền được
Phật hiện đến tiếp dẫn vãng sanh. Thế thì sự nhứt tâm được vãng sanh, là chỉ
cho khi lâm chung chớ không phải lúc hiện tiền. Nếu lúc bình thời
niệm Phật được nhứt tâm, nhưng sau đó lại chuyển hướng tu theo pháp môn khác
không cầu vãng sanh, thì làm sao được về Cực Lạc? Mà
muốn được nhứt tâm khi lâm chung, thì lúc bình thời phải tập câu niệm Phật cho
thuần thục. Do bình thời thường niệm Phật, dù chưa được nhứt tâm, nhưng chủng
tử niệm Phật dồn chứa đã nhiều, lúc sắp chết, hành giả khởi niệm Phật nó liền
phát hiện mạnh mẽ nên được nhứt tâm. Kẻ hạ căn niệm Phật được vãng
sanh, thường ở trong tình trạng ấy.
Từ
Chiếu đại sư nói: "Người tu Tịnh Độ khi lâm chung thường có ba điều nghi,
bốn cửa ải, hay làm chướng ngại cho sự vãng sanh, phải dự bị suy nghĩ trước để
phá trừ ba điều nghi là:
1- Nghi mình túc nghiệp
sâu nặng, thời gian công phu tu hành ít, e không được vãng sanh.
2- Nghi mình bản nguyện
chưa trả xong, tham sân si chưa dứt, e không được vãng sanh.
3- Nghi mình niệm Phật,
Phật không đến rước, e không được vãng sanh.
Bốn cửa ải là:
1- Hoặc nhân bị bịnh khổ
mà trở lại hủy báng Phật không linh.
2- Hoặc nhân tham sống mà
giết vật mạng cúng tế.
3- Hoặc nhân uống thuốc
mà dùng rượu cùng chất máu tanh hôi.
4- Hoặc nhân ái luyến mà
tự ràng buộc với gia đình."
Đại sư nêu ra thuyết Tam
Nghi Tứ Quan ở trên, bậc trí huệ có thể suy nghĩ tìm phương pháp giải
quyết.
Nay bút giả xin mạn phép nói lược qua
cách phá trừ để góp ý, và các bạn đồng tu với sự hiểu biết của mình, có thể suy
diễn hiểu rộng thêm ra.
1. Phá mối nghi túc
nghiệp nặng, công tu ít:
- Phật A Di Đà từng có lời thệ nguyện: "Chúng sanh nào chí tâm muốn về Cực
Lạc, niệm danh hiệu Ngài cho đến mười niệm, nếu không được vãng sanh, Ngài thề
không thành Phật." Phật không khi nào nói dối, vậy hành giả phải tin nơi
đức Từ Tôn. Mười niệm là thời gian công phu tu hành rất ít mà còn được vãng
sanh, huống chi ta niệm nhiều hơn số đó. Lại dù kẻ nghiệp nặng đến đâu, như
phạm trai phá giới, tạo đủ nghiệp ác, nếu chí tâm sám hối nương về Phật A Di
Đà, Ngài đều tiếp dẫn. Kinh Quán Vô Lượng Thọ đã chẳng nói kẻ tạo tội nặng ngũ
nghịch thập ác, khi lâm chung chí tâm niệm mười niệm đều được vãng sanh đó ư?
Trong truyện Vãng Sanh, như Trương Thiện Hòa, Hùng Tuấn, Duy Cung, trọn đời
giết trâu bò, phá giới, làm ác, khi lâm chung tướng địa ngục hiện, sợ hãi niệm
Phật, liền thấy Phật đến rước. Cho đến loài chim sáo, két niệm Phật , còn được
vãng sanh, huống chi ta chưa phải là tệ đến mức đó?
2. Phá mối nghi bản
nguyện chưa trả, tham sân si chưa dứt: - Bản nguyện của hành giả đại khái có hai: đạo và đời. Về đạo, có
người nguyện cất chùa bố thí hay nguyện tụng số kinh chú bao nhiêu, làm chưa
tròn đã đến giờ chết. Phải nghĩ rằng: chỉ tín tâm niệm Phật, khi được vãng sanh
sẽ làm vô lượng vô biên công đức, còn bản nguyện chỉ là việc nhỏ, làm xong hay
chưa không mấy quan hệ, và chẳng có hại chi cả. Về đời, hoặc có người vì nhiệm
vụ gia đình chưa tròn, như cha mẹ suy già không ai săn sóc, vợ con thơ dại
thiếu chỗ tựa nương, hoặc có kẻ thiếu nợ người chưa kịp trả, tâm nguyện chưa
vẹn nên lòng chẳng yên. Phải nghĩ rằng: lúc ta sắp chết, dù có lo hay không
cũng chẳng làm sao được. Chi bằng chuyên tâm niệm Phật, khi đã được vãng sanh
Tây Phương chứng đạo quả, thì tất cả bản nguyện trái duyên đều có thể trả xong,
tất cả kẻ oán người thân đều có thể cứu độ.
Lại Kinh Na Tiên nói:
"Ví như hột cát nhẹ, bỏ xuống nước liền chìm. Trái lại tảng đá dù nặng to,
nếu được thuyền chở, có thể đem từ chỗ này sang chỗ khác. Người niệm Phật cũng
thế, nghiệp tuy nhẹ nếu không được Phật cứu độ, tất bị luân hồi, tội chướng dù
nặng bao nhiêu, được Phật tiếp dẫn sẽ sanh về Cực Lạc." Theo đoạn kinh
đây, ta thấy môn Niệm Phật là pháp có thể đới nghiệp vãng sanh, vì nhờ tha lực.
Tảng đá lớn ví cho sức nghiệp nặng to, thuyền chở ví cho nguyện lực của Phật.
Vậy người tu đừng nghĩ rằng mình còn tham, sân, si, e không được vãng sanh. Thí
dụ trên có thể phá luôn điểm nghi về nghiệp nặng ở điều thứ nhứt.
3. Phá mối nghi niệm
Phật, e Phật không đến rước: -
Người niệm Phật tùy theo công đức mình, khi lâm chung thấy Phật, hoặc Bồ Tát,
hay Thánh chúng đến rước. Có khi không thấy chi, mà nhờ sức nguyện của mình và
Phật lực thầm nhiếp thọ, thần thức tự bay về Tây Phương. Đây là bởi công hạnh
của mình có cao thấp, sâu cạn. Chỉ cần yếu lúc ấy ta phải chí tâm niệm Phật,
đừng nghĩ chi sai khác. Nếu nghi ngờ sẽ tự sanh ra chướng ngại. Tóm lại, khi
lâm chung dù thấy tướng tốt hay không cũng đừng quản đến, chỉ hết lòng niệm
Phật cho đến giây phút cuối cùng mà thôi.
Phá chung bốn cửa ải: - nhân bịnh khổ hủy báng Phật - tham
sống sát sanh cúng tế - cầu lành bịnh uống ruợu, hoặc dùng thuốc có chất huyết
tanh - vì ái luyến nên tâm niệm ràng buộc với gia đình.
Người niệm Phật mà bị tai
nạn bịnh khổ, đó là do nhờ công đức tu hành, nên chuyển quả nặng thành quả nhẹ,
chuyển hậu báo thành hiện báo, trả cho hết để được sanh về Tây Phương. Nếu trở
lại nghi ngờ hủy báng, là người kém tin hiểu, phụ ơn Phật, tự gây tội chướng
cho mình. Trong sự tích Tịnh Độ có thuật chuyện ông Ngô Mao cùng rất nhiều Phật
tử khác, nhờ dồn nghiệp mà sớm được vãng sanh. Vậy khi gặp cảnh này, người niệm
Phật nên ý thức để hiểu rõ.
Lại thân này giả tạm, tùy
theo tội nghiệp mà kiếp sống có vui khổ lâu mau. Nếu giết sanh mạng để nuôi
dưỡng sanh mạng, hoặc cúng tế, thì tội khổ càng thêm nặng, phải triệt để nương
theo Phật và tin chắc lý nhân quả.
Khi đau yếu chỉ cầu Phật,
không nên cầu phù phép tà sư, hoặc nghe lời kẻ chưa hiểu đạo, trở lại ăn mặn,
uống rượu, hay dùng thuốc bằng chất máu huyết tanh hôi. Thân này nhơ nhớp, được
về cõi Phật sớm chừng nào hay chừng ấy, như bỏ chiếc áo hôi rách mặc sắc phục
đẹp thơm, đáng chi phải bận lòng?
Đến như mối hại về ái
luyến khi lâm chung, thì như đoạn trên đã nói. Phải nghĩ: trong gia đình từ cha
mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, đều do đời trước có nợ nần ân oán, nên mới tạm
hội ngộ nhau. Khi nhân duyên đã hết thì mỗi người đi mỗi ngả. Nếu có lòng
thương, tốt hơn ta nên gát bỏ tình trần cầu sanh Tây Phương, để độ tất cả kẻ
oan thân. Khi cái chết sắp đến, dù có quyến luyến cũng không thể đem theo,
không làm chi được, bởi chính sắc thân của ta còn phải tan về cát bụi. Nếu ái
luyến thì đã không được vãng sanh, lại bị khổ luân hồi vô cùng vô tận.
Những điểm về Tam Nghi Tứ
Quan trên đây, hành giả phải suy nghiệm ghi nhớ kỹ, để dự bị trước cho tinh
thần được yên ổn trong lúc lâm chung.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Một người tới nhà bạn
thân chơi, cố giao rót trà ra chén mời uống. Lúc ấy vào khoảng đầu đêm, ánh đèn
chấp chóa in bóng cung treo gần bên vào chén giống như con rắn đang lăng quăng
chao động. Trong lúc không kịp suy nghĩ, người ấy uống vội hết chén trà, rồi
chợt sanh lòng nghi là mình đã nuốt con rắn nhỏ vào bụng, nhưng không dám nói.
Về đến nhà anh lo sợ, rồi phát bịnh. Sau bạn đến thăm, hỏi biết duyên cớ, mời
đến nhà để dĩa đèn và chén trà chỗ cũ, chỉ cây cung treo gần bên, người ấy mới
dứt hết mối nghi và lành bịnh. Thuở xưa người Ấn Ðộ khi luyện thuốc quí, thường
dùng gương dầy hoặc ngọc thủy tinh tụ ánh sáng mặt trăng để lấy nước. Luyện
xong lại cất thuốc vào bình bạc hoặc bình vàng, cho tăng thêm hiệu lực linh
nghiệm. Ðây ý nói câu niệm Phật rõ ràng là pháp Viên Ðốn đi thẳng vào chân tâm,
ngay lúc niệm Phật tức đã thể hiện Phật tánh, ví như thuốc quí lấy ra từ bình
vàng. Kẻ không biết lầm hiểu niệm Phật là pháp Quyền Giáo để dứt trừ vọng
tưởng, hoặc pháp Tiệm Giáo để gieo lần thiện căn. Như thế có
khác gì anh chàng lờ lạc nghi ngờ lầm bóng cung là rắn đâu ?
DIỆU HIỆP
Diệu Hiệp đại sư, người ở huyện cần tại Minh Châu. Ngài xuất
gia khoảng cuối đời nhà Nguyên sang đầu triều Minh, nghiên cứu tinh tường về
Thiên Thai giáo quán, chuyên tu môn Niệm Phật tam muội. Đại sư có soạn thuật
hai quyển Niệm Phật Trực Chỉ, trong đó thiên Trực Chỉ Tâm Yếu phá vọng hiển
chân, biện giải đến chỗ tinh vi. Văn rằng:
“… Đức Thế Tôn thấy cõi Ta Bà có các sự khổ: sanh, già, bịnh,
chết, nghiệp phiền não thiêu đốt buộc ràng, nên khuyên chúng hữu tình niệm Phật
A Di Đà cầu sanh về Cực Lạc. Nhưng cách Phật lâu xa, con đường thánh đạo càng
bị cỏ tranh khuất lấp. Nhiều người nghe nói: “Các pháp đều ở nơi tâm”, liền lầm
nhận nghiệp vọng tưởng thuộc bóng duyên sáu trần trong thân là tâm mình. Do đó
nên bảo: “Phật ở nơi đây, cõi
Cực Lạc cũng ở trong ấy, không cần tìm cầu đâu xa!” Họ không biết thể huyễn bóng
duyên sáu trần đó, thuộc về vọng tâm, vốn không bền chắc. Nếu tiền trần tiêu
tan, vọng tâm ấy liền diệt. Như thế, làm sao có cõi Cực Lạc ở trong đó được?
Có kẻ lại miễn cưỡng bảo: “Các bậc ngộ đạo thấy tánh đều nói
cõi Phật ở nơi tâm. Đã thấy tánh, lẽ đâu còn chấp bóng duyên của sáu trần nữa!”
Các người ấy đâu biết rằng sự ngộ đạo thấy tánh đó, là ngộ được bản tâm chân
thật, chớ không phải là vọng tâm như họ tưởng. Muốn ngộ được chân tâm ấy, phải
thấu suốt tâm vọng thuộc bóng duyên sáu trần vốn ở trong huyễn thân, huyễn thân
lại ở trong thế giới, và tất cả thế giới thật lành hoặc nhơ ác đều ở trong hư
không. Thể hư không ấy tuy bao gồm tất cả y báo chánh báo của mười phương, rộng
lớn không ngằn mé, nhưng lại ở trong chân tâm sáng suốt bất động vô cùng vô tận
của ta, ví như một cụm mây nhỏ điểm lơ lửng giữa khoảng thái thanh bao la lặng
lẽ. Chân tâm đã rộng lớn như thế, làm sao tất cả mười phương thế giới hoặc nhơ
hoặc sạch lại không ở trong tâm? Thế thì đức Phật hoặc các bậc ngộ đạo nói các
pháp ở nơi tâm, là chỉ cho chân tâm đó, chớ không phải vọng tâm thuộc bóng
duyên sáu trần trong huyễn thân nầy đâu! Chân tâm ấy vượt niệm hiểu biết, lìa
sự thấy nghe, dứt hẳn các tướng sanh, diệt, thêm, bớt. Tất cả thế giới gồm thân
chư Phật và chúng sanh đã ở trong chân tâm đó, thì cảnh Ta Bà cùng Cực Lạc đều
là tâm của ta. Cho nên các hữu tình ở trong đó tùy ý bỏ đông cầu tây, chán
cõi nhơ thích cảnh sạch, dù có trước tướng, vẫn không lìa ngoài chân tâm.
Bởi thế, khi cảnh tướng đẹp của cõi Cực Lạc và đức A Di Đà
hiện ra, tức từ tâm ta hiển lộ. Và khi tâm ta hiển lộ thì đức A Di Đà hiện ra.
Tâm ta là tâm đức Phật kia, đức Phật kia là Phật của tâm ta, đồng một thể không
khác, nên gọi “duy tâm Tịnh độ, bản tánh Di Đà”. Cho nên khi nói duy tâm hay
bản tánh, chẳng phải chỉ cho cái vọng tâm sanh diệt thuộc bóng duyên sáu trần
trong huyễn thân. Và ở phương Tây chẳng phải không có cõi Cực Lạc cùng đức A Di
Đà, mà nói không cần tìm cầu. Cầu đức Phật kia chính là cầu tâm mình, muốn sớm
ngộ chân tâm mình, phải cầu đức Phật kia. Thế thì tại sao đời nay các nhà thức
giả vừa mới biết chút ít lý thiền, những tăng sĩ nông cạn phá rối Phật pháp,
không nghiên tầm sâu chân lý để ngộ cảnh tức là tâm? Mà trở lại ở trong môn Bất
nhị, họ chia trong chia ngoài, phân tâm phân cảnh, dạy người tìm trong bỏ
ngoài, lìa cảnh để cầu tâm, khiến lòng thương ghét thêm rộng nhiều, niệm phân
biệt càng sâu đậm? Khi phân chia cảnh, thì cho cõi Cực Lạc ở ngoài, dạy người
chẳng nên cầu vãng sanh … Và khi phân chia tâm, lại lầm nhận vọng thức là tâm, bảo cõi
Cực Lạc ở trong đó. Càng sai lầm hơn nữa, họ cho chân tâm là rỗng không, lìa
tất cả cảnh tướng nhân quả lành dữ tội phước, nên từ đó muốn tỏ ra mình là vô
ngại, lại buông lung theo duyên đời, dạy người không cần lễ Phật. Tụng kinh,
sám nguyện, tu phước bảo là trước tướng. Đối với cảnh Thiên cung, Địa ngục và các cõi Tịnh, độ,
tuy nghe trong kinh nói đến, nhưng vì mắt phàm không thấy, họ bác hẳn nói không
có, cho lời kinh là quyền thuyết. Họ lại bảo cảnh vui hiện tại, hay một niệm
vui tươi là Thiên đường, cảnh khổ trước mắt, hoặc một niệm phiền não là Địa
ngục. Sự hiểu biết cạn cợt nông nổi như trên, thật đáng thương xót!
Phải biết tâm ta cùng tâm Phật đồng một chân thể. Đức A Di Đà
chứng ngộ đầy đủ tâm ấy, nên phóng ánh sáng oai đức soi khắp mười phương, dùng
sức nguyện thương xót rộng sâu nhiếp lấy những chúng sanh niệm Phật. Ta tuy
đồng một tâm thể với Phật, nhưng bởi bị sức nghiệp vô minh phiền não che lấp
buộc ràng, chưa chứng ngộ được bản tâm, nên cần phải tu tất cả hạnh lành, và
niệm Phật để cầu sanh Cực Lạc. Vì tất cả pháp chẳng phải khác, nên muôn hạnh đều hướng về
chân tâm, đều trôi về biển Phật. Bởi tất cả pháp chẳng phải đồng, nên tuy cùng
một tâm thể, vẫn có thiện có ác, có uế có tịnh, thì ở địa vị phàm phu phải bỏ
ác cầu thiện, bỏ uế cầu tịnh, phát nguyện cầu sanh để mau chứng quả chân tâm. Khi tu hành như thế, ví như một
giọt nước gieo vào biển, tất cả sẽ đồng một vị một thể với biển cả. Lúc được
chứng ngộ toàn thể chân tâm, thì trong ánh đại quang minh sẽ thấy tất cả cảnh
tướng thiện ác nhơ sạch ở mười phương thế giới đều như bóng như huyễn, sanh
diệt không dừng. Sự thiện ác nhơ sạch sanh diệt như huyễn ấy, cũng tức là tâm,
nhưng không làm ngại đến tâm thể đại quang minh, như một cụm mây nhỏ không làm
ngại đến hư không bao la rộng rãi. Chứng ngộ được như thế mới có thể nói là vô
ngại.
Đa số hàng thiện tín nơi thôn ấp quê mùa, tuy không thông hiểu
Phật lý, nhưng vì tin có Phật và cõi Cực Lạc, chuyên tâm làm lành phát nguyện
niệm Phật, nên khi lâm chung được sự lợi ích vãng sanh, lên ngôi Bất thối
chuyển, mau chứng quả Đại bồ đề. Trái lại người có chút ít học thức thông minh,
bởi chưa thấu suốt lý tánh, bác sự tướng, trệ vào thiên không, dù tu đạo hạnh,
kết cuộc lại lạc vào vòng ngoại đạo, chìm trong nẻo luân hồi. Cho nên hàng Phật
tử chân chánh, về chữ Tín phải tin có tội phước nhân quả, có Địa ngục Thiên
đường, có mười phương Tịnh độ. Về chữ Nguyện, nên phát tâm cầu sanh Cực Lạc, để
sớm thoát ly nỗi khổ ở Ta Bà, mau chứng ngộ bản tâm, khởi sự luân hồi sống
chết, rồi độ tất cả chúng sanh đồng thành Phật quả. Về chữ Hạnh, phải hiếu
dưỡng cha mẹ, kính thờ sư trưởng, tu các nghiệp lành, thọ trì tam quy, giữ gìn
giới phẩm, phát lòng Bồ đề, tụng kinh niệm Phật, khuyên người tu hành, đem tất cả công
đức ấy hồi hướng về Tây phương. Phải nghĩ mạng người vô thường, chỉ mong manh trong hơi
thở, việc thế tục quanh quẩn buộc ràng, móc nối nhau không dứt. Nếu chẳng phát
tâm mạnh mẽ, cắt một dao cho đứt đoạn, nhảy hết sức để vượt qua, thì biết chừng
nào mới được an nhàn giải thoát? Nay tôi thiết tha đảnh lễ, kính khuyên các
Phật tử, nên một lòng thật ngộ thật tu, nguyện ngày kia đồng làm bạn lành nơi
cõi Liên hoa thế giới…”
Về sau khi lâm chung, đại sư biết ngày giờ trước, an tường
niệm Phật mà vãng sanh.
MẤY ĐIỆU SEN THANH
Hòa Thượng Thích Thiền-Tâm
Như vậy thấy thân không thật, thấy tâm không thật, đó là chỗ đưa
chúng ta tới giải thoát sanh tử. Tất cả chúng ta tu thì tu mà ít ai muốn vươn
lên tới chỗ đó, chỉ tu là muốn được phước đời sau hưởng nhiều. Cho nên bỏ thân
này để kiếm thân khác, cứ như vậy mà liên tục liên tục, không có dừng, không có
nghĩ. Do đó mà cái vòng sanh tử triền miên không dứt.
Đó là tôi nói rõ cho quý vị
thấy ý nghĩa của câu này.
Cho nên nói, Kí năng giải thử như ý châu, là ai mà khéo hay mở
được hạt châu như ý trong chéo áo đó, thì Tự lợi lợi tha chung bất kiệt, thì chừng
đó lợi cho mình lợi cho người muôn đời không hết. Như vậy thì mới khéo. Đó là
câu Tự lợi lợi tha chung bất kiệt, tức tự lợi lợi tha trọn không có hết, không
bao giờ hết.
Giang nguyệt chiếu, tùng phong xuy,
Giang nguyệt chiếu, tức là trăng rọi sông; tùng phong xuy là gió
thổi tùng.
Vĩnh dạ thanh tiêu – hà sở vi? Vĩnh dạ
là đêm dài, thanh tiêu là thanh vắng, hà sở vi là làm gì đây. Nghe nói thì coi
bợ không có gì đặc biệt, nhưng ở đây là ý nghĩa rất thâm trầm. Ở dưới sông thì
có mặt trăng rọi sáng, bên cây tùng thì có gió thổi. Trăng rọi sáng ở dưới
sông, gió thổi cây tùng, quý vị thấy hai
hình ảnh đó giúp chúng ta được cái gì? Nếu dòng sông nước trong thì mặt trăng
hiện dưới dòng sông. Cây tùng vững thì có gió thổi tùng vẫn trơ trơ.
Như vậy để nói lên rằng, khi chúng ta tu tâm được thanh tịnh thì
trí tuệ sáng sẽ hiện ra giống như dòng nước trong, nước sông mà trong trẻo thì
bóng mặt trăng hiện ở dưới. Không tìm kiếm, không phải mình lên tới hư không để
gặp mặt trăng, mà mặt trăng nó có sẳn ngay trong tâm hay trong dòng sông trong
đó. Cây tùng đứng trơ trơ dù cho có gió thổi, dù cho có những cái gì lay động,
nó cũng vẫn là trơ trơ.
Như vậy để thấy rằng chúng ta tu mà tới chỗ tâm thanh tịnh, chỗ
mà gió thổi không xao động cây tùng, mà từ trong nhà thiền gọi là “bát phong
suy bất động”. Tám gió thổi không động, không lung linh đó là để diễn tả cây
tùng, cây thông đứng ở giữa trời.
Vậy thì dòng sông trong thì tự nhiên trăng hiện giữa dòng sông,
cây tùng vững, cây thông vững thì dù có gió mấy cũng không xao động. Được hai
cái đó rồi thì đêm khuya thanh vắng, hỏi lúc đó mình làm gì? Lúc đó mình tu cái
gì đâu? Có gì để mà tu. Tâm nó trong sạch, rồi tánh giác hiện ra chớ đâu có làm
gì để kiếm tánh giác. Mình là chỗ an trụ vững chắc, không có bị tám gió thổi
lay động, mình đứng trơ trơ đó chơi chớ làm gì. Cây thông có cự với gió không?
Nó không chống cự gì hết, gió là gió, cây thông là cây thông.
Như vậy thì chúng ta tu cho tới một lúc nào tâm thanh tịnh, quý
vị niệm Phật tới nhất tâm bất loạn,
chúng ta tu thiền thì tới an định, thì đức Phật Di Đà hiện ra với quý vị, còn
tôi thì tánh giác hiện ra với tôi. Di Đà và tánh giác là sao? Là một hay là
hai? Đức Phật Di Đà thì cụ thể hóa như một con người, còn tánh giác là một thực
trạng của tâm mình. Nhưng cái kia cụ thể hóa vì niệm danh hiệu ngài, thì thấy
như có ngài đến. Bên này mình không có niệm, mình buông xả cho tâm trong sáng
thì Phật ở trong hiện ra. Cho nên dùng hình ảnh dòng sông, nước trong liền thấy
mặt trăng trên trời hiện trong dòng sông. Không cần tìm kiếm, sông không đòi
trăng xuống đây với tôi, mà trăng tự tới. Chúng ta không đòi thành Phật mà Phật
trong ta hiện ra.
Như vậy thì những phương tiện Phật dạy tu cuối cùng rồi gặp nhau
chớ không khác. Nhưng Phật tử cho tới người tu mình hay so bì tu cái này, tu
cái kia, rồi có khi còn đố kỵ nhau là khác nữa, có đáng thương không? Bởi vậy
nhiều khi nhìn lại rồi thương cho người tu mình sao mà còn bỉ thử, nhân ngã to
quá chừng to. To không? Cái gì thuộc về mình thì hơn, thuộc người khác thì nó
không hơn, nó là thua. Như vậy thì không tốt.
Cho nên ở đây nếu tâm mình trong sạch, không một chút bợn nhơ
thì lúc đó cái mặt trời, mặt trăng trí tuệ tự nó hiện, cũng như cây thông, cây
tùng nó vững đứng, nó không cần chống chọi gió, mà bốn phương có gió không làm
sao lay động nó được. Như vậy thì trong đêm khuya canh vắng đó hỏi ta làm cái
gì đây? Có tu có chứng gì không? Bởi vì chúng ta có cái bệnh tu là đòi chứng,
mà chứng thì ai chứng cho mình? Chỉ đòi hỏi tâm mình thanh tịnh thì trí tuệ,
tánh giác hiện ra. Nếu tâm thanh tịnh, tánh giác hiện ra rồi còn đòi gì nữa, muốn
làm gì nữa? Còn tám gió thổi không rung rinh mình thì còn muốn làm gì nữa? Thì
tự tại vô ngại, không có gì là chướng, là ngại hết.
Cho nên mấy câu này thấm thía làm sao. Hỏi Vĩnh dạ thanh tiêu –
hà sở vi? Nó ngọt ngào quá, dễ dàng quá. Tu như vậy rồi thì đêm khuya canh vắng
hỏi mình làm cái gì đây? Có cái gì nữa phải làm.
CHÁNH VĂN :
Phật
tánh giới châu tâm địa ấn,
Vụ
lộ vân hà thể thượng y.
Hàng
long bát, giải hổ tích,
Lưỡng
cổ kim hoàn minh lịch lịch.
Bất
thị tiêu hình hư sự trì,
Như
Lai bửu trượng thân tung tích.
GIẢNG :
Phật tánh giới châu tâm địa ấn,
Lúc đó, trong khi đêm khuya canh vắng đó mình chỉ thấy Phật tánh
giới châu và in ở nơi tâm mình, tâm địa ấn ở ngay nơi tâm mình. Như vậy Phật
tánh hiện ra thì giới đức muôn trùng cũng đủ trong đó chớ có gì đâu, không cần
tìm, không cần xin mà nó vẫn có đầy đủ.
Vụ lộ vân hà thể thượng y.
Nào là những cái gì? Là mây, là ráng, là sương mù đều là cái áo
hay cái y đắp trên mình chớ không gì hết. Như vậy thì lúc đó thấy cả bầu trời
mây, ráng, sương mù đều là áo của mình, mình vẫn trơ trơ giữa bầu trời, không
có cái gì làm chướng ngại hết, tự tại vô ngại.
Như vậy là diễn đạt được ý nghĩa khi tâm thanh tịnh thì tất cả đều
đầy đủ, không cần làm gì mà tất cả đều có, không cần làm gì mà tất cả sẳn đủ.
Đó là ý nghĩa đoạn này.
Đây là nói về diệu dụng, khi nảy là nói khi mình đến được chỗ đó
là thể nhập được chỗ đó rồi, thì cái diệu dụng ở đây.
Hàng long bát, giải hổ tích, Hàng
long bát, là cái bát để hàng phục con rồng. Đây là kể chỗ Lục Tổ Huệ Năng. Khi
ngài ở trên núi Tào Khê, một hôm có con rồng dữ hoành hành. Tổ mới xuống tới
cái hồ đưa cái bát nói, nếu ngươi dám chun vô đây thì ta độ được. Con rồng lớn
biến thành nhỏ chun vô bát, Tổ đậy nắp đem lên, rồi ngài độ cho nó. Như vậy gọi
là hàng long bát là cái bát hàng phục được rồng.
Giải hổ tích, là hồi xưa có một thiền sư lâu rồi tôi quên tên.
Ngài tu trên núi có hai con cọp cắn lộn gầm hét. Khi đó ngài thấy vậy ngài muốn
giải hòa cho nó mà không biết làm sao. Ngài lấy cây gậy để ngang giữa hai con,
thì một con đi đầu này, một con đi đầu kia không dám cắn lộn nữa. Đó là giải hổ
tích là cây tích trượng để giải hòa hai con cọp.
Tại sao lại nói hai câu này? Bởi vì ở trên diển tả khi chúng ta
tu tâm thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt rồi tất cả giông tố không có rung rinh thì
chừng đó không cần làm gì hết mà diệu dụng nó vô cùng. Bát hàng được rồng, gậy
giải hoà được cọp, đó là cái diệu dụng vô cùng. Không làm gì hết mà làm được tất
cả. Đó là ý nghĩa thật rõ ràng.
Lưỡng cổ kim hoàn minh lịch lịch.
Thường thường cây gậy, cây tích trượng có hai vòng khoen vàng,
cho nên lưỡng cổ kim hoàn là hai khoen vàng, minh lịch lịch là đi nó khua nghe
leng keng, leng keng.
Bất thị tiêu hình hư sự trì, là
không phải bày ra có hình tướng để làm cái sự tạm bợ đó, mà đây là nó có giá trị
rất là phi thường.
Như Lai bửu trượng thân tung tích. Là gậy
báu của Phật nó đã hiện bày hình ảnh dấu vết trong đó.
Như vậy thì bốn câu này là giải cho chúng ta thấy ý nghĩa của
người tu khi đến chỗ chân thật viên mãn rồi, không làm gì hết mà cái diệu dụng
nó phi thường. Cho nên nói chân không mà diệu hữu, tới chỗ chân thật đó rồi
không làm gì hết mà cái diệu dụng phi thường. Chớ đừng nói tu vậy rồi tới đó
không còn gì hết. Người ta tu tiên tập thần thông đồ, biết bay biết biến hoá.
Còn mình tập ngồi yên lặng cái tâm không hà, rồi thấy thân này giả dối, rồi tâm
yên lặng chửi bới gì cũng không buồn, không giận thì thấy coi bộ mình trơ trơ
quá, không có giá trị gì. Nhưng không ngờ chính cái đó rồi thì diệu dụng không
thể kể hết.
Như vậy quý vị thấy người
tu khéo đi tới chỗ chân thật cứu kính rồi thì mọi khả năng, mọi diệu dụng đều
vượt hơn tất cả thế gian. Còn người thế gian hay người tu chấp hình tướng, tuy
làm việc này được việc kia, thiên hạ khen ngợi. Nhưng rốt cuộc rồi cũng là hình
ảnh một mũi tên bay lên cao vót trong hư không, rồi hết sức tuột xuống rớt cái
đụi dưới đất, đó chớ không có gì khác. Còn chúng ta tu mà tới chỗ chân thật giải
thoát này rồi, thấy như không làm cái gì mà tất cả đều có đủ. Đó là giá trị
siêu phàm hay phi thường của người tu.
Hiểu như vậy rồi chúng ta mới không ngạc nhiên tại sao người
khác tu người ta luyện phép này phép nọ, rồi biết tâm ý người này người kia.
Còn trong nhà Phật dạy tu êm ru không hà, cứ lo bỏ không hà. Nghĩa là giận hờn
thương ghét gì cứ bỏ, bỏ hết đi đừng có gì hết. Chính cái bỏ, cái buông đó mới
được cái thật. Còn cái chúng ta góp nhặt, tất cả cái gì gọi là luyện tập đó thì
được rồi cũng mấy vì đó là cái hữu vi. Luyện tập là hữu vi, là cái công dụng.
Còn cái buông hết, sạch hết cái tâm điên đảo được yên và thân phàm tục mình
không chấp nữa thì chừng đó cái được của nó không thể lường.
Như vậy buông mà được, còn cái kia luyện tập rồi sẽ mất. Nên hồi
xưa bên Tàu cũng có mấy ông Tiên tới thi thố tài năng với quí thiền sư, rồi bị
thiền sư chinh phục hết. Tài năng đó là luyện tập mà được, còn cái này không phải,
tâm thanh tịnh mà có. Cái đó có hiện ra là cái thực của mình, còn cái kia tập
được là cái bên ngoài người ta dạy thôi. Cho nên người tu Phật hiểu cho sâu nắm
cho vững rồi mới thấy giá trị của đạo Phật, nó siêu thoát phi thường chớ không
phải là tầm thường.
Nhưng nhìn lại hiện giờ chúng ta cũng buồn, người tu bây giờ làm
sao? Thực tế quý vị nghĩ làm sao? Chúng
ta tu bây giờ có ai chửi thản nhiên đi không hay là ở lại cự lộn? Chỗ đó là chỗ
tôi thường hay dẫn hay nhắc. Chúng ta nghe một lời nói trái tai, hay một lời
nói chạm danh dự, thì vẫn cười tươi tỉnh đi hay là đứng lại cự lộn? Như vậy nếu
mà tôi hỏi như tôi thường hay nhắc nhiều người đó, tôi hỏi quí Phật tử nếu có
ai đó bất thường gặp mình hoặc nói chuyện với mình chỉ mặt nói chị ngu như con
bò giận không? Nói chị ngu như con bò lúc đó chúng ta đổi sắc mặt không? Đổi liền
chớ gì, nói ngu là nổi giận liền. Như vậy chúng ta nổi giận là chúng ta khôn
hay ngu? Người ta nói mình ngu, mà mình có thành ngu hay không? Nếu người ta
nói mình ngu, lúc đó mình thành chú điên nói bậy nói bạ thì giận thật đã làm
cho tôi ngu. Còn người ta nói mình ngu mà mình không ngu thì thôi. Thành ra họ
nói cũng là lời nói như gió thổi qua, có giá trị gì đâu. Chừng nào họ nói mình
mà mình thành ngu thì cái đó là thật buồn. Quý vị thấy người ta nói mình ngu mà mình không ngu
có buồn không?
Nếu quý vị hơi văn chương
một chút, khi họ nói anh ngu quá hay chị ngu quá, thì nói phải người xưa nói
càng học thấy càng dốt mà, không ngu làm sao được. Người xưa đã thừa nhận càng
học thấy càng dốt, mà giờ mình chưa học được bao nhiêu thì không ngu sao được.
Đó là trả lời văn chương một chút. Nếu người ta nói mình ngu mà mình không ngu
thì cười thôi.
Vậy đó mà thế gian cải lộn, đánh lộn nhau cũng tại khôn ngu đó.
Nói ngu một cái thì nổi nóng lên liền rồi chửi lộn, đánh lộn. Hai người đánh lộn,
cải lộn, hai người đó có ai khôn không? Người ta nói mình ngu mà mình không thành
ngu lại chửi người ta, thì như vậy chứng tỏ rằng mình đã bị ngu. Mình bị ngu mới
chửi bậy, chửi bậy người ta, người ta chửi lại rồi hai bên ấu đả nhau, thì một
đám ngu hết trơn.
Bây giờ nói mình ngu, để tỏ ra mình không ngu thì cười đi, quý vị chịu không? Cái nào, người ta nói mình ngu để
thành người ngu, hay người ta nói mình ngu mình vẫn giữ là không ngu, muốn cái
nào? Như vậy mai mốt ra chợ ai có chê có nói thì cười thôi, như vậy thì Phật tử
mình tu tiến lắm, mình thấy được lẽ thật, mình biết được rõ ràng.
Còn mình không thấy, không biết đúng rồi nghe đâu chụp đó rồi
dính mắc tùm lum, cả ngày khổ. Nghe người ta chê ngu cái giận, rồi cự lộn, về
nhà nằm gát tay lên trán tức tối khổ sở tại sao. Người ta nói mình mình cười
thì về cũng cười thôi, khỏe làm sao. Cuộc sống rất là thảnh thơi nhàn hạ, còn
cái này cứ giành hơn giành thua nhau, rồi khổ cả đám với nhau. Rốt cuộc không
đi tới đâu hết rồi cũng ra một đám ngu như nhau vậy. Quý vị chịu chưa.
CHÁNH VĂN :
Bất
cầu chân, bất đoạn vọng,
Liểu
tri nhị pháp không vô tướng.
Vô
tướng vô không vô bất không,
Tức
thị Như Lai chân thực tướng.
GIẢNG :
Đoạn này quý vị nghe hơi
khó hiểu Bất cầu chân, bất đoạn vọng,
là không cầu chân, cũng chẳng đoạn vọng. Tại sao mình lại không cầu chân, không
đoạn vọng? Bởi vì đối với người tu, khi đến chỗ cứu kính thì không mắc kẹt hai
bên. Nếu còn chân là có đối với vọng, hoặc còn vọng là đối với chân. Cho nên, đến
chỗ chân thật rồi nó không còn đối đãi, vì vậy mà nói không cầu chân, không đoạn
vọng. Tất cả chúng ta tu, vì lâu nay cứ ngở rằng bao nhiêu thứ phiền não, bao
nhiêu thứ vọng tưởng nó làm rối, nó làm khổ cho mình. Nhưng biết tường tận thì
vọng tưởng, phiền não là cái hư dối không thật. Hư dối không thật nên nó lặng
đi thì chân thật tự nó thành hình chớ không phải cầu, không phải tìm ở đâu hết.
Quý vị thấy phiền não vọng
tưởng có thật không? Đa số ai cũng nói rằng mình bị phiền não quá. Vậy phiền
não là cái gì? Là buồn, thương, giận, ghét, oán thù..v.v…, những cái đó nó làm
cho mình khổ. Như vậy thì chúng ta tu phải thấy những cái buồn thương giận
ghét, thử có thật hay không? Quý vị thấy
có thật không? Tôi nói thí dụ một chuyện nhỏ xíu thôi. Thí dụ như mình ở chung
trong một nhà hay trong một chùa. Rồi hôm nào đó mình có để món đồ hơi quí của
mình, huynh đệ bên cạnh họ thấy, thấy rồi họ lượm họ giấu. Khi mình mất mới tìm
kiếm nó. Nếu mình biết ai lấy cái này thì sẽ làm sao? Là người có tội ăn cắp,
ăn trộm của mình rồi. Cho nên nghĩ nếu mình biết được ai ăn trộm, ăn cắp của
mình thì mình sẽ tát tay hoặc nạt nộ gì đó. Nhưng khi mình tìm một hồi, bất thần
huynh đệ đưa ra, đây tôi giấu chơi chớ tôi không có lấy. Lúc đó mình tát tay
không? Cái giận cái buồn khi mất đó còn không? Nó bay đi đâu mất tiêu. Nếu nó
thật thì nó nổi lên rồi kéo dài, nhưng mà không phải. Nghĩa là khi mất thì mình
bực bội la hét, khi người ta đưa ra trả lại mình thì mình vui vẻ nhiều. Như vậy
cái buồn cái giận nó không có thật mà lâu nay chúng ta bị nó sử mình, nó sai
khiến mình. Đó là tôi nói trường hợp đặc biệt mình mất đồ.
Còn trường hợp đặc biệt như người mình thương thật là thương, mà
người đó lâu nay cái gì cũng chiều ý mình hết, nói cái gì thì tuân lệnh vâng
làm, thì lúc đó mình thương. Hôm nào đó, mình bảo cái gì mà họ chứng cự lại,
lúc đó còn thương không hay nổi giận? Thì như vậy cái thương không thật, cái giận
cũng không thật. Bởi vậy nên rồi chúng ta bị cái thương cái ghét, cái giận cái
buồn, nó làm rối loạn trong tâm mình gọi đó là phiền não, nói tôi phiền não
quá. Phiền não vì cái buồn thương giận ghét đó nó quấy nhiễu, nó không cho mình
yên. Bây giờ biết nó không thật, cái giận vừa dấy lên thì biết nó không thật,
cái thương đấy lên biết nó không thật. Nó không thật biết rõ bản chất không thật
thì nó hết quay cuồng rối loạn mình nữa. Như vậy biết phiền não không thật thì
đâu cầu cái gì chân, tìm không thật làm gì. Phiền não không thật thì tất cả cái
khác đều không thật. Cho nên biết phiền não không thật, đó là biết được vọng
không thật, không thật thì cần dứt vọng nữa hay không? Nó không thật thì tự nó
hết.
Bây giờ quý vị thử khi
nào đang nổi giận ai đó, cái mình nhìn lại cái giận, ôi chú không thật thì cái
giận tự nó lặng thôi, nó trốn mất hà, chớ không có đi đâu, không phải trốn
tránh chỗ nào. Như vậy thì cái vọng hay cái nóng giận nó không thật, thì cái
chân thật cũng đâu có thật. Vì vậy mà nói khi chúng ta tu dùng trí tuệ bát-nhã
quán chiếu thấu suốt các pháp duyên hợp không thật, thì không còn nói chân, nói
vọng gì nữa hết, vì cái đối đãi nó cũng không thật. Vì vậy nên đây mới nói chẳng
cầu chân, không đoạn vọng là như vậy.
Liểu tri nhị pháp không vô tướng. Tức
rõ biết hai pháp là không có tướng thật. Biết cái chân, cái vọng đối đãi là
không thật.
Bởi không thật nên, Vô tướng vô không vô bất không, nó không tướng,
mà nó cũng không không, mà cũng chẳng không cái chẳng không. Dùng từ thật là
khó.
Vô tướng, vô không, vô bất không, ba chữ
vô. Vô tướng vì nó không thật nên gọi là vô tướng, không thật nhưng mà không phải
không. Bây giờ tôi nói thí dụ cho quý vị
hiểu từ này. Chúng ta đứng dựa bên hồ nước trong đêm rằm, trên hư không
có mặt trăng sáng chiếu xuống, thì nhìn xuống mặt hồ chúng ta thấy cái gì? Ờ thấy
bóng mặt trăng. Như vậy thì bóng mặt trăng ở đáy hồ là thật hay không thật? Nếu
mình đưa tay vớt lên được không? Vớt lên thì nó không, nên nói rằng vô tướng là
nó không có tướng thật. Nhưng vớt thì không thật, không được, mà đứng trên nhìn
thì có không? Không thật mà vẫn có, mắt vẫn thấy nó đang ở dưới đáy hồ, nó là
vô tướng vô không, nó chẳng không. Như vậy thì nó là không tướng, nó là không
phải là không ngơ, nó có cái bóng rõ ràng. Nhưng rồi thêm chữ vô bất không, vô
là không, bất là chẳng, không mà chẳng không. Tại sao không chẳng không? Không
là không có cái tướng thật, mà có bóng nên thấy không mà chẳng phải không.
Các pháp ở giữa này cũng vậy, người ta cứ ngở rằng cái gì mình
thấy mình biết thì cái đó đều thật. Nhưng mà đâu phải vậy, cái mình thấy mình
biết mà nó vẫn là giả, chớ nó không có thật. Bởi vậy nên mình hiểu rõ ràng thì
lẽ thật của nó hiện tiền, nên người học Phật nếu hiểu sơ sơ thì không thể nào
thấu suốt. Như chúng ta thường đứng hai bên hoặc là có hoặc là không, cái gì có
là có thật, không là không thật. Nhưng ở đây không mà chẳng không thì sao?
Không là không cái tướng thật, nhưng giả tướng vẫn có, nên không mà chẳng
không. Như trăng ở đáy nước nó không khi mình mò bắt nó đâu có, nhưng nó chẳng
không vì mình đứng đây nhìn thấy bóng ở dưới nước rõ ràng, như vậy không mà chẳng
không.
Tức thị Như Lai chân thực tướng. Là thấu
suốt được cái đó thì mình biết cái tướng chân thật của Phật. Như vậy tất cả
chúng ta tu, chúng ta phải làm sao thấu suốt được lẽ này: cái chân thật tướng của
Như Lai là chỗ không phải thực, không phải hư. Nếu nói là thật thì không được,
nói không ngơ thì cũng không được.
Như bây giờ tôi nói thí dụ đây là chỉ lẽ thật cho quý vị thấy. Như giờ nội tâm chúng ta khởi suy nghĩ
thì quý vị nói cái gì? Tâm tôi đang suy
nghĩ. Nhưng khi không suy nghĩ quý vị có
tâm không? Bởi vì chúng ta lầm chữ tâm, ngở rằng tâm là cái biết, cho cái suy
nghĩ biết đó gọi đó là tâm. Tâm đó là mình phải không? Đó là tâm mình. Tôi đang
suy nghĩ, cho suy nghĩ là tâm của tôi. Bây giờ giả sử lúc nào quý vị thản nhiên tự tại ngồi chơi, không suy nghĩ
gì hết, rồi có tâm không? Có tôi không? Không suy nghĩ, lẽ ra nói tâm suy nghĩ
là tâm tôi, thì không suy nghĩ là không có tôi rồi. Nhưng không suy nghĩ mà tôi
vẫn nghe, tôi vẫn thấy thì cái tôi đâu phải là cái suy nghĩ, mà lâu nay chúng
ta cột cái suy nghĩ là tâm mình.
Cho nên Phật thấy mê lầm cái suy nghĩ là tâm nên chúng ta đi
theo cái tạo nghiệp. Bởi vì suy nghĩ thì có thương, có ghét, có buồn, có giận;
đó tất cả cái suy nghĩ đều dẫn mình tới buồn thương ghét giận đó nên mình tạo
nghiệp trầm luân sanh tử. Bây giờ buông hết suy nghĩ mà mình vẫn hiện tiền,
mình hiện tiền mà không có suy nghĩ thì có tạo nghiệp không? Không tạo nghiệp
mà vẫn có mình, như vậy nhắm mắt mình giải thoát tự tại, nghiệp không dẫn. Vậy
mục đích tu là tới chỗ đó.
Phật dạy mình tu là gì? Tu là dứt hết vọng tưởng, vọng tưởng
điên đảo phải dứt, vì vậy bắt mình phải niệm Phật cho nhất tâm. Nhất tâm thì mới
thấy được Phật, còn tu thiền thì phải định, định cái tâm lăng xăng đó, như vậy
thì mới giải thoát sanh tử.
Mình tu bây giờ thì hay cấm cho cái suy nghĩ xấu, tội lỗi nhưng
suy nghĩ tốt thì cho. Nghĩ cái này phải, cái kia hay, cái kia tốt, cái nọ là
hơn gì đó, những cái gì mình thấy hay mình cho nó nghĩ. Như vậy mình cho nó
nghĩ, nghĩ điều lành, điều phải thì khi chết mình đi đâu? Nhất định đi được cõi
lành, cõi người, cõi trời, mà đi cõi người cõi trời Phật có ưng ý cho người tu
mình đi cõi đó không? Phật chưa, được cõi người rồi mấy chục năm cũng chết nữa,
được lên cõi trời mấy ngàn năm hết phước rồi cũng tuột xuống, như vậy thì không
phải là chỗ giải thoát an lành.
Vì vậy mà Phật bảo mình dừng hết mọi suy nghĩ đừng cho tâm nó dấy niệm tạo nghiệp thì mình hết bị tạo nghiệp luân hồi sanh tử. Giải thoát ngay chỗ đó, quý vị nghiệm lại những pháp tu, pháp nào cũng dạy mình tới chỗ đó hết. Ngồi thiền thì phải định, chớ ngồi thiền mà tưởng tứ tung thì không được gì. Niệm Phật thì phải nhất tâm, không nhất tâm thì cũng chưa được cái gì. Đó là chỗ chú ý mà Phật dạy chúng ta. Cho nên khi tâm mình không còn cái niệm lăng xăng nữa, đó là nhân của giải thoát sanh tử.
CHÁNH VĂN :
Tâm
kính minh giám vô ngại,
Quách
nhiên oánh triệt châu sa giới.
Vạn
tượng sum la ảnh hiện trung,
Nhất
lỏa viên quang phi nội ngoại.
GIẢNG :
Tâm kính minh giám vô ngại, Chỗ
này diễn đạt chỗ cứu cánh của chúng ta tu. Khi chúng ta được tâm trong sáng rồi,
giống như mặt gương trong vậy đó, thì nó chiếu soi không có gì trở ngại hết. Quý
vị thấy mặt gương chúng ta chừng một tấc
vuông thôi mà trong thì chúng ta để ngoài trời nhìn thấy tận mây xanh không? Nó
trong thì tất cả hình ảnh ở ngoài đều chiếu rọi vô. Gương tâm mình nếu khi nó
không còn những niệm khởi che đậy thì lúc đó nó chiếu soi không ngại, tự tại vô
ngại đó. Lúc đó nó chiếu tới đâu?
Quách nhiên oánh triệt châu sa giới.
Nó chiếu thông suốt, quách nhiên oánh triệt là thông suốt khắp cả
châu sa giới. Châu sa giới là thế giới nhiều như cát như bụi vậy đó. Nghĩa là
vô lượng vô biên thế giới mình đều chiếu soi khắp hết. Đó là chuyện phi thường,
khó mà tin nổi. Nhưng điều đó quý vị muốn
tôi chứng minh không?
Bây giờ tôi hỏi quý vị Đức
Phật ngồi tu dưới cội bồ-đề, khi từ canh một tới canh ba thì Ngài chứng được
Thiên nhãn minh. Khi chứng thiên nhãn minh rồi Ngài nhìn thấy trong bầu trời,
có vô lượng vô số thế giới. Như vậy còn mắt phàm mình thấy tới đâu? Thấy có một
thế giới mình ở thôi, ngoài ra mình không biết, cái gì ở xa đó là sao là trăng
là gì đó chớ không phải thế giới nữa. Với con mắt Phật lúc đó tâm hoàn toàn
trong sáng rồi, Ngài nhìn thấy thế giới vô số kể, nên từ chuyên môn là hằng hà
sa số thế giới là thế giới nhiều như cát sông Hằng. Như vậy tâm Ngài chiếu tới
đâu? Không phải khắp hết cả bầu trời, hay khắp hết cả thế giới hay không. Cho
nên mới nói rằng quách nhiên tức là nó rỗng rang chiếu suốt cả thế giới nhiều
vô số kể, như số cát sông Hằng. Điều đó là một lẽ thật Phật đã thấy.
Còn mình ngày nay mình chiếu không xa là tại vì gương mình bụi
quá mà, bụi nó phủ dầy kín làm sao mà thấy. Vì vậy nên nói tu là phủi bụi, phủi
bụi của cái gì? Phủi bụi của mặt gương tâm. Tâm mình nó trong sáng mà bây giờ cứ
phiền não lên hoài, lát thì thương, lát thì giận, lát thì buồn, lát thì tức, nó
cứ liên miên, liên miên. Có khi nào quý vị
ngồi một giờ mà không có cái nghĩ gì không, hay là cái này chồng lên cái
kia, cái kia chồng lên cái nọ, vừa dứt cài này nó sang cái khác liên tục, liên
tục, bởi vậy nên nó che khuất gương sáng của mình. Phật bải mình muốn có gương
sáng đó hiện bày thì phải dừng bụi lăng xăng đó, phải lau chùi nó cho sạch, chớ
đừng để nó tối, đừng để nó mờ.
Như vậy thì quý vị biết
tu chưa? Đừng lấy làm lạ tại sao mình tu mà cứ bỏ không cho nghĩ. Cái nghĩ là bụi
phủ che tâm sáng của mình, cho nên Phật bảo mình bỏ, mình trừ nó đi thì cái tâm
sáng tự hiện. Nếu mình chứa chấp nó thì muôn đời mình đi trong mờ mịt tối tăm,
không bao giờ được sáng tỏ. Đó là chỗ mà Phật muốn nói.
Còn ở đây ngài Huyền Giác ngộ được đạo rồi, ngài nói cũng đúng
như vậy đó.
Vạn tượng sum la ảnh hiện trung, tức là
muôn tượng ở chung quanh đều hiện trong cái gương không thể nghĩ bàn của mình
đó, chớ không ở đâu hết.
Nhất lỏa viên quang phi nội ngoại. Tức
là chỉ một hòn ngọc sáng, nó không phải ở trong, không phải ở ngoài. Nghĩa là
khi chúng ta có hòn ngọc sáng để ở trên bàn, rồi tất cả cảnh hiện trong hòn ngọc
sáng đó, thì cảnh hiện trong hòn ngọc sáng đó là cảnh ở trong hay cảnh ờ ngoài?
Mình thấy là thấy ở trong hòn ngọc, nhưng không phải ở trong hòn ngọc, từ ngoài
mà nó hiện bóng vào đây đủ hết, cho nên không nói ở trong không nói ở ngoài.
Đây ngài chỉ người tu khi đạt tới chỗ tâm mình trong sáng không
còn những niệm lăng xăng che đậy nữa thì như một hòn ngọc trong sáng vậy, hình
bóng ở ngoài đều hiện vô trong hòn ngọc. Khi thấy bóng hình sự vật trong hòn ngọc
mà thật ra những cái đó không phải ở trong hòn ngọc, cho nên không phải trong
mà cũng không phải ngoài là vậy.
CHÁNH VĂN :
Hoát
đạt không, bác nhân quả,
Mãng
mãng đãng đãng chiêu ương họa.
Khí
hữu trước không bệnh diệc nhiên,
Hoàn
như tỵ nịch nhi đầu hỏa.
CHÁNH VĂN :
Hoát đạt không, bác nhân quả, là
bác hoàn toàn không, không có nhân quả. Người ở đời họ nói làm rồi thôi, tất cả
cái gì hiện tại này chớ đời sau không có. Mình làm được phước hay điều lành thì
hưởng ngay bây giờ chớ không phải tới đời sau. Hoặc giả đời này mình làm, đời
sau không có cái quả gì mà sợ. Cho nên họ nói rằng hoàn toàn không, không có
nhơn quả.
Nếu người chấp chặt như vậy, bác lý nhơn quả triệt để như vậy
thì:
Mãng mãng đãng đãng chiêu ương họa. Là
mênh mông thênh thang chuốc họa ương. Tức chuốc họa ương dẫy đầy, tràn ngập
không biết là bao nhiêu. Bởi vì chúng ta tin được lý nhân quả, đời này chúng ta
làm xấu làm ác, đời sau chúng ta khổ bị trầm luân. Cho nên ráng tu chừa cái ác
làm lành.
Nếu người không tin có nhơn quả, bác lý nhơn quả thì họ có sợ
cái gì ác, cái gì tội đâu. Bởi không sợ ác, không sợ tội nên rồi họ tạo không
biết bao nhiêu là tội, mênh mông bát ngát kể không hết. Khi tội nhiều đó là họ
đã chuốc khổ không thể nào lường, không thể nào tính được. Đó là nói người bác
không, không có tội không có phước gì hết.
Khí hữu trước không bệnh diệc
nhiên, tức bỏ cái có mà chấp cái không thì bệnh cũng giống nhau như vậy.
Hoặc nói không nhơn không quả, hoặc nói nhơn quả không thật..v.v.., khí hữu là
bỏ cái có rồi chấp vào cái không thì nó cũng giống hệt như vậy.
Hoàn như tỵ nịch nhi đầu hỏa. Là
giống như mình sợ chết chìm mà nhào vô đóng lữa. Sợ chết chìm lạnh mà nhào vô
đóng lữa thì sao? Thì mình cũng chết nóng.
Bởi vì ở thế gian có hai cái bệnh: bệnh chấp có và bệnh chấp
không. Có người nói rằng đời này chết đời sau sẽ còn trở lại để chịu những phước,
những tội mà mình đã gây đời trước, nhất định nó không sai chạy, đó là chấp có.
Có người nói chết rồi là hết, không còn gì hết, đó là chấp không.
Cho nên có nhiều khi, các vị tu trong nhà Phật mà còn có lầm lẫn
lớn. Như khi tụng kinh nhất là kinh Bát Nhã, chiếu kiến ngũ uẩn giai
không..v.v… cái gì cũng không hết. Vô nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý, tất cả cái
gì không hết. Rồi họ nói Phật nói trong kinh cái gì cũng không hết, không đó mới
đúng, còn nói có là trật, thì có tội không? Không là không tướng thật, chớ
không phải không giả tướng. Mình lầm như khi nảy tôi nói, mặt trăng ở dưới đáy
nước nó không phải mặt trăng thật, nhưng mà không phải không có bóng mặt trăng.
Không phải mặt trăng thật đành rồi, nhưng bóng mặt trăng đâu có không. Cũng như
vậy, Phật nói thân này không là không cái tướng thật, chớ tướng giả hợp do
duyên đâu phải là không.
Như vậy thì phải hiểu chữ không trong đó là để phá cái chấp thật,
mà cái giả tướng không phải là không. Có nhiều người nói trong kinh bát-nhã nói
cái gì cũng không, không hết. Vậy thì tất cả pháp không có gì hết, không mình
không có người, không có gì hết, thì tha hồ muốn làm gì làm, thì chẳng khác nào
như người sợ chết chìm mà chui vô đống lữa, như vậy cả hai đều nguy hiểm. Cho
nên trong nhà Phật cấm không cho chúng ta chấp một bên, hoặc là có, hoặc là
không, bởi vì tất cả pháp ở giữa thế gian này đều là không thật. Có mà không thật,
không thật mà nói thật không được cho nên không nói có, mà không thật nói không
cũng không được.
Bây giờ tôi hỏi tất cả quý vị, hiện giờ thân chúng ta ngồi đây
nghe GIẢNG : thân mình thật không? Không thật, người ta ngắt một cái có la
không? La vì thấy đau tức là thấy mình thật rồi, nói không sao được. Cho nên chỗ
này là chỗ rất khó. Chữ không thật là Phật chỉ cho mình thấy cái thân này đủ
duyên thì nó còn, thiếu duyên thì nó mất, cho nên không thật.
Bây giờ quý vị kiểm nghiệm
coi tất cả chúng ta những người trước chúng ta và những người đồng thời với
chúng ta, họ còn hết? Nếu có người nào đang nói chuyện với mình vui vẻ, bất thần
bị nhồi máu cơ tim ngã đùng ra chết. Đang nói chuyện với mình thì lúc đó thật
hay giả? Nhất định là thật. Mà nhồi máu cơ tim ngã ra chết lúc đó thật hay giả?
Chết rồi thì giả. Như vậy thật giả đó rõ ràng chưa? Mới phút giây trước mình
nói là thật, vì đối diện nói chuyện với mình. Nhưng tới chừng nhồi máu cơ tim
ngã ra chết, thì lúc ngã ra chết thì thật hay giả? Nếu thật thì lúc nào cũng thật,
còn mới đó thật bây giờ thành giả thì nó đâu phải là thật nguyên vẹn. Nó chỉ có
trong lúc nào rồi nó sẽ mất, cho nên rồi đều giả.
Chúng ta kiểm lại ông cha chúng ta trước có bây giờ không. Kể cả
ông nội, bà nội gì đó hồi xưa mình nói có, nhưng bây giờ kiểm lại mất rồi. Lần
lần cho tới cha, tới mẹ mất, cho tới mình cũng mất luôn thì giả hết trơn. Hể mất
rồi thì giả chớ thật sao được. Như vậy mà Phật nói giả mình không chịu. Tại sao
mình không chịu? Tại vì mình mê lầm nhận cái giả làm cái thật, bởi vậy cho nên
mình cứ khổ hoài. Mất cái giả này tìm cái giả khác nữa không bao giờ dừng, Phật
gọi đó là luân hồi sanh tử. Bây giờ biết cái giả là giả, thì không có quan tâm
mấy, cần nó thì dùng không cần thì thôi, không có sao hết.
Như vậy thì chúng ta tu phải có trí tuệ thấy đúng như thật. Cái
giả biết là giả, cái thật biết là thật, đó là chúng ta có trí tuệ. Còn giả mà tưởng
là thật thì chúng ta là người si mê. Bây giờ tôi hỏi toàn quý vị ở đây, quý vị
đang là người giác ngộ hay người si mê? Si mê. Vậy mà ai nói si mê cái nổi
giận liền. Mình rõ ràng nếu xét lẽ thật thì chúng ta đang si mê, vì mang thân
giả mà ngở là thật, rồi chấp hơn chấp thua, được mất đủ thứ khổ, cho nên đó là
si mê. Chúng ta biết giả là giả thì đâu còn si mê nữa. Bởi chúng ta si mê chấp
thân giả làm thật, rồi tất cả cái giả khác dồn tới chúng ta cũng thấy thật hết
trơn. Mình thấy thân thật thì có ai chửi mình, mình chịu nổi không? Nếu họ chửi
mình thì chắc ăn thua tới cùng, chết sống với nhau.
Như vậy thì tại thấy thân thật nên lời chửi cũng thật, nếu thấy
thân giả thì lời chửi cũng giả, có gì đâu. Thân còn là giả, huống nữa là lời chửi
nó qua mất tiêu. Cho nên Phật hồi xưa giác ngộ rồi người ta chửi Ngài cũng thản
nhiên tự tại, không giận không hờn. Còn mình bây giờ động tới thì la đông đổng.
Như vậy thì mới thấy kẻ mê thì nhiều khổ đau, nhiều phiền não. Còn giác ngộ rồi
thì hết phiền não hết khổ đau như vậy đó. Cho nên tu là đưa chúng ta tới chỗ
giác ngộ không còn mắc kẹt cái gì hết.
Như vậy thì đây để nói rõ rằng, tất cả các pháp không nên chấp
có, mà cũng không nên chấp không. Có và không là hai bên, mà chỉ nói là giả.
Trở lại thí dụ hồi nảy, mặt trăng dưới đáy nước, giờ chúng ta phải
nói nó làm sao? Nói có thì thử vớt lên coi. Vớt không được nói không. Bây giờ để
yên nước trong lại nhìn thấy coi có hay không? Nếu không thì sao mắt mình thấy,
thấy có rõ ràng. Như vậy nói không cũng không được. Nói đúng nhất là đây là
bóng mặt trăng. Bóng mặt trăng là cái giả nó không thật, thì đó là lẽ thấy được
chân lý. Còn nói mặt trăng đó là thật, mặt trăng đó không có, đều là trật hết,
đều là sai lầm. Đó để cho quý vị thấy
cái mê lầm của chúng ta nó cũng na ná như người nhìn mặt trăng dưới nước vậy
đó. Con nít thấy thì tưởng mặt trăng thật, còn người lớn thì thấy biết đó là
bóng mặt trăng.
Giờ Phật giác ngộ nên biết thân này giả, còn chúng ta thì mê nên
nói thân này thật, thì chúng ta giống như con nít vậy thôi mặt trăng ở dưới nước
mà cho là thật. Như vậy chúng ta bị cuộc đời lầm lẫn, nó lôi kéo chúng ta đi
mãi trong sanh tử luân hồi.
Đó là giải thích đoạn này cho biết rằng đừng chấp khẳng định có
thật, mà cũng đừng chấp khẳng định là không ngơ. Phải biết tất cả pháp tạm bợ,
giả dối không thật.
CHÁNH VĂN :
Xả
vọng tâm, thủ chân lý,
Thủ
xả chi tâm, thành xảo ngụy.
Học
nhân bất liễu dụng tu hành,
Chân
thành nhận tặc tương vi tử.
GIẢNG :
Có những vị mới tu nói rằng cái tâm hư vọng là tâm dối, tâm điên
đảo tạo nghiệp. Vậy rồi thôi bỏ hết vọng tâm đó để cho mình được cái chân lý,
được chân lý là được chân tâm. Bỏ vọng tâm để được chân tâm. Như vậy thì bỏ bên
này để được bên kia. Bỏ là xả, được là thủ; cả tâm thủ xả đó cũng thành ra xảo
ngụy nữa. Xảo ngụy tức là giả dối không thật. Người tu thấy rõ tâm hư dối nó
không thật, cho nên mình không lệ thuộc nó. Khi không lệ thuộc hư dối thì tự nó
hiện cái chân thật hiện tiền, không có bỏ cái này mà giữ cái kia gì hết. Cái thật
là nó hiện tiền, hiện tiền là tâm mình, còn khởi cái giữ tâm mình thì nó là hai
cái: cái giữ và cái tâm; mà hai cái thì không phải là mình rồi.
Như vậy cho nên cái vọng mình biết nó rồi, tự nó mất. Vọng mất
mà cái biết này là chân, mình giữ hoài cái biết này thì như vậy cái biết vọng
là một, cái giữ cái biết nữa là hai, vậy cũng xảo ngụy chớ chưa phải thật. Cho
nên vọng, biết vọng không theo thôi đủ rồi, hết vọng thì tự nó chân, chớ không
có bỏ cái này giữ cái kia. Bỏ cái này giữ cái kia cũng là bệnh, cũng là hai
bên.
Vì vậy mà ở đây ngài nói:
Xả vọng tâm, thủ chân lý,
Thủ xả chi tâm, thành xảo ngụy.
Tức là bỏ vọng tâm mà giữ chân lý, thì tâm giữ và bỏ đó cũng
thành tâm xảo ngụy.
Học nhân bất liễu dụng tu hành,
Chân thành nhận tặc tương vi tử.
Người học đạo không rõ dùng cái đó mà tu hành, cho nên trở thành
nhận giặc làm con.
Chỗ này tôi nói rộng một chút cho quý vị hiểu. Đây là chúng ta nói về cách tu niệm Phật.
Chúng ta dùng câu niệm Nam mô A Di Đà Phật để trừ hết vọng tưởng. Mình cứ niệm
phải câu đó cho tới tất cả vọng tưởng đều lặng hết thì câu niệm Phật đó nó còn
hoài được không? Ở đây câu niệm Phật cốt để trừ hết những niệm lăng xăng, niệm
lăng xăng hết rồi thì câu niệm Phật cũng phải lặng. Cho nên trong thí dụ ở bên
Tịnh Độ có nói, chân chúng ta đạp gai, muốn lấy gai đó ra thì phải mượn gai
khác mình lể. Mượn gai khác mình lể gai cũ ra rồi thì gai khác cũng quăng luôn.
Nếu gai cũ ra rồi, mà gai mới mình cũng để nguyên trong chân thì hết đau không?
Không. Đó, cho nên câu niệm Phật là phương tiện để trừ muôn niệm, khi muôn niệm
hết rồi thì câu niệm Phật cũng phải buông.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một tu sĩ hỏi vị thượng tọa: "Niệm Phật để làm
gì?". Ngài đáp: "Niệm Phật để thành Phật!" Tu sĩ ấy mỉm cười lui
về, ý không công nhận. Tu sĩ đó không công nhận vì ông chưa hiểu và chưa ứng
dụng được hạnh niệm Phật đi ngay vào Phật cảnh, tức vào tâm tạng của Như Lai.
Theo trí phân biệt, ông chỉ chấp nhận và chỉ có thể ứng dụng câu niệm Phật để
trừ vọng tưởng, lần lần chứng vào Chân Như mà thôi. Nếu theo tâm chấp tướng
phân biệt, người ta thấy sóng với nước, xuyến cùng vàng khác nhau. Nhưng thật
ra, các thứ đó chẳng phải một, cũng chẳng phải hai. Nếu các hành giả niệm Phật
từ thí dụ này để tìm hiểu, tất sẽ xóa tan niệm phân biệt, dung hòa tâm với
cảnh, thể nhập pháp môn Bất Nhị, đi ngay vào tạng tánh Phật, đại khái ý nghĩa
như thế. Thuở xưa, một hành giả khi chứng ngộ vào cảnh giới này đã có bài kệ:
Bước đường vô vị đã cùng rồi
Thấy sóng là đâu chỉ nước thôi !
Ông Triệu siêu quần chi lắm đó
Mặt mày trông cũng thế mà thôi.
|
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Hạt
châu Thủy Thanh có công năng lóng nước đục thành trong. Câu niệm Phật cũng thế,
không luận vọng niệm nhiều ít, hành giả cứ chuyên chú giữ chắc sáu chữ hồng
danh lâu ngày, tạp niệm tự nhiên tan mất. Ðiểm đáng lưu ý trong đây là không
nên khởi tâm dứt trừ vọng niệm. Vì vọng niệm vốn như huyễn, cố tình muốn dẹp,
nó lại càng tăng. Một nhà hiền triết đã nói kinh nghiệm này qua câu: "Càng
muốn đè nén, chính là cố tâm làm cho nó thêm phát khởi." (Tương dục án
chi, tất cố hưng chi).
Khi xưa có một Tú Tài đến phỏng đạo nơi bậc cao đức, vị Thiền sư này hỏi: “Cư
sĩ tên họ chi?" Tú Tài đáp: "Thưa, đệ tử nhũ danh Trương
Chuyết". Chữ Chuyết có nghĩa là vụng về. Thiền Sư nghe xong bảo: “Với đạo
khéo còn chẳng có, huống chi đến vụng!" Tú Tài nghe qua liền ngộ vào Bất
Nhị pháp môn, làm kệ trình lên rằng:
Ánh linh lặng chiếu khắp hằng sa
Phàm thánh nguyên lai bản tánh ta
Một niệm chẳng sanh toàn thể hiện
Sáu căn vừa động bị mây lòa
Dứt trừ phiền não càng thêm bịnh
Tìm tới Chân Như cũng vẫn tà
Tùy thuận các duyên không trở ngại
Niết bàn sanh tử tợ không hoa.
Theo ý hai câu luận bài kệ trên, phiền não vốn là không, là huyễn, cứ mặc nhiên
giữ chánh niệm, nó sẽ tự tiêu tan. Nếu khởi ý dứt trừ thì phiền vọng lại hóa
thành có. Chân Như là thể tánh tự nhiên, biết lặng lẽ dung hợp với tự nhiên,
tánh Chân Như sẽ hiển lộ. Nếu khởi tâm tìm tòi xu hướng, tức có niệm phân biệt,
trái với thể bản nhiên, đó chính là tà vọng. Ðể bổ túc ý trên, xin ghi thêm lời
của Ðàm Hư đại sư, một bậc cao tăng cận đại thuộc giáo phái Thiên Thai bên
Trung Quốc.
Ðây Phật Tổ quê hương
Xứ xứ hiện phong quang
Nước non miền đất rộng
Ưng tự có biên cương
Ðộng vật tùy sanh trưởng
Thực vật tự phô trương
Nắng mưa tùy đổi tiết
Tháng năm tự đoản trường
Vinh hư muôn tượng hiện
Là tự thể chân thường
Nếu cố ý cầu toàn
Trở lại bị tổn thương!
|
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Một tín
nữ đến thuật lại với bút giả: "Có vị sư-cô bảo con bỏ hết đừng nên niệm
Phật nữa, hãy để lòng yên lặng cho tâm không, cảnh không, mới mau ngộ
đạo!". Bút giả nói: "Các pháp đều như huyễn, câu niệm Phật cũng như
huyễn, tự thể của nó đã là không rồi, cần gì phải bỏ? Nếu muốn chứng được tâm
không, cảnh không, mà còn ngại câu niệm Phật, còn bác bỏ sự tướng, thì đó chính
là Thiên Không hay Ngoan Không (cái không thiên lệch, trống rỗng, cứng chắc)
của ngoại đạo, chớ chẳng phải ý nghĩa Chân Không của Phật pháp. Ý nghĩa chân
không chân chánh của đạo Phật ở ngay nơi tất cả cái có thuộc mọi sự tướng, mà
không chấp thấy là có (Chân không bất không, diệu hữu phi hữu). Chẳng phải
riêng sư cô ấy lạc lầm, trong hiện tại có rất nhiều vị tu học Phật pháp đã sa
vào hầm hố đó. Thật là điều không may và đáng thương cảm!" Nay nhân tiện
xin tạm mượn sự việc trên để giải thích về ý nghĩa "tự không" của câu
niệm Phật.
Theo quan niệm địa dư xưa, người Trung Hoa cho rằng vùng đất của loài người ở
là một châu lớn, chỗ họ cư trú thuộc Trung Quốc. Phía Ðông của châu ấy là biển
cả, muôn dòng nước ở lục địa đều chảy ra đó. Người Việt Nam hấp thụ văn hóa
Trung Hoa, cũng đồng với quan điểm ấy. Bởi thế cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm mới có câu:
"Hồng nhật Ðông thăng tri đại hải. Bạch vân Tây vọng thị thần châu".
Và theo thiên văn học xưa, người Trung Hoa bảo rằng các vì sao đều chầu hướng
về ngôi Bắc Ðẩu. Ðể dẫn giải cho Phật pháp, Triệt Ngộ đại sư cũng phương tiện
mượn quan niệm thế gian ấy mà làm thí dụ. Bởi tất cả pháp đều từ nơi biển Chân
Không lưu xuất và đều tan về Chân Không. Bên tông Tịnh Ðộ gọi thể Chân Không đó
là Tự Tánh Di Ðà.
Bài kệ trên đại ý: Câu niệm Phật tánh vốn TỰ
KHÔNG, KHI HÀNH GIẢ TỪ KHỞI ĐIỂM NÀY tu tiến chứng thể tánh ấy một cách viên
mãn, sẽ thức ngộ muôn pháp từ nơi đó mà lưu xuất, lại cũng qui nhập về nơi đó.
Như sao Bắc Ðẩu làm chủ muôn sao, muôn sao chầu về Bắc Ðẩu, biển Ðông dâng nước
vào các sông ngòi, nước sông ngòi đều đổ về biển Ðông vậy.
Vì vậy trong nhà Phật thường thí dụ. Như con mắt mình đang
trong, đang sáng. Bây giờ có người nói để lấy một chút mạt vàng hay mạt ngọc gì
đó để vô con mắt cho nó tốt hơn, rồi bỏ vô mắt mình thì sao? Cái đó là của quí mà
bỏ vô mắt thì nó có sáng hơn không, hay là nó bệnh? Vì vậy cho nên cái chỗ chân
thật đó nó không còn các niệm nào, cho nên nói niệm Phật tới vô niệm đó. Từ một
câu niệm Phật để đánh tạt hết các niệm khác rồi, cuối cùng câu niệm Phật đó từ
từ chúng ta cũng phải buông. Buông câu Phật niệm rồi đó gọi là vô niệm. Niệm tới
vô niệm gọi đó là nhất tâm. Như vậy thì niệm Phật là phải đi tới chỗ niệm mà vô
niệm, nếu còn niệm thì đó là nhất niệm chớ không phải nhất tâm. Còn nhất niệm
thì còn động, còn động là còn sanh diệt. Cho nên đi tới chỗ vô sanh thì phải là
vô niệm.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Trong cảnh giới Nhứt Chân,
chẳng phải rỗng không, cũng chẳng phải thật có các pháp. Cho nên Tâm Kinh nói:
"Này Xá Lợi Tử! Huyễn sắc chẳng khác chân không, chân không chẳng khác
huyễn sắc. Huyễn sắc chính là chân không, chân không chính là huyễn sắc".
Tóm lại, Chân Không chẳng phải cái không trống rỗng, mà chính nó ở ngay nơi
hiện tượng huyễn hữu. Có một số người tu về Không môn, như Thiền tông chẳng
hạn, chưa hiểu chân lý này, lầm nhận chân tâm là một tự thể sáng suốt rỗng
không. Chư cao đức bên Tông môn cũng bác lối tu theo nhận thức sai lạc ấy, cho
đó là Hư Ðầu Thiền. Bởi hiểu biết sai lạc như thế, nên họ rất ngại niệm Phật,
cho tu Tịnh Ðộ còn có cái chướng của tướng có, như cát lẫn vào cơm. Hoặc họ
cũng nhận niệm Phật là có công đức, nhưng còn thuộc về pháp hữu vi. Vì vậy,
trong số các vị ấy có người đã mượn câu nói của cổ đức để thí dụ: "Mạt
vàng tuy là quí, nhưng rơi vào mắt thì xốn xang thành bịnh!". Kỳ thật cổ
nhơn cũng có lời ấy, song nói với một ý khác về bên Thiền khi hành giả hỏi, chớ
không phải thuộc bên Tịnh. Các vị ấy cũng không hiểu: Pháp vô vi dung thông bao
quát, đâu riêng có ngoài pháp hữu vi?
Thuở xưa ni cô Ðạo Càn đến chùa Quốc Thanh ở non Thiên Thai để phỏng đạo, có
hỏi Bảo Lâm Trân thiền sư: "Bạch tôn đức! Thế nào là tướng đại
nhơn?". Trân công đáp: "Ðợi khi nào ngươi trừ hết ngũ chướng, đến đây
ta sẽ nói cho!" Ni cô thưa: "Thế thì Hòa thượng đã bị che lầm rồi
đấy!" Ngũ chướng là thân tướng người nữ. Ý Ðạo Càn muốn nói Chân Tánh
không có tướng nam nữ, nếu y cứ nơi hình tướng để tìm chân tánh là sai lầm.
Ngài Bảo Lâm Trâm nghe nói biết chỗ tu của Ni cô còn lạc vào lối chấp Thiên
Không, nên quát bảo: "Ngươi học ở đâu được cái Hư Ðầu Thiền như thế?".
Ðạo Càn bị quở, bất giác xuất hạn dầm mình, chợt tỏ ngộ, liền cúi xuống đảnh
lễ. Trân công gạn hỏi lại: "Thế nào là tướng đại nhơn?". Ni cô liền
đứng chẩm hẩm, giang đôi chân, giăng hai tay ra. Ðây là hành động biểu thị
tướng đại trượng phu, cũng ngầm nêu rõ tánh Chân Không ở ngay trong tướng có.
Ngài Bảo Lâm Trân thấy thế biết cô đã lãnh ngộ, liền gật đầu ấn khả.
Bài kệ trên của tổ Triệt Ngộ, nhấn rõ lý Chân Không ở ngay nơi hình thức Diệu
Hữu của một câu A Di Ðà, nên mới nói: "Rõ ràng chính là có". Tứ biện
tài như tập trước đã dẫn giải. Còn “bát âm” là tám giọng nói của Phật, gồm có:
1. Âm thanh rất trong tốt. 2. Âm thanh cực dịu dàng. 3. Âm thanh hòa nhã thích
ý. 4. Âm thanh tôn trọng sáng suốt. 5. Âm thanh không pha lẫn giọng nữ. 6. Âm
thanh giác ngộ không mê lầm. 7. Âm thanh rất sâu xa. 8. Âm thanh sang sảng tuôn
trào bất tận. Vì thương xót muốn cho chúng sanh giác ngộ, chư Phật đã dùng bốn
thứ vô ngại biện tài, tám điệu âm thanh, khổ thiết tỏ bày dẫn đủ phương tiện
chỉ rõ lý Chân Không ở ngay trong Diệu Hữu. Và chư tổ sư trước nay cũng đã
thương xót nói đến đắng miệng cạn lời để giải thích lý này.
32.-Ẩn tu niệm chẳng thánh cùng phàm
Mắt huệ can chi dính mạt
vàng ?
Hữu tướng tức đồng Vô tướng
niệm
Chân Không huyễn sắc khắp
bao hàm.
NHƯ Ý :
Trong Thiền-lục có ghi câu chuyện đại khái như sau: Có vị THIỀN giả
đến Trình-bày kiến giải với một Bậc Tôn-Đức, Bậc Tôn-Đức thấy
thiền giả Tuy có chỗ sở đắc, song còn ưa đấm cảnh giới
THANH TỊNH an vui của Thiền.
Liền bảo: MẠT VÀNG
Tuy-quý, nhưng để nó dính vào đôi TRỒNG, tức còn làm XỐN con mắt.
Gần đây một vị tu thiền
góp nhăc ý này, khi thấy có ai niệm phật, lại dùng câu ấy để bác phá, làm HOẠI
Đường tu của người niệm phật, trong khi họ chưa thể Hành-thiền, trong KINH KIM
CANG Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: “Nhược kiến chư tướng
PHI tướng, tức kiến như lai”.
Giải một cách thoát văn
là : Khi thấy các tướng Hữu vi nên dùng tâm ấn Hiệp, như gương sáng in muôn
trượng không khởi Ý chấp hoặc bỏ, tức là thấy PHẬT hay thấy được
Phật TÁNH.
Niệm PHẬT tuy HỮU
tướng, nhưng khi hành giả đứt hẳn PHÀM Tâm và THÁNH Tâm, không sanh NIỆM chấp
hay bỏ, Tức là đồng với VÔ tướng rồi.
Lại nói thêm cho rõ, VÔ
tướng đây chẳng phải rỗng KHÔNG mà chính là gồm đủ MUÔN sắc
tướng, chỉ vì không chắp nên Huyễn-sắc mới tức Chân-không,
TÂM thể ta rộng khắp mười phương bao gồm chân không tức phần không chân như, và
huyễn sắc tức phần bất KHÔNG chân như, như trong Đại-thừa
Khởi-tín luận đã diễn giải, nếu hiểu
và thực hành đúng như thế, làm sao Niệm Phật Tụng Kinh lại dính MẠT VÀNG được ?
|
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Tám chữ trên đây, là
"Ðại từ đại bi A Di Ðà Phật". Trong Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục có thuật
chuyện một hành giả niệm Phật, khi lâm chung thấy tám chữ ấy hiện ra giữa hư
không to lớn, sắc như vàng ròng. Tám chữ ấy hàm ý tiêu biểu cho bốn mươi tám bi
nguyện độ sanh rộng lớn của đức A Di Ðà Thế Tôn. Song về sự trì niệm thì yếu
ước lại chỉ có sáu chữ "Nam mô A Di Ðà Phật". Sao gọi là tám chữ, hay
sáu chữ mở kho báu vô tận?
Theo Hiển Giáo, sáu chữ ấy tiêu biểu cho sự nương về kho vô lượng thọ mạng, vô
lượng quang minh, vô lượng công đức.
Theo Mật giáo, về quyển Thánh Tài Tập, sáu chữ đó là chủng tử của năm đức Phật.
Hai chữ Nam Mô có nghĩa là quy mạng. Mạng là Thọ Thường Trú, tức chỉ cho đức Tỳ
Lô Giá Na Như lai. Còn bốn chữ kia, theo thứ tự là chủng tử của năm đức Phật.
Hai chữ Nam Mô có nghĩa là quy mạng. Mạng là Thọ thường trú, tức chỉ cho đức Tỳ
Lô Giá Na Như Lai. Còn bốn chữ kia, theo thứ tự là chủng tử của bốn đức Phật: A
Súc Bệ, Bảo Sanh, A Di Ðà, và Bất Không Thành Tựu. Cho nên sáu chữ hồng danh là
kho bí mật, gồm thâu tất cả chánh báo, y báo khắp mười phương.
Theo Tâm giáo, sáu chữ này là kho chân tâm, gồm nhiếp tất cả nhân quả, tánh
tướng, phước huệ, sự lý. Vì thế nên gọi: "Một câu A Di Ðà là kho báu vô
tận".
Về điểm dùng tám chữ hay yếu ước lại sáu chữ, để mở kho báu vô tận, cổ nhơn đã
có câu:
"Lục tự đả khai vô tận tạng.
Thâu lai phóng khứ chỉ như nhiên".
Hai câu này có ý nghĩa:
Niệm sáu chữ hồng danh có thể mở toang kho báu vô tận như trên
đã nói. Và khi đã thể nhập vào kho chân
tâm, thì niệm tức là vô niệm, vô niệm tức là niệm, buông ra thâu vào đều ở
trong trạng thái như như.
Chư Phật Thế Tôn, chư Bồ Tát, chư Tổ, vì lòng bi nguyện, đã đem tám chữ hay sáu
chữ nầy mà phổ thí cúng dường khắp tất cả loài hữu tình, để cho chúng sanh mở
được cửa và thọ dụng kho báu vô tận ấy.
Người tu thiền cũng vậy thôi, mình tu ngồi yên. Thí dụ người
theo hơi thở thì mượn hơi thở. Tới chừng tâm nó yên rồi thì hơi thở mình cũng bỏ
luôn. Người tu thiền có khi dùng phương tiện quán thân bất định hay gì đó, thì
khi tâm mình nó yên rồi thì cũng bỏ luôn, thì mới đi tới chỗ hoàn toàn an định,
mà an định rồi mới giải thoát sanh tử, mới gọi là nhập Niết bàn. Chớ còn chưa
được an định thì chưa được Niết bàn.
Cho nên hiểu thấu đáo được con đường tu Phật dạy, vì tinh thần,
trình độ của người học Phật khác nhau nên Phật phải có nhiều pháp môn, để tùy
theo trình độ. Thí dụ ai thích mình sau chết thì sau được sanh chỗ nào cho vui
thì Phật nói niệm Phật đi chết được về Cực Lạc. Mà niệm chừng nào nhất tâm bất
loạn nhắm mắt mới được Phật đón. Còn ai tự thấy có khả năng quán chiếu được
mình thì dùng phương pháp Thiền, ai muốn linh thiêng Phật bảo trì chú đi. Thí dụ
trì câu “Án ma ni bát di hồng” có biết gì đâu, cứ đọc mãi câu chú đó linh lắm
mình tin như vậy, rồi tới ngày nào đó định được tâm thì câu chú cũng lặng luôn.
Án Ma Ni Bát Di Hồng
( OM MANI
PADME HUM)
Tam Tạng Pháp Sư Tuyên Hóa Thượng Nhân giảng vào năm 1971
Nếu quý vị có thể thường
xuyên trì tụng Chú Lục Tự Đại Minh thì sẽ chiêu cảm được sáu đạo ánh sáng có
công năng biến đổi sự tối tăm của sáu nẻo luân hồi trở nên sáng lạn.
Sáu
chữ nầy gọi là “Chú Lục Tự Đại Minh”, mỗi chữ đều có thể phóng ra một luồng ánh
sáng.
Mật
tông chuyên nghiên cứu về lời và ý nghĩa của thần chú. Phật giáo phân thành năm
tông phái là: Thiền tông, Giáo tông, Luật tông, Mật tông và Tịnh Độ tông. Thiền
tông chuyên về tham thiền tĩnh tọa; Giáo tông chuyên về giảng kinh thuyết pháp;
Luật tông thì tu trì, nghiêm tịnh giới luật, làm mô phạm trong ba cõi. Về Mật
tông, thì “mật” là bí mật, là “không biết lẫn nhau” (hỗ bất tương tri). Tịnh Độ
tông thì chuyên trì danh hiệu, niệm sáu chữ hồng danh “Nam Mô A Di Đà Phật”.
Trong
năm tông phái nầy, có người cho rằng Thiền tông là hơn hết; có người lại cho
Giáo tông hay nhất; lại có người cho Luật tông là đứng đầu; người tu theo Mật
tông thì nói Mật tông của mình là cao siêu nhất; người tu theo pháp môn Tịnh Độ
thì nói pháp môn Tịnh Độ là số một, không gì sánh bằng. Trên thực tế, các pháp
đều bình đẳng, không có cao thấp—“thị pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ”. Cho rằng
một pháp nào đó tối thắng, chẳng qua chỉ là cái thấy của cá nhân, mình thích
tông nào thì cho tông đó là nhất.
Bây
giờ chúng ta đang nói về Mật tông. Theo cách hiểu thông thường của mọi người
thì Mật tông là Lạt Ma giáo. Kỳ thực, Mật tông không phải là cái gì bí mật.
Trong Hiển giáo thì Hiển-Mật viên thông—trong Hiển giáo cũng có Mật giáo; như
Chú Đại Bi, Chú Lục Tự Đại Minh đều là “mật” cả. Chú Lăng Nghiêm lại càng “mật”
hơn nữa. Nên nói “mật” chính là, không biết lẫn nhau.
Người
không hiểu thì cho rằng cái gì bí mật mới tốt nhất, vì nó không được truyền bá
công khai. Có một số người không hiểu Phật Pháp, lại càng làm ra vẻ thần bí,
bảo: “Cái nầy không thể giảng cho ông nghe được. Mật tông của tôi ấy à, không
thể giảng cho ông nghe được đâu!” Quý vị không thể giảng cho người khác nghe,
thì tại sao quý vị lại đề cập đến nó chứ? Tại sao quý vị lại nói: “Tôi không
thể giảng cho ông nghe”? Nếu thật sự là Mật tông thì phải không nói gì cả mới
đúng, tại sao quý vị còn nói: “Tôi không thể giảng cho ông nghe”? Quý vị nói
rằng mình không thể giảng, song, như thế có phải là quý vị đã giảng rồi không?
Đó chính là quý vị đã giảng rồi đấy! Thế tại sao còn nói là không thể giảng
được? Là vì không hiểu rõ Phật Pháp, căn bản không hiểu được cái gì gọi là “Mật
Tông”!
Bây
giờ tôi sẽ nói cho quý vị nghe về Mật tông. Lời chú, thật ra không có gì bí mật
cả. Sở dĩ được gọi là Mật tông, vì khi quý vị trì tụng lời chú, bản thân quý vị
sẽ nhận được sự linh cảm mà tôi không thể biết được; khi tôi trì tụng lời chú,
thì bản thân tôi sẽ có được sự linh cảm mà quý vị không thể biết được. Vì chúng
ta không thể biết được công năng và sức mạnh của lời chú đối với mỗi người, cho
nên gọi là Mật tông; chứ bản thân bài chú tuyệt đối không phải là Mật tông.
Chính năng lực của chú mới là “mật”. Đó là ý nghĩa của Mật tông vậy.
Nếu
lời chú là bí mật, thì quý vị không nên truyền cho người khác; một khi quý vị
đem truyền cho người khác thì nó không còn là bí mật nữa. Cũng thế, Lục Tổ và
Huệ Minh có một đoạn đối đáp như sau:
Huệ
Minh hỏi: “Ngoài mật ngữ mật ý Ngài vừa giảng, còn mật ý nào nữa chăng?”
Lục Tổ
đáp: “"Ðiều tôi nói với ông đó chẳng phải là mật. Nếu ông phản chiếu, thì
mật ấy ở ngay nơi ông."
Quý vị
thấy không, đoạn đối đáp trên đã nói rất rõ ràng: Điều mà quý vị có thể nói ra
thì chẳng còn là bí mật nữa. Những gì có thể trao truyền cho quý vị cũng giống
như thế. Nếu là bí mật thì không nên truyền. Sự bí mật vốn ở ngay nơi quý vị, sát
bên cạnh quý vị. Đây mới chính là cái được gọi là bí mật.
Tôi
tin rằng ngay cả các Pháp sư của Mật tông cũng không biết cách giải thích về
“mật tông” như thế nào; họ chỉ cho rằng bài chú là bí mật. Nhưng bài chú nào
cũng đều có thể trao truyền cho mọi người, lời chú nào cũng đều có thể nói ra;
không có bài chú nào là không thể nói ra cả! Nếu không được nói ra thì họ sẽ
không có cách nào để truyền cho quý vị, có đúng vậy không nào? Chúng ta giảng
chân lý nầy là vì nó có thể được truyền đạt cho quý vị, không phải là bí
mật—đây không phải là Mật tông!
“Mật,”
thì không có cách gì để truyền đạt. Điều bí mật chính là năng lực của bài chú.
Không ai có thể nói cho quý vị biết chú nầy có năng lực gì, hoặc quý vị trì
tụng thì sẽ như thế nào, như thế nào; mà “như người uống nước, nóng lạnh tự
biết”—chỉ có quý vị tự mình biết mình mà thôi, người khác không thể nào biết
được, do đó gọi là “mật”. Năng lực là bí mật, sự cảm ứng là bí mật, diệu dụng
là bí mật, chứ không phải bài chú là bí mật! Bây giờ quý vị đều hiểu rõ rồi
chứ?
Những
người không hiểu rõ Phật Pháp ắt hẳn cho rằng tôi giảng không đúng. Cho dù là
không đúng, tôi cũng vẫn muốn nói như vậy. Quý vị cho là tôi đúng ư? Quý vị
không thể nào nói như vậy được! Bởi vì quý vị vốn hoàn toàn không hiểu gì cả,
thì làm thế nào quý vị biết được là tôi hiểu!!! Tôi thì càng không hiểu gì cả;
tôi còn hồ đồ hơn nữa! Có điều, trước kia sư phụ tôi đã chỉ dạy cho tôi rất rõ
ràng, cho nên mới biến đổi kẻ hồ đồ này thành một người biết giảng Chú Lục Tự
Đại Minh của Mật tông!
Mật tông
được chia thành năm bộ—Đông, Tây , Nam , Bắc, và Trung
ương. Phương Đông là bộ Kim Cang, chuyên hộ trì chánh pháp; bộ Bảo Sanh ở
phương Nam; bộ Liên Hoa ở phương Tây; bộ Yết Ma ở phương Bắc và bộ Phật ở chính
giữa. Nếu có thời gian quý vị hãy nghiên cứu Chú Lăng Nghiêm, trong đó có giảng
về năm bộ này một cách tường tận.
Trên
thế gian, nếu có một người trì niệm Chú Lăng Nghiêm thì ma vương không dám xuất
hiện; nếu không có người biết trì niệm Chú Lăng Nghiêm thì ma vương trong ba
ngàn đại thiên thế giới sẽ lũ lượt kéo đến thế gian. Tại sao ư? Vì không có
người quản thúc chúng, năm bộ đều không hoạt động, cho nên ma vương mới dám xâm
nhập thế gian. Bởi nếu có một người biết tụng Chú Lăng Nghiêm thì ma vương sẽ
không dám xuất hiện, cho nên chúng tôi mong muốn có thêm nhiều người trì tụng
Chú Lăng Nghiêm. Trong khoá tu học hè đầu tiên của chúng ta, trước hết, tôi đã
khảo hạch xem ai có khả năng học thuộc Chú Lăng Nghiêm. Kết quả là có hai người
đạt tiêu chuẩn, sau đó lại có thêm rất nhiều người có thể tụng chú được. Bây
giờ tôi sẽ giảng về Chú Lục Tự Đại Minh.
Đầu
tiên là chữ “Án”. Khi quý vị tụng chữ “Án” nầy, tất cả quỷ thần đều phải
chắp tay lại. Vì sao phải chắp tay lại? Đó là giữ gìn pháp tắc, tuân theo khuôn
phép. Quý vị tụng một chữ nầy, thì tất cả quỷ thần đều không dám gây rối, không
dám không tuân theo mệnh lệnh. Chữ nầy có nghĩa là “tiếng dẫn” (dẫn thanh), là
tiếng mở đầu dẫn tới những lời chú tiếp theo, cho nên khi đọc chú, đầu tiên đều
đọc chữ nầy.
“Ma
Ni” chính là “mâu ni”. “Mâu ni” là tiếng Phạn, dịch là “trí tịch,” tức là
dùng trí huệ để làm sáng tỏ tất cả các đạo lý, và do đó đạt đến trạng thái tịch
diệt vô sanh. Lại có thể dịch là “ly cấu,” nghĩa là rời xa tất cả bụi bặm
dơ bẩn, ví như viên ngọc “như ý,” rất toàn hảo, không có chút tỳ vết. Viên bảo
châu “như ý” nầy có công năng sanh trưởng tất cả công đức, có thể đáp ứng mọi
sở nguyện của con người.
“Bát
Di” vốn nên đọc là “Bát Đặc Di,” dịch là “quang minh viên giác”; cũng dịch
là “liên hoa khai,” tức là diệu tâm của Bồ tát Quán Thế Âm, diệu tâm ấy viên
mãn đầy đủ, vô ngại. Đó là chữ “bát di.”
Chữ “Hồng”
có nghĩa là “xuất sanh” —tất cả mọi thứ đều có thể được sanh ra từ chữ “Hồng”
nầy. Lại có nghĩa là “ủng hộ” —niệm chữ nầy thì liền cảm ứng chư hộ pháp thiện
thần đến trợ giúp, che chở cho quý vị. Lại còn có nghĩa là “tiêu tai” —quý vị
có tai nạn gì, tụng chữ nầy liền được tai qua nạn khỏi. Lại cũng có nghĩa là
“thành tựu” —bất luận quý vị cầu nguyện điều gì, đều có thể được thành tựu như
ý.
Một
khi quý vị niệm Chú Lục Tự Đại Minh, thì sẽ có vô lượng chư Phật, vô lượng Bồ
tát và vô số hộ pháp Kim Cang thường xuyên đến ủng hộ quý vị. Cho nên, Bồ tát
Quán Thế Âm sau khi nói xong Chú Lục Tự Đại Minh nầy, liền có bảy ức đức Phật
đến vây quanh, ủng hộ. Năng lực và diệu dụng của Chú Lục Tự Đại Minh không thể
nghĩ bàn, sự cảm ứng đạo giao cũng không thể nghĩ bàn. Do vậy nên gọi là Mật
tông. Nếu giảng chi tiết hơn thì ý nghĩa nhiều đến vô lượng vô biên, không thể
nào nói cho hết được; thế nên tối nay tôi chỉ giảng sơ lược cho đại chúng nghe
mà thôi.
Tôi có
thể cho quý vị biết một chút về thứ thần lực bí mật không thể nói ra được. Tại
sao tôi bảo là “thần lực bí mật không thể nói ra được”? Bởi vì những điều tôi
nói thì chưa được một phần vạn của sự việc. Thế là thế nào? Nếu quý vị có thể
thường xuyên trì tụng Chú Lục Tự Đại Minh thì sẽ chiêu cảm được sáu đạo ánh
sáng có công năng biến đổi sự tối tăm u ám của sáu nẻo luân hồi trở nên sáng
lạn. Điều cần thiết là quý vị phải chuyên tâm trì tụng mới có thể đạt được thứ
Tam-muội này. Bấy giờ, ánh sáng không chỉ chiếu khắp trong sáu nẻo luân hồi, mà
cả mười Pháp giới cũng biến thành “quang minh tạng”. Tôi hy vọng mọi người dù
bận rộn đến đâu cũng nên nhín chút thì giờ để trì tụng Chú Lục Tự
Đại Minh nầy.
Như vậy phương tiện thì có nhiều, nhưng cứu kính thì không hai.
Hiểu như vậy thì ai tu cái nào cũng tốt, mà phải tu đến nơi, chớ đừng tu lơ mơ
rồi cải lộn với nhau vô ích. Đó là chỗ hiểu thấu đáo, hành thấu đáo. Bây giờ
người tu đi chưa tới cửa, đứng ngoài cải lộn nhau, cái nhà đó có cái gì cái gì,
vô ích quá.
Cho nên có nhiều người đặt câu hỏi với tôi, nói chúng tôi niệm Phật sau chết về Cực Lạc, còn thầy tu thiền chết rồi đi đâu? Quý vị nghĩ trả lời làm sao? Chết rồi cái mơ mơ, không biết đi đâu nữa. Nhưng đâu có ngờ Phật nói chỗ cuối cùng là hết sanh tử, giải thoát sanh tử mà. Nếu còn sanh là còn tử. Vì vậy mà muốn đi tới chỗ hết sanh tử thì phải hết niệm, hết vọng tưởng. Vọng tưởng hết, niệm hết rồi thì không tạo nghiệp, chừng đó nhắm mắt thì nhập Niết bàn vô sanh. Chớ hỏi đi đâu nữa là hỏi chuyện đi trong sanh tử. Đó là chỗ mà người học Phật chưa tới rồi cứ ngờ, rồi hỏi qua hỏi lại. Vì vậy mà tôi nói rộng cho quý vị biết sự tu nó là như vậy. Không phải như người ta hiểu tưởng tượng bằng cách mình sanh chỗ kia vui, chỗ nọ buồn không phải. Chỉ là người tu mà còn sanh trong lục đạo mới có vui buồn, nếu đi tới chỗ cứu kính thì không có cái vui buồn đó nữa.
|
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Niệm Phật chẳng riêng khi lâm chung được sanh về cõi Phật mà thôi. Trong hiện tại nếu hành giả nhiếp cả sáu căn, giữ cho tịnh niệm nối luôn, và có thể ngay đời này được ngộ đạo, chứng vào Vô Sanh Pháp Nhẫn. Cho nên gọi: Niệm Phật là tiêu chuẩn thành Phật.
|
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
|
Ba ngôi
Bất Thối Chuyển là: Vị Bất Thối, Hạnh Bất Thối, và Niệm Bất Thối. Cứ theo Thiên
Thai Giáo, chứng được đệ nhất bất thối tâm trụ, mới lên ngôi Vị Bất Thối. Chứng
Thập Hồi Hướng, lên ngôi Hạnh Bất Thối. Và chứng Sơ Ðịa mới vào ngôi Niệm Bất
Thối. Nhưng ước theo đường lối phổ thông của Ðại Thừa giáo thì phá được kiến tư
hoặc mới lên ngôi Vị Bất Thối. Phục đoạn trần sa hoặc, lên ngôi Hạnh Bất Thối.
Và tiến phá vô minh hoặc, mới vào ngôi Niệm Bất Thối. Như thế chứng được ba
ngôi bất thối thật không phải dễ! Theo các giáo môn khác, tất phải tu tập trải
a tăng kỳ số kiếp mới chứng nhập được. Với pháp môn Tịnh Ðộ, khi được vãng sanh
kể như vĩnh viễn không còn bị thối chuyển nữa. Ðiều này, theo kinh giáo, gọi là
Xứ Bất Thối. Từ Xứ Bất Thối, địa vị tam bất thối là cầm chắc trong tay, lần
lượt sẽ tiến lên Phật qủa. Cho nên kinh Di Ðà nói: “Là bậc A Bệ Bạt Trí (Bất
thối chuyển)". Chư thiện nhơn ở Cực Lạc sống lâu vô lượng vô biên a tăng
kỳ kiếp, chỉ trong một kiếp sanh về nơi đó đã dư thời gian chứng lên ngôi Nhứt
Sanh Bổ Xứ, được bổ vào Phật vị rồi.
CHÁNH VĂN :
Tổn
pháp tài, diệt công đức,
Mạc
bất do tư tâm ý thức.
Thị
dĩ thiền môn liễu khước tâm,
Đốn
nhập vô sanh tri kiến lực.
GIẢNG :
Tổn pháp tài, diệt công đức, là
làm tổn hao tài sản chánh pháp của mình mà lại diệt mất các công đức.
Mạc bất do tư tâm ý thức. Tư là
đây. Đâu hẳng do đây tâm ý thức. Tâm ý thức là cái làm cho mình tổn pháp tài,
làm cho mình diệt công đức. Bởi sao? Vì tâm ý thức mình nó lăng xăng, nó lộn xộn;
do lăng xăng lộn xộn nên nó làm thương tổn tới chánh pháp, làm thương tổn đức hạnh
của mình. Quý vị thấy mình làm sai, mình
làm bậy là tại cái gì? Tại ý thức nghĩ bậy, nghĩ sai. Từ ý thức nghĩ bậy, nghĩ
sai rồi làm bậy làm sai, đó là tổn hao pháp tài, tổn hao công đức của mình. Vì
vậy mà ý thức là cái gốc, tâm ý thức là cái gốc tội lỗi.
Thị dĩ thiền môn liễu khước tâm, thế
nên trong nhà thiền khi liễu ngộ được tâm mình rồi.
Đốn nhập vô sanh tri kiến lực. Tức
là chống vào tri kiến, cái sức tri kiến vô sanh của mình, thể nhập được cái vô
sanh.
Trong nhà thiền dạy chúng ta tu là phải làm sao nhận chân được cái
chân thật của mình. Bởi mình có cái chân thật mà bỏ quên, cứ chạy theo ý thức
lăng xăng tạo nghiệp. Quý vị có cái chân
thật không? Có người nào nghèo không có không? Tất cả chúng ta đều có hòn ngọc
quí là tâm chân thật của mình.
Bây giờ tôi nhắc lại chư tâm như khi nảy tôi nói tâm là cái biết.
Nhưng có hai thứ biết, biết bằng suy nghĩ lăng xăng sanh diệt và biết bằng hiện
tiền mà không suy nghĩ. Cái biết suy nghĩ lăng xăng gọi là vọng tâm, cái biết
hiện tiền mà không suy nghĩ là chân tâm. Bây giờ tôi trở lại thí dụ hồi nảy, quý
vị ngồi chơi thản nhiên không nghĩ gì hết,
mà tiếng chim kêu mình biết là tiếng chim, tiếng chó sủa mình biết là tiếng chó
sủa, người đi qua biết là người, cây mình biết là cây. Tất cả cái thấy biết hiện
tiền, thấy biết hiện tiền thì có mình không? Mà cái biết đó có suy nghĩ không?
Vậy mà mình có nhớ nó đâu, chỉ nhớ cái suy nghĩ trong đầu không hà. Suy nghĩ
trong đầu lăng xăng sanh diệt, còn cái biết hiện tiền là không sanh không diệt.
Cho nên câu chuyện nhà thiền tôi kể cho quý vị
nhớ thêm.
Hồi xưa ngài Ngưỡng Sơn Huệ Tịch đi tới một thiền sư mới hỏi
thăm: “Bạch Hoà Thượng, thế nào là Phật tánh?’. Hòa Thượng nói: “Thí dụ như có
con khỉ để trong lồng, cái lồng đó có sáu mặt. Mỗi khi con khỉ ở ngoài tới mặt
này kêu chéo chéo, thì con khỉ ở trong kêu chéo chéo. Rồi qua mặt kia nó kêu
chéo chéo, con khỉ trong chạy ra kêu chéo chéo. Mỗi mặt con khỉ ngoài kêu thì
con khỉ trong đáp ứng.” Rồi ngài không nói gì nữa hết. Ngài Ngưỡng Sơn thưa: “Bạch
Hoà Thượng, nếu con khỉ trong nó ngủ thì sao?” Hòa Thượng từ trên giường thiền
bước xuống nắm đứng nói: “Chúng ta thấy nhau rồi”. Sao vậy, thấy nhau rồi thấy
cái gì?
Con khỉ trong là khỉ ý thức, khỉ ngoài là sáu trần. Cưa nào tỉ dụ
như lỗ tai nghe tiếng thì ở trong nó phản ứng liền, tiếng đó hay tiếng đó dở,
tiếng đó nam tiếng đó nữ gì..v.v… Rồi từ cái biết tiếng đó, nó suy nghĩ vậy rồi
mới khởi cái niệm tiếng đó dễ thương, tiếng đó dễ ghét..v.v… tạo nghiệp. Như vậy
vừa có khỉ ngoài kêu thì khỉ trong hưởng ứng.
Bây giờ tới cả mắt tai mũi lưỡi thân ý, nó tiếp xúc với trần mà ở
trong ý thức nó không chạy nữa thì có biết không? Biết cũng biết, thấy cũng thấy,
nghe cũng nghe mà không cần suy nghĩ gì hết, đó là con khỉ ở trong nó ngủ rồi.
Con khỉ trong ngủ rồi mà mắt vẫn thấy tai vẫn nghe, mũi vẫn ngửi, lưỡi vẫn nếm,
thân vẫn xúc chạm thì cái biết đó là cái gì? Là Phật tánh rồi chớ gì. Phật tánh
ở ngay nơi mình sẳn mà mình không biết, mình cứ bị con khỉ này chạy ra, nó dựa
theo sáu căn mà tạo thành nghiệp. Vì vậy mà tu có gì lạ đâu, là đập cho con khỉ
ở trong nó chết, nó lặng xuống thì mọi việc yên lành chớ gì. Cho nên tất cả
pháp Phật dạy đều nhắm vào diệt cái niệm lăng xăng ở trong đó, mà niệm lăng
xăng đó là niệm của ý thức, nó làm cho mình tạo thành nghiệp chịu khổ. Nếu niệm
đó lặng được rồi thì nghiệp khổ theo đó hết chớ có gì đâu.
Như vậy chúng ta tu là cốt để trở về với cái thật, cái sẳn của
mình, nói trở về là phương tiện thôi. Cái hư dối mình không theo, không mắc kẹt
để cho cái chân thật được hiển bày. Nên trong kinh Pháp Hoa Phật nói anh chàng
say mà có viên ngọc đó, đã sẳn trong túi mà lại quên, rồi tới chừng người ta chỉ
sờ vô nắm được ờ đây có viên ngọc.
Cũng vậy Sơ Tổ Trúc Lâm nói bài kệ trong Cư Trần Lạc Đạo phú,
câu chót là “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”. Tức là đối cảnh là đối với sáu trần
mà tâm không chạy ra thì đó là thiền rồi. Thiền là đối với sáu trần mà không vướng,
không mắc, không dính, không kẹt. Giả sử đang đi chơi ngoài mà không vướng mắc
cái gì cũng là thiền. Còn ngồi trong thiền đường mà nhớ tứ tung, thiền được
chưa? Đó cũng chưa phải thiền. Như vậy thiền là để cho tâm không vướng mắc với
sáu trần, không vướng mắc sáu trần là tâm chân thật đầy đủ, khỏi kiếm khỏi tìm ở
đâu hết.
Giờ quý vị thử làm vậy
coi kết quả không, đừng thèm vướng mắc gì hết. Thấy người thì thấy người, đừng
nói người đó dễ coi hay khó coi. Nghe tiếng thì nghe tiếng đừng nói tiếng đó
hay, tiếng đó dở. Ăn thì cứ ăn đừng nói món này vừa ý, món kia không vừa ý. Vừa
ý mình là ăn cho cái ý, chớ không phải ăn cho cái miệng. Như vậy chúng ta cứ lộn
xộn, sống trong cái điên đảo. Bây giờ ăn thì cứ ăn, ngon dở gì cũng được hết, cốt
ăn để sống thôi. Vậy không thèm nghĩ, ăn cũng không nghĩ gì hết. Rồi tất cả trường
hợp mình cũng không thèm suy nghĩ khen chê để phân biệt, thì đó là mình đang
thiền. Đi cũng thiền, đứng cũng thiền, ngồi cũng thiền, nằm cũng thiền, chớ
không phải đợi giờ ngồi thiền mới thiền.
Nhưng mà kẹt bây giờ đi ra ngoài thấy cái gì cũng chạy theo hết
bắt buộc phải ngồi ngó xuống kềm nó lần lần cho quen. Chừng nào quen rồi tha hồ
đi, đi tới đi lui tự tại không ai bắt nữa hết. Nhưng lúc đầu thì bắt buộc để kềm
chế từ buổi đầu. Hiểu như vậy thì quý vị
mới thấy cái tu.
Nói xa hơn nữa thì quý vị
thấy có nhiều người thấy mình ngồi thiền ngó xuống lim dim họ nói: “Thời
giờ hiện nay quí lắm, một giờ bao nhiêu tiền, ngồi ngó lim dim hai ba tiếng đồng
hồ vô ích quá”. Như vậy ngồi để làm gì? Nhiều người cắt nghĩa không nổi, không
biết ngồi để làm gì. Chớ còn tôi nói rằng chúng ta chạy tìm vật chất bên ngoài
được tất cả rồi sẽ mất tất cả. Bởi sao? Được cho thân này, nhưng khi thân này
hoại rồi tất cả cái mình được nó thành cái gì? Nó thành đồ bỏ rồi. Như vậy dầu
cho mình được nhà lầu, được xe hơi, được tất cả nhưng khi thở khì ra không hít
vô thì mất hết trơn, không còn gì hết. Còn cái gì của mình?
Ngồi lại để phăng tìm cái thật của mình coi nó ở đâu nó ra sao.
Phản quan nhìn lại mình để biết cái nào vọng, cái nào chân để mình không còn chạy
theo, không còn mắc kẹt, buông xả những cái hư giả để sống với cái chân thật.
Như vậy đó là việc làm quí hay không quí? Tất cả cái được bên ngoài thấy như là
thực tế, nhưng mà cái ở trong mình, cái thật của mình mình bỏ quên, mình chạy
theo cái giả. Được cái giả rồi, cái thân giả này mất rồi thì vô nghĩa, vô lý.
Còn bây giờ mình phăng tìm cho ra cái gì là thật mình, cái gì
không phải thật mình. Biết cái không phải thật mình, mình xả mình buông, sống với
cái thật an ổn. Nghĩa là mình hiện tiền không quên không mất, thì sống được cái
đó thì quí hay là không quí? Cái đó là không sanh diệt, cái thật của mình không
sanh không diệt mà mình bỏ quên. Bây giờ ngồi đó để nhìn, để ngó lại để mình thấy
rõ cái hư dối không lầm và cái thật từ từ nó hiện. Như vậy đó là chúng ta biết
phăng tìm cái chân thật của chính mình, chớ không phải là chuyện vô ích. Ngồi
yên lặng để phăng cho ra, tìm cho được cái thật sẳn mà lâu nay mình bỏ quên.
Cho nên chữ mê trong nhà Phật là gì? Mê là quên. Mình có cái thật
mà mình quên. Bây giờ nhớ lại là mình giác hết quên, hết mê. Như vậy thì tu
theo đạo Phật là cốt giác tức thấy nhận được cái thật của mình. Nhận được cái
thật của mình thì muôn đời không bị sanh tử nữa. Quí không! Nhận được cái chân
thật của mình rồi, cái đó nó biết được tất cả lẽ thật của thế gian này. Còn ở
ngoài mình học bao nhiêu, kiến thức bao nhiêu cũng chỉ là tạm thời qua rồi mất.
Còn được cái đó rồi không mất.
Như Đức Phật khi mà ngộ được những lời Ngài nói tới bây giờ có
cái nào sai không? Ngài nói trong nước có vi trùng, hồi xưa ông bà mình đâu có
biết trong nước có vi trùng nên không tin lời Phật, nhưng bây giờ mình tin
không? Biết rõ nước có vi trùng không nghi ngờ. Như vậy lời Phật nói hơn hai
ngàn năm mà không lạc hậu. Bây giờ các học giả, học thuyết này nọ, họ nói một
thời gian thì bị lạc hậu, lớp sau nó đi hơn mình.
Còn lời Phật nói tới bây giờ không lạc hậu. Như Phật nói thân này
là giả. Bây giờ các nhà y học người ta thấy thân này thật hay giả? Nó là mớ kết
tụ của tế bào chớ có gì thật. Tế bào bao nhiêu tỷ nó hợp lại thành thân này, rồi
những cái đó mà nó công phá nhau thì rã ra thì thật sao được. Phật nói giả mình
có tin không? Cũng không chịu tin. Bây giờ người ta phân tích ra quả tang là nó
giả, nhưng mà quả tang giả khi mình đọc sách, khi mình nghe, qua rồi cũng thấy
thật trở lại. Chừng tắt thở rồi cũng còn thấy thật nên kiếm thân nào để thế vô
nữa, cho nên đi luân hồi không hết.
Vì vậy mà tu để trở lại mình, tìm cái thật của chính mình là một
việc làm tối quan trọng của kiếp người. Cái gì ở ngoài mình tìm cho được, giữ
cho có, cho còn chỉ là cái tạm bợ thôi. Tất cả cái gì tìm được tìm cho ai hưởng?
Cho mình hưởng, mình hưởng là thân này. Thân này mình giữ không được mà tìm cho
nhiều để làm gì? Phải chi mình giữ được cũng ráng tìm để cho nó hưởng. Nhưng thời
gian nào đang tìm được chất cả đống ở đó, cái nó ngã đùng chết cái thôi, của
mình tìm được là của ai? Đó là một lẽ thật mà thế gian đâu có biết. Bởi vậy người
tu là người nhìn xa, thấy rộng không lầm lẫn, biết rõ những lẽ thật.
Nhưng nghe nói rằng thân này giả, cái có nhiều người nói như vậy
đạo Phật bi quan nói thân này giả còn ai muốn làm gì nữa. Biết thân này giả mà
chúng sanh nói nó thật nên thương phải tìm đủ cách để cảm hóa, để chỉ dạy, nhắc
nhở cho họ biết. Chừng nào họ biết giả hết, thì chừng đó tất cả đều giác ngộ hết,
không còn ở cõi trần tục này nữa.
Bây giờ còn người ta không biết thân này giả nhiều quá, quý vị kiểm thế gian này một triệu có mấy người biết
thân này là giả? Giỏi lắm là quý vị tu
sĩ xuất gia. Nhưng tu sĩ xuất gia một ngàn người có thể biết thân này giả chừng
bao nhiêu? Không biết được trăm không. Như vậy thì mới biết người mê quá nhiều
còn người tỉnh thì rất ít. Bởi vậy nên rồi chúng ta thương nhau, muốn đánh thức
để cùng tỉnh với nhau. Cho nên ráng tu ráng thấy ráng hiểu cho đúng mà nhắc nhở
nhau. Tuy biết cuộc đời là giả mà phải lăn vào đó để giáo hoá, để chỉ dạy. Chớ
còn không phải thấy giả trốn mất tiêu, ở nhà cho yên thân mặc họ làm gì thì
làm.
Cho nên tinh thần Bồ-tát là như thế, lăn lộn trong cõi trần để
giáo hóa chúng sanh. Bồ-tát theo tiếng Phạn là bodhi shava dịch âm bồ-đề tát đỏa.
Bồ-đề là giác, tát đỏa là phần. Bồ-tát là người giác từng phần, chưa có tròn.
Phật là giác ngộ viên mãn. Cho nên Bồ-tát mà muốn được giác ngộ viên mãn thì
mình giác ngộ rồi phải chỉ cho người khác giác; chỉ chừng nào mình giác, người
giác được viên mãn mới được thành Phật, chớ đâu có được lôi thôi. Nói mình giác
mình biết nó giả rồi mình trốn mình ẩn ở đâu đó một mình thì chưa phải là công
hạnh của Bồ-tát. Vì vậy mà Bồ-tát phải tự giác rồi giác tha. Tự giác mà chưa
giác tròn, giác có một phần, từng phần, mà cũng phải làm bổn phận đó.
Nói như vậy để quý vị hiểu
tuy rằng chúng ta thấy nó giả, biết nó là tạm bợ, nhưng vẫn mượn thân này để hướng
dẫn, để chỉ dạy, để dìu dắt cho người Phật tử hay những người còn mê được trở lại
con đường giác ngộ như mình. Đó là bổn phận người tu.
Nhưng mà nói một lần nữa chúng ta tu muốn cho làm Phật sự đúng với
ý nghĩa của mình là Phật sự gì? Là Phật sự tự giác, giác tha. Đó là công hạnh Bồ-tát.
Nhưng mình bây giờ làm Phật sự gì? Mình không chịu giác thì làm sao giác người
được, thì thôi làm những chuyện tầm hoàng được bao nhiêu nên bây nhiêu đở buồn.
Cho nên người tu là phải tự giác rồi mới giác tha, mà mình không chịu tự giác. Quý
vị ráng xét kỹ nhìn kỹ mới thấy bổn phận
của mình, khi thấy bổn phận của mình rồi mới biết con đường để mình hướng dẫn
dìu dắt người sau, đó là chỗ hết sức quan trọng.
Cho nên ở đây tôi nói rõ lời của thiền sư Huyền Giác, ngài nói rằng:
Thị dĩ thiền môn liễu khước tâm,
Đốn nhập vô sanh tri kiến lực.
Thế nên người tu ở trong nhà thiền phải thấu rõ được cái tâm, phải
hiểu rõ được cái tâm của mình.
Đốn nhập vô sanh tri kiến lực. Tức là chóng vào cái tri kiến,
cái sức tri kiên vô sanh của mình tức cái thấy không sanh diệt của mình đó, tới
đó mới là chỗ cứu kính.
THẬT TƯỚNG NIỆM PHẬT
Thật Tướng Niệm Phật, tức là nhập vào Ðệ Nhất
Nghĩa tâm, là niệm tánh Phật bản lai của chính mình. Đây là quán pháp thân thật
tướng của Phật, kết quả sẽ chứng được Chân Như Tam Muội. Phương pháp này vẫn
thuộc về Thiền, nhưng cảnh giới do tâm Thiền hiển lộ lại là Tịnh Độ, nên cũng
nhiếp về Tịnh Độ. Pháp này không gồm thâu bậc trung, hạ căn, và nếu không phải
là bậc thượng thượng căn, tất không thể ngộ nhập. Vì thế trong tông Tịnh Độ ít
có người đề xướng, mà phần hoằng hóa lại thuộc về các vị bên Thiền Tông. Nhưng
theo thiển ý: khi còn đi trên đoạn đường hành trì chưa đạt đến địa vị Viên
Giác, thì tất cả pháp môn đều thuộc về phương tiện, niệm Phật cũng là phương tiện
mà tham thiền cũng là phương tiện. Theo ba kinh Tịnh Độ, đức Thích Tôn mở
phương tiện chỉ bày cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà, khuyên chúng hữu tình nên niệm
Phật cầu sanh về thế giới ấy để không còn bị luân hồi, mượn cảnh duyên thắng diệu
tiếp tục tu hành mau tiến lên Phật quả. Niệm Phật tinh chuyên cũng tỏ ngộ như
bên Thiền Tông, nhưng điểm chánh yếu của môn Niệm Phật là cầu vãng sanh, còn tỏ
ngộ được bao nhiêu cũng thuộc về phần thứ yếu. Cho nên pháp Thật tướng niệm Phật,
luận về chỗ cứu cánh, vẫn nhiếp thuộc Tịnh Độ. Nhưng nếu nói đến phương tiện
vãng sanh nó vẫn chưa chính thức thuộc về Tịnh Độ, như ý nghĩa ba kinh Tịnh Độ
mà đức Thích Tôn đã đề xướng. Có lẽ do điểm này nên chư Tổ bên Tịnh Tông chỉ đề
cập để cho rộng thêm về nghĩa lý Tịnh Độ, mà không rộng tuyên hóa để khuyên người
tu chăng?
Niệm Phật
Phải Hành Trì Cho Thiết Thật
Lặng ngồi chốn tĩnh lâu
Trăng sáng, gió canh thâu!
Bát Nhã hương lòng nhẹ.
Lăng Già niệm ý sâu
Phật, Tâm chung một vẻ
Thiền, Tịnh chẳng hai mầu
Ngưng chuỗi, thầm riêng hỏi
Hoa đêm điểm điểm đầu...
CHÁNH VĂN :
Đại
trượng phu bỉnh huệ kiếm,
Bát-nhã
phong hề kim cương diệm.
Phi
đản năng thôi ngoại đạo tâm,
Tảo
tằng lạc khước thiên ma đảm.
GIẢNG :
Đại trượng phu bỉnh huệ kiếm, tức
người đại trượng phu cầm cây kiếm trí tuệ. Đại trượng phu là chỉ cho Bồ-tát. Bồ-tát
cầm cây kiếm trí tuệ là cây kiếm giác ngộ.
Bát-nhã phong hề kim cương diệm. phong
là mũi nhọn, tức là cây kiếm bén, cây kiếm nhọn bát nhã cùng với ngọn lữa kim
cương. Kinh Kim Cương hay Kim Cang là bộ kinh để dẹp phá hết những cái chấp mê
lầm của chúng ta. Kinh Kim Cương thì dài, tôi chỉ cần nói một đoạn trong bài tụng.
Trong kinh nói rằng nếu ai không được nhớ hết, nhớ nhiều thì trì một câu kệ
cũng là có phước vô lượng vô biên, như bài kệ:
Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điện
Tất cả pháp hữu vi. Hữu vi tức pháp có sanh có diệt.
Giống như giấc mộng, giống như ảo thuật.
Như điện chớp như sương mù chớ không có thật.
Thấy như vậy đó là thấy đúng với trí tuệ bát-nhã trí tuệ kim
cương.
Như vậy thì chúng ta nếu thấy đúng như vậy tất cả pháp hữu vi đều
như mộng huyễn, như bọt như bóng..v.v… thì chúng ta có đắm mê nó không? Bởi
không đắm mê nên chúng ta thắng, chúng ta vượt qua hết. Giống như cây kiếm bén
gặp những sợi dây trói buộc chúng ta chặt đứt hết. Giống như ngọn lữa mạnh nó
cháy thì tất cả những cây cối hay gai góc gì nó cũng tiêu diệt hết. Như vậy trí
tuệ bát-nhã ngọn lữa kim cương phá dẹp tất cả cái mê lầm, cái sai quấy mà lâu
nay chúng ta chấp chứa để cho nó tan biến đi.
Bây giờ, quý vị chỉ cần một
việc làm mà hết sức là dễ tu, lúc nào cũng xét thấy thân mình là giả dối, khẳng
định nó là giả dối. Bao nhiêu đó thôi thì quý vị có tu được cái gì? Nếu thân giả dối thì người
ta chửi mình cười, thân tôi còn giả huống nữa là chửi, khỏi cần tu nhẫn nhục.
Chớ bây giờ nói tôi ráng tu hạnh nhẫn nhục, giờ nghe người ta chửi ráng nhịn đè
nén. Nhịn được một lần hai lần rồi tuyên bố tôi nhịn hai lần rồi nhe, lần thứ
ba là tôi nổ à, bởi vì đè quá rồi chịu không nổ thì bung. Bây giờ biết thân này
giả thì lời chửi có nghĩa lý gì đâu, khỏi cần nhịn gì hết trơn.
Vậy từ biết thân giả thì chúng ta tu được hạnh nhẫn nhục. Từ biết
thân giả rồi thì mình có tham danh tham lợi không? Thân còn giả thì danh lợi có
nghĩa lý gì, thì tự nhiên tâm tham hết, sân hết. Biết thân giả thì còn si mê
không? Cũng hết si mê luôn. Chỉ biết thân giả thì tham, sân, si theo đó nó hết.
Còn mình nhẫn mà thấy thân thật, cho nên nhẫn vừa phải thôi, mức
độ nào thôi, quá nữa là không chịu nổi. Như vậy thì dùng trí tuệ bát-nhã mà soi
thấu thân này, mà biết rõ thân này đúng như thật rồi thì tu hết sức là dễ dàng.
Còn thấy thân này thật tu hết sức khó. Nhất là những người cao mạn cho thân là
đẹp, thân là quí thì thôi tu khó vô cùng, động tới một chút là chịu không nổi rồi.
Vì vậy trong nhà Phật dạy tu phải có trí tuệ bát-nhã. Quý vị nhớ mỗi tối chúng ta tụng kinh A Di Đà hay thần
chú Lăng Nghiêm đều có bài kinh Bát Nhã đi theo. Đó là để thấy rằng, trí tuệ
bát-nhã phá dẹp năm uẩn này thì tu mới tới nơi tới chốn; còn không phá dẹp được
năm uẩn thì tu có công, có phước vậy thôi, chớ không tới nơi tới chốn được, mà
tu rất là khổ sở, rất là khó khăn. Nếu có được trí bát-nhã thấy đúng như thật rồi
thì tu rất là dễ dàng.
Như vậy thì quý vị mới biết
cái gốc của sự tu, có nhiều khi chúng ta tu mà không biết gốc. Có người nói tụng
kinh Bát Nhã để bổ túc vì tụng nảy giờ lanh quá rồi thiếu, thiếu chữ thiếu lời,
nên kêu bằng bổ khuyết Tâm kinh đó. Tâm kinh đó là kinh bổ khuyết bù lại những
cái thiếu của mình, như vậy là hiểu lầm lớn vô cùng. Bởi vì dù tu một hạnh nào,
một pháp môn nào cũng phải có trí tuệ thấy rõ thân này không thật. Khi thấy rõ
thân không thật thì tất cả pháp tu đều thành công. Nếu thấy thân này thật thì
pháp tu nào cũng không thành công hết, vì đeo cái ngã trong quá thì thành công
sao được. Đeo ngã to là đeo cái mê lầm, còn mê lầm thì tu làm sao được. Cho nên
tu là phải giác ngộ, giác ngộ ít hoặc giác ngộ nhiều thôi.
Hỏi: Kinh Kim Cang nói:
"Tất cả pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bóng, bọt". Thế thì cảnh Ta Bà
đã huyễn, mà cõi Cực Lạc cũng là huyễn. Sao không đi ngay vào bản tâm chân
thật, còn cầu về cảnh huyễn làm chi?
-
Đáp:
Thật ra các cõi Uế Độ và Tịnh Độ trong mười phương đều dường mộng huyễn; nhưng
khi nào chứng được Như Huyễn Tam Muội, mới thấy đó là hư giả. Bằng chưa được
như thế, vẫn thấy nó là thật, vẫn bị nó chi phối, vẫn còn biết khổ vui, vào mùa
nắng vẫn khó chịu về sự nóng bức, cho đến việc rất nhỏ như con kiến, con muỗi
cắn đốt cũng vẫn còn bị đớn đau. Như vậy sao được gọi là Huyễn? Nên biết môn
Tịnh Độ là phương tiện nhiệm mầu của Phật, mượn cảnh như huyễn an vui, để đưa
chúng sanh thoát khỏi cảnh như huyễn thống khổ dẫy đầy chướng duyên và hiểm
nạn. Rồi từ cảnh an vui như huyễn đó tiến tu dễ dàng, để mau chứng vào cõi chân
tâm thường tịch.
Lấy một thí dụ như tại
cõi Ta Bà này, cảnh gia đình hay nơi thị tứ ồn ào là huyễn, cảnh chùa am hoặc
chốn núi non vắng vẻ cũng là huyễn. Nhưng tại sao người tu giải thoát, lại bỏ
cảnh gia đình thị tứ tìm nơi chùa am thanh vắng ở núi non? Có phải tại chốn gia
đình nhiều bận buộc, cảnh huyên náo khó nhiếp tâm, mà nơi chùa am hay chỗ núi
non thanh vắng dễ tu chăng? Cho nên cảnh phàm tình cùng cảnh thánh chứng khác
nhau, phàm tình mà đặt mình vào cảnh thánh chứng là điều xa vời trái với thật
tế. Ta còn phàm phu hãy cứ theo phận phàm phu mà tuần tự tiến tu, đừng vội đem
con mắt thánh nhìn nói quá cao xa, thành ra vọng ngữ và có hại.
Khi xưa cũng có một Thiền
giả cho cõi Cực Lạc là huyễn mộng, niệm Phật cầu vãng sanh vô ích. Triệt Ngộ
đại sư nghe lời này, liền bảo: "Không phải thế đâu! Từ bậc Thất Địa Bồ Tát
trở về trước, đều tu hành ở trong mộng. Đến như đối với mộng lớn vô minh, thì
bậc Đẳng Giác vẫn còn say ngủ. Duy riêng chư Phật mới có thể tôn xưng Đại Giác,
là những bậc hoàn toàn thức tỉnh mà thôi. Khi tự thân đã ở trong mộng, thì sự
vui khổ vẫn uyển nhiên, vui cũng thấy vui, khổ còn biết khổ, sao được gọi mình
là người tỉnh mơ, cảnh là huyễn mộng? Thế thì thay vì ở trong cảnh mộng khổ của
Ta Bà, sao bằng về cảnh mộng vui nơi Cực Lạc! Huống chi mộng ở Ta Bà là từ mộng
vào mộng, bị cảnh duyên nghiệp lực lôi cuốn, mãi luân hồi sống chết chìm mê.
Còn cảnh mộng ở Cực Lạc là từ mộng đến giác, lần lượt sẽ thức tỉnh hoàn toàn
chứng lên quả Phật. Cho nên mộng huyễn vẫn đồng, mà duyên cảnh mộng ở hai nơi
thật chẳng đồng vậy. Thế thì sự niệm Phật cầu vãng sanh chẳng là cần thiết lắm
ư!"
Lời cổ đức giải thích như
thế, thì sự cầu sanh đã được hiển minh. Tuy nhiên, bài kệ trong Kinh Kim Cang
nói đó, vẫn còn là lời phương tiện để cho chúng sanh lìa quan niệm chấp có theo
phàm tình. Tiến một bước cao hơn, như Kinh Đại Phẩm Bát Nhã nói: "Như Lai
vì hạng người căn tánh tối, mà nói các pháp như huyễn vắng lặng, vì e họ sanh
chấp kiến; vì hạng người căn tánh sáng, nói tướng hảo của chư Phật, bởi họ như
hoa sen chẳng nhiễm trần." Cho nên Tu Bồ Đề là bậc giải ngộ lý Không bậc
nhứt, tuyệt không danh tướng, mà đức Thế Tôn lại thọ ký cho ông về sau thành
Phật, hiệu là Danh Tướng Như Lai. Thế thì lý mầu không danh tướng chẳng ngoài
danh tướng, tất cả pháp mộng huyễn đều là Phật pháp chân thường. Và đi sâu đến
chỗ viên dung, như đức Lục Tổ nói, thì phàm phu nguyên là Phật, phiền não tức
Bồ Đề, tất cả vô minh huyễn vọng đều là thể viên minh chân giác của Như Lai
tạng.
CẦN
PHÁ LỐI CHẤP NHỊ BIÊN
Những mối nghi về Tịnh Độ
theo loại trên hãy còn nhiều. Đó do bởi người học Phật còn lối chấp hai bên,
chưa dung hóa được giữa tánh tướng, có không, sự lý. Vì thế nên mới dùng tánh
phá tướng, đem lý bác sự, lấy không bài có, và ngược lại, để gây thành những
tranh chấp nghi vấn phân vân. Họ không ngờ sự lý tương tức, nghĩa là sự tức lý,
lý tức sự, nếu phân chia ra mà nhận định thiên lệch, thì sự không thành chân sự,
lý chẳng phải chân lý; cả đến tánh tướng, có không, và các pháp nhị biên khác
cũng như vậy. Vì thế trong Kinh Duy Ma Cật mới nói đến Bất Nhị pháp môn, nghĩa
là pháp môn Không Hai, để phá trừ lối chấp hai bên đó. Không Hai là dung hóa
tất cả để nhập vào tánh thể, chớ chẳng phải một. Đây mới thật là chân cảnh của
duy tâm. Ngoài ra, sự lập pháp riêng về hữu môn hay không môn, cũng còn ở trong
vòng phương tiện quyền hóa mà thôi.
Đầu mồm nói suốt trăm
phần diệu.
Dưới gót không ly một điểm trần!
Khi xưa, các bậc đại tri
thức cũng thường dùng lý không để trừ bịnh chấp có, nhưng chỗ tu chúng cùng sự
khai hóa của những vị ấy đúng tư cách và hợp cơ nghi, mới đem lại lợi ích.
Chẳng hạn như câu chuyện sau đây:
Có một vị thiền sư tu
hành rất tinh tấn, ban đêm chẳng ngủ và thường ngồi mãi không nằm. Nhưng đã lâu
năm dụng công, sư vẫn chưa chứng ngộ. Trong chùa có chú Sa Di chẳng biết từ đâu
đến, xin nhập chúng. Ông này thường biếng trễ thậm chí nhiều phen tiếng chuông
công phu khuya nổi lên, vẫn nằm lỳ mãi không ngồi dậy. Thiền sư biết được, gọi
đến quở rằng: "Sao đã vào chùa tu mà còn lười biếng cứ nằm mãi như thế?
Chú không nghe trong Luật dạy: Nghe chuông mà vẫn nằm không ngồi dậy, tương lai
sẽ đọa làm thân rắn hay sao?" Sa Di đáp: "Thầy bảo tôi thường nằm sẽ
thành con rắn; còn thầy chấp cứ ngồi mãi cũng thành con cóc, chớ có chứng ngộ
được chi?" Sa Di nói xong liền ẩn mất, nhưng vị thiền sư đã tỏ ngộ. Thì ra
Sa Di này là một bậc đắc đạo, hiện thân đến khai hóa cho thiền sư.
Ngoài ra, còn câu chuyện
Đơn Hà Thiên Nhiên hòa thượng cỡi lên cổ Phật và chẻ đốt tượng Phật gỗ để phá
quan niệm chấp Phật. Sư Pháp Đạt vì ỷ mình đã tụng ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa,
nên lạy đầu không chấm đất, bị đức Lục Tổ quở, để phá quan niệm chấp pháp, chấp
công đức. Ngài Bắc Tháp sau khi chứng được Đại Tự Tại Tam Muội, viết danh hiệu
Văn Thù, Phổ Hiền lên chiếc khố để phá quan niệm chấp Thánh Tăng.
Thuở xưa các bậc đại tri
thức, mức tu chứng đã cao, biết tùy cơ nghi mà hóa đạo, lại những hành giả
trong thời ấy có nhiều bậc thượng căn, nên sự giảng về lý "không"
thường có lợi. Đời nay người trung, hạ căn nhiều, cách giảng hóa nên dung hòa
sự-lý, tánh-tướng, mới không gây nghi ngờ và làm thối đạo tâm của người học
Phật. Nếu đa số người chưa thể một bước đi thẳng vào cảnh chân không mà bác bỏ
hình thức, tất sẽ diễn thành tai nạn "chưa được lên bờ đã vội phá bỏ chiếc
bè", làm sao tránh khỏi cảnh đắm chìm? Lại còn một điều nên để ý, nếu nói
lý không mà mình chưa được không, hoặc chưa có đôi phần tư cách nào trên sự tu,
tất chẳng thể cảm hóa người, chỉ thành cuộc tranh chấp hơn thua vô ích. Trước
đây, bút giả đã có lần chứng kiến cảnh tượng ấy: Một đại đức thông hiểu giáo lý
ở ngụ nơi chùa nọ dạy kinh. Vị sư trụ trì đã lớn tuổi, siêng tụng niệm nhưng
chấp theo cách thức xưa, thấy đại đức lối sống tự do có vẻ tân thời, ý không ưa
thích, liền bảo: "Thầy khuyên dạy đạo mà ngày tối không thấy tụng một
quyển kinh, niệm một câu Phật, như vậy làm sao nêu mô phạm tu hành cho đại
chúng?" Vị đại đức đáp: "Cách tu có nhiều lối, phải chạy theo hình
thức như thầy, tối ngày tụng niệm, mới gọi là tu sao? Kinh Kim Cang nói:
Nhược dĩ sắc kiến ngã.
Dĩ âm thanh cầu ngã,
Thị nhơn hành tà đạo.
Bất năng kiến Như Lai!
Chớ đức Lục Tổ khi xưa
đâu có tụng kinh niệm Phật gì, mà Ngài cũng đắc đạo, làm Tổ được vậy?"
Sư trụ trì đuối lý, đành
lặng yên. Xét ra, sư trụ trì có lỗi chấp nê hình thức; vị đại đức tuy nói lý
cao, song thật ra cũng chẳng tham thiền, tịnh niệm chi nên đã không cảnh giác
nổi mà còn gây thêm sự bực bội cho sư.
Trong hai lối chấp có và
không, sự chấp không rất nguy hại. Kinh Lăng Già cùng Mật Nghiêm đều bảo:
"Thà chấp có như non Tu, chớ chấp không như hạt cải". Chấp có, ý nói
hằng kiêng nhân quả, sợ tội phước, lo giữ giới, tụng niệm, làm lành, tuy bị hình
thức bó buộc không tự tại giải thoát, nhưng gây được công đức và thiện căn. Còn
chấp không, mình đã chưa chứng được Chân Không, lại chẳng chịu theo hình thức,
siêng tu công đức, tất sẽ luân hồi sa đọa.
Bút giả tự xét mình,
nghiệp chướng nhiều, căn tánh kém, vẫn không muốn lạm bàn đến đạo lý cao siêu,
sợ e hạnh chẳng xứng lời, trở thành vọng ngữ. Nhưng với lòng thành muốn cho
người dứt nghi ngờ sanh tín tâm niệm Phật, nên bất đắc dĩ phải thổ lộ ít nhiều.
Hằng ví mình như người bại chân ngồi ở ngã ba đường, tuy không tự đi được, song
cũng cố gắng chỉ nhắc hành khách tránh nẻo hiểm nguy, theo lối đi rộng bằng an
ổn. Còn sự biện luận để phân biệt phải quấy kém hơn, tuyệt nhiên lòng không
nghĩ đến!
Bảo kiếm phi quang thấu tam tam
Ly Mỵ Vọng Lượng các tuân tuyên
Pháp giới yêu khí tòng tư tức
Hoằng dương
chánh giáo độ càn khôn.
Bảo-Kiếm
Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Tư
Địa Rị Sắt Ni Na [50]
Án--
đế thế đế nhá, đổ vỉ nảnh,
đổ đề bà đà dã, hồng phấn tra.
UM! BÚT RUM! HÙM!
“BÁT NHÃN TÂM KINH” nói
rằng :
Quán-tự-tại Bồ-tát “QUÁN THẤY”...
Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức;
( không có ngũ-uẩn)
vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp;
( không có 12 nhập)
vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới;
(không có 18 giới)
vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận;
(không có 12 nhân duyên)
vô khổ, tập, diệt, đạo;
(không có 4 đế)
vô trí diệc vô đắc.
(không có TRÍ của Bồ-tát do tu Lục-độ, cũng không có ĐẮC qủa
Phật)
Lại nói, Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố đắc
A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
(Ba đời “Chư Phật” y “VÔ SỞ ĐẮC”, mà đắc “PHẬT QỦA”)
Còn nói, Bát-nhã là Đại-thần, là đại minh, là vô-thượng, là vô
đẳng đẳng chú... như lại phải nhờ thần-chú
“Yết-đế Yết-đế, Ba-la yết-đế, Ba la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha.”,
để tiêu trừ vô-minh vi tế của “A LẠI DA THỨC” (sở tri
chướng), mà thành tựu “ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ” hay “NHẤT THIẾT
CHỦNG TRÍ”, TỨC THÀNH PHẬT.
Tóm lại, “QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT” y “VÔ SỞ ĐẮC”, mà
đắc “PHẬT QỦA”
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA.
(3 lần)
Năm Thứ Mười Ba niên hiệu Đại Nghiệp, Đức
Tứ Tổ Đạo Tín dẫn đồ chúng đến Cát Châu thì gặp bọn
cướp vây thành bảy tuần (bảy mươi ngày) chẳng lui tan, mọi người đều
sợ hãi.
Tổ thương xót, dạy bày niệm “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.” Khi ấy, bọn cướp nhìn lên trên thành như có thần binh, bèn
bảo nhau: “Trong thành ắt có dị nhân, không thể đánh được”. Bèn
lần lần bỏ đi.
(KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG)
SỰ TRÌ, LÝ TRÌ
Niệm Phật có sự Sự trì và
Lý trì. Theo Ngẫu Ích đại sư: "Sự trì là tin có cõi Cực Lạc và Phật A Di
Đà, mà chưa đạt lý tâm này làm Phật, tâm này là Phật, chỉ quyết định cầu sanh,
tha thiết thì niệm như con nhớ mẹ không lúc nào tạm quên. Lý trì là tin hiểu Phật
A Di Đà ở Tây Phương, do tâm ta sẵn đủ, tâm ta tạo nên; đem câu hồng danh sẵn
đủ và tạo nên của tâm mình làm cảnh buộc niệm, chẳng giây phút nào xao
lãng."
Nói giản lược, Sự trì là
cách trì niệm của kẻ không biết chi về nghĩa lý, chỉ tin có cõi Cực Lạc và Phật
A Di Đà, rồi chí thành tha thiết niệm Phật để cầu tiếp dẫn vãng sanh. Lý trì là
lối trì niệm của người cũng thật hành đồng như cách Sự trì ở trên, nhưng giải
ngộ cảnh Tịnh Độ cùng Phật A Di Đà đều ở trong chân tâm, do công đức thanh tịnh
của chân tâm hiện thành.
Như thế, Sự trì với Lý
trì có gì sai biệt? - Tất nhiên là có. Bởi kẻ tu theo Sự trì thấy Phật ở ngoài
tâm, thành ra có tướng năng sở đối đãi, chưa được dung thông. Người thật hành
theo Lý trì, do giải ngộ chân tâm, nên tuyệt được tướng năng sở, tức niệm là
Phật, tức niệm là tâm, dung hòa cùng tâm cảnh. Xin thuật một câu chuyện:
Ông bạn xuất gia đồng tu
của bút giả một đêm nằm mơ, thấy vị sư áo vàng đến hỏi: "Người niệm Phật,
mà Phật là chi?" - Đáp: "Phật là tâm". Vị sư hỏi tiếp:
"Ngươi thử giải thích thế nào Phật là tâm cho ta nghe?" Trong giấc mơ
ông bạn bèn ứng khẩu đọc:
Mỗi câu tràng hạt Phật là
tâm
Phật rõ là tâm, uổng chạy tìm!
Bể Phật dung hòa tâm với cảnh
Trời tâm bình đẳng Phật cùng sanh
Bỏ tâm theo Phật còn mơ mộng
Chấp Phật là tâm chẳng trọn lành.
Tâm, Phật nguyên lai đều giả huyễn
Phật, tâm đồng diệt đến viên thành.
Ông bạn trên đây đã hiểu cách Lý trì, dung hòa được câu niệm Phật
vào tâm cảnh.
Có một lối nhận định sai
lầm, mà những kẻ thiên về huyền luận tự cho là hành trì theo lý, cũng cần nên
biện minh. Nhiều người trọng lý khinh sự, thường chấp nê theo lý luận: "Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh
Độ,"
rồi phủ nhận cõi Cực Lạc và sự tiếp dẫn vãng sanh. Những người này lý thuyết
hóa các kinh nói về Tịnh Độ và bảo: "Di Đà tức là bản tánh Phật của mình;
cõi Tịnh Độ là cảnh tịnh ở trong tâm, sao lại tìm bên ngoài?" Đây là điểm
sai lầm rất lớn của thiên lý luận. Họ chấp lý bỏ sự, chuộng tánh quên tướng,
đem chân đế mà bác hiện tượng của tục đế, chẳng biết rằng song phương không thể
rời nhau.
Theo Đại Thừa Khởi Tín
Luận, chân tâm có hai phần: tánh và tướng. Phần tánh gọi là Chân Như môn, phần
tướng là Sanh Diệt môn; Chân Như không rời sanh diệt, sanh diệt tức là Chân
Như. Bởi thế Mã Minh Bồ Tát gọi phần Chân Như là Tạng Như Thật Không, phần sanh
diệt là Tạng Như Thật Bất Không; cả hai đồng chung một thể tánh như thật. Ví
như mặt biển to rộng, không thể chỉ chấp nhận phần nước mà bỏ phần sóng bọt; vì
chấp như thế tức đã sai lạc với hiện tượng của biển, mà cũng chẳng biết biển là
gì? Cho nên, bỏ sự tức lý không thành, bác tướng thì tánh không đứng vững. Rất
nhiều kẻ có chút học thức thế gian, khi nghiên cứu các kinh Đại Thừa nói về lý
Bát Nhã, bởi không hiểu thấu đáo, nên thường mang chứng bịnh chấp "lý
không" này. Do đó, họ đem các kinh nói về sự tướng, như các kinh Tịnh Độ
hoặc Kinh Địa Tạng, mà lý thuyết hóa tất cả. Họ cho những kinh thuyết về sự
tướng này là phương tiện để dẫn dắt hạng ngu thấp, những người tin có Tịnh Độ
hoặc địa ngục, đều mê tín; nhưng thật ra, chính họ mới là kẻ lạc lầm! Nhân
tiện, xin dẫn vài đoạn kinh ra biện minh, để phá lỗi chấp không ấy.
Như Bát Nhã Tâm Kinh nói:
"... Không trí cũng không đắc, vì không sở đắc, nên Bồ Đề Tát Đỏa y Bát
Nhã Ba La Mật Đa, tâm không quái ngại. Chư Phật ba đời y Bát Nhã Ba La Mật Đa,
nên đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề." Trước y theo chân đế nói
"không đắc", tiếp đó y theo tục đế lại nói "đắc". Thấy "đắc" là chấp có, thấy "không đắc" lạc vào chấp không, nên người học
Phật phải khéo hiểu ý kinh để đi vào trung đạo.
Trong Kinh Kim Cang, đức
Phật bảo: "Kẻ nào dùng sắc tướng âm thanh thấy và tìm cầu ta, là hành theo
tà đạo." Nhưng tiếp đó Ngài lại bảo: "Tu Bồ Đề! Ông đừng nghĩ rằng
Như Lai không dùng tướng Cụ Túc đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Tu Bồ
Đề! Nếu ông suy nghĩ: phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề là nói các pháp
đoạn diệt. Đừng nghĩ như thế! Tại sao? Vì phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đối với các pháp không
nói tướng đoạn diệt."
Trước tiên, Phật dạy đừng theo âm thanh sắc tướng mà tìm đạo; nhưng kế tiếp
Ngài lại nhắc nhở; cũng như đừng rời bỏ âm thanh sắc tướng hoặc diệt hết các
pháp để phát tâm cầu đạo. Như thế, ta thấy "đạo" chẳng phải thuộc về "sắc", cũng chẳng phải thuộc về "không"; tìm chấp một bên đều sai lầm. Ngài Thanh Nguyên Duy Tín thiền sư nói:
"Ba mươi năm trước, khi lão tăng chưa vào đạo, thì thấy sông là sông, núi
là núi. Đến khi gặp thiện tri thức chỉ dạy cho đường lối tu hành, thấy sông
không phải là sông, núi không phải là núi. Ngày nay ngộ đạo, vào nơi tịch tĩnh,
thấy sông vẫn là sông, núi vẫn là núi." Một vị thiền sư khác cũng diễn tả:
Tiếng gà tức tiếng quảng
trường thiệt.
Sắc núi nguyên là tịnh pháp thân!
Đây là ý chỉ: sắc tướng
âm thanh vốn thật đại đạo, ta nên đem tâm vô phân biệt mà thể nhận, đừng chấp
lấy cũng đừng bác bỏ rồi tìm đạo nơi chỗ không không. Cho nên câu "Tự tánh
Di Đà, duy tâm Tịnh Độ," không phải phủ nhận cõi Tịnh Độ và đức A Di Đà,
mà chính là lối nói: nhiếp tướng về tánh, đem dụng về thể, để hiển bày lý Đệ
Nhất Nghĩa Không. Trong Đệ Nhất Nghĩa Không, Phật còn chẳng lập, huống chi là
các pháp khác.
Tiên đức bảo: "Lý tuy đốn ngộ, Sự phải lần
lượt tu hành."
Cho nên Thiền Tông tuy nói là môn tu trực chỉ, nhưng khi còn ngồi thiền, còn
nhiếp tâm, còn tham thoại đầu, còn nhập định xuất định, đều còn ở trong vòng
phương tiện. Và thật ra cảnh nội chứng còn bước những nấc thang từ thấp đến
cao. Chừng nào đến bậc vô tu, mới không còn dùng phương tiện, mới có thể nói
các pháp đều không. Nếu chưa được như thế, thì một pháp nhỏ như mảy bụi cũng
đều có thật; vì gần lửa còn thấy nóng, ở giữa sương tuyết còn thấy lạnh, một
mũi gai nhỏ đâm vào thịt còn biết đau, đâu có cái gì là không? Cho nên những kẻ
thích đề xướng cao diệu "Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ," rồi bác bỏ
hình thức niệm Phật cầu vãng sanh thuộc về "Sự tu", sẽ lâm vào cảnh:
"Chưa bước lên bờ đã vội phá bỏ chiếc bè," tất không khỏi bị chết
chìm dưới nước. Xưa nay những bậc hiểu sâu về Lý lại còn chú trọng đến Sự, vì
Sự tiêu biểu cho Lý.
Cổ đức đã bảo: "Với
môn Tịnh Độ, duy bậc trí huệ mới dung thông tánh tướng hiểu đến chỗ tận cùng.
Bằng không, thà chấp tướng tu hành, càng chấp lại càng mầu nhiệm!" Bởi
càng chấp tướng, chí nguyện cầu sanh lại càng thiết tha, khi đã sanh về Tây
Phương lo gì không chứng ngộ được thật tướng? Vấn đề sự lý tánh tướng, nói ra
vẫn không cùng, nhưng nếu hiểu được một sẽ hiểu tất cả. Mong các đồng nhơn khéo
suy nghĩ, để tránh khỏi sự sai lạc trên bước đường tu.
Viết đến đây, có một Phật
tử nhân khi lại thăm chơi, hỏi: - "Thưa thầy, con nghe vài vị tu thiền khá
cao, bảo: Cõi Cực Lạc là quyền thuyết, là một ảo tượng của Phật phương tiện nói
ra, để cho những kẻ thấp kém nương vào đó tin tưởng hâm mộ, phát lòng chuyên
nhứt niệm Phật đặng để đi đến cảnh giới nhứt tâm. Ví như người cha có hai đứa
con, một đứa thông minh biết lo học không cần phải nhắc nhở; một đứa tối tăm
biếng trễ, nên cha phải dẫn dụ, bảo nếu cố gắng siêng học khi thi đỗ sẽ cho một
chiếc xe đẹp. Chiếc xe đẹp là một ảo tượng hay phương tiện, sự học giỏi thi đỗ
mới là chân mục đích hay cứu cánh. Bởi thế cho nên Tịnh Độ là lối tu của hạng
thường dân tối dốt, còn hạng trí thức đều ưa thích về môn Thiền. Nếu hiểu được
lẽ này thì người sáng suốt chỉ nên nhiếp tâm tịnh niệm, không cần phải theo ảo
tượng niệm Phật làm chi cho lao hơi nhọc sức. Hãy để chiếc xe trống không chạy
đi mới nhẹ nhàng, không nên chuyên chở thêm cho nặng! Con nghe như thế song
chưa biết trả lời làm sao, mong nhờ Thầy giải thích."
Bút giả đáp: - Trong lối
điều trần trên, có ba chủ điểm:
1. Cho Cực Lạc là ảo
tưởng, quyền thuyết.
2. Bảo Tịnh Độ là lối tu
thuộc hạng thấp kém thường dân.
3. Đưa ra mục đích trừ
vọng nhứt tâm, cho rằng phương tiện niệm Phật làm tổn hơi nhọc sức như chiếc xe
chở nặng, không được nhẹ nhàng thanh thoát như lối tu Thiền.
Về điểm thứ nhứt, Cực Lạc
không phải là cảnh ảo tượng hay quyền thuyết, mà là thế giới có thật như cõi Ta
Bà này; vì Phật không khi nào nói dối, và có rất nhiều người niệm Phật được
vãng sanh, hiện tiền hoặc lúc lâm chung đã mục kích cảnh giới ấy, như trong
Vãng Sanh Truyện và Tịnh Độ Thánh Hiền Lục đã có chép. Trong tập này nơi đoạn
trước đã dẫn minh về ba lượng để giải thích, xem qua sẽ tự rõ, không cần phải
biện luận thêm nhiều.
Về điểm thứ hai, nếu cho
rằng Tịnh Độ không phải lối tu của hàng trí thức, chỉ sợ e trí "trí
thức" của những vị ấy chưa đủ sức thấu hiểu Tịnh Độ mà thôi. Như khi xưa
Phật nói Kinh Pháp Hoa, có đến năm ngàn bậc Đại Đức Thanh Văn chứng từ Sơ Quả
đến Tứ Quả, vì chưa tin hiểu nổi nên lui ra khỏi pháp hội. Những vị ấy đã vào
hàng Thánh, đâu phải tầm thường, nhưng trước diệu lý quá cao, họ đành thối bại.
Nếu bảo rằng hàng trí thức sáng suốt đều phải tu Thiền, niệm Phật để cho hạng
dốt nát tầm thường, tại sao vị Tổ thứ mười bốn bên Thiền Tông là Long Thọ Bồ
Tát sau khi chứng ngôi Sơ Hoan Hỷ Địa rồi, lại niệm Phật "cầu sanh Cực
Lạc?" Và tại sao có rất nhiều bậc thạc đức bên Thiền Tông, như các ngài
Vĩnh Minh, Triệt Ngộ, Liên Trì, sau khi tham thiền ngộ đạo, lại chuyển hướng
cầu về Tịnh Độ? Phải biết Niệm Phật là pháp môn cao siêu mầu nhiệm, gồm nhiếp
ba căn, từ đức Thích Tôn cho đến các bậc đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã
Minh, Long Thọ đều tuyên dương. Cho nên khi đức Thích Ca nói Kinh A Di Đà, hằng
hà sa chư Phật ở sáu phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài mà khen ngợi. Và trong
Kinh Hoa Nghiêm, sau khi đức Phổ Hiền nói mười đại nguyện vương rồi, liền
khuyến tấn các bậc Bồ Tát ở những ngôi Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập
Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, đều nên phát nguyện cầu sanh về Cực Lạc? Nếu cảnh
Cực Lạc là ảo tượng không phải thật có, và môn Tịnh Độ là tầm thường, tại sao
các vị ấy lại cầu sanh? Cho nên Ấn Quang đại sư đã bảo: "Sự cao siêu mầu
nhiệm của pháp môn Niệm Phật, chư Tổ bảo là chỉ có Phật với Phật mới hiểu biết
hết được. Những kẻ khinh chê Niệm Phật, không phải chỉ khinh chê hạng ông già
bà cả tu Tịnh Độ đâu, mà chính là khinh chê luôn cả chư Phật và các bậc Đại Bồ
Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ đó!"
Về điểm thứ ba, xin giải
thích rõ hơn. Chỗ cứu cánh của Thiền là Chân Như Tam Muội. Điểm cứu cánh của
Tịnh Độ là Niệm Phật Tam Muội. Chân Như Tam Muội như vàng khối, Niệm Phật Tam
Muội như vòng, xuyến và các món trang điểm chạm trổ xinh đẹp, mà trong vòng
xuyến nguyên đã có vàng. Cho nên khi chứng Niệm Phật Tam Muội, tức đã bao gồm
cả Chân Như Tam Muội. Chân Như Tam Muội chỉ thuần về mặt trí huệ, Niệm Phật Tam
Muội đã có trí huệ còn gồm thêm phần phước đức; bởi người tu Tịnh Độ cũng lấy
nhứt tâm thanh tịnh làm căn bản, trên chỗ nhứt tâm ấy lại có thêm công đức niệm
Phật. Nhưng Chân Như Tam Muội với Niệm Phật Tam Muội không phải tu một đời mà
chứng được, cần phải liên tục tu trong nhiều kiếp; nhứt là chúng sanh thời mạt
pháp này khó mà hy vọng. Vì thế Niệm Phật Tam Muội tuy là chỗ cứu cánh của môn
Niệm Phật, nhưng chỉ đứng về hàng thứ yếu, mà sự cầu vãng sanh Tịnh Độ trong
một đời để được Bất Thối Chuyển, mới là tông chỉ chánh yếu cần thiết của tông
này. Do đó pháp môn Niệm Phật mới có tên là tông Tịnh Độ. Cho nên sở dĩ các bậc
tu Thiền sau khi ngộ đạo, tự biết con đường chứng đạo còn xa, sợ e kiếp người
ngắn ngủi, khi luân hồi sang đời khác phải bị mê lạc, nên mới chuyển hướng Niệm
Phật cầu vãng sanh là thế. Niệm Phật, lễ Phật dù rằng nhọc, nhưng được thêm
công đức phước báo do công năng tu trì của hai nghiệp thân và khẩu. Như chiếc
xe từ Đà Lạt về Saigon, chạy xe không tất nhiên nhẹ nhàng, nhưng nếu chuyên chở
thêm bông hoa rau cải, thì đã về đến Thủ Đô mà còn được có thêm phần hàng hóa.
Đem công năng siêng nhọc niệm Phật để được thêm nhiều phước báo, đó chính là
phần công và thưởng đương nhiên theo luật nhân quả, đâu có chi phải thiệt thòi?
Song mỏi nhọc nếu có, chỉ là lúc mới tu. Khi niệm Phật thuần thục đến chỗ vô
tâm, nào có chi là mỏi nhọc!
Nghi vấn trên thấy cũng
cần thiết, nên dù không phải đoạn quyết nghi, cũng xin ghi tiếp vào đây. Những
điểm hiểu lầm chưa thấu triệt về Tịnh Độ hãy còn nhiều, vì e tâm niệm phạm lỗi
đấu tranh, nên đối với các sự biện minh tạm xin ngừng bút.
Tất cả quý vị ngồi tại
đây đều là Phật tử hết phải không? Rồi quý vị
xuất gia là giòng gì? Giòng họ Thích. Giòng họ Thích là họ ai? Giòng họ
Phật tức giòng họ của đấng giác ngộ, mà mình được con cháu trong giòng họ đó
thì mình có giác ngộ không? Có. Còn Phật tử là cái gì? Phật tử là con Phật. Phật
là giác mà con Phật có giác không? Có. Như vậy trong đạo Phật lấy giác ngộ làm
tiêu chuẩn để hướng dẫn mọi người. Lâu nay chúng ta tu theo đạo Phật mà lại mê
tín tôi chịu hết nổi. Đi đường giác mà lại mê thì hỏi làm sao được, nó ngược hẳn.
Tu Phật thì phải giác mà mình lại mê thì nghĩ làm sao? Vậy đó mà
Phật tử lâu lâu có ông đồng ông bống nào lên nói hay hay thì chạy lại hỏi thăm
coi năm nay làm ăn khá không, tuổi tôi tu được hay không. Rồi những gả nào đó
nói gạt soi cơ, coi căn cũng chạy hỏi căn tôi tu được không. Mình quyết tâm tu
thì được, mình bỏ cái mê thành cái giác thì tu chớ có gì đâu, mà càng đi sâu
trong đó càng mê thêm. Phật tử là người con của bậc giác ngộ, thì mình không được
giác trăm phần trăm, Phật trăm phần trăm là tròn là viên mãn, mình ít nhất cũng
bao nhiêu? Một phần trăm cũng tốt rồi, chớ còn mình trụi luôn không có phần nào
hết thì không phải là con Phật.
Còn chư tăng chư ni mình làm sao? Mình là con cháu trong nhà họ
Thích, con cháu bậc giác ngộ. Người ta nói con nhà tông không giống lông cũng
giống cánh, mà không biết mình giống được cái gì? Chắc giống được cái đầu, giống
được chiếc áo, còn phần giác ngộ không giống gì hết thì như vậy có buồn không.
Bởi vậy nên tu Phật quý vị
phải biết rõ lấy giác ngộ làm tiêu chuẩn. Vậy mà những người tu Phật
không hiểu đạo, không thấy được đường tu, không biết bổn phận của mình rồi bày
ra xin xăm, bói quẻ thấy làm vậy cũng có tiền khỏi xin đệ tử. Nhưng làm như vậy
riết rồi mình đã mê mà còn làm cho người ta mê thêm nữa, đó là dạy người ta mê.
Dạy người ta mê thì đúng là người xuất gia chưa? Xuất gia là mình tự giác, giác
tha. Phật có định nghĩa rõ ràng quá, người tu là phải tự giác giác tha, rồi
giác hạnh viên mãn mới thành Phật. Như vậy ai tu muốn thành Phật thì cũng phải
đi con đường tự giác giác tha hết. Bây giờ mình không chịu giác, rồi còn dạy
người ta mê thêm nữa, thì như vậy quý vị
đi đường nào? Đi đường mê mà nói là con Phật được không? Như vậy là lạm
dụng nói gạt người ta. Cho nên người tu phải chân thành, phải thấu suốt cái ý
nghĩa của mình.
Thật ra, nói thẳng chúng ta được làm người là một việc dễ hay
khó? Phật nói những cái khó nè: được làm người là khó, gặp Phật pháp khó, sáu
căn đầy đủ khó. Ba cái khó này mà quý vị
được đầy đủ hết, được hết mà không chịu cố gắng tu rồi mai mốt trở lại
không biết có đầy đủ ba điều kiện này không? Nếu không đủ ba điều kiện này thì
không biết tuột xuống tới đâu. Đời này tuột một phần, đời sau tuột xuống một phần,
đời sau tuột tuột riết đi tới chỗ tối tăm nhất là địa ngục.
Chúng ta được vinh hạnh, được phước đức nên làm thân người là một
phước đức lớn. Được thân người mà lại được nghe Phật pháp là đạo giác ngộ. Tại
sao nói rằng Phật pháp khó nghe? Vì thiên hạ sống trong cái mê cho thân này là
thật, mà Phật cho thân là giả thì dễ nghe không? Người ta nói thật mà Phật lại
nói giả thì đó là khó nghe. Khó nghe mà mình nghe, mình thắm, mình hiểu được
thì chuyện đó cũng rất là khó. Rồi được sanh làm người mà nhiều sáu căn nó thiếu:
thiếu cặp mắt, thiếu lỗ tai hay thiếu cái gì đó, thì chúng ta cũng khó tu.
Bây giờ đủ hết ba điều kiện tốt: được thân người, được gặp Phật
pháp, sáu căn liền lặng thì không tu còn đợi chừng nào! Nghĩ chừng nào được? Quý
vị có hẹn không nhất là người xuất gia?
Được thân người, được làm con cháu giòng họ Thích nữa, mà không chịu gắng tu
thì tôi không biết quý vị muốn đòi cái
gì nữa tôi không hiểu. Chẳng lẽ mình được làm người, được học Phật pháp, được
đi trên con đường giác ngộ, lại nói không tôi lùi lại đi con đường tối cho vui,
chịu không? Vô lý quá. Cho nên chúng ta phúc đức nhiều, duyên lành lớn mới được
như vậy, thì phải cố gắng, phải tận lực mà tu hành chớ không nên lôi thôi.
Đó là tôi nói đoạn:
Đại trượng phu bỉnh huệ kiếm,
Bát-nhã phong hề kim cương diệm.
Tức chúng ta là người đại trượng phu, đây là nói người xuất gia.
Xuất gia là bậc đại trượng chớ không phải thường. Tại sao dám nói đại trượng
phu? Vì trượng phu ở ngoài là cầm quân đánh giặc được phong chức này chức nọ.
Còn mình đi tu đây là buông hết tất cả, gan vậy đó. Ở ngoài người ta được làm lớn
chừng nào người ta trang sức đẹp chừng ấy. Còn mình tu lâu chừng nào càng xấu
chừng ấy, đầu cạo hết, thân thể mặc áo, ăn uống rất sơ sài, mà can đảm làm chuyện
đó là đại trượng phu, thì mình phải cầm cây kiếm trí tuệ là kiếm giác ngộ. Kiếm
giác ngộ đó là mũi nhọn của bát-nhã, của trí tuệ, là ngọn lữa lớn của trí kim
cương, phải làm sao tiêu diệt hết những cái mê lầm của thế gian.
Phi đản năng thôi ngoại đạo tâm,
Tảo tằng lạc khước thiên ma đảm.
Không những mình hay dẹp hết tâm ngoại đạo, mà đã sớm từng làm
cho thiên ma rụng tim hay vở mật. Như vậy người đại trượng là người tu, người
xuất gia, mình phải làm sao dẹp hết cái tâm của ngoại đạo, làm sao mình phải ra
sức hay biểu hiện cho loài thiên ma phải vở mật. Đó mới gọi là đại trượng phu,
chớ không phải đại trượng phu là làm tôi tớ cho thiên ma. Mình làm tôi tới
thiên ma là học trò nó, chớ không phải là đại trượng phu.
Vì vậy mà mong tất cả chư tăng, chư ni, Phật tử chúng ta phải biết
rõ bổn phận của mình. Nhất là người xuất gia đừng nên đi lệch con đường Phật dạy.
Nếu lệch con đường Phật dạy là chúng ta lạc về đạo tà. Vì vậy nên ráng tu. Càng
thấm nhuần kinh Bát Nhã, càng thấu triệt kinh Kim Cang thì chúng ta sáng thêm
trí tuệ của mình, nhờ đó mà chúng ta dẹp được những tâm ngoại đạo, dẹp được những
lòng điên đảo của thiên ma để cho mọi người được an vui, sống trong cuộc đời
tuy là tạm bợ mà đầy lòng thương, tất cả giúp đở, ủng hộ, dìu dắt nhau đi trên
con đường giác ngộ. Đó là mục tiêu, là chủ trương Phật đã dạy con cháu phải làm
theo.
CHÁNH VĂN :
Chấn
pháp lôi, kích pháp cổ,
Bố
từ vân hề sái cam lộ.
Long
tượng xúc đạp nhuận vô biên,
Tam
thừa ngũ tánh giai tỉnh ngộ.
GIẢNG :
Chấn pháp lôi, kích pháp cổ, Đây là
nói về chứng đạo. Người khi chứng đạo rồi thì sẽ đánh trống pháp, phát ra lời
pháp, bủa mây từ và rưới nước cam lồ. Nói theo nghĩa thường là khi chúng ta thấy
được đạo lý chân thật rồi, lúc đó chúng ta nói lên lời gì cũng là lời đạo lý,
chúng ta làm Phật sự nào cũng là Phật sự đúng đạo lý. Vì vậy cho nên nói rằng
đánh trống pháp và nổi tiếng pháp.
Bố từ vân hề sái cam lộ. Và nói
rằng bủa mây từ tức mây từ bi bủa khắp, và sái nước cam lồ tức tưới nước cam lồ
cho tất cả. Bởi vì quý vị thấy ở đời nếu
người hung dữ thì họ mở ra lời nói nào cũng là lời nói hung dữ. Còn người hiền
lành thì lời nói nào cũng là lời nói hiền lành. Cũng vậy người đến với đạo, thấu
suốt lẽ đạo rồi thì mọi hành động, mọi ngôn ngữ đều là hành động từ bi, những
ngôn ngữ đều là ngôn ngữ làm cho mọi người bớt đau khổ. Vì vậy mà nói bủa mây từ
và rưới nước cam lồ.
Long tượng xúc đạp nhuận vô biên, Nói
hàng long tượng là từ ngữ chuyên môn trong nhà thiền. Long tượng là người đứng
ra gánh vác Phật sự lớn lao, cũng như là con rồng, con voi vậy đó, mạnh mẽ. Khi
chạm tới hay gặp được những vị đó thì được tươi nhuần, được thấm ướt cái giáo
lý, cái Phật pháp. Cho nên nói rằng Long tượng xúc đạp nhuận vô biên, tức là
hàng rồng, hàng voi mà khi chạm tới thì được cái lợi vô cùng. Đó là ý nghĩa muốn
nói lên rằng, gặp được những bậc hiểu đạo, thấu suốt lý đạo thì chúng ta sẽ có
lợi ích rất nhiều.
Tam thừa ngũ tánh giai tỉnh ngộ. Tam
thừa là Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ tát thừa. Ngũ tánh là chỉ cho năm
tánh, năm tánh đó gặp Phật pháp đều tỉnh ngộ hết, không có ai thiếu, không có
ai sót. Vì vậy mà tất cả chúng ta tu khi thấy đạo, biết đạo rồi, thì ai ai cũng
đều được vào nhà Phật, chớ không có đi đâu khác, không có bị cái gì lôi dẫn.
Đó là ý nghĩa ngài Huyền Giác muốn diễn đạt cho chúng ta thấy, bậc
đạo đức chân chánh đã thấu suốt lý đạo rồi, thì ai gặp đều có lợi ích, và đến
đâu cũng đều gieo được sự an lạc cho mọi người, đều được làm cho người ta thức
tỉnh. Đó là bốn câu này.
CHÁNH VĂN :
Tuyết
sơn phì nhị cánh vô tạp,
Thuần
xuất đề hồ ngã thường nạp.
Nhất
tánh viên thông nhất thiết tánh,
Nhất
pháp biến hàm nhất thiết pháp,
Nhất
nguyệt phổ hiện nhất thiết thủy,
Nhất
thiết thủy nguyệt nhất nguyệt nhiếp,
Chư
Phật pháp thân nhập ngã tánh,
Ngã
tánh đồng cộng Nhu Lai hiệp.
GIẢNG :
Tuyết sơn phì nhị cánh vô tạp, Câu
này nói rằng ở trên núi Tuyết có một thứ cỏ tên là phì nhị, nó không có bị cái
gì lẫn tạp trong nó hết, không có lẫn lộn mà chỉ là một thứ cỏ kỳ đặc, một thứ
cỏ rất quí báu ở trên núi Tuyết. Nếu người nào hay con voi nào ăn được thứ cỏ
đó thì khi nó xuất ra, nó tiêu hóa ra thành chất đề hồ, mà chất đề hồ đó thì
ngài tự nói rằng tôi thường nhận. Đó là để nói rằng, dụ núi Tuyết là chỗ cứu
kính chân thật, còn cỏ thì nhị là chỉ cho cái cỏ mà ai được gần, ai được dùng
nó đều thành ra đề hồ hết.
Thuần xuất đề hồ ngã thường nạp. Tức là
người nào đối với đạo chỗ cao tuyệt mà mình đã thấm nhuần được thì người đó họ
nói, họ làm đều hiện ra những đồ quí giá vô cùng như chất đề hồ. Ngài nói ngài
thường nhận được chất đề hồ của con trâu trắng trên núi Tuyết nó ăn cỏ phì nhị,
nó tiêu hóa ra. Núi Tuyết là dụ cho pháp thân, thứ cỏ đó dụ cho cỏ giác, cỏ ngộ.
Vì vậy mà ngài thường nhận được thường hưởng được cái tinh thần giác ngộ hay đạo
đức giác ngộ xuất phát từ pháp thân.
Nhất tánh viên thông nhất thiết
tánh,
Nhất pháp biến hàm nhất thiết pháp,
Nhất nguyệt phổ hiện nhất thiết thủy,
Nhất thiết thủy nguyệt nhất nguyệt
nhiếp,
Đây là để vừa pháp, vừa dụ để cho chúng ta hiểu. Bây giờ tôi nói
dụ trước. Như nói rằng một mặt trăng mà nó hiện tất cả nước, rồi tất cả nước đều
nhiếp thuộc về một mặt trăng hay mặt trăng trong tất cả nước đều nhiếp thuộc về
mặt trăng.
Như quý vị đêm rằm nhìn
xuống sông, nhìn xuống hồ, nhìn xuống tất cả chỗ nào có nước trong thì đều có mặt
trăng hiện hết. Mà mặt trăng hiện hồ ao rồi sông biển đủ hết, cả trăm cả ngàn
chỗ, ai đứng gần sông gần biển đều thấy mặt trăng. Như vậy mặt trăng hiện dưới
đáy nước là bao nhiêu? Có thể nói là nhiều vô kể. Nhưng thật sự có mấy mặt
trăng trên trời? Chỉ có một mặt trăng thôi. Đó là cái thí dụ. Nghĩa là trên trời
chỉ một mặt trăng mà bao nhiêu thứ nước đều có bóng mặt trăng hiện dưới hết,
thì muôn ngàn bóng mặt trăng đều nhiếp thuộc về một mặt trăng.
Nhất pháp biến hàm nhất thiết pháp, Tức là một pháp mà nó gồm
thâu tất cả pháp. Tại sao? Ai cũng có sẳn tánh Phật của mình, mà tánh Phật trăm
người, triệu ức người đều giống nhau. Bây giờ tôi hỏi quý vị tất cả chúng ta hiện giờ nói người này khôn,
người kia dại, thì khôn dại từ đâu mà có. Từ cái suy nghĩ học hỏi của mình mà
ra. Người đó khéo suy nghĩ, người đó học hỏi nhiều thì mới là khôn. Người kia
suy nghĩ vụng và học hỏi ít, gọi đó là dại. Khôn dại là căn cứ trên cái suy
nghĩ, cái thu thập được từ người khác thì có phân ra khôn dại.
Nhưng mà cái thấy, cái nghe, cái ngữi, cái nếm, cái biết xúc chạm..v.v…
người khôn, người dại có giống nhau không? Mình thấy hoa hồng vàng thì người
khác nhìn vô cũng thấy cũng là vàng, mình thấy bầu trời trong người khác cũng
nhìn thấy bầu trời trong, dầu ngu hay khôn thấy giống hệt nhau. Như vậy để nói
rằng tánh giác sẳn của mình nó bình đẳng, nó không có sai biệt, không có khác.
Cho nên Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, là tánh Phật sẳn của mình.
Vậy với con mắt nhà Phật nhìn tất cả chúng sanh đều bình đẳng.
Nghĩa là ai cũng có tánh Phật, không có khen người khôn, không có chê người dại,
vì ai ai cũng có tánh Phật hết. Nhưng mà có biết khai thác thì người đó sáng suốt
mau, có mà chôn vùi thì người đó tối tăm hoài. Như vậy thì tánh giác ai cũng
có, thì tánh giác đó ví như một mặt trăng. Nhưng mà cả trăm thứ hồ ao, giếng
hay là sông, rạch, biển, mỗi nơi hiện bóng nó khác nhau. Khác nhau trong sông,
khác nhau trên biển, khác nhau trong hồ, trong ao, chớ không có phải có mặt
trăng khác, bóng nó khác thôi chớ mặt trăng đó nó giống nhau.
Để nói lên rằng tất cả chúng ta đều có tánh giác như nhau, cho
nên nói rằng: Nhất tánh viên thông nhất thiết tánh. Cái tánh giác của mình nó
trùm hết, nó hợp nhất với tất cả tánh giác khác, nó không có sai biệt cũng như
là một pháp nó trùm hết các pháp. Thí dụ như mặt trăng trên trời thì có một, mà
bóng mặt trăng thì vô số không thể kể hết. .
Đó là để nói tinh thần đạo lý của nhà Phật, Phật nhìn mọi chúng
sanh đều có tánh giác, người khôn có tánh giác, người khờ cũng có tánh giác. Chỉ
khác nhau là người biết dùng nó để rồi được thức tỉnh. Còn người không biết
dùng nó để rồi mình cứ mê lầm, chớ không có khác tánh giác. Vì vậy mới dùng thí
dụ này.
Bởi vậy nên câu kết thúc:
Chư Phật pháp thân nhập ngã tánh,
Ngã tánh đồng cộng Nhu Lai hiệp.
Tức là pháp thân của chư Phật nó vào trong tánh của ta. Rồi tánh
của ta đồng giống như là tánh Như Lai, không có khác chút nào hết. Như vậy để
đúng với câu Phật nói: “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”.
Hiểu như vậy thì quý vị dám
khinh ai không. Mình có Phật tánh, người nào cũng có, như vậy thì mình không có
hơn, không có khác. Nhưng khác chẳng qua là người có tìm cách để cho nó sáng
lên, hoặc người không biết tìm cách để cho nó sáng lên, rồi nó tối mù. Cũng như
mỗi người đi học, thì người nào có học mà không đần độn lắm thì học rồi cũng biết
như nhau, trừ phi những người nào có bệnh, có tật thì họ không bì kịp thôi. Nếu
có hiểu biết tương tự, cơ thể khỏe mạnh như nhau, thì học hiểu rồi cũng biết
như nhau. Đó là nói thí dụ tạm.
CHÁNH VĂN :
Nhất
địa cụ túc nhất thiết địa,
Phi
sắc phi tâm phi hạnh nghiệp.
Đàn
chỉ viên thành bát vạn môn,
Sát
na diệt khước tam kỳ kiếp.
Nhất
thiết số cú phi số cú,
Dữ
ngô linh giác hà giao thiệp?
GIẢNG :
Đó những câu này nói lý rất cao siêu, nhưng tôi cố giải thích
cho quý vị hiểu phần nào.
Nói rằng nhất địa đầy đủ tất cả địa, một địa đầy đủ tất cả địa.
Tại sao? Vì trong nhà Phật nói có thập địa Bồ tát, Bồ tát sơ địa, Bồ tát nhị địa…
tới thập địa. Như vậy thì ngài nói một địa tức đầy đủ tất cả địa. Tại sao? Bởi
vì tâm thanh tịnh của chúng ta, tâm hằng giác của chúng ta ai cũng có. Ai cũng
có thì bước chân được vào đó thì nó đủ hết như nhau. Tôi có tánh giác, quí Phật
tử đều có tánh giác, ai cũng có tánh giác như nhau. Cho nên, khi mình nhận được
tánh giác đó, thì đều giống hệt nhau, chớ không đợi thứ bậc, nhận một phần, nhận
hai phần, tới mười phần, không có. Nghĩa là khi nhận một thì có tất cả trong
đó, vì vậy mà nói:
Nhất địa cụ túc nhất thiết địa.
Phi sắc phi tâm phi hạnh nghiệp.
Đàn chỉ viên thành bát vạn môn,
Mà tánh giác đó, nó không phải là hình sắc, nó không phải là tâm
suy nghĩ, cũng không phải là những hành động tạo nghiệp. Chỗ này nói cho quý vị thấy, chúng ta là người mê muội đáng thương.
Ngay nơi mình quý vị thấy chúng ta nhìn
nhận mình là cái gì? Nhìn nhận mình là thân xác thịt này. Rồi nhìn nhận cái gì
nữa? Nhìn nhận tâm suy nghĩ hơn thua phải quấy là mình. Bên hình thức thể xác
thì lấy thân xác thịt là mình, bên tinh thần thì lấy suy nghĩ là mình, phải vậy
không. Chúng ta đang mắc kẹt ở chỗ đó. Nhưng thân xác thịt này quý vị có giữ nó được ngàn năm không? Hay tới đâu rồi
nó nát? Nghĩa là trên con đường đi nó cứ nát từ từ, nó hoại từ từ. Thân xác thịt
là cái sẽ bại họai, vậy mà chúng ta cứ ngở nó là mình. Rồi khi tắt thở rồi thì
mình làm sao?
Tôi nói cho quý vị thấy lẽ
thật. Khi chúng ta còn sống, còn hơi thở, còn ấm thì thân này nó còn tương đối
dễ coi. Nhưng khi tắt thở hơi ấm mất rồi thì nó ra cái gì? Giả sử người nào quí
thương nhiều thật là nhiều, mà họ tắt thở chừng vài chục tiếng đồng hồ, thì lúc
đó có dám lại ngồi gần, có dám lại nằm chung không? Không. Như vậy tại sao thân
này là mình, thân kia là người, mà thấy nó thật. Thật mà sao hồi còn họat động
thì dám lại gần, còn hồi họ xuôi xị đó không dám đụng tới. Có người lại bội bạc
hơn nữa, nói thây ma đó, rồi gớm rồi sợ. Như vầy, cái đó là quí, là thật thì
trước sau cũng là quí, cũng là thật. Nhưng tại sao phút giây này nó là quí, mà
phút giây khác nó lại là tiện, là không ra gì.
Bây giờ có người nào họ đủ tư cách là một người sang trọng, đẹp
đẻ, ai thấy cũng quí cũng thương, mà họ tắt thở chừng vài hôm, đừng bỏ vô quan
tài, thì đi ngang quý vị làm sao? Thương
nữa không? Có nhiều khi bịt mũi mà đi. Như vậy đó là cái gì, nếu nó là thật. Vậy
mà cứ bám vào đó để tranh hơn, tranh thua, giành phải giành quấy. Rồi cái gì
mình muốn được mà người khác giành đi, cái nổi giận sân si đánh đập nhau. Khổ
chưa!
Bây giờ mình biết rõ thân không ra gì, thì đừng có giành, đừng
có khoe ai hơn, ai thua gì hết. Hiểu như vậy thì mới thấy cái thật.
Rồi còn cái tâm. Tâm quý vị
suy nghĩ đúng trăm phần trăm là chân lý, hay là quý vị suy nghĩ nữa trúng, nữa trật. Trúng hết
không? Có nhiều khi không được phân nữa trúng, phân nữa trật, mà trật nhiều hơn
trúng nữa. Vì vậy mà tâm đó không phải là lẽ thật, là chân lý.
Bây giờ quý vị thử ngồi
suy nghĩ rồi tìm coi cái suy nghĩ nó ở đâu, nó ra sao, thì tìm được không? Nếu
nó thật thì nó ở đâu đó, mình phải thấy, mình phải biết chỗ nó ở. Nó ở chỗ nào
nè, khi dấy lên nó chạy ra suy nghĩ, rồi khi mệt nó chùi xuống ở chỗ nào đó,
hang ổ nó đâu mình phải biết thì mới có thật. Còn bây giờ quý vị nhìn lại đang suy nghĩ chuyện gì tốt xấu đó,
cái bổng nhớ lại tìm coi cái suy nghĩ nó ở đâu. Quý vị thử tìm dùm tôi coi được không? Ai thử tìm được
cái đó tôi phục lắm. Tìm được không? Thay vì nhìn lại cái nó mất tiêu, thì nó
là cái bóng. Cái bóng mà mình lại tưởng nó thật.
Như vậy cả ngày, chúng ta sống đuổi theo vật chất để nuôi dưỡng
thân, mà thân đó tạm bợ không thật. Rồi chúng ta khoe khôn chê dại..v.v… đủ thứ
cho đó là tâm mình mà nó là cái bóng không thật, như vậy thì chúng ta sống đáng
thương không? Sống trong mê lầm thật là đáng thương.
Còn cái chân thật đó nó không phải sắc tức là không phải hình tướng,
không phải tâm suy nghĩ, mà cũng không phải là cái tạo hạnh nghiệp. Nếu ai nhận
được cái đó rồi, chỉ trong khảy móng tay thì nó đã thành tựu đầy đủ bát vạn
môn, tức tám ngàn môn. Vậy chỉ trong khảy móng tay chúng ta đầy đủ tám ngàn
môn. Sao vậy? Bây giờ cái mà không phải sắc, không phải tâm, không phải hạnh
nghiệp này là cái gì? Quý vị có không?
Bây giờ tôi hỏi quý vị một
cách dễ thật là dễ. Hiện giờ chúng ta có thấy không? Có. Có nghe không? Có. Cái
thấy nghe đó hình dáng ra sao? Nó không có hình dáng là không phải sắc. Mà khi
thấy khi nghe đó có suy nghĩ không? Không suy nghĩ, đó không phải tâm. Rồi cái
thấy, cái nghe có tạo nghiệp chưa? Đâu có tạo nghiệp.
Thí dụ như bây giờ mình thấy người đó đẹp, người kia xấu. Thấy đẹp,
thấy xấu là có quyền thấy, chớ đâu phải đẹp xấu lộn xộn được. Đẹp ra đẹp, xấu
ra xấu. Nhưng không khởi cái nghĩ người đó đẹp dễ thương, người kia xấu dễ
ghét. Không khởi cái nghĩ đó thì ai cũng thấy, ai cũng biết như nhau hết. Người
đó đẹp thì ai cũng thấy là đẹp, người kia xấu ai cũng thấy là xấu, thì cũng cái
thấy đồng, nhưng khởi nghĩ ghét thương là khác. Có người thấy người này đẹp mà
người khác lại thấy xấu. Người này dễ thương, người kia khó thương. Như vậy đó
bước qua chặng đó rồi cái sai biệt.
Như vậy tất cả chúng ta đều thấy, mà thấy tức là biết; đều nghe,
nghe là biết. Có cái biết không hình tướng là không sắc, không suy nghĩ nên
không phải tâm, không tạo nghiệp nên không phải hạnh nghiệp. Nếu ai mà nhận được
cái biết đó rồi, chỉ trong khảy móng tay là đầy đủ tất cả môn, nhanh như khảy
móng tay. Tu dễ quá, phải không! Mà cái có sẳn chớ không phải cái ở đâu đem đến.
Sát na diệt khước tam kỳ kiếp. Chỉ
trong một chốc lát thôi là diệt hết nghiệp trong tam a kỳ, tức ba a tăng kỳ kiếp,
tức ba vô số kiếp. Nghiệp tạo trong ba vô số kiếp chỉ khảy móng tay thì hết
trơn, thảnh thơi làm sao không có tuần tự. Tại sao vậy? Bởi vì nghiệp có từ tâm
phân biệt tốt xấu hơn thua đó. Nếu tốt thì mình mến, xấu thì mình không ưa, mà
có mến có không ưa thì có tạo nghiệp. Còn cái biết mà không phải sắc, không phải
tâm, không phải hạnh nghiệp thì cái biết đó nó không có vướng vấp gì với cái
trí đó hết. Bởi vậy nên ai sống được với cái đó một phút, một giây thì tất cả
nghiệp đều tan biến hết. Cũng như chỉ trong một khảy móng tay là được tám vạn
môn tức tám vạn pháp môn.
Quý vị nhớ Đức Phật chưa
cành hoa sen lên, nhìn tất cả đại chúng ai cũng ngơ ngác. Tới ngài ca Diếp,
ngài nhận được ngài mỉm cười thì Phật liền thọ ký. Như ông Phật mình đưa hoa
sen đó quý vị cười chưa? Thấy Phật đưa
thì đưa chớ mình không có cục cựa nhúc nhíc gì hết. Đó là vì chúng ta không nhận
ra được cái mình hiện tiền đang thấy. Chính cái đang thấy đang nghe đó mới thật
mình, còn cái suy nghĩ không phải thật mình, mà mình lại ngược bỏ quên cái thật
mình chạy theo cái không thật.
Cho nên ngài Thần Hội tức đệ tử của Lục Tổ dùng thí dụ hết sức
là chí lý. Ngài nói như cái gương, khi nhìn vào gương thấy hình dáng người thì
còn nhớ cái gương không? Thấy hình dáng là quên gương. Nghĩa là thấy cứ nhớ
hình dáng đẹp, hình dáng xấu, hình dáng trắng đen..v.v… không bao giờ nhớ cái
gương. Chừng không còn hình bóng nào thì gương mới hoàn toàn trong sáng. Gương
hiện trong sáng mà miễn chấp nhận nhìn cái bóng, chú tâm vào cái bóng thì quên
gương.
Bây giờ chúng ta chú tâm nhớ cái suy nghĩ thì quên tâm thể hiện
tiền. Cho nên đi sâu rồi quý vị thấy Đức
Phật dạy, nếu chúng ta biết phản quan nhìn lại đừng chạy theo vọng tưởng, vọng
tưởng lặng hết thì tâm thể hiện tiền. Cũng như không có bóng thì thấy gương rõ
ràng, không có thiếu chút nào hết. Không phải nói người tu thiền mới vậy, người
tu Tịnh độ cũng giống như vậy thôi.
Phật dạy niệm Phật để làm gì? Niệm để diệt cái niệm, niệm Phật để
quên những cái niệm khác. Cứ nhớ Nam mô A Di Đà Phật hoài đâu có nhớ chuyện gì,
đâu có suy nghĩ cái gì. Chừng nào đi đứng nằm ngồi đều nhớ câu niệm thì đó gọi
là nhất niệm. Nhất niệm chớ chưa phải là vô niệm. Khi niệm đó lặng hết hoàn
toàn, cái nghĩ suy lặng hết hoàn toàn thì câu niệm Phật cũng buông luôn, đó gọi
là nhất tâm. Hồi nảy là nhất niệm còn một câu niệm Phật, rồi sau đi tới nhất
tâm. Nhất tâm là vô tâm, là không còn niệm nào hết, hay là vô niệm. Chừng tới
nhất tâm thì Phật Di Đà mới hiện, còn đang niệm thì Phật không hiện. Phật Di Đà
ở đâu? Tức là tánh giác mình hiện ra.
Vậy niệm Phật để dừng, để dứt những cái nghĩ suy vì đó là cái
bóng mà lâu nay mình bám vào cái bóng, tự hài lòng mà quên cái thật của mình.
Người tu thiền thì ngay đó, thẳng đó biết những cái bóng là không thật, buông để
rồi lặng hết trở về tâm chân thật của mình. Chừng đó gọi là vô niệm, chừng đó
thì thấy được pháp thân, thấy được Phật.
Như vậy pháp tu nghe có khác nhưng tới cứu kính thì không hai, đều
đi tới chỗ đó.
SỰ
NHỨT TÂM, LÝ NHỨT TÂM
Người niệm Phật phải
thiết thật dụng công, trong tuyệt cả tướng thị phi nhơn ngã không thấy thân
tâm, ngoài dứt hết tướng không sắc dục trần chẳng còn cảnh giới, duy có một câu
Phật hiệu rành rạnh hiện tiền. Sự dụng công chí cực này, như người xưa đã nêu lên
câu hỏi: "Trước mặt có cọp dữ, sau lưng có bầy chó sói, bên trái là vách
núi cao, bên mặt là vực sâu thẳm; trong hoàn cảnh ấy hành nhơn phải vượt đi ngả
nào?" Bên Tịnh Tông cũng bảo: "Ao sen bảy báu trước mặt, vạc dầu lò
lửa phía sau, người niệm Phật phải nhứt hướng đi tới." Khi tu hành chưa
thấy có điểm tiến bộ nào, là bởi chính mình còn yếu hèn biếng trễ. Cũng trong
tình trạng ấy, khi xưa ngài Đổng Sơn đã nghiêm trách trong chúng:
Người nay học đạo nghĩ mà
than
Ngoài cửa phân vân biết mấy ngàn!
Tưởng đến ngọc kinh triều thánh chúa
Giữa đường dừng bước ải Đồng Quan!
Nếu dụng công đến mức
cùng cực, lâu ngày không gián đoạn, hành giả sẽ đi đến cảnh giới nhứt tâm. Cảnh
nhứt tâm bất loạn này có hai mức cạn sâu, gọi là Sự nhứt tâm và Lý nhứt tâm.
Sự
nhứt tâm là thế nào?
- Khi hành giả chuyên tâm chú ý trên sáu chữ hồng danh, lâu ngày tất cả tạp
niệm đều dứt bặt, lúc nằm ngồi đi đứng duy có một câu Phật hiệu hiện tiền, gọi
là cảnh giới Sự nhứt tâm. Đây là định cảnh của người tu Tịnh Độ, cũng ngang
hàng với sự nhập định của bậc tu Thiền.
Lý
nhứt tâm là thế nào?
- Trên Sự nhứt tâm nếu tiến thêm một bước, dụng công đến chỗ chí cực, ngày kia
tâm địa rỗng suốt, thoát hẳn căn trần ngộ vào thật tướng. Khi ấy hiện tại tức
là Tây Phương mà chẳng ngại gì riêng có cõi Cực Lạc, tánh mình chính là Di Đà
cũng chẳng ngại gì riêng có đức A Di Đà. Đây là cảnh giới Lý nhứt tâm. Địa vị
này là cảnh "định huệ nhứt như" của người niệm Phật, ngang hàng với
trình độ khai ngộ bên Thiền Tông.
Với
thuyết Sự, Lý nhứt tâm, Ngẫu Ích đại sư đã giản biệt tường tận. Ngài bảo: "Không luận sự trì
hay lý trì; niệm đến hàng phục phiền não, kiến hoặc tư hoặc không khởi hiện, là
cảnh giới Sự nhứt tâm. Không luận sự trì hay lý trì, niệm đến tâm khai, thấy rõ
bản tánh Phật, là cảnh giới Lý nhứt tâm. Sự nhứt tâm không bị kiến, tư hoặc làm
loạn. Lý nhứt tâm không bị nhị biên làm loạn" (Nhị biên: có, không - đoạn,
thường v.v...)
Như thế chẳng nói chi Lý
nhứt tâm, với Sự nhứt tâm người đời nay cũng chẳng dễ gì đi đến. Tuy nhiên, với
công đức của câu niệm Phật cộng thêm sự chí thiết hành trì, trong mỗi niệm sẽ
diệt được một phần vô minh thêm một phần phước huệ, lần lần tất sẽ đi đến cảnh
giới tốt. Và hành trì lâu ngày như thế, lo gì không tiến đến chỗ mỗi niệm khai
ngộ, được hảo cảnh gọi là "Nhứt phiên đề khởi nhứt phiên tân" (Một
phen đề khởi niệm, một phen lộ bày cảnh mới).
Cho nên, dù là căn tánh thời mạt, nếu thiết thật dụng công, trình độ Sự, Lý nhứt tâm đối với chúng ta chẳng phải tuyệt phần hy vọng...
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả
vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến
giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng
cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn
ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân
tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ
hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa
chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu
phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà
thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng
nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy
dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
LỜI BÀN:
Thông thường người tụng kinh đều tìm
kiến giải, rồi theo kiến giải mà thực hành, như
theo Hòa Thượng thì quên hết mọi điều kiến giải, đọc từ đầu đến cuối, thì mới
hợp với “CHƠN TÂM BỔN TÁNH”.
Cũng như lìa sáu trần: Sắc,
Thanh, Hương,Vị, Xúc, Pháp mà có
sự hiểu biết , thì đó mới là CHƠN TÂM của chính mình. (KINH
LĂNG NGHIÊM)
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Thiếu Khang đại sư niệm một câu hồng danh, trong miệng bay ra một vị hóa
Phật. Thiện Ðạo Hòa thượng niệm mỗi câu Phật hiệu, nơi miệng phóng ra một đạo
quang minh. Hai điều trên chứng minh cho công đức niệm câu hồng danh A Di Ðà
thật lớn lao, và sự cảm ứng cưa Phật hiệu như thế đã đến mức cùng diệu. Và điều
trên đây cũng nhắc cho người học đạo nên thức ngộ, đừng xem môn Niệm Phật là
dung thường.
Trong mấy bài kệ liên tiếp, Triệt Ngộ đại sư đã dẫn chứng trên từ chư Phật Thế
Tôn, nói rộng ra là các đức Như Lai ở sáu phương như kinh A Di Ðà đã thuyết
minh, đều khen ngợi khuyên tu Tịnh Ðộ, và chỉ riêng các ngài mới biết cùng tận
pháp này. Kế đến chư đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, các bậc đại Tổ Sư như Mã
Minh, Long Thọ; những vị đại long tượng về bên Tông như ngài Vĩnh Minh, về bên
Giáo như ngài Trí Giả và sau cùng chính chư Tổ bên Tịnh Ðộ như Thiện Ðạo, Thiếu
Khang. Những vị trên tuy cũng suốt thông các pháp môn khác, song vẫn quy hướng
về Tịnh Ðộ. Tại sao Tổ Triệt Ngộ lại nhiều phen dẫn chứng như thế? Trong đây có
hai nguyên nhân rất quan trọng.
Ðiều thứ nhứt: Các vị học thức xưa nay (bút giả dùng danh từ “học
thức” chớ không nói trí thức, vì học thức là một việc, trí thức lại là việc
khác) khi mới tìm đạo, đều ưa thích những lý luận cao siêu huyền diệu. Sự ưa
thích đó không phải là điều lỗi. Nhưng phần nhiều họ lầm lạc chấp theo Thiên
Không, chưa dung hội được giữa Không và Có, bài bác nhân quả sự tướng, nên hầu
như thành một căn bịnh trong khi học đạo. Ðối với môn Tịnh Ðộ, họ chưa thấu đáo
được sự cao diệu của pháp này nên khi thấy những kẻ tối dốt, hạng bình dân cũng
tu hành được, lại xem thường cho là pháp thấp kém. Chư đại thiện tri thức thấy
sự lầm lạc tà kiến đó mới thẳng thắn bác phá, chỉ bày. Vì thế Tổ Triệt Ngộ đã
dẫn những chứng minh trên để cảnh giác, ngụ ý bảo: "Nếu Tịnh Ðộ là thấp
kém, tại sao từ chư Phật, Bồ Tát, cho đến chư Tổ, các bậc đại long tượng bên
Tông lẫn bên Giáo đều ngợi khen khuyến khích, hoặc thân thiết phụng hành?"
Ðiều thứ hai: Các vị thông minh kiến thức trên, khi luận đạo thường
nói những lý luận siêu huyền, để tỏ ra mình là những người hiểu rộng tu cao.
Nhưng họ lại không tự xét rằng: Về phần thật hành, mình có làm được một phần
nào đối với những lời nói đó chăng? Nhứt là buổi đi sâu vào thời mạt pháp này,
người tu căn cơ non kém, nghiệp chướng nặng nề, dùng những hình thức dễ làm như
niệm Phật tụng kinh, mà kẻ hành đạo tại gia lẫn xuất gia còn vọng niệm rối ren,
nay chầy mai trễ, huống chi là sự nhiếp tâm nơi định trong tất cả thời, tất cả
hành động nói năng? Bút giả từng nghe một vài vị tu học về Thiền khi luận đến
sự hành trì, thường dẫn lời của những chư Tổ hoặc các bậc tôn túc thời xưa mà
trạng huống cho lối tu của mình và còn ra vẻ đắc ý. Chẳng hạn như câu:
"Viên bão tử quy thanh chướng lý.
Ðiểu hàm hoa lạc bích nham thiền!"
(Vượn ôm con chuyền về rặng núi xanh.
Chim ngậm hoa sa trước gộp đá biếc).
Hoặc như:
"Nhập lâm bất động thảo.
Nhập thủy bất đạp ba".
(Vào rừng mà không làm động đến ngọn cỏ.
Xuống nước nhưng chẳng đạp sóng nước).
Các vị đó không xét lại hai câu trước là tâm cảnh của
ngài Giáp Sơn, chớ chẳng phải cảnh giới của mình. Thỉnh thoảng có việc chi
xúc động thì các vị liền tỏ vẻ phiền hà, tức giận. Thế là cỏ cây đã động, chân
đã đạp sóng nước rồi đấy! Trước tệ trạng lạc lầm lạc rộng đó, chư thiện tri
thức vì xót thương, vì muốn cứu vãn đạo pháp nên mới thẳng lời phê trích, cho
hành động ấy là Cuồng Thiền. Và các ngài còn nói đến hạng Cuồng Mật nữa mà nếu
có dịp, sau này bút giả sẽ dẫn giải.
Ðể kết luận, cần nhấn rõ thêm là những điều nói trên tuyệt không có ý bài bác
Thiền, Mật. Thiền và Mật là hai pháp môn cao siêu, và thật ra Thiền, Mật, Tịnh
cả ba đều có đặc điểm riêng, cần tu học để hỗ trợ cho nhau. Chẳng hạn như khi
trì chú theo của chân ngôn, Phật hiệu huân sâu vào tạng thức, kích động cho
phiền não nổi dậy, phương pháp làm lắng động hữu hiệu nhứt không chi hơn Thiền.
Trong lúc tham thiền hoặc niệm Phật, ma chướng trong ngoài khuấy rối, cách hàng
phục kiến hiệu mau lẹ nhứt, không chi hơn Mật. Và muốn giải quyết việc lớn là
sống chết luân hồi một cách thẳng tắt chắc chắn nhứt, lại không chi hơn Tịnh.
Luận cho cùng mỗi môn tự hàm đủ công năng của ba, song đó là ứng dụng của bậc
trình độ cao siêu. Còn với bậc sơ cơ non kém, thật ra vẫn có sự sai biệt. Ví
như bậc Tổ Sư về võ, dù sử dụng côn, chùy, kiếm, sự lợi hại vẫn đồng như nhau. Nhưng với hạng võ
nghệ thông thường thì tác dụng của ba môn binh khí kia lại có sai biệt.
Nếu chẳng thế, trong võ lâm cần chi bày ra ba môn ấy cho thêm phiền!
Cho nên trong thời mạt pháp, theo thiển ý nên lấy Tịnh Ðộ làm chánh yếu, Thiền,
Mật làm phụ trợ. Hoặc nếu có tu Thiền hay Mật cũng nên niệm Phật nhiều ít hồi
hướng về cõi Cực Lạc ở Tây phương.
Phật thương chúng ta mê muội. Mê muội cái gì? Mê muội chấp thân
hư giả, tạm bợ là mình thật; chấp tâm bóng dáng cho là tâm mình thật. Cứ bao
nhiêu đó mà bám cả đời, chạy ngược chạy xuôi theo hai cái đó. Bây giờ mình biết
thân này là duyên hợp hư giả, như mỗi đêm quý vị tụng Bát Nhã nhớ chiếu kiến ngũ uẩn giai
không đó. Thân năm uẩn này không thật thì mình đã có trí tuệ rốt ráo rồi. Tâm
lăng xăng đó mình biết là hư vọng, là giả dối gọi là vọng tưởng không theo nữa.
Chúng ta buông không theo hai cái mê lầm đó để thấy được cái chân thật.
Người nào thân này giả dối mà tưởng là thật, tâm vọng tưởng là
bóng dáng mà tưởng là tâm mình thật, thì người đó gọi là người gì quý vị xác định dùm tôi coi? Thử nói coi. Chắc không
dám nói quá, nói sợ thấy buồn. Thân không thật mà tưởng thật là trái lẽ thật rồi,
còn tâm là bóng dáng mà tưởng là thật thì cũng trái lẽ thật rồi. Người thấy trắng
là đen thì nói người đó người gì? Người mê. Hiện giờ chúng ta si mê nhiều ít? Gần
như trọn vẹn, ai cũng bị cái đó hết, thấy không đúng lẽ thật mà bám vào đó. Cho
nên Phật mới thương chúng sanh vì si mê. Phật thương mình là vì si mê đó, chớ
Phật không thương mình đói, mình rách, mà thương mình si mê. Đói rách mình ráng
làm thì có ăn, có mặc, còn si mê này thì không biết chừng nào mà hết. Vì vậy mà
Phật mới dạy mình tu để được giác ngộ.
GIÁC NGỘ TÂM
Chúng sanh thường chấp sắc thân này là
ta, tâm thức có hiểu biết, có buồn giận thương vui là ta. Nhưng thật ra, sắc
thân này giả dối, ngày kia khi chết đi nó sẽ tan về với đất bụi, nên thân tứ
đại không phải là ta. Tâm thức cũng thế, nó chỉ là thể tổng hợp về cái biết của
sáu trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, như một người trước kia dốt, nay
theo học chữ Việt, tiếng Anh, khi học thành, có cái biết về chữ Việt, tiếng
Anh. Lại như một kẻ chưa biết Ba Lê, sau một dịp sang Pháp du ngoạn, thu thập
hình ảnh của thành phố ấy vào tâm. Khi trở về bản xứ có ai nói đến Ba Lê, nơi
tâm thức liền hiện rõ quang cảnh của đô thị ấy. Cái biết đó trước kia không,
khi lịch cảnh thu nhận vào nên tạm có, sau bỏ lãng không nghĩ đến, lần lần nó
sẽ phai lạt đến tan mất hẳn, trở về không. Cái biết của ta khi có khi không,
hình ảnh này tiêu, hình ảnh khác hiện, tùy theo trần cảnh thay đổi luôn luôn,
hư giả không thật, nên chẳng phải là ta. Cổ đức đã bảo: "Thân như bọt tụ,
tâm như gió. Huyễn hiện vô căn, không tánh thật." Nếu giác ngộ thân tâm
như huyễn, không chấp trước, lần lần sẽ đi vào cảnh giới "nhơn không"
chẳng còn ngã tướng. Cái ta của ta đã không, thì cái ta của người khác cũng
không, nên không có nhơn tướng. Cái ta của mình và người đã không, tất cái ta
của vô lượng chúng sanh cũng không, nên không có chúng sanh tướng. Cái ta đã
không, nên không có bản ngã bền lâu, không thật có ai chứng đắc, cho đến cảnh
chứng thường trụ vĩnh cữu của Niết Bàn cũng không, nên không có thọ giả
tướng. Đây cần nên nhận rõ, chẳng phải không có thật thể chân ngã của tánh Chân
Như thường trụ, nhưng vì thánh giả không chấp trước, nên thể ấy thành không.
Nhơn đã không, thì Pháp cũng không, vì
sự cảnh luôn luôn đổi thay sanh diệt, không có tự thể. Đây lại cần nên nhận rõ
chẳng phải các pháp khi hoại diệt mới thành không, mà vì nó hư huyễn, nên đương
thể chính là không, cả Nhơn cũng thế. Cho nên cổ đức đã bảo: "Cần chi đợi
hoa rụng. Mới biết sắc là không" (Hà tu đãi hoa lạc. Nhiên hậu thỉ tri
không).
Hành giả khi đã giác ngộ Nhơn và Pháp đều không, thì giữ lòng thanh tịnh trong sáng không chấp trước mà niệm Phật. Dùng lòng giác ngộ như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm.
Ba cõi không an dường hỏa trạch
Đâu miền chân lạc khỏi tang thương?
Người vô thường,
Cảnh vô thường!
Khuyên gọi cùng nhau tỉnh mộng
Quay về bể giác thanh lương.
Khởi lòng bi trí
Nguyện độ mười phương.
Ba tăng kỳ kiếp tu muôn hạnh.
Bền lòng không thối chuyển
Cầu ngôi vị Pháp Vương!
Bây giờ nếu thấy thân này không thật, thấy tâm niệm khởi suy
nghĩ là bóng dáng không thật, thì quý vị
gọi người đó là người gì? Người đó là người giác. Bên kia là người mê,
bên đây là người giác. Thấy đúng như thật đó là giác ngộ, giác ngộ thì hết khổ,
còn si mê là còn khổ. Bởi si mê chấp thân này là thật nên chúng ta mới giành
nhau từng phần vật chất, người nào được thì khôn, người nào thua thì dại. Rồi
giành nhau từng lời ăn, tiếng nói, từng cái nghĩ suy. Ai nghĩ cái gì cũng nói
cái nghĩ mình đúng, người khác cải cái cự, nổi giận sân lên. Như vậy khổ vì đòi
hỏi nhu cầu của thân mà giành giựt nhau, khổ vì cái phân biệt cho cái nghĩ mình
là đúng, nghĩ người khác là sai mà tranh đấu với nhau không cùng. Vì mê nên
chúng ta khổ.
Bây giờ biết thân này không thật, thì giả sử mình muốn mua trái
cam, trái quít gì đó nó đang vừa ý mình. Mình trả giá chưa xong, có người khác
lại trả giá cao hơn mình một chút họ mua được, mình mất phần giận không? Bao
nhiêu đó giận rồi, phần của mình lẽ ra mình mua mình chọn cái đó vừa ý. Nhưng
người ta lại cướp mất phần đó, cái mình tức lên cự. Còn mình nói thế này là
đúng, mà người khác nói sai thì cũng nổi giận lên. Như vậy thì bám vào nhu cầu
vật chất mà tranh giành nhau, bám vào suy nghĩ cho mình là chân lý rồi cải lộn
nhau, tất cả cái khổ đều từ cái đó mà ra.
Vậy mê là khổ, bởi vậy nên Phật mới nói chúng sanh đau khổ đó.
Miễn còn mê là còn khổ.
Nếu quý vị thấy thân này
không thật, cái suy nghĩ của mình không bảo đảm là đúng, nó là hư giả, thì khi quý
vị bị ai nói nặng anh này ngu quá, hay
chị này ngu quá, giận không? Quý vị giận
không? Mình vầy mà nói ngu, tức. Nhưng còn thấy sai sự thật là còn ngu, mê tức
là ngu chớ gì. Cứ chào, ờ phải tôi ngu, vì thân giả mà tôi tưởng là thật. Nếu
thân giả tưởng là thật mình ngu, còn người nói mình ngu đó họ thấy thân thật
hay giả? Cũng thật, thì anh cũng ngu như tôi chớ gì. Như vậy có gì đâu mà giận,
chúng ta đều là bọn ngu mê với nhau, có gì đâu mà giận hờn. Còn này mình cứ ngở
mình khôn, nên ai nói ngu mình nổi tức lên. Mình có khôn thật đâu, có giả tưởng
là thật mà khôn, khôn chỗ nào?
Quý vị thấy như hoa cúc
trên bàn, hoa trắng. Có đứa bé nào lại nói hoa này đen thui hà, quý vị giận không, chê nó ngu không? Trắng mà nói nó
đen kỳ vậy, ngu quá. Mình thân giả mà nói thật thì có giống nó không. Vậy đó mà
ai cũng khổ. Cho nên Phật nói chúng sanh vì mê mà khổ. Mê là gốc của đau khổ. Nếu
mình giác rồi thì cười thôi không có gì là quan trọng. Mình suy nghĩ thế này
nói ờ phải làm thế này mới trúng, người khác nghĩ ngược lại làm như họ vậy mới
đúng, thì mình cũng cười chơi, đây là cái nghĩ bóng dáng có thật đâu mà trúng
mà sai, bỏ dễ ợt. Còn này mình nói nghĩ của mình là chân lý rồi không khác được,
nên ai nghĩ khác cái cự. Trong nhà vợ chồng cải lộn nhau cũng vì cái bất đồng ý
đó, cải lộn rồi cứ khi làm khổ nhau nữa.
Như vậy để thấy trên thế gian chúng ta vì mê lầm mà chúng ta đau
khổ dồn dập. Một khi chúng ta thức tỉnh rồi, tỉnh giác rồi thì chúng ta hết khổ
ngay. Tỉnh giác với mê, quý vị thấy cách
nhau bao xa? Thấy thân này là thật với thấy thân này là giả, thấy tâm suy nghĩ
là thật với thấy tâm suy nghĩ là bóng dáng, hai cái đó cách bao xa? Từ cái này
đổi qua cái kia đi chừng bao nhiêu cây số? Rất là dễ, thấy thân thật, ủa thân
này giả cái rồi. Cái tâm suy nghĩ mình cho nó là chân lý, giờ ủa nó là bóng đâu
có thấy, tìm nó mất tiêu nó là cái bóng, thì trong chớp mắt là mình chuyển được
liền, không có khó. Vậy đó mà nói tu muôn kiếp mới được. Tu làm sao? Mình cứ tu
trong cái mê lầm, cứ tụng kinh có phước, cứ niệm Phật có phước, thì như vậy cứ
cầu phước hòai. Nhưng cầu phước để chi? Để cho thân này sau sanh ra tốt hơn bây
giờ. Nhưng tốt rồi nó cũng chết queo hà, chớ nó có sống đời đâu. Rồi cứ tu như
vậy đời sau khôn hơn đời này một chút. Như vậy là chúng ta tu ở trong mê lầm,
chớ không tu trong giác ngộ. Tu trong mê lầm thì phải trải qua ba vô số kiếp mới
thành Phật.
Còn tu cái này ngay trong khảy móng tay chuyển mê thành giác, mà
mê là chúng sanh giác là Phật mất rồi. Phật với chúng sanh không cách bao xa hết.
Vậy mà chúng ta không ưng làm. Bây giờ có vị nào ưng làm như vậy không? Giơ tay
tôi coi. Ưng làm chúng sanh chớ không ưng làm Phật. Như vậy mà cầu Phật độ gì,
Phật độ sao cho nổi. Phật chỉ đàng này, mình đi đàng kia mà bảo Phật độ.
Đó là những cái sai lầm tôi chỉ cho quý vị thấy. Thật ra những cái này ít người dám nói,
mà không dám nói thì chúng ta chấp nhận đi trong mê lầm muôn kiếp. Bây giờ quý
vị thử thấy thân này không thật, thấy
tâm suy nghĩ mình không thật, thì chừng một tuần lễ coi quý vị có cải lộn với ai không. Còn nếu thấy thật
thì không bảo đảm. Đang vui đó mà ai nói trái tai thì nổi giận đùng đùng lên liền.
Như vậy thì tham sân si đều gốc từ thấy thân thật, thấy tâm thật
mà ra. Nếu mình thấy thân không thật, tâm không thật thì đâu có tham sân si,
như vậy thì tất cả phiền não theo đó tan biến, chỉ đổi cái nhìn. Đổi cái nhìn
thì quý vị nghĩ bao lâu? Hết sức là dễ,
không có gì ngăn trở hết, không nói thời gian, không nói có cái này chướng cái
kia chướng, không có gì hết. Chỉ cần thay đổi cái nhìn thì từ mê trở thành
giác.
Giờ quý vị kiểm nghiệm lại
coi chỗ tôi nói có lẽ thật hay không? Chịu khó đổi một cái, thì từ thấy thân
này thật, thấy tâm suy nghĩ là bóng dáng không thật. Bao nhiêu đó thì quý vị so với bao nhiêu người khác tu năm năm, mười
năm tụng kinh, niệm Phật, lạy Phật đầu gối chai thôi mà còn thấy thân thật, với
tâm suy nghĩ thật thì hai người, người nào hơn. Ông này lạy Phật nhiều, tụng
kinh nhiều mà động tới ông thì sân. Còn người này không tụng kinh niệm Phật, mà
biết nó giả rồi chửi cũng cười thôi, thì ai tu hơn ai? Như vậy thì quý vị tốn công ít mà kết quả nhiều. Vậy mà sao
chúng ta không chịu làm. Đó là điều cụ thể trăm phần.
Bởi vậy cho nên ở đây mới nói rằng, cái đó không phải là sắc,
không phải là tâm, không phải là hạnh nghiệp. Nhận được cái đó rồi chỉ trong khải
móng tay thì đủ hết tám muôn bốn ngàn pháp môn. Rồi chỉ trong sát na là chốc
lát, diệt hết tất cả nghiệp. Nó dễ như trở bàn tay, nó thảnh thơi nhẹ nhàng, mà
tôi cũng không biết nói làm sao bà còn mình không chịu nhận cái đó. Nói thì
nghe, nhận mà sống thì không chịu.
Bây giờ quý vị đặt chữ tu
lại cho tôi nghe coi. Tu là sao? Tu là sửa từ từ, phải không. Bửa nay giận mười,
mai còn tám, mốt còn chín, tu như vậy thì ba vô số kiếp mới hết. Còn tu này là
chuyển, từ mê chuyển thành giác, chuyển cái một hà. Như vậy cái chuyển nó mau,
cái sửa từ từ nó rất chậm. Cho nên có chỗ Phật nói tu ba vô số kiếp mới thành
Phật, có chỗ thì Phật nói nhanh như trở bàn tay. Đó là hai cái để cho quý vị thấy cái siêu thoát của người tu được đốn ngộ.
Nhất thiết số cú phi số cú,
Dữ ngô linh giác hà giao thiệp?
Tất cả những câu nói, những lời, những số đều không phải là thật.
Vì sao nó không phải thật? Vì cùng với linh giác của mình nó không dính dáng gì
hết. Bây giờ chúng ta tu thì cứ nghĩ phải thuộc lòng cái này, thuộc lòng cái
kia. Nhưng tất cả những văn tự, những câu số gì đó, nó đều là không thật hết,
vì nó không phải là linh giác của mình. Đối với linh giác của mình thì nó sẳn
sàng, không có ngôn ngữ, không có câu lời gì hết.
CHÁNH VĂN :
Bất
khả hủy, bất khả tán,
Thể
nhược hư không vô nhai ngạn,
Bất
ly đương xứ thường trạm nhiên,
Mịch
tức tri quân bất khả kiến.
Thủ
bất đắc, xả bất đắc,
Bất
khả đắc trung chỉ ma đắc.
Mặc
thời thuyết, thuyết thời mặc,
Đại thí môn khai vô ủng tắc.
GIẢNG :
Bất khả hủy, bất khả tán, Đây
cái chân thật đó hay cái linh giác của mình đó không thể hủy hoại được, mà cũng
không cần tán thán nó. Tại sao? Thể nhược
hư không vô nhai ngạn. Vì cái thể nó như hư không, không có bờ mé. Như khi
nảy tôi nói cái quý vị thấy được mọi người,
cái quý vị nghe được tất cả tiếng, cái
hay nghe hay thấy đó tướng mạo làm sao? Con mắt thì có tướng mạo, lỗ tai thì có
tướng mạo, nhưng cái hay thấy hay nghe đó tướng mạo làm sao? Cho nên nói thể giống
như hư không, không có tướng mạo, mà có nghe có thấy không? Có nghe thấy rõ
ràng, mà hỏi tướng mạo làm sao không nói được. Đó mình có một cái như vậy mà
không tướng mạo thì có cái gì phá hoại nó được. Có tướng mạo thì bị vô thường,
mà nó không tướng mạo làm sao vô thường.
Chỗ này tôi nhắc lại Lục Tổ Huệ Năng ngài chủ trương: Vô niệm vi
tông, Vô tướng vi thể, Vô trụ vi bổn. Vô niệm tức là tâm mình không dấy khởi
nghĩ suy. Cái không nghĩ suy đó nó không có tướng nên gọi là vô tướng vi thể,
nó không có tướng mà thể nó trùm khắp. Vô trụ là không vướng mắc với sáu trần.
Đó là chủ trương mà Lục Tổ đã giác ngộ được, ngài chỉ cho mình.
Ở đây thiền sư Huyền Giác cũng ngộ được chỗ đó mên ngài nói rằng
cái đó không thể khen, không thể chê gì hết. Vì sao? Vì thể nó giống như hư
không, không có ngằn mé.
Giờ tôi nhắc một lần nữa cho quý vị thấy cái quí của người tu. Khi quý vị nghĩ suy phăng tìm lại nghĩ suy không có, nó
mất. Khi quý vị không nghĩ suy gì hết mà
hằng biết như nảy giờ tôi nói ở mắt, ở tai. Còn bây giờ nói ngay ở nội tâm mình
khi mình không nghĩ suy mà lúc đó mình có biết không? Cái biết mà không nghĩ
suy đó, nó không có giới hạn. Nếu nó có giới hạn thì nó phải có hình tướng, mà
nó không hình tướng làm sao giới hạn. Cho nên nói thể của nó giống như hư không
không có bờ mé.
Bất ly đương xứ thường trạm nhiên, tức
không rời ngay chỗ này mà nó thường lặng lẽ. Như vậy quý vị ai có cái đó không? Chắc là ai cũng có hết,
ai cũng có một cái hiện tiền đầy đủ mà không chịu biết, có mà không biết.
Thí dụ như ông cha già chia cho các con mỗi đứa một hủ vàng hay
một hòn ngọc quí. Ông nghĩ rằng hủ vàng hay hòn ngọc đó đủ cho gia đình các con
sống rồi. Chia xong xuôi hết nhưng ông sợ con còn nhỏ, đưa cho nó không biết
xài làm mất mát tội nghiệp. Ông mới đem chôn vàng hay ngọc ở gốc cột này, gốc cột
kia, mỗi chỗ. Đây là thằng A gốc cột này, thằng B gốc cột kia… và chỉ cho các
con hết rồi ông yên lòng. Bây giờ ông bệnh thì mấy đứa nhỏ lại hỏi bây giờ ba
chia của con ở đâu? Chỉ chỗ đó đó. Nhưng mấy đứa lớn biết bươi ra lấy, còn mấy
đứa nhỏ không biết rồi nó quên luôn. Nó thấy anh chị nó giàu quá mà nó không có
gì hết nên buồn khổ trách ba má sao không chia của cho nó. Quý vị thấy những đứa chia rồi chỉ chỗ mà nó không
chịu lấy, rồi nó buồn trách thì ông cha sẽ nói làm sao? Tụi con có sẳn phần mà
không lấy thì đó là tại tụi con, chớ cha có chia rồi, đừng khờ dại vậy. Thương
rầy vì nó khờ dại, chớ nếu nó sáng suốt nó bươi nó lấy.
Phật thương chúng ta sao? Si mê, tức khờ dại quá, chỉ hoài có
cái đó. Phật có cái đó Phật lấy ra được, dùng được nó thì được giác ngộ giải
thoát sanh tử. Bởi vì cái đó không hình không tướng, làm sao mà chết sống, là
giải thoát sanh tử. Nhận được cái đó là giác, từ giác ngộ mình được giải thoát
sanh tử. Còn cái này chỉ cho mà không chịu, cứ bám vào cái thân tạm bợ, bám vào
vọng tưởng hư dối, cứ bám vào hai cái đó làm mình hoài thì chừng nào mà giác ngộ,
chừng nào mà giải thoát. Như vậy quý vị có
khả năng giải thoát không? Có khả năng giác ngộ không? Ai cũng có hết mà sao
không chịu giác! Có mà để đó thôi, để trong tủ khóa kín lại chớ không chịu
giác. Chúng ta có cái đó tại sao chúng ta không giác? Bởi vậy nên ngài nhắc: Bất
ly đương xứ thường trạm nhiên, nó hiện tiền đây, nó không có thiếu vắng lúc nào
hết.
Mịch tức tri quân bất khả kiến. Là nếu
muốn tìm nó thì không bao giờ thấy. Vì nó đâu có tướng mạo, chỉ lặng hết vọng
tưởng thì nó hiện ra. Bây giờ tìm coi tánh giác mình ở chỗ nào thì càng tìm
càng mất. Sao vậy? Vì tánh giác là mình, mà mình tìm nó thì nó là vật ở ngoài rồi,
cho nên tìm thì không thể được.
Những lời này rất là chân thành, rất là cứu kính, chúng ta nghe
ráng tìm hiểu và nhận cho sâu.
Thủ bất đắc, xả bất đắc, Cái
chân thật đó mình giữ cũng không được, bỏ cũng không được. Nói bây giờ thôi tôi
bỏ tánh giác tôi đi, bỏ được không? Nó sẳn, nó của mình, còn mình là còn nó bỏ
không được. Bây giờ nói rằng tôi giữ nó thì làm sao mà giữ? Cho nên cái này bỏ
không được mà giữ cũng không được, mà nó thường hằng.
Bất khả đắc trung chỉ ma đắc. Trong
cái chỗ không thể được đó chỉ thế mà được. Chỉ thế là sao? Buông hết vọng tưởng
thì nó hiện ra, chớ không gì hết. Đừng chạy theo vọng tưởng thì nó hiện chớ
không gì lạ hết.
Như vậy thì ngài chỉ tột cùng cái chân thật ai cũng có. Muốn thấy
được cái chân thật thì buông cái lăng xăng lộn xộn đó thì cái chân thật hiện.
Bây giờ quý vị thử can đảm như đi một đoạn
đường một câu số, mà quý vị cấm trong một
cây số này không cho nghĩ gì hết, quý vị
biết đường đi không? Biết. Ai dẫn đường mình đi? Không suy nghĩ như
không có tâm rồi, nhưng thật ra mình biết, mình thấy rõ ràng mình đi đều đặn.
Như vậy cái chân thật nó hiện tiền, chớ đâu phải đợi suy nghĩ mới biết đường
đi. Vậy đó mà chấp nhận suy nghĩ chớ không chấp nhận cái kia. Đó là điều hết sức
đáng buồn.
Mặc thời thuyết, thuyết thời mặc, tức
là khi im lặng là nói, khi nói tức là im lặng. Như nảy giờ tôi nói ồn ào là nói
cái gì, quý vị biết không? Tôi nói cái
im lặng của quý vị đó. Còn quý vị nhiều khi nói tôi tìm chân lý gì gì đó, nói ồn
ào mà không có chân lý chút nào hết. Cho nên nói mà không nói, không nói mà
nói.
Đại thí môn khai vô ủng tắc. Tức
cái bố thí lớn này mở cửa chớ không có đống, không có bế lúc nào hết. Cửa đại
thí mở toát, mở rộng, không đống, không bít, mà người nhận được, người hiểu được
lại ít.
CHÁNH VĂN :
Hữu
nhân vấn ngã giải hà tông,
Báo
đạo Ma ha Bát Nhã lực.
Hoặc
thị hoặc phi nhân bất thức,
Nghịch
hành thuận hành thiên mạc trắc.
GIẢNG :
Hữu nhân vấn ngã giải hà tông, Nếu có
ai hỏi ta hiểu tông gì, Báo đạo Ma ha
Bát Nhã lực. Thì ta sẽ trả lời rằng đó là sức của Ma ha Bát nhã, tức là cái
sức của trí tuệ Bát nhã. Quý vị có ai
không thuộc kinh Bát Nhã không? Chắc đa số thuộc kinh Bát Nhã. Kinh Bát Nhã mở
đầu vô thì “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Bây giờ có không chưa? Bây giờ nếu
nói theo thế gian thì quý vị “chiếu kiến
ngũ uẩn giai hữu”, đều có hết chớ không có không. Năm uẩn này không thật, không
thật nên Phật nói là không. Mình bây giờ lại thấy có nên ngược với cái gì Phật
nói hết.
Còn ngài, bây giờ hỏi ngài tu với cái tông gì, hiểu tông nào?
Thì ngài nói ta hiểu được tông Bát nhã, đó cái sức của Bát nhã mà ta thấy được
như vậy. Bát nhã là trí tuệ thấy đúng như thật.
Hoặc thị hoặc phi nhân bất thức, Khi
người nhận được trí tuệ Bát nhã tột cùng đó rồi thì hoặc là phải, hoặc là quấy,
người đời họ không thể nào biết nổi.
Nghịch hành thuận hành thiên mạc trắc.
Có khi làm hạnh nghịch, có khi làm hạnh thuận, giờ chư thiên
cũng không lường nổi. Bởi vì khi các vị Tổ sư thấu triệt cái lý này rồi, thì
các ngài có khi nói những lời rất hiền từ, có khi nói những lời rất thô tháo,
nghịch thuận đủ hết.
Thí dụ như các thiền sư hồi xưa, ngài Đức Sơn ai hỏi thế nào là
Phật thì ông đập cho một cái bốp bằng gậy. Dễ chịu không! Như vậy là thương
mình hay ghét mình? Còn những thiền sư hỏi thế nào là Phật thì im lặng không
nói câu nào hết. Như vậy mình thấy như là các ngài không có thương, truyền đạo
gì lạ đời. Hỏi thế nào là Phật? Phật là cái sẳn hay thấy, hay nghe của chính
mình mà còn hỏi thì hỏi cái gì. Vừa hỏi thế nào là Phật mà cắt nghĩa Phật thế
này, thế kia là đi xa. Cho nên đánh một cái giựt mình, à cái mình biết hỏi, cái
mình biết thấy đó. Các ngài chỉ trở ngược lại mà mình không hay. Còn hỏi thế
nào là Phật mà ngồi im lặng. Im lặng tức là gì? Vừa mở miệng nói là trật rồi, cứ
trở về là trúng hà, không gì hết.
Như vậy các ngài làm hành động này, hành động khác, tuy thuận
nghịch đủ thứ hết, nhưng không ngoài trí tuệ Bát nhã của quí ngài muốn chỉ chỗ
chân thật cho chúng ta.
CHÁNH VĂN :
Ngô
tảo tằng kinh đa kiếp tu,
Bất
thị đẳng nhàn tương cuống hoặc,
Kiến
pháp tràng, lập tông chỉ,
Minh
minh Phật sắc Tào Khê thị.
GIẢNG :
Ngô tảo tằng kinh đa kiếp tu,
Bất thị đẳng nhàn tương cuống hoặc,
Tảo là sớm, tằng là từng. Tôi đã sớm từng có nhiều kiếp tu. Bởi
nhiều kiếp tu nên bây giờ nghe mới nhận được như vậy. Cái nhận, cái hiểu của
tôi đó là lẽ thật, chớ không phải khi rảnh rang mà nói gạt nhau, lường gạt
nhau. Không phải đem lời thường dối gạt quý vị
đâu. Đó là do duyên tốt của tôi xưa đã từng tu nhiều kiếp, cho nên bây
giờ nghe thấy tôi nhận được. Bởi nhận được nên đem chỉ dạy cho quý vị, chớ
không phải tôi nói lừa, nói gạt quý vị đâu.
Kiến pháp tràng, lập tông chỉ, Kiến
pháp tràng là lập pháp tràng, lập tông chỉ tức lập đường lối tu.
Minh minh Phật sắc Tào Khê thị. Là
rõ ràng Đức Phật bảo ra lệnh cho ngài Tào Khê tức Lục Tổ Huệ Năng. Chữ sắc là bảo,
là ra lệnh.
Như vậy đường lối tu thiền này của ngài Huyền Giác tức là thiền
tông, đó là đường lối của Lục Tổ Huệ Năng đi đúng như hướng của Phật chỉ dạy.
CHÁNH VĂN :
Đệ
nhất Ca Diếp thủ truyền đăng,
Nhị
thập bát đại Tây Thiên ký.
Pháp
Đông lưu, nhập thử thổ,
Bồ
Đề Đạt Ma vi sơ tổ.
Lục
đại truyền y thiên hạ văn,
Hậu
nhân đắc đạo hà cùng số.
GIẢNG :
Tức là từ Phật chỉ cho Tổ Huệ Năng ở Tào Khê. Bây giờ kể lại con
đường truyền bá Thiền tông này. Đệ nhất
Ca Diếp thủ truyền đăng, Người thứ nhất là Tổ Ca Diếp trong thời Đức Phật
còn tại thế, ngài ngộ ở trong hội Linh Sơn. Nhị thập bát đại Tây Thiên ký.
Sau đó là hai mưới tám vị Tổ ở Ấn Độ còn ghi rõ. Pháp Đông lưu, nhập thử thổ, Khi pháp
thiền truyền qua Đông độ tức Trung Hoa, Bồ
Đề Đạt Ma vi sơ tổ. Khi vào Trung Hoa rồi thì vị đầu tiên là Bồ Đề Đạt Ma,
ngài là người Ấn sang Trung Hoa truyền thiền ban đầu. Lục đại truyền y thiên hạ văn, Tiếp theo đó sáu đời truyền y thì ai
cũng đều biết hết. Hậu nhân đắc đạo hà
cùng số. Người sau ngộ được đạo lý này số tính không thể kể hết, không thể
kể hết được số đó. Đó thì đoạn này dễ, nói về lịch sử.
CHÁNH VĂN :
Chân
bất lập, vọng bổn không,
Hữu
vô câu khiển bất không không,
Nhị
thập không môn nguyên bất trước,
Nhất
tánh Như Lai thể tự đồng.
GIẢNG :
Chân bất lập, vọng bổn không, Cái việc
làm này, đạo lý này là đạo lý không có lập chân hay vọng. Tại sao? Bởi vì ở thế
gian chúng ta nói cái gì, làm cái gì thì nằm ở trong cái đối đải, có phải có quấy,
có tốt có xấu, luôn luôn là đối đải. Hoặc là trắng là đen, hoặc là ngày là đêm,
hoặc là nam là nữ, tất cả đều có đối đải. Cái gì đối đải đều không thật. Cho
nên ở đây ngài nói cái chân cũng không lập, mà cái vọng vốn là không.
Hữu vô câu khiển bất không không, Có và
không đều dẹp hết, nó không cái không không nữa. Trong hai mươi hai môn không đều
không vướng mắc.
Nhị thập không môn nguyên bất trước,
Trong hai mươi hai cái không, trong đây nói là nội không, ngoại
không rất là đầy đủ. Hai mươi cái không thì trong đây nói hai mươi cái không là
trong kinh Bát nhã nói rõ, chúng ta không hơi đâu mà kể cho hết. Thường thường
chúng ta hay nói nội không và ngoại không là cái chuyện ở trong ở ngoài, rồi tiếp
nữa là nội ngoại không..v.v…
Nhất tánh Như Lai thể tự đồng. Một
tánh Như Lai thể tự đồng. Chỉ còn một tánh Phật, cái thể đồng như vậy thôi.
Như vậy thì cái thể chân thật đó, không nói là chân, không nói
là vọng, không nói là có, không nói là không. Tất cả những cái đó đều dẹp hết.
Vì sao? Vì tánh Như Lai thể tự đồng, không phải là một bên, không phải là bên
này bên kia.
Bởi vậy cho nên tôi thấy cái chỗ đặc biệt mà Tổ Huệ Năng truyền
bá lần đầu tiên. Tức là kể lại câu chuyện khi ngài ôm y bát trốn về phương nam
thì có một đoàn tăng đuổi theo để giựt lại, người đi đầu là Thượng tọa Minh.
Khi ông tới rồi, Tổ biết người ta đuổi theo kịp ngài để y bát trên bàn thạch, rồi
vô bụi lùm trốn. Ông tới thấy y bát tọai nguyện rồi, ôm lên nhưng giở không nổi
thì biết rằng đây cái mầu nhiệm của đạo, không phải người vô phước, vô đức mà
nhận được. Cho nên ông quí phục, mới tuyên bố rằng, tôi tới đây là vì pháp chớ
không phải giành y bát. Nghe nói vì pháp thì Tổ ở trong ngài ra. Ngài nói nếu
ông thực tâm cầu pháp thì đứng yên lặng giây lâu tôi sẽ nói cho. Ông đứng yên lặng
giây lâu, Tổ bảo: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục
của Thượng tọa Minh”. Ngay câu đó ông ngộ liền.
Bây giờ tôi lập coi quý vị
có ngộ không nghe: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai
diện mục của tất cả quý vị”. Êm ru, không ngộ chút nào hết.
Cái này có gì lạ đâu, còn nghĩ thiện còn nghĩ ác là hai bên,
buông tất cả cái hai bên thì bộ mặt thật hiện ra. Cái chân thật muôn đời của
mình nó có sẳn, bởi chạy theo cái nghĩ hai bên nên nó mất tiêu. Bây giờ quý vị ngồi lại hỏi bàn chuyện với nhau là bàn cái
gì? Bàn cái hay cái dỡ, cái phải cái quấy. Mở miệng ra là hai bên. Không có hai
bên thì cái chân thật hiện tiền. Dễ quá ư là dễ, không trèo non lội suối gì hết,
chỉ buông cái hai bên thì quý vị thấy được
mặt thật muôn đời của mình. Mặt thật muôn đời là Phật tánh của mình, ngay nơi
đó chớ không đâu xa hết. Như vậy thì tu này nhanh mà dễ nữa. Vừa nhanh vừa dễ nữa
mà không chịu làm thì tôi không biết nói làm sao. Đâu phải chuyện gánh một ngàn
khối đá đem lên ngọn núi thì mình làm không nởi nó nặng nhọc quá. Còn cái này
chỉ buông cái chấp hai bên thì quý vị thành
Thánh mất rồi.
Cái chấp hai bên buông khó hay dễ? Đâu có gì khó. Đâu có ai nói
nếu buông cái đó thì ở tù, mình buông cái đó thì dễ. Như hai người ngồi nói
chuyện, nói câu chuyện đó xảy ra vậy vậy phải hay không? Phải. Phải tức có quấy.
Cứ như vậy chúng ta cứ cả ngày đối đáp qua lại trong cái hai bên không hà. Bây
giờ nói gì mình cười không có hai bên, mà không có hai bên thì người ta nói
mình sao? Khùng rồi, điên rồi. Không biết phải quấy gì hết, nhưng mà không biết
ai điên. Thôi thì người ta nói mình điên cũng cười thôi, điên thì cứ điên.
Ở đời cái khó tu không phải là việc làm khó, mà tại tập quán với
nếp sống con người ở đời đã quen như vậy, mình khác hơn thì họ không chịu. Bởi
vậy nên chư Tổ hồi xưa tới chỗ đó rồi phải như ngây như ngô đó, người ta tưởng
như người ngu người dại, nhưng sự thật đó là Thánh. Còn mình khôn quá mình phàm
mất tiêu. Càng khôn càng lanh thì càng phàm tục hơn nữa, càng tạo tội lỗi nhiều
hơn, chớ không phải hay gì đâu.
Bởi vậy nên không mắc kẹt ở hai bên, mà không mắc kẹt hai bên thì không có gì thật đối đải hết.
CHÁNH VĂN :
Tâm
thị căn, pháp thị trần,
Lưỡng
chủng do như kiến thượng ngân.
Ngân
cấu tận trừ quang thỉ hiện,
Tâm
Pháp song vong tánh tức chân.
GIẢNG :
Tâm thị căn, pháp thị trần, Tâm là
chỉ cho tâm suy nghĩ của mình đó. Tâm suy nghĩ đó nó phát hiện ra hay xuất phát
ra từ các căn. Tâm thị căn là tâm đó nó phát ra từ các căn. Như lỗ tai nghe tiếng,
nghe tiếng rồi suy nghĩ tiếng đó khen mình hay chê mình, thì đó là tâm nó phát
ra từ căn. Pháp thị trần tức là pháp ở ngoài như sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp là cái ngoài, nó thuộc về trần.
Lưỡng chủng do như kiến thượng ngân. Là
hai cái này giống như bụi trên mặt gương vậy đó. Như vậy gương nguyên nó là
trong, là sáng. Nhưng bụi cứ dồn dập lấp trên mặt thì gương còn trong còn sáng
không? Chúng ta ngày nay cứ căn trần tiếp xúc, tiếp xúc rồi vướng mắc. Vướng mắc
thì cứ thấy người xấu, nói người gì xấu quá; thấy người đẹp nói người này đẹp
quá. Khen chê vậy thì mỗi lần khen chê đó là một lần lấp bụi trên mặt gương của
mình.
Bây giờ quý vị thấy bụi
trên mặt gương mình dày hay mỏng? Dày cở nào? Mấy tấc? Bởi vậy cho nên nó tối
mò phải không, nó không có sáng được. Vì thấy cái gì thì dính cái nấy hà. Quý vị nhớ Lục Tổ ngộ ở câu nào?
“Bất ưng trụ sắc sanh tâm,
Bất ưng trụ thanh hương vị xúc pháp sanh tâm
Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”
Muốn phát tâm Vô thượng bồ đề thì đừng vướng mắc với sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp thì ngay đó Lục Tổ ngộ liền, đâu ngờ tánh mình lâu nay
thanh tịnh.
Còn mình nghe câu đó chừng mấy mươi lần mà không ngộ gì hết. Tại
sao vậy? Bởi vì nghe thì nghe mà còn vướng mắc ở sáu trần. Muốn hết vướng mắc
sáu trần phải thấy sáu trần không thật, sáu căn không thật thì còn gì vướng mắc.
Tại mình thấy trần thật, căn thật thì vướng mắc hoài. Quý vị thấy rõ không.
Bởi vậy cho nên Bát nhã dạy chúng ta nhìn thấy rõ tường tận cái
đó là không thật, mà không thật rồi thì hết vướng mắc, mà không vướng mắc nữa
thì tâm mình hoàn toàn trong sáng, cũng như cái gương không bụi.
Tôi thấy bây giờ gương của chúng ta mỗi ngày lấp thêm một lớp bụi,
ngày lấp thêm một lớp bụi, lấp hoài cho tới nhắm mắt không biết mấy chục lớp, mấy
ngàn lớp nữa. Bởi vậy nên rồi tối tăm đời này, tối tăm đời khác không bao giờ
sáng. Đó là vì cái vướng mắc của chúng ta.
Bởi vậy nên đây mới nói;
Ngân cấu tận trừ quang thỉ hiện,
Tâm Pháp song vong tánh tức chân.
Nghĩa là cái nhơ bợn trên mặt gương nó phủ che ánh sáng, mà mình
lau hết rồi, thì ánh sáng hiện chớ không gì hết. Còn tâm mình tức tâm phân biệt
hơn thua và pháp trần ở ngoài mình đừng có dính, hai cái không dính nhau thì
tánh chơn hiện ra rõ ràng.
Quý vị thử thí nghiệm đi,
mình tu không phải giờ ngồi thiền mới tu, mà giờ đi ra ngoài có thể cũng tu được.
Như đi ra chợ thấy người qua lại, thấy buôn bán đủ thứ hết, mà thấy thì thấy
không chú tâm vào cái gì, thì quý vị đi
giáp một vòng chợ trở về, hỏi anh hay chị đi chợ thấy cái gì thì trả lời làm
sao? Tôi không thấy gì hết. Đâu phải không thấy, thấy mà không chú tâm, không
chú tâm thì không vướng không mắc, không vướng mắc thì thấy như không thấy. Thấy
như không thấy thì về đâu có suy gẩm gì về chuyện đi chợ.
Còn này đi đâu mình thấy đó, thấy bán hoa đẹp khen bó hoa đó đẹp
quá. Hoặc thấy người làm cái gì lạ lạ cũng nhớ. Rồi về hỏi bửa nay đi chợ thấy
gì? Bửa nay tôi thấy hoa thật đẹp, thấy người đó cải lộn nhau gì gì đó, thành
ra cái thấy nó vướng trong này rồi, nó vướng mắc thì làm thành bụi rồi, che lấp
tâm mình. Nếu mình thấy mà không vướng mắc thì không có bụi, nó vẫn trong vẫn
sáng, đâu phải mù mà không vướng mắc.
Vì vậy mà nói :
Tâm Pháp song vong tánh tức chân.
Nghĩa là tâm và pháp cả hai mà quên, mà mất rồi, thì tánh chơn của
mình nó hiện ra.
PHƯƠNG
DIỆN KHAI TÂM
Đã là phàm phu, tất còn ở
trong vòng phiền não, bị nó mê hoặc sai khiến, lắm lúc không tự chủ được. Phiền
não có nghĩa: "khuấy động, thiêu đốt" làm cho tâm niệm không yên,
ngăn trở bước tu hành, nên gọi nó là phiền não chướng. Pháp thân huệ mạng ta bị
phiền não phá hại, nên cũng gọi nó là phiền não ma.
Có những Phật tử tuy ăn
chay, bố thí, tụng kinh, niệm Phật, nhưng chỉ chú ý về hình thức, không quan
tâm đến việc dứt trừ phiền não vọng duyên. Nên biết, nếu phiền vọng tăng một
phần, tất đạo tâm phải thối một phần, dù có tụng kinh, niệm Phật cũng không
được thanh tịnh. Cho nên trong Kinh Pháp Bảo Đàn, đức Lục Tổ đã bảo:
Người mê tu phước chẳng
tu đạo
Bảo rằng tu phước ấy là đạo
Bố thí cúng dường phước không lường
Nơi lòng ba ác vẫn còn tạo.
Chữ Đạo của đức Lục Tổ
nói, chỉ cho chân tâm thanh tịnh. Tất cả đường lối tu hành đều là phương tiện
trở về chân tâm ấy. Chứng được chân tâm mới hoàn phục tánh bản giác, thoát nỗi
khổ luân hồi, mà điểm căn bản để tu chứng, là phải dứt trừ phiền não vọng niệm.
Trong Kinh Tứ Thập Nhị
Chương, đức Phật cũng dạy: "Bậc sa môn hành đạo đừng giống như con trâu
kéo chiếc cối xay, thân tuy hành đạo mà tâm đạo chẳng hành. Nếu tâm đạo được
hành, cần gì dùng thân hành đạo?" Niệm Phật, sám hối, ngồi thiền, lễ bái,
kinh hành, đều là phương tiện phá trừ vọng nghiệp, mở rộng chân tâm. Nếu thân,
miệng áp dụng hình thức ấy, mà lòng còn dẫy đầy nghiệp chướng tham, sân, si,
thì đâu gọi là hành đạo? Trái lại, tuy không dùng hình thức đó, nhưng tâm vẫn
luôn luôn trong sáng như gương nguyệt hồ thu, mới thật là người hành đạo. Khi
xưa vua Hương Chí hỏi Tổ Bát Nhã Đa La rằng: "Các vị tu hành khác đều tụng
kinh, sao Ngài lại không tụng?"
Tổ đáp: "Bần tăng
hơi thở ra không tiếp xúc các duyên, hơi thở vào không ở trong ấm giới, thường
chuyển thứ kinh ấy đã ngàn muôn ức quyển rồi!" Tổ muốn nói rằng mình hằng
tụng vô tự tâm kinh, tâm kinh ấy là chẳng trụ trước muôn duyên bên ngoài, và
bên trong hằng vắng lặng không thấy có năm ấm mười tám giới, cả tướng trong,
ngoài, chính giữa cũng đều dứt tuyệt. Đây là ý nghĩa "tâm hành đạo".
Tuy nhiên, cũng đừng chấp
theo điều nói trên, mà bác bỏ ăn chay, bố thí, sám hối, niệm Phật, tụng kinh.
Bởi các sự kiện ấy về mặt huệ nó giúp cho hành giả mau tiêu nghiệp chướng, sớm
ngộ bản tâm; về mặt phước nó lại khiến cho người tu được quả báo đẹp vui, sanh
về các cõi lành, hoặc miền Tịnh Độ để tiếp tục đường tu không còn thối chuyển.
Mà phước huệ lưỡng toàn mới thành Phật được. Cho nên các bậc đại Bồ Tát tuy đã
ngộ suốt nguồn tâm, nhưng vẫn tu muôn phước để trang nghiêm Phật độ. Như đức Di
Lặc Bồ Tát tuy đã lên ngôi Nhất Sanh Bổ Xứ, xong mỗi ngày vẫn sám hối sáu thời
để cầu tiêu trừ tế chướng, mau chứng quả Diệu Giác của Phật Đà. Nên biết lời
dạy trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương và lời của Tổ Bát Nhã Đa La ở trên, chỉ có
tánh cách phiến diện hoặc bán dụ, để phá trừ lối tu chấp tướng quên tâm mà
thôi.
Để kết lại vấn đề, người
tu tịnh nghiệp ngoài phương diện niệm Phật, trì chú, tụng kinh, sám hối, còn
phải chú trọng về phương diện "khai tâm". Muốn cho tâm mở mang sáng
suốt, để giúp kết quả niệm Phật mau thành tựu được sanh về Tây Phương, phải dứt
trừ phiền não. Nếu nhận thức sâu thêm, câu niệm Phật tuy là tướng mà cũng chính
là tánh, bởi lý không ngoài sự, tức niệm là Phật, tức niệm là tâm. Cho nên
trong sáu chữ hồng danh, phước huệ gồm đủ, sự lý viên dung, vừa đưa người tu
mau đến thể viên giác diệu tâm, vừa khiến hành giả được tịnh báo vãng sanh cõi
Phật.
CHÁNH VĂN :
Ta
mạc pháp ! Ác thời thế !
Chúng
sanh phước bạc nan điều chế.
Khứ
Thánh viễn hề tà kiến thâm,
Ma
cường pháp nhược đa oan hại,
Văn
thuyết Như Lai đốn giáo môn,
Hận
bất diệt trừ như ngõa toái.
GIẢNG :
Ta mạc pháp ! Ác thời thế ! Đây
ngài than. Than ôi, đời mạt pháp, thời ác.
Chúng sanh phước bạc nan điều chế. Chúng
sanh phước thì mỏng cho nên khó điều phục được.
Khứ Thánh viễn hề tà kiến thâm, Cách
Phật xa vời nên tà kiến sâu đậm.
Ma cường pháp nhược đa oan hại, Ma
thì mạnh, pháp thì yếu nên nhiều oán hại.
Văn thuyết Như Lai đốn giáo môn, Nghe
nói môn đốn giáo của Như Lai.
Hận bất diệt trừ như ngõa toái. Hận tức
thù, ghét. Nếu không diệt trừ được, đập nát nó như ngói như gạch thì không vừa
lòng.
Vì vậy, nếu có thể trong thời này chúng tôi GIẢNG : như vầy có
nhiều người họ chịu không? Nhiều người họ không bằng lòng, chẳng những người
chưa biết tu không bằng lòng, kể cả người biết tu cũng không bằng lòng nữa. Nói
cái gì mà dễ quá vậy, Phật nói tu ba vô số kiếp mà ông này nói tu như trở bàn
tay, thành ra nói đó là tà đạo rồi đó. Vì vậy mà đáng buồn cho cái thời của
mình nó là như vậy. Cho nên những người đó muốn phá muốn dẹp cho hết tinh thần
đốn giáo này.
Hỏi:- Sự rộng lớn và giản dị, tôi đã nghe lời
chỉ dạy. Nhưng bậc ngộ đạt trong Thiền Tông, đã gọi thấy tánh thành Phật, há
lại khứng chịu cầu sanh về Tây Phương ư?
Đáp:- Thật ra ông chưa biết đó thôi. Chính những bậc ngộ
đạt càng cấp thiết cầu sanh. Cổ đức đã bảo: 'Không cầu về Tịnh Độ, còn nguyện
sanh cõi nào?' Nay ông chưa ngộ đạo, giả sử khi được tỏ ngộ rồi, e cho tâm niệm
cầu sanh Cực Lạc của ông, muôn trâu cũng không thể kéo lại!
Hỏi:- Sở dĩ Phật, Tổ ra đời vì độ chúng sanh; học giả
chỉ lo việc lớn chưa xong, nếu đã phát minh đại sự (tức ngộ đạo), nên theo gương đấng Đại Giác hiện thân vào nơi khốn
khổ, không hiềm đường sanh tử, mà độ khắp hàm linh. Nếu bậc đã ngộ đạt mà còn
cầu sanh Tịnh Độ, đó chẳng qua là tâm niệm chán khổ tìm vui, không đoái đến kẻ
đang ở trong vòng chìm đắm? Tôi dù ngu hèn, vẫn không thích làm như vậy!
Đáp:- Thấy chiếc trứng mà muốn cho nó nở liền, tâm niệm
ấy sao đà vội gấp! Ông cho rằng sau một phen tỏ ngộ, thì nghiệp tập đã dứt
sạch, được ngay vị bất thối chuyển ư? Và cũng không còn học khắp Phật Pháp,
không cần phải tu hành thêm để chứng những quả vị từ thấp đến cao ư? Hay là ông
lại nghĩ: sau một phen ngộ đạo, tất đã đồng hàng với chư Phật, có thể vào sanh
ra tử không bị chướng duyên nhiễu loạn ư? Nếu quả như thế thì chư Đại Bồ Tát
trải qua hằng hà sa kiếp tu sáu độ muôn hạnh, cũng đều phải hổ thẹn với ông
vậy! Cổ giáo đã có lời răn nhắc: 'Hàng Thanh Văn còn muội lúc ra thai, bậc Bồ
Tát còn mê khi cách ấm!' Hai hạng ấy mà còn như thế, huống chi người ngộ giải
non kém, tự cứu chưa xong giữa đời nay ư? Dù cho chỗ tỏ ngộ có sâu xa, trí
thông hiểu có cao sáng, hạnh cùng giải hợp nhau, chí quyết muốn độ người; nhưng
vì chưa lên hàng bất thối, lực dụng chưa đầy đủ, mà muốn ở cõi đời ác nầy hóa
độ kẻ cang cường, điều ấy bậc Tiên Thánh cũng chưa hứa nhận. Ví như đem chiếc
thuyền đóng trám chưa kỹ, để vớt người nơi biển dậy ba đào, cái họa trầm nịch cả
đoàn tất không tránh khỏi. Cho nên Luận Vãng Sanh nói: 'Muốn du hành nơi địa
ngục, muốn cứu độ chúng hữu tình mê khổ, trước phải cầu sanh về cõi kia, đợi
khi chứng được Vô Sanh Nhẫn rồi sẽ trở lại đường sanh tử mà thật hành bản
nguyện. Do nhân duyên ấy nên người tu mới cầu về Tịnh Độ.' Lại Tiên Thánh cũng
đã bảo: 'Chưa được vị Bất Thối Chuyển, chưa chứng Vô Sanh Nhẫn, cần phải thường
không rời Phật. Ví như trẻ thơ không nên xa mẹ, như chim non chỉ có thể bay
chuyền theo cành cây.'
Nay ở cõi Ta Bà nầy Đức Thích Ca đã diệt, Phật Di Lặc
chưa sanh. Huống nữa, bốn đường khổ thú, nhân quả dây dưa, trăm mối ngoại tà,
thị phi rối loạn; sắc tốt tiếng dâm hằng quyến dụ, cảnh hư duyên ác mãi vây
quanh. Trong hiện trạng ấy, đã không có Phật để nương nhờ, lại bị cảnh duyên
làm khuấy động, hàng sơ tâm ngộ đạo hỏi mấy ai không bị thối lui? Cho nên Đấng
Thế Tôn ân cần chỉ về Cực Lạc là bởi lý do ấy. Phương chi ở cõi kia, Đức Di Đà
hiện đang nói pháp, cảnh diệu độ muôn thứ thuận duyên; đã nương nhờ hải chúng,
nhẫn lực mau thành, lại gần Đấng Pháp Vương, Phật Thừa dễ đạt. Chừng ấy muốn ra
ứng hoá độ sanh, còn chi trở ngại? Cũng vì lẽ ấy, nên bậc thượng căn lợi trí
còn nguyện thác sanh, huống chi ông là hạng trung hạ mới được đôi chút giải ngộ
đó ư?
Ông há không thấy trong kinh Quán Phật Tam Muội, Ngài
Văn Thù tự bày tỏ túc nhân, bảo mình đã chứng môn Niệm Phật Tam Muội, thường
sanh ở Tịnh Độ ư? Do bởi đó, Đức Thế Tôn mới thọ ký cho ngài rằng: 'Ông sẽ được
sanh về thế giới Cực Lạc.'
Lại chẳng thấy trong kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ Tát
đem mười đại nguyện vương khuyến tấn Thiện Tài Đồng Tử và đại chúng nơi hải
hội, nên dùng công đức đó cầu sanh về Cực Lạc ư? Trong ấy có đoạn nói: 'Tôi
nguyện khi đến lúc lâm chung. Dứt trừ tất cả điều chướng ngại. Diện kiến Đức
Phật A Di Đà, liền được sanh về cõi Cực Lạc.'
Lại chẳng thấy trong Kinh Lăng Già, Đức Thế Tôn đã huyền
ký: 'Sau xứ Nam Thiên Trúc, có danh đức Tỳ Khưu, tôn hiệu là Long Thọ. Hay phá
hữu, vô tông. Trong thế gian hiển ngã. Pháp Vô Thượng đại thừa. Chứng Sơ Hoan
Hỷ Địa. Sanh về cõi Cực Lạc' ư?
Và chẳng thấy trong Luận Khởi Tín, Mã Minh Bồ Tát, khen
ngợi sự vãng sanh; trong Kinh Đại Bảo Tích, Phật hứa khả cho Tịnh Phạn Vương và
bảy muôn Thích chủng đồng về An Dưỡng; trong Kinh Thập Lục Quán, Đức Thế Tôn
chỉ dạy phương pháp cho bà Vi Đề Hy cùng năm trăm thị nữ được lễ cẩn Đức A Di
Đà ư?
Trong mấy vị trên, như Vua Tịnh Phạn và bà Vi Đề Hy hiện
tiền đều đã chứng được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Ở Tây Trúc những hạng ấy cầu vãng
sanh rất nhiều. Bên đông độ thì có Viễn Công ở Lô Sơn cùng các bậc cao nhơn
trong Liên Xã, những vị tôn túc ở hai tông Thiên Thai, Hiền Thủ, tất cả đều
dùng môn niệm Phật tự tu và độ người khuyến hóa hàng tăng tục đồng cầu sanh về
Tịnh Độ. Nói chung những bậc cao đức tu tịnh nghiệp số lượng không biết bao
nhiêu mà kể! Đến như hai ngài Văn Thù, Phổ Hiền là bậc Đại Bồ Tát, Thiện Tài
Đồng Tử và hải chúng Hoa Tạng đều là bậc đại nhơn trong bốn mươi mốt vị. Mã
Minh, Long Thọ là hàng Bồ Tát, mà cũng là bậc Đại Tổ Sư.
Những thánh nhơn ấy chỗ ngộ và chứng siêu xuất hơn người
ngộ đạt ngày nay như trời với vực, mà còn nguyện sanh về Tây Phương, ông bảo
rằng đã tỏ ngộ không cầu về Cực Lạc, lại bác sự cầu sanh, thì các ngài Văn Thù,
Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, chắc là không bằng ông rồi! Ông thử tự lượng xem
chổ tu chứng có bằng hai bậc Đại Sĩ, và hai vị Tổ Sư; sự tham ngộ có bằng ngài
Thiện Tài cùng hải chúng, cảnh giới sở đắc và được Phật hứa khả có bằng vua
Tịnh Phạn và bà Vi Đề Hy chăng? Vã Tịnh Phạn Vương là thân sanh của Phật, bảy
muôn Thích chủng là tộc thuộc của Ngài, nếu sự về Tịnh Độ không có lợi ích thì
Đức Thế Tôn đâu nỡ khiến phụ vương và hàng thân thuộc cầu vãng sanh? Trước kia
đã nói bậc chứng được Vô Sanh Nhẫn có thể vào tục độ sanh, nay vua Tịnh Phạn và
người thân thuộc của Phật đã đắc quả ấy mà Đức Như Lai còn khuyên và thọ ký cho
vãng sanh, thì tấm lòng hộ trì bảo dưỡng của Ngài há chẳng là thân thiết và sâu
xa ư?
Tôi thấy hàng thiền giả đời nay phần nhiều không xét
liễu nghĩa của Như Lai, chẳng rõ huyền cơ của Đạt Ma, bụng rỗng lòng cao, tập
quen thành bệnh cuồng vọng. Khi thấy người tu Tịnh Độ, họ khinh thường và cười
bảo: 'Đó là việc làm thấp kém của hàng ngu phu ngu phụ!' Tôi thường cho đó
không phải khinh hạng ngu phụ ngu phu, mà chính là khinh các Ngài Văn Thù, Phổ
Hiền, Mã Minh, Long Thọ; đó chẳng những tự mê chánh đạo, tự làm mất căn lành mà
còn tự bỏ quên huệ thân và tự để tiêu Phật chủng. Đó cũng là tự gây ra tội báng
Chánh Pháp, tự kết thành nghiệp khinh Thánh Tăng. Chư Phật, Tổ xem những kẻ ấy
là hạng người đáng thương xót! Vì lẽ ấy nên Ngài Vĩnh Minh động mối bi tâm đem
hết tâm can chủ trương Tịnh Độ, đã tự tu lại khuyên đời. Nên khi lâm chung, Đại
Sư biết trước ngày giờ, có các điềm lành ứng hiện; lúc trà tỳ xá lợi tuôn ra vô
số. Về sau có một vị tăng ở Phủ Châu thường cung kính đi nhiễu xung quanh tháp
của ngài, nhiều người hỏi lý do thì vị tăng ấy đáp: 'Nhân lúc tôi bị bịnh nặng
thần thức đi vào minh giới, Diêm Vương xét thấy thọ số chưa mãn, cho đưa trở
về. Khi ấy tôi thấy bên phía tả đại điện có thiết bàn thờ di tượng một vị Đại
Đức, Diêm Vương lễ bái ân cần. Hỏi ra thì Quan Chủ lại bảo đó là chân dung của
Vĩnh Minh Diên Thọ Thiền Sư, vì ngài tu hành tinh tấn, được sanh về Thượng Phẩm
ở Cực Lạc, nên Diêm Vương họa tượng để thờ.' Vĩnh Minh Đại Sư là bậc đã ngộ
suốt môn thiền trực chỉ của tổ Đạt Ma, mà lại gởi chất nơi phẩm sen thượng
thượng bên trời An Dưỡng; những sự kiện ấy đủ giải thích mối tình chấp của
người tu thiền, còn làm duyên khuyến tấn cho chúng sanh đời mạt pháp. Cho nên
tôi nói ngài rất có công đối với bên tông cũng như bên giáo là ở điểm nầy.
Song chẳng những chỉ có Vĩnh Minh Đại Sư mới như thế mà
thôi. Ngoài ra, còn có Tử Tâm Tân Thiền Sư đã ngộ bên Thiền, lại khuyên tu bên
Tịnh. Ngài đã bảo: Di Đà rất dễ niệm, Tịnh Độ rất dễ sanh. Người tham thiền
niệm Phật rất tốt. Nếu kẻ căn cơ hơi kém, sợ e đời nay chưa được đại ngộ, kiếp
sau dễ lạc bến mê, thì nên nhờ sức bi nguyện của Đức A Di Đà để sớm vãng sanh
về Cực Lạc. Nếu vị nào chí tâm niệm Phật mà không được sanh về Tịnh Độ, lão
tăng xin chịu đọa vào địa ngục Bạt Thiệt (ngục rút lưỡi). Lại như Chân Yết Liễu
Thiền Sư, trong bài văn khuyên tu Tịnh Độ, có nói: 'Tại sao người trong tông
Tào Động, ngoài sự tập thiền, còn mật tu Tịnh Độ? Sở dĩ có việc ấy, vì pháp môn
niệm Phật là con đường tắt trong các lối tu hành. Xét trong Đại Tạng môn nầy
ngoài sự tiếp dẫn bậc thượng thượng căn còn thâu nhiếp hạng người trung hạ...
Bậc đại tượng trong tông môn đã ngộ pháp phi không phi hữu, lại chăm chú tu
tịnh nghiệp, có phải sự thấy Phật cửa Tịnh Độ còn giản dị hơn tông môn chăng?
Cho nên dù Phật dù Tổ, hoặc Giáo hoặc Thiền, đều do nơi cửa Tịnh Độ đồng về nơi
chân nguyên. Vào được môn nầy, tức có thể vào được vô lượng pháp môn khác...'
Đến như các ngài: Thiên Y Hoài Thiền Sư, Viên Chiếu Bản
Thiền Sư, Từ Thọ Thâm Thiền Sư, Nam Nhạc Tư Thiền Sư, Pháp Chiếu Thiền Sư, Tịnh
Yết Thiền Sư, Tịnh Từ Đại Thông Thiền Sư, Thiên Thai Hoài Ngọc Thiền Sư, Lương
Đạo Trân Thiền Sư, Đường Đạo Xước Thiền Sư, Tỳ Lăng Pháp Chân Thiền Sư, Cô Tô
Thủ Nạp Thiền Sư, Bắc Nhàn Giản Thiền Sư, Thiên Mục Lễ Thiền Sư, những đại lão
ấy là bậc tông tượng trong thiền môn, song xét ra chỗ mật tu và hiển hóa đều
phát dương ý chỉ Tịnh Độ, tuy không ước hẹn mà ngẫu nhĩ đồng đường. Chẳng những
các vị đại lão ấy như thế mà thôi, tôi lại thường nghe một vị kỳ túc bên tông
môn nói: 'Hầu hết ngũ gia tông phái và những thiền tăng trong thiên hạ, đã tỏ
ngộ cùng chưa tỏ ngộ, đều quy hướng về Tịnh Độ.' Hỏi lý do thì vị đó đáp: 'Ngài
Bá Trượng Trí Hải Thiền Sư là đích tử của Giang Tây Mã Tổ, những tòng lâm trong
thiên hạ đều y theo cách thức của ngài mà kiến lập và thanh quy ở khắp thiền
môn đều y theo pháp chế của ngài mà cử hành. Từ xưa đến nay không ai dám có lời
thị phi và trái với pháp chế ấy. Theo thanh quy của ngài, thì nghi thức tụng
cầu cho những vị tăng bệnh nặng có lời văn như sau: 'Phải nhóm chúng lại, tất
cả đồng tụng bài kệ tán Phật A Di Đà, rồi cao tiếng niệm Nam Mô A Di Đà Phật,
hoặc trăm câu, ngàn câu. Khi niệm xong, hồi hướng phục nguyện rằng: Nếu các
duyên chưa mãn, sớm được an lành. Như hạn lớn đến kỳ, sanh về A Dưỡng.' Đó
chẳng phải là bằng chứng chỉ quy Tịnh Độ hay sao? Lại trong nghi thức đưa những
vị tăng đã tịch có đoạn nói: 'Đại chúng đồng niệm A Di Đà Phật hồi hướng phục
nguyện rằng: Thần siêu cõi tịnh, nghiệp dứt đường trần, thượng phẩm sen nở hiện
kim thân, nhứt sanh Phật trao phần quả ký.' Đó không phải là bằng chứng chỉ quy
Tịnh Độ hay sao? Đến như lúc trà tỳ, trong thanh quy lại dạy: Vị Duy Na chỉ dẫn
khánh niệm Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật mười
lần, đại chúng đồng xướng họa theo.
Khi xướng xong, lại hồi hướng rằng: 'Trước đây xưng
dương mười niệm, phụ giúp vãng sanh...' Đó không phải là bằng chứng chỉ quy
Tịnh Độ hay sao? Cho nên lão tăng nói: 'Các thiền gia trong thiên hạ đều quy
hướng Tịnh Độ, là bởi nguyên nhân đó.' Tôi nghe những lời dẫn chứng của vị kỳ
túc ấy đều có y cứ, nên không biện bác ra sao được. Nhân đó tôi lại chợt hiểu
chỗ lập pháp của ngài Bá Trượng tất có thâm ý nhiệm mầu.
Nay ông ở tòng lâm, thân đã đưa không biết bao nhiêu vị
tăng quy tịch, tai cùng miệng đã nghe và xướng không biết bao nhiêu lần mười
niệm, ý đã chuyên chú hồi hướng về Tịnh Độ lại không biết bao nhiêu lần nữa!
Thế mà ông đã không hiểu ý Tổ Sư, đã không phát lòng thức tỉnh, lại lầm bảo:
những bậc ngộ đạt không nguyện vãng sanh. Quả thật cái bệnh chấp thiền trong
thiên hạ, không còn ai hơn ông được.
CHÁNH VĂN :
Tác
tại tâm, ương tại thân,
Bất
tu oan tố cánh vưu nhân.
Dục
đắc bất chiêu vô gián nghiệp,
Mạc
báng Như Lai chánh pháp luân.
GIẢNG :
Tác tại tâm, ương tại thân, Tác tại
tâm, mình khởi niệm ghét nên mình mới làm; ương tại thân, thì mắc họa ở thân.
Tâm mình khởi niệm ác rồi thân mình phải chịu cái họa.
Bất tu oan tố cánh vưu nhân. Không
nên không cần đổ thừa kẻ này, người kia hay nói oan cho người. Chuyện đó mình
làm mình chịu chớ không phải ai làm.
Dục đắc bất chiêu vô gián nghiệp, nếu
muốn không chuốc nghiệp vô gián. Nghiệp vô gián là nghiệp phải đọa địa ngục vô
gián.
Mạc báng Như Lai chánh pháp luân. Chớ
nên chê bai chánh pháp của Đức Như Lai.
Đó là ngài chỉ số người trong thời mạ pháp không tin được pháp
môn đốn giáo, cho nên rồi họ trở thành chống đối, trở thành muốn tiêu diệt thì
đó là chuốc họa địa ngục vô gián, cho nên họ mới chê bai pháp luân của Phật hay
pháp môn đốn giáo của Phật.
CHÁNH VĂN :
Chiên
đàn lâm vô tạp thụ.
Uất
mật sâm trầm sư tử trú.
Cảnh
tịnh lâm nhàn độc tự du,
Tẩu
thú phi cầm giai viễn khứ.
GIẢNG :
Chiên đàn lâm vô tạp thụ. Đây
nói rằng trong rừng cây chiên đàn nó không có những cây lẫn lộn khác.
Uất mật sâm trầm sư tử trú. Tức
là nó sâu kín, các loài sư tử ẩn trong đó.
Cảnh tịnh lâm nhàn độc tự du, là trong cảnh lặng lẽ yên ổn đó, chỉ
riêng tự ở. Tự du là tự dạo đi.
Tẩu thú phi cầm giai viễn khứ. Là
các loài chim chóc hay các loài thú cọp beo… nó đều chạy đi hết.
Đây là ngài muốn diễn tả lại pháp đốn giáo này như rừng chiên
đàn, nó không có cái gì lẫn lộn được, không sống chung được. Trong đó chỉ có
hàng sư tử ở, nó thích. Sư tử ở trong đó rồi nó đi tới đi lui một cách tự tại,
còn các loài chim chóc hay thú khác nó chạy đi mất nó không có ở. Để diễn đạt rằng
người lãnh hội được pháp môn đốn giáo này, thật là như sư tử ở trong rừng chiên
đàn vậy, các loài khác không đến được. Đó là để diễn tả cái khó mà nhận được
thì nó rất quí nhưng những người khác thì không thể chấp nhận.
CHÁNH VĂN :
Sư
tử nhi, chúng tùy hậu,
Tam
tuế tiện năng đại hao hống.
Nhược
thị dã can trục Pháp Vương,
Bách
niên yêu quái hư khai khẩu!
GIẢNG :
Sư tử nhi, chúng tùy hậu, Ngài
nói nếu là con sư tử con thì nó sẽ theo sư tử cha, sư tử mẹ.
Tam tuế tiện năng đại hao hống. Tuy mới
ba tuổi, nó rống cũng là rống tiếng sư tử, chớ không rống tiếng gì khác.
Nhược thị dã can trục Pháp Vương, Nếu là
loài dã can mà có theo sư tử thì dầu cho trăm năm đi nữa nó có rống lên tiếng
thì tiếng đó cũng là tiếng nói gở thôi, chớ không đúng tiếng sư tử.
Bách niên yêu quái hư khai khẩu! Đó là
để nói rằng ai có chủng tử sâu về tinh thần đốn giáo hay thiền tông, thì người
đó mới có thể đến được. Dầu thời gian ngắn, thời gian ít mà họ có chủng tử đó rồi,
họ cũng có thể làm được chuyện của những vị tu hành lâu chỉ dạy. Nếu những người
không có chủng tử đó hay tâm trí yếu hèn thì không thể nào bắt chước được. Nếu
có bắt chước thì cũng là ngượng ngạo, là quái gở thôi chớ không đi tới đâu.
NHỮNG HUẤN
THỊ VỀ BỒ ĐỀ TÂM
Về Bồ Đề
tâm, trong nội điển có thuyết minh rất nhiều, nay chỉ xin trích lục ít đoạn nơi
Kinh Hoa Nghiêm để chư vị đồng tu thể nhận:
* Này
thiện nam tử! Bậc Bồ Tát phát lòng Vô Thượng Bồ Đề là: khởi lòng đại bi cứu độ
tất cả chúng sanh. Khởi lòng cúng dường chư Phật, cứu cánh thừa sự. Khởi lòng
khắp cầu chánh pháp, tất cả không sẻn tiếc. Khởi lòng thú hướng rộng lớn, cầu
Nhứt Thiết Trí. Khởi lòng đại từ vô lượng, khắp nhiếp tất cả chúng sanh. Khởi
lòng không bỏ rơi các loài hữu tình mặc áo giáp kiên thệ để cầu Bát Nhã Ba La
Mật. Khởi lòng không siểm dối, vì cầu được trí như thật. Khởi lòng thật hành y
như lời nói, để tu đạo Bồ Tát. Khởi lòng không dối với chư Phật, vì gìn giữ thệ
nguyện lớn của tất cả Như Lai. Khởi lòng nguyện cầu Nhứt Thiết Trí, cùng tận
kiếp vị lai giáo hóa chúng sanh không dừng nghỉ. Bồ Tát dùng những công đức Bồ
Đề tâm nhiều như số bụi nhỏ của cõi Phật như thế, nên được sanh vào nhà Như
Lai.
* Này
thiện nam tử! Như người học bắn, trước phải tập thế đứng, sau mới học đến cách
bắn. Cũng thế, Bồ Tát muốn học đạo Nhứt Thiết Trí của Như Lai, trước phải an
trụ nơi Bồ Đề tâm, rồi sau mới tu hành tất cả Phật pháp. Thiện nam tử! Ví như
vương tử tuy hãy còn thơ ấu, song tất cả đại thần đều phải kính lễ. Cũng thế,
Bồ Tát tuy mới phát Bồ Đề tâm tu Bồ Tát hạnh, song tất cả bậc kỳ cựu hàng Nhị
Thừa đều phải kính trọng nể vì. Thiện nam tử! Như thái tử tuy đối với quần thần
chưa được tự tại, song đã đủ tướng trạng của vua, các bầy tôi không thể sánh
bằng, bởi nhờ chỗ xuất sanh tôn quý. Cũng thế Bồ Tát tuy đối với tất cả nghiệp
phiền não chưa được tự tại, song đã đầy đủ tướng trạng Bồ Đề, hàng Nhị Thừa
không thể sánh bằng, bởi nhờ chủng tánh đứng vào bậc nhứt. Thiện nam tử! Như
người máy bằng gỗ, nếu không có mấu chốt thì các thân phần rời rạc chẳng thể
hoạt động. Cũng thế, Bồ Tát nếu thiếu Bồ Đề tâm, thì các hạnh đều phân tán,
không thể thành tựu tất cả Phật pháp. Thiện nam tử! Như chất kim cương tất cả
vật không thể phá hoại, trái lại có thể phá hoại tất cả vật, song thể tánh của
nó vẫn không tổn giảm. Bồ Đề tâm của Bồ Tát cũng thế, khắp ba đời trong vô số
kiếp, giáo hóa chúng sanh, tu các khổ hạnh, việc hàng Nhị Thừa không thể làm
đều làm được, song kết cuộc vẫn chẳng chán mỏi, giảm hư...
* Phổ
Hiền Bồ Tát bảo: - Thiện nam tử! Bồ Tát vì điều phục giáo hóa tất cả chúng sanh
nên phát Bồ Đề tâm. Vì trừ diệt khổ tụ cho tất cả chúng sanh, nên phát Bồ Đề
tâm. Vì đem cho tất cả chúng sanh sự an vui đầy đủ, nên phát Bồ Đề tâm. Vì dứt
trừ sự ngu tối cho tất cả chúng sanh, nên phát Bồ Đề tâm. Vì đem lại Phật trí
cho tất cả chúng sanh, nên phát Bồ Đề tâm. Vì cung kính cúng dường tất cả chư
Phật, nên phát Bồ Đề tâm. Vì tùy thuận lời dạy Như Lai khiến chư Phật hoan hỷ,
nên phát Bồ Đề tâm. Vì muốn thấy sắc thân tướng hảo của tất cả chư Phật, nên
phát Bồ Đề tâm. Vì muốn vào trí huệ rộng lớn của tất cả chư Phật, nên phát Bồ
Đề tâm. Vì muốn hiển hiện các đức: lực, vô úy của chư Phật, nên phát Bồ Đề tâm.
* Như
thế, trong Kinh Hoa Nghiêm đức Thế Tôn và chư Bồ Tát đã thuyết minh rộng rãi về
công đức của Bồ Đề tâm, trên đây chỉ lược trích một vài yếu điểm. Kinh văn cũng
có nói: "Cửa
yếu vào đạo, trước phải phát tâm. Việc yếu tu hành, trước nên lập nguyện."
Nếu không
phát tâm rộng lớn, không lập nguyện bền chắc, thì dù trải qua vô lượng kiếp,
vẫn y nhiên ở trong nẻo luân hồi; dù có tu hành cũng khó tinh tấn và chỉ luống
công khổ nhọc. Do đó nên biết: muốn học Phật đạo, quyết phải phát Bồ Đề tâm
không thể trì huỡn. Bởi thế khi xưa Tỉnh Am đại sư đã soạn ra Phát Bồ Đề Tâm
Văn để khuyến khích tứ chúng. Trong ấy, Ngài theo các tâm nguyện mà trình bày
sự phát tâm thành tám cách: tà, chánh, chân, ngụy, đại, tiểu, thiên, viên. Xin
tóm đại lược như sau:
1. Có
những người tu không tham cứu tự tâm, chỉ biết theo bên ngoài, hoặc cầu danh
lợi, đắm cảnh vui hiện tại, hay mong quả phước tương lai mà phát lòng Bồ Đề.
Phát tâm như thế gọi là Tà.
2. Như
chẳng cầu danh lợi, không tham cảnh vui cùng mong quả phước, chỉ vì thoát vòng sanh
tử, lợi mình lợi sanh mà cầu đạo Bồ Đề. Phát tâm như thế gọi là Chánh.
3. Mỗi
niệm trên vì cầu Phật đạo, dưới vì độ chúng sanh, nhìn đường Bồ Đề dài xa mà
không khiếp, thấy loài hữu tình khó độ nhưng chẳng sờn. Tâm bền vững như lên
núi quyết đến đảnh, như leo tháp quyết đến chót. Phát tâm như thế gọi là Chân (thật).
4. Có
tội lỗi không sám hối chừa cải, ngoài dường trong sạch, trong thật nhớp nhơ,
trước tinh tấn sau biếng lười. Dù có tâm tốt nhưng còn xen lẫn lợi danh, có
pháp lành song bị tội lỗi làm ô nhiễm. Phát tâm mà còn những điều này, gọi là Ngụy (dối).
5. Cõi
chúng sanh hết, nguyện mới hết; đạo Bồ Đề thành, nguyện mới thành. Phát tâm như
thế gọi là Đại.
6. Xem
tam giới như tù ngục, sanh tử như oan gia; chỉ mong mình mau giải thoát, chẳng
muốn độ người. Phát tâm theo quan niệm này, gọi là Tiểu.
7. Thấy
chúng sanh và Phật đạo ở ngoài tự tánh, rồi nguyện độ nguyện thành, đường công
hạnh chẳng quên, sự thấy hiểu không dứt. Phát tâm như thế gọi là Thiên (lệch).
8. Biết
chúng sanh và Phật đạo đều là tự tánh, nên nguyện độ nguyện thành, tu công đức
không thấy mình có tu, độ chúng sanh không thấy có chúng sanh được độ. Phát tâm
như thế gọi là Viên (tròn).
Trong
tám cách như trên, Tà, Ngụy, Thiên, Tiểu nên bỏ, Chân,
Chánh, Viên, Đại nên theo. Được như thế mới
gọi là phát Bồ Đề tâm đúng cách.
Trong
văn, Tỉnh Am đại sư lại khuyên đại chúng nên nghĩ đến mười nhân duyên để phát
tâm. Mười duyên ấy là: vì nghĩ đến ơn Phật, vì công ơn cha mẹ, vì nhớ ơn sư
trưởng, vì tưởng ơn tín thí, vì biết ơn chúng sanh, vì lo khổ sanh tử, tôn
trọng tánh linh, vì sám trừ nghiệp chướng, vì hộ trì chánh pháp, vì cầu sanh
Tịnh Độ. Nơi điều cầu Tịnh Độ, Ngài dẫn một lời Kinh A Di Đà và bảo: "Kinh
Văn nói: ‘Không thể dùng chút ít căn lành phước đức nhân duyên được sanh về
nước kia’. Thế thì biết, phải có nhiều căn lành phước đức mới được vãng sanh
Cực Lạc. Nhưng nhiều căn lành không chi hơn phát Bồ Đề tâm, nhiều phước đức
không chi hơn trì danh hiệu. Nhiếp tâm niệm Phật giây phút hơn bố thí nhiều
năm, chân thật phát lòng Bồ Đề hơn tu hành nhiều kiếp. Giữ chắc hai nhân duyên
này, quyết định được sanh Cực Lạc."
Qua
những lời dạy của Phật, Bồ Tát, Tổ Sư ở trên, ta thấy phát Bồ Đề tâm là điều
rất quan yếu trên đường hành đạo.
CHÁNH VĂN :
Viên
đốn giáo vật nhân tình,
Hữu
nghi bất quyết trực tu tranh.
Bất
thị sơn tăng sinh nhân ngã,
Tu
hành khủng lạc đoạn thường khanh.
GIẢNG :
Viên đốn giáo vật nhân tình, Cái
giáo lý viên đốn này nó không có hợp, không thích ứng với tình người.
Hữu nghi bất quyết trực tu tranh. Nếu
cái gì nghi không giải quyết được thì phải tranh luận cho rõ ra, chớ đừng có ôm
ấp.
Bất thị sơn tăng sinh nhân ngã, là
không phải sơn tăng tức ông thầy núi này có nhân ngã mà cho rằng pháp tu mình
là cao, pháp tu của người thấp, không phải vậy. Chỉ làm sao muốn nói cho người
ta biết cái giá trị của đạo thôi.
Tu hành khủng lạc đoạn thường
khanh. Bởi vì sợ e những người tu hành mà họ sẽ rơi vào hầm đoạn và
thường. Hoặc là bên này là dứt, bên kia là còn; bên này là ngắn, bên kia là
dài..v.v… Đừng có để cho người tu rơi vài hai bên.
CHÁNH VĂN :
Phi
bất phi, thị bất thị,
Sai
chi hào ly thất thiên lý.
Thị
tắc Long Nữ đốn thành Phật,
Phi
tắc Thiện Tinh sanh hãm trụy.
GIẢNG :
Phi bất phi, thị bất thị, Cái
này quấy nó cũng chẳng quấy, phải nó cũng chẳng phải.
Sai chi hào ly thất thiên lý. Chỉ
sai trong một hào ly, một tơ tóc thôi, thì nó cách xa ngàn dậm. Tại sao vậy? Bởi
vì chỗ này là chỗ rất là chí lý, rất là thiết yếu, mà mình nhìn mình ngó nó với
đôi mắt đối đải thì sai một chút nó đã lầm rồi.
Thị tắc Long Nữ đốn thành Phật, Thị tức
là đúng, thì như bà Long Nữ trong kinh Pháp Hoa chỉ trong một phút giây thì
ngài thị hiện thành Phật.
19. Thanh-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
Rị Ðà Dựng [26]
Án-- chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra,
bộ ra bạn đà, hồng phấn tra.
UM! BÚT RUM! HÙM!
Kinh nói rằng: “Nếu muốn được sanh về mười phương tịnh-độ,
nên cầu nơi Tay cầm Hoa-Sen-Xanh.”
Thần-chú rằng: Rị Ðà Dựng [26]
Chơn-ngôn rằng: Án-- chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra, bộ ra bạn đà, hồng phấn tra.
Kệ tụng:
Niệm Phật niệm pháp niệm thánh tăng
Thập phương tịnh độ bảo liên đăng
Hoa khai Phật hiện viên giác quả
Nhậm vận lai vãng sát na trung.
( Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm thánh Tăng.
Mười phương tịnh độ được vãng sanh.
Hoa khai thấy Phật chứng “VÔ SANH”.
“TỰ TẠI” QUA LẠI MƯỜI PHƯƠNG TỊNH ĐỘ TRONG KHOẢNG MỘT SÁT NA.)
Ý nói là nếu Qúy-vị Niệm Phật (NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT…), hoặc Niệm Pháp (Tụng-Kinh, Tham-Thiền, Trì Chú…) hoặc Niệm Tăng (Nam-mô Ðại-bi Quán Thế Âm Bồ-tát… ) thì tùy theo ý nguyện được vãng sanh về Tịnh-độ ở mười phương. Như là : Đức “Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai” ở phương Đông , Đức “A-Di Đà Như Lai” ở phương Tây…
Hay là:
Nếu Qúy-vị “TRÌ TỤNG” THANH LIÊN HOA THỦ NHÃN ẤN PHÁP thì cũng được vãng sanh ở mười phương tịnh độ tùy theo ý nguyện của mình. Được hóa sanh trong hoa sen ở mười phương tịnh độ, khi hoa khai thì thấy Phật chứng Vô-sanh, rồi dùng “THẦN TÚC THÔNG” TỰ TẠI ĐẾN ĐI TRONG MƯỜI PHƯƠNG TỊNH ĐỘ, CHỈ KHOẢNG MỘT SÁT NA. ( Trong 1 niệm có 90 sát-na sanh diệt)
Cho nên, ta thấy cho dù “CÁC NHÀ BÁC HỌC, KHOA HỌC, THIÊN VĂN, VẬT LÝ, NGUYÊN TỬ…” Ở CÙNG TẬN ĐỜI VỊ LAI, CŨNG KHÔNG THỂ HIỂU ĐƯỢC LOẠI “THẦN TÚC THÔNG” NÀY, NẾU HỌ KHÔNG HỌC “KINH HOA NGHIÊN”, “LĂNG NGHIÊM” VÀ “PHÁP HOA.”
Tại sao? Vì Phật, Bồ-tát và người ở Tịnh-độ, thì “TỰ TẠI” với thời gian không gian, có thể đêm 60 tiểu kiếp ở trong khoảng thời gian “một bửa ăn”. Như đức Phật Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh chẳng hạn.
KINH VĂN :
24.- Bấy giờ, đức Phật Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh từ trong chánh-định mà dậy, vì Diệu-Quang Bồ-tát nói kinh đại-thừa tên 'Diệu-Pháp-Liên-Hoa Giáo-Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ-Niệm', trải qua sáu mươi tiểu kiếp chẳng rời chỗ ngồi.
25.- Lúc ấy trong hội, người nghe pháp cũng ngồi một chỗ đến sáu mươi tiểu kiếp thân tâm đều không lay động, nghe đức Phật nói pháp cho là như trong khoảng bữa ăn. Bấy giờ trong chúng không có một người nào hoặc là thân hoặc là tâm mà sanh lười mỏi.
( Kinh Diệu Pháp Liên Hoa-Phẩm 'Tựa' Thứ Nhất)
Hoặc có thể đêm “3 a-tăng-kỳ kiếp” ở trong khoảng thời gian hiến châu. Như Long-Nữ thành Phật chẳng hạn. Long-Nữ làm được việc nầy, chứng tỏ đây là một vị Bồ-tát nhất sanh bổ xứ thị hiện.
KINH VĂN :
7.--- Bấy giờ, ngài Xá-Lợi-Phất nói với Long-nữ rằng: "Ngươi nói không bao lâu chứng được đạo vô-thượng, việc đó khó tin. Vì sao? Vì thân gái nhơ-uế chẳng phải là pháp-khí, thế nào có thể được thành vô-thượng chính-giác? Ðạo Phật xa rộng phải trải qua vô-lượng kiếp cần khổ chứa nhóm công-hạnh, tu đủ các độ, vậy sau mới thành được.
Lại thân gái còn có năm điều chướng: một, chẳng được làm Phạm-Thiên-Vương; hai, chẳng được làm Ðế-Thích; ba, chẳng được làm Ma-vương; bốn, chẳng được làm Chuyển-luân Thánh-vương; năm, chẳng được làm Phật. Thế nào thân gái được mau thành Phật?".
Lúc đó, Long-nữ có một hột châu báu, giá-trị bằng cõi tam-thiên đại-thiên đem dâng đức Phật. Phật liền nhận lấy. Long-nữ nói với Trí-Tích Bồ-Tát cùng tôn-giả Xá-Lợi-Phất rằng: "Tôi hiến châu báu, đức Thế-Tôn nạp thọ, việc đó có mau chăng?".
---Ðáp: "Rất mau".
---Long-nữ nói: "Lấy sức thần của các ông xem tôi thành Phật lại mau hơn việc đó".
Ðang lúc đó cả chúng-hội đều thấy Long-nữ thoạt nhiên biến thành nam-tử, đủ hạnh Bồ-tát, liền qua cõi Vô-Cấu ở phương Nam, ngồi tòa sen báu thành bậc Ðẳng-chánh-giác, đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẽ đẹp, khắp vì tất cả chúng-sanh trong mười-phương mà diễn nói pháp mầu.
(Kinh Diệu Pháp Liên Hoa -Phẩm 'Ðề-Bà-Ðạt-Ða' Thứ Mười Hai)
Lại nữa, Ta thấy rằng Pháp Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng của “ĐẠI THỪA” LÀ CẦU VÃNG SANH TỊNH ĐỘ ĐỂ CHỨNG ĐƯỢC “VÔ SANH” TỨC LÀ CHỨNG ĐƯỢC “VIÊN GIÁC QỦA”, VÀ SẼ THÀNH PHẬT Ở VỊ LAI.
Chứ không phải “ Niệm-Phật, Niệm-Pháp, Niệm-Tăng” để được “HIỆN TẠI LẠC TRÚ”, hay “Pháp Quyền Giáo” để dứt trừ vọng tưởng, hoặc “Pháp Tiệm Giáo” để giao lần thiện căn…
Kệ tụng:
Một câu A Di Đà
Chứng ba ngôi Bất thối
Chỉ trong một đời này
Được bổ lên Phật vị
( 100 Bài Kệ Niệm Phật
Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm dịch)
Lại nữa, từ xưa đến nay người tu “TỊNH ĐỘ” PHẦN ĐÔNG ĐỀU CẦU VÃNG SANH VỀ cõi CỰC LẠC CỦA PHẬT A DI ĐÀ Ở PHƯƠNG TÂY. TẠI VÌ SAO ?
Hỏi:- Mười phương đều có chư Phật và Tịnh Độ. Nếu vì lẽ chúng sanh ở cõi nầy tâm tánh trược loạn, niệm nhiều vị Phật e Tam Muội khó thành, tại sao người tu không tùy ý niệm một đức Phật, tùy nguyện cầu sanh về một Tịnh Độ nào khác, hà tất phải riêng niệm Đức A Di Đà cầu sanh về Cực Lạc?
Đáp:- Phàm phu vô trí phải theo lời Phật dạy, chẳng nên tự chuyên, vì thế xưa nay những người tu Tịnh Độ đều chuyên niệm Phật A Di Đà. Theo lời Phật dạy là thế nào?
Đức Thích Ca Thế Tôn một đời thuyết pháp, hằng khuyên chúng sanh niệm Phật A Di Đà cầu sanh về thế giới Cực Lạc. Như trong các kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, Phật Thuyết A Di Đà, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm ... có đến mấy mươi bộ, Phật đều ân cần khuyên sanh về Tây Phương.
Chẳng những riêng các kinh, mà trong các luận, chư Bồ Tát, Tổ Sư đều bảo nên cầu sanh về Cực Lạc.
Lại nữa, đức Phật A Di Đà có bốn mươi tám điều đại bi nguyện lực để tiếp độ chúng sanh.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: 'Phật A Di Đà có tám mươi bốn ngàn tướng, mỗi tướng có tám mươi bốn ngàn vẻ đẹp tùy hình, mỗi vẻ đẹp phóng ra tám mươi bốn ngàn tia sáng soi khắp pháp giới nhiếp lấy chúng sanh niệm Phật không rời bỏ.
Nếu có chúng sanh nào niệm danh hiệu ngài, thì cơ cảm tương ưng, quyết định sẽ được vãng sanh.'
Các kinh Phật Thuyết A Di Đà, Vô Lượng Thọ, Cổ Âm Vương Đà Ra Ni đều nói: 'Khi Đức Thích Ca thuyết kinh, hằng hà sa chư Phật ở mười phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài che khắp cõi đại thiên để chứng thật rằng nếu chúng sanh nào niệm Phật A Di Đà, tất sẽ nương nhờ đại bi nguyện lực của ngài, quyết định được sanh về thế giới Cực Lạc.'
Còn về “KHÔNG GIAN” thì có thể đêm “KHẮP CÕI ĐẠI THIÊN” để ở trong “ MỘT TƯỚNG LƯỠI ” của Chư Phật. Xin xem, “THẬP HUYỀN MÔN “ của KINH HOA NGHIÊM sẽ rõ “SỰ RỘNG VÀ HẸP TỰ TẠI KHÔNG NGẠI.”
Nên biết Phật A Di Đà đối với cõi nầy có nhân duyên lớn. Như kinh Vô Lượng Thọ nói: 'Trong thời mạt, khi các kinh khác đã diệt hết, chỉ còn kinh nầy lưu trú ở đời một trăm năm để tiếp độ loài hữu tình vãng sanh về cõi kia.' Đây là điểm chứng minh Phật A Di Đà đối với chúng sanh ở cõi trược nầy có đại nhân duyên.
Về các Tịnh Độ khác, tuy một, hai bộ kinh có lược khuyên vãng sanh, song chẳng bằng cõi Cực Lạc là tiêu điểm mà các kinh, luận đều ân cần khuyến hướng.
Tịnh Độ Thập Nghi Luận (của Trí Giả Đại Sư )
Việt Dịch: HÒA THƯỢNG Thiền Tâm
Tuy nhiên, sở thích và nhân duyên của chúng-sanh với chư Phật khác nhau, cho nên nếu Qúy-vị ưa thích vị Phật nào, thì nguyện sanh về cõi Đức Phật đó.
Kệ tụng:
Chuyên tụng một phẩm Kinh
Một Chân-Ngôn, hiệu Phật
Thì thành tựu các nguyện
Thỏa mãn các mong cầu
Chỉ sợ người không tin
Hoặc tin mà không sâu
Lại ngại không thực hành
Hoặc hành không bền lâu
Hoặc tuy hành bền lâu
Không chí tâm khẩn cầu
Chí tâm là không vọng
Trì niệm quên thân tâm
Lặng lẽ dứt phân biệt
Không trong, ngoài, người, cảnh
Khi đi, đứng, thức, ngủ
Chẳng bỏ câu trì niệm
Lúc hưỡn, gấp, an, nguy
Cũng vững vàng trì niệm
Cho đến khi sắp chết
Vẫn như thế trì niệm
Ðắc, thất đều do đây
Cần chi hỏi tri thức
Không hành như trên đây
Phật cũng khó cứu vớt
Huống nữa là phàm Tăng
Giúp ích được gì đâu
Nhớ lời Cổ Ðức dạy:
“Ta có một bí quyết
Khẩn thiết khuyên bảo nhau
Là hết lòng THÀNH KÍNH
Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”
Hãy ghi nhớ lời nầy
Lắng lòng suy gẫm sâu
THÀNH KÍNH là “NHẤT TÂM” tu “MỘT PHÁP” như chỉ trì 1 thủ nhãn..., trong vòng 7, 21, 49…để khắc kỳ cầu chứng nghiệm.Tuy nhiên, nếu thấy không làm được thì có thể kiêm tu hoặc “Niệm Phật và Trì Chú” , hoặc “Trì Chú và Tụng Kinh”… như dù “CHUYÊN TU” hay “KIÊM TU” , đều tối trọng yếu là dùng “TÍN, NGUYỆN” để đem công hạnh tu trì trong một đời hướng về cõi Tịnh-độ mà Qúy-vị ưa thích ĐƯỢC VÃNG SANH.
Tóm lại, nếu Qúy-vị “TRÌ” THANH LIÊN HOA THỦ NHÃN ẤN PHÁP thì tùy ý vãng-sanh ở 10 phương “TỊNH ĐỘ”, được hóa sanh trong hoa sen xanh, khi hoa nở thấy Phật “CHỨNG VÔ SANH”, rồi trong khoảng 1 “SÁT NA TỰ TẠI” qua lại trong 10 phương Tịnh-độ.
Cũng như trong KINH LĂNG GÌA nói về “Ý SANH THÂN, KHÔNG CẦN TÁC Ý MÀ HIỆN VÔ LƯỢNG THÂN CÙNG MỘT LÚC KHẮP MƯỜI PHƯƠNG”
(CHỦNG LOẠI CÂU SANH VÔ HÀNH TÁC Ý SANH THÂN)
26. Ma Hê Ma Hê Rị Ðà Dựng
Ma Hê Ma Hê. Hán dịch là “Vô ngôn cực ý”
“Vô ngôn” nghĩa là không cần phải nói nữa.
“Cực ý” có nghĩa là ý niệm kia đã đạt đến chỗ tối thượng, đã đạt chỗ vi diệu rồi.
Ma hê ma hê cũng còn có thể dịch là “tự tại”. Tự tại như Đại Phạm Thiên Vương: không buồn, không phiền, không lo, không giận. Suốt ngày đều được tự chủ và an vui.
Đây là “Ngũ Sắc Vân Thủ Nhãn”. Khi biết ấn này, sẽ làm lưu xuất ra mây lành ngũ sắc, và hành giả sẽ đạt được năng lực tự tại phi thường. Diệu dụng và năng lực tự tại của ấn pháp này thực là vô lượng vô biên.
Rị Ðà Dựng là “Thanh Liên Hoa thủ nhãn”. Có nghĩa là “Liên hoa tâm”. Khi quí vị hành trì ấn pháp này thành tựu, sẽ được mùi hương hoa sen xanh toả ra, và được mười phương chư Phật tán thán. Sự vi diệu thật khó có thể nghĩ bàn. Đúng là:
Pháp Phật cao siêu thật nhiệm mầu
Trăm ngàn ức kiếp khó tìm cầu!
Ngũ-Sắc-Vân Thủ Nhãn Ấn Pháp
Theo trong KINH ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI “XUẤT TƯỢNG” nói rằng: “Khi Quý vị trì tụng câu chú MA HÊ MA HÊ RỊ ÐÀ DỰNG, thì ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ sẽ “XUẤT HIỆN”, để TIẾP DẪN QUÝ VỊ VỀ CÕI CỰC LẠC CỦA NGÀI.
BỔN THÂN ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ Thường trì “THANH LIÊN HOA THỦ NHÃN ẤN PHÁP” và “NGŨ SẮC VÂN THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, để TIẾP DẪN CHÚNG SANH TRONG 10 PHƯƠNG SANH VỀ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC CỦA NGÀI, THÌ CHỨNG ĐƯỢC “BẤT THOÁI CHUYỂN”, CHO TỚI KHI THÀNH PHẬT. Cũng như Bồ-tát QUÁN THẾ ÂM, đã thành PHẬT là “CHÁNH PHÁP MINH NHƯ LAI”, mà vẫn TRÌ CHÚ ĐẠI BI để Tiếp Dẫn chúng sanh VÃNG SANH về Cực-lạc.
Nếu “QUÝ VỊ” Thường TRÌ “THANH LIÊN HOA THỦ NHÃN ẤN PHÁP” và “NGŨ SẮC VÂN THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, thì Qúy vị là “HÓA THÂN” của PHẬT A DI ĐÀ, nghĩa là cũng làm được như Ngài vậy.
Kệ tụng :
Ứng cơ thị hiện vô lượng thân
Đại tiểu quyền thật hiển uy thần
Kim cang bất hoại thường tự tại
Thiên nhãn diêu quán thiên nhĩ văn.
Còn theo “KỆ TỤNG” thì BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM, TÙY THEO CĂN CƠ CỦA CHÚNG SANH TRONG 10 PHƯƠNG, MÀ HIỆN VÔ LƯỢNG THÂN, VÔ LƯỢNG TAY MẮT (THỦ NHÃN), VÔ LƯỢNG PHƯƠNG TIỆN NHƯ LÀ PHÁP: ĐẠI THỪA, TIỂU THỪA, QUYỀN THỪA, THẬT THỪA hoặc HIỂN UY LỰC hoặc HIỆN THẦN THÔNG BIẾN HÓA...
ĐỂ GIÚP CHO NGƯỜI TU 2 THỦ NHÃN NẦY, MAU ĐƯỢC THÂN KIM CANG BẤT HOẠI THƯỜNG TỰ TẠI, TỨC LÀ CHỨNG ĐƯỢC “PHÁP THÂN THƯỜNG TRỤ” CỦA CÁC ĐỨC NHƯ LAI.
KINH ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI XUẤT TƯỢNG
Hòa Thượng THIỀN TÂM Dịch ra VIỆT VĂN
KỆ TỤNG
Hòa Thượng TUYÊN HÓA Kệ tụng
ĐẠI BI CHÚ
Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa
Bản dịch của THÍCH NHUẬN CHÂU
CÚ GIẢI
(Giảng giải từng câu)
Phi tắc Thiện Tinh sanh hãm trụy. Còn
phi là sai, thì vị Tỳ kheo Thiện Tinh cũng bị đọa nữa.
Bởi vì Tỳ kheo Thiện Tinh tu chứng được Tứ thiền, ông sanh ở cõi
trời sắc giới. Sau hết phước ở cõi trời sắc giới, ông đọa xuống trần gian. Lúc
đó ông phỉ báng giáo lý Phật, ông nói rằng được lên cõi trời sắc giới tưởng là
chứng được Niết bàn, ai ngờ đâu còn rớt trở lại. Vì phỉ báng như vậy cho nên
sau này ông phải đọa. Như vậy thì đã là Tỳ kheo chứng được Tứ thiền rồi mà
không hiểu thấu được lý Phật dạy rồi cũng phải bị đọa. Đây là trong kinh Niết
Bàn phẩm Ca Diếp có nói rõ câu chuyện này, đó là đi sai.
CHÁNH VĂN :
Ngô
tảo niên lai tích học vấn,
Diệc
tằng thảo sớ tầm kinh luận,
Phân
biệt danh tướng bất tri hưu,
Nhập
hải toán sa đồ tự khốn,
Khước
bị Như Lai khổ ha trách,
Sổ
tha trân bảo hữu hà ích?
Tòng
lai tắng đắng giác hư hành,
Đa
niên uổng tác phong trần khách !
GIẢNG :
Đây ngài nói cái khổ của ngài lúc trước, lúc ban đầu đó.
Ngô là tôi; tảo là hồi xưa, hồi sớm đó; tích niên là nhiều năm.
Ngô tảo niên lai tích học vấn, là những
năm về trước tôi tích lũy sự học vấn. Nhớ nhe ông thầy nào tích lũy học vấn nhớ
kỹ đoạn này. Tôi sớm đã nhiều năm tích lũy học vấn.
Diệc tằng thảo sớ tầm kinh luận, là
cũng từng thảo sớ tìm trong kinh trong luận dịch ra đồ..v.v…
Phân biệt danh tướng bất tri hưu, tức
là phân biệt danh tướng không có thôi phân biệt. Danh từ này, danh từ kia khác
nhau chỗ nào, chỗ nào nghe hay lắm, không có thôi.
Nhập hải toán sa đồ tự khốn, là chẳng
khác nào vào biển mà đếm cát tự nhọc mình.
Quý vị nghe chưa. Như vậy
thì mới thấy, nếu chúng ta chỉ kẹt trong văn tự chữ nghĩa thì chúng ta phải lao
khổ nhiều kiếp chớ không có giải thoát.
Những câu này là ngài diễn tả lại ngày trước của mình tu. Nếu
mình tu cứ chạy theo danh tướng chữ nghĩa văn tự, rồi từ ngữ ..v.v…, rồi cả đời
như vậy thì rất là uổng.
Khước bị Như Lai khổ ha trách, Rồi lại
bị Như Lai khổ ha trách tức bị Phật quở nhiều nữa. Tại sao? Quở trách cách nào?
Sổ tha trân bảo hữu hà ích? Đếm của
báo cho người thì có ích gì? Nghĩa là cứ thấy trong kinh, trong luận rồi dịch
ra hoài thì thử hỏi mình được cái gì. Đó là làm việc cho ai chớ không có gì hết.
Cho nên lại Như lai quở trách nặng, khổ đó, nhiều đó. Rồi trách bằng cách nào?
Nói rằng ông đếm của báu cho người có ích gì cho ông.
Tòng lai tắng đắng giác hư hành, là từ
đó đến giờ mới nhọc nhằn, mới thức tỉnh được hành động vô ích của mình. Hư là rỗng
là vô ích
Đa niên uổng tác phong trần khách. Là
nhiều năm luống làm người khách phong trần. Nghĩa là nhiều năm vẫn lang thang
làm người khách phong trần, chớ không trở về được bảo sở. Giống như kinh Pháp
Hoa nói chàng cùng tử đi lang thang mà không trở về với cha với mẹ vậy.
Hai câu này nói nghe rất là đáng nhớ. Nghĩa là đã từ bao nhiêu
năm thức tỉnh mới biết rằng việc làm nó rỗng nhiều năm, luống làm kẻ khách
phong trần. Nghĩa là người khách đi ngoài đường bụi bậm dính đầy mình, khách
phong trần lang thang hoài.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Trong kinh Pháp Hoa,
nơi phẩm Hoá Thành Dụ, đức Thế Tôn có nói đại khái như sau:
"Một vị đạo sư hướng dẫn đoàn người vượt qua đoạn đường hiểm trở xa độ năm
trăm do tuần, để đến nơi bảo sở là chỗ có nhiều châu báu. Nhưng giữa đường đoàn
người ấy mỏi mệt thối tâm, xin muốn lui bước trở về. Ðạo sư nghe nói thương
xót, dùng phương tiện biến ra một hóa thành cách đó ba trăm do tuần và bảo:
"Các ông hãy cố gắng đến thành ấy tạm nghỉ sẽ hết nhọc mệt!". Ðoàn
người vui mừng tiến tới hóa thành, cho rằng mình đã đến nơi, đã được chỗ an ổn.
Khi đạo sư thấy họ đã nghỉ ngơi xong, liền diệt mất hóa thành và bảo: "Vừa
rồi là hóa thành không phải cảnh thật. Ta vì thấy các ông mỏi mệt bỏ dở công
khó muốn lui trở về, nên thương xót phương tiện hóa hiện ra. Nay đã sắp gần tới
bảo sở các ông nên cố gắng gia công tiến bước..."
Theo thí dụ trên, Ðạo Sư chỉ cho đức Như lai. Ðoàn người chỉ cho hành giả tiến
tu theo chánh pháp. Ðường năm trăm do tuần, chỉ cho sự hiểm nguy khổ nạn trong
Ngũ thú luân hồi là: Thiên, nhơn, bàng sanh, ngạ quỉ, địa ngục. Trông đây không
kể A tu la và thần tiên, vì hai đạo này nhiếp vào các nẻo kia. Như A-tu-la thì
có thiên A-tu-la, nhơn A-tu-la, quỉ A- tu-la, súc A–tu-la. Tiên thì có thiên
tiên, quỉ tiên cho đến súc tiên, chẳng hạn như hồ tiên cho đến long tiên v.v...
Nếu phối hợp với các thừa, thì năm trăm do tuần là sự trải vượt qua năm thừa
gồm: Nhơn thừa, Thiên thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa. Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát còn kể trong giai đoạn hiểm nguy, vì nếu không nhờ sức
Phật gia bị, tất bị u trệ, khó nỗi tiến lên Phật quả. Nhưng đây là luận rộng
thêm đó thôi, thật ra đường hiểm năm trăm do tuần chỉ cho Ngũ Thú thì thiết cận
hơn.
Tiếp tục theo lời dụ, Bảo Sở chỉ cho Phật Quả Vô Thượng Ðẳng Giác. Cách ba trăm
do tuần, chỉ cho sự vượt khỏi Tam Giới. Hóa thành chỉ cho quả vị giải thoát
phiền hoặc ba cõi của hàng Nhị Thừa Thanh Văn, Duyên Giác. Tổng kết đại ý, đức
Thế Tôn muốn nói trong giáo pháp của Ngài, chỉ duy một Phật Thừa, không có sự
chia riêng hai thừa như Tiểu Thừa và Ðại Thừa, hoặc ba thừa như Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát Thừa. Những thừa trên đều toàn giả lập, quả vị Thanh
Văn, Duyên Giác, chỉ là Hóa Thành huyễn tạm mà thôi.
Ðối với pháp Tịnh Ðộ, có người không hiểu rõ môn này, lầm cho Cực Lạc là Hóa
Thành, chẳng phải Bảo Sở. Thật ra Hóa Thành cùng Bảo Sở là cảnh giới tu chứng
của tự tâm, không cuộc hạn nơi quốc độ. Xin nói rõ lại, Hóa Thành là cảnh giới
Thanh Văn, Duyên Giác; Bảo Sở là cảnh giới Phật. Môn Niệm Phật đưa chúng sanh
về Cực Lạc, để mau tiến lên cảnh giới Phật, chứng thành Phật quả. Ðó là đường
lối thẳng tắt tiến về Bảo Sở; chớ đâu phải trụ nơi Hóa Thành. Ðúng ra Ta Bà và
Cực Lạc đều là huyễn cảnh, nhưng Ta Bà có vô lượng khổ nạn chướng duyên, Cực
Lạc đủ vô lượng duyên lành tiến đạo. Bởi thế chư Phật đều khuyên nên cầu vãng
sanh để dễ tiến tu, không còn thuộc giới phàm phu đầy đủ nghiệp lực mà cho Cực
Lạc là Hóa Thành, cam ở cảnh Ta Bà vô lượng chướng duyên hiểm nạn, rất khó được
giải thoát, đó là Bảo Sở đấy ư? Thật là lầm lạc và đáng buồn cười lắm vậy!
Câu "Lối hiểm đều san bằng" hàm ý nghĩa: Khi công phu niệm Phật thuần
thục, về cõi Phàm Thánh Ðồng Cư nơi Cực Lạc thì đã thoát khỏi sự luân hồi trong
đường hiểm Ngũ Thú thuộc Tam Giới, lại thường được gần gũi Phật cùng chư Bồ
Tát, không còn bị chướng ngại và bị thối chuyển trên đường Vô Thượng Bồ Ðề. Tóm
lại một câu niệm Phật có công năng mầu nhiệm san bằng tất cả hiểm nạn trên
đường tu, đưa hành giả tiến mau về Bảo Sở, nên Triệt Ngộ thiền sư mới tỏ bày
khen ngợi!
CHÁNH VĂN :
Chủng
tánh tà, thác tri giải,
Bất
đạt Như lai viên đốn chế.
Nhị
thừa tinh tiến vật đạo tâm,
Ngoại
đạo thông minh vô trí huệ.
Diệc
ngu si, diệc tiểu ngãi,
Không
quyền chỉ thượng sanh thực giải,
Chấp
chỉ vi nguyệt uổng thi công,
Căn
cảnh pháp trung hư niết quái!
GIẢNG :
Chủng tánh tà, thác tri giải,
Bất đạt Như lai viên đốn chế.
Ở đây ngài nói rằng những người có chủng tánh tà, có cái hiểu biết
sai thì những người đó họ không thấu suốt được cái giáo lý viên đốn của Đức Phật.
Nhị thừa tinh tiến vật đạo tâm, Còn
hang Nhị thừa tuy là tinh tiến nhưng mà không có đạo tâm. Tại sao vậy? Tinh tiến
mà không giác ngộ thì gọi là không có đạo tâm.
Ngoại đạo thông minh vô trí huệ. Người
ngọai đạo tuy thông minh nhưng không có trí huệ. Tại sao vậy? Thông minh tức là
suy xét, nhận định giỏi khéo. Nhưng không có trí tuệ là không nhận được lẽ thực,
cái chân lý đã sẳn ở nơi mình. Nhận được lẽ thật, thấy được chân lý đó mới gọi
là trí tuệ. Nếu chỉ so sánh đối chiếu hay dỡ với nhau thì đó người nào lanh lợi
gọi là thông minh, chớ mà không có đi đến đâu.
Diệc ngu si, diệc tiểu ngãi, như vậy
những người đó cũng là ngu si và những người còn ngây thơ. Tiểu ngãi là ngây
thơ thôi. Như vậy những hàng đó chỉ là ngu si, là ngây thơ
Không quyền chỉ thượng sanh thực giải, là
trong cái nắm tay không mà tưởng là trong đó có gì. Đây là ví dụ như bà mẹ xách
giỏ đi chợ, con khóc đòi đi theo mới nói, đây có bánh này cho con đừng khóc nữa.
Nó chạy lại mừng tưởng có bánh thật giở ra tay không. Không quyền là nắm tay
không, mà chỉ để dỗ con nít thôi, mà mình lại lầm. Vì vậy mà ngài nói không quyền
chỉ thượng sanh thực giải tưởng là có thật.
Chấp chỉ vi nguyệt uổng thi công, tức
là mình chấp ngón tay làm mặt trăng thì công mình rất là lầm. Thí dụ như đêm
mùng ba, mùng bốn, mặt trăng lên có ở phía tây, rồi hai ba huynh đệ ra đứng
nhìn. Có người nhìn thấy nói, ờ kìa có mặt trăng. Hỏi mặt trăng chỗ nào? Người
ta chưa thấy thì mình phải sao? Lấy tay chỉ đó, hướng đó, ngay chỗ đó đó, nương
ngón tay nhìn thấy mặt trăng. Như vậy ngón tay có phải mặt trăng không? Ngón
tay chỉ là một phương tiện hướng dẫn để thấy mặt trăng. Bao nhiêu kinh điển Phật
dạy là ngón tay, mà nhận được tánh giác của mình mới là mặt trăng. Phật muốn chỉ
mình có tánh giác.
Bây giờ tôi thấy thật là đáng thương. Kinh Phật dạy để làm gì? Để
đọc, đọc tụng. Đọc tụng để làm gì? Để hiểu để thâm nhập được chỗ Phật chỉ.
Nhưng bây giờ mình cứ đem ra đọc tụng đủ rồi, bửa nào đọc được hai ba bộ là bửa
đó hay lắm rồi, tu như vậy rất là hay. Như tôi thường nói cứ đọc Bát Nhã chiếu
kiến ngũ uẩn giai không một trăm biến thì cũng là như vậy thôi. Còn mình đọc tới
chiếu kiến ngũ uẩn giai không, mình biết soi lại năm uẩn của mình quả tang nó
không thật, thì cái đó mới là chỗ Phật chỉ, Phật bảo. Còn này mình cứ đọc hoài,
đọc tới suốt kiếp thì chũng chỉ là kinh thôi, mình là mình kinh là kinh. Cho
ngón tay là mặt trăng thì ngàn đời không thấy được mặ trăng. Bởi vậy mình hiểu
cho chí lý mới thấy lời Phật dạy hết sức là rõ ràng.
Đời ta chí
gởi chốn Liên-trì,
Trần
thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài
chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy
đức A-Di.
Bút giả (Hòa Thượng Thích
Thiền-Tâm) vì xét thấy nhiều liên hữu khi tu bị phiền não và ma nạn khuấy
rối, nên phối hợp dụng chân ngôn nầy đi tiên phong dẹp chướng ngại, khiến
cho thân tâm dễ được thanh tịnh trước khi niệm Phật. Tuy nhiên chúng sanh
túc tập và sở báo đều khác.
Vị nào thích tụng chú Đại Bi hoặc Chuẩn
Đề, thì chỉ cần đổi bài kệ tán Đại Bi, Chuẩn Đề. Và sau khi tụng chú
hộ thân, Lục tự đại minh, tiếp tụng môn đà ra ni của mình. Và hành giả nào
thích tụng kinh Kinh Cang hoặc Pháp Hoa, chỉ đổi
đoạn trì chú thành tụng kinh, rồi tiếp tục niệm Phật.
Chân ngôn Vô Lượng Thọ thuộc về Bất
tư nghì thần lực, câu niệm Phật thuộc về Bất tư nghì công đức.
Cả hai, bên Mật bên Hiển, cùng một nguồn gốc, đều có năng lực đưa hành giả về
Tịnh độ. Nếu phối hợp lại, tất công năng vãng sanh càng thêm kiến hiệu.
Có một độ, bút giả vừa tụng
xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực
vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã
từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt
tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô
lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay
chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô
lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại
Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi
thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc
ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm
mầu không thể diễn tả!
Nhứt cú Di Ðà
Nhứt Ðại Tạng Kinh
Tung hoành giao thái
Tuyệt đãi u linh.
(Một câu A Di Ðà
Là một Ðại Tạng Kinh
Dọc, ngang giao chói sáng
Tuyệt đối, thể u linh.)
LỜI BÀN:
Thông thường người tụng kinh đều tìm
kiến giải, rồi theo kiến giải mà thực hành, như
theo Hòa Thượng thì quên hết mọi điều kiến giải, đọc từ đầu đến cuối, thì mới hợp với “CHƠN TÂM BỔN TÁNH”.
Cũng như lìa sáu trần: Sắc, Thanh, Hương,Vị, Xúc, Pháp mà
có sự hiểu biết , thì đó mới là CHƠN TÂM của chính mình. (KINH
LĂNG NGHIÊM)
Ðể kết luận, cần nhấn rõ thêm là những điều nói trên tuyệt
không có ý bài bác Thiền, Mật. Thiền và Mật là hai pháp môn cao siêu, và thật
ra Thiền, Mật, Tịnh cả ba đều có đặc điểm riêng, cần tu học để hỗ trợ cho nhau.
Chẳng hạn như khi trì chú theo của chân ngôn, Phật hiệu huân sâu vào tạng thức,
kích động cho phiền não nổi dậy, phương pháp làm lắng động hữu hiệu nhứt không
chi hơn Thiền. Trong lúc tham thiền hoặc niệm Phật, ma chướng trong ngoài khuấy
rối, cách hàng phục kiến hiệu mau lẹ nhứt, không chi hơn Mật. Và muốn giải
quyết việc lớn là sống chết luân hồi một cách thẳng tắt chắc chắn nhứt, lại
không chi hơn Tịnh. Luận cho cùng mỗi môn tự hàm đủ công năng của ba, song đó
là ứng dụng của bậc trình độ cao siêu. Còn với bậc sơ cơ non kém, thật ra vẫn
có sự sai biệt. Ví như bậc Tổ Sư về võ, dù sử dụng côn, chùy, kiếm, sự lợi hại
vẫn đồng như nhau. Nhưng với hạng võ nghệ thông thường thì tác dụng của ba
môn binh khí kia lại có sai biệt. Nếu chẳng thế, trong võ lâm cần chi
bày ra ba môn ấy cho thêm phiền!?
Cho nên trong thời mạt pháp, theo thiển ý nên lấy
Tịnh Ðộ làm chánh yếu, Thiền, Mật... làm phụ trợ. Hoặc nếu có tu Thiền hay
Mật... cũng nên niệm Phật nhiều ít hồi hướng về
cõi Cực Lạc ở Tây phương.
Căn cảnh pháp trung hư niết quái! Là
trong căn là mắt tai mũi lưỡi thân ý của mình, cảnh là sáu trần ngoài. Trong
hai cái hư giả đó mà rồi mình luống tạo thành nghiệp điên đảo khổ sở.
Quý vị thấy không, hiện
giờ chúng ta cải lộn ầm ầm với nhau là tại cái gì? Vì cảnh sáu trần, vì sáu
căn. Thí dụ lỗ tai mình nghe người ta nói câu gì hơi phạm tới giá trị mình thì
sao? Thì câu nói đó là trần, căn lỗ tai nghe, nghe cái nổi giận. Như vậy trong
cái căn, cái cảnh đó mà chúng ta tạo ra không biết bao nghiệp, bao nhiêu nghiệp
mà tạo đó là nghiệp dối thôi chớ không có thật. Nhưng mà đang ở đây thì thật
trăm phần trăm hết trơn, người ta chửi mình là thật thì cái nghiệp phải thật,
người ta khen mình là thật thì cái nghiệp đó phải thật. Nên nó thật với kẻ mê,
nhưng nó là dối với người tỉnh.
Bây giờ quý vị xác định
muốn làm người tỉnh hay thích làm người mê? Bên tỉnh bên mê muốn cái nào? Coi bộ
muốn làm tỉnh ít quá, muốn làm mê nhiều. Bởi vậy nên Phật thương chúng ta là chỗ
đó, si mê nói hoài nghe cũng không hiểu, rồi cũng đâu để đó không chịu tỉnh.
Như vậy cho nên tu theo đạo Phật là giác, là tỉnh, mà bây giờ Phật tử mình tu
theo đạo Phật mà ưng mê. Như vậy theo Phật hay theo ai? Phật là giác, theo đạo
giác mà mình mê thì đi đúng không? Tức là giác đi bên đông, mê đi bên tây. Bây
giờ theo Phật vổ ngực là đệ tử Phật mà lại mê, như vậy thì quý vị nói làm sao? Có hổ thẹn không? Bởi vậy là đệ
tử Phật phải ráng giác đừng để mê. Vì có giác thì chúng ta mới ra khỏi sanh tử,
còn mê thì muôn đời không ra khỏi sanh tử.
CHÁNH VĂN :
Bất
kiến nhất pháp tức Như Lai,
Phương
đắc danh vi Quán Tự Tại.
Liễu
tức nghiệp chướng bổn lai không,
Vị
liễu ưng tu hoàn túc trái.
GIẢNG :
Bất kiến nhất pháp tức Như Lai, là
không thấy có một pháp thật tức là thấy Phật. Câu này nguyên văn chữ Hán trong
kinh Kim Cang Phật cũng đã nói rõ: “Vô sở hữu pháp tức kiến Như Lai”, tức là
mình không thấy có một pháp thật là thấy Phật. Tại sao lại có ý lạ vậy? Bởi vì
nếu mình thấy một pháp nào có hình có tướng mà nói nó là thật, thì đối với con
mắt Phật cho đó là mình thấy đã sai. Vì có hình có tướng là có sanh có diệt, có
sanh có diệt thì chưa phải chân lý. Vì vậy mà chúng ta thấy tất cả pháp có hình
tướng nó không thực, tức là chúng ta thấy được chân lý, là thấy Phật.
Phương đắc danh vi Quán Tự Tại. Được
như vậy mới gọi là Bồ tát Quán Tự Tại. Quán Tự Tại tức là nhìn thấy các pháp
không có một tí nào chướng ngại, không có một tí nào ngăn trở hết. Đối với con
mắt Phật, thấy tất cả pháp có hình có tướng đều là vô thường, đều là sanh diệt,
nên không phải là chỗ cứu kính chân thật, mà cứu kính chân thật đó gọi là Như
Lai. Người nào thấy rõ tất cả pháp, không có một cái gì có hình tướng là thật hết,
thì người đó thấy được lẽ thật, gọi đó là cái nhìn thấu suốt không có trở ngại,
cho nên mới gọi là Quán Tự Tại.
Liễu tức nghiệp chướng bổn lai
không,
Vị liễu ưng tu hoàn túc trái.
Liễu tức là liễu ngộ. Liễu ngộ thì nghiệp chướng xưa nay nó là
không. Còn người không liễu ngộ thì nên phải trả lại nợ trước. Tại sao vậy? Liễu
ngộ là thế nào? Không liễu ngộ là thế nào? Bởi vì người học Phật chúng ta nhiều
khi thấy trong kinh Phật dạy nó có cái gì hơi mâu thuẫn. Thí dụ như các kinh A
Hàm thì Phật dạy rõ ràng làm một nghiệp lành, làm một nghiệp dữ thì đều phải trả
lại nghiệp của mình. Làm lành thì được quả lành, làm dữ thì phải chịu quả dữ. Mọi
nhân quả không sai chạy, cái nào thì phải đền lại cái ấy. Đó là tinh thần kinh
A Hàm.
Nhưng lên hệ thống Bát Nhã thì lại khác. Hệ thống Bát nhã nếu thấy
các pháp không thật thì nghiệp chướng nó không có thật. Nghiệp chướng không thật
thì tức là liễu ngộ, thì nghiệp chướng xưa nay là không.
Tôi nói thí dụ cho quý vị
hiểu. Như chúng ta còn mê, mình nói một lời ra, lời lành thì người ta
vui, lời dữ thì người ta giận. Bởi chúng ta quen ai nói hiền lành thì dễ
thương, ai nói hung dữ là dễ ghét. Lời lành là tốt, lời dữ là ác. Như vậy nên mở
miệng nói vừa có một lời không tốt thì bị phản ứng liền, người ta liền chống trả
lại. Còn nói lời tốt thì người ta nghe vui vẻ. Đó là chúng ta ở trong tâm trạng
mê lầm với nhau.
Nếu chúng ta nói lời lành, nói lời dữ mà ở trong tâm trạng của
các vị Bồ tát thì sao? Mình nói lời dữ với Bồ tát, Bồ tát nghe không có phẩn uất,
không có giận hờn. Còn nói lời lành với Bồ tát thì Bồ tát nghe cũng không có
cái gì vui mừng. Như vậy thì tâm trạng người liễu ngộ không có thấy lời nói là
thật, mà lời nói không thật thì nói hay nói dỡ cũng như nhau thôi. Còn tâm trạng
mê lầm của chúng ta cho lời lành là thật, lời dữ là thật.
Bây giờ tôi hỏi quí Phật tử, người ta nói lời lành, người ta nói
lời dữ, nếu mình nghe mình không để ý thì có dính vào lỗ tai mình không? Họ nói
gì mặc họ, như gió thổi qua tai, thì có gì thương, có gì ghét không? Còn ngược
lại, chúng ta nhạy vừa có nghe tiếng cái nó dính tuốt ở trong này, rồi chạy về
trong tim, trong phổi nữa, thì lời nói qua mình có vui có buồn không? Nhất định
phải có vui, có buồn.
Như vậy, liễu là liễu ngộ, người liễu ngộ rồi thì biết ngôn ngữ
không thật, ngôn ngữ không thật thì khen chê cũng là không thật thôi. Đã không
thật thì có cái gì mà vui, mà buồn. Cho nên nói liễu tức nghiệp chướng bổn lai
không, người liễu ngộ rồi thì mọi nghiệp chướng người ta mắng mình, người ta
khinh mình coi như không có gì hết, không buồn, không tức thì nghiệp chướng bổn
lai không.
Còn vị liễu ưng tu hoàn túc trái, chưa liễu ngộ thì phải trả nợ
đủ. Mình nói lời gì ra người ta phản ứng lại y nguyên. Hoặc nặng hơn mình nói
người ta con mèo, người ta mắng lại mình là con chó. Nghĩa là nó trả liền chớ
nó không có tha.
Vì vậy mà trên phương diện liễu ngộ thấy rồi, nghe rồi, qua hết
không có chướng ngại. Vì biết rằng các pháp không thật, mà không thật thì có chấp
vào đâu mà có chướng ngại. Còn người chưa liễu ngộ thì cố chấp một lời nói, một
hành động, một cử chỉ nào mình không vừa ý, thì nổi tức lên. Còn hành động, lời
nói nào vừa ý thì mình khen, mình thích. Vì vậy mà nghiệp chướng nó có đầy đủ,
cho nên nói vị liễu ưng tu hoàn túc trái, người chưa liễu ngộ thì phải đền lại
cái nợ trước. Trước mình gây cái gì thì nay mình phải trả cái ấy. Nếu trước
mình gây cái lành thì nay mình phải hưởng cái lành, trước mình gây cái dữ thì
nay mình phải đền cái dữ. Còn người liễu ngộ rồi thì hết, không còn đền trả nữa.
Đó là hai trường hợp đặc biệt.
(Thông thường người đời chỉ TIN NHÂN QUẢ THẾ GIAN mà thôi, còn NHÂN QUẢ XUẤT THẾ GIAN thì không đủ NHẪN LỰC, để TIN ĐƯỢC NGUYỆN LỰC CỦA CHƯ PHẬT, CHƯ BỒ TÁT…)
Chứng thực tướng, vô nhân pháp,
Sát-na diệt khước A-tỳ nghiệp.
CHÁNH VĂN :
Cơ
phùng ngọc thiện bất năng xan.
Bệnh
ngộ Y Vương chẩm đắc sái?
Tại
dục hành thiền tri kiến lực,
Hỏa
trung sanh liên chung bất hoại.
Dõng
Thí phạm trọng ngộ vô sanh,
Tảo
thời thành Phật ư kim tại.
GIẢNG :
Cơ phùng ngọc thiện bất năng xan. Cơ là
đói, phùng là gặp, ngọc thiện là cơm rất ngon. Nghĩa là đói mà gặp cơm rất ngon
nhưng không thể ăn.
Bệnh ngộ Y Vương chẩm đắc sái? Bệnh
mà gặp ông vua thầy thuốc mà không chịu trị chửa.
Tại sao vậy? Đói gặp cơm ngon mà không chịu ăn, bệnh gặp thầy
thuốc hay mà không chịu trị, chịu chửa, là tại làm sao? Tại vì cái mê lầm. Lời
Phật nói là lời vàng, lời ngọc, Ngài chỉ chân lý chân lý bất sanh, bất diệt cho
chúng ta. Nhưng nghe nói cái đó nó không dính gì với mình hết trơn đó. Nếu nói
ngày mai mua bán món đó lời năm chục ngàn, ba chục ngàn coi bộ dính liền. Còn
nói thân này giả nghe nó không dính vào đâu hết trơn đó, đó nó vậy đó.
Mà nói giả là chân lý, cũng như cơm ngon mà không chịu ăn, chỉ
ăn những cái tạm tạm vậy thôi hà, cơm hẩm đó mà chịu. Còn bệnh thì ai ở thế
gian này còn mê lầm là còn bệnh. Phật chỉ thẳng chỗ giác ngộ thoát khỏi mê lầm,
mà mình lại không chịu nghe cái đó. Cứ nghe những chuyện gì có lợi cho hiện tại,
cái gì được mọi người vui thích thì chịu nghe. Còn lẽ thật, cái chân lý siêu việt
đó mình không muốn biết, không muốn hiểu. Cho nên nói bệnh mà gặp thầy thuốc
hay không chịu chửa, không chịu trị mà muốn chửa trị những cái gì nhẹ nhẹ thôi.
Tại dục hành thiền tri kiến lực,
Hỏa trung sanh liên chung bất hoại.
Tại dục là ở trong cõi dục giới này. Trong nhà Phật chia trên thế
giới làm ba phần: Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Cõi dục là con người, con vật
trên cõi này đều do ái dục sanh nở ra. Cõi sắc là do tu thiền định mà được. Cõi
vô sắc cũng do tu thiền định mà được. Hiện giờ ở trên thế gian các nhà khoa học
tìm kiếm đều tìm kiếm những cái gì ở trong cõi dục thôi, còn cõi sắc và vô sắc
họ chưa biết tới. Như vậy để thấy rằng lời nói của Phật chỉ tột cùng những cái
mà thế gian chưa biết tới, chưa biết được. Cõi sắc giới còn chưa biết huống nữa
là vô sắc làm gì biết.
Ở cõi dục hành thiền cũng như là trong cái lò lữa mà hoa sen mọc
vậy. Quý vị thấy dễ hay khó? Ở thế gian
do tham mê tài sắc danh lợi..v.v… tất cả những cái đó là cái làm cho người ta ô
nhiễm. Bây giờ nếu hỏi tất cả quí Phật tử có ai không thích: tài là tiền của, sắc
là sắc đẹp, danh là danh lợi..v.v… thấy mấy cái đó có thích không? Có ai không
ưa không? Ai cũng ưa hết. Cái mà mọi người đều ưa, đó là trong cõi dục này. Sự
tham muốn những điều đó mà trong nhà Phật gọi là ngũ dục, không ai mà chẳng mê
đắm nó. Vậy ngũ dục giống như lò lữa, mà trong cõi tham đắm ngũ dục đó mình ngồi
tu, mình buông bỏ hết, giống như lò lữa mà có hoa sen mọc vậy đó, dễ hay khó?
Khó. Bởi vậy tu mà được đạo, chứng đạo ở trong cõi dục này là một chuyện đắng
cay. Tuy đắng cay mà được mới là quí. Cái quí là cái không ai làm được mà mình
làm được. Còn cái ai cũng làm hết mình làm cũng thừa.
Vì vậy mà tất cả chúng ta tu nhất là tu thiền ở trong cõi dục giới
này, chẳng khác nào trong lò lữa mà mọc ra hoa sen. Lữa là chỉ cho lữa ngũ dục,
hoa sen là thiền định trong sáng của mình nó mọc lên.
Như vậy bốn câu này nói rõ cho chúng ta thấy ở thế gian vì mê đắm
những dục lạc, mà được gặp được thấy những bậc thầy hay, những thức ăn quí mình
lại không chịu dùng. Còn người trong cõi ngũ dục đó mà mình thức tỉnh được,
mình tu hành được sức mạnh của tri kiến giống như trong lò lữa mà mọc ra hoa sen.
Quí như vậy đó. Cho nên nhà Phật thường dùng từ hoa sen trong lò lữa. Lò lữa là
thí dụ cho ngũ dục, hoa sen là thí dụ cho người ở trong cõi ngũ dục mà tâm
trong sáng thanh tịnh, người đó là người hoa sen trong lò lữa.
Dõng Thí phạm trọng ngộ vô sanh,
Tảo thời thành Phật ư kim tại.
Trong đây dẫn kinh nói, Dõng Thí là tên một vị Bồ tát. Ngày xưa,
Bồ tát này phạm hai tội: tội thứ nhất là tội dâm dục, tội thứ hai là tội sát
sanh. Dâm dục và sát sanh thì hai tội đó không thể cứu được. Là một Tỳ kheo mà
phạm hai tội đó coi như bỏ đi. Cho nên nói rằng Dõng Thí là Tỳ kheo mà phạm hai
tội đó, ông đau khổ quá không biết làm sao. Ông hối hận tìm đến vị Bồ tát tên
là Tỳ Cúc Đa khóc lóc xin sám hối. Bồ tát nói tội tánh vốn không, Dõng Thí vừa nghe
câu đó rồi liền chứng được vô sanh.
Quý vị thấy sao dễ quá !
Hồi xưa đọc mấy chỗ này tôi cũng hơi khó chịu. Mình tu mà phạm tội giết người,
phạm tội dâm dục thì phá giới hoàn toàn rồi, còn phải phạm luật của nhà nước nữa.
Nhưng tại sao gặp Bồ tát nói rằng tội tánh vốn không liền ngộ chứng được vô
sanh. Như vậy thì có cái gì nó ẩn ở trong đó không? Vì vậy mà trong khi sám hối
chúng ta có đọc bốn câu:
Tội tánh bổn không do tâm tạo,
Tâm nhược diệc thời tội diệc vong.
Tội vong tâm diệc lưỡng câu không,
Thị tắc danh vi chơn sám hối.
Tội tánh vốn là không do tâm tạo. Quý vị thấy tội từ đâu ra? Nói lời ác có tội, hành động
ác có tội. Nhưng lời nói và hành động cái gì chủ? Do lòng giận ghét mà nói ra lời
ác, có hành động ác. Tâm nóng giận ác độc đó có thật không? Quý vị xét kỹ coi cái tâm nóng giận của mình, cái
tâm ác độc của mình đó nó thật không? Nếu nó thật thì trọn đời không bao giờ bỏ
được. Có người hồi xưa nóng nảy, sau hiểu đạo rồi bỏ bớt hết nóng. Có người hồi
xưa ác độc, bây giờ biết tu rồi bỏ cái ác độc. Như vậy cái nóng giận, cái ác độc
đâu có thật. Nếu thật thì bỏ không được, mà bỏ được là không thật.
Bây giờ quý vị tìm lại những
cái gì hồi xưa mình nổi nóng đó, giờ coi nó ở đâu? Có chỗ nào không? Nó trốn,
nó nằm ở chỗ nào, tìm coi cái nóng nó ở đâu? Tìm không có, mà không có thì nó
không thật. Biết được cái tâm nóng giận, tâm ác độc đó nó không thật, thì mình
biết cái tội nó cũng không thật. Vì nó là chủ tạo ra tội, mà cái chủ động lại
không thật, thì cái tội làm sao mà thật được. Nếu ai biết cái tánh tội, cái chỗ
ban sơ của tội không có, do lời nói ác độc của mình mà thành, mà lời nói ác độc
đó từ tâm, mà tâm cũng không thật. Tâm không thật, tội không thật, biết rõ như
vậy thì sao? Thì liền chứng vô sanh. Như vậy nghe nó hơi lạ quá.
Chỗ khác nói nếu ai là Tỳ kheo mà phạm tội sát, dâm thì đọa địa
ngục. Chỗ này phạm cả hai tội mà sao lại chứng vô sanh? Có phải là mâu thuẫn
không? Thật ra nó thế này. Nếu mình phạm tội sát, tội dâm, mà thấy mình thật,
thấy hành động thật, thì muôn đời phải đọa địa ngục. Nếu mình phạm tội sát, tội
dâm, mà bây giờ giác ngộ thấy mình không thật, tâm cũng không thật, tội cũng
không thật, thì đó là đi tới chứng vô sanh. Bởi vì không thật thì còn có cái gì
để đền trả.
Như tôi nói khi chúng ta còn một niệm nghĩ phải quấy, tốt xấu,
hơn thua, thì mọi tội lỗi mình đều phải đền trả. Bao giờ chúng ta không còn một
niệm phải quấy, hơn thua nữa thì mọi tội lỗi theo đó hết. Dễ không? Quý vị nghĩ dễ hay khó? Nếu không còn một niệm phải
quấy, hơn thua, tốt xấu nữa thì tâm mình nó hoàn toàn thanh tịnh. Mà tâm hoàn
toàn thanh tịnh nó không bị nghiệp dẫn, còn tâm còn phải quấy hơn thua là tâm tạo
nghiệp bị nghiệp dẫn.
Giờ quý vị muốn chuyển
cái một nhanh như trở bàn tay thì phải làm sao? Buông hết những cái niệm, những
cái nghĩ. Phải cũng bỏ, quấy cũng bỏ, nên hay cũng bỏ, dỡ cũng bỏ, tốt bỏ, xấu
bỏ. Cả ngày không một niệm gì dấy khởi, thì tội lỗi bao nhiêu cũng đều hết sạch.
Chỉ một ngày thôi, tu một ngày hết mọi tội lỗi, quý vị chịu không? Dễ quá phải không, đâu có nói mười
ngày, hai chục ngày. Cũng như niệm Phật, Phật dạy chỉ niệm Phật nhất tâm bất loạn
trong một ngày, hai ngày tới bảy ngày thì Phật A Di Đà hiện tiền. Đơn giản có bảy
ngày được gặp Phật mà không chịu niệm. Như vậy tức là khi mình không còn một niệm
phàm tục nào ở trong tâm thì lúc đó tâm mình thanh tịnh, mà thanh tịnh thì còn
tội lỗi gì nữa. Tại vì tâm còn đối đải, còn hơn thua, còn phải quấy, còn tốt xấu
cho nên tội lỗi còn nguyên không có mất.
Như vậy cái chỗ nói ngài chứng vô sanh, là khi nghe tội tánh vốn
không do tâm tạo, thì ngài liền được cái lý tâm, mà tâm không thật thì tội
không thật, vì vậy mà đi tới vô sanh. Còn mình tại nghe cái đó mà thấy thật hết
thì không chứng nổi.
Đó là những câu nói cho chúng ta thấy rõ những cái gì ngày xưa
Phật dạy nghe thì như khó, nhưng thực tình chúng ta biết thì không phải khó hiểu
nữa. Câu chuyện Tỳ kheo Dõng Thí nghe liền chứng vô sanh, đó là trích trong kinh
Tịnh chư nghiệp chướng. Như vậy thì câu đó chứng minh rằng, thời Đức Phật có những
vị Tỳ kheo phạm giới mà ngộ được cái tội không thật, cái tâm không thật, ngay
nơi đó ngài được vô sanh. Đó là đoạn nói cho mình thấy rõ sự tu hành mê thì bao
nhiêu tội nghiệp đều phải trả đủ, còn lúc mình ngộ rồi thì tội chướng theo đó
mà tan biến.
Bài văn phát nguyện
của Liên Trì đại sư
Cúi lạy phương Tây cõi An
Lạc
Tiếp dẫn chúng sanh Đại Đạo Sư,
Nay con phát nguyện, nguyện vãng sanh
Nhờ lượng từ bi thương nhiếp thọ!
Nay con khắp vì, bốn ân
ba cõi, pháp giới chúng sanh, cầu đạo Bồ Đề, Nhất Thừa của Phật; chuyên tâm trì
niệm, hồng danh muôn đức, Phật A Di Đà, nguyện sanh Tịnh Độ. Lại bởi chúng con,
nghiệp nặng phước khinh, chướng sâu huệ cạn, nhiễm tâm dễ động, tịnh đức khó
thành, nay đối Từ Tôn, kính gieo năm vóc, bày tỏ một lòng, chí thành sám hối.
Con và chúng sanh, khoáng kiếp đến nay, mê bản tịnh tâm, buông tham sân si,
nhiễm dơ ba nghiệp, vô lượng vô biên, tội cấu đã gây, vô lượng vô biên, nghiệp
oan đã kết, nguyện đều tiêu diệt. Nguyện từ hôm nay, lập thệ nguyện sâu, xa lìa
pháp ác, thề không còn tạo, siêng tu đạo thánh, thề chẳng biếng lui, thề thành
chánh giác, thề độ chúng sanh. Xin đức Từ Tôn, dùng nguyện từ bi, chứng biết
lòng con, thương xót đến con, gia bị cho con. Nguyện khi thiền quán, hoặc lúc
mộng mơ, được thấy thân vàng, A Di Đà Phật, được chơi cõi tịnh, của đấng Đạo
Sư, được nhờ Từ Tôn, cam lộ rưới đầu, quang minh chiếu thể, tay xoa đảnh con,
áo đắp thân con, khiến cho chúng con, chướng cũ tự trừ, căn lành thêm lớn, mau
tiêu phiền não, chóng phá vô minh, viên giác tâm mầu, sáng bừng mở rộng, tịch
quang cảnh thật, thường được hiện tiền. Đến lúc lâm chung, biết ngày giờ trước,
thân không tất cả, bịnh khổ ách nạn, tâm dứt tất cả, tham luyến mê hoặc, các
căn vui đẹp, chánh niệm phân minh, xả báo an lành, như vào thiền định. Phật A
Di Đà, Quán Âm Thế Chí, cùng chư Hiền Thánh, ánh lành tiếp dẫn, tay báu dắt
dìu, lầu các, tràng phan, nhạc trời hương lạ, Tây Phương cảnh Phật, bày hiện rõ
ràng. Khiến cho chúng sanh, kẻ thấy người nghe, mừng vui khen cảm, phát Bồ Đề
tâm. Bấy giờ thân con, ngồi đài Kim Cang, bay theo sau Phật, khoảng khảy ngón
tay, sanh vào sen báu, nơi ao Thất Bảo, ở cõi Tây Phương. Rồi khi hoa nở, thấy
Phật Bồ Tát, nghe tiếng pháp mầu, chứng Vô Sanh Nhẫn, giây phút lại đi, thừa sự chư Phật,
nhờ ân thọ ký. Được thọ ký xong, ba thân bốn trí, năm nhãn sáu thông, vô lượng
trăm ngàn, môn Đà Ra Ni, tất cả công đức, thảy đều thành tựu. Từ đó về sau, không rời An Dưỡng, trở lại
Ta Bà, phân thân vô số, khắp cả mười phương, dùng sức thần thông, tự tại khó
nghĩ, và các phương tiện, độ thoát chúng sanh, đều khiến lìa nhiễm, chứng được
tịnh tâm, đồng sanh Tây Phương, lên ngôi Bất Thối.
Nguyện lớn như vậy, thế
giới không tận, chúng sanh không tận, nghiệp và phiền não, thảy đều không tận,
đại nguyện của con, cũng không cùng tận. Nay con lễ Phật, phát nguyện tu trì,
xin đem công đức, hồi thí hữu tình, bốn ân khắp báo, ba cõi đều nhờ, pháp giới
chúng sanh, đồng thành chủng trí.
CHÁNH VĂN :
Sư
tử hống vô úy thuyết,
Thâm
ta mông đỗng ngoan bì đát.
Chỉ
tri phạm trọng chướng Bồ đề.
Bất
kiến Như Lai khai bí quyết.
GIẢNG :
Sư tử hống vô úy thuyết, sư tử
hống tức là con sư tử rống. Vô úy thuyết là những lời không sơ. Tiếng sư tử rống
lên những lời không có sợ sệt.
Thâm ta mông đỗng ngoan bì đát. Nhưng
thương thay, chúng ta là kẻ mê muội, mờ mịt, không có biết.
Chỉ tri phạm trọng chướng Bồ đề. Chỉ
biết rằng người phạm trọng tội là chướng ngại bồ đề, tu không được.
Bất kiến Như Lai khai bí quyết. Không
thấy được cái bí quyết mà Đức Phật đã chỉ.
Bây giờ tôi tin trăm phần trăm rằng, ai phạm tội gì đi nữa mà một
ngày, hai ngày, ba ngày tới bảy ngày, nếu tu Tịnh độ thì niệm Phật tới nhất tâm
bất loạn thì tội hết trên; còn ai tu thiền thì từ một ngày, hai ngày, ba ngày tới
bảy ngày, tâm không còn một niệm nào hết, thì người đó cũng hết tội luôn. Cái
phải đền trả bao nhiêu kiếp bây giờ mình chỉ lấy bảy ngày tu cái xong. Quý vị chịu cái đó không? Quả là tu tắt đó. Cái đó
là tu tắt đó, bảy ngày thôi, hoặc ba ngày thôi thì liền được. Như vậy đọa địa
ngục cả trăm, cả ngàn kiếp, thì bây giờ mình tu có năm ngày, bảy ngày hết, vậy
mà không chịu tu. Bí quyết đó hết sức là đơn giản mà không ai chịu làm.
Giờ giả sử như cư sĩ không làm, quí thầy quí cô chịu làm không?
Chịu tu bảy ngày hết tất cả nghiệp chướng, chịu không? Dễ quá, thời gian ngắn
quá. Đừng có một niệm nào chen vô. Nếu nhất tâm niệm Phật A Di Đà bảy ngày
không có một cái gì dời đổi thì được nhất tâm, nhất tâm thì được thấy Phật, vậy
hết tội lỗi rồi.
Còn người tu thiền, chỉ trong bảy ngày không có một niệm nào dấy
động tâm thanh tịnh an nhiên thì người đó giải thoát sanh tử. Nhẹ nhàng sao đâu
! Dễ, gần mà không chịu tu. Còn chuyện hơn thua phải quấy, giành giựt với nhau
năm này, qua tháng nọ cứ làm hoài, mà làm những cái đó rồi sao? Rồi đi xuống
không hà. Càng ngày càng rơi trầm luân trong sanh tử mà chịu, còn cái kia đơn
giản nhẹ nhàng mà không chịu. Cho nên ở đây mới nói cho chúng ta thấy cái tội lỗi
nó là như vậy.
CHÁNH VĂN :
Hữu
nhị Tỳ kheo phạm dâm sát.
Ba
Ly huỳnh quang tăng tội kết.
Duy
Ma đại sĩ đốn trừ nghi,
Do
như hách nhật tiêu sương tuyết.
GIẢNG :
Hữu nhị Tỳ kheo phạm dâm sát. Trong
đó có kể lại, hồi xưa Phật tại thế có hai vị Tỳ kheo ở chung một cái thất tu.
Hôm đó một thầy Tỳ kheo đi khất thực, còn một Tỳ kheo ở nhà nằm ngủ. Có cô gái
tới thấy Tỳ kheo ngủ mới vô phá thầy, rồi thầy phạm phải tội dâm. Tỳ kheo đi khất
thực về thấy như vậy giận quá đuổi rượt cô ta, cô chạy rớt xuống giếng chết. Đó
một người phạm tội dâm, một người phạm tội sát. Việc đó được đem đến cho ngài
Ba Ly là nhà luật số một trong thời Phật, để hỏi ngài. Ngài nói rằng, hai người
vừa phạm tội dâm, phạm tội sát thì phải đọa địa ngục không cứu được.
Hai vị Tỳ kheo này khổ sở quá, mới tìm tới Bồ tát Duy Ma cật hỏi,
chúng tôi phạm tội như vậy đó thì có cách nào giải trừ. Ông Duy Ma cật mới nói
rằng, tội tánh bổn không do tâm tạo, giờ tâm các ông không có. Ông phạm tội dâm
là tại người ta phá chớ ý ông không muốn, cho nên tâm không có tội. Còn ông rượt
là tức giận rượt, chớ đâu có nghĩ giết, tại cô đó rớt xuống giếng chết, thì
không phải có cái tâm giết. Như vậy hai ông không có tội, tâm không tội thì làm
sao phạm. Hai vị Tỳ kheo nghe trừ nghi được, từ đó tu hành cũng được chứng quả.
Như vậy ở đây nói:
Ba Ly huỳnh quang tăng tội kết.
Duy Ma đại sĩ đốn trừ nghi,
Tức là ông Ba Ly ánh sáng như đom đóm, rồi kết tội người nặng
thêm nữa. Còn ông Duy Ma Cật nói tội từ tâm, mà tâm các ông không có thì không
có phạm tội. Nhờ đó người ta biết được cái đó mừng rở tu cái hết tội.
Do như hách nhật tiêu sương tuyết. Giống
như mặt trời lên cao thì sương tuyết đều tan hết.
Đó là để chỉ một bên nói về tánh tội. Tánh tội là tội không có sẳn,
nó do cái tâm. Giờ cái tâm không có thì tội cũng không.
CHÁNH VĂN :
Bất
tư nghị giải thoát lực,
Diệu
dụng hằng sa dã vô cực.
Tứ
sự cúng dường cảm từ lao,
Vạn
lượng hoàng kim diệc tiêu đắc.
Phấn
cốt toái thân vị túc thù,
Nhất
cú liễn nhiên siêu bách ức.
GIẢNG :
Bất tư nghị giải thoát lực, tức
là sức giải thoát không thể nghĩ bàn.
Diệu dụng hằng sa dã vô cực. Là diệu
dụng như hằng sa không thể nào nói cùng tột được.
Tứ sự cúng dường cảm từ lao, là
đem tứ sự, là tất cả những vật dụng cần thiết cúng dường không dám nghĩ tới mệt
nhọc.
Vạn lượng hoàng kim diệc tiêu đắc. Tức
là dầu cho những vị này nhận được một vạn lượng vàng tiêu cũng hết, cũng không
có phạm tội.
Đây là để nói người thấy được chỗ tột cùng đó thì người đó là sức
giải thoát phi thường, người đó có diệu dụng không thể cái gì mà lường được,
cùng tột được. Dầu ai đem bốn việc cúng dường thuốc men quần áo..v.v… mà cúng
dường không biết mệt nhọc, thì dầu vị đó họ có nhận một vạn lượng vàng tiêu
dùng, vị đó cũng không có lỗi lầm gì hết.
Phấn cốt toái thân vị túc thù,
Nhất cú liễn nhiên siêu bách ức.
Bây giờ, chúng ta làm cái gì dù cho xương tan, thịt nát cũng
chưa đủ mà đền. Vì sao vậy? Vì một câu mà mình rõ được, mình thông suốt được
thì nó siêu việt cả trăm ức phần. Tức là tất cả những lời dạy chỗ sâu, chỗ tột
cùng đó, nó quí không gì bì được. Vì chỗ đó đưa người ta tới từ một con người
hư xấu trở thành một người giác ngộ, thì không phải chỗ siêu tất cả hay không.
Vì vậy mà nghe được những lời này, thấu được những câu nói này thì cái đó, dù
cho chúng ta đem thân này mà làm cho xương tan thịt nát để đền đáp cũng không
bì được, không đủ mà đáp, huống vì một câu nói nó siêu việt hơn tất cả. Đó là
chỉ cái lý vô sanh để cho chúng ta không có nghĩ, không có lầm.
Giờ tôi nói thêm đoạn này cho quý vị hiểu cho rõ để nhiều khi nghi ngờ. Bởi vì tất
cả chúng ta nhìn tội lỗi nó có hai mặt. Một mặt tội lỗi tạo tội gì thì phải đền
nghiệp ấy, tạo ra tội gì thì phải đền trả nghiệp đó, không có sai chạy. Tại
sao? Vì mình đang trong mê, thấy thân thật, thấy cảnh thật, thấy tất cả chung
quanh đều thật hết, thì mình làm khổ người đó thì mình phải trả lại nghiệp khổ,
mình làm vui cho người đó được an lạc thì mình được hưởng phước an lạc, không
sai chạy một chút nào hết. Tại sao? Vì trong mê thì phải đền trả công bằng. Cho
nên lý nhân quả nghiệp báo là cái lý đền trả trong mê.
Nếu mình từ con người mê mà mình chuyển thành giác, thì những
nghiệp chướng theo đó mình cũng không có bị nó lôi kéo. Tại sao không bị nó lôi
kéo? Chúng ta còn mê thì tâm niệm chúng ta nó chứa đủ các thứ phiền nảo nên rồi
tạo tội, do nghiệp phiền nảo đó nó dẫn chúng ta sanh ra đời sau, đời sau rồi phải
trả lại nghiệp đời trước, cứ như vậy mà liên miên.
Còn nếu tâm chúng ta trước có tội, có lỗi. Nhưng bây giờ tu, tâm
hoàn toàn thanh tịnh. Như niệm Phật bảy ngày mà không có đổi một niệm khác thì
đó là hoàn toàn thanh tịnh. Ngồi thiền tu thiền bảy ngày mà tâm không có một niệm
khác đó là thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì không còn nghiệp gì dẫn đi được hết.
Nghiệp là do tâm mê dẫn đi luân hồi. Nếu tâm giác thanh tịnh rồi thì nghiệp đâu
có dẫn được.
Như vậy thì quý vị thấy, ở
trong kinh chỗ mà nói tạo nghiệp gì phải trả nghiệp đó là nói theo trong mê.
Chúng ta trong mê thì nhân quả không thể sai chạy được. Nhưng mà nếu chúng ta
được ngộ rồi thì chuyển nhân quả. Giả sử tôi nói còn trong thế gian mê muội
này, mà chúng ta lúc trước phạm những cái tội lỗi rồi chưa trả kịp. Bây giờ đây
chúng ta tu được thanh tịnh rồi, thì sao có trả hay không? Câu đó hơi khó đó.
Trong nhà Phật dùng từ là thân hữu lậu, thân hữu lậu là thân còn
rơi rớt trong vòng sanh tử. Chúng ta tu khi nào tâm được thanh tịnh rồi mà thân
hữu lậu còn thì cái thân đó phải trả. Đó là sao? Như trường hợp ngài Mục kiền
Liên chứng A La Hán rồi, mà nghiệp đời trước ngài đốt ổ ong, sau bị bọn du côn
vây đánh ngài. Ngài có thần thông bay đi, hóa thân lớn nhỏ đủ thứ hết, mà lúc
đó dùng thần thông không được, bị đánh bèo nhèo. Đó là thân hữu lậu. Bị vì thân
đó là thân từ những tâm niệm trước mà còn, mà có, chưa phải là thân do tâm vô lậu
giải thoát mà có. Vì vậy mà thân đó phải trả hết nợ cũ rồi thì qua đời sau
không còn. Bởi vì qua đời sau thì tâm thanh tịnh rồi, nhập Niết bàn. Nếu muốn
vào thế gian này độ sanh thì nó cũng hết nghiệp đó.
Vì vậy cho nên nhiều người nói, tại sao tu chứng rồi mà còn phải
trả? Vì thân hữu lậu còn là thân mắc nợ hồi xưa. Còn cái thân mà tâm mình không
có một tí niệm mà sau này có thân là do nguyện, nguyện mà ra thì không còn nợ nần
gì nữa hết. Cho nên bao nhiêu nợ cũ, các vị Bồ tát, cái vị A La Hán, nói rằng đời
mình hồi xưa tạo bao nhiêu thứ nghiệp, bây giờ đối với thân hiện tại mình còn
đây thì bao nhiêu nghiệp cũ mình sẳn sàng mang hết, ai lôi ra đánh đập gì cũng
được trả cho rồi, cho nó hết. Chớ không phải mình ăn cướp nợ khỏi trả.
Cho nên có nhiều người tu khá, tu hay mà cũng gặp những trường hợp
cũng hơi rắc rối, hơi đau khổ, đó là để trả nợ cũ rồi thì sau nó mới hết, chớ
không phải là mình trốn nợ. Đây nói không còn gì nữa là chỉ cho cái sau này
mình không có theo nghiệp nữa thì đâu còn trả. Còn bây giờ thân này trước là do
nghiệp, thì bây giờ phải trả lại nghiệp. Hiểu như vậy thì không có thắc mắc, chớ
còn không thì nghe nói như vầy dễ gây nghi ngờ.
Kệ tụng:
Cấp Tu, Khoái Độ chư long vương
Quả Vãng, Pháp Đại các thiện tường
Quy y tam bảo hộ đạo trường
Hành trụ tọa ngọa vĩnh an khang.
Bài Kệ-tụng nầy ý nói rằng : “ Ngoài việc phát Bồ-đề-tâm, tu theo PHÁP ĐẠI THỪA, như trì CHÚ, TỤNG KINH, NIỆM PHẬT hoặc HÀNH THIỀN… thì phải “QUY Y TAM BẢO”, nghiêm trì giới luật (LẤY GIỚI LÀM THẦY), thì trong mọi oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, động, tịnh đều được TỰ-TẠI AN-NHIÊN, cho dù gặp phải “PHONG ĐAO ĐỘC DƯỢC” cũng được THANH THẢN NHẸ NHÀN.
Ngữ mặc động tịnh thể an nhiên.
Túng ngộ phong đao thường thản thản,
Giả nhiêu độc dược dã nhàn nhàn.
(Chứng Đạo Ca)
BỒ-TÁT-GIỚI trong KINH PHẠM VÕNG là “THÔNG GIỚI” vì chú trọng ở TÂM-TÁNH nhiều hơn là ở HÌNH-TƯỚNG. Cho nên, tất cả chúng-sanh trong PHÁP-GIỚI muốn thành “PHẬT” đều có thể thọ trì, như các LONG-VƯƠNG chẳng hạn. Như có vài điều khác biệt như là: NGƯỜI XUẤT-GIA THÌ KHÔNG DÂM DỤC, NGƯỜI TẠI-GIA THÌ KHÔNG TÀ DÂM…
THẬT SỰ MÀ NÓI, NẾU KHÔNG KHỞI TÂM ĐỘNG NIỆM PHẠM GIỚI, THÌ RẤT KHÓ PHẠM GIỚI. TẠI VÌ SAO? VÌ TRONG TỰ TÁNH CỦA CHÚNG-SANH KHÔNG CÓ PHẠM 10 GIỚI TRỌNG VÀ 48 GIỚI KHINH. CHO NÊN, CHƯ PHẬT Y THEO TÂM THANH TỊNH CỦA CHÚNG SANH MÀ KIẾT BỒ-TÁT-GIỚI.
Sư tử hống, vô úy thuyết,
Thâm ta mộng đổng ngoan bì đát.
Chỉ tri phạm trọng chướng bồ-đề,
Bất kiến Như Lai khai bí quyết.
Hữu nhị Tỳ-kheo phạm dâm sát,
Ba-ly huỳnh quang tăng tội kết.
Duy-ma đại sĩ đốn trừ nghi,
Do như hách nhật tiêu sương tuyết.
Bất tư nghì, giải thoát lực,
Diệu dụng Hằng sa dã vô cực.
Tứ sự cung dưỡng cảm từ lao,
Vạn lượng hoàng kim diệc tiêu đắc.
Phấn cốt toái thân vị túc thù,
Nhất cú liễu nhiên siêu bá ức.
(CHỨNG ĐẠO CA)
Liền đó, từ nơi miệng, đức Phật phóng ra vô-lượng tia sáng. Bấy-giờ có đến trăm vạn ức đại-chúng, các Bồ-Tát, mười tám Phạm-Thiên, sáu cõi Trời Dục, mười sáu đại Quốc-vương đồng chắp tay chí tâm nghe đức Phật tụng Giới-Pháp đại-thừa của tất cả chư Phật.
Đức Phật nói với các vị Bồ-Tát : Nay ta cứ mỗi nửa tháng tự tụng giới-pháp của chư Phật. Tất cả hàng Bồ-Tát sơ phát tâm, nhẫn đến các Bồ-Tát thập Phát-Thú, Thập Trưởng-Dưỡng, Thập Kim-Cương, Thập-Địa cũng tụng giới ấy. Vì thế nên giới-quang từ miệng ta phóng ra. Phóng quang là vì có duyên do, chớ chẳng phải vô cớ.
Giới-Quang ấy chẳng phải màu xanh, vàng, đỏ, trắng và đen, chẳng phải sắc-pháp, cũng chẳng phải tâm-pháp, chẳng phải pháp-hữu, pháp-vô, cũng chẳng phải pháp nhân, pháp quả. Nó chính là bổn-nguyên của chư Phật, là căn-bổn của chúng Phật-Tử. Vì thế nên chúng Phật-Tử phải thọ-trì, phải đọc tụng, phải học kỹ giới-pháp nầy.
Chúng Phật-Tử lóng nghe ! Nếu là người thọ giới Bồ-Tát nầy, không luận là Quốc-Vương Thái-Tử, các Quan-chức hay Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, không luận là chư Thiên cõi Sắc, cõi Dục, không luận là hàng thứ-dân, huỳnh-môn, dâm-nam, dâm-nữ hay hàng nô-tỳ, cũng không luận là tám bộ quỷ-thần, thần Kim-Cương hay loài súc-sanh nhẫn đến kẻ biến-hóa hễ ai nhận hiểu được lời truyền giới của Pháp-Sư thời đều thọ đặng giới, và đều gọi là thanh-tịnh thứ nhất.
ĐÂY CŨNG LÀ LỜI PHẬT DẠY, KHI NGÀI SẮP VÀO NIẾT-BÀN.
Kệ tụng:
Cấp Tu, Khoái Độ chư long vương
Quả Vãng, Pháp Đại các thiện tường
Quy y tam bảo hộ đạo tràng
Hành trụ tọa ngọa vĩnh an khang.
CHÁNH VĂN :
Pháp
trung Vương tối cao thắng,
Hằng
sa Như Lai đồng cộng chứng.
Ngã
kim giải thử như ý châu,
Tín
thọ chi giả giai tương ứng.
CHÁNH VĂN :
Pháp trung Vương tối cao thắng, là
pháp của đấng trung vương rất là thù thắng, rất là cao siêu.
Hằng sa Như Lai đồng cộng chứng. Tức
là tất cả chư Phật như cát sông Hằng cũng đồng chứng pháp này.
Ngã kim giải thử như ý châu, là
tôi nay mở được hạt châu như ý.
Tín thọ chi giả giai tương ứng. Tức là
tin thọ hiểu đều tương ưng nhau, sống được với cái đó. Tin thọ chi giả tức tín,
tin, nhận và hiểu đều tương ứng với pháp đó.
Ở đây ngài Huyền Giác nói rằng cái pháp thù thắng nhất của bậc
Trung vương hay là bậc tối cao, cái pháp đó đối với chư Phật các Ngài đồng chứng
được. Bây giờ đây tôi như là người mở được hạt châu như ý trong cái túi áo hay
trong chéo áo, thì tôi tin tôi hiểu rõ đúng như vậy không có sai chạy. Như vậy
gọi là chứng đạo đó. Cái gì Phật được, cái gì Tổ được, tôi nay cũng thấy được
rõ như vậy, không nghi ngờ gì hết. Đó là ngài xác nhận, gọi là chứng đạo ca mà,
bài ca chứng đạo. Xác nhận cái chỗ mà Phật chư Tổ ngày xưa đã đạt được, thì
ngài nay tôi cũng thấy như vậy.
CHÁNH VĂN :
Liễu
liễu kiến vô nhất vật,
Diệc
vô nhân diệc vô Phật.
Đại
thiên sa giới hải trung âu,
Nhất
thiết Thánh Hiền như điện phất.
GIẢNG :
Mấy chỗ này người mới nghe rất là khó hiểu.
Liễu liễu kiến vô nhất vật, là
rõ ràng thấy không một vật. Ở trên thế gian tràn trề đầy dẫy nào người, nào vật,
không biết bao nhiêu thiên muôn ngàn ức gì đó. Bây giờ với ngài, ngài thấy
không một vật. Tại sao ngài thấy không một vật? Chẳng lẽ con mắt ngài đổi khác?
Nếu mình thấy có vật, mà ngài thấy không vật tức là ngài mù sao? Nhưng đây tôi
nói cho quý vị thấy cái sâu của người thấy
đạo gọi là giác ngộ đó.
Cái đồng hồ quý vị thấy
phải là một vật không? Bây giờ đặt câu hỏi trước khi ông thợ ráp chiếc đồng hồ,
thì có đồng hồ nguyên vẹn vậy không? Mà rồi từng bộ phận, từng bộ phận ông ráp
lại rồi thành chiếc đồng hồ. Như vậy thì chiếc đồng hồ buổi ban sơ là không, mà
nay duyên hợp thành có. Đồng hồ trước ban đầu là không, duyên hợp rồi có. Có rồi
khi nào đồng hồ cũ hư mở ra từng bộ phận, thì đồng hồ có không? Không. Như vậy
thì trước không, sau cũng không. Tất cả pháp trước không, sau không thì thật được
không.
Như mình trước khi cha mẹ chưa sanh có mình không? Rồi sau khi tắt
thở rồi còn có mình không? Trước không, sau không thật được không. Bây giờ quý
vị nói quý vị thật không? Giờ tôi nói thí dụ như hai người
bạn thân đang ngồi nói chuyện với nhau, rồi bất thần có một người bị áp huyết
lên đứt gân máu ngã đùng ra chết. Người nói chuyện với mình khi nảy là thật,
bây giờ họ tắt thở rồi thật không? Như vậy là người ngồi nói chuyện khi nảy
không thật, mình đang nói chuyện đây mình thật không? Rõ ràng người kia giả thì
mình cũng phải giả. Như vậy ngồi kiểm lại từ Tổ tiên chúng ta ông bà, rồi tới
cha mẹ, ở trên đi từ từ có mặt rồi mất, có mặt rồi mất. Tới mình có mặt rồi sau
nữa? Mình cũng mất, có cái gì thật. Không có một cái gì thật hết, mà con mắt
phàm tục mình chấm một khoảng đó là thật, rồi qua khoảng đó rồi sao không biết.
Như vậy thì ban sơ không thật, không có, duyên hợp mới có. Duyên
hợp có thì tất cả các pháp đều không thật. Trước không sau không, thì khoảng giữa
là tạm bợ không thật. Không thật mà ngở là thật thì gọi là gì? Vậy thì tất cả
chúng ta đều là người mê muội, phải không. Mà mình mê muội chỉ Phật biết thôi,
chớ mình có biết không? Mình không biết mình mê đâu, ai nói mình mê cái cải om
sòm liền. Vì thấy mình còn khôn quá, mình biết cái này cái nọ, đâu có ngở mình
mê. Lẽ thật mà mình không biết thì tức là mê. Lẽ thật đó kiểm tra lại thì thấy
rõ như ban ngày. Con người như chúng ta, ai cũng trước không rồi sau cũng
không, vật trước không sau cũng không. Tất cả thế gian này cái gì có trước mắt
thì trước không sau cũng không, như vậy có một vật nào thật đâu. Cho nên ngài mới
nói, Liễu liễu kiến vô nhất vật, là rõ ràng không thấy có một vật thật. Thấy
không một vật thật thì đây:
Diệc vô nhân diệc vô Phật. Là
cũng không người cũng không Phật luôn nữa. Nghe có buồn không. Người tu Phật mà
nói không người không Phật. Ai ngồi đây mà không người, ai ngồi trên kia mà
không Phật. Phật ngồi trên bàn, mình ngồi dưới này, mà nói không người không Phật.
Như vậy, không nghĩa là trước khi duyên hợp chúng ta là không, rồi duyên hợp tạm
có, rồi trở về không. Trước không, sau không tức là không.
Rồi Phật là một từ đối với chúng sanh, chúng sanh là mê, Phật là
giác. Chúng ta mê nên mơi có chúng sanh, Phật là giác nên có giác. Nếu chúng ta
mê bây giờ chúng ta giác, Phật mê rồi Phật giác, tất cả giác hết thì có Phật,
có chúng sanh không? Nếu tất cả giác hết thì anh em hết, không còn Phật chúng
sanh gì nữa, thì cũng không người không Phật. Nghĩa là tại có mê nên mới có
giác, mới có người có Phật. Nếu mà chúng ta đều hết mê thôi lúc đó hết người hết
Phật, bởi vì đâu còn phàm mà có Thánh, thì như nhau hết thì thôi bình đẳng. Như
vậy cho nên cũng không người cũng không Phật.
Đại thiên sa giới hải trung âu, là cả
thế giới đại thiên này cũng như bọt trong biển cả vậy. Nghĩa là sóng gió nó thổi
tụ lại thành bọt, rồi cũng sóng đập cho nó nát bọt ra, tan ra. Tụ tán, tụ tán
không có gì là thật hết. Như vậy thì quý vị
mới thấy chúng ta hiện tại trên cõi đời này mà gần nhất, còn xa nhất thì
chúng ta thấy tổ tiên của chúng ta ngở rằng cái thế giới mình là có một đấng
nào đó không biết có hình tướng hay không tạo nên, gọi đó ông tạo hóa. Ông tạo,
ông hóa ra là thế giới, là con người lung tung. Nhưng khoa học ngày nay phân
tích thì thấy rằng thế giới này nó là duyên hợp, từ những hạt bụi đùn lại rồi tụ
lại thành nhóm nhỏ, rồi thành lớn, rồi cho tới thành thế giới, chớ nó không phải
là ai tạo. Con người mình cũng duyên hợp, không có phải là một cái gì hay đấng
nào nặn ra hết, từ duyên hợp mà thành, duyên hợp mà có thì nghe mình còn dễ hiểu.
Nhưng với con mắt người giác ngộ rồi cả cái đại thiên sa giới
này, trong cõi đại thiên nhiều như cát bụi mà xem như hòn bọt nổi vậy. Bây giờ
nói cách khác bao nhiêu tinh tú trên cõi hư không đó, bao nhiêu cái đó như số
cát sông Hằng, đó cũng là như hạt bọt trong biển vậy thôi, không có giá trị gì
hết, thì nói như vậy dễ hiểu không? Cái nhìn của người giác ngộ thấy bao xa?
Ngày nay mình đã phục các nhà thiên văn thấy được bao nhiêu thế giới hay bao
nhiêu hành tinh trong hư không, mình thấy mình cũng phục. Nhưng hồi xưa Phật
nói bao nhiêu hành tinh đó không nghĩa lý gì hết, nó là vô số không thể tính kể
hết được.
Nên đây nói : Đại thiên sa giới hải trung âu tức là thế giới nhiều
như đại thiên hay số thế giới đại thiên nó như hằng sa như cát như bụi mà nó vẫn
là hạt bọt trong biển.
Nhất thiết Thánh Hiền như điện phất. Tất cả
thánh hiền như điện chớp vậy thôi. Bởi vì chúng ta lâu nay có cái hiểu phàm thì
nó bị tiêu diệt bị mất, còn Thánh thì còn hoài, tức Thánh thì còn phàm thì mất.
Nhưng trong nhà Phật nói mọi pháp ở thế gian đều đối đải, bởi có phàm nên có
Thánh, mê thì phàm giác thì Thánh. Mà mê không thật thì giác có thật không? Còn
gì đối đải mà thật. Cũng như bây giờ chúng ta có đêm thì có ngày, ngày thì sáng
đêm thì tối. Như vậy có tối thì có sáng. Chừng nào hết đêm thì có ngày không ?
Thì như nhau hoài đâu có nói đêm nói ngày. Như vậy khi nói sáng là vì có tối,
nhưng tối không có thì sáng cũng không còn, cho nên tất cả Thánh hiền như điện
chớp vậy thôi. Nghĩa là những từ ngữ tạm không thật, không phải là chỗ cứu
kính, chỗ chân thật không cùng không tận.
CHÁNH VĂN :
Giả
sử thiết luân đỉnh thượng triền,
Định
huệ viên minh chung bất thất.
Nhật
khả lãnh, nguyệt khả nhiệt,
Chúng
ma bất năng hoại chân thuyết.
Tượng
giá tranh vanh mạn tiến đồ,
Thùy
kiến đường lang năng cự triệt?
GIẢNG :
Giả sử thiết luân đỉnh thượng triền, Ngài
nói giả sử như có một vòng sắt cháy đỏ mà quay trên đầu ngài.
Định huệ viên minh chung bất thất. Là định
huệ vẫn tròn sáng không có mất.
Mình ngồi thiền đang yên yên con muỗi chích một cái mình rung
rinh không? Còn ngài thì giả sử có vòng lữa quay trên đầu thì định huệ ngài
cũng không có mất. Đó để thấy rằng người thấy đúng như thật thấy tột cùng lẽ thật
rồi thì dù trời đất có nghiêng ngã gì gì cái thấy cũng như vậy thôi, chớ không
có đổi dời.
Còn mình bây giờ có khi cũng bắt chước các bậc thánh hiền quán
thân không thật. Ngồi một mình quán thấy nó không thật, từ lỗ mũi tới dưới chân
rồi xương xóc da thịt không gì thật hết, thì thấy như vậy đó. Nhưng ai lại véo
một cái thì chừng đó thật liền, rồi la rồi đánh lại liền chớ không có tha. Đó
là vì định lực của mình nó yếu quá đi, thấy đó chỉ là tạm thấy mờ mờ vậy đó chớ
nó không có thấy rõ. Các ngài thấy nó rõ ràng không có gì thay đổi hết, cho nên
giả sử một trường hợp kỳ đặc là bị một vòng quay trên đầu mà định huệ của ngài
cũng không bị mất.
Nhật khả lãnh, nguyệt khả nhiệt,
Chúng ma bất năng hoại chân thuyết.
Ngài nói mặt trời có thể lạnh, mặt trăng có thể nóng mà các
chúng ma không thể nào phá hoại thuyết chân thật này được. Cái thuyết chân thật
mà Phật, Tổ đã nhận đã thấy thì không có thể con ma nào, hay ngoại đạo nào mà
có thể họai được. Dù mặt trời có thể lạnh, mặt trăng có thể nóng nhưng mà ma
không thể phá hoại được chân thuyết này.
Đó là một cái xác định không nghi ngờ, ai mà thấu suốt được, ai
mà tu đến đây rồi thì mới thấy cái đó là cái bất khả xâm phạm, không cái gì hoại
diệt được hết.
Tượng giá tranh vanh mạn tiến đồ,
Thùy kiến đường lang năng cự triệt?
Tượng giá là chiếc xe con voi, tranh vanh là đang tiến lên trên
con đường ngược.
Tượng giá tranh vanh mạn tiến đồ, là chiếc xe đang lên dốc, đang
bò lên dốc.
Thùy kiến đường lang năng cự triệt? Là ai mà thấy được con bọ ngựa
ra chận đứng được.
Xe đang chạy lên đường dốc, có con bọ ngựa bò qua chận bánh xe
khỏi chạy lên được không? Hay ở trên đổ xuống thì con bọ ngựa nó chận cho ở
trên khỏi xuống được không? Đó để nói rằng lẽ thật là một sức mạnh như chiếc xe
đang chạy, mà các cái gì, tà thuyết ngoại đạo muốn ngăn trở nó thì giống con bọ
ngựa mà ra chận bánh xe vậy đó, không làm gì, không ngăn trở được chút nào.
CHÁNH VĂN :
Đại
tượng bất du ư thố kính,
Đại
ngộ bất câu ư tiểu tiết.
Mạc
tương quản kiến báng thương thương,
Vị
liễu, ngô kim vị quân thuyết.
GIẢNG :
Đại tượng bất du ư thố kính, là
con voi lớn thì không đi theo dấu thỏ. Con voi lớn thì đi theo đường của voi
đi, chớ không đi theo đường mòn của thỏ được.
Đại ngộ bất câu ư tiểu tiết. Người
nào đại ngộ rồi thì họ không chấp những chi tiết nhỏ nhặt. Những chi tiết nhỏ
nhặt đối với người đại ngộ người ta không cố chấp.
Mạc tương quản kiến báng thương
thương, chớ đem cái nhìn nhỏ như lấy cái ống nhìn trời rồi nói trời nhỏ
xíu, ông trời tròn quay hà. Đó đem cái ống nhìn trời rồi lại chê ông trời nhỏ
hay hư không nhỏ.
Vị liễu, ngô kim vị quân thuyết. Tức
là ai chưa hiểu thì tôi vì các người mà quyết nghi cho, mà giải quyết cho.
Như vậy tới đây là kết thúc bài Chứng Đạo Ca. Khi kết thúc tôi
cũng nói thêm vài ý liên quan với bài Chứng Đạo Ca cho quý vị nghe thâm nhập.
Bài Chứng Đạo Ca này là bài ca khi ngài Huyền Giác ngộ đạo. Khi
ngài Huyền Giác ngộ đạo rồi thì ngài nhìn lại tất cả sự việc trên thế gian này,
nó ngược nó khác hết với người phàm tục. Cho nên cái nhìn của ngài thấy đúng
như thật, mà ngược với cái nhìn của thế gian nên ngài e người thế gian không hiểu.
Không hiểu rồi cứ lầm đi trên con đường mê lầm mãi mãi. Nên ngài mới đem ra giải
thích đầy đủ cho chúng ta nghe, chúng ta hiểu, để cùng đi trên con đường chứng
đạo đó.
Người muốn nói cho chúng ta hiểu, nhưng cái hiểu ngài và cái biết
của chúng ta gần hay xa? Cách nhau chừng bao nhiêu? Thật là muôn dậm. Nói thì
nói vậy nhưng nó không có xa. Quý vị đừng
có mặc cảm mình mê ngài ngộ mà xa.
Cái mê là gì? Ngộ là gì? Như nảy giờ tôi nói, cái giả mà mình ngở
là thật là mê; cái giả biết quả thật nó là giả thì đó là mình ngộ. Từ cái giả
tưởng là thật, chuyển qua cái giả biết là giả, thì khoảng cách chừng bao xa? Dễ
như trở bàn tay. Bây giờ giả sử tôi đang nghĩ thân tôi là quí, rồi có một vị
nào đó giải thích thân tôi nó tầm thường, nó ô uế đủ thứ hết, cái giựt mình tôi
tỉnh à như vậy thân quá là tầm thường, nó nhơ nhớp. Từ cái quí chuyển qua cái
biết nhơ nhớp cách bao xa? Chỉ là cái chuyển đổi thôi. Cho nên mê và giác không
phải là chuyện như là đi đường mấy ngàn cây số, nó không phải từ từ, mà nó là
cái chuyển mê thành ngộ.
Như vậy tất cả quý vị, ai ai muốn chuyển mê thành ngộ có cái gì
trở ngại không? Có luật nào cấm không được chuyển mê thành ngộ không? Nếu chuyển
vậy có ở tù không? Vậy thì đâu có gì trở ngại, mình chuyển thì đổi cái nhìn của
mình thôi.
Thí dụ như lâu nay, quý vị
nghe người ta nói nặng một câu, thì quý vị nổi sân lên nói đó là khinh miệt mình nói xấu
mình, rồi cự lộn với họ. Bây giờ người ta nói nặng một câu, mình cười vì mình
không thật câu nói thật sao? Như vậy biết mình không thật thì câu nói nặng của
người ta đâu có thật, mà hai cái không thật thì có giận có hờn gì không?
Như vậy, thấy mình thật thì tất cả chung quanh đều thật, nên được
thật, mất thật, hơn thật, thua thật, cái gì cũng thật hết. Vì vậy cả ngày cứ
quay trong cái thật đó, rồi khổ não. Tới giờ phút chót sắp tắt thở chừng đó biết
thật không? Những cái thật đó mình có mang theo được không? Không đem được cái
gì hết, như vậy tất cả cái thật đó thành giả. Thân giả rồi thì mọi cái đều là
giả. Mà tới giờ đó biết giả có muộn chưa? Muộn quá rồi trở tay không kịp, tạo
bao nhiêu thứ nghiệp rồi. Cho nên bây giờ còn sống, còn tỉnh, giả mình biết giả,
để rồi khi biết giả rồi mình có tu, biết tu.
Còn bây giờ biết thật, thí dụ như quý vị tập tu, nói bây giờ tôi tập tu nhẫn nhục,
ráng tu hạnh nhẫn nhục cho khá để mình bớt sân. Nhưng bây giờ có người nào mắng
quý vị, khi họ mắng mình thì ráng nhịn. Nhưng bửa nay mắng nhịn nổi ráng, rồi
mai mắng nữa cũng ráng nhịn, rồi mốt cũng mắng nữa nhịn hết nổi, bung. Nhịn hai
lần thôi, hai ngày đủ rồi, tới ngày thứ ba cái nổi nóng lên cự lại. Tại sao vậy?
Bởi vì mình thấy mình đè, mình nén nó xuống, cho nên nó khó, nó khổ lắm, cho
nên chịu hết nổi. Còn bây giờ quý vị đã
thấy mình giả, lời nói giả, thì mắng một trăm ngày cũng cười thôi, không đè
chút nào hết.
Hai cái đó cũng là nhẫn nhục hết mà quý vị thấy cái nào dễ, cái nào khó? Nếu thấy thật
khó vô cùng, cho nên nhiều người than tu khó quá. Cái gì cũng khó hết tại vì thấy
thân mình thật, thật như vàng vậy quí lắm, cho nên động tới khó. Còn mình biết
thân này là giả, là tạm bợ, ngày nay còn, ngày mai mất không bảo đảm. Biết rõ
như vậy thì mọi việc thế gian cười thôi, có gì đâu mà khổ. Thấy đúng như thật
thì mình tu hết sức dễ. Còn thấy sai lầm thì cái khổ của mình vô cùng, tu hết sức
khó.
Quý vị nói tu khó quá,
ngược lại tôi nói tu dễ, thì quý vị nói
tại thầy ở chùa, tụi con ở ngoài đời. Thật ra ở chùa, ở đời gì thấy nó giả cũng
dễ hết trơn. Còn ở chùa mà thấy thật cũng khó như thường. Cho nên nhiều thầy,
nhiều cô ở chùa cũng quạo như thường, chớ đâu có hết, bị thấy nó thật. Còn thấy
giả thì chỗ nào tu cũng dễ hết, cư sĩ tu cũng hay mà xuất gia tu cũng giỏi. Còn
thấy nó thật thì ai tu cũng dỡ hết, chớ không giỏi được.
Tôi lập lại một lần nữa, cái thấy thật và cái thấy giả, quý vị xác nhận cái nào là đúng sự thật muôn đời? Thấy
thân giả là sự thật muôn đời, còn thấy thật thì tạm bợ có ít chục năm hà, rồi
nó bại hoại thì nó giả mất rồi. Cái thật muôn đời là chân lý, còn cái thật tạm
bợ là cái thật sai lầm. Như vậy thì tại sao chúng ta không chịu thấy đúng chân
lý, mà lại chịu thấy theo sự sai lầm? Từ thấy sai lầm đó chúng ta ngở rằng,
chúng ta hay, chúng ta tốt, chúng ta khôn, đủ thứ ngở. Ngở như vậy cho nên đi
ra mà ai nói động tới một cái, thì nổi nổi si lên mà rồi phiển não đầy dẫy.
Đó là tại vì chúng ta lầm một cái gốc là con người giả tưởng là
thật, rồi mọi cái khác lầm theo, lầm luôn cả chùm. Cho nên, một khi mê tất cả đều
mê. Bây giờ quý vị giác được thân này giả
là một cái gốc rồi thì mọi việc chung quanh này đều giả hết, như vậy sự tu hành
dễ như trở bàn tay.
Nhưng nói giả thì quý vị nói
thân này giả rồi bi quan không muốn làm gì hết rồi sao, cơm đâu mà ăn? Nói giả
là nói bằng cái thấy đúng như thật, còn trong cuộc sống giả này phải lăn lộn với
mọi người, làm mà làm trong cái tạm bợ hư giả không cố chấp thì đó là người
khéo tu. Cho nên Phật thấy giả mà Phật cũng đi giáo hóa bốn mươi chín năm, chớ
đâu phải nói giả rồi Ngài ngồi một chỗ nhập Niết bàn liền, để trốn cái giả.
Nghĩa là giả mà lăn lộn trong đó làm bổn phận của mình tròn, để rồi mình đánh
thức mọi người, đó là cái giả mình thấy hữu ích cho chúng sanh. Chớ còn không
phải thấy giả rồi đi trốn đi chạy ở đâu.
Nhiều khi chúng ta có những cái lầm lớn. Có người nói nếu thấy
thân này giả rồi thì thôi ngồi chơi chờ nó chết cho rồi, tiêu cực hết muốn làm
gì nữa. Đó là hiểu lầm. Chúng ta thấy nó giả thì mượn cái giả này làm lợi ích
cho nhiều người thì đó là quí. Mình thấy giả mà thiên hạ chưa thấy, nên mình phải
ráng đem cái giả này giúp ích cho mọi người. Mình thấy giả nên cái gì lợi ích
cho chúng sanh mình dám hy sinh, mình không có sợ. Còn người ta thấy thật, cho
nên có nhiều khi lợi ích cho người có khi không dám làm, nếu có làm bị bắt buộc
lắm mới làm, chớ còn cái hy sinh tự mình không có.
Hiểu như vậy thì người tu, như trong này chứng đạo thì thấy tất
cả pháp như huyễn như hóa không thật, mà nó không thật thì có cái gì mà bận
lòng, có cái gì mà mình phải say sưa dính mắc. Như vậy cho nên tâm mình buông xả
dễ dàng không trở ngại. Từ thấy đúng nên tu rất là thực tế, rất là dễ dàng chớ
không có khó khăn gì hết. Đó là tôi nói cái ý cho quý vị thấy.
Còn nói thật, tôi nhắc cho quý vị nhớ thân chúng ta, quý vị thấy phần xác thịt này là thật hay giả? Ngượng
nói giả, vì mới nghe GIẢNG : nói thật nghe không được, ráng nói giả, chớ ra khỏi
chùa chắc nó thật hết. Thân này là duyên hợp tụ tán không bảo đảm, cho nên nay
còn mai mất không lường, mà cái như vậy làm sao nói thật được. Cái giả là cái
thân, rồi mình biết cái giả là cái thân này mà người đời tưởng là thật, rồi
tranh giành hơn thua phải quấy được mất rồi nó khổ, khổ với nhau. Mình biết
thân này là giả thì mọi cái gì mình cũng không đuổi theo, mình cũng không còn
muốn được đầy đủ.
Kế đó, tâm suy nghĩ phải quấy của quý vị thật hay giả? Giả luôn nữa. Như vậy cái thân
giả, cái tâm phân biệt hơn thua phải quấy cũng giả. Bây giờ thế gian đang sống
với cái nào? Bám vào hai cái giả đó làm mình, mình tinh thần, mình thể xác. Thể
xác là thân, tinh tần là tâm phân biệt hơn thua phải quấy, mà hai cái đó đều giả
hết. Hai cái giả hết thì mình còn cái gì? Tưởng như cả thân, cả tâm đều là giả
dối tạm bợ, chợt còn chợt mất. Nhưng sự thực trong cái giả nó còn hàm chứa một
cái thật, mà cái thật đó hiện tiền không có lúc nào trốn tránh chúng ta hết. Nó
hiện tiền mà chúng ta không chịu nhớ, cứ nhớ cái giả thôi. Bởi vậy nên Phật
thương tội nghiệp chúng sanh làm sao, cái thật quí sẳn đó mà bỏ, rồi đuổi theo
cái tạm bợ giả dối, rồi say sưa trong đó, rồi trầm luân sanh tử đời này kiếp nọ
không có ngày cùng.
Cho nên Phật mới chỉ cho chúng ta cái thật. Cái thật làm sao có,
làm sao biết? Quý vị thử, cái gì là thật?
Bây giờ tôi định nghĩa, cái gì duyên hợp có hình tướng thì vô thường là sanh diệt,
đó là giả. Cái gì không có hình tướng thì không bị vô thường. Như cây cối nhà cửa
thì vô thường. Còn hư không có vô thường không? Nó không hình tướng, không bị
vô thường. Còn cái gì động thì có động có dừng, tức có sanh diệt. Cái gì không
động thì có sanh diệt không? Không.
Như vậy thân này là duyên hợp, là vô thường. Vì thân có tướng
nên bị vô thường. Còn cái nghĩ suy của mình, nó có động không? Dấy niệm, lặng
niệm là động, động tức là sanh diệt. Mà nó lại là cái bóng nữa, mình tìm lại
thì nó mất. Cả ngày mình lại chạy theo cái bóng đó, chạy theo cái thể xác tạm bợ
này mà mình sống, còn có cái thật tàng ẩn trong đó mà mình bỏ quên. Như vậy quý
vị nghĩ nếu ai chỉ cái thật đó cho quý vị,
quý vị có mừng không? Rồi có muốn sống
được cái thật hay không? Bây giờ tôi chỉ quý vị
chịu sống không? Muốn hén. Hứa với tôi là muốn hén, chịu. Bây giờ tôi chỉ.
Khi quý vị khởi nghĩ thì
đó là động. Cái nghĩ đó qua rồi hết. Khởi nghĩ là biết. Bây giờ, quý vị không khởi nghĩ, không dấy niệm. Một phút,
hai phút, tới mười phút đều không nghĩ, không dấy niệm, lúc đó quý vị có biết không? Có. Ai biết mình không nghĩ?
Như vậy có một cái biết hẳn trong này, biết được mình mà biết được sự vật nữa.
Tiếng động thì nghe, người đi thì thấy, mọi cái mình đều biết, mà không có
nghĩ. Như vậy cái biết đó là cái biết hằng hữu, còn cái biết dấy niệm là cái biết
sanh diệt. Cái biết hằng hữu mà không hình tướng không động thì cái đó có vô
thường được không? Có sanh diệt được không? Đó là cái biết thật của mình. Vậy
mà chúng ta muôn đời cứ theo cái biết giả thôi. Giờ biết có cái thật chưa? Biết
không? Biết nhẹ nhẹ, biết mà chưa dám nhận.
Bởi vậy nên Đức Phật dùng thí dụ chàng Diễn Nhã Đạt Đa đó. Sáng
lại lấy gương soi, nhìn vô gương thấy mặt mình coi bộ đẹp trai quá, chải đầu đồ.
Một hồi úp gương xuống, hoảng mất đầu tôi rồi. Ôm đầu chạy la mất đầu. Như vậy
mất đầu hay là mất cái bóng trong gương? Mất là mất cái bóng, còn cái đầu mình
sẳn đây. Đó, Phật cũng nói, tâm mình khi nghĩ suy lăng xăng lộn xộn, nếu nó yên
được dừng lại thì nói tôi không có gì hết, không biết gì hết, không biết mà nói
tôi không biết. Nghĩa là không nghĩ suy là không có cái bóng, còn cái biết nó
hiện tiền. Vậy đó mà quên cái biết hiện tiền.
Ngồi chơi năm phút, mười phút không có một niệm, không có một ý
nghĩ, nói bây giờ tôi không biết gì hết. Nói không biết gì hết, không biết gì hết
sao biết giờ đó không có nghĩ, không có suy. Như vậy chúng ta có một cái biệt
thực ngầm ở trong mà lúc nào cũng sẳn, mà mình lại quên cái biết đó, cứ chạy
theo cái biết bóng thôi.
Do đó mà Phật bắt mình tu thiền là dừng cái chạy theo cái bóng.
Nghĩ tốt, nghĩ xấu, nghĩ hơn, nghĩ thua mình phải dừng, phải bỏ, để rồi cái đó
dừng thì cái biết kia nó đầy đủ hiện ra. Cái giả, cái vọng nó lặng thì cái thật
nó hiện tiền.
Như mặt biển khi sóng lặng thì lúc đó chúng ta thấy một mặt biển
phẳng. Khi sóng nổi lên, mặt biển có không? Mặt biển cũng vẫn có, nhưng mà nó
không phẳng thôi. Như vậy khi chúng ta dấy niệm trong đó có cái thật đầy đủ rồi,
mà dừng niệm thì nó phẳng, nó hiện đủ, còn không dừng niệm thì cái mênh mông
cũng không thiếu. Thí dụ như dấy niệm lo nghĩ nhưng mà tai cũng vẫn nghe, mắt
cũng vẫn thấy. Lo nghĩ chuyện khác mà tai vẫn nghe, mắt vẫn thấy thì đâu phải
là không có mình.
Quý vị nhớ, hồi xưa các vị
Tổ ở Trung Hoa, các ngài ai tới hỏi một câu. Khi một câu hỏi vừa khởi lên thì
như Tổ Lâm Tế liền nạt, hét lên một tiếng. Người ta nói lạ như là điên vậy, các
thiền sư như điên. Hỏi thế nào là Phật, hét lên một tiếng. Ngạc nhiên quá.
Nhưng có gì lạ đâu, vừa khởi nghĩ hỏi thì đó đã mất Phật rồi, cho nên hét lên một
tiếng. Nếu ngài trả lời thì mình chạy theo dòng tư tưởng sanh diệt rồi, cho nên
hét một tiếng dừng cái nghĩ ông thì Phật liền. Nghĩa là không cho nghĩ, dừng được
cái nghĩ thì thấy Phật. Mà mình không chịu dừng cái nghĩ, kiếm nữa, kiếm thêm
không hà. Cho nên các ngài vì thấy mình quá ham tìm hiểu, mà càng tìm hiểu thì
càng đi trong sanh diệt. Cho nên các ngài chận đứng cái hiểu của mình, có khi nạt
có khi đánh đủ thứ hết, để mình giựt mình dừng cái nghĩ lại, chớ có gì lạ đâu.
Hiểu như vậy thì mới thấy cái thuật của các ngài rất là kỳ đặc.
UM! BÚT RUM! HÙM!
Ngày nay rất tiếc là, nếu hỏi thế nào Phật, tôi nạt một tiếng chắc
họ đứng dậy đi ra mà còn cải lộn với tôi nữa, cái ông thầy điên. Vì vậy mà bây
giờ phải giải thích, phải GIẢNG : đi GIẢNG : lại cho quý vị nhận mình có cái không nghĩ suy. Đừng ngở rằng
cái nghĩ suy đó mới là khôn, chính cái không nghĩ suy mới là tuyệt diệu. Cho
nên chữ “Chân không” ở đây tôi đặt đó, Thiền viện Chân Không, nếu chân không
thì diệu hữu. Cái chân thật nó không có một niệm nào dấy khởi, thì chừng đó diệu
hữu như hằng sa.
Tại sao khi Phật mà Ngài an định được rồi, tâm Ngài lặng hết rồi
thì Ngài liền chứng được Tam minh, Lục thông, Tứ vô sở uý, Thập bát bất động, đủ
thứ hết. Như vậy phải diệu hữu hay không? Mà được diệu hữu phải đi tới từ cái
chân không. Quí Phật tử đang ngồi ở Chân Không mà có không không? Ngồi trong
thiền viện Chân Không mà hữu, vì vậy cho nên chưa có cái không.
Không đây là không những niệm vọng tưởng, không những cái tưởng
nghĩ suy gì hết, chỉ còn một cái biết hiện tiền. Nên khi nghe pháp quý vị lắng nghe không nghĩ suy, lắng nghe không
nghĩ suy đó là cái thực nghe của mình rồi. Cái thực nghe đó nó đã có sẳn, không
phải tới cái nghĩ suy mới hiểu. Nghe thì tự thấy tự biết, vì vậy mà chúng ta ở
tai, ở mắt, ở mũi, ở lưỡi, ở thân, chỗ nào cũng có cái chân thật.
Bởi vậy ngài Triệu Châu đơn giản, ai tới hỏi ông mới tới, đi uống
trà đi. Ông mới tới lần đầu thì mời uống trà đi. Người khác mới tới uống trà
đi. Ngay uống trà biết bưng ly trà, biết uống trà thì đó là đạo rồi, cần gì
nói. Nghe nói uống trà đi kỳ quá, thì tưởng đâu như chuyện đùa, mà thực uống
trà là uống trà thì được. Cho nên ngày xưa các thiền sư khuya hay ngồi uống
trà, hay bên Nhật bày ra trà đạo đó. Đó là như vậy. Nghĩa là làm có động tác,
có thấm vào hương vị, mà chỉ trong ngằn đó, không nghĩ suy gì hết thì đạo hiện
tiền.
Như vậy quý vị thấy tu dễ
hay khó? Uống trà đi chuyện dễ như trở bàn tay, mời uống trà có gì đâu mà khó.
Vậy đó mà chúng ta hiểu rồi thì tất cả trường hợp nào, chúng ta cũng có cái
chân thật.
Như vậy tôi nhắc lại, nếu có người trong túi sẳn một hòn ngọc
quí vô giá, mà họ bị say sưa họ quên. Ai chỉ được cho họ biết rằng có hòn ngọc
quí đó, họ lấy ra họ xài thì đó là người tỉnh. Nếu chỉ rằng trong túi có hòn ngọc
quí, mà họ cứ say sưa hoài, họ không chịu lấy ra xài thì người đó là người gì?
Người mê suốt đời. Người đó đáng thương hay đáng trách? Lý đáng không chỉ thì họ
có họ không biết đáng thương. Chỉ mà không chịu lấy ra thì đáng thương hay đáng
trách? Đáng trách. Tôi nói như vậy thì quý vị
thầm hiểu. Chúng ta đều có của báu như vậy, chỉ đi chỉ lại mà không chịu
lấy ra xài, thì đó là đáng trách rồi đó. Chớ chi mà không chỉ thì thôi, tại vì
người ta không biết. Cho nên chỉ biết rồi mà không chịu lấy ra xài, thì đáng
trách.
Chúng tôi GIẢNG : cuốn Chứng Đạo Ca này, nếu quý vị nghe từ đầu tới cuối thì chắc ai cũng biết
mình có cái chân thật hết. Quý vị biết
có hay không? Biết. Biết có chân thật mà chịu trở về chân thật hay đuổi theo
cái mê lầm? Nếu biết mà vẫn đuổi theo mê lầm, thì nếu tôi GIẢNG : thêm mười năm
nữa chắc cũng chừng ấy thôi. Hồi xưa không biết thì chỉ. Chỉ mà không chịu nhận
thì thôi GIẢNG : hoài cũng chừng ấy, nên tới đây tôi nghĩ có vừa chưa? Chỉ cho quý
vị biết rồi thì quý vị khéo tỉnh rồi xoay lại lấy mà dùng, còn không
chịu tỉnh thì tôi cũng bó tay, nói hoài cũng không làm lợi ích cho ai.
Vì vậy mà hôm nay, tôi GIẢNG : xong bài Chứng Đạo Ca này, tôi
mong mỏi tất cả quí tăng ni, Phật tử xét cho thật kỹ, nghĩ cho chính chắn. Mình
có cái thật thì phải cố gắng quay lại, không được trọn trăm phần trăm thì năm
mười. Rồi tăng từ từ để rồi một ngày nào đó tất cả chúng ta đều là những người
tỉnh giác, chớ không phải là những kẻ mê lầm như thuở nào không biết. Được như
vậy là quý vị khéo tiến trên con đường
tu, thì cái công nhắc nhở của chúng tôi nó mới có giá trị. Nếu quý vị nghe rồi thả trôi, bệnh nào tật nấy không bỏ,
thì chắc rằng tôi nói cũng chỉ là gió qua tai, không ích lợi gì.
Vậy mong tất cả quý vị thương
tôi, quí tôi thì phải nhớ lời tôi nhắc để mà ráng tu. Cái đó là cái chân thật,
chớ không phải là những lời huyễn hoặc mà chúng ta coi thường. Nhớ được như vậy,
tu được như vậy thì chúng ta sẽ gặp nhau đời này và nhiều đời về sau nữa. Đó là
chỗ mong của chúng tôi, mà chúng tôi cũng nghe nhiều Phật tử nguyện đời sau
cũng gặp lại chúng tôi. Nhưng mà người thì đang đi trên con đường giác, người
thì tuột xuống lối mê làm sao gặp cho được. Giờ thì tôi đi được mười bước, quý vị cũng phải tập bước một hai bước, như vậy thì
mới gặp được.
Như vậy mong tất cả quý vị
ai ai cũng thương mình cũng biết trở về với cái chân thật thì như vậy
con đường đạo lý càng ngày càng sáng tỏ hơn. Như vậy thì chúng ta sống trong
cõi đời trần tục mà chúng ta hằng có ngọn đuốc trí tuệ không có mê lầm. Đó là
chỗ mong ước mà chúng tôi trông chờ ở tất cả quý vị. Thôi đến đây chấm dứt.
UM! BÚT RUM! HÙM!
Kinh nói rằng: “Nếu muốn hàng phục ma oán trong cõi Đại-thiên, nên cầu nơi Tay
Tổng-Nhiếp-Thiên-Tý-Thủ.”
Thần-chú rằng: Ma Bà Lỵ Thắng Yết Ra Dạ [74]
Chơn-ngôn rằng: Đát nể dã thá, phạ lồ chỉ đế, thấp phạ ra dã,
tát bà đốt sắc, tra ô hạ di dả, Sá-phạ hạ.
Kệ tụng :
Thủ nhãn biến thân diệu vô biên
Hàng phục chúng ma trấn tam thiên
Khảo tà quy chánh tu thiện pháp
Ma ha bát nhã nan ngôn tuyên.
[
]
Nguyện con mau biết tất cả pháp.
Nguyện con sớm được mắt trí huệ.
Nguyện con mau độ các chúng sanh.
Nguyện con sớm được phương tiện khéo.
Nguyện con mau lên thuyền Bát nhã.
Nguyện con sớm được qua biển khổ.
Nguyện con mau được giới định đạo.
Nguyện con sớm lên non Niết Bàn.
Nguyện con mau về nhà vô vi.
Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh.
Non đao tức thời liền sụp đổ.
Nước sôi, lửa cháy tự khô tắt.
Ðịa ngục liền mau tự tiêu tan.
Ngạ quỷ liền được tự no đủ.
Tu la tâm ác tự điều phục.
Súc sanh tự được trí huệ lớn.
Lặng ngồi chốn tĩnh lâu
Trăng sáng, gió canh thâu!
Bát-Nhã hương lòng nhẹ.
Lăng-Già niệm ý sâu
Phật, Tâm chung một vẻ
Thiền, Tịnh chẳng hai mầu
Ngưng chuỗi, thầm riêng hỏi
Hoa đêm điểm điểm đầu...
Đời Tấn, ngài Tam-tạng Pháp-sư Cưu-Ma-La-Thập dịch từ Phạn ra Hán.
Hòa-Thuợng Thích-Thiền-Tâm dịch từ Hán-văn ra Việt-văn.
Lúc bấy giờ, Quốc mẫu Vi-Đề-Hy hoàng thái hậu hớn hở vui mừng được nghe pháp yếu của Như-Lai qua lời dạy của ngài Phổ-Hiền Đại Bồ-Tát, bèn tiếp tục thưa thỉnh:
- "Kính bạch đấng Thiên Nhân Sư tối tôn, tối thắng ! Kính bạch Đại-sĩ đại từ, đại bi ! Con cũng thường nghe chư vị trưởng lão trong tăng già luôn luôn nhắc nhở rằng chỉ có Tứ-niệm-xứ là con đường độc nhất giúp chúng sanh diệt trừ ưu bi khổ não, chứng ngộ Niết-bàn. Nay được Thế-Tôn mở bày pháp Niệm Phật, khiến hằng ưu-bà-tắc, và ưu-bà-di đều phân vân, do dự. Ý nghĩa ấy như thế nào ? Đâu mới là pháp chân thật, rốt ráo ? Đâu là pháp phương tiện, quyền biến ? Đâu là pháp tối hậu mà Như-Lai thường ban cho các chúng sanh ở vào thời kỳ Chánh pháp cuối cùng ?"Đức Phật mỉm cười lặng yên. Ngài Phổ-Hiền an nhiên nhập vào Niệm Phật Tam-muội. Thân tâm bất động.
Khi ấy, ngài Quán-Thế-Âm Đại Bồ-Tát liền từ bảo tòa đứng dậy, trịch áo phơi bày vai bên hữu, cung kính nhiễu quanh đức Phật ba vòng. Rồi Ngài hướng về bà Vi-Đề-Hy mà bảo rằng:
- "Nay tôi nương uy thần vô hạn của đức Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn, và tùy thuận Bản-nguyện-lực vô biên vô lượng của đức Phật A-Di-Đà, mà tuyên dương năng lực vô cùng tận của danh hiệu Phật, tức là Pháp Môn Niệm Phật Tam Muội.
- Nầy Vi-Đề-Hy, hãy nhận rõ như thế nầy, đừng rơi vào nghi lầm nữa.
Đúng như ngươi vừa mới trình bày, Tứ-niệm-xứ là pháp diệt khổ, là pháp đối trị tham dục, ưu bi khổ não, là pháp đắc Niết-bàn vắng lặng. Còn pháp Niệm Phật Tam-muội lại là pháp thành Phật, là pháp chứng Vô-thượng-giác, là pháp thâm nhập cảnh giới bất tư nghị của chư Phật, là pháp mở bày tỏ ngộ Tri Kiến Như-Lai, là pháp cứu độ tất cả mọi chúng sanh, là pháp siêu việt trên hết thảy hí luận cùng thiên kiến của nhị thừa. Tại sao vậy ?
Trước đây, đức Thế-Tôn vì những người ghê sợ hiểm nạn sanh tử, mà nói pháp Tứ-niệm-xứ, chánh niệm tinh tấn nhiếp phục tham sân si, để thoát khổ và đắc A-la-hán.
Nay vì những người tín ngưỡng, khát khao quả vị Bồ-đề chí hướng mong cầu Phật đạo, phát khởi đại bi tâm mà thực hành hạnh nguyện Bồ-Tát thì đức Thế-Tôn chỉ dạy pháp môn Niệm Phật Tam-muội.
Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, vì một niệm bất giác nổi lên, che mờ Bản-thể Thường-trụ, nhận vật bên ngoài làm TÂM. Luôn luôn bỏ mất TÂM chân thật, nên bị cảnh vật xoay chuyển. Do đó khởi tâm phân biệt, thấy có lớn nhỏ, rộng hẹp, cao hạ... Nếu xoay được cảnh vật bên ngoài thì thân tâm sẽ sáng suốt, trạm nhiên, trọn đầy, tức thời đồng với Như-Lai không khác.
Muốn xoay chuyển ngoại vật, thì không chi bằng sử dụng diệu lực vô úy của danh hiệu Phật. Thật vậy, nhờ xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật mà hành giả nhìn thấy cảnh vật bên ngoài đúng như bản chất thật sự của chúng. Do đó không còn bị ngoại cảnh chi phối, điều phục thân tâm. Và chẳng còn mống khởi tâm phân biệt. Lúc ấy, tuy không rời pháp hội mà biến hiện khắp mười phương quốc độ; trong một lỗ chân lông vẫn chứa đựng cả Hoa-tạng Thế-giới-hải.
Khi xưng niệm danh hiệu Phật, hành giả không để tâm dong ruổi theo thanh trần, mà xoay cái nghe trở vào Chơn-tánh, đó là danh hiệu Phật đang tuôn chảy liên miên bất tận thành một dòng Tâm, mà mỗi mỗi sát-na đều hiển hiện Chơn-như-tánh. Chính nó thật là Tánh Nghe của mình, chẳng còn hai tướng động và tịnh, toàn là thể vắng lặng, soi chiếu khắp mười phương.
Tiếp tục hành trì niệm Phật như thế, chẳng bao lâu thì Tánh Nghe cũng không còn. Khi ấy, Phật Trí tự nhiên tỏa rạng, danh hiệu Phật vẫn tương tục, không gián đoạn.
Nầy Vi-Đề-Hy, trong pháp hội Thủ-Lăng-Nghiêm, tôi đã trình bày nhân địa tu hành Nhĩ Căn Viên Thông cho đại chúng. Nhưng, thời Mạt pháp các kinh điển dần dần ẩn mất, mà nên biết kinh Thủ-Lăng-Nghiêm, sẽ bị diệt trước nhất, tiếp sau là kinh Lăng-Già, kinh Kim-Cương, kinh Ma-Ha Bát-Nhã, kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa ... Nếu không nương nhờ pháp niệm Phật thì rất khó chứng đắc Nhĩ Căn Viên Thông. Bởi vì sao ? Bởi vì Niệm Phật Tam-muội chính là món Viên-thông đệ nhất.
Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, vì lăn lộn trong đêm tối vô minh, nhận giặc làm cha, lấy vọng kiến làm chỗn nương về, lấy tà kiến làm bạn lữ, lấy biên kiến làm lương dược. Nhận ngã chấp, ngã kiến làm Tâm. Rời xa Tri-kiến Giải-thoát Vô-thượng. Do đó, khởi tâm phân biệt, thấy đúng sai, tà chánh, thiện ác, chân ngụy ... nếu lọc sạch ngã kiến, ngã chấp thì thân tâm sẽ quang minh, thường tại, chiếu suốt mười phương pháp giới. Tức đồng đẳng với Tri Kiến giác ngộ của chư Như-Lai.
Nếu muốn gạn lọc ngã kiến, ngã chấp, thì không chi hơn là phát huy năng lực vô biên của danh hiệu Phật. Thật vậy, nhờ chuyên tâm xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật mà hành giả tuần tự chuyển Thức thành Trí. Ngã chấp tự nhiên rơi rụng, ngã kiến tự nhiên tan mất như bong bóng nước dưới ánh mặt trời. Lúc bấy giờ, tuy không lìa cung Đâu-Suất mà vẫn phân thân khắp vi trần quốc độ để chuyển pháp luân vô thượng, và khai thị tuệ giác cho vô lượng chúng sanh, giúp hết thảy tứ sanh, cửu hữu cùng ngộ nhập Phật Tri Kiến.
Khi xưng niệm danh hiệu Phật, hành giả không để Thức nương theo nhân duyên mà dấy động, nên chẳng thành tựu pháp Y-tha-khởi. Vì không có sự tham dự của ngã và ngã sở nên Biến-kế Sở-chấp cũng chẳng tồn tại. Chỉ có danh hiệu Phật vẫn tuôn chảy liên miên bất tận thành một dòng tâm, mà mỗi mỗi sát-na đều biểu hiện Vô-thượng Diệu-viên Thức-tâm Tam-Muội, tức là Chân Duy Thức Tánh.
Tiếp tục hành trì niệm Phật như thế chẳng bao lâu, thì chẳng còn nhìn thấy huyễn tướng của vạn pháp ở bên ngoài và cũng chẳng còn bắt gặp Tám thức ở bên trong. Trong hay ngoài đều giả dối, không thật. Ngay cả tướng Duy-thức cũng chẳng có nữa. Vì ba đời mười phương Như-Lai, vi trần sát quốc độ, hư không, sắc pháp, tâm vương, tâm sở... đều không một thứ nào ra ngoài Chân Duy Thức Tánh mà tự hữu, tự sanh, tự diệt, danh hiệu Phật vẫn tương tục, không gián đoạn, như có, như không, cho đến khi Chân Duy Thức biến mất, Đại Viên Cảnh Trí tự nhiên phơi bày, danh hiệu Phật sẽ dẫn dắt hành giả đi vào tánh Viên Thành Thật, chứng Vô-sanh Pháp-Nhẫn.
Do đó, phải nói rằng Niệm Phật là pháp môn đệ nhất dùng để chuyển thức thành trí, mà chúng sanh thời Mạt pháp phải siêng năng thọ trì.
Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, bị vô số tư tưởng điên đảo làm khuất lấp tánh Viên-giác. Như kẻ ngủ mê chợt thức giấc giữa ngã tư đường cái, chẳng rõ phương hướng, lẫn lộn chánh tà, thấy cong nhìn ngược, bất phân thiện ác. Tư tưởng điên đảo ấy nẩy sanh thân và tâm, rồi nhận thân tứ đại giả hợp làm thân, chấp cái tư tưởng vô minh điên đảo kia làm tâm. Cứ thế mà sanh tử, tử sanh nối nhau không dứt, tạo vòng lẩn quẩn luân hồi.
Nhưng cái vô minh điên đảo ấy cũng chẳng thật. Như hoa đốm, như bóng nước, như ảo tưởng nơi sa mạc, như người ngủ chiêm bao, thấy những sự việc, cảnh vật rõ ràng, nhưng khi thức dậy, thời không còn gì hết. Nếu chuyển hóa vô minh điên đảo thời thân và tâm sẽ thành Giác-ngộ. Hoặc không phát tâm tu trì thời vẫn ở mãi trong sanh tử huyễn mộng ấy mà tự vui. Chỉ có danh hiệu Phật là đầy đủ năng lực nhiệm mầu để chuyển hóa sanh tử trở nên Niết-bàn, chuyển hóa giả huyễn trở nên chân thật.
Vì sao vậy ?
Khi xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật, hành giả dần dần thành tựu chánh định Như-Lai, tự nhiên phát sanh Tuệ-giác Không-tánh, vì danh hiệu Phật là Hư-không-tạng, là Viên-giác-tánh, là Vô-cấu-tạng, là Tịch-tịnh-tạng... Nhờ vậy, hành giả biết các pháp đều như huyễn, thời tự nhiên lìa xa các huyễn hóa, sanh diệt. Ngay lúc ấy, bèn thâm nhập Viên-giác-tánh. Đó gọi là tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác.
Dùng pháp nào để Tri ? Nếu không phải là diệu dụng của danh hiệu Phật ?
Không cần phải hủy diệt các thứ huyễn, mới cho chúng nó là huyễn. Không cần thay đổi bản chất huyễn của nó mới gọi là Không. Mà chính cái biết "nhứt thiết pháp là Không" khiến đương thể của huyễn pháp tức là Không.
Tiếp tục xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật như thế, hành giả không phóng tâm theo huyễn cảnh, huyễn sự, mà hướng cái biết trở vào Viên-giác-tánh. Đó là danh hiệu Phật đang tuôn chảy liên miên bất tận thành một khối lưu ly sáng rực, vằng vặc. Mà mỗi mỗi sát-na đều hiển lộ Như-Lai Tạng, và cái biết cũng không còn nữa. Danh hiệu Phật vẫn tương tục không gián đoạn, hòa tan căn, trần, thức đều nhập vào Viên-giác-tánh, bình đẳng bất động, thường trụ như hư không và tròn đầy chiếu suốt mười phương.
Bởi vậy, phải nói rằng niệm Phật là pháp môn đệ nhất, sử dụng danh hiệu Như-Lai mà thâm nhập Như-Lai-Tạng, mà chuyển biến huyễn hóa, hư dối trở nên Viên-giác-tánh. Các hạng chúng sanh thời Mạt pháp phải siêng năng thọ trì.
Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, bị phiền não chi phối ngày đêm không tạm dừng, nên nhận vọng tưởng làm Tâm, bỏ quên Thắng-giải-trí, Vô-thượng-trí. Rồi lại bị tham, sân, si, mạn, nghi lôi cuốn, và thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến chồng chất lấp vùi. Do đó khởi tâm phân biệt, thấy có mừng có giận, yêu ghét, vui buồn, vinh hoa, hủy nhục... nếu tận trừ phiền não thì thân tâm vắng lặng, an nhiên, tự tại, tức đồng với chư Phật không hai không khác.
Muốn tận trừ phiền não, thì không chi hơn là phát huy năng lực Trí giả siêu việt của danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật. Thật vậy nhờ cần mẫn xưng niệm Phật hiệu mà hành giả hiện bày Tự Tâm Quang Minh Hiện Lượng, chuyển phiền não dữ dội ấy trở thành Bồ-đề thật tướng, đưa hành giả thẳng vào cảnh giới Thánh Tri Tự Chứng. Lúc bấy giờ, có khả năng bấm ngón chân xuống mặt đất, sử dụng ấn Địa Xúc để cải biến Ta-bà thành Tịnh-độ trang nghiêm, niệm niệm tương ứng với Thập-địa Bồ-Tát, niệm niệm du hành, giáo hóa xã hội chúng sanh khắp mười phương vi trần bằng hà sa thế giới.
Kệ tụng :
Thủ nhãn biến thân diệu vô biên
Hàng phục chúng ma trấn tam thiên
Khảo tà quy chánh tu thiện pháp
- Vĩnh Gia Chứng Đạo Ca Thiển Thích
Hòa Thượng Tuyên Hóa Thuyết Giảng tại Kim Luân Thánh Tự Los Angeles, California, Mỹ Quốc, tháng 2 năm 1985
Comments
Post a Comment